-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 24/08/2016 in Bài viết
-
Lý Học & Khoa Học Hiện Đại
hungphupy and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Khoa Học Phát Hiện: Kết Cấu Đại Não và Vũ Trụ Giống Nhau Đến Kinh Ngạc Tác giả: Kỷ Hiểu Minh, Dajiyuan | Dịch giả: Việt Nguyên1 Tháng Bảy , 2014 “Thời báo New York” đã đăng lên 2 bức ảnh, một bức ảnh là tế bào não của chuột (trái), bức ảnh còn lại là vũ trụ (phải). Thời kỳ đầu những tinh hệ trong vũ trụ đều có sự liên hệ tương hỗ, so với sự liên hệ tương hỗ của các nguyên tố thần kinh trong đại não, hầu như không có cách nào phân biệt được sự khác nhau trong 2 bức hình, tế bào đại não và toàn thể vũ trụ đều có một kết cấu giống nhau. (Ảnh từ Internet). Nếu như có người nói với bạn đại não là một tiểu vũ trụ, vũ trụ là một đại não siêu cấp, bạn có thể lý giải được điều đó không? Bạn có tin không? Ngày 16 tháng 11 năm 2012, Tạp chí “Tự Nhiên” trong chuyên mục ‘Báo cáo kỹ thuật’ đã đăng tải một chương luận văn nghiên cứu, chứng minh rằng sự tăng trưởng của vũ trụ và sự sinh trưởng của tế bào đại não có quá trình và kết cấu hầu như giống hệt như nhau. Không chỉ có vậy, biên tập viên tạp chí đồng thời là nhà văn Judith Hopper và chồng của cô là Dick Teresi đã cùng nhau viết ra tác phẩm “Vũ trụ 3 pound” (Three Pound Universe), trong đó so sánh bộ não người với một tiểu vũ trụ nặng 3 pound [khoảng 1.36 kg]. Tại trang 33 trong sách, có 2 bức hình, một bức là tầng bì của đại não, một bức là vật chất tối của vũ trụ, hai bức hình này giống nhau đến kinh ngạc; điều đó cho thấy đại não thật sự giống như một vũ trụ thu nhỏ, mà vũ trụ lại là một đại não quy mô lớn. Tại trang 33 trong sách “Vũ trụ 3 pound”, đăng một bức ảnh về tầng bì của đại não. (Ảnh từ Internet) Dùng kính viễn vọng Canada–Pháp–Hawaii thu được hình ảnh vật chất tối của vũ trụ, bức ảnh này được đăng trong “Vũ trụ 3 pound” ở trang 33. (Ảnh từ Internet) Những nghiên cứu này từ khi được phát hiện đến nay đã không ngừng được báo cáo và quan tâm, đây được dự đoán là một bước đột phá lớn trong lĩnh vực khoa học. Nếu những phát hiện này được chứng thực đầy đủ, nó sẽ hoàn toàn thay đổi nhận thức của mọi người về vũ trụ, cơ thể người, sinh mệnh và các mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Mạng lưới không đồng nhất nhưng động lực sinh trưởng tương đồng Báo cáo nghiên cứu của tạp chí “Tự nhiên” cho biết: Một số quy luật cơ bản chưa được biết có thể chi phối nhiều loại hệ thống, to hoặc nhỏ, từ các tín hiệu điện được truyền đi giữa các tế bào não, đến sự mở rộng của mạng lưới xã hội, cũng như sự giãn nở của vũ trụ. Một trong những tác giả của bài báo nghiên cứu, nhà vật lý học Đại học San Diego California – ông Dmitri Krioukov cho biết: “Tại các mạng lưới khác nhau, chẳng hạn như mạng máy tính, mạng xã hội và đại não, động lực sinh trưởng tự nhiên của chúng là như nhau”. Các nhân viên nghiên cứu đã phát triển một chương trình mô phỏng máy tính, vũ trụ vào thủa sơ khai phân thành các đơn vị nhỏ nhất có thể, trong đó những thành phần định mức của các lạp tử của thời không các nguyên tử. Mô phỏng tất cả các lượng tử (hoặc nút điểm) liên kết với nhau thành một mạng rất lớn, trong đó có cả quan hệ nhân quả của mạng lưới thiên thể. Thuận theo việc tiến hành mô phỏng, trong lịch sử của vũ trụ gia tăng ngày càng nhiều các thời không đơn nguyên, sự liên hệ [mạng lưới] của các vật chất trong tinh hệ do vậy cũng không ngừng tăng trưởng. Khi các nhân viên nghiên cứu lấy phương thức tăng trưởng của lịch sử vũ trụ và mạng lưới xã hội hoặc đại não để so sánh, họ phát hiện những mạng lưới này đều có phương thức khai triển tương tự với nhau: Họ sẽ điều chỉnh những nút điểm tương tự và mối quan hệ giữa các liên kết nút điểm với nhau. Nghiên cứu còn phát hiện, các liên kết trong đại não có tính tổ chức rất cao, kết cấu của đại não giống như một mạng lưới dây đan xen trong thành phố, mà các tế bào thần kinh ở khắp mọi nơi. Dmitri Krioukov cho biết: “Đối với các nhà vật lý, đây là một tín hiệu thời gian, nó có nghĩa là ở trong các hoạt động tự nhiên có một số điều mà nhân loại chưa từng biết”. Có lẽ trong số các mạng khác nhau, có một số quy luật chưa từng được biết tới đang chi phối hoạt động của họ. “Kết quả nghiên cứu đã nhắc nhở chúng ta rằng, có lẽ đã tới lúc bắt đầu cho việc đi kiếm tìm các quy luật này”. Thuyết ảnh ba chiều và luận chứng về sự bất khả phân tính của vũ trụ Thế kỷ 17, người phát minh ra vi tích phân, đồng thời là một nhà triết học, toán học, vật lý học nổi tiếng Leibniz (Gottfried Wilhelm Leibniz: 1646 ~ 1716), ông cho rằng, những sự vật “siêu tự nhiên” được dự đoán sẽ được tìm thấy và là thứ tạo ra vật chất trong thế giới này. Leibniz phát hiện ra phép tính vi tích phân đã góp phần giúp các nhà khoa học đưa ra lý thuyết ba chiều vào 200 năm sau. Một giáo sư vật lý lý thuyết, người từng làm việc chung với Einstein tại Đại học London, David Bohm (David Bohm:1917-1992) chính là cha đẻ của lý thuyết ba chiều hiện đại. Vậy cái gì là thuyết ba chiều? Ví dụ một bức ảnh, trong đó có hình chân dung một người; Nếu chúng ta cắt tấm hình thành hai nửa, từ bất cứ nửa nào chúng ta đều có thể nhìn thấy bức chân dung hoàn chỉnh ban đầu; Nếu sau đó chúng tôi đã xé nó thành nhiều, nhiều mảnh, chúng ta vẫn có thể từ mỗi một mảnh nhỏ để xem bức hình đầy đủ. Một bức ảnh như vậy được gọi là một bức ảnh ba chiều. Ý tưởng cốt lõi của lý thuyết ba chiều là vũ trụ không thể tách rời, là một chỉnh thể của những bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, bất kỳ một bộ phận nào cũng chứa đựng thông tin của chỉnh thể. Lý thuyết ba chiều dễ dàng giải thích các nguyên lý tác dụng của siêu khoảng cách. David Bohm đã giải thích rằng, các sự vật tồn tại độc lập mà chúng ta có thể thấy trong thực tế nó vốn tồn tại trong một chỉnh thể rất có trình tự và không thể tách rời. Cái tổng thể này cùng với sự phát triển của mỗi cá thể là đồng tồn. Do đó, vũ trụ là giống như một hình ba chiều khổng lồ, các bộ phận trong đó luôn bao hàm cả chỉnh thể, mà chỉnh thể lại bao hàm các cá thể. Mỗi một tế bào trong cơ thể người cũng tiềm ẩn (tín tức của) toàn bộ vũ trụ này. Một người Hàn Quốc là Trịnh Nhuận trong cuốn sách “Hạt bụi nhỏ trong vũ trụ vô tận” – một cuốn sách về “lý thuyết phân hình vũ trụ” đã viết rằng, Leibniz đã phát biểu một tư tưởng được gọi là lý thuyết đơn tử (Monadology). Nó là một vũ trụ do vô số những đơn tử (monad) cấu thành, trong mỗi một đơn tử có một vũ trụ hoàn chỉnh. Trong một lạp tử nếu như quả thật có chứa một vũ trụ hoàn chỉnh, như thế, cái vũ trụ này cũng sẽ được tạo thành từ vô số các hạt nhỏ hơn, và trong mỗi hạt tử đó sẽ lại có những vũ trụ khác nhỏ hơn nữa. Một nhà khoa học về thần kinh não tại Đại học Stanford là Karl Pribram khi nghiên cứu về những ký ức tồn trữ trong não, ông đã bị thu hút bởi các mô hình cấu trúc ba chiều. Qua rất nhiều nghiên cứu đã cho thấy, những ký ức được tồn trữ không chỉ giới hạn trong một khu vực lưu trữ cụ thể, mà nó được phân tán trong não bộ. Trong một loạt các thí nghiệm mang tính lịch sử vào những năm 1920, nhà khoa học não Karl Lashley thấy rằng cho dù bất kỳ một bộ phận nào trong não chuột bị cắt bỏ, nó đều không ảnh hưởng đến ký ức, vẫn có thể học được các kỹ năng phức tạp như trước khi phẫu thuật. Sau đó, trong những năm 1960, Pribram tiếp xúc với các khái niệm về nhiếp ảnh ba chiều, và ông tin rằng ký ức không phải được ghi lại trong các tế bào não, hoặc một nhóm các tế bào, mà là các mạch thần kinh ngang dọc trải khắp não bộ, như những tia Laser của hình ảnh được phân bố trên khắp bức ảnh ba chiều. Học thuyết Phật Đạo, từ trước đã hé lộ những bí ảo của vũ trụ Chopra Deepak là một trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20 trên thế giới, cũng là một giáo sư tại Trung tâm Y tế Đại học Duke, trong tờ báo “The Huffington Post” với bài “Bộ não của bạn cũng là một vũ trụ”, cũng đã sử dụng nghiên cứu này của tạp chí “Tự Nhiên”. Chopra đề cập đến vũ trụ quan trong tôn giáo cổ xưa Ấn Độ – “bởi vì nó là nhỏ nhất, nên cũng là lớn nhất” (As is the smallest, so is the greatest). Chopra nói rằng, nếu chúng ta thừa nhận mỗi một hệ thống đều do các vòng phản hồi, các động thái cân bằng và tiếp diễn của các tổ chức vận động tự thân, như vậy sự hiểu biết của khoa học hiện đại ngày nay lại chính là sự quay trở lại tìm về những trí huệ từ cổ xưa. Khi ngày càng nhiều vũ trụ thực sự được phát hiện và chứng thực, mọi người sẽ phát hiện điều mà Đạo gia nói: “Cơ thể con người là một tiểu vũ trụ” và điều trong Phật gia giảng: “trong một hạt cát, có tam thiên đại thiên thế giới” là một khoa học cao hơn. Và điều khiến người ta phải suy nghĩ thêm là, khi chưa có khoa học hiện đại từ hàng ngàn năm trước, những người trong giới tu luyện Phật Đạo làm thế nào để biết về những bí ảo của vũ trụ? ============================ Khoa học tiến bộ nhở?! Híc. Các nhà khoa học mới chỉ "nhìn" thấy như thế và so sánh đối chiếu. Nhưng chuyện này Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt đã biết từ lâu và đã lý thuyết hóa. Đây chỉ là quy luật lặp lại của sự tiến hóa từ tổng thể đến chi tiết. Về mặt lý thuyết, muốn hiểu được điều này chỉ cần lặp lại mô hình Vonfram, kếp hợp với "Nghịch Lý toán học Cantor". Rồi động não, thông minh một tý là hiểu ngay. Bởi vậy, việc cho rằng thuyết Tiến Hóa sai là không có "cơ sở khoa học". Híc.3 likes -
Quán vắng!
Nguyễn Sỹ Triển and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Triết lý giáo dục - Việt Nam đã có chân lý này hay chưa? Nguyễn Quốc Vương 07:55 24/08/16 Thảo luận (3) (GDVN) - Cuộc tranh luận về triết lý giáo dục đã làm cho không ít công chúng thậm chí nhiều giáo viên ngơ ngác tự hỏi “vậy thực ra có triết lý giáo dục không?". Quyền lực mềm của Hoa Kỳ và Giáo dục đại học ở Việt Nam Việt Nam đứng ở đâu trên bản đồ giáo dục thế giới? Phát triển năng lực người học, xem xét từ quản trị của nhà trường LTS: Mỗi nền giáo dục dựa trên một hệ triết lý giáo dục có ảnh hưởng mang tính quyết định đến nội dung, phương pháp dạy và học. Tuy nhiên, trong bài viết “Gọi tên triết lý giáo dục” đăng trên tờ Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 5/8/2014, TS Giáp Văn Dương cho rằng: Hiện nay triết lý giáo dục vẫn đang được xem là điểm bế tắc của hệ thống giáo dục Việt Nam. Mọi bất cập hiện có và sự thất bại của các cuộc cải cách giáo dục trong mấy chục năm qua đều có thể truy nguyên về việc thiếu vắng một triết lý giáo dục đúng để dẫn dắt. Hôm nay, trong kỳ đầu của chủ đề “triết lý giáo dục”, nghiên cứu sinh tại Đại học Kanazawa (Nhật Bản) Nguyễn Quốc Vương thẳng thắn đưa ra nhìn nhận của mình về triết lý giáo dục Việt Nam. Tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Cuộc tranh luận về “triết lý giáo dục” Khi quan sát những động thái liên quan đến giáo dục Việt Nam trong vòng vài ba thập kỉ trở lại đây, người ta dễ dàng nhận ra sự hiện diện của những cuộc tranh luận xoay quanh những vấn đề của giáo dục. Nhìn một cách đại thể, các cuộc tranh luận ấy thường xoay quanh hai nội dung chính: các chính sách liên quan đến giáo dục và những vấn đề nảy sinh ở trường học. Tuy nhiên còn có một cuộc tranh luận khác với một chủ đề khác hẳn cũng sôi nổi không kém là cuộc tranh luận về triết lý giáo dục. Cuộc tranh luận về triết lý giáo dục ấy có lẽ được khởi đầu bằng bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc với tựa đề “Giáo dục ở nước ta hiện nay, đi ra bằng con đường nào?". Đây vốn là bài phát biểu được nhà văn trình bày tại Diễn đàn giáo dục do một số nhà nghiên cứu tổ chức năm 2004. Sau đó bài này được in lại trong cuốn "Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp" (Nhiều tác giả, NXB Tri thức, 2007). Nghiên cứu sinh tại Đại học Kanazawa (Nhật Bản) Nguyễn Quốc Vương (Ảnh: NVCC) Cuộc tranh luận sau đó về triết lý giáo dục đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều học giả, nhà giáo và cả những người bình thường quan tâm đến giáo dục. Đỉnh điểm của cuộc tranh luận đó có lẽ là hai cuộc hội thảo do Bộ giáo dục và đào tạo chủ trì được tiến hành ở Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh trong năm 2007 để luận bàn về triết lý giáo dục. Số lượng những bài viết về triết lý giáo dục được xuất bản trong khoảng thời gian 2004-2007 rất lớn và cho đến nay cuộc tranh luận xoay quanh chủ đề này vẫn còn tiếp diễn với sự tham gia của rất nhiều người thuộc nhiều giới khác nhau. Tuy nhiên, khi nhìn vào những luận điểm của các tác giả tham gia tranh luận, ta có thể phân chia họ thành 4 nhóm: Nhóm thứ nhất là những người cho rằng triết lý giáo dục nằm trong hệ thống các chính sách, văn bản chỉ đạo của Đảng và nhà nước liên quan đến giáo dục. Nhóm thứ hai là những người cho rằng triết lý giáo dục nằm trong hệ thống triết học làm nền tảng cho nền giáo dục hay “triết học về giáo dục”. Nhóm thứ ba là những người coi triết lý giáo dục nằm trong những câu châm ngôn, những câu nói, khẩu hiệu ngắn gọn được đúc kết qua nhiều đời, nhiều thập kỉ như “học thầy không tày học bạn”, “học đi đôi với hành”, “lý luận đi đôi với thực tiễn”, “tiên học lễ hậu học văn”… Nhóm thứ tư là những người nhìn nhận triết lý giáo dục thể hiện ở mục tiêu của giáo dục. Chẳng hạn, nhà văn Nguyên Ngọc trong bài viết ở trên đã viết: “Bằng nền giáo dục này, chúng ta muốn đào tạo nên những con người như thế nào đây? Chúng ta định đào tạo nên những con người tự do, biết suy nghĩ và có suy nghĩ độc lập, từ đó là những con người sáng tạo, cho một xã hội tự do và sáng tạo, hay đào tạo nên những con người biết chấp hành, vâng lời, phục tùng, hết sức dễ bảo, cho một xã hội trong đó mọi sự đều được chỉ huy tập trung răm rắp. Một xã hội trong đó có ai đấy, một lực lượng hay một tổ chức, một người hay một số người nào đấy suy nghĩ sẵn mọi điều cho mọi người và mọi người cứ thế học thuộc lòng và làm theo” [1]. Từ việc tư duy về triết lý giáo dục như ở trên, thái độ và cái nhìn đối với “triết lý giáo dục Việt Nam” của họ phân hóa thành 3 xu hướng: Thứ nhất, Việt Nam đã có triết lý giáo dục đúng đắn thể hiện trong các chính sách, đường lối vĩ mô tuy nhiên việc thực hiện chưa tốt làm cho giáo dục khủng hoảng. Việc cần thiết lúc này là cụ thể hóa và “quán triệt” những đường lối, chính sách ấy. Thứ hai, Việt Nam đã có một triết lý giáo dục cho dù nó không được phát biểu tường minh dưới dạng câu chữ tuy nhiên đó là triết lý sai lầm không phù hợp với thời đại. Vì vậy, công việc khẩn thiết lúc này là tìm kiếm một triết lý mới cho phù hợp. Thứ ba, triết lý giáo dục thực ra là một thứ mung lung, một “trò chơi của chữ nghĩa”, có tìm kiếm mãi cũng sẽ chỉ thêm mất thời gian công sức. Vì vậy không nên sa đà vào chuyện tranh luận hay tìm kiếm triết lý giáo dục mà cần tập trung vào các công việc cấp thiết, thiết thực khác. Hai thành tố của triết lý giáo dục Cuộc tranh luận về triết lý giáo dục đã làm cho không ít công chúng thậm chí nhiều giáo viên ngơ ngác tự hỏi “vậy thực ra có triết lý giáo dục không? Nếu có thì nó có hình thù như thế nào?” Quả thực, trong cuộc tranh luận đó rất ít người thậm chí có thể nói là không có một ai đưa ra một định nghĩa tương đối ngắn gọn và thuyết phục về “triết lý giáo dục”. Nhiều tác giả còn viện dẫn rằng không thể tìm thấy mục từ “triết lý giáo dục” trong các cuốn từ điển của nhiều ngôn ngữ. Trên thực tế, triết lý giáo dục không chỉ có vai trò quyết định đối với nền giáo dục mà sự tồn tại của nó rất rõ ràng. Theo tôi, “triết lý giáo dục” cho dù có được phát biểu thành câu chữ, được luật hóa một cách có chủ đích hay thể hiện tàng ẩn dưới nhiều dạng thức văn bản khác nhau thì nó vẫn gồm hai thành tố chủ yếu: Thứ nhất là “hình ảnh xã hội tương lai” mà nền giáo dục ấy muốn hướng tới. Triết lý giáo dục phải “gọi tên” được xã hội ấy và chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của nó. Thứ hai là “hình ảnh con người mơ ước” mà nền giáo dục đó muốn tạo ra. Đây sẽ là những con người cải tạo xã hội hiện thời để tạo ra xã hội mới-xã hội tương lai với những đặc trưng được phác thảo ở trên và đồng thời họ cũng sẽ phải là những người bảo vệ xã hội ấy. Những con người này phải có những năng lực, phẩm chất, thái độ phù hợp với xã hội mà họ sẽ trở thành chủ nhân. Thông thường thành tố thứ hai về “con người mơ ước” này sẽ được thể hiện tập trung trong “mục tiêu giáo dục”. Như vậy, triết lý giáo dục cho dù được phát biểu dưới dạng nào, xét cho đến cùng cũng sẽ bao hàm hai thành tố có mối quan hệ mật thiết nói trên. Triết lý giáo dục này sẽ chi phối toàn bộ nền giáo dục và có liên quan mật thiết với Hiến pháp và các bộ Luật về giáo dục. Muốn tìm hiểu về triết lý giáo dục của bất kì một quốc gia nào, việc đơn giản nhất là truy tìm “hình ảnh xã hội tương lai” và “hình ảnh con người mơ ước” trong Hiến pháp và các bộ luật về giáo dục được soạn thảo trên tinh thần bản hiến pháp của nước đó. Còn tiếp... Tài liệu tham khảo: [1]. http://www.tuanvietnam.net/triet-ly-giao-duc-da-dung-dan-chua) Nguyễn Quốc Vương ========================= Chưa viết xong thì chờ viết tiếp lão sẽ phán. Lão không bao giờ phán điều gì khi tác giả chưa viết xong. Nhìn cái hình rất oách. Cho nên nói cứ tưởng như đúng rồi! Lão đây chưa có ý kiến, ý cò gì cả. Nhưng lão nói thế này nhá: Lão từng thách cả tri thức đầu bảng của cái nền khoa học của cả thế giới này tham gia cải cách giáo dục Việt Nam thành công - nếu chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến chưa được sáng tỏ tính chân lý - thì một vài cá nhân lẻ tẻ với lão chưa là cái đinh gì.2 likes -
Quán vắng!
thienan and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
ĐÂY MỚI CHỈ LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG LÀM VÍ DỤ. *** Vụ quán Xin Chào: Cách chức trưởng Công an huyện Bình Chánh 23/08/2016 15:30 GMT+7 TTO - Chiều 23-8, Công an TP.HCM đã triển khai quyết định kỷ luật, cách chức đại tá Nguyễn Văn Quý, trưởng Công an huyện Bình Chánh, vì liên quan những sai phạm trong xử lý vụ án cà phê Xin Chào. Đại tá Nguyễn Văn Quý - Ảnh: GIA MINH Theo quy định, thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật với cấp trưởng Công an huyện Bình Chánh của đại tá Quý là của tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an nhân dân. Theo nguồn của Tuổi Trẻ, Công an TP.HCM đã họp hội đồng kỷ luật, đã đề xuất hình thức xử lý với đại tá Quý từ rất sớm. Sau thời gian xem xét, cân nhắc, mới đây tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an nhân dân đã ra quyết định và chiều 23-8, Công an TP. HCM đã triển khai quyết định này. Cũng liên quan tới vụ án này, hai phó đội trưởng Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Công an huyện Bình Chánh là thiếu tá Nguyễn Hoàng Tuân bị kỷ luật mức cách chức và đại úy Lê Cảnh Tuân bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo. Hai cán bộ này thuộc thẩm quyền xử lý kỷ luật của Công an TP.HCM, hình thức xử lý đã có từ trước đó, tuy nhiên do đại tá Quý là người đứng đầu nên phải chờ triển khai kỷ luật người đứng đầu mới xử lý những người có liên quan nên cũng được công bố trong chiều 23-8. Hiện tại, thượng tá Lê Văn Hải - nguyên phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận 8 - đã được điều động về làm phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, phó trưởng Công an huyện Bình Chánh và là người phụ trách chung trong thời gian chờ bổ nhiệm trưởng công an huyện mới. Trước đó, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có quyết định kỷ luật ông Lê Thành Tòng - nguyên phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh - người ký quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và truy tố ông Nguyễn Văn Tấn - chủ quán cà phê Xin Chào. Ngoài những sai phạm được xác định trách nhiệm thuộc về những người có liên quan nêu trên trong vụ án kinh doanh trái phép tại quán cà phê Xin Chào, những người nguyên là cán bộ, lãnh đạo bị kỷ luật này còn bị xác định làm oan, sai cho ông Nguyễn Văn Bỉ trong vụ án vi phạm các quy định về quản lý nhà ở. GIA MINH2 likes -
Quán vắng!
thienan and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tư duy rất hợp lý. Đúng là đại đệ tử của Địa Lý Phong thủy Lạc Việt. Nhưng Tuấn Dương không viết hoa đầu dòng và tên riêng. Phong cách này thể hiện không có chủ đích và định hướng trong cuộc sống. Đây là một nhận xét hoàn toàn lý học. Tuấn Dương nên khắc phục, nếu không định làm tu sĩ.2 likes -
1 like
-
1 like
-
1 like
-
Mỹ đang rút khỏi Trung Đông? Điều ngạc nhiên là khi Nga đang đưa máy bay, tên lửa đến Trung Đông thì Mỹ đang khẩn trương chuyển số VKHN rời khỏi. Có vẻ như Trung Đông không còn mối quan tâm của Mỹ. Mỹ đã xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương để tránh một nơi đang hỗn loạn không thể điều khiển được hay đang tháo chạy tránh xa vũng lầy? Người Nga đang đến! Khi Mỹ-phương Tây đang nâng ly mừng chiến thắng trong vụ Ukraine chưa kịp ngửa cổ cho dòng rượu thơm ngon hảo hạng chảy vào thì người Nga đã đến từ lúc nào, lấy mất cái thứ họ cần nhất, chủ yếu nhất, của “vụ làm ăn” là Crimea. Mỹ-PT mất Crimea, nghĩa là Crimea đã thuộc về Nga, Biển Đen thuộc về Nga và chưa dừng ở đó, vùng Donbass phía Đông Ukraine giáp Nga đã xuất hiện 2 nước Cộng hòa tự xưng thân Nga ra đời có đầy đủ sức mạnh để chia Ukraine theo ý muốn khi cần. Vội vàng dùng Minsk-1, rồi Minsk-2 để kéo Nga dừng lại gấp và tiếp theo, dùng ngay “đòn dưới thắt lưng” là cấm vận, trừng phạt kinh tế để buộc Nga trả lại Crimea, nhưng chẳng làm gì được Nga. Bất kỳ một người dân Nga bình thường nào cũng trả lời “Không!” huống chi là Putin “Đại đế”. Té ra, tại Ukraine, Mỹ-PT làm việc không công cho Nga, nói cách khác là “Cốc mò, Cò xơi”. Tại Syria. Từ năm 2011, câu khẩu hiệu “Assad must go!” đã chói tai người Nga nhưng Nga đang tìm cách để “đóng băng” được cuộc khủng hoảng Ukraine và chờ cơ hội. Và, khi cái thời điểm “Assad must go” được đếm ngược, Mỹ-PT chuẩn bị nâng ly thì người Nga lại đến… Cách người Nga đến, cách người Nga thể hiện tại chiến trường Syria đã làm Mỹ-PT bàng hoàng, Trung Đông rúng động. “Chỉ với một lực lượng tối thiểu, Nga đã đạt được mục tiêu tối đa” là sự công nhận của chính giới tinh hoa Mỹ-PT. Bàn cờ Trung Đông thay đổi nhanh chóng có lợi cho Nga, Mỹ-PT buộc phải chấp nhận “cho phép Putin chiến thắng tại Syria” (BloobergView 4/8/2016). Người Nga lần đầu tiên đã đưa máy bay, tên lửa S-400, S-300 đến Iran và với Iran, đây cũng là lần đầu tiên cho Nga sử dụng căn cứ quân sự là sân bay Nojei thuộc thị trấn Hamedan-Iran để tấn công trực tiếp quân IS và lực lượng khủng bố quốc tế khác. Theo đó: 1, Không quân Nga tự do bay trong khu vực không phân Iran; 2, UAV hoạt động tầm xa của Nga được phép hoạt động tại căn cứ không quân Nojei; 3, Tên lửa hành trình của Nga được phép bay qua không phận Iran. Ngoài ra tên lửa hành trình Nga cũng dược phép bay qua Iraq và có tin đồn là Thổ Nhĩ Kỳ cũng chấp nhạn cho Nga sử dụng căn cứ Incirlik nếu cần… Rõ ràng, một tam giác chiến lược mới hình thành trên cơ sở một hiệp ước quân sự Nga-Thổ Nhĩ Kỳ-Iran sẽ giải quyết sự hỗn loạn tại Syria do Mỹ-PT để lại. Mỹ đang rời khỏi…? Có thể nói, tình hình Trung Đông đang vô cùng phức tạp. Mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, mâu thuẫn lợi ích các quốc gia…khiến Trung Đông như một bãi lầy mà không một quốc gia bên ngoài nào, hùng mạnh như Mỹ, cũng không dám đi sâu. Iraq, Lybia và giờ tới Syria khiến giới tinh hoa chính trị thực dụng Mỹ đắn đo lựa chọn. Mỹ-PT chỉ tham gia qua tay người khác, nhưng khi con bài Thổ Nhĩ Kỳ, con bài quan trọng có tính quyết định nhất, bị vô hiệu hóa, khi Thổ Nhĩ Kỳ “không coi Mỹ-PT là bạn” thì Mỹ không có một cơ sở nào để bám víu tại Trung Đông. Chiến lược Trung Đông của Mỹ phải thay đổi. Mỹ đã từng rút khỏi Việt Nam để tránh sa lầy thì người Mỹ để lại “nhà nước IS” và đám khủng bố quốc tế cho Nga giải quyết mà không cần sự hỗ trợ của Mỹ, để rời đi chẳng có gì là to tát, ghê gớm. Đó là chiến lược khôn ngoan đầy thực dụng của Mỹ. Liệu Nga có tận diệt được IS và LIH hay không hay là theo vết xe đổ của Mỹ đã từng? Nên nhớ ngòi nổ rất nguy hiểm là các lực lượng người Kurd mà Mỹ đã hậu thuẫn, nuôi dưỡng để chấp nhận phải trả giá với Thổ Nhĩ Kỳ, không phải chuyện đùa của hậu chiến. Về nguồn góc sức mạnh, lý tưởng, dân tộc, người Kurd mạnh hơn hàng trăm lần IS. Sự rời khỏi đầu tiên là rút toàn bộ VKHN tại căn cứ quan trong nhất là Incirlik-Thổ Nhĩ Kỳ đến căn cứ khác của Mỹ ở Rumania. Mỹ không thể để VKHN ở đó khi đã từng bị hơn 7000 cảnh sát phong tỏa không phận, điện nước, vì Thổ Nhĩ Kỳ nghi ngờ đó là trung tâm chỉ huy cuộc đảo chính quân sự vừa qua. Phải chăng, Thổ Nhĩ Kỳ đã đặt một chân ra ngoài NATO? Người Nga cứ tự nhiên tại Trung Đông và tại Ukraine miễn sao đừng để bị sa lầy, đừng để bị chảy máu. Hãy cẩn thận nhé Nga! Mỹ đang quay sang Châu Á-Thái Bình Dương là nơi quyết định tương lai của Thế giới. ngocthong19.5@gmail.com Nguồn: https://ngocthongqb.blogspot.com/ ====================== Ai đó sẽ sa lầy... Ai đó cố gắng rút khỏi vũng lầy... Cái chính là do lòng tự tôn... Lúc trước thì đối đầu... Nay dù dưới cơ cũng không muốn ngồi "song xa"...!?1 like
-
Đề và Thuyết GS Cao Xuân Hạo: "Chẳng hạn, từ những năm 20 của thế kỷ XX những người làm từ điển Anh - Việt đã thấy ngay rằng (lạ thay!) tiếng Việt không có "tính từ", là vì nếu có thì không thể nào hiểu nổi tại sao người Việt nói Cha tôi già rồi mà không cần và không thể dùng một "động từ" như to be xen vào giữa (tức nói Cha tôi là già rồi)" . "Những cuốn sách đầu tiên viết về ngữ pháp tiếng Việt, - trừ một số ngoại lệ hiếm hoi như những tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Phạm Duy Khiêm (đó là những người không phải chỉ biết tiếng Pháp), - đều do những người chỉ được học một thứ ngữ pháp duy nhất là ngữ pháp tiếng Pháp, hay có chăng cũng lại là một thứ tiếng châu Âu nào đó khác, cho nên dễ tưởng rằng đó là thứ ngữ pháp duy nhất mà một ngôn ngữ có thể có được. Thế là từ đó trở đi các thế hệ sau, tuy hầu hết không biết tiếng Pháp, đều coi sách vở của các bậc tiền bối như là hiện thân của chân lý và không có mấy ai thấy cần nghiên cứu lời ăn tiếng nói của người Việt nữa. Ngữ pháp sao chép từ tiếng Pháp trở thành một thứ tôn giáo nghiệt ngã: bất kỳ một nhận định nào về tiếng Việt cho thấy một cái gì không giống tiếng Pháp đều bị coi là tà thuyết. Từ đó, ta có thể hiểu tại sao 75% những câu thông dụng nhất của tiếng Việt không bao giờ được dạy ở nhà trường" ( Nguồn: internet <Cao Xuân Hạo>). Chính GS Cao Xuân Hạo đã giải quyết được vấn đề “théc méc” Ông nêu trên, khi chính ông đề xuất cái khẳng định: Phân tích câu nói của tiếng Việt không thể dùng ngữ pháp tiếng Pháp (cú pháp: chủ ngữ - vị ngữ - tân ngữ) mà phải dùng ngữ pháp vốn có của tiếng Việt (cú pháp: đề - thuyết) để mà phân tích. Đây là cách LM hiểu cái mà Ông khẳng định: Trong câu “Cha tôi già rồi” thì đề (cái người nói muốn nêu – đứng trước) là “Cha tôi”, còn thuyêt (cái đứng sau bổ nghĩa cho đề) là “già rồi”. Còn trong mỗi một trong hai mệnh đề tạo nên câu này thì mệnh đề “Cha tôi” lại có đề (cái chính yếu mà người nói muốn đề cập đến ) là “Cha”, nó có cái thuyết cho nó là “tôi” (ở đây “tôi” biểu ý là “của tôi” do vị trí đứng của nó trong mệnh đề này). Và mệnh đề “già rồi” lại có đề là “già” còn thuyết cho nó là “rồi” (ở đây “rồi” biểu ý là “đang hoàn tất” sụ già ở thì hiện tại, còn nếu muốn nhấn (tức nêu) thời điểm nào đó ở thì quá khứ thì phải nêu cái quá khứ là “đã” lên làm đề trong mệnh đề “đã già”, cả câu sẽ thành là “Cha tôi đã già” (là ở tại cái thời điểm xưa mà người nói đang muốn kể lại, hoặc cụ thể hơn cả câu sẽ là “Cha tôi khi đó đã già” – “Cha tôi là đề, “khi đó đã già” là thuyết). Ví dụ hai cảnh tôi gặp thật: Cảnh một, ở TP HCM, tôi đang đi xe máy, gặp cầu vượt chắn ngang ở ngã tư, tôi rẽ phải hỏi ông xe ôm đang ngồi vắt vẻo trên xe máy dựng trên vỉa hè, theo cách nói đúng “đề-thuyết” của người Nam Bộ, tôi lớn tiếng hỏi: “Đường Nguyễn Văn Linh (đề, cái Chính yếu mà tôi cần biết) đi lối nào huynh làm ơn chỉ giùm tôi chút (thuyết, cái Phụ bổ nghĩa cho đề)”. [ Câu nói này được các giáo viên phổ thông Hà Nội cho điểm là “ăn nói cộc lốc”. Giáo viên sẽ hướng dẫn cho cách đặt lại câu nói ấy theo đúng sách là : “Dạ thưa anh, anh làm ơn giúp chỉ cho tôi đến đường… thì đi ngả nào ạ”]. Tội nghiệp ông xe ôm nuốt vội miếng đang nhai, gói xôi sắn lót lá chuối đang xòe trên lòng bàn tay trái, ông dùng tay phải chỉ cho tôi: “Anh đi thẳng tới chân cầu vượt rồi quẹo trái lên cầu, qua cầu đi thẳng là tới. Nhưng đừng quẹo lên cầu ngay chân cầu nghe, cảnh sát chụp liền, mất năm chục ngàn đó, đi quá lên hai trăm mét có ngách queo trái lên cầu”. Cảnh hai ở Hà Nội, tôi đi xe máy đường Thái Hà đến ngã tư cắt Láng Hạ , có cầu vượt nằm ngang trước mặt, thì dừng do đèn đỏ cùng đông nghẹt xe máy cũng dừng lúc đó. Bỗng nghe “Ối!” phía sau, ngoái lại thấy cách hai xe máy cũng đang dừng có một xe máy thứ ba phía sau đổ nghiêng trái ra đường (chắc do đụng bờ vỉa hè hoặc do thắng gấp) và từ ông xe ôm, người độc nhất trên vỉa hè trống vắng vì phía trong của vỉa hè là con mương lớn song song với đường nên không có dãy nhà mặt tiền sát vỉa hè, đang ngồi vắt vẻo trên xe máy dựng trên vỉa hè ngay chỗ đó vang lên:”Chết cha mày chưa, đi với đứng!”. Tội nghiệp cô bé chủ xe người nhỏ nhắn đang lồm cồm đứng dậy ráng sức dựng chiếc xe tay ga láng coóng nặng nề của mình lên. Ông xe ôm, người duy nhất rảnh tay ở đó, vẫn ngồi vắt vẻo nhổ râu trên xe máy dựng vỉa hè (!). “Lời Chào cao hơn mâm cỗ” (thành ngữ Việt) <Thuyết văn giải tự> giải thích chữ Bạo:暴,照晒。字形采用“日、出、収、米”四形会义。薄报切 Chữ Bạo nguyên nghĩa là phơi nắng (Chiếu Sái照晒), dám phơi nắng là bạo dạn, phơi nắng ắt khỏe mạnh. Do vậy mà Bạo đã chuyển chú thành nghĩa là Khỏe hay Dạn. Đứa trẻ khỏe tức Bạo thì dùng từ Bạo đã nở thành từ dính Bụ-Bẫm (tiếng Nghệ vẫn thường dùng từ “ Bạo” chỉ sức khỏe, VD hỏi thăm: “Bà hồi ni vẫn bạo chứ?”), đứa bé khỏe thì nó ắt Dạn, Dạn = =Dám nên từ Dám đã phiên thiết thành hai tiếng hàn lâm là Dũng Cảm勇敢 (lướt lại thì “Dũng Cảm勇敢” = Dám (Hán ngữ chỉ mượn một chữ Cảm敢 để biểu đạt ý là Dám). Khỏe đồng nghĩa với Chắc tức “Cứng Dương阳” = Cường强 (cứng rắn như mặt Trời).Tiếng Thái gọi Khỏe là “Còn”, vì có khỏe thì mới Còn = Tồn. Người Việt là dân trống đồng tức dân thờ mặt trời , vì là hậu duệ của Đế Minh tức Đế Sáng = Đế Vàng = Đế Hoàng (mà Hán ngữ gọi ngược là Hoàng Đế). Do vậy người Việt khi gặp nhau (hai người đang cùng một chỗ với nhau, nên đã dùng hai từ đồng nghĩa khỏe là Chắc = Bạo) thì nói câu ước nguyện cho nhau cùng khỏe là “Chắc Bạo!” (ý là cả hai ta đều khỏe), lướt thành “Chắc Bạo” = 1+0 = 1 = Chào! (dấu thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” đều là “0”, dấu “sắc”, “hỏi”, “huyền” đều là “1”), Khi chia tay thì mình ra đi (Đi = Di = Dù = Vù) còn bạn ở lại nên mình đã nói câu “Chúc bạn ở lại Bạo” = (lướt “Chúc Bạo!” = 1+ 0 = 1 = Chào! (mà tiếng Ý thì nói là “Chiao!” chứ không dùng “Bai Bai!” như tiếng Anh). Giống như người Thái khi chia tay nhau nói: “Mừ Còn Nư! Cò Dù Nư!” (tức là: Anh Khỏe Nè! Tôi Vù Nè!). Người Việt khi gặp nhau nói: “Chào!”. NgườiViệt khi chia tay nhau nói: “Chào!”. Gọn vậy thôi, đều là “Chào!”, nhưng hàm ý hai lời “Chào!” này không hẳn đồng nghĩa nhau, nhưng đều nhân văn như nhau ở chỗ coi con người là quí nhất, và cái quí nhất cho con người là sức khỏe. Tiếng Nga khi gặp nhau nói: “Khỏe!”, khi chia tay nhau nói: “ Hẹn gặp lại!” Tiếng Hán khi gặp nhau nói: “Nỉ Hảo你好!” , tức chúc anh luôn khỏe (luôn khỏe là lướt “Hằng Bạo” = 1+ 0 = 1 = Hảo); khi chia tay nhau nói: “Tái Kiến再见!” (Hẹn gặp lại!). < Thuyết văn giải tự> giải tích chữ Hảo好 nguyên nghĩa là đẹp (Hảo好, Mỹ dã美也 – Hảo là Mỹ), rồi sau đó chữ Hảo好cũng đã đồng thời chuyển chú chỉ nghĩa Khỏe. Nhìn hội ý chữ Hảo好 cũng thấy rõ nó ở cổ ngữ đọc là “Con子 Nái女” tức phái nữ (người nước Kinh Sở thời xưa đọc chữ Nữ女 là “Nái女”), là phái đẹp, nói lái (tức phản thiết) thì Con Nái là Cái Non, cái non nào thì cũng đều đẹp và ngon, dù nó là thực vật hay động vật. Chẳng biết từ khi nào người ta đã đem vào ngôn ngữ quan phương của tiếng Việt (ví dụ trên VTV hay dùng) câu nói khi chia tay nhau là “Tạm Biệt暂别!” (nghĩa là tạm thời chia ly, ghép câu theo kiểu ngữ pháp Hán, mà cũng chẳng nghe thấy người Hán dùng bao giờ), nghe thật ngậm ngùi, mà dân gian Việt chẳng bao giờ dùng câu ấy, họ chỉ nói “Chào!” (chúc anh Bạo) mà thôi. Giải thích chữ Minh Triết (明哲). Nghĩa đen là: Mắt luôn tỉnh (Minh) để Óc phân biệt (Triết) 1.Chữ Minh(明)như <TVGT> giải thích là Nhật Nguyệt Chiếu Diệu, tức Nhật Chiếu Nguyệt Diệu. Chiếu là cái sáng gay gắt của Mặt Trời, tức “Chói như Thiêu” = Chiếu. Diệu là cái sáng nhẹ nhàng của Mặt Trăng, tức nó chỉ là “Dịu Chiếu” = Diệu. Nghĩa đen của chữ Minh là: Mắt luôn luôn thức cả ban ngày như mặt trời và cả ban đêm như mặt trăng, tức là mắt tỉnh, do lướt “Mắt Tỉnh” = 1 +1 = 0 = Minh (tức mắt luôn luôn thức). Hội ý của chữ Minh như sau: Minh(明) = (ghép hai hành Tinh) = Mặt Trời (日)+ Mặt Trăng(月) = Mặt Tinh + Mặt Tinh = ( Mặt + Mặt = 0 + 0 = 1 = Mắt) + (Tinh + Tinh = 0 + 0 = 1 = Tỉnh) = “Mắt + Tỉnh” = 1 +1 = 0 = Minh 2.Chữ Triết 哲thì như <TVGT> giải thích là “Tri dã 知 也” (tức là Biết), <TVGT> hướng dẫn đọc: Trắc陟 Liệt 列thiết Triết (trúng). Hán ngữ đọc: Zhi 陟Lie列 thiết Zhie (trật) không thành Zhe哲. Biết là “Trong óc Nghĩ” = Tri. Tri đồng nghĩa Biết nên có từ đôi Tri Biết , nhiều nữa thì lặp Tri Biết Tri Biết = (Tri +Tri = 0 + 0 = 1 = Trí) + (Biết + Biết = 1 +1 = 0 = Biệt) = “Trí + Biệt” = 1 + 0 = 1 = Triết Như vậy nghĩa của Minh Triết明哲 là : Óc biết nhiều nhờ Mắt luôn luôn thức tức mắt tỉnh. Giải thích chữ Minh Triết (明哲). Nghĩa đen là: Mắt luôn tỉnh (Minh) để Óc phân biệt (Triết) 1.Chữ Minh(明)như <TVGT> giải thích là Nhật Nguyệt Chiếu Diệu, tức Nhật Chiếu Nguyệt Diệu. Chiếu là cái sáng gay gắt của Mặt Trời, tức “Chói như Thiêu” = Chiếu. Diệu là cái sáng nhẹ nhàng của Mặt Trăng, tức nó chỉ là “Dịu Chiếu” = Diệu. Nghĩa đen của chữ Minh là: Mắt luôn luôn thức cả ban ngày như mặt trời và cả ban đêm như mặt trăng, tức là mắt tỉnh, do lướt “Mắt Tỉnh” = 1 +1 = 0 = Minh (tức mắt luôn luôn thức). Hội ý của chữ Minh như sau: Minh(明) = (ghép hai hành Tinh) = Mặt Trời (日)+ Mặt Trăng(月) = Mặt Tinh + Mặt Tinh = ( Mặt + Mặt = 0 + 0 = 1 = Mắt) + (Tinh + Tinh = 0 + 0 = 1 = Tỉnh) = “Mắt + Tỉnh” = 1 +1 = 0 = Minh 2.Chữ Triết 哲thì như <TVGT> giải thích là “Tri dã 知 也” (tức là Biết), <TVGT> hướng dẫn đọc: Trắc陟 Liệt 列thiết Triết (trúng). Hán ngữ đọc: Zhi 陟Lie列 thiết Zhie (trật) không thành Zhe哲. Biết là “Trong óc Nghĩ” = Tri. Tri đồng nghĩa Biết nên có từ đôi Tri Biết , nhiều nữa thì lặp Tri Biết Tri Biết = (Tri +Tri = 0 + 0 = 1 = Trí) + (Biết + Biết = 1 +1 = 0 = Biệt) = “Trí + Biệt” = 1 + 0 = 1 = Triết Như vậy nghĩa của Minh Triết明哲 là : Óc biết nhiều nhờ Mắt luôn luôn thức tức mắt tỉnh. Bây giờ chúng ta đọc trong <truyện Kiều>: (qui tắc tạo từ được viết bằng chữ nghiêng) 15 Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân Đây là một cặp sinh đôi (vì cả hai đều là “đầu lòng”. Nay dùng từ “sinh đôi” là chỉ cùng thời điểm ra đời. Xưa dùng từ loán sinh (孿生)là chỉ cùng thời điểm rụng trứng, tức tuổi đời sẽ tính cả thời gian trong bụng mẹ. Loán là do lướt Lưỡng Noãn = Loán. Lưỡng noãn là hai noãn bào cùng rụng một lúc. Nhưng Noãn và Trứng không hoàn toàn đồng nghĩa nhau dù xuất xứ do một. Noãn là do lướt “Nội Hoàn” = Noãn 卵chỉ cái viên tế bào tròn đang ở bên trong, chờ để được thụ tinh. Trứng là cái hình thành sau khi noãn bào đã được thụ tinh, nó hình bầu, chữ nho viết là Đán蛋, mọi quả trứng do một con gà sinh ra đều bằng nhau, từ Đán nở ra từ dính Đều-Đặn. Quan niệm của Mẹ Việt là khi sinh đôi thì đứa ra trước làm em vì khi còn trong bụng mẹ lúc sắp ra đời chỉ có một cửa, chị đã nhường cho em được ưu tiên ra trước, đó là do tư tưởng đạo hiếu đễ đã được mẹ ru dạy cho học từ khi còn trong bụng mẹ, và tuổi đời của con người thì tính cả tuổi mụ. 25 Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Nang nghĩa là da trong qui tắc nôi khái niệm (NKN): Da = Giỏ = Vỏ = Mo = Màng = Nang = Bàng = Bao = Bọc = Bì = Bị đều là những đồ gói. Mo bọc buồng nụ cau gọi là mo nang. Nang chuyển chú thành cái bao đựng. Nang còn chuyển chú thành từ chỉ cuốn sách tra cứu gọi là cuốn Cẩm Nang. Nang được mượn sang tiếng Mã Lai chuyển chú để chỉ cây cau là “pê nang”, Nang được mượn nguyên vẹn sang tiếng Thái để chỉ da. Bàng là cái bao đựng lớn đan bằng cói. Bị là túi xách nhỏ đân bằng cói. Màng là cái rất “Mỏng Nang” = =Màng = “Màng Bạc薄” = Mạc 幕 (QT lướt). Nở nang nghĩa đen là nở da, da căng mịn, nhìn đẹp mắt. Từ ghép Nở Nang đã được chuyển chú thành nghĩa là tươi tắn (tươi lắm, từ Lắm viết bằng chữ Nhiên 然, Nhiên = Nhặn, lướt “Tươi Nhặn” = Tắn). Nét ngài nở nang nghĩa là dáng người tươi tắn. Dáng người nhìn tươi tắn vì có vú mông tròn trịa, hình ảnh thực dục “Vú mông tròn trịa” đã được tả bằng cụm từ chuyển chú rất thanh tao là “Khuôn trăng đầy đặn”, đẹp và đầy như trăng tròn vậy, nhưng không dùng từ vầng trăng, vì từ vầng chỉ nêu cái vành sáng trần trụi (Vầng Trăng tiếng Lào gọi là Viêng Chăn, thành tên cho thủ đô Lào), ở đây dùng từ khuôn để nói ý là vú mông đã được khuôn dưới lớp áo váy nền nã và kín đáo thể hiện Vân rất trang trọng (coi trọng trang điểm), khuôn cũng nói lên cái tròn (nếu vuông thì đã dùng từ khung hay khoang), khuôn cũng còn nói lên khuôn phép chỉ ý là con người có giáo dục từ nền nếp gia phong. 51 Tà tà bóng ngả về tây Chi em Thơ-Thẩn dan tay ra về Đi chậm là Thả bước [TQ dịch là Mạn bộ 慢步]. Thả nở ra các từ dính Thơ-Thẩn, Thong-Thả, Thủng-Thẳng, Lững-Thững để dùng tùy ngữ cảnh. 63 Nổi danh tài sắc một thì, Xôn-Xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Xướng (nói) nở ra từ dính Xôn-Xao (do lướt ‘Xướng Ngôn” = Xôn, lướt “Xướng ồn Ào” = Xao). Nữ Xướng ngôn viên (ví dụ của BNG) có thể gọi là “bà Xôn”, bà Xôn nói rất Đúngà Điềm- Đạm (biết nói ngọt nhạt) và rất Đúngà Đĩnh-Đạc (biết nói cương quyết) 81 Lòng đâu sẵn mối thương tâm Thoắt nghe Kiều đã Đầm Đầm châu sa Đầm Đầm là từ lặp. Lướt từ lặp “Đầm Đầm” = Đẫm, 1+1=0 (đúng qui luật cộng nhị phân biến đổi dấu thanh điệu) 85 Phũ –Phàng chi bấy hóa công! Ngày xanh Mòn-Mỏi má hồng phôi pha Phũ –Phàng [ TQ dịch là Tàn khốc vô tình 残酷无情 ] . Chứng tỏ từ Phũ –Phàng không có trong Hán ngữ. Phũ Phàng là một từ láy, được tạo ra do từ Vũ Phu chỉ hành động thô ác của hạng chồng vũ biền. Vũ Phu lướt ngược là “Phu Vũ” = Phũ, láy thêm bằng cách lướt “Phũ với Nàng” = Phàng, thành từ láy Phũ-Phàng. 95 Lầm dầm khấn vái nhỏ to, Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra. Lầm dẩm là từ láy: do lướt “Lời nói thầm” = Lầm, lướt “Dặng Thầm” = Dầm. Dặng nghĩa là đánh tiếng. NKN: Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý) = Dắngà Dùng-Dắng (đánh tiếng nọ kia) = Đằng hắng (đánh tiếng, tiếng Chăm) = Đèng héng (đánh tiếng, giọng Quảng Nam) = E hèm (đánh tiếng) 101 Lại càng Mê Mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng Tần Ngần chẳng ra Mê Mẩn là từ láy:Mê và lướt “Mê Thần” = Mẩn, trong câu đã nói rõ thêm là “mê mẩn tâm thần”. Tần Ngần là từ láy, do lướt “Tê Thần” = Tần. lướt “Ngơ Thần” = Ngần [ TQ dịch là Tâm thần biến đắc si mê心神变得痴迷] 169 Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều Thướt-Tha Thân (mình) nở ra các từ dính: Thon-Thả (vóc dáng gọn gàng), Thộn-Thện (béo và xộc xệch vụng về), Thòng-Thượt (dáng lười biếng). Thướt –Tha (dáng đẹp mềm mại) 173 Gương nga Chênh Chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân. Chênh Chếch là từ láy. Cặp đối Âm/Dương = Nghiêng/Ngay = =Chênh/Chính = Chành/Chân= Chậm/Chóng = Móm/Mạnh = 0/1 185 Chênh Chênh bóng nguyệt xế mành Tựa ngồi bên triện một mình Thiu -Thiu Chênh Chênh là từ lặp, nghĩa là Nghiêng, nghịch với Chính (là Ngay). Các cặp từ đối1/0 = Ngay/ Nghiêng = Chính/Chênh= =Chân/Chành (hàng Chành là hàng Nhái) . Từ lặp Chênh Chênh mà lướt thì thành lướt từ lặp “Chênh Chênh” = Chếnh, dấu 0+0=1 . Chếnh có nghĩa là nghiêng mạnh hơn, tức lướt lấy dấu “Chênh Lắm” = Chếnh, Chếnh nghĩa là sắp đổ, như người say rượu Chếnh-Choáng. Thiu-Thiu là ngủ gật, từ dính nở ra do từ hàn lâm Thùy 睡nghĩa là Ngủ (Ngủ = Nghỉ , Nghỉ là Hiu, mà lướt “Thùy 睡Hiu休” = Thiu = Thiu-Thiu), Thùy 睡còn nở ra từ dính Thiêm-Thiếp nghĩa là ngủ mê mệt. Hán mượn chữ nho Thùy睡và đọc là [Shùi] nên tiếng Việt mượn lại “Suây” để từ “Suây” nở ra từ dính Say -Sưa nghĩa là ngủ giấc nồng. 187 Thoắt đâu thấy một tiểu kiều Có chiều phong vận, có chiều thanh tân Sương in mặt tuyết pha thân Sen vàng Lững-Thững như gần như xa Từ dính Lững –Thững [đã đươc TQ dịch là Mạn Bộ 漫步(đi chầm chậm)] mà tiếng Việt gọi là Thả bước (đi từ từ từng bước). Động từ Thả đã nở ra các từ dính Thơ-Thẩn, Thong - Thả, Thủng -Thẳng, Lững –Thững diễn tả nhiều sắc thái của nhiều ngữ cảnh. 191 Rước mừng đón hởi Dò-La: “Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?” Dò-La la từ dính nở phái sinh do từ Dạm (hỏi ướm ý). Dò-La [được TQ dịch là 偏问道 (thiên vấn đạo – nói hỏi nọ kia ngoài rìa ] 197 Mấy lòng hạ cố đến nhau Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Hạ tứ ở đây nghĩa là ban cho kẻ dưới đất, chữ Tứ 賜nghĩa là cho đi, như chữ Tứ賜là chữ kiểu hội ý, hiểu nghĩa bằng lướt “Dịch 易Bối貝” = Dội, đồng nghĩa với lướt “Tưới Chứ!” = Tứ 217 Một mình Lường-Lự canh chầy Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh Canh chầy là canh cuối cùng của đêm (canh đầu gọi là canh Chớm, cặp đối D/ Â = Chớm/Chầy, thời gian đêm Chạy từ Chớm đến Chầy là hết đêm). Cả đêm không ngủ vì Lo. Lo nở ra từ dính Lường-Lự [ được TQ dịch là 思量 tư lượng (nghĩ ngợi và so đo ) ]. Ở đây là do từ Lo nở ra từ dính Lường-Lự, Lường là do lướt “Lòng Tưởng” = =Lường (so đo), Lự là do lướt “Lòng Tư” = Lự (nghĩ ngợi). Những từ lướt nhằm nén thông tin: lướt câu “Lo và Nom” = Lỏm, thành từ Lo Lỏm nghĩa là lo và dự kiến làm sao cho đúng. 221 Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi Nghĩ đòi cơn lại Sụt-Sùi đòi cơn Hình thức động của sóng nước là nó cứ Giáng xuống và Nổi lên liên tục, nên qui tắc lướt đã giúp nén thông tin thành một từ do lướt “Giáng và Nổi” = Giồi. Hai từ Tiếng Khóc chữ nho viết là Thanh Khốc, cái Thanh ấy trong trường hợp khóc nhỏ tiếng, trong cảnh cô đơn, đã nở ra từ dính Thút-Thít là hình dung từ cho động từ khóc, lắm khi từ dính Thút- Thít cùng dùng chuyển chú thay cho động từ Khóc. Một Thân cô đơn thì cảm thấy thật Tủi phận, nén thông tin bằng lướt “Thân Tủi” = Thủi. Từ Thân là một thân cô đơn đã nở ra từ dính Thui-Thủi diễn tả được thông tin dài là cô đơn và tủi phận buồn. Buồn tiếng hàn lâm là Sầu愁, Sầu dẫn đến Khóc. Sầu thì tủi nên lướt “Sầu Tủi” = Sùi. Vậy là từ Sầu có cơ duyên mà nở ra từ dính Sụt-Sùi làm hình dung từ cho động từ Khóc, hoặc từ dính Sụt – Sùi cũng được dùng chuyển chú thay cho động từ khóc, nhưng hiểu được là khóc vì sầu tủi (thổ lộ lòng) khác với Thút-Thít (chỉ tả cái tiếng khóc nhỏ nhẹ : lướt “Thanh chút Chút” = Thút và lướt “Thanh ít Ít” = Thít). Qua câu này thấy được thời Nguyễn Du đã có chữ quốc ngữ lưu hành trong giáo dân rồi, phụ âm “Gi” và phụ âm “D” phát âm khác nhau, từ “Giáo” dục phát âm khác với gà mẹ “Dáo”-dác (Dõià Dáo-Dác) tìm con. Nên không thể thay gộp Gi và D thành một Z cho tiện đánh máy như dự án của GS Bùi Hiển được. Từ Sóng Giồi (rất ngắn)[được TQ dịch (quá dài) là “cuồng đào ban dõng khởi狂濤般涌起” (sóng cuồng như dòng nổi)], chứng tỏ ngôn ngữ Việt có tính hiệu quả cao trong diễn đạt, không cần phải nói dài dòng. Những từ dân gian đã làm mầm cho chữ Nho: Biến có sóng gọi là Ba 波 (do lướt “Biển hờn như ăn Vạ” = Ba), Luồng Lạch có sóng gọi là Lãng浪 (do lướt “Lạch thì nước lang Thang” = Lãng), Ao có sóng gọi là Đào濤 (do lướt “Động nước trong Ao” = Đào), chữ nào chỉ sóng cũng đều có bộ thủ nước(氵), dùng từ đôi Ba Lãng波浪, Ba Đào波濤, Lãng Đào浪濤 chỉ ý nhiều sóng. Đòi nghĩa là tưởng tượng, Cơn nghĩa là vận hội, do lướt “Cảnh Lớn” = Cơn, là hoàn cảnh gặp phải: Gặp cơn khốc liệt can qua. Đòi mình ứng xử phải ra thế nào. 225 “Cớ sao Trằn –Trọc canh khuya Màu hoa lê hãy Dầm-Dề giọt mưa?” Động từ Trở mình đã nở ra từ dính Trằn-Trọc. Do lướt “Trở Lăn” = Trằn (lật phải, lật trái), lướt “Trỏ Dọc” = Trọc (ngồi dậy vẫn không ngủ được lại nằm xuống, rồi lại ngồi dậy). [ TQ dịch động từ Trở mình là 反侧phản trắc (lật nghiêng) và không có từ để dịch nổi hình dung từ Trằn –Trọc nên phải phiên âm bằng cách mượn chữ nho cận âm là hai chữ 辗转Triển Chuyển, chữ Triển辗vỗn nghĩa là xay nghiền, chữ Chuyển 转là đưa đi, nên chữ Triển Chuyển chuyển chú thành nghĩa là Gián tiếp chuyển đi. Do âm nó giống từ Trằn Trọc của tiếng Việt nên khi dịch đã dùng nó làm hình dung từ cho động từ Phản Trắc (lật nghiêng) thành cụm từ Triển Chuyển Phả Trắc 辗转反侧để dịch mỗi một từ dính tiếng Việt là Trằn-Trọc hay từ Trăn Trở đã chuyển chú thành nghĩa là không ngủ được ]. Dọt nước mắt đọng trên mặt như dọt mưa đọng trên hoa lê. Từ Dọt đã nở ra từ dính Dầm-Dề biểu ý nó còn đẫm trên mặt chứ chưa trôi đi. 239 Ngoài song Thỏ -Thẻ oanh vàng Nách tường bông liễu bay ngang trước mành Thốt (hót) nở ra từ dính Thỏ-Thẻ 245 Chàng Kim từ lại thư song Nỗi nàng Canh-Cánh bên lòng biếng khuây Canh-Cánh là từ láy của từ Cạnh. Do lướt lấy dấu “Cạnh Bên” = Canh, “Cạnh Bám” = Cánh tạo thành từ láy Canh-Cánh để nhấn mạnh ý là nỗi nhớ nàng luôn cạnh lòng mình 251 Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao Mặt tơ tưởng mặt, lòng Ngao-Ngán lòng Người (về tâm trạng) nở ra từ dính Ngao-Ngán: lướt “Người phiền Não” = Ngao, lướt “Người buồn Chán” = Ngán, thành từ Ngao-Ngán [ TQ dịch“Tâm tình rất buồn chán 心情多么烦厌 ”] 259 Bâng Khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi Bâng Khuâng là từ láy do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng (tâm trạng buồn và nghĩ khó xử cứ dâng lên vì nỗi nhớ trong lòng) 265 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều Xăm-Xăm đè nẻo Lam kiều lần sang Đi nho viết bằng chữ Khứ去, Hán ngữ mượn chữ nho đọc chữ Khứ 去là Xuy, mượn lại sang tiếng Việt từ Xuy nở ra từ dính Xăm-Xăm nghĩa là đi nhanh, Lệ-Xệ nghĩa là đi chậm, Cà-Xiểng nghĩa là đi bước thấp bước cao. Lần nghĩa là đi chậm thận trọng, do lướt “Lộ dần Dần” = Lần. Lộ là Lối đi, đã chuyển chú thành thay cho động từ đi, nói Lộ qua nhà anh nghĩa là đi ghé qua nhà anh. 301 Tan sương đã thấy bóng người Quanh tường ra ý Tìm-Tòi Ngẩn – Ngơ Từ dính Tìm –Tòi do nở ra từ chữ Tầm尋, Hán ngữ đọc chữ Tầm尋 là “Xuýn尋”. Mượn lại sang tiếng Việt, từ “Xuýn” lại nở ra từ dính Xăm-Xoi đồng nghĩa với Tìm- Tò, tuy sắc thái hơi khác. Từ dính Ngẩn- Ngơ được nở ra do chữ Ngu愚 [ TQ dịch là Mang Nhiên茫然 ( “máng rán茫然”: mù tịt, không hay biết) ]. 325 Xương mai tính đã rũ mòn Lần-Lừa ai biết hãy còn hôm nay Lâu nở ra từ dính Lần-Lừa (do lướt “Lâu Dần” = Lần và “Lâu Nữa” = Lừa). 331 Ngần –Ngừ này mới thưa rằng Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong Lướt “Ngừng Chờ” = Ngợ. Ngợ nở ra từ dính Ngần –Ngừ 347 Lặng nghe lời nói như ru Chiều lên dễ khiến nét thu Ngại –Ngùng Nghi nở ra từ dính Ngại-Ngùng 359 Một lời gắn bó tất giao Mé sau dường có Xôn-Xao tiếng người Nói đồng nghĩa Xướng唱. Xướng nở ra từ dính Xôn –Xao do lướt “Xướng Ngôn” = Xôn, “Xướng ôn Ào” = Xao [ TQ có mượn dùng chữ Xướng 唱nhưng không nở được từ dính Xôn-Xao, phài dịch từ Xôn-Xao là “Zài shuohuà在说话”- Tại thuyết thoại (đang nói chuyện) ]. Nữ Xướng Ngôn viên BNG có thể gọi là bà Xôn, lời nói bà ta Đúng à Điềm-Đạm ( tức biết nói ngọt nhạt) và Đúng à Đĩnh-Đạc (tức biết nói cương quyết). 373 Tưng bừng Sắm-Sửa áo xiêm Biện dâng một lễ xa đem tấc thành Từ dính Sắm-Sửa là nở ra do từ “Suan穿” của Hán ngữ (nghĩa là mặc quần áo). 377 Thời trân thức thức sẵn bày Gót sen Thoăn-Thoắt dạo ngay mé tường Thoi (chuyển động rất nhanh) đã nở ra từ dính Thoăn-Thoắt để chỉ tốc độ thao tác. Thoăn –Thoắt lại chuyển chú thành trợ động từ chỉ sự chuyển động nhanh.Thoi còn nở ra từ dính Thấm-Thoắt chỉ tốc độ thời gian trôi nhanh. 379 Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông Sẽ là Se Sẽ = Khe Khẽ. Dặng nghĩa là đánh tiếng, do NKN: Nói = =Na = Và 话 = Viết曰 = Vân 云 = Van = Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý). Dặng = Đằng Hắng (tiếng Chăm) = =Đèng Héng (tiếng Quảng Nam) = E Hèm (đánh tiếng). “Tiếng Việt là mẹ các ngữ”. NKN mặt: Mặt = Miện = Diện 面 = Da = Nạ (tiếng Lào) = Ná (tiếng Tày = Nang (tiếng Thái) = Màng = Mạc幕 = “Mạc Diện” = Mian面(tiếng Hán). Tiếng Tày mặt đen là Ná Nhèm, tiếng Việt lại có cụm từ mặt đen Nhẻm. NKN: Nhẻm = Nhèm = Lem = Lọ = Nhọ = Tro. Tro là màu Tro tức đen, chuyển chú thành danh từ Tro chỉ tro bếp. 381 Trách lòng Hờ -Hững với lòng Lửa hương chốc để Lạnh-Lùng bấy lâu Dừng nghỉ *Hưu) ở nơi (Nẻo) xa, gọi lướt “Hưu Nẻo” = Hẻo, muốn tránh xa người khác. Hẻo nở ra từ dính Hờ-Hững. Lướt “Lẩn Tránh” = Lánh, như muốn trốn khỏi người khác. Lánh nở ra từ dính Lạnh-Lùng. Tự trốn riêng ra nơi Hẻo Lánh là thái độ Hờ-Hững và Lạnh-Lùng với cộng đồng. 431 Cửa ngoài vội rủ rèm che Xăm –Xăm băng lối vườn khuya một mình Chữ Khứ 去nghĩa là đi, Hán ngữ đọc chữ Khứ là “Xuy去”. Xuy sang tiếng Việt nở ra từ dính Xăm-Xăm là đi nhanh, Lệ-Xệ là đi chậm, Cà-Xiểng là đi bước thấp bước cao. Mà “Xuy去” trong Hán ngữ không phái sinh ra được từ nào có phụ âm “X” hay âm vận “Uy” mà mang nghĩa là Khứ cả. 433 Nhặt thưa gương giọi đầu cành Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh Hắt-Hiu NKN đen là: Dơ = Ô乌 = Ố污 = “Hoen Ô污” = Hồ = “Đen Ố乌” = =Đồ. Hồ nở ra từ dính Hắt-Hiu (chỉ ánh sáng mờ mờ). “Muội Dơ” = =Mơ. Mơ Hồ hay Hồ Đồ đều là những từ đôi chỉ sự đen, không rõ ràng, không minh bạch. Hán ngữ ký âm từ Mơ Hồ là “Múa Hú” viết bằng hai chữ nho cận âm là chữ Mó摸 (sờ nắm) là chữ hình thanh (hình là cái Tay扌, thanh là chữ Mô 莫tức không có- tiếng Nghệ) và chữ Hồ 糊(chỉ hồ dán làm bằng bột) là chữ hình thanh (hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ 胡là chữ hội ý chỉ “Cổ 古Nhục肉” = Cục và “Nhục 肉Cổ古” = Nhô là cái cục nhô dưới cổ con bò còn gọi là yếm bò). Thành ra chữ “Múa Hú模糊” của Hán ngữ dùng chỉ ý không rõ ràng , không minh bạch chỉ là mượn chữ để ký âm na ná từ Việt là từ Mơ Hồ. Từ Hồ Đồ cũng vậy, chỉ là mượn chữ nho cận âm để làm ký âm, chữ Hồ 糊là hồ dán, chữ Đồ 涂là bôi tô màu, thành âm na ná là “Hú Thú糊涂” ký âm hai tiếng Hồ Đồ nghĩa là không rõ ràng. 435 Sinh vừa tựa án Thiu-Thiu Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê Chữ Thùy 睡là ngủ nở ra từ dính Thiu-Thiu là ngủ gật [Hán ngữ mượn chữ Thùy睡 dùng với nghĩa là ngủ, nhưng lại không nở được từ dính Thiu-Thiu mang nghĩa ngủ gật. Hán ngữ gọi ngủ gật là “Da Dun打盹”] 439 Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân Mơ-Màng Chữ Mộng夢 nở ra từ dính Mơ-Màng. Bâng Khuâng là từ láy chỉ tâm trang buồn và khó xử: do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng 449 Vầng trăng Vằng-Vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song Từ Vàng nở ra từ dính Vằng-Vặc. Màu vàng của trăng rất lâu dài nên đã mượn từ dính Dằng-Dặc (của Dài) để làm thành lướt ”Vàng Dằng”= Văng và lướt “Vàng Dặc” = Vặc 483 Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau Sầm-Sập như trời đổ mưa Động từ Sa mưa, từ Sa nở ra từ dính Sầm-Sập. 485 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ Khiến người ngồi đó mà Ngơ-Ngẩn sầu Ngẫm nở ra từ dính Ngơ-Ngẩn (“Ngẫm Sơ”=Ngơ, “Ngẫm Dần” = =Ngẩn). Ngẫm Sơ cái sầu và Ngẫm Dần cái sầu thành ra Ngơ-Ngẩn sầu [TQ dịch: “chóu chàng惆怅, máng rán茫然”(rầu rĩ, mù tịt)] 499 Sóng tình dường đã xiêu xiêu Xem trong Âu-Yếm có chiều Là-Lơi Yêu nở ra từ dính Âu-Yếm. Lỏng nở ra từ dính Lả-Lơi (do lướt “Lỏng Rã” = Lả. lướt “Lỏng Rời” = Lơi) [TQ dịch từ Lả-Lơi là Phóng túng - “fàng song放送” (buông lỏng)] 513 Mây mưa đánh đổ đá vàng Qúa chiều nên đã Chán-Chường yến oanh Chê nở ra từ dính Chán-Chường [ TQ dịch là 厌倦的心理 ngán quyển đích tâm lý]. 515 Trong khi chắp cánh liền cành Mà lòng Rẻ-Rúng đã dành một bên Dễ nở ra từ dính Rẻ Rúng (Khinh thị, Khi dễ) 517 Mái tây để lạnh hương nguyền Cho duyên Đằm-Thắm ra duyên Bẽ - Bàng Đậm nở ra từ dính Đằm-Thắm. Bẽn nở ra từ dính Bẽ-Bàng 547 Tai nghe ruột rối Bời-Bời Ngập -Ngừng nàng mới giải lời trước sau Ngôn nở ra từ dính Ngập-Ngừng. Nói mà cứ ‘Ngôn Lấp” = Ngập, “Ngôn Dừng” = Ngừng (lướt) thì gọi là nói Ngập –Ngừng [TQ dịch là Do Dự犹豫 ] 559 Dùng-Dằng chưa nỡ rời tay Vừng đông đâu đã đứng ngay nóc nhà Dở (đang dở câu chuyện) nở ra từ dính Dùng –Dằng 569 Nàng còn đứng lặng hiên tây Chín hồi Vấn-Vít như vầy mối tơ Vướng nở ra từ dính Vấn-Vít 571 Trong chừng khói ngất song thưa Hoa trôi dạt thắm. liễu Xơ-Xác vàng Chữ Tiêu điều萧条Hán ngữ đọc là Xiao (nghia là khô queo). Chuyển sang Việt từ “Xiao” nở ra từ dính Xơ-Xác 575 Hàn huyên chưa kịp Dã-Dề Sai nha bỗng thấy bốn bề Xôn-Xao Dắng (lên tiếng) nở ra từ dính Dã –Dề. Xướng (nói) nở ra từ dính Xôn-Xao. 639 Đắn-Đo cân sắc cân tài Ép cung câm nguyệt thử bài quạt thơ Đạc nở ra từ dính Đắn –Đo [TQ dịch là Điểm Lường掂量] 641 Mặn nồng một vẻ một ưa Bằng lòng khách mới tùy cơ Dăt-Dìu Gía (giá trị) nở ra từ dính Dặt – Dìu. Dặt –Dìu lại chuyển chú thành nghĩa là trả giá 647 Cò- Kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm Nói = Na = La = Ca = Coỏng (tiếng Quảng Đông, Đài Loan) = Kêu -Kêu nở ra từ dính Cò-Kè. Cò-Kè chuyển chú thành trả giá bớt một thêm hai, tức lướt “Kêu To” = Cò, lướt “Kêu Bé” = Kè. Cò- Kè là từ dính, mọi từ dính đều không thể đảo ngược vị trí hai tiếng, mà tách hẳn hai tiếng ra thì nó mất nghĩa. Cò-Kè không phải là con cò và cái bờ kè. 697 Phận rầu dầu vậy cũng dầu Xót lòng Đeo-Đẳng bấy lâu một lời Đợi nở ra từ dính Đeo-Đẳng 699 Công trình kể biết mấy mươi Vì ta Khăng-Khít cho người Dở -Dang Khép nở ra từ dính Khăng-Khít. Dừng nở ra từ dính Dở- Dang (“Dừng Chờ” = Dở, “Dừng giữa Đàng” = Dang) [TQ dịch là “nhân duyên trung đồ đoạn tống姻缘中途断送”(nhân duyên giữa chừng ngừng đi tiếp)]. Sản phẩm đang trong chu trình gia công gọi là sản phẩm dở dang. Sản phẩm đã gia công xong gọi là thành phẩm. 701 Thề hoa chứa ráo chén vàng Lỗi thề thôi đã Phụ-Phàng với hoa Từ láy Phụ-Phàng (lướt “Phụ tình Chàng” = Phàng).Phụ Phàng (phụ tình với chàng). Khác với Phũ Phàng là do Vũ Phu nói lái là Phũ Vu, tức “Phũ với Nàng”= Phàng, thành từ láy Phũ-Phàng (hành động bạo lực của chồng đối vời vợ). 711 Nỗi riêng riêng những Bàn Hoàn Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn Bàn là nói lướt “Bất An” = Bàn. Bàn Hoàn là bất an hoàn toàn. 713 Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân Dưới đèn ghé đến ân cần Hỏi Han Hỏi Han là từ láy. Han là do lướt “ Hỏi huyên Hàn” = Han 719 Rằng lòng đương Thổn-Thức đầy Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong Thương (mà đau) nở ra từ dính Thổn-Thức [TQ dịch là Uất Muộn ”Yu men郁闷”] 721 Hở môi ra cũng Thẹn -Thùng Để lòng thì phụ tấm lòng với ai Thẹn -Thùng là từ dính do tâm trạng Thương. Thương cho nên Bẽn, lướt “Thương Bẽn” = Thẹn, vì Thẹn nên muốn lánh không nói đến tức “Thẹn thành ra lạnh Lùng” = Thùng, tạo ra từ Thẹn-Thùng [ TQ là “cán kui惭愧”, xìu kui羞愧” ] 751 Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên Ngắn-Ngủi có ngần ấy thôi Từ láy Ngắn-Ngủi, chỉ tâm trạng (lướt “Ngắn và Tủi” = Ngủi). Khác với Ngắn Ngủn , chỉ vật thể (lướt “Ngắn và Lùn” = Ngủn) 783 Trời hôm mây kéo tối rầm Rầu Rầu ngọn cỏ, Đầm Đầm cành sương Đêm = Đom = Om= Hom = Hôm – Hôn 昏 = Hối 晦 = Tối = Túi = Têm = Đêm = Đêm Hôm. Từ lặp, lướt “Rầu Rầu” = Rẫu, 1+1=0 。Phiên thiết Rẫu = Rũ Ấu (héo non). Đầm Đầm” = Đẫm, 1+1 =0 787 Ngập –Ngừng thẹn lục e hồng Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen Ngượng nở ra từ dính Ngập- Ngừng [(TQ dịch là Do Dự犹豫)] 797 Đã sinh ra số Long-Đong Còn mang lấy liếp má hồng được sao? Lưu 流 (chảy)nở ra từ dính Long-.Đong [ TQ dịch là Phiêu Bạc 漂泊 (trôi nổi) ] 839 Mập –Mờ đánh lận con đen Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? Mù (nghĩa là không minh bạch), Mù nở ra từ dính Mập - Mờ [TQ phiên thiết đúng từ Mù thành hai tiếng Mó Hú (thiết lại thì như lướt “Mó Hú” = Mù) nhưng chữ thì mượn hai chữ nho cận âm là chữ Mó 模Hồ 糊tức tay sờ (chữ Mó模) vào hồ dán (chữ Hồ 糊) không có nghĩa gì với không minh bạch. Mù ( nghĩa là không rõ ràng) tức là Mơ Hồ ( Mơ là do lướt “Muội Dơ” = Mơ và Hồ là do lướt “Hoen Ố’ = Hồ. Mơ và Hồ đều có nghĩa là đen, không rõ ràng). Các từ của NKN đen là: “Đen Ô” = Đồ = Ô乌 = Ố 污 = Dơ = Mơ = Hồ = Hắc黑= Hôn昏= Hôm = Hoen = Huyền 玄= Hối 晦 = Tối = Muội 昧= Man蛮= Mun = Mực = Mèn = Đen, đều có nghĩa là đen tức không minh bạch. Ca dao: “Miệng nhà quan có gang có thép. Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm”. Đồ là đen đã chuyển chú thành từ Đồ chỉ những cái gì đen, có khi cái Đồ ấy màu nó không đen nhưng vì nó bị che kín cả ngày lẫn đêm trong bóng tối nên nó cũng thành đen. [TQ mượn cả nghĩa “không minh bạch” của từ Mơ Hồ của tiếng Việt, lẫn mượn cả cái âm “mơ hồ” nhưng lại phát âm lơ lớ là Mó Hú, rồi mượn hai chữ nho cận âm là chữ Mó摸 và chữ Hồ 糊để làm phiên âm, thành ra nghĩa của hai chữ cận âm đó là “Mó 摸tay vào Hồ 糊dán”, đâu phải nghĩa là không minh bạch.Chữ Mó 摸là chữ hình thanh (hình là cái tay扌, thanh là chữ Mô 莫cận âm), chữ Hồ 糊cũng là chữ hinh thanh (hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ胡, chữ Hồ 胡lại là chữ hội ý ( là “Cổ 古Nhục肉” = Cục và “Nhục 肉Cổ古” = Nhô, la cái Cục Nhô bằng da bèo nhèo bạc nhạc dưới cổ con bò, thường gọi là cái yếm bò ] Người Việt cổ đại ở vùng Hoàng Hà cổ xưa lại dùng chữ Hồ 胡này phiên thiết thành hai tiếng Hung Nô để chỉ dân du mục phương Bắc (lướt hai tiếng lại thì là “Hung Nô” thiết Hồ, chỉ bọn rợ Hồ 胡du mục kém văn minh), thành ngữ cổ: “Nam phương Việt, Bắc phương Hồ南方越, 北方胡” 851 Giọt riêng Tầm-Tã tuôn mưa Phần căm nỗi khách, phân dơ nỗi mình Giot riêng là giọt lệ khóc thầm mà tuôn ướt đẫm như trời mưa. Tuôn mưa như Tưới nước. Tưới nở ra từ dính Tầm, -Tã (do lướt “Tưới Đẫm” = Tầm, lướt “Tưới Đã” = Tã). Từ dính Tầm –Tã trở thành hình dung từ cho động từ Tuôn mưa. 857 Giận duyên, tủi phận Bời Bời Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh Lớn nhanh như từ lướt “Bốc Hơi” = Bời. Cái tủi cũng bời bời tức lớn nhanh như bốc hơi. 865 Những là Đo-Đắn ngược xuôi Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường Lướt lấy dấu “Đo Nguyên” = Đo,lướt lấy dấu “Đo Ngắn” = Đắn, câu 4 chữ Đo nguyên Đo ngắn chuyển thành câu 2 chữ Đo-Đắn. NKN: Nói = Gọi = Gáy (dùng cho gà) = Gí 語 (tiếng Đài Loan) = Gô 語 (tiếng Nhật Bản- Ni Hon Go日本語) = Ngỏ = Ngữ 語 = Ngôn 言= Ồn = Âm音. Đo- Đắn [TQ dịch: Hăng lượng khinh trọng衡量轻重(cân nhắc năng nhẹ)] 869 Đoạn trường thay lúc phân kỳ Vó câu Khấp –Khểnh bánh xe Gập-Gềnh Gấp Khúc, Khúc nở ra từ dính Khấp-Khểnh [TQ dịch là “gian nan cử bộ艰难举步” (khó khăn cất bước) ], Gấp nở ra từ dính Gập –Gềnh [ TQ dịch là Điên Pha “dianbo颠簸”(lắc lư) ]. Những từ dính Khấp-Khểnh và Gập-Gềnh phát âm đều thấy rõ cặp môi Mấp/Máy = =Đóng/Mở = 0/1 = Âm/Dương biểu lộ sự chuyển động Thấp/Cao như dao động hình sin. 873 Ngoài thì chủ khách Dập –Dìu Một nhà huyên với một Kiều ở trong Động từ Dính nhau nở ra từ dính Dập-Dìu [TQ dịch là Tương Tụ 相聚- tụ họp với nhau]. Tụ聚àTúm-Tụm 875 Nhìn càng Lã-Chã giọt hồng Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao Từ dính Lã-Chã do từ Sa nở ra, hình dung sự Sa nước mắt. Giọt nước mắt ngắn thì lướt “Lọt Sa” = Lã, và giọt nước mắt dài thì lướt “Chảy Sa” = Chã . Hình dung từ Lã –Chã chuyển chú thành động từ, chỉ cần nói Lã Chã là biết đang khóc giọt ngắn giọt dài, giọt ngắn (Lã), giọt dài (Chã) [TQ không có từ nào tương đương với từ đã được gia công kỹ như từ Lã Chã nên chỉ dịch là Lưu Lệ 流泪(chảy nước mắt)]. Cùng là dùng chỉcó hai âm tiết nhưng Lã Chã (của tiếng Việt) cho hiệu quả của câu nói nhiều hơn là Lưu Lệ (Hán ngữ). 881 Xem Gương trong bấy nhiêu ngày Thân con chẳng kẻo mắc tay Bợm già Một từ Gương ngắn gọn đã dùng chuyển chú để thay cho cả một câu dài: Thấy qua hành động cư xử mà lộ ra tính cách quái đản của Mã Giám Sinh. Từ Bợm là Bịp-Bợm à chữ Biển騙 (lừa gạt). Bợm [ TQ dịch là Khi Biển欺騙 ]. 883 Khi về bỏ vắng trong nhà Khi vào Dùng-Dắng khi ra Vội – Vàng Câu này điển hình cho ngữ pháp VN là trong câu chỉ có Đề và Thuyết, không hề có chủ ngữ (theo Cao Xuân Hạo), Câu 1 thì Đề là “Khi về”, Thuyết là “Bỏ vắng trong nhà”, trong mệnh đề Thuyết không nêu ra mà vẫn hiểu được là có hai chủ ngữ: Kiều thì bị Bỏ trong nhà, Mã thì Vắng nhà. Câu 2 thì Đề là Khi vào, Khi ra; Thuyết là hành động của Mã. Dùng-Dắng là từ dính do Dặng (đánh tiếng) thể hiện thái độ cuống quýt hoảng hốt lớn dần lên của kẻ có ý đồ gian [TQ dịch là “ hoảng lý hoảng trưởng” 慌里慌长 (cái hoảng trong lòng lớn dần) ]. Vội Vàng là từ láy: Vàng là do lướt “Vội và Màng” = Vàng. Chẳng màng là không bận tâm đến, Màng 忙 = Mang 忙nghĩa là Bận (đa mang多忙: bận nhiều). 885 Khi ăn thì nói Lỡ-Làng Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh Lỗi nở ra từ dính Lỡ-Làng [ TQ dịch từ Lỡ-Làng: “căn bản nói không nổi một tí nào cái cao quí của Nho Nhã”. Như vậy TQ cũng công nhận văn Nho của Nhã ngữ là hay nhất]. Câu 2 không nêu chủ ngữ mà vẫn hiểu được khi Mã và đám đầy tớ với nhau thì Mã bị đám đầy tớ xem thường xem khinh [TQ dịch là: “đến bọn nô bộc dịch trong nhà cũng chê nó thô bỉ chứ chẳng được như Đường tục”. Như vậy TQ công nhận phong tục của người Thoòng (Đường nhân – người Việt Thường từ thời Đường Nghiêu) là văn minh, lối sống thanh tao] 897 Chút thân liễu yếu thơ đào Dớp nhà Đến-Đỗi giấn vào tôi người Dớp là do lướt từ đôi “Dơ Nhớp” = Dớp, Dớp chuyển chú thay cho chỉ sự cố hoạn nạn của nhà. Đến-Đỗi là từ láy (lướt “Đến Nỗi” = =Đỗi, Đỗi dùng láy cho Đến thành từ láy Đến-Đỗi). Giấn là do lướt lấy dấu “Dẫn Đến” = Giấn ( do nhấn mạnh nên kéo dài D à Gi). Tôi Ngươi là làm tôi tớ cho người ta, lướt lấy dấu “Người Ta” = Ngươi. Lướt lấy âm vận và lướt lấy dấu nhằm tạo ra từ mới đơn âm từ hai từ đơn âm hay một câu dài bằng lướt từ đầu câu với từ cuối câu. Cách này làm cho câu văn Việt rút ngắn mà hiệu quả cao (nén thông tin nội dung). Ví dụ đi học bình dân thanh toán nạn mù chữ gọi bằng dùng chuyển chú là đi học “a-bê-xê” vì đó là ba chữ đầu của bẳng Alphabet, dùng chuyển chú chỉ trình độ sơ khai. Nhưng dân gian không gọi vậy mà gọi là đi học “i – tờ” vì chữ I và chữ T có thể lướt “T- I” = Tí và lướt “I - T” = Ít (học một tí ít thôi lúc mới bắt đầu đi học). Nói trình độ “a-bê-xê” thì tính hình dung không mạnh bằng nói trình độ “I-Tờ”. Câu 2 cũng chỉ rõ thời Nguyễn Du viết Kiều thì chữ quốc ngữ đã có lưu hành chí ít là trong công giáo, chữ Gi và chữ D là phát âm khác nhau và tiếp như vậy đến nay, như câu “Con nhà có Giáo dục” phát âm khác với câu “Con gà mẹ Dáo-Dác tìm gà con” (Dõià Dáo-Dác, NKN:Nhìn = Nhãn眼 = Nhòm = Dòm = Dõi = =Diểu 眺(nhìn xa)). Không đến nỗi GS Bùi Hiển phải làm dự án gộp Gi và D thành một Z cho tiện đánh máy. Ngay từ Giời (tiếng Hà Nội) cũng là do lướt “Giàng Trời” = Giời. Còn kẻ cho “Giời gửi sáng vào Trăng” = Giăng, nên có câu ca dao: Giời bao nhiêu tuổi Giời già. Giăng bao nhiêu tuổi gọi là Giăng non 899 Từ đây góc bể chân trời Nắng mưa Thui-Thủi quê người một thân Thui-Thủi là từ láy, do lướt “Thân Tủi” = Thủi 909 Trông vời gạt lệ phân tay Góc trời Thăm –Thẳm ngày ngày Đăm-Đăm Thâm (sâu) nở ra từ dính Thăm-Thẳm . Đăm Đăm là từ lăp do lướt “Đờ đẫn mà Ngắm” = Đăm, khác với “Chăm chú mà Ngắm” = Chằm Chằm 911 Nàng thì dặm khách Xa-Xăm Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây Xa Xăm là từ láy Xa và “Xa Lắm”= Xăm. 923 Thoắt trông Lờn –Lợt màu da Ăn gì cao lớn Đẫy-Đà làm sao Lạt nở ra từ dính Lờn-Lợt. Đầy nở ra từ dính Đẫy-Đà 1035 Bốn bề Bát Ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Để diễn tả cái rộng của mặt phẳng, thì từ Mặt nở ra từ dính Mênh-Mông (do lướt “Mặt Rộng” = Mông, “Mặt thênh Thênh” = Mênh). Kèm thêm từ Bát là con số 8 trên bản đồ Dịch lý chỉ phương Đông là biển rộng mênh mông, do vậy chữ Bát chuyển chú chỉ sự rộng (biển Đông còn gọi là Bát hải). Bốn bề Ngang đều rộng là “Ngang Bát” = Ngát, do vậy mà từ láy Bát Ngát nghĩa là vô cùng rộng, thành câu Rộng bát ngát, hay rộng mênh mông bát ngát. Câu có 6 chữ “Bốn bề bát ngát xa trông” [TQ phải dịch là: Hướng tứ chu viễn diểu, mãn nhãn thị nhất phiến liêu khoát đích向四周远眺,满眼是一片辽阔的] thành ra 13 chữ, dài gấp đôi câu Việt tức hiệu quả của câu chỉ bằng nửa của Việt, riêng chữ Liêu Khoát là rộng, phải thêm trợ từ Mãn Nhãn cũng chưa cảm thấy rộng bằng Bát Ngát 1057 Ngậm-Ngùi rủ bức rèm châu Cách lầu nghe có tiếng đâu họa vần Ngậm-Ngùi là từ dính nở ra do từ Người (có tâm sự buồn), do lướt “Người dấu lòng Thầm” = Ngậm, lướt “Người dấu lòng Tủi” = Ngùi, thành từ dính Ngậm-Ngùi [TQ dịch là Vọng cảnh thương hoài望景伤怀] 1077 Những là Lần-Lữa nắng mưa Kiêp phong trần biết bào giờ là thôi? Lâu nở ra từ dính Lần-Lữa, do lướt “ Lâu Dần” = Lần và lướt “Lâu Nữa” = Lữa. Từ 5 chữ “Lâu dần và lâu nữa” rút xuống còn 2 chữ “Lần-Lữa”, đấy là cách nén thông tin trong câu Việt. 1129 Hóa nhi thật có nỡ lòng Làm chi giày tía vò hồng lắm nau! Tác giả đã dùng lướt “Nỗi Đau” = Nau 1133 Tú bà tốc thẳng đến nơi Hăm Hăm áp điệu một hơi về nhà Chữ nho Dọa Hù吓唬 là chữ ký âm phương ngữ (dùng bộ khẩu 口chỉ ý là từ khẩu ngữ của phương ngữ, mượn âm chữ Hạ 下và chữ Hổ虎), Dọa Hù là một từ đôi, Dọa cũng là Hù (làm cho người khác sợ). Dọa láy thành Dọa Dẫm (lướt “Dọa Lắm” = Dẫm). Hủ nở ra từ dính Hằm-Hè. Phiên thiết Hằm = Hăm Hăm (dấu thanh điệu: 1= 0+0). Hăm Hăm cũng có nghĩa như Dọa-Dẫm, nhưng Hăm Hăm mạnh ý hơn, tốc độ hơn vì nó cận âm với Xăm Xăm (là đi nhanh). 1189 Buồng riêng riêng những Sụt-Sùi Nghĩ thân mà lại Ngậm-Ngùi cho thân Chữ riêng đầu là riêng của buồng, chữ riêng sau là riêng của nỗi mình đang Sa nước mắt. Sa nở ra từ dính Sụt –Sùi (do lướt “Sa như lụt” = Sụt, lướt “Sa như Vùi” = Sùi). Ngượng nỏ ra từ dính Ngậm-Ngùi (do lướt “Ngượng Thầm” = Ngậm, lướt “Ngượng Tủi” = Ngùi). Nếu là Buồn Tủi và Ngượng Tủi thì lướt thành Bùi Ngùi. 1219 Những nghe nói đã Thẹn-Thùng Nước đời lắm nỗi Lạ-Lùng Khắt-Khe Lạ-Lùng là từ láy. Lạ và “Lạ Hung” = Lùng. Từ Khế (契约khế ước) nở ra từ dính Khắt-Khe 1299 Miệt- Mài trong cuộc truy hoan Càng quen thuộc nết càng Dan-Díu tình Miết nở ra từ dính Miệt Mài. Dính nở ra từ dính Dan-Díu 1335 Bình khang Nấn-Ná bấy lâu, Yêu hoa yêu được một màu điểm trang Nại 耐(nhẫn nại)nở ra từ dính Nấn-Ná 1473 Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Đào đà phai thắm, sen vừa nẩy xanh Mảng do lướt “Mải Đang” = Mảng 1543 Lại còn Bưng-Bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười Chữ Bế 閉nở ra từ dính Bưng-Bít 1565 Buồng đào khuya sớm Thảnh-Thơi Ra vào một mực nói cười như không Chữ Thư (thư dãn) nở ra từ dính Thảnh-Thơi 1717 Bàng Hoàng dở tỉnh dở say Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên lầu Bàng Hoàng là từ láy: do lướt “Bất Đang”= Bàng (đang lúc không ngờ), lướt “Hốt Đang” = Hoàng (đang lúc bỗng chợt).Lướt này đã chuyển khoăng khắc thời gian thành tâm trạng con người là Bàng Hoàng. [TQ dịch là: “Không ngờ cô ta chợt tỉnh lại mở to đôi mắt”不料她忽然醒过来睁开两眼bất liệu tha hốt nhiên tỉnh qua lai tranh khai lưỡng nhãn]. Mảng là do lướt tiếng “Mắng Vang” = Mảng, mắng la thúc giục ai đó mà vang tiếng lên, gọi là “Mắng Vang”= =Mảng. Câu không nêu chủ ngữ, nhưng trong ngữ cảnh này hiểu được là chủ đang mắng gọi đầy tớ. 1719 Ả hoàn trên dưới giục nhau Hãi hùng nàng mới theo sau một người Hãi Hùng là từ láy: Hãi và “Hãi Hung” = Hùng, ghép lại thành Hãi Hùng chỉ cái hãi xuất hiện và vụt lớn nhanh, đó là Hãi Hùng [TQ dịch là: Tha cực độ hoảng trương 她极度慌张 (Hãi Hùng có 2 chữ, Cực Độ Hoảng Trương mất 4 chữ)] 1725 Gạn-Gùng ngọn hỏi ngành tra Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa Gạn Gùng là từ láy cho từ Gạn. Từ Gạn đã là một nén thông tin khá lớn do lướt “Gợi và hỏi Vặn” = Gạn, thường dùng khi tra xét hỏi cung, mở lớn lùng sục xoi mói hơn nữa là lướt “Gạn Lùng” = Gùng, thành ra câu 5 chữ “Gạn và Gạn lùng” qua thủ thuật lướt mà chì còn 2 chữ Gạn-Gùng, nén đủ nội dung thông tin dài. [TQ dịch từ Gạn- Gùng là: Truy căn cứu để phản phúc bàn vấn 追根究底反复盘问 (hỏi tính toán lật đi lật lại, đuổi gốc moi rễ)] 1725 Bất tình nổi trận mây mưa Mắng rằng: “Những giống bơ thờ quen thân Con này chẳng phải thiện nhân Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” Bơ Thờ là tác giả nói tắt câu thành ngữ sống “cù bất cù bơ thân nhờ thân gửi”. Cù Bất nghĩa là côi cút (Cù) không nơi nương tựa (Bất) Cù Bơ dùng láy cho Cù Bất. Thân Nhờ Thân Gửi nghĩa là đem than đi sống nhờ sống gửi nhà người. Tác giả đã dùng qui tắc nói vo, gạt nbor đầu đuôi chỉ lấy khúc giữa là Bơ và Thân Nhờ (đồng thời lướt “Thấn sống Nhờ” = Thờ, thành ra câu thành ngữ chỉ còn là hai tiếng Bơ Thờ. “Những giống bơ thờ “ là những giống sống cù bất cù bơ than nhờ than gửi. Hai câu 1727 và 1728 [TQ dịch là:Nị quyết bất thị lương gia nữ tử. Nị thị dã nữ nhân, quán ư tứ xứ du đãng, nị bất thị đào tỳ dã thị cá khỉ phu tái giá đich bà nương你决不是良家女子。你是野女人, 惯于四处游荡,你不是逃婢也是个弃 夫再嫁的婆娘(mày chẳng phải con nhà tử tế, chỉ là đồ quen sống trôi dạt, mày không là kẻ nô tỳ trốn chạy thì cũng là kẻ gái già bỏ chồng tái giá)]. Tác giả chỉ dùng có hai động từ “trốn và “lộn” đã nói đủ hết tư cách gian xảo của cái ‘con này” trong câu lục bát có 14 chữ (bản dịch đã dùng 34 chữ). ] 1733 Đã đem mình bán cửa tao Lại còn Khủng-Khỉnh làm cao thế này! Chữ Khánh chỉ cái Khánh bằng đá hay bằng ngọc là vật trang trí cao quí, từ Khánh còn chuyển chú để chỉ sự vui mừng. Từ Khánh nở ra từ dính Khủng-Khỉnh nói ý làm cao, ra giá, do từ dính gồm hai tiếng âm dương nên Khủng-Khỉnh hàm ý thách giá thấp cao. 1763 Phận sao bạc chẳng vừa thôi Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan Khăng Khăng là từ láy cho từ Khép (buộc chặt), do từ Khép Thằng nghĩa là dây thừng để trói, đã được lướt “Khép Thằng” = Khăng, thành từ láy Khăng Khăng ý nói buộc rất chặt không gỡ ra được. 1779 Lĩnh lời nàng mới lựa dây Nỉ-Non Thánh-Thót dễ say lòng người Dây đàn nó Nói nở ra từ dính Nỉ-Non, dây đàn nó Thốt nở ra từ dính Thánh-Thót. 1783 Cửa người đày đọa chút thân, Sớm Năn-Nỉ bóng, đêm ân hận lòng Năn-Nỉ là từ dính do Nói nở ra: nói nhiều là lướt ‘Nói Nhặn” = Năn, nói xin là lướt “Nói Kì” = Nỉ (Kì đảo祈祷nghĩa là xin cầu cho được), thành từ dính Năn-Nỉ. Ân Hận là từ láy, lướt “Úc Hận” = Ân, Úc Hận nghĩa là Hận sâu, rồi lại còn Hận nữa, nên láy thành từ Ân Hân. Ăn Năn khác xa nghĩa Ân Hận, nhưng do cận âm nên nhiều người thường lầm lộn, đáng lý cần nói Ăn Năn thì lại lầm sang dùng từ Ân Hận.[ TQ dịch: Úc hận và ai oán懊恨与哀怨 ] 1789 Lần Lần tháng trọn ngày mưa Nỗi gần nào biết đường xa thế này Thủ thuật lướt “Lâu Dần” “Lâu Dần” = Lần Lần (4 chữ còn 2 chữ) 1851 Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn Lướt “Hồn Loạn”= Hoán, Tán Hoán nghĩa như Mất Hồn hay gọi là Choáng Váng. Tê Mê là đứng sững mê mẩn [TQdịch: Tâm lý nhất phiến mê võng心里更觉一片迷惘]. 1867 Lòng riêng Tấp-Tểnh mừng thầm Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay Chữ Tẩu 走(đi)nở ra từ dính Tấp-Tểnh (bắt đầu bước nhen nhúm lòng hứng khởi) 1959 Chút than Quằn –Quại vũng lầy Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cong nở ra từ dính Quằn-Quại 3235 Một nhà phúc lộc gồm hai Nghìn năm Dằng-Dặc quan giai Lần-Lần Dài nở ra từ dính Dằng-Dặc. Lướt “Lâu Dần”’Lâu Dần” = Lần Lần Bây giờ chúng ta đọc trong <truyện Kiều>: (qui tắc tạo từ được viết bằng chữ nghiêng) 15 Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị , em là Thúy Vân Đây là một cặp sinh đôi (vì cả hai đều là “đầu lòng”. Nay dùng từ “sinh đôi” là chỉ cùng thời điểm ra đời. Xưa dùng từ loán sinh (孿生)là chỉ cùng thời điểm rụng trứng, tức tuổi đời sẽ tính cả thời gian trong bụng mẹ. Loán là do lướt Lưỡng Noãn = Loán. Lưỡng noãn là hai noãn bào cùng rụng một lúc. Nhưng Noãn và Trứng không hoàn toàn đồng nghĩa nhau dù xuất xứ do một. Noãn là do lướt “Nội Hoàn” = Noãn 卵chỉ cái viên tế bào tròn đang ở bên trong, chờ để được thụ tinh. Trứng là cái hình thành sau khi noãn bào đã được thụ tinh, nó hình bầu, chữ nho viết là Đán蛋, mọi quả trứng do một con gà sinh ra đều bằng nhau, từ Đán nở ra từ dính Đều-Đặn. Quan niệm của Mẹ Việt là khi sinh đôi thì đứa ra trước làm em vì khi còn trong bụng mẹ lúc sắp ra đời chỉ có một cửa, chị đã nhường cho em được ưu tiên ra trước, đó là do tư tưởng đạo hiếu đễ đã được mẹ ru dạy cho học từ khi còn trong bụng mẹ, và tuổi đời của con người thì tính cả tuổi mụ. 25 Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Nang nghĩa là da trong qui tắc nôi khái niệm (NKN): Da = Giỏ = Vỏ = Mo = Màng = Nang = Bàng = Bao = Bọc = Bì = Bị đều là những đồ gói. Mo bọc buồng nụ cau gọi là mo nang. Nang chuyển chú thành cái bao đựng. Nang còn chuyển chú thành từ chỉ cuốn sách tra cứu gọi là cuốn Cẩm Nang. Nang được mượn sang tiếng Mã Lai chuyển chú để chỉ cây cau là “pê nang”, Nang được mượn nguyên vẹn sang tiếng Thái để chỉ da. Bàng là cái bao đựng lớn đan bằng cói. Bị là túi xách nhỏ đân bằng cói. Màng là cái rất “Mỏng Nang” = =Màng = “Màng Bạc薄” = Mạc 幕 (QT lướt). Nở nang nghĩa đen là nở da, da căng mịn, nhìn đẹp mắt. Từ ghép Nở Nang đã được chuyển chú thành nghĩa là tươi tắn (tươi lắm, từ Lắm viết bằng chữ Nhiên 然, Nhiên = Nhặn, lướt “Tươi Nhặn” = Tắn). Nét ngài nở nang nghĩa là dáng người tươi tắn. Dáng người nhìn tươi tắn vì có vú mông tròn trịa, hình ảnh thực dục “Vú mông tròn trịa” đã được tả bằng cụm từ chuyển chú rất thanh tao là “Khuôn trăng đầy đặn”, đẹp và đầy như trăng tròn vậy, nhưng không dùng từ vầng trăng, vì từ vầng chỉ nêu cái vành sáng trần trụi (Vầng Trăng tiếng Lào gọi là Viêng Chăn, thành tên cho thủ đô Lào), ở đây dùng từ khuôn để nói ý là vú mông đã được khuôn dưới lớp áo váy nền nã và kín đáo thể hiện Vân rất trang trọng (coi trọng trang điểm), khuôn cũng nói lên cái tròn (nếu vuông thì đã dùng từ khung hay khoang), khuôn cũng còn nói lên khuôn phép chỉ ý là con người có giáo dục từ nền nếp gia phong. 51 Tà tà bóng ngả về tây Chi em Thơ-Thẩn dan tay ra về Đi chậm là Thả bước [TQ dịch là Mạn bộ 慢步]. Thả nở ra các từ dính Thơ-Thẩn, Thong-Thả, Thủng-Thẳng, Lững-Thững để dùng tùy ngữ cảnh. 63 Nổi danh tài sắc một thì, Xôn-Xao ngoài cửa hiếm gì yến anh. Xướng (nói) nở ra từ dính Xôn-Xao (do lướt ‘Xướng Ngôn” = Xôn, lướt “Xướng ồn Ào” = Xao). Nữ Xướng ngôn viên (ví dụ của BNG) có thể gọi là “bà Xôn”, bà Xôn nói rất Đúngà Điềm- Đạm (biết nói ngọt nhạt) và rất Đúngà Đĩnh-Đạc (biết nói cương quyết) 81 Lòng đâu sẵn mối thương tâm Thoắt nghe Kiều đã Đầm Đầm châu sa Đầm Đầm là từ lặp. Lướt từ lặp “Đầm Đầm” = Đẫm, 1+1=0 (đúng qui luật cộng nhị phân biến đổi dấu thanh điệu) 85 Phũ –Phàng chi bấy hóa công! Ngày xanh Mòn-Mỏi má hồng phôi pha Phũ –Phàng [ TQ dịch là Tàn khốc vô tình 残酷无情 ] . Chứng tỏ từ Phũ –Phàng không có trong Hán ngữ. Phũ Phàng là một từ láy, được tạo ra do từ Vũ Phu chỉ hành động thô ác của hạng chồng vũ biền. Vũ Phu lướt ngược là “Phu Vũ” = Phũ, láy thêm bằng cách lướt “Phũ với Nàng” = Phàng, thành từ láy Phũ-Phàng. 95 Lầm dầm khấn vái nhỏ to, Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra. Lầm dẩm là từ láy: do lướt “Lời nói thầm” = Lầm, lướt “Dặng Thầm” = Dầm. Dặng nghĩa là đánh tiếng. NKN: Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý) = Dắngà Dùng-Dắng (đánh tiếng nọ kia) = Đằng hắng (đánh tiếng, tiếng Chăm) = Đèng héng (đánh tiếng, giọng Quảng Nam) = E hèm (đánh tiếng) 101 Lại càng Mê Mẩn tâm thần Lại càng đứng lặng Tần Ngần chẳng ra Mê Mẩn là từ láy:Mê và lướt “Mê Thần” = Mẩn, trong câu đã nói rõ thêm là “mê mẩn tâm thần”. Tần Ngần là từ láy, do lướt “Tê Thần” = Tần. lướt “Ngơ Thần” = Ngần [ TQ dịch là Tâm thần biến đắc si mê心神变得痴迷] 169 Dưới cầu nước chảy trong veo Bên cầu tơ liễu bóng chiều Thướt-Tha Thân (mình) nở ra các từ dính: Thon-Thả (vóc dáng gọn gàng), Thộn-Thện (béo và xộc xệch vụng về), Thòng-Thượt (dáng lười biếng). Thướt –Tha (dáng đẹp mềm mại) 173 Gương nga Chênh Chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân. Chênh Chếch là từ láy. Cặp đối Âm/Dương = Nghiêng/Ngay = =Chênh/Chính = Chành/Chân= Chậm/Chóng = Móm/Mạnh = 0/1 185 Chênh Chênh bóng nguyệt xế mành Tựa ngồi bên triện một mình Thiu -Thiu Chênh Chênh là từ lặp, nghĩa là Nghiêng, nghịch với Chính (là Ngay). Các cặp từ đối1/0 = Ngay/ Nghiêng = Chính/Chênh= =Chân/Chành (hàng Chành là hàng Nhái) . Từ lặp Chênh Chênh mà lướt thì thành lướt từ lặp “Chênh Chênh” = Chếnh, dấu 0+0=1 . Chếnh có nghĩa là nghiêng mạnh hơn, tức lướt lấy dấu “Chênh Lắm” = Chếnh, Chếnh nghĩa là sắp đổ, như người say rượu Chếnh-Choáng. Thiu-Thiu là ngủ gật, từ dính nở ra do từ hàn lâm Thùy 睡nghĩa là Ngủ (Ngủ = Nghỉ , Nghỉ là Hiu, mà lướt “Thùy 睡Hiu休” = Thiu = Thiu-Thiu), Thùy 睡còn nở ra từ dính Thiêm-Thiếp nghĩa là ngủ mê mệt. Hán mượn chữ nho Thùy睡và đọc là [Shùi] nên tiếng Việt mượn lại “Suây” để từ “Suây” nở ra từ dính Say -Sưa nghĩa là ngủ giấc nồng. 187 Thoắt đâu thấy một tiểu kiều Có chiều phong vận, có chiều thanh tân Sương in mặt tuyết pha thân Sen vàng Lững-Thững như gần như xa Từ dính Lững –Thững [đã đươc TQ dịch là Mạn Bộ 漫步(đi chầm chậm)] mà tiếng Việt gọi là Thả bước (đi từ từ từng bước). Động từ Thả đã nở ra các từ dính Thơ-Thẩn, Thong - Thả, Thủng -Thẳng, Lững –Thững diễn tả nhiều sắc thái của nhiều ngữ cảnh. 191 Rước mừng đón hởi Dò-La: “Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?” Dò-La la từ dính nở phái sinh do từ Dạm (hỏi ướm ý). Dò-La [được TQ dịch là 偏问道 (thiên vấn đạo – nói hỏi nọ kia ngoài rìa ] 197 Mấy lòng hạ cố đến nhau Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Hạ tứ ở đây nghĩa là ban cho kẻ dưới đất, chữ Tứ 賜nghĩa là cho đi, như chữ Tứ賜là chữ kiểu hội ý, hiểu nghĩa bằng lướt “Dịch 易Bối貝” = Dội, đồng nghĩa với lướt “Tưới Chứ!” = Tứ 217 Một mình Lường-Lự canh chầy Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh Canh chầy là canh cuối cùng của đêm (canh đầu gọi là canh Chớm, cặp đối D/ Â = Chớm/Chầy, thời gian đêm Chạy từ Chớm đến Chầy là hết đêm). Cả đêm không ngủ vì Lo. Lo nở ra từ dính Lường-Lự [ được TQ dịch là 思量 tư lượng (nghĩ ngợi và so đo ) ]. Ở đây là do từ Lo nở ra từ dính Lường-Lự, Lường là do lướt “Lòng Tưởng” = =Lường (so đo), Lự là do lướt “Lòng Tư” = Lự (nghĩ ngợi). Những từ lướt nhằm nén thông tin: lướt câu “Lo và Nom” = Lỏm, thành từ Lo Lỏm nghĩa là lo và dự kiến làm sao cho đúng. 221 Nỗi riêng lớp lớp sóng giồi Nghĩ đòi cơn lại Sụt-Sùi đòi cơn Hình thức động của sóng nước là nó cứ Giáng xuống và Nổi lên liên tục, nên qui tắc lướt đã giúp nén thông tin thành một từ do lướt “Giáng và Nổi” = Giồi. Hai từ Tiếng Khóc chữ nho viết là Thanh Khốc, cái Thanh ấy trong trường hợp khóc nhỏ tiếng, trong cảnh cô đơn, đã nở ra từ dính Thút-Thít là hình dung từ cho động từ khóc, lắm khi từ dính Thút- Thít cùng dùng chuyển chú thay cho động từ Khóc. Một Thân cô đơn thì cảm thấy thật Tủi phận, nén thông tin bằng lướt “Thân Tủi” = Thủi. Từ Thân là một thân cô đơn đã nở ra từ dính Thui-Thủi diễn tả được thông tin dài là cô đơn và tủi phận buồn. Buồn tiếng hàn lâm là Sầu愁, Sầu dẫn đến Khóc. Sầu thì tủi nên lướt “Sầu Tủi” = Sùi. Vậy là từ Sầu có cơ duyên mà nở ra từ dính Sụt-Sùi làm hình dung từ cho động từ Khóc, hoặc từ dính Sụt – Sùi cũng được dùng chuyển chú thay cho động từ khóc, nhưng hiểu được là khóc vì sầu tủi (thổ lộ lòng) khác với Thút-Thít (chỉ tả cái tiếng khóc nhỏ nhẹ : lướt “Thanh chút Chút” = Thút và lướt “Thanh ít Ít” = Thít). Qua câu này thấy được thời Nguyễn Du đã có chữ quốc ngữ lưu hành trong giáo dân rồi, phụ âm “Gi” và phụ âm “D” phát âm khác nhau, từ “Giáo” dục phát âm khác với gà mẹ “Dáo”-dác (Dõià Dáo-Dác) tìm con. Nên không thể thay gộp Gi và D thành một Z cho tiện đánh máy như dự án của GS Bùi Hiển được. Từ Sóng Giồi (rất ngắn)[được TQ dịch (quá dài) là “cuồng đào ban dõng khởi狂濤般涌起” (sóng cuồng như dòng nổi)], chứng tỏ ngôn ngữ Việt có tính hiệu quả cao trong diễn đạt, không cần phải nói dài dòng. Những từ dân gian đã làm mầm cho chữ Nho: Biến có sóng gọi là Ba 波 (do lướt “Biển hờn như ăn Vạ” = Ba), Luồng Lạch có sóng gọi là Lãng浪 (do lướt “Lạch thì nước lang Thang” = Lãng), Ao có sóng gọi là Đào濤 (do lướt “Động nước trong Ao” = Đào), chữ nào chỉ sóng cũng đều có bộ thủ nước(氵), dùng từ đôi Ba Lãng波浪, Ba Đào波濤, Lãng Đào浪濤 chỉ ý nhiều sóng. Đòi nghĩa là tưởng tượng, Cơn nghĩa là vận hội, do lướt “Cảnh Lớn” = Cơn, là hoàn cảnh gặp phải: Gặp cơn khốc liệt can qua. Đòi mình ứng xử phải ra thế nào. 225 “Cớ sao Trằn –Trọc canh khuya Màu hoa lê hãy Dầm-Dề giọt mưa?” Động từ Trở mình đã nở ra từ dính Trằn-Trọc. Do lướt “Trở Lăn” = Trằn (lật phải, lật trái), lướt “Trỏ Dọc” = Trọc (ngồi dậy vẫn không ngủ được lại nằm xuống, rồi lại ngồi dậy). [ TQ dịch động từ Trở mình là 反侧phản trắc (lật nghiêng) và không có từ để dịch nổi hình dung từ Trằn –Trọc nên phải phiên âm bằng cách mượn chữ nho cận âm là hai chữ 辗转Triển Chuyển, chữ Triển辗vỗn nghĩa là xay nghiền, chữ Chuyển 转là đưa đi, nên chữ Triển Chuyển chuyển chú thành nghĩa là Gián tiếp chuyển đi. Do âm nó giống từ Trằn Trọc của tiếng Việt nên khi dịch đã dùng nó làm hình dung từ cho động từ Phản Trắc (lật nghiêng) thành cụm từ Triển Chuyển Phả Trắc 辗转反侧để dịch mỗi một từ dính tiếng Việt là Trằn-Trọc hay từ Trăn Trở đã chuyển chú thành nghĩa là không ngủ được ]. Dọt nước mắt đọng trên mặt như dọt mưa đọng trên hoa lê. Từ Dọt đã nở ra từ dính Dầm-Dề biểu ý nó còn đẫm trên mặt chứ chưa trôi đi. 239 Ngoài song Thỏ -Thẻ oanh vàng Nách tường bông liễu bay ngang trước mành Thốt (hót) nở ra từ dính Thỏ-Thẻ 245 Chàng Kim từ lại thư song Nỗi nàng Canh-Cánh bên lòng biếng khuây Canh-Cánh là từ láy của từ Cạnh. Do lướt lấy dấu “Cạnh Bên” = Canh, “Cạnh Bám” = Cánh tạo thành từ láy Canh-Cánh để nhấn mạnh ý là nỗi nhớ nàng luôn cạnh lòng mình 251 Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao Mặt tơ tưởng mặt, lòng Ngao-Ngán lòng Người (về tâm trạng) nở ra từ dính Ngao-Ngán: lướt “Người phiền Não” = Ngao, lướt “Người buồn Chán” = Ngán, thành từ Ngao-Ngán [ TQ dịch“Tâm tình rất buồn chán 心情多么烦厌 ”] 259 Bâng Khuâng nhớ cảnh nhớ người, Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi Bâng Khuâng là từ láy do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng (tâm trạng buồn và nghĩ khó xử cứ dâng lên vì nỗi nhớ trong lòng) 265 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều Xăm-Xăm đè nẻo Lam kiều lần sang Đi nho viết bằng chữ Khứ去, Hán ngữ mượn chữ nho đọc chữ Khứ 去là Xuy, mượn lại sang tiếng Việt từ Xuy nở ra từ dính Xăm-Xăm nghĩa là đi nhanh, Lệ-Xệ nghĩa là đi chậm, Cà-Xiểng nghĩa là đi bước thấp bước cao. Lần nghĩa là đi chậm thận trọng, do lướt “Lộ dần Dần” = Lần. Lộ là Lối đi, đã chuyển chú thành thay cho động từ đi, nói Lộ qua nhà anh nghĩa là đi ghé qua nhà anh. 301 Tan sương đã thấy bóng người Quanh tường ra ý Tìm-Tòi Ngẩn – Ngơ Từ dính Tìm –Tòi do nở ra từ chữ Tầm尋, Hán ngữ đọc chữ Tầm尋 là “Xuýn尋”. Mượn lại sang tiếng Việt, từ “Xuýn” lại nở ra từ dính Xăm-Xoi đồng nghĩa với Tìm- Tò, tuy sắc thái hơi khác. Từ dính Ngẩn- Ngơ được nở ra do chữ Ngu愚 [ TQ dịch là Mang Nhiên茫然 ( “máng rán茫然”: mù tịt, không hay biết) ]. 325 Xương mai tính đã rũ mòn Lần-Lừa ai biết hãy còn hôm nay Lâu nở ra từ dính Lần-Lừa (do lướt “Lâu Dần” = Lần và “Lâu Nữa” = Lừa). 331 Ngần –Ngừ này mới thưa rằng Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong Lướt “Ngừng Chờ” = Ngợ. Ngợ nở ra từ dính Ngần –Ngừ 347 Lặng nghe lời nói như ru Chiều lên dễ khiến nét thu Ngại –Ngùng Nghi nở ra từ dính Ngại-Ngùng 359 Một lời gắn bó tất giao Mé sau dường có Xôn-Xao tiếng người Nói đồng nghĩa Xướng唱. Xướng nở ra từ dính Xôn –Xao do lướt “Xướng Ngôn” = Xôn, “Xướng ôn Ào” = Xao [ TQ có mượn dùng chữ Xướng 唱nhưng không nở được từ dính Xôn-Xao, phài dịch từ Xôn-Xao là “Zài shuohuà在说话”- Tại thuyết thoại (đang nói chuyện) ]. Nữ Xướng Ngôn viên BNG có thể gọi là bà Xôn, lời nói bà ta Đúng à Điềm-Đạm ( tức biết nói ngọt nhạt) và Đúng à Đĩnh-Đạc (tức biết nói cương quyết). 373 Tưng bừng Sắm-Sửa áo xiêm Biện dâng một lễ xa đem tấc thành Từ dính Sắm-Sửa là nở ra do từ “Suan穿” của Hán ngữ (nghĩa là mặc quần áo). 377 Thời trân thức thức sẵn bày Gót sen Thoăn-Thoắt dạo ngay mé tường Thoi (chuyển động rất nhanh) đã nở ra từ dính Thoăn-Thoắt để chỉ tốc độ thao tác. Thoăn –Thoắt lại chuyển chú thành trợ động từ chỉ sự chuyển động nhanh.Thoi còn nở ra từ dính Thấm-Thoắt chỉ tốc độ thời gian trôi nhanh. 379 Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông Sẽ là Se Sẽ = Khe Khẽ. Dặng nghĩa là đánh tiếng, do NKN: Nói = =Na = Và 话 = Viết曰 = Vân 云 = Van = Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý). Dặng = Đằng Hắng (tiếng Chăm) = =Đèng Héng (tiếng Quảng Nam) = E Hèm (đánh tiếng). “Tiếng Việt là mẹ các ngữ”. NKN mặt: Mặt = Miện = Diện 面 = Da = Nạ (tiếng Lào) = Ná (tiếng Tày = Nang (tiếng Thái) = Màng = Mạc幕 = “Mạc Diện” = Mian面(tiếng Hán). Tiếng Tày mặt đen là Ná Nhèm, tiếng Việt lại có cụm từ mặt đen Nhẻm. NKN: Nhẻm = Nhèm = Lem = Lọ = Nhọ = Tro. Tro là màu Tro tức đen, chuyển chú thành danh từ Tro chỉ tro bếp. 381 Trách lòng Hờ -Hững với lòng Lửa hương chốc để Lạnh-Lùng bấy lâu Dừng nghỉ *Hưu) ở nơi (Nẻo) xa, gọi lướt “Hưu Nẻo” = Hẻo, muốn tránh xa người khác. Hẻo nở ra từ dính Hờ-Hững. Lướt “Lẩn Tránh” = Lánh, như muốn trốn khỏi người khác. Lánh nở ra từ dính Lạnh-Lùng. Tự trốn riêng ra nơi Hẻo Lánh là thái độ Hờ-Hững và Lạnh-Lùng với cộng đồng. 431 Cửa ngoài vội rủ rèm che Xăm –Xăm băng lối vườn khuya một mình Chữ Khứ 去nghĩa là đi, Hán ngữ đọc chữ Khứ là “Xuy去”. Xuy sang tiếng Việt nở ra từ dính Xăm-Xăm là đi nhanh, Lệ-Xệ là đi chậm, Cà-Xiểng là đi bước thấp bước cao. Mà “Xuy去” trong Hán ngữ không phái sinh ra được từ nào có phụ âm “X” hay âm vận “Uy” mà mang nghĩa là Khứ cả. 433 Nhặt thưa gương giọi đầu cành Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh Hắt-Hiu NKN đen là: Dơ = Ô乌 = Ố污 = “Hoen Ô污” = Hồ = “Đen Ố乌” = =Đồ. Hồ nở ra từ dính Hắt-Hiu (chỉ ánh sáng mờ mờ). “Muội Dơ” = =Mơ. Mơ Hồ hay Hồ Đồ đều là những từ đôi chỉ sự đen, không rõ ràng, không minh bạch. Hán ngữ ký âm từ Mơ Hồ là “Múa Hú” viết bằng hai chữ nho cận âm là chữ Mó摸 (sờ nắm) là chữ hình thanh (hình là cái Tay扌, thanh là chữ Mô 莫tức không có- tiếng Nghệ) và chữ Hồ 糊(chỉ hồ dán làm bằng bột) là chữ hình thanh (hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ 胡là chữ hội ý chỉ “Cổ 古Nhục肉” = Cục và “Nhục 肉Cổ古” = Nhô là cái cục nhô dưới cổ con bò còn gọi là yếm bò). Thành ra chữ “Múa Hú模糊” của Hán ngữ dùng chỉ ý không rõ ràng , không minh bạch chỉ là mượn chữ để ký âm na ná từ Việt là từ Mơ Hồ. Từ Hồ Đồ cũng vậy, chỉ là mượn chữ nho cận âm để làm ký âm, chữ Hồ 糊là hồ dán, chữ Đồ 涂là bôi tô màu, thành âm na ná là “Hú Thú糊涂” ký âm hai tiếng Hồ Đồ nghĩa là không rõ ràng. 435 Sinh vừa tựa án Thiu-Thiu Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê Chữ Thùy 睡là ngủ nở ra từ dính Thiu-Thiu là ngủ gật [Hán ngữ mượn chữ Thùy睡 dùng với nghĩa là ngủ, nhưng lại không nở được từ dính Thiu-Thiu mang nghĩa ngủ gật. Hán ngữ gọi ngủ gật là “Da Dun打盹”] 439 Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân Mơ-Màng Chữ Mộng夢 nở ra từ dính Mơ-Màng. Bâng Khuâng là từ láy chỉ tâm trang buồn và khó xử: do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng 449 Vầng trăng Vằng-Vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song Từ Vàng nở ra từ dính Vằng-Vặc. Màu vàng của trăng rất lâu dài nên đã mượn từ dính Dằng-Dặc (của Dài) để làm thành lướt ”Vàng Dằng”= Văng và lướt “Vàng Dặc” = Vặc 483 Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau Sầm-Sập như trời đổ mưa Động từ Sa mưa, từ Sa nở ra từ dính Sầm-Sập. 485 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ Khiến người ngồi đó mà Ngơ-Ngẩn sầu Ngẫm nở ra từ dính Ngơ-Ngẩn (“Ngẫm Sơ”=Ngơ, “Ngẫm Dần” = =Ngẩn). Ngẫm Sơ cái sầu và Ngẫm Dần cái sầu thành ra Ngơ-Ngẩn sầu [TQ dịch: “chóu chàng惆怅, máng rán茫然”(rầu rĩ, mù tịt)] 499 Sóng tình dường đã xiêu xiêu Xem trong Âu-Yếm có chiều Là-Lơi Yêu nở ra từ dính Âu-Yếm. Lỏng nở ra từ dính Lả-Lơi (do lướt “Lỏng Rã” = Lả. lướt “Lỏng Rời” = Lơi) [TQ dịch từ Lả-Lơi là Phóng túng - “fàng song放送” (buông lỏng)] 513 Mây mưa đánh đổ đá vàng Qúa chiều nên đã Chán-Chường yến oanh Chê nở ra từ dính Chán-Chường [ TQ dịch là 厌倦的心理 ngán quyển đích tâm lý]. 515 Trong khi chắp cánh liền cành Mà lòng Rẻ-Rúng đã dành một bên Dễ nở ra từ dính Rẻ Rúng (Khinh thị, Khi dễ) 517 Mái tây để lạnh hương nguyền Cho duyên Đằm-Thắm ra duyên Bẽ - Bàng Đậm nở ra từ dính Đằm-Thắm. Bẽn nở ra từ dính Bẽ-Bàng 547 Tai nghe ruột rối Bời-Bời Ngập -Ngừng nàng mới giải lời trước sau Ngôn nở ra từ dính Ngập-Ngừng. Nói mà cứ ‘Ngôn Lấp” = Ngập, “Ngôn Dừng” = Ngừng (lướt) thì gọi là nói Ngập –Ngừng [TQ dịch là Do Dự犹豫 ] 559 Dùng-Dằng chưa nỡ rời tay Vừng đông đâu đã đứng ngay nóc nhà Dở (đang dở câu chuyện) nở ra từ dính Dùng –Dằng 569 Nàng còn đứng lặng hiên tây Chín hồi Vấn-Vít như vầy mối tơ Vướng nở ra từ dính Vấn-Vít 571 Trong chừng khói ngất song thưa Hoa trôi dạt thắm. liễu Xơ-Xác vàng Chữ Tiêu điều萧条Hán ngữ đọc là Xiao (nghia là khô queo). Chuyển sang Việt từ “Xiao” nở ra từ dính Xơ-Xác 575 Hàn huyên chưa kịp Dã-Dề Sai nha bỗng thấy bốn bề Xôn-Xao Dắng (lên tiếng) nở ra từ dính Dã –Dề. Xướng (nói) nở ra từ dính Xôn-Xao. 639 Đắn-Đo cân sắc cân tài Ép cung câm nguyệt thử bài quạt thơ Đạc nở ra từ dính Đắn –Đo [TQ dịch là Điểm Lường掂量] 641 Mặn nồng một vẻ một ưa Bằng lòng khách mới tùy cơ Dăt-Dìu Gía (giá trị) nở ra từ dính Dặt – Dìu. Dặt –Dìu lại chuyển chú thành nghĩa là trả giá 647 Cò- Kè bớt một thêm hai Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm Nói = Na = La = Ca = Coỏng (tiếng Quảng Đông, Đài Loan) = Kêu -Kêu nở ra từ dính Cò-Kè. Cò-Kè chuyển chú thành trả giá bớt một thêm hai, tức lướt “Kêu To” = Cò, lướt “Kêu Bé” = Kè. Cò- Kè là từ dính, mọi từ dính đều không thể đảo ngược vị trí hai tiếng, mà tách hẳn hai tiếng ra thì nó mất nghĩa. Cò-Kè không phải là con cò và cái bờ kè. 697 Phận rầu dầu vậy cũng dầu Xót lòng Đeo-Đẳng bấy lâu một lời Đợi nở ra từ dính Đeo-Đẳng 699 Công trình kể biết mấy mươi Vì ta Khăng-Khít cho người Dở -Dang Khép nở ra từ dính Khăng-Khít. Dừng nở ra từ dính Dở- Dang (“Dừng Chờ” = Dở, “Dừng giữa Đàng” = Dang) [TQ dịch là “nhân duyên trung đồ đoạn tống姻缘中途断送”(nhân duyên giữa chừng ngừng đi tiếp)]. Sản phẩm đang trong chu trình gia công gọi là sản phẩm dở dang. Sản phẩm đã gia công xong gọi là thành phẩm. 701 Thề hoa chứa ráo chén vàng Lỗi thề thôi đã Phụ-Phàng với hoa Từ láy Phụ-Phàng (lướt “Phụ tình Chàng” = Phàng).Phụ Phàng (phụ tình với chàng). Khác với Phũ Phàng là do Vũ Phu nói lái là Phũ Vu, tức “Phũ với Nàng”= Phàng, thành từ láy Phũ-Phàng (hành động bạo lực của chồng đối vời vợ). 711 Nỗi riêng riêng những Bàn Hoàn Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn Bàn là nói lướt “Bất An” = Bàn. Bàn Hoàn là bất an hoàn toàn. 713 Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân Dưới đèn ghé đến ân cần Hỏi Han Hỏi Han là từ láy. Han là do lướt “ Hỏi huyên Hàn” = Han 719 Rằng lòng đương Thổn-Thức đầy Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong Thương (mà đau) nở ra từ dính Thổn-Thức [TQ dịch là Uất Muộn ”Yu men郁闷”] 721 Hở môi ra cũng Thẹn -Thùng Để lòng thì phụ tấm lòng với ai Thẹn -Thùng là từ dính do tâm trạng Thương. Thương cho nên Bẽn, lướt “Thương Bẽn” = Thẹn, vì Thẹn nên muốn lánh không nói đến tức “Thẹn thành ra lạnh Lùng” = Thùng, tạo ra từ Thẹn-Thùng [ TQ là “cán kui惭愧”, xìu kui羞愧” ] 751 Trăm nghìn gửi lạy tình quân Tơ duyên Ngắn-Ngủi có ngần ấy thôi Từ láy Ngắn-Ngủi, chỉ tâm trạng (lướt “Ngắn và Tủi” = Ngủi). Khác với Ngắn Ngủn , chỉ vật thể (lướt “Ngắn và Lùn” = Ngủn) 783 Trời hôm mây kéo tối rầm Rầu Rầu ngọn cỏ, Đầm Đầm cành sương Đêm = Đom = Om= Hom = Hôm – Hôn 昏 = Hối 晦 = Tối = Túi = Têm = Đêm = Đêm Hôm. Từ lặp, lướt “Rầu Rầu” = Rẫu, 1+1=0 。Phiên thiết Rẫu = Rũ Ấu (héo non). Đầm Đầm” = Đẫm, 1+1 =0 787 Ngập –Ngừng thẹn lục e hồng Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen Ngượng nở ra từ dính Ngập- Ngừng [(TQ dịch là Do Dự犹豫)] 797 Đã sinh ra số Long-Đong Còn mang lấy liếp má hồng được sao? Lưu 流 (chảy)nở ra từ dính Long-.Đong [ TQ dịch là Phiêu Bạc 漂泊 (trôi nổi) ] 839 Mập –Mờ đánh lận con đen Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi? Mù (nghĩa là không minh bạch), Mù nở ra từ dính Mập - Mờ [TQ phiên thiết đúng từ Mù thành hai tiếng Mó Hú (thiết lại thì như lướt “Mó Hú” = Mù) nhưng chữ thì mượn hai chữ nho cận âm là chữ Mó 模Hồ 糊tức tay sờ (chữ Mó模) vào hồ dán (chữ Hồ 糊) không có nghĩa gì với không minh bạch. Mù ( nghĩa là không rõ ràng) tức là Mơ Hồ ( Mơ là do lướt “Muội Dơ” = Mơ và Hồ là do lướt “Hoen Ố’ = Hồ. Mơ và Hồ đều có nghĩa là đen, không rõ ràng). Các từ của NKN đen là: “Đen Ô” = Đồ = Ô乌 = Ố 污 = Dơ = Mơ = Hồ = Hắc黑= Hôn昏= Hôm = Hoen = Huyền 玄= Hối 晦 = Tối = Muội 昧= Man蛮= Mun = Mực = Mèn = Đen, đều có nghĩa là đen tức không minh bạch. Ca dao: “Miệng nhà quan có gang có thép. Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm”. Đồ là đen đã chuyển chú thành từ Đồ chỉ những cái gì đen, có khi cái Đồ ấy màu nó không đen nhưng vì nó bị che kín cả ngày lẫn đêm trong bóng tối nên nó cũng thành đen. [TQ mượn cả nghĩa “không minh bạch” của từ Mơ Hồ của tiếng Việt, lẫn mượn cả cái âm “mơ hồ” nhưng lại phát âm lơ lớ là Mó Hú, rồi mượn hai chữ nho cận âm là chữ Mó摸 và chữ Hồ 糊để làm phiên âm, thành ra nghĩa của hai chữ cận âm đó là “Mó 摸tay vào Hồ 糊dán”, đâu phải nghĩa là không minh bạch.Chữ Mó 摸là chữ hình thanh (hình là cái tay扌, thanh là chữ Mô 莫cận âm), chữ Hồ 糊cũng là chữ hinh thanh (hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ胡, chữ Hồ 胡lại là chữ hội ý ( là “Cổ 古Nhục肉” = Cục và “Nhục 肉Cổ古” = Nhô, la cái Cục Nhô bằng da bèo nhèo bạc nhạc dưới cổ con bò, thường gọi là cái yếm bò ] Người Việt cổ đại ở vùng Hoàng Hà cổ xưa lại dùng chữ Hồ 胡này phiên thiết thành hai tiếng Hung Nô để chỉ dân du mục phương Bắc (lướt hai tiếng lại thì là “Hung Nô” thiết Hồ, chỉ bọn rợ Hồ 胡du mục kém văn minh), thành ngữ cổ: “Nam phương Việt, Bắc phương Hồ南方越, 北方胡” 851 Giọt riêng Tầm-Tã tuôn mưa Phần căm nỗi khách, phân dơ nỗi mình Giot riêng là giọt lệ khóc thầm mà tuôn ướt đẫm như trời mưa. Tuôn mưa như Tưới nước. Tưới nở ra từ dính Tầm, -Tã (do lướt “Tưới Đẫm” = Tầm, lướt “Tưới Đã” = Tã). Từ dính Tầm –Tã trở thành hình dung từ cho động từ Tuôn mưa. 857 Giận duyên, tủi phận Bời Bời Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh Lớn nhanh như từ lướt “Bốc Hơi” = Bời. Cái tủi cũng bời bời tức lớn nhanh như bốc hơi. 865 Những là Đo-Đắn ngược xuôi Tiếng gà nghe đã gáy sôi mé tường Lướt lấy dấu “Đo Nguyên” = Đo,lướt lấy dấu “Đo Ngắn” = Đắn, câu 4 chữ Đo nguyên Đo ngắn chuyển thành câu 2 chữ Đo-Đắn. NKN: Nói = Gọi = Gáy (dùng cho gà) = Gí 語 (tiếng Đài Loan) = Gô 語 (tiếng Nhật Bản- Ni Hon Go日本語) = Ngỏ = Ngữ 語 = Ngôn 言= Ồn = Âm音. Đo- Đắn [TQ dịch: Hăng lượng khinh trọng衡量轻重(cân nhắc năng nhẹ)] 869 Đoạn trường thay lúc phân kỳ Vó câu Khấp –Khểnh bánh xe Gập-Gềnh Gấp Khúc, Khúc nở ra từ dính Khấp-Khểnh [TQ dịch là “gian nan cử bộ艰难举步” (khó khăn cất bước) ], Gấp nở ra từ dính Gập –Gềnh [ TQ dịch là Điên Pha “dianbo颠簸”(lắc lư) ]. Những từ dính Khấp-Khểnh và Gập-Gềnh phát âm đều thấy rõ cặp môi Mấp/Máy = =Đóng/Mở = 0/1 = Âm/Dương biểu lộ sự chuyển động Thấp/Cao như dao động hình sin. 873 Ngoài thì chủ khách Dập –Dìu Một nhà huyên với một Kiều ở trong Động từ Dính nhau nở ra từ dính Dập-Dìu [TQ dịch là Tương Tụ 相聚- tụ họp với nhau]. Tụ聚àTúm-Tụm 875 Nhìn càng Lã-Chã giọt hồng Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao Từ dính Lã-Chã do từ Sa nở ra, hình dung sự Sa nước mắt. Giọt nước mắt ngắn thì lướt “Lọt Sa” = Lã, và giọt nước mắt dài thì lướt “Chảy Sa” = Chã . Hình dung từ Lã –Chã chuyển chú thành động từ, chỉ cần nói Lã Chã là biết đang khóc giọt ngắn giọt dài, giọt ngắn (Lã), giọt dài (Chã) [TQ không có từ nào tương đương với từ đã được gia công kỹ như từ Lã Chã nên chỉ dịch là Lưu Lệ 流泪(chảy nước mắt)]. Cùng là dùng chỉcó hai âm tiết nhưng Lã Chã (của tiếng Việt) cho hiệu quả của câu nói nhiều hơn là Lưu Lệ (Hán ngữ). 881 Xem Gương trong bấy nhiêu ngày Thân con chẳng kẻo mắc tay Bợm già Một từ Gương ngắn gọn đã dùng chuyển chú để thay cho cả một câu dài: Thấy qua hành động cư xử mà lộ ra tính cách quái đản của Mã Giám Sinh. Từ Bợm là Bịp-Bợm à chữ Biển騙 (lừa gạt). Bợm [ TQ dịch là Khi Biển欺騙 ]. 883 Khi về bỏ vắng trong nhà Khi vào Dùng-Dắng khi ra Vội – Vàng Câu này điển hình cho ngữ pháp VN là trong câu chỉ có Đề và Thuyết, không hề có chủ ngữ (theo Cao Xuân Hạo), Câu 1 thì Đề là “Khi về”, Thuyết là “Bỏ vắng trong nhà”, trong mệnh đề Thuyết không nêu ra mà vẫn hiểu được là có hai chủ ngữ: Kiều thì bị Bỏ trong nhà, Mã thì Vắng nhà. Câu 2 thì Đề là Khi vào, Khi ra; Thuyết là hành động của Mã. Dùng-Dắng là từ dính do Dặng (đánh tiếng) thể hiện thái độ cuống quýt hoảng hốt lớn dần lên của kẻ có ý đồ gian [TQ dịch là “ hoảng lý hoảng trưởng” 慌里慌长 (cái hoảng trong lòng lớn dần) ]. Vội Vàng là từ láy: Vàng là do lướt “Vội và Màng” = Vàng. Chẳng màng là không bận tâm đến, Màng 忙 = Mang 忙nghĩa là Bận (đa mang多忙: bận nhiều). 885 Khi ăn thì nói Lỡ-Làng Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh Lỗi nở ra từ dính Lỡ-Làng [ TQ dịch từ Lỡ-Làng: “căn bản nói không nổi một tí nào cái cao quí của Nho Nhã”. Như vậy TQ cũng công nhận văn Nho của Nhã ngữ là hay nhất]. Câu 2 không nêu chủ ngữ mà vẫn hiểu được khi Mã và đám đầy tớ với nhau thì Mã bị đám đầy tớ xem thường xem khinh [TQ dịch là: “đến bọn nô bộc dịch trong nhà cũng chê nó thô bỉ chứ chẳng được như Đường tục”. Như vậy TQ công nhận phong tục của người Thoòng (Đường nhân – người Việt Thường từ thời Đường Nghiêu) là văn minh, lối sống thanh tao] 897 Chút thân liễu yếu thơ đào Dớp nhà Đến-Đỗi giấn vào tôi người Dớp là do lướt từ đôi “Dơ Nhớp” = Dớp, Dớp chuyển chú thay cho chỉ sự cố hoạn nạn của nhà. Đến-Đỗi là từ láy (lướt “Đến Nỗi” = =Đỗi, Đỗi dùng láy cho Đến thành từ láy Đến-Đỗi). Giấn là do lướt lấy dấu “Dẫn Đến” = Giấn ( do nhấn mạnh nên kéo dài D à Gi). Tôi Ngươi là làm tôi tớ cho người ta, lướt lấy dấu “Người Ta” = Ngươi. Lướt lấy âm vận và lướt lấy dấu nhằm tạo ra từ mới đơn âm từ hai từ đơn âm hay một câu dài bằng lướt từ đầu câu với từ cuối câu. Cách này làm cho câu văn Việt rút ngắn mà hiệu quả cao (nén thông tin nội dung). Ví dụ đi học bình dân thanh toán nạn mù chữ gọi bằng dùng chuyển chú là đi học “a-bê-xê” vì đó là ba chữ đầu của bẳng Alphabet, dùng chuyển chú chỉ trình độ sơ khai. Nhưng dân gian không gọi vậy mà gọi là đi học “i – tờ” vì chữ I và chữ T có thể lướt “T- I” = Tí và lướt “I - T” = Ít (học một tí ít thôi lúc mới bắt đầu đi học). Nói trình độ “a-bê-xê” thì tính hình dung không mạnh bằng nói trình độ “I-Tờ”. Câu 2 cũng chỉ rõ thời Nguyễn Du viết Kiều thì chữ quốc ngữ đã có lưu hành chí ít là trong công giáo, chữ Gi và chữ D là phát âm khác nhau và tiếp như vậy đến nay, như câu “Con nhà có Giáo dục” phát âm khác với câu “Con gà mẹ Dáo-Dác tìm gà con” (Dõià Dáo-Dác, NKN:Nhìn = Nhãn眼 = Nhòm = Dòm = Dõi = =Diểu 眺(nhìn xa)). Không đến nỗi GS Bùi Hiển phải làm dự án gộp Gi và D thành một Z cho tiện đánh máy. Ngay từ Giời (tiếng Hà Nội) cũng là do lướt “Giàng Trời” = Giời. Còn kẻ cho “Giời gửi sáng vào Trăng” = Giăng, nên có câu ca dao: Giời bao nhiêu tuổi Giời già. Giăng bao nhiêu tuổi gọi là Giăng non 899 Từ đây góc bể chân trời Nắng mưa Thui-Thủi quê người một thân Thui-Thủi là từ láy, do lướt “Thân Tủi” = Thủi 909 Trông vời gạt lệ phân tay Góc trời Thăm –Thẳm ngày ngày Đăm-Đăm Thâm (sâu) nở ra từ dính Thăm-Thẳm . Đăm Đăm là từ lăp do lướt “Đờ đẫn mà Ngắm” = Đăm, khác với “Chăm chú mà Ngắm” = Chằm Chằm 911 Nàng thì dặm khách Xa-Xăm Bạc phau cầu giá, đen rầm ngàn mây Xa Xăm là từ láy Xa và “Xa Lắm”= Xăm. 923 Thoắt trông Lờn –Lợt màu da Ăn gì cao lớn Đẫy-Đà làm sao Lạt nở ra từ dính Lờn-Lợt. Đầy nở ra từ dính Đẫy-Đà 1035 Bốn bề Bát Ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia Để diễn tả cái rộng của mặt phẳng, thì từ Mặt nở ra từ dính Mênh-Mông (do lướt “Mặt Rộng” = Mông, “Mặt thênh Thênh” = Mênh). Kèm thêm từ Bát là con số 8 trên bản đồ Dịch lý chỉ phương Đông là biển rộng mênh mông, do vậy chữ Bát chuyển chú chỉ sự rộng (biển Đông còn gọi là Bát hải). Bốn bề Ngang đều rộng là “Ngang Bát” = Ngát, do vậy mà từ láy Bát Ngát nghĩa là vô cùng rộng, thành câu Rộng bát ngát, hay rộng mênh mông bát ngát. Câu có 6 chữ “Bốn bề bát ngát xa trông” [TQ phải dịch là: Hướng tứ chu viễn diểu, mãn nhãn thị nhất phiến liêu khoát đích向四周远眺,满眼是一片辽阔的] thành ra 13 chữ, dài gấp đôi câu Việt tức hiệu quả của câu chỉ bằng nửa của Việt, riêng chữ Liêu Khoát là rộng, phải thêm trợ từ Mãn Nhãn cũng chưa cảm thấy rộng bằng Bát Ngát 1057 Ngậm-Ngùi rủ bức rèm châu Cách lầu nghe có tiếng đâu họa vần Ngậm-Ngùi là từ dính nở ra do từ Người (có tâm sự buồn), do lướt “Người dấu lòng Thầm” = Ngậm, lướt “Người dấu lòng Tủi” = Ngùi, thành từ dính Ngậm-Ngùi [TQ dịch là Vọng cảnh thương hoài望景伤怀] 1077 Những là Lần-Lữa nắng mưa Kiêp phong trần biết bào giờ là thôi? Lâu nở ra từ dính Lần-Lữa, do lướt “ Lâu Dần” = Lần và lướt “Lâu Nữa” = Lữa. Từ 5 chữ “Lâu dần và lâu nữa” rút xuống còn 2 chữ “Lần-Lữa”, đấy là cách nén thông tin trong câu Việt. 1129 Hóa nhi thật có nỡ lòng Làm chi giày tía vò hồng lắm nau! Tác giả đã dùng lướt “Nỗi Đau” = Nau 1133 Tú bà tốc thẳng đến nơi Hăm Hăm áp điệu một hơi về nhà Chữ nho Dọa Hù吓唬 là chữ ký âm phương ngữ (dùng bộ khẩu 口chỉ ý là từ khẩu ngữ của phương ngữ, mượn âm chữ Hạ 下và chữ Hổ虎), Dọa Hù là một từ đôi, Dọa cũng là Hù (làm cho người khác sợ). Dọa láy thành Dọa Dẫm (lướt “Dọa Lắm” = Dẫm). Hủ nở ra từ dính Hằm-Hè. Phiên thiết Hằm = Hăm Hăm (dấu thanh điệu: 1= 0+0). Hăm Hăm cũng có nghĩa như Dọa-Dẫm, nhưng Hăm Hăm mạnh ý hơn, tốc độ hơn vì nó cận âm với Xăm Xăm (là đi nhanh). 1189 Buồng riêng riêng những Sụt-Sùi Nghĩ thân mà lại Ngậm-Ngùi cho thân Chữ riêng đầu là riêng của buồng, chữ riêng sau là riêng của nỗi mình đang Sa nước mắt. Sa nở ra từ dính Sụt –Sùi (do lướt “Sa như lụt” = Sụt, lướt “Sa như Vùi” = Sùi). Ngượng nỏ ra từ dính Ngậm-Ngùi (do lướt “Ngượng Thầm” = Ngậm, lướt “Ngượng Tủi” = Ngùi). Nếu là Buồn Tủi và Ngượng Tủi thì lướt thành Bùi Ngùi. 1219 Những nghe nói đã Thẹn-Thùng Nước đời lắm nỗi Lạ-Lùng Khắt-Khe Lạ-Lùng là từ láy. Lạ và “Lạ Hung” = Lùng. Từ Khế (契约khế ước) nở ra từ dính Khắt-Khe 1299 Miệt- Mài trong cuộc truy hoan Càng quen thuộc nết càng Dan-Díu tình Miết nở ra từ dính Miệt Mài. Dính nở ra từ dính Dan-Díu 1335 Bình khang Nấn-Ná bấy lâu, Yêu hoa yêu được một màu điểm trang Nại 耐(nhẫn nại)nở ra từ dính Nấn-Ná 1473 Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Đào đà phai thắm, sen vừa nẩy xanh Mảng do lướt “Mải Đang” = Mảng 1543 Lại còn Bưng-Bít giấu quanh, Làm chi những thói trẻ ranh nực cười Chữ Bế 閉nở ra từ dính Bưng-Bít 1565 Buồng đào khuya sớm Thảnh-Thơi Ra vào một mực nói cười như không Chữ Thư (thư dãn) nở ra từ dính Thảnh-Thơi 1717 Bàng Hoàng dở tỉnh dở say Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên lầu Bàng Hoàng là từ láy: do lướt “Bất Đang”= Bàng (đang lúc không ngờ), lướt “Hốt Đang” = Hoàng (đang lúc bỗng chợt).Lướt này đã chuyển khoăng khắc thời gian thành tâm trạng con người là Bàng Hoàng. [TQ dịch là: “Không ngờ cô ta chợt tỉnh lại mở to đôi mắt”不料她忽然醒过来睁开两眼bất liệu tha hốt nhiên tỉnh qua lai tranh khai lưỡng nhãn]. Mảng là do lướt tiếng “Mắng Vang” = Mảng, mắng la thúc giục ai đó mà vang tiếng lên, gọi là “Mắng Vang”= =Mảng. Câu không nêu chủ ngữ, nhưng trong ngữ cảnh này hiểu được là chủ đang mắng gọi đầy tớ. 1719 Ả hoàn trên dưới giục nhau Hãi hùng nàng mới theo sau một người Hãi Hùng là từ láy: Hãi và “Hãi Hung” = Hùng, ghép lại thành Hãi Hùng chỉ cái hãi xuất hiện và vụt lớn nhanh, đó là Hãi Hùng [TQ dịch là: Tha cực độ hoảng trương 她极度慌张 (Hãi Hùng có 2 chữ, Cực Độ Hoảng Trương mất 4 chữ)] 1725 Gạn-Gùng ngọn hỏi ngành tra Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa Gạn Gùng là từ láy cho từ Gạn. Từ Gạn đã là một nén thông tin khá lớn do lướt “Gợi và hỏi Vặn” = Gạn, thường dùng khi tra xét hỏi cung, mở lớn lùng sục xoi mói hơn nữa là lướt “Gạn Lùng” = Gùng, thành ra câu 5 chữ “Gạn và Gạn lùng” qua thủ thuật lướt mà chì còn 2 chữ Gạn-Gùng, nén đủ nội dung thông tin dài. [TQ dịch từ Gạn- Gùng là: Truy căn cứu để phản phúc bàn vấn 追根究底反复盘问 (hỏi tính toán lật đi lật lại, đuổi gốc moi rễ)] 1725 Bất tình nổi trận mây mưa Mắng rằng: “Những giống bơ thờ quen thân Con này chẳng phải thiện nhân Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” Bơ Thờ là tác giả nói tắt câu thành ngữ sống “cù bất cù bơ thân nhờ thân gửi”. Cù Bất nghĩa là côi cút (Cù) không nơi nương tựa (Bất) Cù Bơ dùng láy cho Cù Bất. Thân Nhờ Thân Gửi nghĩa là đem than đi sống nhờ sống gửi nhà người. Tác giả đã dùng qui tắc nói vo, gạt nbor đầu đuôi chỉ lấy khúc giữa là Bơ và Thân Nhờ (đồng thời lướt “Thấn sống Nhờ” = Thờ, thành ra câu thành ngữ chỉ còn là hai tiếng Bơ Thờ. “Những giống bơ thờ “ là những giống sống cù bất cù bơ than nhờ than gửi. Hai câu 1727 và 1728 [TQ dịch là:Nị quyết bất thị lương gia nữ tử. Nị thị dã nữ nhân, quán ư tứ xứ du đãng, nị bất thị đào tỳ dã thị cá khỉ phu tái giá đich bà nương你决不是良家女子。你是野女人, 惯于四处游荡,你不是逃婢也是个弃 夫再嫁的婆娘(mày chẳng phải con nhà tử tế, chỉ là đồ quen sống trôi dạt, mày không là kẻ nô tỳ trốn chạy thì cũng là kẻ gái già bỏ chồng tái giá)]. Tác giả chỉ dùng có hai động từ “trốn và “lộn” đã nói đủ hết tư cách gian xảo của cái ‘con này” trong câu lục bát có 14 chữ (bản dịch đã dùng 34 chữ). ] 1733 Đã đem mình bán cửa tao Lại còn Khủng-Khỉnh làm cao thế này! Chữ Khánh chỉ cái Khánh bằng đá hay bằng ngọc là vật trang trí cao quí, từ Khánh còn chuyển chú để chỉ sự vui mừng. Từ Khánh nở ra từ dính Khủng-Khỉnh nói ý làm cao, ra giá, do từ dính gồm hai tiếng âm dương nên Khủng-Khỉnh hàm ý thách giá thấp cao. 1763 Phận sao bạc chẳng vừa thôi Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan Khăng Khăng là từ láy cho từ Khép (buộc chặt), do từ Khép Thằng nghĩa là dây thừng để trói, đã được lướt “Khép Thằng” = Khăng, thành từ láy Khăng Khăng ý nói buộc rất chặt không gỡ ra được. 1779 Lĩnh lời nàng mới lựa dây Nỉ-Non Thánh-Thót dễ say lòng người Dây đàn nó Nói nở ra từ dính Nỉ-Non, dây đàn nó Thốt nở ra từ dính Thánh-Thót. 1783 Cửa người đày đọa chút thân, Sớm Năn-Nỉ bóng, đêm ân hận lòng Năn-Nỉ là từ dính do Nói nở ra: nói nhiều là lướt ‘Nói Nhặn” = Năn, nói xin là lướt “Nói Kì” = Nỉ (Kì đảo祈祷nghĩa là xin cầu cho được), thành từ dính Năn-Nỉ. Ân Hận là từ láy, lướt “Úc Hận” = Ân, Úc Hận nghĩa là Hận sâu, rồi lại còn Hận nữa, nên láy thành từ Ân Hân. Ăn Năn khác xa nghĩa Ân Hận, nhưng do cận âm nên nhiều người thường lầm lộn, đáng lý cần nói Ăn Năn thì lại lầm sang dùng từ Ân Hận.[ TQ dịch: Úc hận và ai oán懊恨与哀怨 ] 1789 Lần Lần tháng trọn ngày mưa Nỗi gần nào biết đường xa thế này Thủ thuật lướt “Lâu Dần” “Lâu Dần” = Lần Lần (4 chữ còn 2 chữ) 1851 Nàng đà tán hoán tê mê, Vâng lời ra trước bình the vặn đàn Lướt “Hồn Loạn”= Hoán, Tán Hoán nghĩa như Mất Hồn hay gọi là Choáng Váng. Tê Mê là đứng sững mê mẩn [TQdịch: Tâm lý nhất phiến mê võng心里更觉一片迷惘]. 1867 Lòng riêng Tấp-Tểnh mừng thầm Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay Chữ Tẩu 走(đi)nở ra từ dính Tấp-Tểnh (bắt đầu bước nhen nhúm lòng hứng khởi) 1959 Chút than Quằn –Quại vũng lầy Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao? Cong nở ra từ dính Quằn-Quại 3235 Một nhà phúc lộc gồm hai Nghìn năm Dằng-Dặc quan giai Lần-Lần Dài nở ra từ dính Dằng-Dặc. Lướt “Lâu Dần”’Lâu Dần” = Lần Lần Biển Đông – La Hải Hoành phi bốn chữ LA PHỤNG HIỆP LONG 羅鳳協龍 Giải nghĩa: Ý nghĩa 1: Lớp học gồm đông thành viên (một thầy giáo và nhiều học trò) cùng hiệp lực với nhau (giúp đỡ nhau) thì tất cả đều hóa rồng. Giải thích: LA nghĩa là bao la, ám chỉ sự rộng lớn (đông đúc) của vũ trụ (vũ trụ gồm Ba thành tố là Thiên, Địa, Nhân. Từ Ba (của con số 3) phiên thiết thành Bao La, hay nói ngược lại là Bao La thiết Ba (tức nói lướt “Bao La” = Ba), nên ta thường nói vũ trụ bao la, bầu trời bao la, chỉ không gian ba chiều. Còn Mặt phẳng (theo 2 trục Tung và Hoành) thì từ Mặt đã theo Dịch lý (nhất nguyên sinh nhị nguyên) mà tách đôi thành từ dính hai tiếng cùng chung “M” của từ gốc “Mặt” là từ Mênh-Mông làm hình dung từ cho danh từ Mặt, nên ta phải nói là “Mặt biển Mênh Mông” hoặc “Mặt cánh đồng Mênh Mông”. Con cò đang bay là nó bay trong không gian ba chiều nên phải nói là “con cò bay lả bay la” như ca dao nói, mà không thể nói là “con cò bay mênh mông” (thành ngố tiếng Việt chứ không phải là thạo tiếng Việt). PHỤNG là giống chim Phượng cũng rất đông đúc, là loài chim hiền, là totem của các tộc người Đông Nam Á chuyên về nông nghiệp. Không giống như các tộc phương Bắc chuyên về du mục có totem là chim diều hâu săn mồi (tiếng TQ gọi phái hiếu chiến là “ưng phái” tức phải diều hâu, gọi phái ôn hòa là “hạc phái” tức phái chim hiền). HIỆP là đồng tâm hiệp lực giúp đỡ nhau (chữ HIỆP 協gồm một chữ Tâm 忄và ba chữ Lực力, ý nói đồng tâm (nhất tâm) thì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, đông sức góp lại thì thành sức mạnh lớn). Bốn từ LA PHỤNG HIỆP LONG nói lên sự kết nối vì: LA PHỤNG cũng là LA PHƯỢNG, nói lái thành Lương Phà tức cái phà hiền lành nối đôi bờ con sông. HIỆP LONG cũng là HỢP LONG, mà Hợp Long nghĩa là lắp ghép các nhịp cầu để nối đôi bờ con sông. Hai chữ đầu và cuối là LA LONG, nói lái thành Lòng Lả, tức trái tim có lửa là nhiệt huyết của mỗi con người trong tập thể này. Chữ HIỆP còn có thể hiểu ngầm thành chữ HIỆT (trong từ Hiệt Kiệt 黠杰tức người ưu tú có nhiệt huyết) vì chữ nho có cho phép dùng từ cận âm thay cho từ cần viết (gọi là phép “giả tá” tức mượn chữ cận âm). Mà chữ HIỆT (黠)gồm chữ Hắc( 黑)chỉ chất xám tức trí tuệ và chữ Cát (吉) tức lòng tốt, có chất xám rồi nhưng còn phải kèm có lòng tốt nữa thì mới HIỆP tác với nhau chân thành được. (Ví dụ về phép giả tá là mượn chữ cận âm thì NV đã sưu tầm được hai tư liệu là bài <Quan thánh đế giáng bút chân kinh> tại chùa Ông ở Thủ Dầu Một, và bài <Văn tế Tướng công TS Nguyễn Xuân Ôn khởi nghĩa Cẩn Vương> tại Nghệ An, trong đó đều đã dùng chữ Long 龍, nghĩa đen là con rồng, thay cho từ Lòng là tấm lòng) Hai chữ giữa là PHỤNG HIỆP (nhiều địa phương, huyện, xã ở VN hay lấy tên này). Phản thiết tức nói lướt ngược thì là “Hiệp Phụng” = Hùng, là chỉ tộc Hùng của các Hùng Vương (Đúng qui tắc biến dấu thanh điệu: Hiệp + Phụng = 0 + 0 = 1 = Hùng PHỤNG HIỆP còn có thể viết giả tá là PHỤNG HIỆT, nói lái thì PHỤNG HIỆT thành Phiệt Hùng, nghĩa là nhà tài phiệt (財 閥)tên là Hùng (雄). Ý nghĩa 2: Các dân tộc Đông Nam Á (tộc La) hòa bình (chim Phượng) hiệp lực hợp tác (Hiệp) thì ASEAN sẽ hóa rồng (Long). Giải thích: LA là phương La, tức phương quẻ Ly tượng Lửa trong Dịch học, Ly = Lửa = Lả = La = Tá = Hà 霞= Hỏa火, quẻ Ly màu đỏ (Xich赤 )chỉ xứ nóng, chỉ vùng ĐNÁ, gần xích đạo, xưa gọi là đất Hồng hay Đào (lướt “Quẻ Ly” = Qủi, lại màu đỏ theo Dịch lý, nên xứ nóng gọi là xứ Xích Qủi (赤鬼) dân vùng này xưa gọi là tộc Đại La, là dân đàu tiên đã chế ra cái La bàn có kim chỉ hướng khi đi trên biển, gọi là cái La – Canh (hướng đuôi kim là hướng La ( La = Lả = Lửa = Ly của Quẻ Ly tượng lửa, xứ nóng); hướng mũi kim là hướng Canh (Lạnh = Canh = Căm Căm = Nặm = Nước = Nam = Khảm của Quẻ Khảm tượng Nước trong Dịch học, xứ lạnh). Tiếng Hán cổ đã dịch đúng nghĩa tên của “cái La-Canh” của người La thành “cái Kim chỉ Nam” (mũi kim chỉ đúng hướng Khảm của Dịch lý tức hướng Nam = Nước = North, mà ngày nay hướng Nam ấy lại bị gọi là hướng Bắc ?). Đại tộc La cũng là người từng dựng nên đô thành Đại La, là tiền thân của Thăng Long về sau. Người Canh tức người Kinh ở vùng á nhiệt đới là người làm ra giống lúa tẻ đầu tiên, mà cổ thư Hán ngữ gọi gạo tẻ là Canh Mễ(粳米) hay Kinh Mễ(粳米) và còn cho rằng “rượu Giao Chỉ là thứ rượu thơm trong tốt nhất để ngâm dược liệu Đông y, vì nó được chế bằng Canh Mễ và ủ bằng men làm bằng các thứ lá rừng và vỏ trấu” PHỤNG là chim Phượng, tượng trưng cho hiền hòa. Theo âm dương thì Âm = 0, Dương = 1, cho nên ta có: LA = 1. PHỤNG = 0, HIỆP = 0, LONG = 1, nên bốn chữ: ( LA + PHỤNG) + (HIỆP + LONG) = = ( 1 + 0 ) + ( 0 + 1 ) = = 1 + 1 = 0, Là một số Âm , tượng trưng chất xám. Người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước (gồm đất liền và biển Đông). Cổ đại Biển Đông còn có tên là La Hải (biển của tộc ĐaỊ La), do vậy thấy rõ rành rành là Trung Quốc không hề có một tí gì gọi là “chủ quyền lịch sử” ở Biển Đông – La Hải! Biển Đông – La Hải Hoành phi nội dung BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC LA PHỤNG HIỆP LONG 羅鳳協龍 Giải nghĩa: Ý nghĩa 1: Lớp học gồm đông thành viên (một thầy giáo và nhiều học trò) cùng hiệp lực với nhau (giúp đỡ nhau) thì tất cả đều hóa rồng. Giải thích: LA nghĩa là bao la, ám chỉ sự rộng lớn (đông đúc) của vũ trụ (vũ trụ gồm Ba thành tố là Thiên, Địa, Nhân. Từ Ba (của con số 3) phiên thiết thành Bao La, hay nói ngược lại là Bao La thiết Ba (tức nói lướt “Bao La” = Ba), nên ta thường nói vũ trụ bao la, bầu trời bao la, chỉ không gian ba chiều. Còn Mặt phẳng (theo 2 trục Tung và Hoành) thì từ Mặt đã theo Dịch lý (nhất nguyên sinh nhị nguyên) mà tách đôi thành từ dính hai tiếng cùng chung “M” của từ gốc “Mặt” là từ Mênh-Mông làm hình dung từ cho danh từ Mặt, nên ta phải nói là “Mặt biển Mênh Mông” hoặc “Mặt cánh đồng Mênh Mông”. Con cò đang bay là nó bay trong không gian ba chiều nên phải nói là “con cò bay lả bay la” như ca dao nói, mà không thể nói là “con cò bay mênh mông” (thành ngố tiếng Việt chứ không phải là thạo tiếng Việt). PHỤNG là giống chim Phượng cũng rất đông đúc, là loài chim hiền, là totem của các tộc người Đông Nam Á chuyên về nông nghiệp. Không giống như các tộc phương Bắc chuyên về du mục có totem là chim diều hâu săn mồi (tiếng TQ gọi phái hiếu chiến là “ưng phái” tức phải diều hâu, gọi phái ôn hòa là “hạc phái” tức phái chim hiền). HIỆP là đồng tâm hiệp lực giúp đỡ nhau (chữ HIỆP 協 gồm một chữ Tâm 忄và ba chữ Lực 力, ý nói đồng tâm (nhất tâm) thì “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, đông sức góp lại thì thành sức mạnh lớn). Bốn từ LA PHỤNG HIỆP LONG nói lên sự kết nối vì: LA PHỤNG cũng là LA PHƯỢNG, nói lái thành Lương Phà tức cái phà hiền lành nối đôi bờ con sông. HIỆP LONG cũng là HỢP LONG, mà Hợp Long nghĩa là lắp ghép các nhịp cầu để nối đôi bờ con sông. Hai chữ đầu và cuối là LA LONG, nói lái thành Lòng Lả, tức trái tim có lửa là nhiệt huyết của mỗi con người trong tập thể này. Chữ HIỆP còn có thể hiểu ngầm thành chữ HIỆT (trong từ Hiệt Kiệt 黠杰 tức người ưu tú có nhiệt huyết) vì chữ nho có cho phép dùng từ cận âm thay cho từ cần viết (gọi là phép “giả tá” tức mượn chữ cận âm). Mà chữ HIỆT (黠)gồm chữ Hắc( 黑)chỉ chất xám tức trí tuệ và chữ Cát (吉) tức lòng tốt, có chất xám rồi nhưng còn phải kèm có lòng tốt nữa thì mới HIỆP tác với nhau chân thành được. (Ví dụ về phép giả tá là mượn chữ cận âm thì NV đã sưu tầm được hai tư liệu là bài <Quan thánh đế giáng bút chân kinh> tại chùa Ông ở Thủ Dầu Một, và bài <Văn tế Tướng công TS Nguyễn Xuân Ôn khởi nghĩa Cẩn Vương> tại Nghệ An, trong đó đều đã dùng chữ Long 龍, nghĩa đen là con rồng, thay cho từ Lòng là tấm lòng) Hai chữ giữa là PHỤNG HIỆP (nhiều địa phương, huyện, xã ở VN hay lấy tên này). Phản thiết tức nói lướt ngược thì là “Hiệp Phụng” = Hùng, là chỉ tộc Hùng của các Hùng Vương (Đúng qui tắc biến dấu thanh điệu: Hiệp + Phụng = 0 + 0 = 1 = Hùng PHỤNG HIỆP còn có thể viết giả tá là PHỤNG HIỆT, nói lái thì PHỤNG HIỆT thành Phiệt Hùng, nghĩa là nhà tài phiệt (財 閥) tên là Hùng (雄). Ý nghĩa 2: Các dân tộc Đông Nam Á (tộc La) hòa bình (chim Phượng) hiệp lực hợp tác (Hiệp) thì ASEAN sẽ hóa rồng (Long). Giải thích: LA là phương La, tức phương quẻ Ly tượng Lửa trong Dịch học, Ly = Lửa = Lả = La = Tá = Hà 霞 = Hỏa 火, quẻ Ly màu đỏ (Xich 赤 )chỉ xứ nóng, chỉ vùng ĐNÁ, gần xích đạo, xưa gọi là đất Hồng hay Đào (lướt “Quẻ Ly” = Qủi, lại màu đỏ theo Dịch lý, nên xứ nóng gọi là xứ Xích Qủi (赤鬼) dân vùng này xưa gọi là tộc Đại La, là dân đàu tiên đã chế ra cái La bàn có kim chỉ hướng khi đi trên biển, gọi là cái La – Canh (hướng đuôi kim là hướng La ( La = Lả = Lửa = Ly của Quẻ Ly tượng lửa, xứ nóng); hướng mũi kim là hướng Canh (Lạnh = Canh = Căm Căm = Nặm = Nước = Nam = Khảm của Quẻ Khảm tượng Nước trong Dịch học, xứ lạnh). Tiếng Hán cổ đã dịch đúng nghĩa tên của “cái La-Canh” của người La thành “cái Kim chỉ Nam” (mũi kim chỉ đúng hướng Khảm của Dịch lý tức hướng Nam = Nước = North, mà ngày nay hướng Nam ấy lại bị gọi là hướng Bắc ?). Đại tộc La cũng là người từng dựng nên đô thành Đại La, là tiền thân của Thăng Long về sau. Người Canh tức người Kinh ở vùng á nhiệt đới là người làm ra giống lúa tẻ đầu tiên, mà cổ thư Hán ngữ gọi gạo tẻ là Canh Mễ(粳米) hay Kinh Mễ(粳米) và còn cho rằng “rượu Giao Chỉ là thứ rượu thơm trong tốt nhất để ngâm dược liệu Đông y, vì nó được chế bằng Canh Mễ và ủ bằng men làm bằng các thứ lá rừng và vỏ trấu” PHỤNG là chim Phượng, tượng trưng cho hiền hòa. Theo âm dương thì Âm = 0, Dương = 1, cho nên ta có: LA = 1. PHỤNG = 0, HIỆP = 0, LONG = 1, nên bốn chữ: ( LA + PHỤNG) + (HIỆP + LONG) = = ( 1 + 0 ) + ( 0 + 1 ) = = 1 + 1 = 0, Là một số Âm , tượng trưng chất xám. Người Việt gọi xứ sở mình là Đất Nước (gồm đất liền và biển Đông). Cổ đại Biển Đông còn có tên là La Hải (biển của tộc ĐaỊ La), do vậy thấy rõ rành rành là Trung Quốc không hề có một tí gì gọi là “chủ quyền lịch sử” ở Biển Đông – La Hải! Chú thích: 1/ Trong cuốn sách <Hải ngoại ký sự> của hòa thượng Thích Đại Sán được Chúa Nguyễn mời từ Quẩng Đông sang thỉnh giảng ở Đàng Trong có viết: " Thuyền đi vừa qua khỏi đảo Hải Nam là đến biển La Hải của nước Đại Việt" 2/ Xem lễ hội làng Triều Khúc (Hà Nội) thờ Đế Đại La là Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (bài của Nguyễn Đức Tố Lưu) Hoành phi nội dung BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TẾ THƯƠNG SINH 濟蒼生 Ý nghĩa 1: Cứu tế màu xanh cuộc sống Ý nghĩa 2: Cứu tế muôn dân (chủ là chữ THƯƠNG ở giữa) Giải thích: TẾ (濟) nghĩa là Cứu Tế (救濟) THƯƠNG (蒼) nghĩa đen là màu xanh của bầu trời, như từ hay dùng là Thương Thiên (蒼天) chỉ bầu trời xanh, ám chỉ vũ trụ trong lành. SINH (生) nghĩa là Sinh Mệnh (生命), chỉ kiếp sống muôn loài nói chung. THƯƠNG SINH (蒼生) nghĩa đen là màu xanh cuộc sống nhưng đã được chuyển chú chỉ muôn dân. Như tiếng Việt xưa gọi bệnh viện là “Nhà Thương” tức nơi chữa bệnh cho muôn dân (không phân biệt đẳng cấp, giàu nghèo). Như bác sĩ Lý Văn Lượng (李文亮)của Vũ Hán đã nói: “Tôi chỉ vì muốn cứu cho Thương Sinh (蒼生) nên đã cảnh báo ngay lập tức sự thật khoa học là con vi rút này (Covid-19) lây nhiễm được từ người sang người !”. TẾ ghép với THƯƠNG làm một thì như nói lướt “Tế Thương” = Tương 相 (tức Tế Thương thiết Tương相). Tương相 + Sinh生 là Tương Sinh(相生) nghĩa là Sống Cùng nhau. TẾ ghép với SINH làm một thì như nói lướt “Tế Sinh” = Tình情 (tức Tế Sinh thiết Tình). Tương Tình (相情 ) nghĩa là có Tình với Nhau gọi là Tình Thương. TẾ THƯƠNG SINH có thêm hàm ý là: Sống cùng nhau phải bằng Tình thương, tức Sống có Tình (sống biết Thương nhau là Tế Sinh = Tình). Đúng như người xưa quan niệm muôn loài cùng sống chung trong một môi trường Xanh: Màu xanh của bầu trời thật là dễ Thương (蒼)! Ngày nay xin đừng làm ô nhiễm mà gây hại làm chọc thủng bầu trời, phải bảo vệ sinh thái chung là môi trường Xanh! BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (như là khẩu hiệu 4 chữ nhắc nhở con người), thay khẩu hiệu ấy bằng 3 chữ nho TẾ THƯƠNG SINH ( là một hình thái khác của biểu hiện văn hóa), nhưng hình thái biểu hiện này có hàm ý súc tích hơn (tức độ nén thông tin nhiều hơn). Hoặc khẩu hiệu 4 chữ trên cũng có thể thay bằng chỉ 1 chữ nho là chữ TRẠCH 澤 (nghĩa đen là ơn Trời tức ơn bà mẹ thiên nhiên). Chữ Trạch 澤 là lướt “Trong Sạch” = Trạch 澤 . Chữ Trạch 澤 có cấu tạo Âm Dương cân bằng, ám chỉ hai tố mà mẹ thiên nhiên ban tặng miễn phí cho sự sống là Nước và Nắng (đều là Năng lượng, như cái Nôi nuôi dưỡng sự sống, đều là vần “N”) : Âm là Nước (bộ Thủy 氵), chỉ ý trong suốt không hề ô nhiễm; Dương là Nắng, chỉ ý sạch không hề ô nhiễm (do lướt “Tứ 罒 Hạnh幸” = Tạnh, chỉ Nắng, 4 mùa đều có Nắng thì đó là Hạnh phúc, và lướt “Hạnh 幸Tứ罒” = Hư, chỉ cái Năng lượng không sờ nắm được, Hư = Hổng = Không, cũng còn chỉ ý là không hề ô nhiễm). Ngoài nghĩa đen là trong sạch, chữ Trạch 澤 trong khi dùng còn được chuyển chú thành nhiều nghĩa khác : - Trạch 澤 (trong sạch) chuyển chú chỉ ơn Trời (sự ban ơn vô tư không vụ lợi). - Trạch 澤 (nước trong) chuyển chú chỉ ao, đầm. - Trạch 澤 (trong suốt) chuyển chú chỉ ý sáng láng trơn tru (như <Thuyết Văn Giải Tự > giải thích). <TVGT> còn hướng dẫn đọc chữ Trạch là Trượng 丈 Bá 伯 thiết Tra (logic thì phải là “Trong sạch như nước Lã” = Tra, “Trong Sạch” = Trạch = nhấn “Trạch Ạ!” = = “Trạch 澤 Dã 也 ! = Tra). Một chữ Trạch 澤 mà đủ răn phương châm sống: Biết ơn bà mẹ thiên nhiên. Biết xử sự minh bạch như thành ngữ “trời quang mây (thì) Tạnh”. Biết sống tử tế như tục ngữ “đói cho Sạch, rách cho thơm”. Phát triển của ngôn từ Việt Ngôn từ Việt ban đầu là đa âm tiết và không có dấu thanh điệu. Nó đã đơn âm hóa bằng cách mỗi từ đa âm tiêt (của chính tiếng Việt hoặc của mượn từ tiếng ngoại lai) đều bị lược bỏ (rụng) đầu và đuôi còn lại một âm tiết lõi (gọi là Qui tắc Vo để vò rụng đầu và đuôi, chỉ “Trọi Còn” = Tròn là cái lõi giữa, “trọi còn” là nói đảo của “còn trơ trọi” mỗi cái lõi giữa, theo Qui tắc Lướt: “Trọi Còn” = 0+1 = 1 = Tròn, con số chỉ sự biến âm của dấu thanh điệu theo số học nhị phân). Thành đơn âm ( lợi thế là một thông tin bằng nhiều tiếng được nén thành còn một tiếng, tức có hiệu suất lớn trong chuyển tải thông tin). Cách nén thông tin của tiếng Việt còn thể hiện trong Qui tắc Lướt ( lướt hai tiếng thành một tiếng hoặc lướt cả câu bằng lướt tiếng đầu và tiếng đuôi của câu đó thành một tiếng). Đơn âm hóa xong rồi thì để có nhiều từ lại buộc phải xuất hiện thanh điệu, thành ra tiếng Việt có 6 dấu thanh điệu để phân biệt thành 6 nghĩa khác nhau của một âm vận. Các dấu thanh điệu chia theo Dịch lý thành hai nhóm Âm và Dương. Nhóm thanh điệu thuộc Âm ( Âm = 0, theo sô học nhị phân của công nghệ thông tin) là các dấu “Không”, “Ngã”, “Nặng”; Nhóm thanh điệu thuộc Dương (Dương = 1, theo số học nhị phân của công nghệ thông tin)) là các dấu “Sắc”, “Hỏi”, “Huyền”. Khi lướt hai tiếng thì dấu thanh điệu của hai tiếng đó như hai con số nhị phân cộng với nhau theo qui tắc số học nhị phân mà thành dấu thanh điệu của tiếng kết quả thứ ba. Mỗi từ đơn âm lại có thế tách đôi thành hai tiếng khác nhau bằng hai cách: (1) là phiên thiết thành hai tiếng sao cho khi lướt hai tiếng đó lại hoàn nguyên chính nó. Ví dụ Ba (chỉ ba chiều lập thể) phiên thiết thành Bao La, để khi lướt lại “Bao La” = Ba. Do vậy không gian ba chiều như bầu trời gọi là bầu trời bao la. (2) là tách thành hai tiếng (có chung phụ âm đầu hoặc chung vắng phụ âm đầu với tiếng gốc), dính nhau, không thể đảo ngược vị trí, gọi là từ dính (viết nên có gạch nối giữa chúng). Ví dụ Mặt (chỉ mặt phẳng có hai chiều là trục Tung và trục Hoành) đã nở ra từ dính là Mênh-Mông, do đó mà có từ biển rộng mênh mông hoặc đồng lúa rộng mênh mông để nói về cái Mặt phẳng đó. Ví dụ về đơn âm hóa một từ đa âm tiết: 1/ Tiếng Nhật có từ bản địa “xacana” (chỉ con Cá), tiếng Việt chỉ cần đơn âm hóa bằng chiếm cái lõi giữa là Ca thành từ đơn âm tiết là Cá (chỉ con cá), chuyển sang tiếng Thái Lào thành Pá (chỉ con cá). Hoặc tiếng Việt chiếm cái lõi giữa là Can thành từ đơn âm tiết là Cần = Cờn = Còng chỉ nơi cửa sông, bến cá như Cần Giờ, Cần Thơ, cửa Cờn (Nghệ An), chợ Còng (Thanh Hóa). 2/ Tiếng Ân Độ có từ bản địa “Palamitra” (chỉ cây Mít), tiếng Hán mượn bằng cách phiên âm thành “Puoluomi”, tiếng Việt chỉ cần đơn âm hóa bằng chiếm cái lõi giữa là Mít. Rồi phát triển thêm: quả Mít như là một Mẹ ắt phải có nhiều Con bên trong nó. Do vậy từ Mít nở ra từ dính Múi-Món, rõ ràng trong quả Mít có nhiều Múi, mỗi Múi như là một “Mít Con” = Món (đó là chuyện có từ cổ đại). Những năm gần đây nông dân An Giang nhập giống mịt ngoại có trái tròn như trái banh, nên gọi nó là giống “Mít trái Tròn” = “Mít Tròn” = 1+1=0 = Mon, gọi thành mặt hàng là trái Mon. Phát triển của ngôn từ Việt Ngôn từ Việt ban đầu là đa âm tiết và không có dấu thanh điệu. Nó đã đơn âm hóa bằng cách mỗi từ đa âm tiêt (của chính tiếng Việt hoặc của mượn từ tiếng ngoại lai) đều bị lược bỏ (rụng) đầu và đuôi còn lại một âm tiết lõi (gọi là Qui tắc Vo để vò rụng đầu và đuôi, chỉ “Trọi Còn” = Tròn là cái lõi giữa, “trọi còn” là nói đảo của “còn trơ trọi” mỗi cái lõi giữa, theo Qui tắc Lướt: “Trọi Còn” = 0+1 = 1 = Tròn, con số chỉ sự biến âm của dấu thanh điệu theo số học nhị phân). Thành đơn âm ( lợi thế là một thông tin bằng nhiều tiếng được nén thành còn một tiếng, tức có hiệu suất lớn trong chuyển tải thông tin). Cách nén thông tin của tiếng Việt còn thể hiện trong Qui tắc Lướt ( lướt hai tiếng thành một tiếng hoặc lướt cả câu bằng lướt tiếng đầu và tiếng đuôi của câu đó thành một tiếng). Đơn âm hóa xong rồi thì để có nhiều từ lại buộc phải xuất hiện thanh điệu, thành ra tiếng Việt có 6 dấu thanh điệu để phân biệt thành 6 nghĩa khác nhau của một âm vận. Các dấu thanh điệu chia theo Dịch lý thành hai nhóm Âm và Dương. Nhóm thanh điệu thuộc Âm ( Âm = 0, theo sô học nhị phân của công nghệ thông tin) là các dấu “Không”, “Ngã”, “Nặng”; Nhóm thanh điệu thuộc Dương (Dương = 1, theo số học nhị phân của công nghệ thông tin)) là các dấu “Sắc”, “Hỏi”, “Huyền”. Khi lướt hai tiếng thì dấu thanh điệu của hai tiếng đó như hai con số nhị phân cộng với nhau theo qui tắc số học nhị phân mà thành dấu thanh điệu của tiếng kết quả thứ ba. Mỗi từ đơn âm lại có thế tách đôi thành hai tiếng khác nhau bằng hai cách: (1) là phiên thiết thành hai tiếng sao cho khi lướt hai tiếng đó lại hoàn nguyên chính nó. Ví dụ Ba (chỉ ba chiều lập thể) phiên thiết thành Bao La, để khi lướt lại “Bao La” = Ba. Do vậy không gian ba chiều như bầu trời gọi là bầu trời bao la. (2) là tách thành hai tiếng (có chung phụ âm đầu hoặc chung vắng phụ âm đầu với tiếng gốc), dính nhau, không thể đảo ngược vị trí, gọi là từ dính (viết nên có gạch nối giữa chúng). Ví dụ Mặt (chỉ mặt phẳng có hai chiều là trục Tung và trục Hoành) đã nở ra từ dính là Mênh-Mông, do đó mà có từ biển rộng mênh mông hoặc đồng lúa rộng mênh mông để nói về cái Mặt phẳng đó. Ví dụ về đơn âm hóa một từ đa âm tiết: 1/ Tiếng Nhật có từ bản địa “xacana” (chỉ con Cá), tiếng Việt chỉ cần đơn âm hóa bằng chiếm cái lõi giữa là Ca thành từ đơn âm tiết là Cá (chỉ con cá), chuyển sang tiếng Thái Lào thành Pá (chỉ con cá). Hoặc tiếng Việt chiếm cái lõi giữa là Can thành từ đơn âm tiết là Cần = Cờn = Còng chỉ nơi cửa sông, bến cá như Cần Giờ, Cần Thơ, cửa Cờn (Nghệ An), chợ Còng (Thanh Hóa). 2/ Tiếng Ân Độ có từ bản địa “Palamitra” (chỉ cây Mít), tiếng Hán mượn bằng cách phiên âm thành “Puoluomi”, tiếng Việt chỉ cần đơn âm hóa bằng chiếm cái lõi giữa là Mít. Rồi phát triển thêm: quả Mít như là một Mẹ ắt phải có nhiều Con bên trong nó. Do vậy từ Mít nở ra từ dính Múi-Món, rõ ràng trong quả Mít có nhiều Múi, mỗi Múi như là một “Mít Con” = Món (đó là chuyện có từ cổ đại). Những năm gần đây nông dân An Giang nhập giống mịt ngoại có trái tròn như trái banh, nên gọi nó là giống “Mít trái Tròn” = “Mít Tròn” = 1+1=0 = Mon, gọi thành mặt hàng là trái Mon. Chống Covid càng ơn Y Dược Ngồi ngẫm sâu minh triết từng lời Hiểu thêm cái lý xưa vời Tiên nhân từng đã rạng ngời phương Đông Bốn chữ ÂN TỨ NINH GIA thấy có treo trong nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Bác Hồ ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An 1 (sưu tầm) ÂN TỨ NINH GIA 恩賜寧家 Dịch nghĩa: Sống chung giữ vững nếp nhà Ban ơn nhau trước, sau là biết ơn. Chú thích: Trong một căn nhà thì các bộ phận đều là ban ơn cho nhau và biết ơn nhau nên cái khung nhà giữ được yên ổn, chắc chắn. Trong một gia đình (hay làng, nước) mỗi thành viên đều ban ơn cho nhau và biết ơn nhau thì gia đình (hay làng xóm, quốc gia) sẽ vững bền. Giảng nghĩa: Sống thuận thiên theo Qui Luật Vũ Trụ (chữ ÂN 恩). Ân tức Ân Trạch恩澤 (Ơn Trời), Trời thì luôn luôn Trong và Sạch, lướt “Trong Sạch” = Trạch 澤, Trong là trong suốt không ô nhiễm như Nước ( 氵 ), Sạch là sạch không ô nhiễm như Nắng ( Nắng biểu ý bằng từ Tạnh, do lướt xuôi “Tư 罒Hạnh幸” = Tạnh. Nắng là cái Năng lượng vô hình biểu ý bằng từ Hư, do lướt ngược “Hạnh幸 Tư罒”= Hư, tức hư không, đồng nghĩa vô hình. Tất cả những ý tứ là thông tin này đều được nén trong chữ vuông Trạch澤, là một trong những “vuông Chứa Nho nhỏ” = “vuông Chữ Nho nhỏ” mà gọi Vo cho rụng đầu (“vuông”) và rụng đuôi (“nhỏ”) còn cái lõi giữa là (“Chữ Nho”) nên chữ vuông còn gọi là chữ nho. Vũ Trụ ban cho (chữ TỨ賜) sự an lành (chữ NINH寧) đến mọi Nước và mọi Người (chữ GIA家). Chú giải: Nghĩa đen của câu Ân Tứ Ninh Gia là: sự ban ơn và biết ơn (chữ Ân恩) của các bộ phận cột, kèo, rui, mè, dứng, vách giằng néo cho nhau (chữ Tứ 賜) làm nên sự vững chãi (chữ Ninh寧) của cái nhà (chữ Gia家). Ngụ ý là những người trong một nhà hay một quốc gia cũng phải như vậy, ban ơn và biết ơn với nhau. Rộng ra thì là ân trạch của Vũ Trụ cho sự sống, sống là phải biết ơn Vũ Trụ. Vũ Trụ là cái NÔI lớn của sự sống, là cái ổ (chữ Ô) gồm tố âm (chữ N, tức Negative) và tố dương (chữ I, tức Innegative), là cái Chứa Nhiều = Chữ Nhiều = Trữ 貯Nhiều lắm = Tự嗣Nhan nhản = Tự自 Nhiên 然 [ Hệ đếm ngũ phân của tiếng Khơme: Muôi (1) –Tê (2) – Bây (3) – Buôn (4) – Prăm (5), đến 5 là nhiều nhất, rồi quay vòng lại Prăm Muôi (6). Do vậy mà Prăm = Năm (tiếng Việt) = Lắm (tiếng Việt) = Rắm (tiếng Việt: rối rắm nghĩa là rối nhiều), Rắm = Rán然 (tiếng Hoa) = Nhan nhản = Nhiên 然 = Nhiêu 饒 = Nhiều (tiếng Việt)]. Sống theo Tự Nhiên là cái Đạo道, tức cái “ Đi 辶 + Đầu 首” = Đạo 道 (lướt “Đi Đầu” = Đạo) của loài người. Sống theo Tự Nhiên, chết trả về với Tự Nhiên gọi là Tiên (Tự Nhiên thiết Tiên, tức lướt “Tự自Nhiên 然” = Tiên僊). Hán ngữ dùng chữ Tự 自 Nhiên 然 đọc là Zi自 Ran 然, dùng chữ Tiên 僊 đọc là Xian 僊. Nhưng Zi Ran thiết Zan, trật, không thành Xian. Tiên là mục đích của Đạo, mục đích của Cụ Lâu = Cụ Lão = Tử 子Lão 老 à Lão 老 Tử 子 (chánh quả đắc Đạo thành Tiên). Không ai biết Cụ Lâu sống thời nào, <Đạo đức Kinh> của cụ là do người đời sau chép lại, chỉ biết rằng Đạo giáo có trước Phật giáo. < Đạo 道đức 德Kinh 京> nôm na là: Đi bằng Đầu (chữ Đạo 道) Đầy ắp (chữ Đức 德) của Con người (chữ Kinh 京, gồm Đầu 亠 + Mình 口 + Túc 小, “Túc Nhiều” = Tiểu小), tức hành động bằng cái đầu có tư duy bao la của con người, cái mà thời nay gọi là “kinh tế tri thức”. Cổ đại chữ Dịch Kinh 易京hay Đạo Đức Kinh道德京đều viết bằng chữ Kinh 京này (nguồn: theo đọc trên mạng của TQ, “Dịch Kinh易京” phải hiểu theo cú pháp Việt đề trước thuyết sau là “thuyết Biến đổi (Dịch易) của tác giả là loài Người (Kinh 京). Chữ Đức có nghĩa là đầy ắp và lan tỏa như giọt nước (ám chỉ cái đồ hình âm dương), như một giọt nước mưa rớt xuống đất nó cũng lan tỏa đi ngay ti tỉ phương, Nước = Nác = Đác = Đức, “Đầy Ức” = Đức, chữ Ức 酭nghĩa là đầy hương thơm của 有rượu 酉 (thơm nức, mùi sực nức), thơm như thế nên chủ một nước cũng gọi là Đức (như Đức Ngài), chủ một giáo lý cũng gọi là Đức (như Đức Phật) dù không “Xức” nước hoa Sài Gòn (xoa đầy thơm tức lướt “Xoa đầy Ức 酭” = Xức). Biểu ý của chữ Đức 德là: một mình nó (chữ Nhất 一) tâm nguyện (chữ Tâm 心) đi (chữ Hành彳) mười phương (chữ Thập 十) bốn biển (chữ Tứ 罒) nghĩa là tự nó lan tỏa “hữu xạ tự nhiên hương” như Phật giáo lan tỏa. Lâu về phía quá khứ thì càng xưa càng lâu hơn, “Lâu Hơn” = Luôn. Lâu về phía tương lai thì càng tới lâu càng muộn, “Lâu Muộn” = Luôn. Còn Đạo道 thì Luôn Luôn tồn tại ở cả ba thì quá khứ, hiện tại, tương lai. Nhưng hiện tại chỉ như một khoảnh khắc của lịch sử cho nên chỉ có tồn tại (vấn đề tồn tại) mà không cần chữ Luôn (khác với vấn đề Luôn Luôn tồn tại, là vấn đề đó kéo dài sự tồn tại suốt cả ba thì). Ví dụ nói: Hiện nay tôi Thường đi bộ và cả đời tôi là Luôn Luôn đi bộ. Đạo 道 là cái lý luận luôn luôn tồn tại. Chả thế mà đến tận bây giờ thế giới vẫn phải lo “đối phó với biến đổi khí hậu” là cái hậu quả do loài người gây ra, mà trách nhiệm đầu tiên là ở người Lãnh Đạo. Lãnh là “Lấy sạch sành Sanh” = Lãnh, như Lãnh lương vậy, là không bỏ sót một đồng nào, sau đó mới chi gì thì chi. Hán ngữ dùng chữ Lão Lão chỉ ý Luôn Luôn, nhưng chỉ có ý nghĩa cho quá khứ: Ngã lão thuyết 我老說 (tôi đã luôn nói ), Ngã thuyết trước 我說著 (tôi đang nói), Ngã tương thuyết 我將說 (tôi sẽ nói). Chữ Ninh 寧 nghĩa là an lành. An lành như Con nằm trong Nôi. “Nôi của Mình” = Ninh 寧, đọc từ trên xuống là: Mái ( 宀) Ấm ( 心) Đựng (皿) Người (丁). Rõ ràng là người Việt đã đặt ra cái chữ Nho gọi là Ninh này, gồm đủ các bộ phận như kê trên, cả tiếng lẫn biểu ý. Cái gọi là “Lục thư tá âm” chỉ là cách gọi về sau nhà Tần thừa kế chữ Nho. Tần Thủy Hoàng phải “đốt sách, chôn nhà nho” để bắt gọi chữ Nho là Hán tự một cách triệt để. “Nôi của Con” = (lướt) “Nôi của Kinh” = Ninh. Đó là cái tiếng được tạo nên đọc là “Ninh”. Con người là Kinh 京, đẻ ra con người tức lướt “Đẻ ra Kinh京” = Đinh 丁, nên từ Đinh 丁chỉ con người, không phân biệt giới tính. Mỗi con người muốn an lành thì phải có được một Mái (chữ Miên宀) Ấm (chữ Tâm 心 ; Tâm thuộc Tá = Lả = Hỏa 火, trong khi Thận thuộc Nậm = Thâm = Thủy 水, theo đông y). Mái ấm ấy là cái “Ổ Đựng” = =Ứng (đáp ứng nhu cầu) Ứng = Hứng = Nưng = “Nưng Tôi” = Nôi của con người, là cái “Nôi Hứng” = Nưng, để “Nưng cái nhỏ Xíu” = =Niu, nên Nôi là cái để Nưng Niu con người. Cái ổ đựng gọi là Nôi ấy hình dáng như cái Máng = Mủng = Minh 皿 (chúa Giê Su sinh ra trong máng cỏ). Chữ Ninh là chữ nho Việt, hội ý của nó là: Mái宀 Ấm心 Đựng 皿Người 丁 (về nghĩa) và là “Nôi đựng Kinh京” = Ninh寧 (về thanh). Cái yên lành như nằm trong nôi gọi là “ninh”. Chữ Ân恩 có gốc ở từ Ăn. Ăn = Ơn = Ân. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ăn là ban ơn cho cái dạ dày đang réo kêu đói, nhưng Ăn lại là mang ơn cái thực phẩm và người làm ra nó. Nhớ ghi là làm thành vết Hằn, Hằn = Ăn = Ấn = In = Kin = Khin khít = Khin = Khảm vào trong tâm, gọi là Tâm Khảm hay “Tâm In” = Tin. Nhớ cái gì là do Tin vào cái ấy. Biết ơn như cái dấu Ấn ở trong lòng. Người có Nhân Tâm thì mới biết ơn, nên chữ Ân 恩 viết biểu ý là Nhân 因 + Tâm心. Nhân 人 là người, là Nhân Đạo人道; Nhân 仁 là Nhân Nghĩa 仁義; Nhân 因cũng là Nguyên Nhân, là cái Lõi = Lý. Nhân仁 các loại hột có loại nhân ăn được, có loại nhân ăn độc chết người, bởi vậy phải biết phân biệt cái nguyên nhân 原 因. Bởi vậy chữ Ân 恩 = Nhân因 + Tâm 心 khuyên người ta phải tỉnh táo để mà nhận cái ban ơn là vô tư hay là dụ dỗ “củ cà rốt”, kẻo mang ơn mắc lỡm cảnh “theo voi hít bã mía”. Đương nhiên nếu ăn phải cái nhân độc mà chưa kịp chết thì cũng biết ơn cái được rút kinh nghiệm “miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Nhớ = Nhiễm (nhiễm hơi là nhớ hơi, nhiễm mùi là nhớ mùi). Nhớ = Nhiễm = Niệm念 . Nhưng “Niệm cái cú ngộ độc do Ăn” = Năn, nên mới phải Ăn Năn, Hối Hận với sai lầm đã mắc phải. Chữ Tứ 賜là “Ta cho người Chứ!” = Tứ 賜, chữ Tứ 賜có bộ thủ “Báu của Tôi” = Bối 貝, cho người thì cho cái báu. Vì Bối là của quí nên chữ Bối 貝 (hình tượng nó là cái Bòi, nói lướt “Bòi Tôi” = Bối) được chuyển chú thành từ chỉ chung các loài nhuyễn thể, là thức ăn có chất đạm chủ yếu quí nhất của người nguyên thủy, nên mới gọi là “Báu của Tôi” = Bối 貝, thành chữ Nho là Bảo Bối 寶貝. (Của quí nhất là cái dương thực khí để gieo giống, nên nói lướt “Bòi Tau” = =Báu, “Bòi Tao” = Bảo). Vỏ Bối vứt quanh đống lửa , bị nung nóng , dội nước cho nguội ai ngờ nó nhuyễn ra thành “Vữa của Bối” = Vôi, sau biết dùng vỏ bối hoặc dùng đá nung vôi, rồi mới biết ăn trầu. Chữ Tứ 賜là động từ người cho (lướt nhấn “Ta cho người Chứ!” = =Tứ), đó là cho ngang hàng. Còn trời cho thì là cho từ trên xuống, tức trời buông rót xuống mà người không biết. Buông Rót viết bằng chữ “Phóng 放Chú 注” = Phú 賦 (trời cho thì trời cũng nói là cho cái “Báu của Tôi” = Bối貝, nên chữ Phú 賦cũng có bộ Bối貝, cái cho của Trời là cái Trời bỏ vội, diễn ra rất nhanh trong khoảnh khắc, ví dụ sực nảy ra sáng kiến gì, đó là do Trời phú, nên chữ Phú賦đã biểu ý đúng là: “Bối 貝Võ武”= Bỏ và “Võ 武Bối貝” = Vội), mới có từ gọi là Trời Phú, trời phú cho anh ta cái trí thông minh, trời phú cho chị ta cái sắc đẹp. Quan tự coi mình quyền thế như trời nên quan cũng chiếm dụng động từ Phú賦về mình. Như tù cải tạo Hoàn Lương được tha thì quan ngục tuyên: “Phú cho con mẹ Hàng Lươn. Được tha ra khỏi án đường khổ sai!”. Chữ Gia 家không đồng nghĩa với từ Nhà. Nhà chỉ là cái vỏ đựng người, chỉ vật thể kiến trúc. Cái âm chính của Nhà là “A” có trong các từ chỉ nhà của nhiều ngôn ngữ, vì phát âm mở của “A” nó nói lên sự thoải mái, tự do khi mình ở nhà mình, A = An, “An cư lạc nghiệp”, “Ta về ta tắm ao ta”, “Ao Ta” = A. A = Ao = Áng = Ang, đều là tên những cái đựng, Áng viết bằng chữ Đàng堂. Nhà tiếng Indonexia là Tangga, tức Đàng Gia堂家hay Gia Đàng家堂của tiếng Việt. Nhà tiếng Hán gọi “Jia” là do dùng chữ Gia家 của Việt nho, tiếng Pháp là Ga (nhà ga), tiếng Nga cũng bắt đầu là âm tiết Ga -, kể cả từ Nhà Nước là Gaxudarstvo. Từ Nhà và từ Gia của tiếng Việt nếu đồng nghĩa như Từ Điển Tiếng Việt và Từ Điển Hán Việt giải thích thì viết Nhà Nước = Gia Quốc = Nhà Quốc = Gia Nước chắc là không sai ngữ pháp (?). từ Nhà chỉ giúp hình dung được cái vỏ, bởi gốc của từ Nhà chính là từ Vỏ như logic mềm hóa phát âm: Vỏ (như vỏ con ốc, nên chữ Ốc 屋để chỉ cái nhà, tiếng Việt Đông cũng đọc là “ốc屋”), Vỏ = Giỏ (giỏ đựng trái cây) = Da (bộ da đựng cơ thể) = Nhà, phát âm của giọng Hà Nội là mềm mại chải chuốt nhất (“Nghe em giọng Bắc êm êm. Bà con hàng xóm đến xem chật Nhà. “Răng chưa sang nhởi Nhà choa? Bà o đã nhốt con ga trong truồng” – thơ Nguyễn Bùi Vợi), vì Nhà là cái Vỏ nên “Nhà Nước” thành ra Vỏ đựng Nước, “Vỏ Chứa” = Vựa, vựa đựng nước để bán . từ Gia mới giúp hình dung được cái quan hệ liên kết, vì nguồn gốc của Gia là từ Giằng, mà “Giằng nhiều Lớp” = Dớp. Dớp Nhà là nói Mối quan hệ ở trong ngôi Nhà. Gia Đàng là nói Mối quan hệ ở trong ngôi Đàng 堂 (Tangga). Nhưng Gia Đình là nói Mối quan hệ của nhiều người ruột thịt. Vì “bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt” mà người ta đã hắt hủi tiếng Việt hàn lâm, ví dụ từ Quốc Gia, ra khỏi tiếng Việt để thay bằng từ Nhà Nước, nửa thế kỷ rồi, bây giờ lại quay lại có Đại học “Quốc Gia” Hà Nội (?). Gia là chỉ quan hệ của những người ruột thịt cùng sống chung dưới một mái Nhà, như chữ Gia 家biểu ý: Mái nhà (bộ thủ Miên宀) + Thịt = lướt nhấn “Thịt Chi 之!” = Thỉ (bộ thủ Thỉ豕), bộ Miên (宀) đại diện cho toàn bộ cấu trúc vỏ, bộ Thỉ (豕) đại diện cho sự sống trong cái vỏ đó, đó là dương âm, cứng mềm tạo nên cái “quan hệ tương tác giữa cứng với nhau, giữa mềm với nhau và giữa cứng với mềm”, gọi là Gia. Quan hệ ấy là sự Giằng níu chặt chẽ giữa các bộ phận cấu trúc cái nhà với nhau, giữa những người sống trong ngôi nhà với nhau và giữa người và vật dụng với nhau, Giằng = Giường = Trường, là một môi trường sinh thái, nên từ Giằng biểu thị quan hệ chặt chẽ ấy mới nhấn lướt là “Giằng Ạ!” = Gia. Dùng từ Quốc Gia thì hình dung được xã hội, chế độ (tức các mối quan hệ trong một nước), còn dùng từ Nhà Nước thì không hình dung được quan hệ liên kết ở trong cái “Nhà” của “Nước” ấy. Nhân tiện, giải thích thêm: chữ Quốc không đồng nghĩa với từ Nước. Chữ Quốc 國 biểu ý chỉ vùng Đất (vuông囗 ) trong đó có các vùng nhỏ (vuông con 口 ) + con người (kẻ 一) + nền sản xuất (qua 戈), như Thái Quốc 泰國 là Thái Land. Tiếng Việt gọi Đất Nước VN, tức gồm Đất liền và Biển Đông ( lãnh Thổ và lãnh Hải). Chữ Hải mới là chữ được chuyển chú thay cho từ Nước, đồng bào Hải nội là đồng bào ở trong Nước, đồng bào Hải ngoại là đồng bảo ở Nước ngoài. Biển Đông chữ nho viết là La Hải 羅海 (biển của tộc Đại La. La = Lả = Lửa, tức của Viêm Bang, La = phương Quẻ Ly tượng Lửa của Dịch học), Biển Đông còn viết là Nam Hải 南海 (biển của người Nam, người Nam là người Canh tức người Kinh), ở đầu Lạnh của cái “Kim chỉ Nam” của cái La – Canh (cái la bàn chỉ hướng). Lạnh = Canh = Căm Căm = Nặm (tiếng Lào) = Nậm (tiếng Tày) = Nước = North = Nam (tiếng Thái Lan) = Khảm = phương Quẻ Khảm tượng Nước của Dịch học). Chữ Nam 南gồm vòng ngoài là bộ Cung, ôm lấy chữ Hạnh, đọc là Cung Hạnh thiết Canh, chỉ người Canh (Kinh) ở hướng Canh. Ngược lại , hướng La là hướng Nóng = Nực = Bức 北 = Bục = Sục = South. Xưa đọc chữ Bức 北là Bạc薄 Mực 墨thiết Bức 北 (<Thuyết Văn Giai Tự說文解字>). Phương hướng ngày nay đã bị đổi ngược tên gọi, chưa rõ vì lý do gì (?) Giằng níu nở ra các từ dính Dập-Dìu (quan hệ sôi động), Dắc-Díu (quan hệ lớn bé, già trẻ), Dan-Díu (quan hệ tình dục), Dan = Gian = =Dâm. Cái quan hệ là Giằng = Gia ấy nhiều tầng nhiều lớp (tam đại , tứ đại đồng đường), gọi là “Giằng nhiều Lớp” = Dớp. Dớp là quan hệ ruột thịt người với người trong một cái Nhà, gọi là Dớp Nhà. Quan hệ tức là hoàn cảnh, Dớp Nhà còn gọi là hoàn cảnh Nhà. Lướt “Dớp Nhà” = Gia, Gia là cái quan hệ, Hán ngữ gọi là Gia Cảnh. Gia là các mối quan hệ ruột thịt, nếu là của nhiều người tức nhiều Đinh, mà nhiều Đinh là “Đinh Nhiều” = 0 + 1 = 1 = Đình (lướt lấy dấu) hay lướt từ lặp “Đinh Đinh” = 0 + 0 = 1 = Đình, thì gọi là Gia Đình. (không phải theo chữ Gia là cái nhà, Đình là cái đình, Gia Đình là cái nhà và cái đình ? ) Gia Đình là mối quan hệ nhiều người ruột thịt. Xây dựng gia đình là xây dựng quan hệ nhiều người nối ruột, không phải là xây dựng cái nhà và cái đình. Lướt “Gia Đình” = =Dinh, Dinh là mối quan hệ nhiều người thân, nếu thêm cho nó cái vỏ kiến trúc tương đương cái nhà thì phải gọi là Dinh Cơ, Dinh Cư, Dinh Thự, Dinh Lũy. Lí ngựa ô: “Anh đưa nàng về Dinh” nghĩa là anh đưa nàng về với các mối quan hệ phía bên anh, dù cái Nhà, cái Cơ, cái Thự của anh có là túp lều cũng vẫn sướng. Truyện Kiều: “Dớp Nhà nhờ lượng người thương daám nài” nghĩa là Các mối quan hệ rắc rối éo le (hoàn cảnh) - Dớp – trong ngôi nhà này – Nhà – nhờ người thương xót mà giải quyết cho, không dám nói dài. “Nói Dài” = Nài, “Nài Chi!” = Nỉ, Nài Nỉ là nói dài nhằm xin xỏ thuyết phục. Từ Daám được nói dài như thế để thành nghĩa ngược lại là Không Dám (như gạch dương thì dài mà gạch âm thì ngắn trong Quẻ Dịch). Trẻ con nói: “Tao thách mày đánh tao đấy, daám!” có nghĩa là “Tao thách mày đánh tao đấy, hổng dám đâu !”. Lướt “Dớp Nhà” = Gia, nhưng nếu chỉ dùng một chữ Gia thì vẫn ý đó (các mối quan hệ -hoàn cảnh) nhưng không cảm thấy kể lể chi li của cái giọng đang nài nỉ thuyết phục người nghe, nên phải dùng hai tiếng là Dớp Nhà cho nó dài hơn. 2 (sưu tầm) 德流光 ĐỨC LƯU QUANG Đức (ĐỨC) là dòng chảy (LƯU) xuyên suốt các thế hệ đem lại sáng láng văn minh (QUANG) cho con người. (Vì là bức hoành phi nên đọc ngược lại vẫn cho ý nghĩa đẹp: Có sáng trí (QUANG) thì mới sinh ra (LƯU) có đức (ĐỨC), nếu vô học ngu tối thì cũng không có đức). 3 (sưu tầm) 藥可通神先後聖 DƯỢC KHẢ THÔNG THẦN TIÊN HẬU THÁNH Thầy thuốc mà thông hiểu dược như thần thì trước sau đều giỏi như thánh. (Cũng hàm ý nữa: Thuốc mà có thể thông đến tận thần kinh thì trước sau gì cũng có công hiệu) 4 (sưu tầm) 四海兄弟 TỨ HẢI HUYNH ĐỆ Bốn biển năm châu đều là anh em 5 (sưu tầm) 醫國有名存古錄 Y QUỖC HỮU DANH TỒN CỔ LỤC Nước giỏi nghề y này đã nổi tiếng từ xưa, cổ thư từng ghi nhận vẫn đang còn. 仁能及物古今師 NHÂN NĂNG CẬP VẬT CỔ KIM SƯ Thầy thuốc xưa nay vẫn lấy lòng nhân đạo mà quán xét sự vật. 醫國有名存古錄 仁能及物古今師 6 (sưu tầm) 醫德刻心聲神藥 Y ĐỨC KHĂC TÂM THANH THẦN DƯỢC Lòng luôn luôn có y đức thì mới làm được nổi tiếng thuốc tốt của mình 同人致敬表心丹 ĐỒNG NHÂN CHÍ KÍNH BIỂU TÂM ĐAN Hết lòng kính trọng bệnh nhân cũng như kính trọng mọi người là thể hiện viên thuốc của mình chính là trái tim của mình. 醫德刻心聲神藥 同人致敬表心丹 7 (sưu tầm) 奎斗精英騰北地 KHUÊ ĐẨU TINH ANH ĐẰNG BẮC ĐỊA Thông minh sáng suốt như sao khuê sao đẩu làm xôn xao cả đất Bắc 聖師妙藥振南邦 THÁNH SƯ DIỆU DƯỢC CHẤN NAM BANG Thầy giỏi, thuốc tốt làm sôi động cả nước Nam. 奎斗精英騰北地 聖師妙藥振南邦 8 (tự viết) 醫德恒心聲神藥 Y ĐỨC HẰNG TÂM THANH THẦN DƯỢC Có đạo đức ngành y luôn luôn trong tâm thì làm được thuốc nổi danh như thần. 懶翁濟世盛精華 LẪN ÔNG TẾ THẾ THỊNH TINH HOA Lãn Ông cứu giúp người đời bằng đầy ắp trí tuệ (Cũng hàm ý nữa: có học được tư cách như của Lãn Ông thì mới trau dồi được tài năng cho chính mình) 醫德恒心聲神藥 懶翁濟世盛精華 9 (sưu tầm) 武烈炳颩黎莫際 VŨ LIỆT BÍNH ĐIÊU LÊ MẠC TẾ Công lao chiến trận còn khắc rõ trong thời Lê – Mạc. 英聲赫濯水山間 ANH THANH HÁCH TRẠC THỦY SƠN GIAN Tiếng tăm anh tài còn hiển hách lan tỏa giữa núi sông (Câu đối này có lẽ nói về hai giai đoạn cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông, thủa đầu là tài về võ, thủa sau là tài về làm thuốc y trị). 武烈炳颩黎莫際 英聲赫濯水山間 10 (sưu tầm) 培慈樹德 BỒI TỪ THỤ ĐỨC Bồi đắp nhân từ vun trồng đức độ (Vì là hoành phi nên đọc ngược lại vẫn là ý đẹp: Đức như cây lớn mãi nhân giống rộng ra mọi miền, hiền từ cứ bồi đắp mãi càng bồi càng to lớn). 11 (sưu tầm) 五福臨門 NGŨ PHÚC LÂM MÔN Nhiều phúc đến nhà (Câu này có xuất xứ từ TQ, ở VN ngày xưa không có câu này, ngày nay HN mua của TQ sản xuất bằng giấy đỏ về dán cửa, ngồi lười mà mơ phúc đến. Câu này không phải là viết theo kiểu hoành phi, vì đọc ngược lại thì không ra ý gì, mà nói lái thì lại càng phạm, không đẹp, Ngũ Phúc nói lái là Ngục Phủ, Lâm Môn nói lái là Lộn Mầm. Mà thiết cả câu thì “Ngũ… Môn” thiết Ngôn, “Môn… Ngũ” thiết Mù, ngôn mù hay mù ngôn đều không đẹp . Vậy mà các trọc phú ở HN khi khánh thành nhà mới là nhà nào cũng mua câu này của Tàu về dán cửa. Bởi vậy câu này nên bỏ đi, không nên dùng treo trong bảo tàng hay dán cửa nhà ở). Nều muốn treo câu hoành phi ý đẹp và hợp thì nên treo câu của Việt nho dưới đây 12 (sưu tầm) 天地君親師 THIÊN ĐỊA QUÂN THÂN SƯ Câu này trong Nam còn thấy nhiều gia đình thường treo, kể cả trong các hội quán của đồng bào Hoa cũng có treo, ngoài Bắc không còn thấy vì bị đốt hết hồi CCRĐ rồi, có lẽ do hiểu chữ Quân là vua tức phong kiến, thực ra Con = Cán = Quân, con bài cũng là quân bài, con làm ở bộ phận riêng gọi là cán bộ, xưng “Quân” cũng là xưng con. Ý nghĩa bức hoành phi này là nhắc nhở làm bất cứ nghề gì cũng phải tôn trọng Âm Dương Ngũ Hành, cũng như tôn trọng Năm vị là: tôn trọng Trời (THIÊN), tôn trọng Đất (ĐỊA), tôn trọng Mình (QUÂN), tôn trọng Dân (THÂN), tôn trọng Thầy (SƯ). Nếu dựng đứng bức hoành phi thì đứng giữa là Mình (tức nhà DN là QUÂN) nhìn lên THIÊN là biết tôn trọng pháp luật nhà nước, nhìn lên ĐỊA là biết bảo vệ môi trường và ủng hộ nhân dân địa phương nơi mình có nhà máy, nhìn xuống thấy THÂN là biết coi người làm như thân nhân của mình, nhìn xuống thấy Sư là biết chức trách mình phải như thầy giáo dục kèm cặp nhân viên của mình. Hoành phi này đọc ngược thì là Thầy thuốc (SƯ) thương kính (THÂN) con dân (QUÂN, “Con Dân” thiết Quân) bởi thầy thuốc có lòng nhân từ mênh mông như mặt đất (ĐỊA) và kiến thức bao la như bầu trời (THIÊN). Hoành phi hay câu đối thường dùng từ theo lối ước lệ (mượn từ qui ước để nói lên một ví dụ cụ thể. Bởi vậy nó hàm nhiều nghĩa. Thuyết minh phải dịch rõ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng hay ẩn ý. Đây là đặc điểm của chữ vuông của người Việt chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa thời cổ đại (nén nhiều thông tin vào một vuông qui ước nhỏ xíu) gọi là “vuông Trữ Nho nhỏ” tức “vuông Chữ Nho nhỏ”, nói tắt bằng vo bỏ đầu (“vuông”) bỏ đuôi (“nhỏ”) đi, còn lấy lõi giữa là “Chữ Nho”. Ví dụ người Nhật xưng ngôi một là “wa-Ta-xi” thì Việt chỉ xưng là “Ta”, Nhật gọi “xa-Ka-na” thì Việt gọi là Cá (Lào, Thái gọi là Pá), v.v. vô cùng nhiều, đó là ngôn ngữ của Đại Tộc Việt có xuất xứ ĐNÁ cổ đại, trở thành ngôn ngữ Bách Việt mà về sau là các nước Ngô, Sở, Việt hơn 1000 năm trước công nguyên, đều toàn là dân Bách Việt, từng làm chủ 18 tỉnh thuộc TQ ngày nay. 13 (sưu tầm) 東壁圖書 ĐÔNG BÍCH ĐỒ THƯ Chữ viết trên tranh ở bức tường phía đông (Ẩn ý là nền văn minh phương Đông đồ sộ như bức tường, ai cũng thấy rõ, cả những ký hiệu và cả văn tự) 14 (sưu tầm) 先尋聖藥 TIÊN TẦM THÁNH DƯỢC Trước tiên phải nghiên cứu tìm tòi cho ra thuốc tốt (rồi mới có thể nói đến chữa được bệnh) 欲惠生民 DỤC HUỆ SINH DÂN Ham muốn với lòng tốt đem lại sự sống cho con người 先尋聖藥 欲惠生民 15 (sưu tầm) 一方切宜辨 Y PHƯƠNG THIẾT NGHI BIỆN Phác đồ điều trị cần thiết phải phản biện kỹ càng 藥性須要詳 DƯỢC TÍNH TU YẾU TƯỜNG Dược tính phải được hiểu rõ ràng 一方切宜辨 藥性須要詳 16 (sưu tầm) 和氣一家樂 HÒA KHÍ NHẤT GIA LẠC Mọi người phải chan hòa hợp tác thì đó là điều sung sướng nhất 德重人壽長 ĐỨC TRỌNG NHÂN THỌ TRƯỜNG Người biết trọng đức là người sẽ sống lâu 和氣一家樂 德重人壽長 17 (sưu tầm) 萬事水流水 VẠN SỰ THỦY LƯU THỦY Mọi sự đều làm trôi chảy như nước (làm ơn không cần đợi báo đáp) 百年心語心 BÁCH NIÊN TÂM NGỮ TÂM Lòng luôn tự nhủ lòng (luôn luôn sống thực với chính mình ) 萬事水流水 百年心語心 18 (sưu tầm) 救病如救火 CỨU BỆNH NHƯ CỨU HỎA Cứu người bệnh cũng gấp như cứu hỏa tai 用藥比用兵 DỤNG DƯỢC TỶ DỤNG BINH Dùng thuốc cũng phải khéo như dùng lính xung trận 救病如救火 用藥比用兵 19 (sưu tầm) 止仰山 CHỈ NGƯỠNG SƠN Đứng im mà ngắm xem núi lớn như thế nào (Nhắc nhở: Đừng có mơ tưởng cao xa, hãy làm gấp những việc cần làm ngay) 20 (sưu tầm) 欲惠生民 DỤC HUỆ SINH DÂN Lòng tốt ham muốn đem lại sự sống cho con người 21 (sưu tầm) 先找聖藥 TIÊN TRẢO THÁNH DƯỢC Trước tiên phải tìm được thuốc tốt 22 (sưu tầm) 醫方失治責在庸誤緩遲 Y PHUONG THẤT TRỊ TRÁCH TẠI DUNG NGỘ HOÃN TRỆ Phác đồ điều trị mà không trị nổi bệnh là bởi tại do dự, sai lầm, lừng khừng, chậm trễ 藥應有功責乎栽收制儲 DƯỢC ỨNG HỮU CÔNG QUÍ HỒ TÀI THU CHẾ TRỪ Thuốc đáp ứng công dụng là do biết cách cắt thu chế biến để dành 醫方失治責在庸誤緩遲 藥應有功責乎栽收製儲 23 (sưu tầm) 醫方失治責在庸誤緩遲 Y PHUONG THẤT TRỊ TRÁCH TẠI DUNG NGỘ HOÃN TRỆ Phác đồ điều trị mà không trị nổi bệnh là bởi tại do dự, sai lầm, lừng khừng, chậm trễ 藥應有功貴乎樹取泡制 DƯỢC ỨNG HỮU CÔNG QUÍ HỒ THỤ THỦ CHẾ BÀO Thuốc dùng có công hiệu là do ở cây lấy đem bào chế 醫方失治責在庸誤緩遲 藥應有功貴乎樹取製泡 24 (tự viết) Bức hoành phi đơn giản nhất dưới đây, nói lên cái lý cân bằng âm dương của người Việt, là khi làm cho cơ thể con người được cân bằng âm dương thì sẽ khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. 天下公平 THIÊN HẠ CÔNG BẰNG Đây là đạo lý để đời của người Việt cả trong y trị lẫn trong chính trị. Bốn chữ này là BỐN = BỔN = VỐN, là bốn Ven của cái lỗ đồng tiền Việt. Ven + Ven = 0 + 0 = 1 = Vèn, về dấu thanh điệu thì như 0 + 0 = 1 (dấu “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm Âm = 0; dấu “huyền”, “sắc”, “hỏi” thuộc nhóm Dương = 1). Vèn là hai ven, nhưng Vèn còn gọi là Bẹn, và Bẹn = Bên = Biên. (Các bà nông dân Bắc Bộ chửi con: “Mày không chịu đi làm cứ ở nhà mà ăn “vèn” lồn mẹ mày mãi à?”), đó chính là tiền đề của câu thành ngữ “ăn quẩn cối xay”, giống như các nhà qui hoạch ngày nay chỉ ăn sẵn đất ruộng mật bờ xôi của nông dân để làm đủ loại “dự án”. Nhưng Vèn + Vèn = 1 + 1 = 0 = Vẹn (dấu thanh điệu là 1+1=0). Đồng tiền xưa đúc bằng đồng, gồm hình Tròn ngoài (hình tròn tượng trời) và 4 Ven ở trong (hình vuông tượng đất) là Tròn Vẹn. Tròn Vẹn thiết Trọn, Trọn có nghĩa là Tất Cả (universal – vũ trụ). Nhưng Tất Cả thiết Ta (Ta = Ngã 我 = Người, là con người – chứng tỏ cấu tạo cơ thể cùng với tinh thần của mỗi con người là một tiểu vũ trụ). Ngược lại Vẹn Tròn thiết Vón (đó là sự nén các yếu tố vũ trụ trong cơ thể mỗi con người, cũng như sự nén thông tin trong mỗi chữ vuông – chữ Nho của người Việt. Bốn chữ THIÊN HẠ CÔNG BẰNG 天下公平gồm đúng 16 nét, đó là lý do tại sao cân tiểu ly của Đông Y là 16 lạng mới đúng đủ 1 cân, (“kẻ tám lạng bằng người nửa cân”) và dân miền Tây Nam Bộ đếm trái cây hay hột vịt lộn là cứ một chục bằng 16. Trong mỗi cơ thể sống có hai bát quái tồn tại, chia thành hai nửa Âm/Dương, như Minh冥 / Minh明. Minh 冥 (tối) là cái Ta Âm thiết Tâm (tâm thức), Minh 明 (sáng) là cái Ta Dương thiết Tướng (tướng mạo thể hiện trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân v.v., thầy lang căn cứ vào đó mà chẩn bệnh). Minh 明sáng viết biểu ý bằng ánh sáng trời trăng là Nhật 日Nguyệt 月thiết Nhiệt 热nghĩa là nóng, người Đài Loan lại đọc chữ Nhiệt 热là “lửa”. Minh 冥 tối viết biểu ý bằng Mịch 冖Và 曰Lâu六, phải hiểu bằng lái lại là Mầu Và Linh (mầu nhiệm và linh thiêng) vì tâm thức thuộc người “âm” nên đọc chữ “ảo”. Người Kinh京 còn xưng là “Mình”, vợ chồng cứ xưng lẫn lộn là “Ta;”,với “Minh” đúng như bình đẳng là bằng đỉnh của thiên hạ công bằng. Xưng là Mình vì cơ thể có hai Minh, nên Minh 冥 + Minh 明 = 0 + 0 =1 = =Mình (dấu thanh điệu là 0+0=1). Chữ Kinh京viết biểu ý gồm Đầu 亠 + Mình 口 + Chân Tay 小 (“Túc Nhiều” = Tiểu小), đó là con người, và chữ rất cân bằng hai nửa theo chiều dọc chia đôi. Hai bát quái là 16. Mười Sáu thiết Máu, ngược lại Sáu Mười thiết Sưởi, đó là con người sống động, là Máu Sưởi = Máu Sôi = Môi. Môi là đứng giữa Thiên và Địa, đó là Nhân. Môi = Mỗi = Mọi (người Tây Nguyên) = Man (người Việt Bắc) = Mằn (người Quảng Đông) = Mân (người Phúc Kiến) = Cần (người Tày) = Con = Kinh, đều là cùng một NÔI = Nòi (cùng gen). “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm toàn là dân Bách Việt ở” ( Khổng Tử Viết 孔子曰 tức Khổng Tử nói). Chữ Viết 曰biểu y là cái mồm có lằn môi vạch ngang, nghĩa là nói, mà là người Việt nói, vì lướt lấy dấu “Việt 越Nói” = Viết曰 (tương tự như “Giết Sạch” = Diệt滅), Viết (nói) được chuyển nghĩa chỉ sự ghi ký tự là động từ Viết (bằng cái Bút để “Put” lên mạng cho người đọc). Chứa = Chữ = Trữ貯, nhưng còn lướt lấy dấu “Trữ 貯để Dành” = =Trừ 儲. Chú giải: Ẩn ý có thêm của THIÊN HẠ CÔNG BẰNG là: - THIÊN BẰNG nói lái là THĂNG BIẾN (sự phát triển đi lên) - THIÊN HẠ nói là là THA HIỀN (hiền hậu rộng lượng vị tha) - HẠ CÔNG nói lái là HỐNG CA (lớn giọng ca hát) - CÔNG BẰNG nói lái là CĂNG BỒNG (nội dung chứa đầy) Ẩn ý ấy là: Xã hội no đủ, vị tha Người người hiền hậu ngợi ca cuộc đời Sôi động đổi mới nơi nơi Đất nước phát triển rạng ngời thăng long. 25 (sưu tầm) 秋飲黃花酒 THU ẨM HOÀNG HOA TỬU 冬吟白雪詩 ĐÔNG NGÂM BẠCH TUYẾT THI 春游芳草地 XUÂN DU PHƯƠNG THẢO ĐỊA 下賞綠荷池 HẠ THƯỞNG LỤC HÀ TRÌ Xuân chơi thảm cỏ thơm hoa Hè ngồi thưởng mát ao ta sen hồng Thu về uống rượu hoa vàng Đông ngồi chăn ấm ngâm nàng tuyết thơ. 秋飲黃花酒 冬吟白雪詩 春游芳草地 下賞綠荷池 26 (sưu tầm) 基德積 CƠ ĐỨC TÍCH Lấy tích đức làm nền tảng cho sự nghiệp 后傳仁 HẬU TRUYỀN NHÂN Lấy nhân nghĩa truyền lại cho đời sau 基德積 后傳仁 27 (sưu tầm) 和氣吉祥 HÒA KHÍ CÁT TƯỜNG Sống hòa thuận là điều tốt lành 28 (sưu tẩm) 土產有殊北國 THỔ SẢN HỮU THÙ BẮC QUỐC Dược liệu có tính đặc thù của thổ nhưỡng phương Bắc 天書越定南邦 THIÊN THƯ VIỆT ĐỊNH NAM BANG Nhưng làm được thuốc tốt là do người Việt biết phương pháp truyền thống là theo sách Trời tức thuyết Âm Dương Ngũ Hành. 土產有殊北國 天書越定南邦 29 (tự viết) LÊ TỘC HIỂN TÔNG, HẬU DUỆ THỊNH HƯNG DANH, TÀI, TRÍ ĐÔNG TÂY LẠC NGHIỆP, NHI TÔN KHẮC NIỆM ĐỨC, NHÂN, TÂM ( Họ Lê triển rộng nhiều chi, các đời sau đều thành đạt trọn vẹn tiếng tăm, giàu có, trí tuệ. An cư lạc nghiệp ở Ta hay ở Tây, con cháu vẫn từng giây nhớ giữ đức độ, nhân từ, tâm huyết). Đông Tây còn ẩn ý là làm thuốc Đông y và Tây y kết hợp. 黎族顯宗後裔盛興名財智 東西樂業兒孫刻念德仁心 30 (tự viết) 黎德耀明 LÊ ĐỨC DIỆU MINH (Họ Lê có đức chiếu sáng) Đọc xuôi có nghĩa là: Nhân dân (LÊ) có đức (ĐỨC) chiếu (DIỆU, “Dịu Chiếu” = Diệu) sáng (MINH) Đọc ngược có nghĩa là: Sự minh bạch (MINH) rọi tỏ (DIỆU) cái đức (ĐỨC) của họ Lê (LÊ). Chữ LÊ黎 biểu ý là: Nhân dân ( 人 ) là Đồng (丿 ) Bào (勹 ) trồng Lúa (禾 ) Nước (水 ) Lê…Minh thiết Linh. Minh… Lê thiết Mê. Lê Đức thiết Lực. Đức Lê thiết Đế. Diệu Minh thiết Dinh. Minh Diệu thiết Miếu. Bốn chữ hoành phi này tạo ra các từ ẩn là Đế Minh, Mê Linh, Lực, Dinh, Miếu. Do vậy bốn chữ hoành phi này còn hàm ẩn ý là cái miếu thờ Đế Minh và thờ Hai Bà Trưng (Mê Linh). Tức còn có mang nội dung là: Miếu đế vương lực cường dinh tráng Thủy tổ xưa sáng rạng Đế Minh Trưng Vương oanh liệt Mê Linh Lê dân có đức diệu minh muôn đời. Kết luận: Tiếng Việt phong phú vô vàn Hàn lâm trộn với dân gian cùng hành Lời văn hàm súc uyên thâm Công người xưa bốn nghìn năm trau dồi. Chống Covid càng ơn Y Dược Ngồi ngẫm sâu minh triết từng lời Hiểu thêm cái lý xưa vời Tiên nhân từng đã rạng ngời phương Đông Bốn chữ ÂN TỨ NINH GIA thấy có treo trong nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc thân sinh Bác Hồ ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An 1 (sưu tầm) ÂN TỨ NINH GIA 恩賜寧家 Dịch nghĩa: Sống chung giữ vững nếp nhà Ban ơn nhau trước, sau là biết ơn. Chú thích: Trong một căn nhà thì các bộ phận đều là ban ơn cho nhau và biết ơn nhau nên cái khung nhà giữ được yên ổn, chắc chắn. Trong một gia đình (hay làng, nước) mỗi thành viên đều ban ơn cho nhau và biết ơn nhau thì gia đình (hay làng xóm, quốc gia) sẽ vững bền. Giảng nghĩa: Sống thuận thiên theo Qui Luật Vũ Trụ (chữ ÂN 恩). Ân tức Ân Trạch恩澤 (Ơn Trời), Trời thì luôn luôn Trong và Sạch, lướt “Trong Sạch” = Trạch 澤, Trong là trong suốt không ô nhiễm như Nước ( 氵 ), Sạch là sạch không ô nhiễm như Nắng ( Nắng biểu ý bằng từ Tạnh, do lướt xuôi “Tư 罒Hạnh幸” = Tạnh. Nắng là cái Năng lượng vô hình biểu ý bằng từ Hư, do lướt ngược “Hạnh幸 Tư罒”= Hư, tức hư không, đồng nghĩa vô hình. Tất cả những ý tứ là thông tin này đều được nén trong chữ vuông Trạch澤, là một trong những “vuông Chứa Nho nhỏ” = “vuông Chữ Nho nhỏ” mà gọi Vo cho rụng đầu (“vuông”) và rụng đuôi (“nhỏ”) còn cái lõi giữa là (“Chữ Nho”) nên chữ vuông còn gọi là chữ nho. Vũ Trụ ban cho (chữ TỨ賜) sự an lành (chữ NINH寧) đến mọi Nước và mọi Người (chữ GIA家). Chú giải: Nghĩa đen của câu Ân Tứ Ninh Gia là: sự ban ơn và biết ơn (chữ Ân恩) của các bộ phận cột, kèo, rui, mè, dứng, vách giằng néo cho nhau (chữ Tứ 賜) làm nên sự vững chãi (chữ Ninh寧) của cái nhà (chữ Gia家). Ngụ ý là những người trong một nhà hay một quốc gia cũng phải như vậy, ban ơn và biết ơn với nhau. Rộng ra thì là ân trạch của Vũ Trụ cho sự sống, sống là phải biết ơn Vũ Trụ. Vũ Trụ là cái NÔI lớn của sự sống, là cái ổ (chữ Ô) gồm tố âm (chữ N, tức Negative) và tố dương (chữ I, tức Innegative), là cái Chứa Nhiều = Chữ Nhiều = Trữ 貯Nhiều lắm = Tự嗣Nhan nhản = Tự自 Nhiên 然 [ Hệ đếm ngũ phân của tiếng Khơme: Muôi (1) –Tê (2) – Bây (3) – Buôn (4) – Prăm (5), đến 5 là nhiều nhất, rồi quay vòng lại Prăm Muôi (6). Do vậy mà Prăm = Năm (tiếng Việt) = Lắm (tiếng Việt) = Rắm (tiếng Việt: rối rắm nghĩa là rối nhiều), Rắm = Rán然 (tiếng Hoa) = Nhan nhản = Nhiên 然 = Nhiêu 饒 = Nhiều (tiếng Việt)]. Sống theo Tự Nhiên là cái Đạo道, tức cái “ Đi 辶 + Đầu 首” = Đạo 道 (lướt “Đi Đầu” = Đạo) của loài người. Sống theo Tự Nhiên, chết trả về với Tự Nhiên gọi là Tiên (Tự Nhiên thiết Tiên, tức lướt “Tự自Nhiên 然” = Tiên僊). Hán ngữ dùng chữ Tự 自 Nhiên 然 đọc là Zi自 Ran 然, dùng chữ Tiên 僊 đọc là Xian 僊. Nhưng Zi Ran thiết Zan, trật, không thành Xian. Tiên là mục đích của Đạo, mục đích của Cụ Lâu = Cụ Lão = Tử 子Lão 老 à Lão 老 Tử 子 (chánh quả đắc Đạo thành Tiên). Không ai biết Cụ Lâu sống thời nào, <Đạo đức Kinh> của cụ là do người đời sau chép lại, chỉ biết rằng Đạo giáo có trước Phật giáo. < Đạo 道đức 德Kinh 京> nôm na là: Đi bằng Đầu (chữ Đạo 道) Đầy ắp (chữ Đức 德) của Con người (chữ Kinh 京, gồm Đầu 亠 + Mình 口 + Túc 小, “Túc Nhiều” = Tiểu小), tức hành động bằng cái đầu có tư duy bao la của con người, cái mà thời nay gọi là “kinh tế tri thức”. Cổ đại chữ Dịch Kinh 易京hay Đạo Đức Kinh道德京đều viết bằng chữ Kinh 京này (nguồn: theo đọc trên mạng của TQ, “Dịch Kinh易京” phải hiểu theo cú pháp Việt đề trước thuyết sau là “thuyết Biến đổi (Dịch易) của tác giả là loài Người (Kinh 京). Chữ Đức có nghĩa là đầy ắp và lan tỏa như giọt nước (ám chỉ cái đồ hình âm dương), như một giọt nước mưa rớt xuống đất nó cũng lan tỏa đi ngay ti tỉ phương, Nước = Nác = Đác = Đức, “Đầy Ức” = Đức, chữ Ức 酭nghĩa là đầy hương thơm của 有rượu 酉 (thơm nức, mùi sực nức), thơm như thế nên chủ một nước cũng gọi là Đức (như Đức Ngài), chủ một giáo lý cũng gọi là Đức (như Đức Phật) dù không “Xức” nước hoa Sài Gòn (xoa đầy thơm tức lướt “Xoa đầy Ức 酭” = Xức). Biểu ý của chữ Đức 德là: một mình nó (chữ Nhất 一) tâm nguyện (chữ Tâm 心) đi (chữ Hành彳) mười phương (chữ Thập 十) bốn biển (chữ Tứ 罒) nghĩa là tự nó lan tỏa “hữu xạ tự nhiên hương” như Phật giáo lan tỏa. Lâu về phía quá khứ thì càng xưa càng lâu hơn, “Lâu Hơn” = Luôn. Lâu về phía tương lai thì càng tới lâu càng muộn, “Lâu Muộn” = Luôn. Còn Đạo道 thì Luôn Luôn tồn tại ở cả ba thì quá khứ, hiện tại, tương lai. Nhưng hiện tại chỉ như một khoảnh khắc của lịch sử cho nên chỉ có tồn tại (vấn đề tồn tại) mà không cần chữ Luôn (khác với vấn đề Luôn Luôn tồn tại, là vấn đề đó kéo dài sự tồn tại suốt cả ba thì). Ví dụ nói: Hiện nay tôi Thường đi bộ và cả đời tôi là Luôn Luôn đi bộ. Đạo 道 là cái lý luận luôn luôn tồn tại. Chả thế mà đến tận bây giờ thế giới vẫn phải lo “đối phó với biến đổi khí hậu” là cái hậu quả do loài người gây ra, mà trách nhiệm đầu tiên là ở người Lãnh Đạo. Lãnh là “Lấy sạch sành Sanh” = Lãnh, như Lãnh lương vậy, là không bỏ sót một đồng nào, sau đó mới chi gì thì chi. Hán ngữ dùng chữ Lão Lão chỉ ý Luôn Luôn, nhưng chỉ có ý nghĩa cho quá khứ: Ngã lão thuyết 我老說 (tôi đã luôn nói ), Ngã thuyết trước 我說著 (tôi đang nói), Ngã tương thuyết 我將說 (tôi sẽ nói). Chữ Ninh 寧 nghĩa là an lành. An lành như Con nằm trong Nôi. “Nôi của Mình” = Ninh 寧, đọc từ trên xuống là: Mái ( 宀) Ấm ( 心) Đựng (皿) Người (丁). Rõ ràng là người Việt đã đặt ra cái chữ Nho gọi là Ninh này, gồm đủ các bộ phận như kê trên, cả tiếng lẫn biểu ý. Cái gọi là “Lục thư tá âm” chỉ là cách gọi về sau nhà Tần thừa kế chữ Nho. Tần Thủy Hoàng phải “đốt sách, chôn nhà nho” để bắt gọi chữ Nho là Hán tự một cách triệt để. “Nôi của Con” = (lướt) “Nôi của Kinh” = Ninh. Đó là cái tiếng được tạo nên đọc là “Ninh”. Con người là Kinh 京, đẻ ra con người tức lướt “Đẻ ra Kinh京” = Đinh 丁, nên từ Đinh 丁chỉ con người, không phân biệt giới tính. Mỗi con người muốn an lành thì phải có được một Mái (chữ Miên宀) Ấm (chữ Tâm 心 ; Tâm thuộc Tá = Lả = Hỏa 火, trong khi Thận thuộc Nậm = Thâm = Thủy 水, theo đông y). Mái ấm ấy là cái “Ổ Đựng” = =Ứng (đáp ứng nhu cầu) Ứng = Hứng = Nưng = “Nưng Tôi” = Nôi của con người, là cái “Nôi Hứng” = Nưng, để “Nưng cái nhỏ Xíu” = =Niu, nên Nôi là cái để Nưng Niu con người. Cái ổ đựng gọi là Nôi ấy hình dáng như cái Máng = Mủng = Minh 皿 (chúa Giê Su sinh ra trong máng cỏ). Chữ Ninh là chữ nho Việt, hội ý của nó là: Mái宀 Ấm心 Đựng 皿Người 丁 (về nghĩa) và là “Nôi đựng Kinh京” = Ninh寧 (về thanh). Cái yên lành như nằm trong nôi gọi là “ninh”. Chữ Ân恩 có gốc ở từ Ăn. Ăn = Ơn = Ân. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Ăn là ban ơn cho cái dạ dày đang réo kêu đói, nhưng Ăn lại là mang ơn cái thực phẩm và người làm ra nó. Nhớ ghi là làm thành vết Hằn, Hằn = Ăn = Ấn = In = Kin = Khin khít = Khin = Khảm vào trong tâm, gọi là Tâm Khảm hay “Tâm In” = Tin. Nhớ cái gì là do Tin vào cái ấy. Biết ơn như cái dấu Ấn ở trong lòng. Người có Nhân Tâm thì mới biết ơn, nên chữ Ân 恩 viết biểu ý là Nhân 因 + Tâm心. Nhân 人 là người, là Nhân Đạo人道; Nhân 仁 là Nhân Nghĩa 仁義; Nhân 因cũng là Nguyên Nhân, là cái Lõi = Lý. Nhân仁 các loại hột có loại nhân ăn được, có loại nhân ăn độc chết người, bởi vậy phải biết phân biệt cái nguyên nhân 原 因. Bởi vậy chữ Ân 恩 = Nhân因 + Tâm 心 khuyên người ta phải tỉnh táo để mà nhận cái ban ơn là vô tư hay là dụ dỗ “củ cà rốt”, kẻo mang ơn mắc lỡm cảnh “theo voi hít bã mía”. Đương nhiên nếu ăn phải cái nhân độc mà chưa kịp chết thì cũng biết ơn cái được rút kinh nghiệm “miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Nhớ = Nhiễm (nhiễm hơi là nhớ hơi, nhiễm mùi là nhớ mùi). Nhớ = Nhiễm = Niệm念 . Nhưng “Niệm cái cú ngộ độc do Ăn” = Năn, nên mới phải Ăn Năn, Hối Hận với sai lầm đã mắc phải. Chữ Tứ 賜là “Ta cho người Chứ!” = Tứ 賜, chữ Tứ 賜có bộ thủ “Báu của Tôi” = Bối 貝, cho người thì cho cái báu. Vì Bối là của quí nên chữ Bối 貝 (hình tượng nó là cái Bòi, nói lướt “Bòi Tôi” = Bối) được chuyển chú thành từ chỉ chung các loài nhuyễn thể, là thức ăn có chất đạm chủ yếu quí nhất của người nguyên thủy, nên mới gọi là “Báu của Tôi” = Bối 貝, thành chữ Nho là Bảo Bối 寶貝. (Của quí nhất là cái dương thực khí để gieo giống, nên nói lướt “Bòi Tau” = =Báu, “Bòi Tao” = Bảo). Vỏ Bối vứt quanh đống lửa , bị nung nóng , dội nước cho nguội ai ngờ nó nhuyễn ra thành “Vữa của Bối” = Vôi, sau biết dùng vỏ bối hoặc dùng đá nung vôi, rồi mới biết ăn trầu. Chữ Tứ 賜là động từ người cho (lướt nhấn “Ta cho người Chứ!” = =Tứ), đó là cho ngang hàng. Còn trời cho thì là cho từ trên xuống, tức trời buông rót xuống mà người không biết. Buông Rót viết bằng chữ “Phóng 放Chú 注” = Phú 賦 (trời cho thì trời cũng nói là cho cái “Báu của Tôi” = Bối貝, nên chữ Phú 賦cũng có bộ Bối貝, cái cho của Trời là cái Trời bỏ vội, diễn ra rất nhanh trong khoảnh khắc, ví dụ sực nảy ra sáng kiến gì, đó là do Trời phú, nên chữ Phú賦đã biểu ý đúng là: “Bối 貝Võ武”= Bỏ và “Võ 武Bối貝” = Vội), mới có từ gọi là Trời Phú, trời phú cho anh ta cái trí thông minh, trời phú cho chị ta cái sắc đẹp. Quan tự coi mình quyền thế như trời nên quan cũng chiếm dụng động từ Phú賦về mình. Như tù cải tạo Hoàn Lương được tha thì quan ngục tuyên: “Phú cho con mẹ Hàng Lươn. Được tha ra khỏi án đường khổ sai!”. Chữ Gia 家không đồng nghĩa với từ Nhà. Nhà chỉ là cái vỏ đựng người, chỉ vật thể kiến trúc. Cái âm chính của Nhà là “A” có trong các từ chỉ nhà của nhiều ngôn ngữ, vì phát âm mở của “A” nó nói lên sự thoải mái, tự do khi mình ở nhà mình, A = An, “An cư lạc nghiệp”, “Ta về ta tắm ao ta”, “Ao Ta” = A. A = Ao = Áng = Ang, đều là tên những cái đựng, Áng viết bằng chữ Đàng堂. Nhà tiếng Indonexia là Tangga, tức Đàng Gia堂家hay Gia Đàng家堂của tiếng Việt. Nhà tiếng Hán gọi “Jia” là do dùng chữ Gia家 của Việt nho, tiếng Pháp là Ga (nhà ga), tiếng Nga cũng bắt đầu là âm tiết Ga -, kể cả từ Nhà Nước là Gaxudarstvo. Từ Nhà và từ Gia của tiếng Việt nếu đồng nghĩa như Từ Điển Tiếng Việt và Từ Điển Hán Việt giải thích thì viết Nhà Nước = Gia Quốc = Nhà Quốc = Gia Nước chắc là không sai ngữ pháp (?). từ Nhà chỉ giúp hình dung được cái vỏ, bởi gốc của từ Nhà chính là từ Vỏ như logic mềm hóa phát âm: Vỏ (như vỏ con ốc, nên chữ Ốc 屋để chỉ cái nhà, tiếng Việt Đông cũng đọc là “ốc屋”), Vỏ = Giỏ (giỏ đựng trái cây) = Da (bộ da đựng cơ thể) = Nhà, phát âm của giọng Hà Nội là mềm mại chải chuốt nhất (“Nghe em giọng Bắc êm êm. Bà con hàng xóm đến xem chật Nhà. “Răng chưa sang nhởi Nhà choa? Bà o đã nhốt con ga trong truồng” – thơ Nguyễn Bùi Vợi), vì Nhà là cái Vỏ nên “Nhà Nước” thành ra Vỏ đựng Nước, “Vỏ Chứa” = Vựa, vựa đựng nước để bán . từ Gia mới giúp hình dung được cái quan hệ liên kết, vì nguồn gốc của Gia là từ Giằng, mà “Giằng nhiều Lớp” = Dớp. Dớp Nhà là nói Mối quan hệ ở trong ngôi Nhà. Gia Đàng là nói Mối quan hệ ở trong ngôi Đàng 堂 (Tangga). Nhưng Gia Đình là nói Mối quan hệ của nhiều người ruột thịt. Vì “bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt” mà người ta đã hắt hủi tiếng Việt hàn lâm, ví dụ từ Quốc Gia, ra khỏi tiếng Việt để thay bằng từ Nhà Nước, nửa thế kỷ rồi, bây giờ lại quay lại có Đại học “Quốc Gia” Hà Nội (?). Gia là chỉ quan hệ của những người ruột thịt cùng sống chung dưới một mái Nhà, như chữ Gia 家biểu ý: Mái nhà (bộ thủ Miên宀) + Thịt = lướt nhấn “Thịt Chi 之!” = Thỉ (bộ thủ Thỉ豕), bộ Miên (宀) đại diện cho toàn bộ cấu trúc vỏ, bộ Thỉ (豕) đại diện cho sự sống trong cái vỏ đó, đó là dương âm, cứng mềm tạo nên cái “quan hệ tương tác giữa cứng với nhau, giữa mềm với nhau và giữa cứng với mềm”, gọi là Gia. Quan hệ ấy là sự Giằng níu chặt chẽ giữa các bộ phận cấu trúc cái nhà với nhau, giữa những người sống trong ngôi nhà với nhau và giữa người và vật dụng với nhau, Giằng = Giường = Trường, là một môi trường sinh thái, nên từ Giằng biểu thị quan hệ chặt chẽ ấy mới nhấn lướt là “Giằng Ạ!” = Gia. Dùng từ Quốc Gia thì hình dung được xã hội, chế độ (tức các mối quan hệ trong một nước), còn dùng từ Nhà Nước thì không hình dung được quan hệ liên kết ở trong cái “Nhà” của “Nước” ấy. Nhân tiện, giải thích thêm: chữ Quốc không đồng nghĩa với từ Nước. Chữ Quốc 國 biểu ý chỉ vùng Đất (vuông囗 ) trong đó có các vùng nhỏ (vuông con 口 ) + con người (kẻ 一) + nền sản xuất (qua 戈), như Thái Quốc 泰國 là Thái Land. Tiếng Việt gọi Đất Nước VN, tức gồm Đất liền và Biển Đông ( lãnh Thổ và lãnh Hải). Chữ Hải mới là chữ được chuyển chú thay cho từ Nước, đồng bào Hải nội là đồng bào ở trong Nước, đồng bào Hải ngoại là đồng bảo ở Nước ngoài. Biển Đông chữ nho viết là La Hải 羅海 (biển của tộc Đại La. La = Lả = Lửa, tức của Viêm Bang, La = phương Quẻ Ly tượng Lửa của Dịch học), Biển Đông còn viết là Nam Hải 南海 (biển của người Nam, người Nam là người Canh tức người Kinh), ở đầu Lạnh của cái “Kim chỉ Nam” của cái La – Canh (cái la bàn chỉ hướng). Lạnh = Canh = Căm Căm = Nặm (tiếng Lào) = Nậm (tiếng Tày) = Nước = North = Nam (tiếng Thái Lan) = Khảm = phương Quẻ Khảm tượng Nước của Dịch học). Chữ Nam 南gồm vòng ngoài là bộ Cung, ôm lấy chữ Hạnh, đọc là Cung Hạnh thiết Canh, chỉ người Canh (Kinh) ở hướng Canh. Ngược lại , hướng La là hướng Nóng = Nực = Bức 北 = Bục = Sục = South. Xưa đọc chữ Bức 北là Bạc薄 Mực 墨thiết Bức 北 (<Thuyết Văn Giai Tự說文解字>). Phương hướng ngày nay đã bị đổi ngược tên gọi, chưa rõ vì lý do gì (?) Giằng níu nở ra các từ dính Dập-Dìu (quan hệ sôi động), Dắc-Díu (quan hệ lớn bé, già trẻ), Dan-Díu (quan hệ tình dục), Dan = Gian = =Dâm. Cái quan hệ là Giằng = Gia ấy nhiều tầng nhiều lớp (tam đại , tứ đại đồng đường), gọi là “Giằng nhiều Lớp” = Dớp. Dớp là quan hệ ruột thịt người với người trong một cái Nhà, gọi là Dớp Nhà. Quan hệ tức là hoàn cảnh, Dớp Nhà còn gọi là hoàn cảnh Nhà. Lướt “Dớp Nhà” = Gia, Gia là cái quan hệ, Hán ngữ gọi là Gia Cảnh. Gia là các mối quan hệ ruột thịt, nếu là của nhiều người tức nhiều Đinh, mà nhiều Đinh là “Đinh Nhiều” = 0 + 1 = 1 = Đình (lướt lấy dấu) hay lướt từ lặp “Đinh Đinh” = 0 + 0 = 1 = Đình, thì gọi là Gia Đình. (không phải theo chữ Gia là cái nhà, Đình là cái đình, Gia Đình là cái nhà và cái đình ? ) Gia Đình là mối quan hệ nhiều người ruột thịt. Xây dựng gia đình là xây dựng quan hệ nhiều người nối ruột, không phải là xây dựng cái nhà và cái đình. Lướt “Gia Đình” = =Dinh, Dinh là mối quan hệ nhiều người thân, nếu thêm cho nó cái vỏ kiến trúc tương đương cái nhà thì phải gọi là Dinh Cơ, Dinh Cư, Dinh Thự, Dinh Lũy. Lí ngựa ô: “Anh đưa nàng về Dinh” nghĩa là anh đưa nàng về với các mối quan hệ phía bên anh, dù cái Nhà, cái Cơ, cái Thự của anh có là túp lều cũng vẫn sướng. Truyện Kiều: “Dớp Nhà nhờ lượng người thương daám nài” nghĩa là Các mối quan hệ rắc rối éo le (hoàn cảnh) - Dớp – trong ngôi nhà này – Nhà – nhờ người thương xót mà giải quyết cho, không dám nói dài. “Nói Dài” = Nài, “Nài Chi!” = Nỉ, Nài Nỉ là nói dài nhằm xin xỏ thuyết phục. Từ Daám được nói dài như thế để thành nghĩa ngược lại là Không Dám (như gạch dương thì dài mà gạch âm thì ngắn trong Quẻ Dịch). Trẻ con nói: “Tao thách mày đánh tao đấy, daám!” có nghĩa là “Tao thách mày đánh tao đấy, hổng dám đâu !”. Lướt “Dớp Nhà” = Gia, nhưng nếu chỉ dùng một chữ Gia thì vẫn ý đó (các mối quan hệ -hoàn cảnh) nhưng không cảm thấy kể lể chi li của cái giọng đang nài nỉ thuyết phục người nghe, nên phải dùng hai tiếng là Dớp Nhà cho nó dài hơn. 2 (sưu tầm) 德流光 ĐỨC LƯU QUANG Đức (ĐỨC) là dòng chảy (LƯU) xuyên suốt các thế hệ đem lại sáng láng văn minh (QUANG) cho con người. (Vì là bức hoành phi nên đọc ngược lại vẫn cho ý nghĩa đẹp: Có sáng trí (QUANG) thì mới sinh ra (LƯU) có đức (ĐỨC), nếu vô học ngu tối thì cũng không có đức). 3 (sưu tầm) 藥可通神先後聖 DƯỢC KHẢ THÔNG THẦN TIÊN HẬU THÁNH Thầy thuốc mà thông hiểu dược như thần thì trước sau đều giỏi như thánh. (Cũng hàm ý nữa: Thuốc mà có thể thông đến tận thần kinh thì trước sau gì cũng có công hiệu) 4 (sưu tầm) 四海兄弟 TỨ HẢI HUYNH ĐỆ Bốn biển năm châu đều là anh em 5 (sưu tầm) 醫國有名存古錄 Y QUỖC HỮU DANH TỒN CỔ LỤC Nước giỏi nghề y này đã nổi tiếng từ xưa, cổ thư từng ghi nhận vẫn đang còn. 仁能及物古今師 NHÂN NĂNG CẬP VẬT CỔ KIM SƯ Thầy thuốc xưa nay vẫn lấy lòng nhân đạo mà quán xét sự vật. 醫國有名存古錄 仁能及物古今師 6 (sưu tầm) 醫德刻心聲神藥 Y ĐỨC KHĂC TÂM THANH THẦN DƯỢC Lòng luôn luôn có y đức thì mới làm được nổi tiếng thuốc tốt của mình 同人致敬表心丹 ĐỒNG NHÂN CHÍ KÍNH BIỂU TÂM ĐAN Hết lòng kính trọng bệnh nhân cũng như kính trọng mọi người là thể hiện viên thuốc của mình chính là trái tim của mình. 醫德刻心聲神藥 同人致敬表心丹 7 (sưu tầm) 奎斗精英騰北地 KHUÊ ĐẨU TINH ANH ĐẰNG BẮC ĐỊA Thông minh sáng suốt như sao khuê sao đẩu làm xôn xao cả đất Bắc 聖師妙藥振南邦 THÁNH SƯ DIỆU DƯỢC CHẤN NAM BANG Thầy giỏi, thuốc tốt làm sôi động cả nước Nam. 奎斗精英騰北地 聖師妙藥振南邦 8 (tự viết) 醫德恒心聲神藥 Y ĐỨC HẰNG TÂM THANH THẦN DƯỢC Có đạo đức ngành y luôn luôn trong tâm thì làm được thuốc nổi danh như thần. 懶翁濟世盛精華 LẪN ÔNG TẾ THẾ THỊNH TINH HOA Lãn Ông cứu giúp người đời bằng đầy ắp trí tuệ (Cũng hàm ý nữa: có học được tư cách như của Lãn Ông thì mới trau dồi được tài năng cho chính mình) 醫德恒心聲神藥 懶翁濟世盛精華 9 (sưu tầm) 武烈炳颩黎莫際 VŨ LIỆT BÍNH ĐIÊU LÊ MẠC TẾ Công lao chiến trận còn khắc rõ trong thời Lê – Mạc. 英聲赫濯水山間 ANH THANH HÁCH TRẠC THỦY SƠN GIAN Tiếng tăm anh tài còn hiển hách lan tỏa giữa núi sông (Câu đối này có lẽ nói về hai giai đoạn cuộc đời Hải Thượng Lãn Ông, thủa đầu là tài về võ, thủa sau là tài về làm thuốc y trị). 武烈炳颩黎莫際 英聲赫濯水山間 10 (sưu tầm) 培慈樹德 BỒI TỪ THỤ ĐỨC Bồi đắp nhân từ vun trồng đức độ (Vì là hoành phi nên đọc ngược lại vẫn là ý đẹp: Đức như cây lớn mãi nhân giống rộng ra mọi miền, hiền từ cứ bồi đắp mãi càng bồi càng to lớn). 11 (sưu tầm) 五福臨門 NGŨ PHÚC LÂM MÔN Nhiều phúc đến nhà (Câu này có xuất xứ từ TQ, ở VN ngày xưa không có câu này, ngày nay HN mua của TQ sản xuất bằng giấy đỏ về dán cửa, ngồi lười mà mơ phúc đến. Câu này không phải là viết theo kiểu hoành phi, vì đọc ngược lại thì không ra ý gì, mà nói lái thì lại càng phạm, không đẹp, Ngũ Phúc nói lái là Ngục Phủ, Lâm Môn nói lái là Lộn Mầm. Mà thiết cả câu thì “Ngũ… Môn” thiết Ngôn, “Môn… Ngũ” thiết Mù, ngôn mù hay mù ngôn đều không đẹp . Vậy mà các trọc phú ở HN khi khánh thành nhà mới là nhà nào cũng mua câu này của Tàu về dán cửa. Bởi vậy câu này nên bỏ đi, không nên dùng treo trong bảo tàng hay dán cửa nhà ở). Nều muốn treo câu hoành phi ý đẹp và hợp thì nên treo câu của Việt nho dưới đây 12 (sưu tầm) 天地君親師 THIÊN ĐỊA QUÂN THÂN SƯ Câu này trong Nam còn thấy nhiều gia đình thường treo, kể cả trong các hội quán của đồng bào Hoa cũng có treo, ngoài Bắc không còn thấy vì bị đốt hết hồi CCRĐ rồi, có lẽ do hiểu chữ Quân là vua tức phong kiến, thực ra Con = Cán = Quân, con bài cũng là quân bài, con làm ở bộ phận riêng gọi là cán bộ, xưng “Quân” cũng là xưng con. Ý nghĩa bức hoành phi này là nhắc nhở làm bất cứ nghề gì cũng phải tôn trọng Âm Dương Ngũ Hành, cũng như tôn trọng Năm vị là: tôn trọng Trời (THIÊN), tôn trọng Đất (ĐỊA), tôn trọng Mình (QUÂN), tôn trọng Dân (THÂN), tôn trọng Thầy (SƯ). Nếu dựng đứng bức hoành phi thì đứng giữa là Mình (tức nhà DN là QUÂN) nhìn lên THIÊN là biết tôn trọng pháp luật nhà nước, nhìn lên ĐỊA là biết bảo vệ môi trường và ủng hộ nhân dân địa phương nơi mình có nhà máy, nhìn xuống thấy THÂN là biết coi người làm như thân nhân của mình, nhìn xuống thấy Sư là biết chức trách mình phải như thầy giáo dục kèm cặp nhân viên của mình. Hoành phi này đọc ngược thì là Thầy thuốc (SƯ) thương kính (THÂN) con dân (QUÂN, “Con Dân” thiết Quân) bởi thầy thuốc có lòng nhân từ mênh mông như mặt đất (ĐỊA) và kiến thức bao la như bầu trời (THIÊN). Hoành phi hay câu đối thường dùng từ theo lối ước lệ (mượn từ qui ước để nói lên một ví dụ cụ thể. Bởi vậy nó hàm nhiều nghĩa. Thuyết minh phải dịch rõ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng hay ẩn ý. Đây là đặc điểm của chữ vuông của người Việt chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa thời cổ đại (nén nhiều thông tin vào một vuông qui ước nhỏ xíu) gọi là “vuông Trữ Nho nhỏ” tức “vuông Chữ Nho nhỏ”, nói tắt bằng vo bỏ đầu (“vuông”) bỏ đuôi (“nhỏ”) đi, còn lấy lõi giữa là “Chữ Nho”. Ví dụ người Nhật xưng ngôi một là “wa-Ta-xi” thì Việt chỉ xưng là “Ta”, Nhật gọi “xa-Ka-na” thì Việt gọi là Cá (Lào, Thái gọi là Pá), v.v. vô cùng nhiều, đó là ngôn ngữ của Đại Tộc Việt có xuất xứ ĐNÁ cổ đại, trở thành ngôn ngữ Bách Việt mà về sau là các nước Ngô, Sở, Việt hơn 1000 năm trước công nguyên, đều toàn là dân Bách Việt, từng làm chủ 18 tỉnh thuộc TQ ngày nay. 13 (sưu tầm) 東壁圖書 ĐÔNG BÍCH ĐỒ THƯ Chữ viết trên tranh ở bức tường phía đông (Ẩn ý là nền văn minh phương Đông đồ sộ như bức tường, ai cũng thấy rõ, cả những ký hiệu và cả văn tự) 14 (sưu tầm) 先尋聖藥 TIÊN TẦM THÁNH DƯỢC Trước tiên phải nghiên cứu tìm tòi cho ra thuốc tốt (rồi mới có thể nói đến chữa được bệnh) 欲惠生民 DỤC HUỆ SINH DÂN Ham muốn với lòng tốt đem lại sự sống cho con người 先尋聖藥 欲惠生民 15 (sưu tầm) 一方切宜辨 Y PHƯƠNG THIẾT NGHI BIỆN Phác đồ điều trị cần thiết phải phản biện kỹ càng 藥性須要詳 DƯỢC TÍNH TU YẾU TƯỜNG Dược tính phải được hiểu rõ ràng 一方切宜辨 藥性須要詳 16 (sưu tầm) 和氣一家樂 HÒA KHÍ NHẤT GIA LẠC Mọi người phải chan hòa hợp tác thì đó là điều sung sướng nhất 德重人壽長 ĐỨC TRỌNG NHÂN THỌ TRƯỜNG Người biết trọng đức là người sẽ sống lâu 和氣一家樂 德重人壽長 17 (sưu tầm) 萬事水流水 VẠN SỰ THỦY LƯU THỦY Mọi sự đều làm trôi chảy như nước (làm ơn không cần đợi báo đáp) 百年心語心 BÁCH NIÊN TÂM NGỮ TÂM Lòng luôn tự nhủ lòng (luôn luôn sống thực với chính mình ) 萬事水流水 百年心語心 18 (sưu tầm) 救病如救火 CỨU BỆNH NHƯ CỨU HỎA Cứu người bệnh cũng gấp như cứu hỏa tai 用藥比用兵 DỤNG DƯỢC TỶ DỤNG BINH Dùng thuốc cũng phải khéo như dùng lính xung trận 救病如救火 用藥比用兵 19 (sưu tầm) 止仰山 CHỈ NGƯỠNG SƠN Đứng im mà ngắm xem núi lớn như thế nào (Nhắc nhở: Đừng có mơ tưởng cao xa, hãy làm gấp những việc cần làm ngay) 20 (sưu tầm) 欲惠生民 DỤC HUỆ SINH DÂN Lòng tốt ham muốn đem lại sự sống cho con người 21 (sưu tầm) 先找聖藥 TIÊN TRẢO THÁNH DƯỢC Trước tiên phải tìm được thuốc tốt 22 (sưu tầm) 醫方失治責在庸誤緩遲 Y PHUONG THẤT TRỊ TRÁCH TẠI DUNG NGỘ HOÃN TRỆ Phác đồ điều trị mà không trị nổi bệnh là bởi tại do dự, sai lầm, lừng khừng, chậm trễ 藥應有功責乎栽收制儲 DƯỢC ỨNG HỮU CÔNG QUÍ HỒ TÀI THU CHẾ TRỪ Thuốc đáp ứng công dụng là do biết cách cắt thu chế biến để dành 醫方失治責在庸誤緩遲 藥應有功責乎栽收製儲 23 (sưu tầm) 醫方失治責在庸誤緩遲 Y PHUONG THẤT TRỊ TRÁCH TẠI DUNG NGỘ HOÃN TRỆ Phác đồ điều trị mà không trị nổi bệnh là bởi tại do dự, sai lầm, lừng khừng, chậm trễ 藥應有功貴乎樹取泡制 DƯỢC ỨNG HỮU CÔNG QUÍ HỒ THỤ THỦ CHẾ BÀO Thuốc dùng có công hiệu là do ở cây lấy đem bào chế 醫方失治責在庸誤緩遲 藥應有功貴乎樹取製泡 24 (tự viết) Bức hoành phi đơn giản nhất dưới đây, nói lên cái lý cân bằng âm dương của người Việt, là khi làm cho cơ thể con người được cân bằng âm dương thì sẽ khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. 天下公平 THIÊN HẠ CÔNG BẰNG Đây là đạo lý để đời của người Việt cả trong y trị lẫn trong chính trị. Bốn chữ này là BỐN = BỔN = VỐN, là bốn Ven của cái lỗ đồng tiền Việt. Ven + Ven = 0 + 0 = 1 = Vèn, về dấu thanh điệu thì như 0 + 0 = 1 (dấu “không”, “ngã”, “nặng” thuộc nhóm Âm = 0; dấu “huyền”, “sắc”, “hỏi” thuộc nhóm Dương = 1). Vèn là hai ven, nhưng Vèn còn gọi là Bẹn, và Bẹn = Bên = Biên. (Các bà nông dân Bắc Bộ chửi con: “Mày không chịu đi làm cứ ở nhà mà ăn “vèn” lồn mẹ mày mãi à?”), đó chính là tiền đề của câu thành ngữ “ăn quẩn cối xay”, giống như các nhà qui hoạch ngày nay chỉ ăn sẵn đất ruộng mật bờ xôi của nông dân để làm đủ loại “dự án”. Nhưng Vèn + Vèn = 1 + 1 = 0 = Vẹn (dấu thanh điệu là 1+1=0). Đồng tiền xưa đúc bằng đồng, gồm hình Tròn ngoài (hình tròn tượng trời) và 4 Ven ở trong (hình vuông tượng đất) là Tròn Vẹn. Tròn Vẹn thiết Trọn, Trọn có nghĩa là Tất Cả (universal – vũ trụ). Nhưng Tất Cả thiết Ta (Ta = Ngã 我 = Người, là con người – chứng tỏ cấu tạo cơ thể cùng với tinh thần của mỗi con người là một tiểu vũ trụ). Ngược lại Vẹn Tròn thiết Vón (đó là sự nén các yếu tố vũ trụ trong cơ thể mỗi con người, cũng như sự nén thông tin trong mỗi chữ vuông – chữ Nho của người Việt. Bốn chữ THIÊN HẠ CÔNG BẰNG 天下公平gồm đúng 16 nét, đó là lý do tại sao cân tiểu ly của Đông Y là 16 lạng mới đúng đủ 1 cân, (“kẻ tám lạng bằng người nửa cân”) và dân miền Tây Nam Bộ đếm trái cây hay hột vịt lộn là cứ một chục bằng 16. Trong mỗi cơ thể sống có hai bát quái tồn tại, chia thành hai nửa Âm/Dương, như Minh冥 / Minh明. Minh 冥 (tối) là cái Ta Âm thiết Tâm (tâm thức), Minh 明 (sáng) là cái Ta Dương thiết Tướng (tướng mạo thể hiện trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân v.v., thầy lang căn cứ vào đó mà chẩn bệnh). Minh 明sáng viết biểu ý bằng ánh sáng trời trăng là Nhật 日Nguyệt 月thiết Nhiệt 热nghĩa là nóng, người Đài Loan lại đọc chữ Nhiệt 热là “lửa”. Minh 冥 tối viết biểu ý bằng Mịch 冖Và 曰Lâu六, phải hiểu bằng lái lại là Mầu Và Linh (mầu nhiệm và linh thiêng) vì tâm thức thuộc người “âm” nên đọc chữ “ảo”. Người Kinh京 còn xưng là “Mình”, vợ chồng cứ xưng lẫn lộn là “Ta;”,với “Minh” đúng như bình đẳng là bằng đỉnh của thiên hạ công bằng. Xưng là Mình vì cơ thể có hai Minh, nên Minh 冥 + Minh 明 = 0 + 0 =1 = =Mình (dấu thanh điệu là 0+0=1). Chữ Kinh京viết biểu ý gồm Đầu 亠 + Mình 口 + Chân Tay 小 (“Túc Nhiều” = Tiểu小), đó là con người, và chữ rất cân bằng hai nửa theo chiều dọc chia đôi. Hai bát quái là 16. Mười Sáu thiết Máu, ngược lại Sáu Mười thiết Sưởi, đó là con người sống động, là Máu Sưởi = Máu Sôi = Môi. Môi là đứng giữa Thiên và Địa, đó là Nhân. Môi = Mỗi = Mọi (người Tây Nguyên) = Man (người Việt Bắc) = Mằn (người Quảng Đông) = Mân (người Phúc Kiến) = Cần (người Tày) = Con = Kinh, đều là cùng một NÔI = Nòi (cùng gen). “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm toàn là dân Bách Việt ở” ( Khổng Tử Viết 孔子曰 tức Khổng Tử nói). Chữ Viết 曰biểu y là cái mồm có lằn môi vạch ngang, nghĩa là nói, mà là người Việt nói, vì lướt lấy dấu “Việt 越Nói” = Viết曰 (tương tự như “Giết Sạch” = Diệt滅), Viết (nói) được chuyển nghĩa chỉ sự ghi ký tự là động từ Viết (bằng cái Bút để “Put” lên mạng cho người đọc). Chứa = Chữ = Trữ貯, nhưng còn lướt lấy dấu “Trữ 貯để Dành” = =Trừ 儲. Chú giải: Ẩn ý có thêm của THIÊN HẠ CÔNG BẰNG là: - THIÊN BẰNG nói lái là THĂNG BIẾN (sự phát triển đi lên) - THIÊN HẠ nói là là THA HIỀN (hiền hậu rộng lượng vị tha) - HẠ CÔNG nói lái là HỐNG CA (lớn giọng ca hát) - CÔNG BẰNG nói lái là CĂNG BỒNG (nội dung chứa đầy) Ẩn ý ấy là: Xã hội no đủ, vị tha Người người hiền hậu ngợi ca cuộc đời Sôi động đổi mới nơi nơi Đất nước phát triển rạng ngời thăng long. 25 (sưu tầm) 秋飲黃花酒 THU ẨM HOÀNG HOA TỬU 冬吟白雪詩 ĐÔNG NGÂM BẠCH TUYẾT THI 春游芳草地 XUÂN DU PHƯƠNG THẢO ĐỊA 下賞綠荷池 HẠ THƯỞNG LỤC HÀ TRÌ Xuân chơi thảm cỏ thơm hoa Hè ngồi thưởng mát ao ta sen hồng Thu về uống rượu hoa vàng Đông ngồi chăn ấm ngâm nàng tuyết thơ. 秋飲黃花酒 冬吟白雪詩 春游芳草地 下賞綠荷池 26 (sưu tầm) 基德積 CƠ ĐỨC TÍCH Lấy tích đức làm nền tảng cho sự nghiệp 后傳仁 HẬU TRUYỀN NHÂN Lấy nhân nghĩa truyền lại cho đời sau 基德積 后傳仁 27 (sưu tầm) 和氣吉祥 HÒA KHÍ CÁT TƯỜNG Sống hòa thuận là điều tốt lành 28 (sưu tẩm) 土產有殊北國 THỔ SẢN HỮU THÙ BẮC QUỐC Dược liệu có tính đặc thù của thổ nhưỡng phương Bắc 天書越定南邦 THIÊN THƯ VIỆT ĐỊNH NAM BANG Nhưng làm được thuốc tốt là do người Việt biết phương pháp truyền thống là theo sách Trời tức thuyết Âm Dương Ngũ Hành. 土產有殊北國 天書越定南邦 29 (tự viết) LÊ TỘC HIỂN TÔNG, HẬU DUỆ THỊNH HƯNG DANH, TÀI, TRÍ ĐÔNG TÂY LẠC NGHIỆP, NHI TÔN KHẮC NIỆM ĐỨC, NHÂN, TÂM ( Họ Lê triển rộng nhiều chi, các đời sau đều thành đạt trọn vẹn tiếng tăm, giàu có, trí tuệ. An cư lạc nghiệp ở Ta hay ở Tây, con cháu vẫn từng giây nhớ giữ đức độ, nhân từ, tâm huyết). Đông Tây còn ẩn ý là làm thuốc Đông y và Tây y kết hợp. 黎族顯宗後裔盛興名財智 東西樂業兒孫刻念德仁心 30 (tự viết) 黎德耀明 LÊ ĐỨC DIỆU MINH (Họ Lê có đức chiếu sáng) Đọc xuôi có nghĩa là: Nhân dân (LÊ) có đức (ĐỨC) chiếu (DIỆU, “Dịu Chiếu” = Diệu) sáng (MINH) Đọc ngược có nghĩa là: Sự minh bạch (MINH) rọi tỏ (DIỆU) cái đức (ĐỨC) của họ Lê (LÊ). Chữ LÊ黎 biểu ý là: Nhân dân ( 人 ) là Đồng (丿 ) Bào (勹 ) trồng Lúa (禾 ) Nước (水 ) Lê…Minh thiết Linh. Minh… Lê thiết Mê. Lê Đức thiết Lực. Đức Lê thiết Đế. Diệu Minh thiết Dinh. Minh Diệu thiết Miếu. Bốn chữ hoành phi này tạo ra các từ ẩn là Đế Minh, Mê Linh, Lực, Dinh, Miếu. Do vậy bốn chữ hoành phi này còn hàm ẩn ý là cái miếu thờ Đế Minh và thờ Hai Bà Trưng (Mê Linh). Tức còn có mang nội dung là: Miếu đế vương lực cường dinh tráng Thủy tổ xưa sáng rạng Đế Minh Trưng Vương oanh liệt Mê Linh Lê dân có đức diệu minh muôn đời. Kết luận: Tiếng Việt phong phú vô vàn Hàn lâm trộn với dân gian cùng hành Lời văn hàm súc uyên thâm Công người xưa bốn nghìn năm trau dồi. LỌC NGHIÊN 濾 妍 Chữ LỌC NGHIÊN Ý nghĩa: 1、 Chọn (LỌC) lấy cái Đẹp (NGHIÊN) 2. Chọn (LỌC) thông tin để Nghiên cứu (NGHIÊN).Trường hợp này mượn chữ NGHIÊN 妍 (đẹp) đồng âm để “giả tá” cho chữ Nghiên研 ( là nghiên cứu研究). Cách “giả tá” là một cách được phép trong vận dụng “Lục Thư” cửa chữ nho. LỌC NGHIÊN 濾 妍 (Chọn Lọc lấy những cái Đẹp. Nói lái Lọc Nghiên là Liên Ngọc: bông Sen đẹp như Ngọc) Từ Lọc là một động từ. Chữ Nho Việt viết chữ Lọc là chữ kiểu ”hình thanh “ 濾 (hình là bộ Nước氵, thanh là mượn chữ Lự 慮 cận âm, vì Lọc thì phải dùng Nước nên mượn chữ Nước氵, và nhấn mạnh “Lọc Chứ! =Lự 慮, nên mượn chữ Lự 慮 cũng cận âm với âm “lọc”). Hán ngữ mượn dùng chữ Lọc 濾 của Việt với nguyên nghĩa là động từ Lọc nhưng phát âm lơ lớ là “luy”. Bộ Lọc thì Hán ngữ dùng ba chữ là “Qua Lọc Khí 過濾器”, tức cái công cụ (Khí cụ) để Lọc qua (Qua Lọc). Tra chữ Lọc 濾 theo cuốn tự điển đầu tiên của Trung Hoa in cách nay hơn 2000 năm là cuốn < Thuyết Văn Giải Tự 说文解字> trên mạng thì sẽ được câu trả lời sau: “ 抱歉,没有收录汉字 “濾”- Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự ‘Lọc 濾”. Tức khẳng định chữ Lọc 濾 không phải là chữ Hán (vì nó là chữ Nho của Việt) Từ Nghiên là một tính từ mang nghĩa là Đẹp. Chữ Nho Việt cổ viết chữ Nghiên 妍 là kiểu “hội ý” gồm chữ Nữ 女 và chữ Khai 开, biểu ý là người con gái (Nữ 女) mà cởi bỏ hết (Khai 开) trang phục ra thì đúng là Ngộ thật. Từ Ngộ này của tiếng Việt không phải là từ Ngộ 遇 (gặp gỡ, tương ngộ 相遇), cũng không phải là từ Ngộ 悟 (nhận biết, giác ngộ 觉悟), cũng không phải từ Ngộ 誤 là sai ( ngộ nhận 誤認) mà là Ngộ (nghĩa là: đẹp dễ thương hiếm thấy, ví dụ nói: “thằng nhỏ đó hay con nhỏ đó nhìn Ngộ thật”. Trường hợp chữ Nghiên 妍 này là Ngộ thật tức Ngộ Lắm, gọi theo lối hàn lâm thì Ngộ Lắm gọi là Ngộ Nhiên (vì Nôi Khái Niệm số nhiều là: 5 = Prăm = Rắm = Năm = Lắm = Lũ = Ngũ 五 = Ngao Ngán = Ran = Nhan Nhản = Nhiên 然 = Nhiêu 饒 = Nhiều) [trong NKN trên thì Hán ngữ chỉ mượn dùng những từ có viết bằng chữ nho tức từ hàn lâm Việt nhưng lại phát âm lơ lớ đi như Nhiên 然 thành “Rán 然”, Nhiêu 饒 thành “Ráo 饒”, Ngũ 五 thành “Wủ”]. Do NKN đó mà ta có Ngộ Lắm = Ngộ Nhiên , nói lướt “Ngộ Nhiên 然” = Nghiên 妍 nên Nghiên 妍 mang ý là Đẹp. Như thành ngữ cổ viết “Bách Hoa Tranh Nghiên 百花争妍” nghĩa là “Trăm Hoa Đua Sắc”. Từ Nghiên 妍 và từ Nhan 颜 của tiếng Việt đều đồng nghĩa là Đẹp, nhưng Hán ngữ phát âm chữ Nghiên 妍 và chữ Nhan 颜 đều là “Yán” nên Hán ngữ chỉ có câu “Bách Hoa Tranh Nhan 百花争颜” mà không có câu ”Bách Hoa Tranh Nghiên 百花争妍”. Tra chữ Nghiên 妍 theo <Thuyết Văn Giải Tự 说文解字> trên mạng sẽ được câu trả lời: “ 抱歉,没有收录汉字 “妍”- Xin lỗi không có thâu lục Hán tự “Nghiên 妍”. Chứng tỏ nó không phải là chữ Hán, nó là chữ Nho của Việt. Xem cuốn Từ điển Trung Việt (Hà Nội 1991) thấy đề bìa “khoảng 60. 000 chữ”, một kĩ sư trẻ người Trung Quốc (quê Triết Giang) đã thốt lên với tôi rằng: ”Trong đó chỉ có khoăng 2000 chữ là chữ của người Hán thôi, còn lại là chữ của dân tộc Bách Việt và các dân tộc khác. Ví dụ từ Câu Lạc Bộ là mượn dùng ba chữ nho Việt là các chữ Câu 俱, Lạc 樂, Bộ 部, với ý nghĩa khác hẳn, để ký âm từ cận âm là từ Club ( C – Lu – B) của tiếng Anh, chứ nó không phải là tiếng Hán và chữ của Hán“. Chú thích: Tiếng Việt ngày nay là dùng hồn hợp từ dân gian ( thương gọi là từ thuần Việt) và từ hàn lâm (thường gọi là từ Hán Việt). Từ Việt hàn lâm thì có viết bằng chữ Nho, nhưng đều có gốc do từ đân gian. Gọi nó là từ Hán Việt là cách gọi sai lầm, vì phát âm của nó là hoàn toàn thuần Việt. Thừ tiếng Việt hàn lâm này chính là ngôn ngữ chính thống của Trung Hoa thời nhà Đường trở về trước (mà trong cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn <Thuyết Vản Giải Tự 說文解字> có từ thời đầu Công nguyên đã thể hiện rõ. Thơ Đường viết bằng chữ Nho phải đọc đúng như phát âm của tiếng Việt hàn lâm thì mới đúng luật bằng trắc. Còn đọc như phát âm của Hán ngữ hiện đại thì sai, không còn ra thơ Đường nữa. Hán ngữ hiện đại hay còn gi là tiếng Phổ thông Trung Quốc (mà quốc tế gợi là tiếng Mandarin – Mandaren tức Mãn Đại Nhân滿大人, là thứ tiếng của quan lại nhà Mãn Thanh滿清 ngoại tộc phát âm lơ lớ làm méo mó tiếng Trung Hoa có từ thời nhà Đường. Tiếng Mandarin (Mãn đại nhân) vì vậy còn gọi là tiếng Quan thoại [ theo kiến giải của nhà sử học trứ danh 45 tuổi Viên Đằng Phi 袁騰飛, giáo thụ trường Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh Trung Quốc] ). Tiếng Việt thuộc ngữ tộc Nam Đảo ( Malayapolinesian – xưa gọi là tộc Đại La ở ĐNÁ), thuộc ngữ tông Môn-Khơme . Hệ đếm của tiếng Khơ me là hệ ngũ phân: 1 – 2 - 3 - 4 - 5 tức Muôi – Tê – Bây – Buôn – Prăm là hết vòng đếm, quay vòng tiếp là 6 tức Prăm Muôi. Vậy số 5 là lớn nhất vòng đếm, là con số Nhiều. Nôi Khái Niệm “ nhiều” đã tiến triển trong tiếng Việt là: 5 = Prăm = Rắm = Năm = Lắm = Lũ = Ngũ 五 = Ngao-Ngán = Ran然 = Nhan-Nhản = Nhặn = Nhiên 然 = Nhiêu 繞 = Nhiều. (Thấy rõ từ Ngũ hàn lâm là có gốc do từ dân gian Prăm=5) .Trong Nôi Khái Niệm đó các từ Ngũ五, Ran然, Nhiên然, Nhiêu 繞là những từ hàn lâm có viết bằng chữ Nho. Hán ngữ dùng chữ Nho ,cũng với nghĩa như tiếng Việt, nhưng phát âm bị lơ lớ đi như Nhiên然, thành “ rán然,”, Nhiêu 繞thành “ráo 繞”, Ngũ五 thành “wủ五”.v.v.Tiếng Việt dùng Vân Vân 云 云 ở cuối câu có nghĩa là còn nói nhiều ví dụ nữa. Vì từ hàn lân Vân 云 đồng nghĩa từ dân gian Van (nghĩa là Nói). Ví dụ câu: “ Ai Van chi rứa?” có nghĩa là “ Ai Nói gì đấy?”. Hán ngữ hiện đại không dùng Vân Vân 云云 mà dùng Đẳng Đẳng等等 ( nghĩa là còn nói nữa Bằng Bằng như ví dụ ấy). Ngay tiếng Sài Gòn thường được coi là ngôn ngữ mới thực ra nó là tiếng Kinh rất cổ. Ví dụ từ Bộ = Không ( trong câu: “Tôi cũng làm nổi chứ Bộ! “ nghĩa là :Tôi cũng làm nổi chứ Không à!”) .Từ đáy Bộ (= Không) là một từ đáy rất cổ của tiếng Kinh, có gốc do từ Bỏ (= Không).. Nôi Khái Niệm “không” cửa tiếng Việt là: Nỏ (tiếng Nghệ) = =No (tiếng Anh) = Bỏ = Bò (tiếng Thái) =Bộ (tiếng Sài Gòn) = Bố (tiếng Tày) = Bỏ Bồ (= Không Không, từ đôi, tiếng Kinh) = Mô = Vô 無 = Vong亡 = Vất = Vật 勿 = Mất (do lướt từ đôi “Mô Vật:” = Mất) = Mạc莫 = Bất 不(do lướt từ đôi “Bỏ Mất”= Bất 不) = =Thất失. Chữ LỌC NGHIÊN Ý nghĩa: 1、 Chọn (LỌC) lấy cái Đẹp (NGHIÊN) 2. Chọn (LỌC) thông tin để Nghiên cứu (NGHIÊN).Trường hợp này mượn chữ NGHIÊN 妍 (đẹp) đồng âm để “giả tá” cho chữ Nghiên研 ( là nghiên cứu研究). Cách “giả tá” là một cách được phép trong vận dụng “Lục Thư” cửa chữ nho. LỌC NGHIÊN 濾 妍 (Chọn Lọc lấy những cái Đẹp. Nói lái Lọc Nghiên là Liên Ngọc: bông Sen đẹp như Ngọc) Từ Lọc là một động từ. Chữ Nho Việt viết chữ Lọc là chữ kiểu ”hình thanh “ 濾 (hình là bộ Nước氵, thanh là mượn chữ Lự 慮cận âm, vì Lọc thì phải dùng Nước nên mượn chữ Nước氵, và nhấn mạnh “Lọc Chứ!= =Lự慮, nên mượn chữ Lự慮 cũng cận âm với âm “lọc”). Hán ngữ mượn dùng chữ Lọc 濾của Việt với nguyên nghĩa là động từ Lọc nhưng phát âm lơ lớ là “luy”. Bộ Lọc thì Hán ngữ dùng ba chữ là “Qua Lọc Khí過濾器”, tức cái công cụ (Khí cụ) để Lọc qua (Qua Lọc). Tra chữ Lọc 濾theo cuốn tự điển đầu tiên của Trung Hoa in cách nay hơn 2000 năm là cuốn < Thuyết Văn Giải Tự说文解字> trên mạng thì sẽ được câu trả lời sau: “ 抱歉,没有收录汉字 “濾”- Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự ‘Lọc濾”. Tức khẳng định chữ Lọc 濾 không phải là chữ Hán (vì nó là chữ Nho của Việt) Từ Nghiên là một tính từ mang nghĩa là Đẹp. Chữ Nho Việt cổ viết chữ Nghiên妍là kiểu “hội ý” gồm chữ Nữ 女và chữ Khai 开, biểu ý là người con gái (Nữ女) mà cởi bỏ hết (Khai开) trang phục ra thì đúng là Ngộ thật. Từ Ngộ này của tiếng Việt không phải là từ Ngộ遇 (gặp gỡ, tương ngộ相遇), cũng không phải là từ Ngộ 悟(nhận biết, giác ngộ觉悟), cũng không phải từ Ngộ 誤là sai ( ngộ nhận誤認) mà là Ngộ (nghĩa là: đẹp dễ thương hiếm thấy, ví dụ nói: “thằng nhỏ đó hay con nhỏ đó nhìn Ngộ thật”. Trường hợp chữ Nghiên 妍này là Ngộ thật tức Ngộ Lắm, gọi theo lối hàn lâm thì Ngộ Lắm gọi là Ngộ Nhiên (vì Nôi Khái Niệm số nhiều là: 5 = Prăm = Rắm = Năm = Lắm = Lũ = Ngũ 五 = Ngao Ngán = Ran = =Nhan Nhản = Nhiên 然 = Nhiêu 饒 = Nhiều) [trong NKN trên thì Hán ngữ chỉ mượn dùng những từ có viết bằng chữ nho tức từ hàn lâm Việt nhưng lại phát âm lơ lớ đi như Nhiên 然thành “Rán然”, Nhiêu 饒thành “Ráo饒”, Ngũ五 thành “Wủ”]. Do NKN đó mà ta có Ngộ Lắm = Ngộ Nhiên , nói lướt “Ngộ Nhiên然” = Nghiên妍 nên Nghiên 妍mang ý là Đẹp. Như thành ngữ cổ viết “Bách Hoa Tranh Nghiên百花争妍” nghĩa là “Trăm Hoa Đua Sắc”. Từ Nghiên妍 và từ Nhan 颜của tiếng Việt đều đồng nghĩa là Đẹp, nhưng Hán ngữ phát âm chữ Nghiên 妍và chữ Nhan 颜đều là “Yán” nên Hán ngữ chỉ có câu “Bách Hoa Tranh Nhan百花争颜” mà không có câu ”Bách Hoa Tranh Nghiên百花争妍”. Tra chữ Nghiên妍theo <Thuyết Văn Giải Tự说文解字> trên mạng sẽ được câu trả lời: “ 抱歉,没有收录汉字 “妍”- Xin lỗi không có thâu lục Hán tự “Nghiên妍”. Chứng tỏ nó không phải là chữ Hán, nó là chữ Nho của Việt. Xem cuốn Từ điển Trung Việt (Hà Nội 1991) thấy đè bìa “khoảng 60. 000 chữ”, một kĩ sư trẻ người Trung Quốc (quê Triết Giang) đã thốt lên với tôi rằng: ”Trong đó chỉ có khoăng 2000 chữ là chữ của người Hán thối, còn lại là chữ của dân tộc Bách Việt và các dân tộc khác. Ví dụ từ Câu Lạc Bộ là mượn dùng ba chữ nho Việt là các chữ Câu, Lạc, Bộ, với ý nghĩa khác hẳn, để ký âm từ cận âm là từ Club ( C – Lu – B) của tiếng Anh, chứ nó không phải là tiếng Hán và chữ của Hán’. Chú thích: Tiếng Việt ngày nay là dùng hồn hợp từ dân gian ( thương gọi là từ thuần Việt) và từ hàn lâm (thường gọi là từ Hán Việt). Từ Việt hàn lâm thì có viết bằng chữ Nho, nhưng đều có gốc do từ đân gian. Gọi nó là từ Hán Việt là cách gọi sai lầm, vì phát âm của nó là hoàn toàn thuần Việt. Thừ tiếng Việt hàn lâm này chính là ngôn ngữ chính thống của Trung Hoa thời nhà Đường trở về trước (mà trong cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn <Thuyết Vản Giải Tự 說文解字> có từ thời đầu Công nguyên đã thể hiện rõ. Thơ Đường viết bằng chữ Nho phải đọc đúng như phát âm của tiếng Việt hàn lâm thì mới đúng luật bằng trắc. Còn đọc như phát âm của Hán ngữ hiện đại thì sai, không còn ra thơ Đường nữa. Hán ngữ hiện đại hay còn gọi là tiếng Phổ thông Trung Quốc (mà quốc tế gọi là tiếng Mandarin – Mandaren tức Mãn Đại Nhân 滿大人, là thứ tiếng của quan lại nhà Mãn Thanh 滿清 ngoại tộc phát âm lơ lớ làm méo mó tiếng Trung Hoa có từ thời nhà Đường. Tiếng Mandarin (Mãn đại nhân) vì vậy còn gọi là tiếng Quan thoại [ theo kiến giải của nhà sử học trứ danh 45 tuổi Viên Đằng Phi 袁 騰 飛, giáo thụ trường Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh Trung Quốc] ). Tiếng Việt thuộc ngữ tộc Nam Đảo ( Malayapolinesian – xưa gọi là tộc Đại La ở ĐNÁ), thuộc ngữ tông Môn-Khơme . Hệ đếm của tiếng Khơ me là hệ ngũ phân: 1 – 2 - 3 - 4 - 5 tức Muôi – Tê – Bây – Buôn – Prăm là hết vòng đếm, quay vòng tiếp là 6 tức Prăm Muôi. Vậy số 5 là lớn nhất vòng đếm, là con số Nhiều. Nôi Khái Niệm “ nhiều” đã tiến triển trong tiếng Việt là: 5 = Prăm = Rắm = Năm = Lắm = Lũ = Ngũ 五 = Ngao-Ngán = Ran 然 = Nhan-Nhản = Nhặn = Nhiên 然 = Nhiêu 繞 = Nhiều. (Thấy rõ từ Ngũ hàn lâm là có gốc do từ dân gian Prăm=5) .Trong Nôi Khái Niệm đó các từ Ngũ五, Ran 然, Nhiên 然, Nhiêu 繞 là những từ hàn lâm có viết bằng chữ Nho. Hán ngữ dùng chữ Nho, cũng với nghĩa như tiếng Việt, nhưng phát âm bị lơ lớ đi như Nhiên 然, thành “ rán 然,”, Nhiêu 繞 thành “ráo 繞”, Ngũ 五 thành “wủ 五”.v.v.Tiếng Việt dùng Vân Vân 云 云 ở cuối câu có nghĩa là còn nói nhiều ví dụ nữa. Vì từ hàn lân Vân 云 có gốc do từ dân gian Van (nghĩa là Nói). Ví dụ câu: “ Ai Van chi rứa?” có nghĩa là “ Ai Nói gì đấy?”. Hán ngữ hiện đại không dùng Vân Vân 云云 mà dùng Đẳng Đẳng 等等 ( nghĩa là còn nói nữa Bằng Bằng như ví dụ ấy). Ngay tiếng Sài Gòn, thường được coi là ngôn ngữ mới, thực ra nó là tiếng Kinh rất cổ. Ví dụ từ Bộ = Không ( trong câu: “Tôi cũng làm nổi chứ Bộ! “ nghĩa là :Tôi cũng làm nổi chứ Không à!”) .Từ đáy Bộ (= Không) là một từ đáy rất cổ của tiếng Kinh, có gốc do từ Bỏ (= Không).. Nôi Khái Niệm “không” của tiếng Việt là: Nỏ (tiếng Nghệ) = No (tiếng Anh) = Bỏ = Bò (tiếng Thái) =Bộ (tiếng Sài Gòn) = Bố (tiếng Tày) = Bỏ Bồ (= Không Không, từ đôi, tiếng Kinh) = Mô = Vô 無 = Vong亡 = Vất = Vật 勿 = Mất (do lướt từ đôi “Mô Vật:” = Mất) = Mạc莫 = Bất 不 (do lướt từ đôi “Bỏ Mất”= Bất 不) = =Thất 失 = Thác = Bác = Bác Bỏ = Nỏ = No. Ví dụ về những từ mà Hán ngữ mượn của tiếng Việt: 1/ Hồ Đồ và Mơ Hồ vốn nghĩa là “đen tối nên không rõ” chuyển chú thành nghĩa là “không minh bạch”. NKN “Màu Đen”=Mèn (như con dế Mèn) hay “Màu Hun” = Mun (như tượng đồng Mun) là: U = Ô 烏 = Ố 污 = Dơ = Mơ (do lướt từ đôi “Muội Dơ” = Mơ) = Mù (do lướt từ đôi “Mun U” = Mù) = Mờ (do lướt từ đôi “Mơ Huyền” = Mờ) = =Đồ (do lướt từ đôi “Đen Ô” = Đồ) = Hồ (do lướt từ đôi “Hoen Ố” = Hồ) = Hắc 黑 = =Hun = Hôn 昏 = Hôm = Hoen = Huyền 玄 = Hối 晦(do lướt từ đôi “Hun Tối”= Hối) =Tối = Môi 煤= Hôi 灰 = Muội 昧 = Mun = Mực = Mặc 墨 = Mèn (do lướt “Màu Đen”= Mèn) = Man 蠻 = Than 炭 = Thâm 深 = Lầm = Đậm = Đêm = Lem = Nhem = Nhèm (tiếng Tày nghĩa là Đen) = Nhờ Nhờ = Nhọ = Tro = Lọ = Lê 黎 = Lọ Nghẹ (nhọ nồi, tiếng Huế) = Ngầm = Râm = Âm 陰 = Ám暗 = Xám (khoảng 45 từ, chưa hết, bạn đọc tìm thêm) Do bởi Hồ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt từ đôi “Hoen Ố” = Hồ ( NKN: Ô = Hồ = Hoen = Đen = Mèn = Mực = Mun = Hun = Hôn = Hôm = Hối = Tối v.v.); Đồ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt “Đen Ô” = Đồ (NKN: Ô = Đồ = Đen = Mèn = =Mực = Mờ = Dơ = Mơ = Muội v.v.); Mơ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt “Muội Dơ” = Mơ (NKN: Dơ = Mơ = Muội = Mù + Tối = “Mù Tối” = Muội). Từ Hồ Đồ là từ dân gian Việt (không có viết bằng chữ nho). Hán ngữ mượn từ Hồ Đồ khi nó đã chuyển chú chỉ ý “không minh bạch”, ghi âm chúng bằng mượn chữ nho Hồ 糊và Đồ 涂( là từ hàn lâm Việt, đồng âm nhưng khác nghĩa với từ Hồ Đồ) nhưng phát âm của Hán bị méo đi thành [Hú Tú糊涂] chỉ còn nghe lơ lớ với Hồ Đồ. Chữ nho Hồ 糊nghĩa là hồ dán (chữ kiểu “hình thanh”: hình là chữ Mễ 米ý nói làm bằng bột gao, thanh là mượn âm “Hồ” của chữ Hồ 胡nghĩa là cái yếm con bò – theo giải thích của < Thuyết Văn Giải Tự> là cái Cổ 古Nhục 月lái lại tức phản thiết là cái Cục Nhô bằng bèo nhèo thõng dưới cổ con bò, người Việt cổ đại từng dùng chữ Hồ 胡này để chỉ bọn người rợ “ Hung Nô匈奴” = Hồ胡, gọi là bọn rợ Hồ, nên mới có câu thành ngữ cổ đại là “Nam phương Việt南方越, bắc phương Hồ北方胡”). Chữ nho Đồ 涂nghĩa là bôi mực tô (do lướt “Đè Tô” = Đồ涂, là một động tác vẽ, chữ kiểu “hội ý” gồm chữ Nước氵 ý chỉ mực + chữ Dư 余ý nói tô thêm lên tức “Đè Tô” = Đồ). Hán ngữ đọc [Hú Tú糊涂] mà căn cứ vào nghĩa chữ thì thấy là “ Hồ 糊dán Đồ 涂thêm” thì lấy đâu ra nghĩa là “không minh bạch”?, chỉ có căn cứ vào cái âm [Hú Tú] lơ lớ vời Hồ Đồ thì mới ra nghĩa là “không minh bạch” nhưng hoá ra là mượn âm của tiếng Việt mà phát âm không chuẩn Hồ Đồ mà thành ra Nói (Ngôn) Ngọng Ngịu là [Hú Tú]. Trường hợp từ Mơ Hồ cũng tương tự. Mượn chữ nho Mô 模để ghi âm từ Mơ. Mượn chữ nho Hồ 糊để ghi âm từ Hồ, phát âm đều ngọng ngịu là [Mó Hú模糊], nếu căn cứ nghĩa chữ thì từ Mơ Hồ là “cái Khuôn của Hồ dán” sao tải được nghĩa “không minh bạch” hay “không rõ ràng” ?. Chữ Mô 模nghĩa là cái khuôn, là chữ nho kiểu “hình thanh”: hình là chữ Mộc 木ý nói cái khung bằng gỗ, thanh là mượn chữ Mô 莫 (tiếng Huế nghĩa là Không, cận âm với từ Khuôn). Chữ Mô 模 (là cái Khuôn gọi theo nghĩa của chữ Mô莫, hay cái Mô gọi theo âm đọc của chữ Mô莫), từ hàn lâm Mô模còn nở ra từ dính Mẫu - Mực (là từ dân gian) mà trong Hán ngữ không có từ dính này. 2/ “DƯƠNG 佯ĐÔNG東KÍCH擊 TÂY西”. Đây là một câu của tiếng Việt hàn lâm chứ không phải là câu của Hán ngữ, có nghĩa là: Giả vờ (DƯƠNG佯) phía đông, nhưng lại tấn công (KÍCH 擊) phía tây (dùng trong chiến thuật đánh lạc hướng để lừa địch). Phân tích câu này sẽ thấy từ dân gian Việt ( nay viết bằng chữ quốc ngữ) dẫn đến từ hàn lâm Việt (xưa viết bằng chữ nho). Rồi những từ hàn lâm và dân gian ấy do lướt với nhau mà sinh ra những từ dân gian hay hàn lâm mới, làm cho Nôi Khái Niệm càng có thêm nhiều từ, mang nhiều sắc thái của khái niệm, gây cho tiếng Việt càng phong phú vì càng thêm tinh tế: NKN: Làm = Lạm ( nghĩa là “làm quá mức”, do lướt lấy dấu “Làm Nặng” = Lạm濫, Hán ngữ mượn chữ Lạm này để dùng trong từ ghép Lạm Dung濫用, phát âm lơ lớ là [Làn Yòng濫用]) = Lụng (nghĩa là “làm nặng nhọc”, do lướt “Làm Hung”= Lụng弄, Hán ngữ mượn chữ Lụng弄này với nguyên nghĩa là “làm” nhưng phát âm lơ lớ là Nụng [Nòng弄],hay dùng trong từ ghép Lụng Hoại弄壞, phát âm lơ lớ là [Nòng Huài弄壞], nghĩa là làm hỏng ) = Làm = Đảm ( do lướt từ đôi “Đương Làm” = Đảm) = Đương ( vd “:Đương đầu với sự việc có nghĩa là “Làm với sự việc”) = Đảm Đương (từ đôi). Nói không trúng (tức Vô 無Chính正 = Phi 非Chính正)tức nói Dối, còn gọi là nói Trật (do lướt phủ định “Trúng 中Bất不” = Trật, nghĩa là không trúng), nhấn lướt : “Trật Ạ !” = “Trật Dã 也!” = Trá 詐 (Trá 詐nở ra từ dính Trắt-Trẻo, tiếng Huế). Dối, Trá詐, Trắt -Trẻo đều có nghĩa là Dối Trá 詐 (từ đôi, một từ dân gian Dối ghép với một từ hàn lâm Trá 詐đồng nghĩa cũng thành một từ đôi). Lướt “Dối Trá” = Giả. Giả đồng nghĩa với Vô 無Sở所 tức không có căn cứ. Lướt “Vô 無Sở所” = Vờ. Do đó lại có từ đôi Giả Vờ. Nói không trúng tức Phi Chính hay Vô Chính. Lướt “Phi Chính” = Phỉnh. Lướt “Vô Chính” = Vỉnh. Do đó lại có từ đôi Vờ Vỉnh và từ đôi Phỉnh Vờ. Lướt từ đôi “Phỉnh Vờ”= Phờ. Lại có từ đôi mới là Phỉnh Phờ. (Những từ song âm như Vờ Vỉnh, Phỉnh Phờ thì ngôn ngữ học Việt Nam nói chúng không phải là loại “từ láy”, nhưng chưa biết gọi chúng là loại từ gì, còn LM gọi nó là loại “từ đôi” vì hai tiếng của từ song âm đó đồng nghĩa nhau và mỗi tiếng đều có thể dùng độc lập, nhờ soi qui tắc Lướt tạo từ mà biết được nguồn gốc cái nghĩa của nó) Rõ ràng là hành động đánh Lừaà Giả Làm = Giả Đương = lướt “Giả Đương” = =Dương佯 à Giả Vờà Vờ Vỉnhà Phỉnh Phờ. Tiếng Việt đã dùng qui tắc Lướt mà tạo ra từ mới “Giả Đương” = Dương 佯là một từ hàn lâm (viết bằng chữ nho Việt , theo kiểu “hình thanh”, một trong “Lục Thư” là 6 cách tạo dụng chữ nho : hình là chữ Nhân 亻ý nói hành động do người làm, thanh là mượn chữ Dương 羊cận âm để hướng dẫn đọc âm “dương”, chứ thực ra chữ Dương 羊cho mượn âm ấy nghĩa đen là con dê) Viết bài này xong đến đây mới tra trên mạng 《说文解字在线查询》- Tra tầm online <Thuyết Văn Giải Tự>, thì được câu trả lời: 《 Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự “ Dương” - 抱歉,没有收录汉字 “佯”。》. Chứng tỏ chữ Dương佯là chữ nho Việt của từ hàn lâm Việt, không phải là chữ Hán. Vậy mà thiên hạ cứ hễ thấy chữ Nho là gọi nó là “Hán tự” và cái âm Việt đọc của nó thì lại gọi là “từ Hán Việt” , để đến nỗi ngộ nhận là trong tiếng Việt có đến 70% từ vựng là “từ gốc Hán” (?) Ví dụ về những từ mà Hán ngữ mượn của tiếng Việt: 1/ Hồ Đồ và Mơ Hồ vốn nghĩa là “đen tối nên không rõ” chuyển chú thành nghĩa là “không minh bạch”. NKN “Màu Đen”=Mèn (như con dế Mèn) hay “Màu Hun” = Mun (như tượng đồng Mun) là: U = Ô 烏 = Ố 污 = Dơ = Mơ (do lướt từ đôi “Muội Dơ” = Mơ) = Mù (do lướt từ đôi “Mun U” = Mù) = Mờ (do lướt từ đôi “Mơ Huyền” = Mờ) = =Đồ (do lướt từ đôi “Đen Ô” = Đồ) = Hồ (do lướt từ đôi “Hoen Ố” = Hồ) = Hắc 黑 = =Hun = Hôn 昏 = Hôm = Hoen = Huyền 玄 = Hối 晦(do lướt từ đôi “Hun Tối”= Hối) =Tối = Môi 煤= Hôi 灰 = Muội 昧 = Mun = Mực = Mặc 墨 = Mèn (do lướt “Màu Đen”= Mèn) = Man 蠻 = Than 炭 = Thâm 深 = Lầm = Đậm = Đêm = Lem = Nhem = Nhèm (tiếng Tày nghĩa là Đen) = Nhờ Nhờ = Nhọ = Tro = Lọ = Lê 黎 = Lọ Nghẹ (nhọ nồi, tiếng Huế) = Ngầm = Râm = Âm 陰 = Ám暗 = Xám (khoảng 45 từ, chưa hết, bạn đọc tìm thêm) Do bởi Hồ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt từ đôi “Hoen Ố” = Hồ ( NKN: Ô = Hồ = Hoen = Đen = Mèn = Mực = Mun = Hun = Hôn = Hôm = Hối = Tối v.v.); Đồ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt “Đen Ô” = Đồ (NKN: Ô = Đồ = Đen = Mèn = =Mực = Mờ = Dơ = Mơ = Muội v.v.); Mơ nghĩa là đen do hình thành bằng lướt “Muội Dơ” = Mơ (NKN: Dơ = Mơ = Muội = Mù + Tối = “Mù Tối” = Muội). Từ Hồ Đồ là từ dân gian Việt (không có viết bằng chữ nho). Hán ngữ mượn từ Hồ Đồ khi nó đã chuyển chú chỉ ý “không minh bạch”, ghi âm chúng bằng mượn chữ nho Hồ 糊và Đồ 涂( là từ hàn lâm Việt, đồng âm nhưng khác nghĩa với từ Hồ Đồ) nhưng phát âm của Hán bị méo đi thành [Hú Tú糊涂] chỉ còn nghe lơ lớ với Hồ Đồ. Chữ nho Hồ 糊nghĩa là hồ dán (chữ kiểu “hình thanh”: hình là chữ Mễ 米ý nói làm bằng bột gao, thanh là mượn âm “Hồ” của chữ Hồ 胡nghĩa là cái yếm con bò – theo giải thích của < Thuyết Văn Giải Tự> là cái Cổ 古Nhục 月lái lại tức phản thiết là cái Cục Nhô bằng bèo nhèo thõng dưới cổ con bò, người Việt cổ đại từng dùng chữ Hồ 胡này để chỉ bọn người rợ “ Hung Nô匈奴” = Hồ胡, gọi là bọn rợ Hồ, nên mới có câu thành ngữ cổ đại là “Nam phương Việt南方越, bắc phương Hồ北方胡”). Chữ nho Đồ 涂nghĩa là bôi mực tô (do lướt “Đè Tô” = Đồ涂, là một động tác vẽ, chữ kiểu “hội ý” gồm chữ Nước氵 ý chỉ mực + chữ Dư 余ý nói tô thêm lên tức “Đè Tô” = Đồ). Hán ngữ đọc [Hú Tú糊涂] mà căn cứ vào nghĩa chữ thì thấy là “ Hồ 糊dán Đồ 涂thêm” thì lấy đâu ra nghĩa là “không minh bạch”?, chỉ có căn cứ vào cái âm [Hú Tú] lơ lớ vời Hồ Đồ thì mới ra nghĩa là “không minh bạch” nhưng hoá ra là mượn âm của tiếng Việt mà phát âm không chuẩn Hồ Đồ mà thành ra Nói (Ngôn) Ngọng Ngịu là [Hú Tú]. Trường hợp từ Mơ Hồ cũng tương tự. Mượn chữ nho Mô 模để ghi âm từ Mơ. Mượn chữ nho Hồ 糊để ghi âm từ Hồ, phát âm đều ngọng ngịu là [Mó Hú模糊], nếu căn cứ nghĩa chữ thì từ Mơ Hồ là “cái Khuôn của Hồ dán” sao tải được nghĩa “không minh bạch” hay “không rõ ràng” ?. Chữ Mô 模nghĩa là cái khuôn, là chữ nho kiểu “hình thanh”: hình là chữ Mộc 木ý nói cái khung bằng gỗ, thanh là mượn chữ Mô 莫 (tiếng Huế nghĩa là Không, cận âm với từ Khuôn). Chữ Mô 模 (là cái Khuôn gọi theo nghĩa của chữ Mô莫, hay cái Mô gọi theo âm đọc của chữ Mô莫), từ hàn lâm Mô模còn nở ra từ dính Mẫu - Mực (là từ dân gian) mà trong Hán ngữ không có từ dính này. 2/ “DƯƠNG 佯ĐÔNG東KÍCH擊 TÂY西”. Đây là một câu của tiếng Việt hàn lâm chứ không phải là câu của Hán ngữ, có nghĩa là: Giả vờ (DƯƠNG佯) phía đông, nhưng lại tấn công (KÍCH 擊) phía tây (dùng trong chiến thuật đánh lạc hướng để lừa địch). Phân tích câu này sẽ thấy từ dân gian Việt ( nay viết bằng chữ quốc ngữ) dẫn đến từ hàn lâm Việt (xưa viết bằng chữ nho). Rồi những từ hàn lâm và dân gian ấy do lướt với nhau mà sinh ra những từ dân gian hay hàn lâm mới, làm cho Nôi Khái Niệm càng có thêm nhiều từ, mang nhiều sắc thái của khái niệm, gây cho tiếng Việt càng phong phú vì càng thêm tinh tế: NKN: Làm = Lạm ( nghĩa là “làm quá mức”, do lướt lấy dấu “Làm Nặng” = Lạm濫, Hán ngữ mượn chữ Lạm này để dùng trong từ ghép Lạm Dung濫用, phát âm lơ lớ là [Làn Yòng濫用]) = Lụng (nghĩa là “làm nặng nhọc”, do lướt “Làm Hung”= Lụng弄, Hán ngữ mượn chữ Lụng弄này với nguyên nghĩa là “làm” nhưng phát âm lơ lớ là Nụng [Nòng弄],hay dùng trong từ ghép Lụng Hoại弄壞, phát âm lơ lớ là [Nòng Huài弄壞], nghĩa là làm hỏng ) = Làm = Đảm ( do lướt từ đôi “Đương Làm” = Đảm) = Đương ( vd “:Đương đầu với sự việc có nghĩa là “Làm với sự việc”) = Đảm Đương (từ đôi). Nói không trúng (tức Vô 無Chính正 = Phi 非Chính正)tức nói Dối, còn gọi là nói Trật (do lướt phủ định “Trúng 中Bất不” = Trật, nghĩa là không trúng), nhấn lướt : “Trật Ạ !” = “Trật Dã 也!” = Trá 詐 (Trá 詐nở ra từ dính Trắt-Trẻo, tiếng Huế). Dối, Trá詐, Trắt -Trẻo đều có nghĩa là Dối Trá 詐 (từ đôi, một từ dân gian Dối ghép với một từ hàn lâm Trá 詐đồng nghĩa cũng thành một từ đôi). Lướt “Dối Trá” = Giả. Giả đồng nghĩa với Vô 無Sở所 tức không có căn cứ. Lướt “Vô 無Sở所” = Vờ. Do đó lại có từ đôi Giả Vờ. Nói không trúng tức Phi Chính hay Vô Chính. Lướt “Phi Chính” = Phỉnh. Lướt “Vô Chính” = Vỉnh. Do đó lại có từ đôi Vờ Vỉnh và từ đôi Phỉnh Vờ. Lướt từ đôi “Phỉnh Vờ”= Phờ. Lại có từ đôi mới là Phỉnh Phờ. (Những từ song âm như Vờ Vỉnh, Phỉnh Phờ thì ngôn ngữ học Việt Nam nói chúng không phải là loại “từ láy”, nhưng chưa biết gọi chúng là loại từ gì, còn LM gọi nó là loại “từ đôi” vì hai tiếng của từ song âm đó đồng nghĩa nhau và mỗi tiếng đều có thể dùng độc lập, nhờ soi qui tắc Lướt tạo từ mà biết được nguồn gốc cái nghĩa của nó) Rõ ràng là hành động đánh Lừaà Giả Làm = Giả Đương = lướt “Giả Đương” = =Dương佯 à Giả Vờà Vờ Vỉnhà Phỉnh Phờ. Tiếng Việt đã dùng qui tắc Lướt mà tạo ra từ mới “Giả Đương” = Dương 佯là một từ hàn lâm (viết bằng chữ nho Việt , theo kiểu “hình thanh”, một trong “Lục Thư” là 6 cách tạo dụng chữ nho : hình là chữ Nhân 亻ý nói hành động do người làm, thanh là mượn chữ Dương 羊cận âm để hướng dẫn đọc âm “dương”, chứ thực ra chữ Dương 羊cho mượn âm ấy nghĩa đen là con dê) Viết bài này xong đến đây mới tra trên mạng 《说文解字在线查询》- Tra tầm online <Thuyết Văn Giải Tự>, thì được câu trả lời: 《 Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự “ Dương” - 抱歉,没有收录汉字 “佯”。》. Chứng tỏ chữ Dương佯là chữ nho Việt của từ hàn lâm Việt, không phải là chữ Hán. Vậy mà thiên hạ cứ hễ thấy chữ Nho là gọi nó là “Hán tự” và cái âm Việt đọc của nó thì lại gọi là “từ Hán Việt” , để đến nỗi ngộ nhận là trong tiếng Việt có đến 70% từ vựng là “từ gốc Hán” (?) 21/ Câu Kiều 377: “Thời trân thức thức sẵn bày Gót sen Thoăn-Thoắt dạo ngay mé tường” Con Thoi 梭của khung cửi dệt nó chuyển động qua lại với tốc độ rất nhanh, nên từ Thoi đã nở ra từ dính Thoăn-Thoắt (từ song âm, mỗi âm đều có chung “tời” là “Th” như từ Thoi) để chỉ cái nhanh của tốc độ thao tác. Thoăn –Thoắt lại chuyển chú thành trợ động từ chỉ sự chuyển động nhanh.[TQ dịch từ dính Thoăn- Thoắt bằng chữ nho Khoai Khoai Tẩu 快快走 (nhanh nhanh đi)]. Thoi còn nở ra từ dính Thấm -Thoắt chỉ tốc độ thời gian trôi nhanh. Chữ nho Thoi梭 được mượn dùng sang Hán ngữ với nguyên nghĩa nhưng Hán phát âm lơ lớ là [Suo梭], nhưng nó không đẻ ra bất cứ từ dính nào dạng hai âm tiết với hàm ý “nhanh” mà mỗi âm tiết có chung phụ âm đầu là “S” như từ “Suo”. Chứng tỏ cái khái niệm “nhất nguyên sinh nhị nguyên” của Dịch lý là của người Việt chứ không phải của người Hán. 22/Câu Kiều 379: “Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông” Sẽ là Se Sẽ = Khe Khẽ. Dặng nghĩa là đánh tiếng, do NKN: Nói = Na = Và 话 = Viết曰 = Vân 云 = Van = Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý). Dặng = Đằng Hắng (tiếng Chăm) = Đèng Héng (tiếng Quảng Nam) = E Hèm (đánh tiếng). “Tiếng Việt là mẹ các ngôn ngữ”. NKN mặt: Mặt = Miện = Liễm 脸 [Lian]= Diện 面[Mian] = Da = Nạ (tiếng Lào) = Ná (tiếng Tày) = Nang (tiếng Thái) = Màng = Mạc幕 [Mù]. 23/ Câu Kiều 381: “Trách lòng Hờ -Hững với lòng Lửa hương chốc để Lạnh-Lùng bấy lâu” Dừng nghỉ (Hưu) ở nơi (Nẻo) xa, gọi lướt “Hưu Nẻo” = Hẻo, ý nói muốn tránh xa người khác. Hẻo nở ra từ dính Hờ-Hững. Lướt hai từ dân gian “Lẩn Tránh” = Lánh另 (từ hàn lâm), ý nói như muốn trốn khỏi người khác. Lánh nở ra từ dính Lạnh-Lùng. Tự trốn riêng ra nơi Hẻo Lánh là thái độ Hờ-Hững và Lạnh-Lùng với cộng đồng. 24/ Câu Kiều 431: “Cửa ngoài vội rủ rèm che Xăm –Xăm băng lối vườn khuya một mình” Chữ nho Khứ 去nghĩa là đi, Hán ngữ đọc chữ Khứ là [Xuy去]. Âm [Xuy] sang tiếng Việt nở ra các từ dính: Xăm-Xăm là đi nhanh, Lệ-Xệ là đi chậm, Cà-Xiểng là đi bước thấp bước cao. Mà [Xuy去] trong Hán ngữ không phái sinh ra được từ nào có phụ âm “X” hay âm vận “Uy” cùng như Xuy, mà mang nghĩa là Khứ cả. 25/ Câu Kiều 433: “Nhặt thưa gương giọi đầu cành Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh Hắt-Hiu” NKN đen là: Dơ = Ô乌 = Ố污 = “Hoen Ô污” = Hồ = “Đen Ố乌” = Đồ. Hồ nở ra từ dính Hắt-Hiu (chỉ ánh sáng mờ mờ). “Muội Dơ” = Mơ. Mơ Hồ hay Hồ Đồ đều là những từ đôi chỉ sự đen, không rõ ràng, không minh bạch. Hán ngữ ký âm từ Mơ Hồ là [Mó Hú] viết bằng hai chữ nho cận âm là chữ Mô 模 (chỉ cái Khuôn, kiểu chữ “hình thanh”: hình là chữ Mộc 木ý nói làm bằng gỗ, thanh là chữ Mô 莫tiếng Huế nghĩa là Không cận âm với Khuôn) và chữ Hồ 糊 (chỉ hồ dán làm bằng bột, là chữ “hình thanh”: hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ 胡là chữ “hội ý” gồm Cổ 古 + Nhục肉 nói lái (phản thiết) là Cục Nhô, như <Thuyết Văn Giải Tự> giải thích là cái cục nhô thõng dưới cổ con bò còn gọi là yếm bò.( Chữ Hồ 胡này từng được người Việt cổ vùng Hoàng Hà dùng gọi bọn người rợ “Hung Nô 匈奴” = Hồ胡như câu thành ngữ cổ đại nói: “nam phương Việt, bắc phương Hồ 南方越,北方胡“. Thành ra chữ [Mó Hú模糊] của Hán ngữ dùng chỉ ý “không rõ ràng” , “không minh bạch” chỉ là mượn chữ nho để ký âm na ná từ Việt là từ Mơ Hồ. Từ Hồ Đồ cũng vậy, chỉ là mượn chữ nho cận âm để làm ký âm, chữ Hồ 糊là hồ dán, chữ Đồ 涂là bôi tô màu (chữ kiểu “hội ý” gồm bộ Nước 氵ý chỉ mực màu + chữ Dư 余ý nói bồi tô lên tức “Đè Tô” = Đồ), thành âm na ná là “Hú Tú糊涂” để ký âm hai tiếng Hồ Đồ nghĩa là không rõ ràng. 26/ Câu Kiều 435: “Sinh vừa tựa án Thiu-Thiu Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê” Chữ Thùy 睡là ngủ nở ra từ dính à Thiu-Thiu (do lướt “Thuỳ Xíu”=Thiu) là ngủ gật [Hán ngữ mượn chữ nho Thùy睡 dùng với nghĩa là ngủ, nhưng lại không nở được từ dính Thiu-Thiu mang nghĩa ngủ gật. Hán ngữ gọi ngủ gật là “Da Dun打盹”]. 27/ Câu Kiều 439: “Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân Mơ-Màng” Chữ Mộng夢 nở ra từ dính à Mơ-Màng. Bâng Khuâng là từ láy chỉ tâm trạng buồn (Buồn) và khó (Khốn) xử: do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng 28/Câu Kiều 449: “Vầng trăng Vằng-Vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song” Từ Vàng nở ra từ dính à Vằng-Vặc. Màu vàng của trăng rất lâu dài nên đã mượn từ dính Dằng-Dặc (của Dài) để làm thành lướt ”Vàng Dằng”= Vằng và lướt “Vàng Dặc” = Vặc 29/ Câu Kiều 483: “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau Sầm-Sập như trời đổ mưa” Động từ Sa mưa, từ Sa nở ra từ dính à Sầm-Sập. 30/ Câu Kiều 485: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ Khiến người ngồi đó mà Ngơ-Ngẩn sầu” Ngẫm nở ra từ dính à Ngơ-Ngẩn (do lướt “Ngẫm Sơ”=Ngơ, lướt “Ngẫm Dần” = Ngẩn). Ngẫm Sơ cái sầu và Ngẫm Dần cái sầu thành ra Ngơ-Ngẩn sầu [TQ dịch từ dính Ngơ-Ngẩn là : [chóu chàng惆怅]- rầu rĩ, [máng rán茫然] - mù lắm] 21/ Câu Kiều 377: “Thời trân thức thức sẵn bày Gót sen Thoăn-Thoắt dạo ngay mé tường” Con Thoi 梭của khung cửi dệt nó chuyển động qua lại với tốc độ rất nhanh, nên từ Thoi đã nở ra từ dính Thoăn-Thoắt (từ song âm, mỗi âm đều có chung “tời” là “Th” như từ Thoi) để chỉ cái nhanh của tốc độ thao tác. Thoăn –Thoắt lại chuyển chú thành trợ động từ chỉ sự chuyển động nhanh.[TQ dịch từ dính Thoăn- Thoắt bằng chữ nho Khoai Khoai Tẩu 快快走 (nhanh nhanh đi)]. Thoi còn nở ra từ dính Thấm -Thoắt chỉ tốc độ thời gian trôi nhanh. Chữ nho Thoi梭 được mượn dùng sang Hán ngữ với nguyên nghĩa nhưng Hán phát âm lơ lớ là [Suo梭], nhưng nó không đẻ ra bất cứ từ dính nào dạng hai âm tiết với hàm ý “nhanh” mà mỗi âm tiết có chung phụ âm đầu là “S” như từ “Suo”. Chứng tỏ cái khái niệm “nhất nguyên sinh nhị nguyên” của Dịch lý là của người Việt chứ không phải của người Hán. 22/Câu Kiều 379: “Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông” Sẽ là Se Sẽ = Khe Khẽ. Dặng nghĩa là đánh tiếng, do NKN: Nói = Na = Và 话 = Viết曰 = Vân 云 = Van = Văng (nói tục) = Dặng (đánh tiếng) = Dạm (hỏi ướm ý). Dặng = Đằng Hắng (tiếng Chăm) = Đèng Héng (tiếng Quảng Nam) = E Hèm (đánh tiếng). “Tiếng Việt là mẹ các ngôn ngữ”. NKN mặt: Mặt = Miện = Liễm 脸 [Lian]= Diện 面[Mian] = Da = Nạ (tiếng Lào) = Ná (tiếng Tày) = Nang (tiếng Thái) = Màng = Mạc幕 [Mù]. 23/ Câu Kiều 381: “Trách lòng Hờ -Hững với lòng Lửa hương chốc để Lạnh-Lùng bấy lâu” Dừng nghỉ (Hưu) ở nơi (Nẻo) xa, gọi lướt “Hưu Nẻo” = Hẻo, ý nói muốn tránh xa người khác. Hẻo nở ra từ dính Hờ-Hững. Lướt hai từ dân gian “Lẩn Tránh” = Lánh另 (từ hàn lâm), ý nói như muốn trốn khỏi người khác. Lánh nở ra từ dính Lạnh-Lùng. Tự trốn riêng ra nơi Hẻo Lánh là thái độ Hờ-Hững và Lạnh-Lùng với cộng đồng. 24/ Câu Kiều 431: “Cửa ngoài vội rủ rèm che Xăm –Xăm băng lối vườn khuya một mình” Chữ nho Khứ 去nghĩa là đi, Hán ngữ đọc chữ Khứ là [Xuy去]. Âm [Xuy] sang tiếng Việt nở ra các từ dính: Xăm-Xăm là đi nhanh, Lệ-Xệ là đi chậm, Cà-Xiểng là đi bước thấp bước cao. Mà [Xuy去] trong Hán ngữ không phái sinh ra được từ nào có phụ âm “X” hay âm vận “Uy” cùng như Xuy, mà mang nghĩa là Khứ cả. 25/ Câu Kiều 433: “Nhặt thưa gương giọi đầu cành Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh Hắt-Hiu” NKN đen là: Dơ = Ô乌 = Ố污 = “Hoen Ô污” = Hồ = “Đen Ố乌” = Đồ. Hồ nở ra từ dính Hắt-Hiu (chỉ ánh sáng mờ mờ). “Muội Dơ” = Mơ. Mơ Hồ hay Hồ Đồ đều là những từ đôi chỉ sự đen, không rõ ràng, không minh bạch. Hán ngữ ký âm từ Mơ Hồ là [Mó Hú] viết bằng hai chữ nho cận âm là chữ Mô 模 (chỉ cái Khuôn, kiểu chữ “hình thanh”: hình là chữ Mộc 木ý nói làm bằng gỗ, thanh là chữ Mô 莫tiếng Huế nghĩa là Không cận âm với Khuôn) và chữ Hồ 糊 (chỉ hồ dán làm bằng bột, là chữ “hình thanh”: hình là chữ Mễ 米chỉ bột, thanh là chữ Hồ 胡là chữ “hội ý” gồm Cổ 古 + Nhục肉 nói lái (phản thiết) là Cục Nhô, như <Thuyết Văn Giải Tự> giải thích là cái cục nhô thõng dưới cổ con bò còn gọi là yếm bò.( Chữ Hồ 胡này từng được người Việt cổ vùng Hoàng Hà dùng gọi bọn người rợ “Hung Nô 匈奴” = Hồ胡như câu thành ngữ cổ đại nói: “nam phương Việt, bắc phương Hồ 南方越,北方胡“. Thành ra chữ [Mó Hú模糊] của Hán ngữ dùng chỉ ý “không rõ ràng” , “không minh bạch” chỉ là mượn chữ nho để ký âm na ná từ Việt là từ Mơ Hồ. Từ Hồ Đồ cũng vậy, chỉ là mượn chữ nho cận âm để làm ký âm, chữ Hồ 糊là hồ dán, chữ Đồ 涂là bôi tô màu (chữ kiểu “hội ý” gồm bộ Nước 氵ý chỉ mực màu + chữ Dư 余ý nói bồi tô lên tức “Đè Tô” = Đồ), thành âm na ná là “Hú Tú糊涂” để ký âm hai tiếng Hồ Đồ nghĩa là không rõ ràng. 26/ Câu Kiều 435: “Sinh vừa tựa án Thiu-Thiu Dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê” Chữ Thùy 睡là ngủ nở ra từ dính à Thiu-Thiu (do lướt “Thuỳ Xíu”=Thiu) là ngủ gật [Hán ngữ mượn chữ nho Thùy睡 dùng với nghĩa là ngủ, nhưng lại không nở được từ dính Thiu-Thiu mang nghĩa ngủ gật. Hán ngữ gọi ngủ gật là “Da Dun打盹”]. 27/ Câu Kiều 439: “Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần Còn ngờ giấc mộng đêm xuân Mơ-Màng” Chữ Mộng夢 nở ra từ dính à Mơ-Màng. Bâng Khuâng là từ láy chỉ tâm trạng buồn (Buồn) và khó (Khốn) xử: do lướt “Buồn Dâng” = Bâng, lướt “Khốn Dâng” = Khuâng 28/Câu Kiều 449: “Vầng trăng Vằng-Vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song” Từ Vàng nở ra từ dính à Vằng-Vặc. Màu vàng của trăng rất lâu dài nên đã mượn từ dính Dằng-Dặc (của Dài) để làm thành lướt ”Vàng Dằng”= Vằng và lướt “Vàng Dặc” = Vặc 29/ Câu Kiều 483: “Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Tiếng mau Sầm-Sập như trời đổ mưa” Động từ Sa mưa, từ Sa nở ra từ dính à Sầm-Sập. 30/ Câu Kiều 485: “Ngọn đèn khi tỏ khi mờ Khiến người ngồi đó mà Ngơ-Ngẩn sầu” Ngẫm nở ra từ dính à Ngơ-Ngẩn (do lướt “Ngẫm Sơ”=Ngơ, lướt “Ngẫm Dần” = Ngẩn). Ngẫm Sơ cái sầu và Ngẫm Dần cái sầu thành ra Ngơ-Ngẩn sầu [TQ dịch từ dính Ngơ-Ngẩn là : [chóu chàng惆怅]- rầu rĩ, [máng rán茫然] - mù lắm] 80/ Câu Kiều 1565: “Buồng đào khuya sớm Thảnh-Thơi Ra vào một mực nói cười như không” Chữ Thư (thư dãn) nở ra từ dính àThảnh-Thơi (do lướt “Thư Khảnh” = Thảnh, lướt “Thư Ngơi” = Thơi 81/ Câu Kiều 1717 : “Bàng Hoàng dở tỉnh dở say Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên lầu” Bàng Hoàng là từ láy: do lướt “Bất Đang”= Bàng (đang lúc không ngờ), lướt “Hốt Đang” = Hoàng (đang lúc bỗng chợt). Lướt này đã chuyển khoăng khắc thời gian thành tâm trạng con người là Bàng Hoàng. [TQ dịch là: “Không ngờ cô ta chợt tỉnh lại mở to đôi mắt”不料她忽然醒过来睁开两眼bất liệu tha hốt nhiên tỉnh qua lai tranh khai lưỡng nhãn]. Mảng là do lướt tiếng “Mắng Vang” = Mảng, mắng la thúc giục ai đó mà vang tiếng lên, gọi là “Mắng Vang”= Mảng. Câu không nêu chủ ngữ, nhưng trong ngữ cảnh này hiểu được là chủ đang mắng gọi đầy tớ. 82/ Câu Kiều 1719: “ Ả hoàn trên dưới giục nhau Hãi hùng nàng mới theo sau một người” Hãi Hùng là từ láy: Hãi và “Hãi Hung” = Hùng, ghép lại thành Hãi Hùng chỉ cái hãi xuất hiện và vụt lớn nhanh, đó là Hãi Hùng [TQ dịch là: Tha cực độ hoảng trương 她极度慌张 (Hãi Hùng có 2 chữ, Cực Độ Hoảng Trương mất 4 chữ)] 83/ Câu Kiều 1725: “Gạn-Gùng ngọn hỏi ngành tra Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa” Gạn Gùng là từ láy cho từ Gạn. Từ Gạn đã là một nén thông tin khá lớn do lướt “Gợi và hỏi Vặn” = Gạn, thường dùng khi tra xét hỏi cung, mở lớn lùng sục xoi mói hơn nữa là lướt “Gạn Lùng” = Gùng, thành ra câu 4 chữ “Gạn và Gạn lùng” qua thủ thuật lướt mà chì còn 2 chữ Gạn-Gùng, nén đủ nội dung thông tin dài. [TQ dịch từ Gạn- Gùng là: Truy căn cứu để phản phúc bàn vấn 追根究底反复盘问 (hỏi tính toán lật đi lật lại, đuổi gốc moi rễ)] 84/ Câu Kiều 1725: “Bất tình nổi trận mây mưa Mắng rằng: “Những giống bơ thờ quen thân” Con này chẳng phải thiện nhân Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” Bơ Thờ là tác giả nói tắt câu thành ngữ sống “cù bất cù Bơ thân nhờ thân gửi”. Cù Bất nghĩa là côi cút (Cù) không nơi nương tựa (Bất). Cù Bơ dùng láy cho Cù Bất. Thân Nhờ Thân Gửi nghĩa là đem thân đi sống nhờ sống gửi nhà người. Tác giả đã dùng qui tắc nói vo, gạt bỏ đầu đuôi chỉ lấy khúc giữa là Bơ và Thân Nhờ (đồng thời lướt “Thân sống Nhờ” = Thờ, thành ra câu thành ngữ 6 chữ chỉ còn lại hai tiếng Bơ Thờ. “Những giống bơ thờ “ là những giống sống cù bất cù bơ thân nhờ thân gửi. Hai câu 1727 và 1728 [TQ dịch là: Nị quyết bất thị lương gia nữ tử. Nị thị dã nữ nhân, quán ư tứ xứ du đãng, nị bất thị đào tỳ dã thị cá khỉ phu tái giá đich bà nương你决不是良家女子。你是野女人, 惯于四处游荡,你不是逃婢也是个弃 夫再嫁的婆娘(mày chẳng phải con nhà tử tế, chỉ là đồ quen sống trôi dạt, mày không là kẻ nô tỳ trốn chạy thì cũng là kẻ gái già bỏ chồng tái giá)]. Tác giả chỉ dùng có hai động từ “trốn” và “lộn” đã nói đủ hết tư cách gian xảo của cái “con này” trong câu lục bát có 14 chữ (bản dịch đã phải dùng tới 34 chữ). ] 85/ Câu Kiều 1733: “Đã đem mình bán cửa tao Lại còn Khủng-Khỉnh làm cao thế này!” Chữ Khánh chỉ cái Khánh bằng đá hay bằng ngọc là vật trang trí cao quí, từ Khánh còn chuyển chú để chỉ sự vui mừng. Từ Khánh nở ra từ dínhà Khủng-Khỉnh ( do lướt ‘Khánh Cung” = Khủng, lướt “Khánh Kính” = Khỉnh) nói ý làm cao, ra giá, do từ dính gồm hai tiếng âm dương nên Khủng-Khỉnh hàm ý thách giá thấp cao. 86/ Câu Kiều 1763: “ Phận sao bạc chẳng vừa thôi Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan” Khăng Khăng là từ láy cho từ Khép (buộc chặt), do từ Khép Thằng nghĩa là dây thừng để trói, đã được lướt “Khép Thằng” = Khăng, thành từ láy Khăng Khăng ý nói buộc rất chặt không gỡ ra được. 87/ Câu Kiều 1779: “Lĩnh lời nàng mới lựa dây Nỉ-Non Thánh-Thót dễ say lòng người” Dây đàn nó Nói nở ra từ dính àNỉ-Non (do lướt “Nói Ví”=Nỉ, lướt “Nói Von”=Non, dây đàn nó Thốt nở ra từ dínhà Thánh-Thót (do lướt “Thốt Lành” = Thánh, lướt “Thốt Ngọt”= Thót) 88/ Câu Kiều 1783: “Cửa người đày đọa chút thân, Sớm Năn-Nỉ bóng, đêm ân hận lòng” Từ Nói nở ra từ dính Năn-Nỉ nghĩa là nói nhiều để cầu xin (do nói nhiều là lướt “Nói Nhặn” = Năn, nói xin tức Kì 祈Đảo祷 là lướt “Nói Kì祈” = Nỉ, thành từ dính Năn-Nỉ). Ân Hận là từ láy, lướt hai từ hàn lâm “Úc懊Hận恨” = Ân (từ dân gian), Úc懊 Hận 恨nghĩa là Hận Sâu, rồi lại còn Hận nữa, nên láy thành từ Ân Hận. Từ dân gian Ân này (không có viết bằng chữ nho) đồng âm nhưng khác nghĩa với từ hàn lâm Ân 恩nghĩa là Ơn. Từ Ăn Năn khác xa nghĩa Ân Hận, nhưng do cận âm nên nhiều người thường lầm lộn, đáng lý cần nói Ăn Năn thì lại lầm sang dùng từ Ân Hận.[ TQ dịch: Úc hận và ai oán懊恨与哀怨 ] 89/ Câu Kiều 1789: “Lần Lần tháng trọn ngày mưa Nỗi gần nào biết đường xa thế này” Thủ thuật lướt “Lâu Dần”= Lần, “Lâu Dần” = Lầnà Lần Lần (4 chữ còn 2 chữ) 80/ Câu Kiều 1565: “Buồng đào khuya sớm Thảnh-Thơi Ra vào một mực nói cười như không” Chữ Thư (thư dãn) nở ra từ dính àThảnh-Thơi (do lướt “Thư Khảnh” = Thảnh, lướt “Thư Ngơi” = Thơi 81/ Câu Kiều 1717 : “Bàng Hoàng dở tỉnh dở say Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên lầu” Bàng Hoàng là từ láy: do lướt “Bất Đang”= Bàng (đang lúc không ngờ), lướt “Hốt Đang” = Hoàng (đang lúc bỗng chợt). Lướt này đã chuyển khoăng khắc thời gian thành tâm trạng con người là Bàng Hoàng. [TQ dịch là: “Không ngờ cô ta chợt tỉnh lại mở to đôi mắt”不料她忽然醒过来睁开两眼bất liệu tha hốt nhiên tỉnh qua lai tranh khai lưỡng nhãn]. Mảng là do lướt tiếng “Mắng Vang” = Mảng, mắng la thúc giục ai đó mà vang tiếng lên, gọi là “Mắng Vang”= Mảng. Câu không nêu chủ ngữ, nhưng trong ngữ cảnh này hiểu được là chủ đang mắng gọi đầy tớ. 82/ Câu Kiều 1719: “ Ả hoàn trên dưới giục nhau Hãi hùng nàng mới theo sau một người” Hãi Hùng là từ láy: Hãi và “Hãi Hung” = Hùng, ghép lại thành Hãi Hùng chỉ cái hãi xuất hiện và vụt lớn nhanh, đó là Hãi Hùng [TQ dịch là: Tha cực độ hoảng trương 她极度慌张 (Hãi Hùng có 2 chữ, Cực Độ Hoảng Trương mất 4 chữ)] 83/ Câu Kiều 1725: “Gạn-Gùng ngọn hỏi ngành tra Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa” Gạn Gùng là từ láy cho từ Gạn. Từ Gạn đã là một nén thông tin khá lớn do lướt “Gợi và hỏi Vặn” = Gạn, thường dùng khi tra xét hỏi cung, mở lớn lùng sục xoi mói hơn nữa là lướt “Gạn Lùng” = Gùng, thành ra câu 4 chữ “Gạn và Gạn lùng” qua thủ thuật lướt mà chì còn 2 chữ Gạn-Gùng, nén đủ nội dung thông tin dài. [TQ dịch từ Gạn- Gùng là: Truy căn cứu để phản phúc bàn vấn 追根究底反复盘问 (hỏi tính toán lật đi lật lại, đuổi gốc moi rễ)] 84/ Câu Kiều 1725: “Bất tình nổi trận mây mưa Mắng rằng: “Những giống bơ thờ quen thân” Con này chẳng phải thiện nhân Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng” Bơ Thờ là tác giả nói tắt câu thành ngữ sống “cù bất cù Bơ thân nhờ thân gửi”. Cù Bất nghĩa là côi cút (Cù) không nơi nương tựa (Bất). Cù Bơ dùng láy cho Cù Bất. Thân Nhờ Thân Gửi nghĩa là đem thân đi sống nhờ sống gửi nhà người. Tác giả đã dùng qui tắc nói vo, gạt bỏ đầu đuôi chỉ lấy khúc giữa là Bơ và Thân Nhờ (đồng thời lướt “Thân sống Nhờ” = Thờ, thành ra câu thành ngữ 6 chữ chỉ còn lại hai tiếng Bơ Thờ. “Những giống bơ thờ “ là những giống sống cù bất cù bơ thân nhờ thân gửi. Hai câu 1727 và 1728 [TQ dịch là: Nị quyết bất thị lương gia nữ tử. Nị thị dã nữ nhân, quán ư tứ xứ du đãng, nị bất thị đào tỳ dã thị cá khỉ phu tái giá đich bà nương你决不是良家女子。你是野女人, 惯于四处游荡,你不是逃婢也是个弃 夫再嫁的婆娘(mày chẳng phải con nhà tử tế, chỉ là đồ quen sống trôi dạt, mày không là kẻ nô tỳ trốn chạy thì cũng là kẻ gái già bỏ chồng tái giá)]. Tác giả chỉ dùng có hai động từ “trốn” và “lộn” đã nói đủ hết tư cách gian xảo của cái “con này” trong câu lục bát có 14 chữ (bản dịch đã phải dùng tới 34 chữ). ] 85/ Câu Kiều 1733: “Đã đem mình bán cửa tao Lại còn Khủng-Khỉnh làm cao thế này!” Chữ Khánh chỉ cái Khánh bằng đá hay bằng ngọc là vật trang trí cao quí, từ Khánh còn chuyển chú để chỉ sự vui mừng. Từ Khánh nở ra từ dínhà Khủng-Khỉnh ( do lướt ‘Khánh Cung” = Khủng, lướt “Khánh Kính” = Khỉnh) nói ý làm cao, ra giá, do từ dính gồm hai tiếng âm dương nên Khủng-Khỉnh hàm ý thách giá thấp cao. 86/ Câu Kiều 1763: “ Phận sao bạc chẳng vừa thôi Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan” Khăng Khăng là từ láy cho từ Khép (buộc chặt), do từ Khép Thằng nghĩa là dây thừng để trói, đã được lướt “Khép Thằng” = Khăng, thành từ láy Khăng Khăng ý nói buộc rất chặt không gỡ ra được. 87/ Câu Kiều 1779: “Lĩnh lời nàng mới lựa dây Nỉ-Non Thánh-Thót dễ say lòng người” Dây đàn nó Nói nở ra từ dính àNỉ-Non (do lướt “Nói Ví”=Nỉ, lướt “Nói Von”=Non, dây đàn nó Thốt nở ra từ dínhà Thánh-Thót (do lướt “Thốt Lành” = Thánh, lướt “Thốt Ngọt”= Thót) 88/ Câu Kiều 1783: “Cửa người đày đọa chút thân, Sớm Năn-Nỉ bóng, đêm ân hận lòng” Từ Nói nở ra từ dính Năn-Nỉ nghĩa là nói nhiều để cầu xin (do nói nhiều là lướt “Nói Nhặn” = Năn, nói xin tức Kì 祈Đảo祷 là lướt “Nói Kì祈” = Nỉ, thành từ dính Năn-Nỉ). Ân Hận là từ láy, lướt hai từ hàn lâm “Úc懊Hận恨” = Ân (từ dân gian), Úc懊 Hận 恨nghĩa là Hận Sâu, rồi lại còn Hận nữa, nên láy thành từ Ân Hận. Từ dân gian Ân này (không có viết bằng chữ nho) đồng âm nhưng khác nghĩa với từ hàn lâm Ân 恩nghĩa là Ơn. Từ Ăn Năn khác xa nghĩa Ân Hận, nhưng do cận âm nên nhiều người thường lầm lộn, đáng lý cần nói Ăn Năn thì lại lầm sang dùng từ Ân Hận.[ TQ dịch: Úc hận và ai oán懊恨与哀怨 ] 89/ Câu Kiều 1789: “Lần Lần tháng trọn ngày mưa Nỗi gần nào biết đường xa thế này” Thủ thuật lướt “Lâu Dần”= Lần, “Lâu Dần” = Lầnà Lần Lần (4 chữ còn 2 chữ) Năm Hổ nói chuyện Hổ: Con cọp Đông Dương lông vàng rực với nhiều vằn cháy sém, từ hàn lâm gọi là Hổ, tượng trưng cho Hỏa là Lửa tức phương quẻ Ly của Dịch lý, là vị trí địa lý của xứ sở Hồng Bàng. Ngày xưa tranh dân gian Hàng Trống có tranh Ngũ Hổ. Con Hổ vươn lên “đúng qui trình” như sau: 1 Trông như hổ ẩn rồng tàng (ngoạ Hổ tàng long 臥虎藏龍) 2 Xem ra nhuệ khí đằng đằng lên hương (sinh nhân hoạt Hổ 生人活虎) 3 Xứng là hào kiệt thế gian (nhân trung long Hổ 人中龍虎) 4 Năm mới tiến mạnh gấp ngàn năm qua (như Hổ thêm cánh 如虎添翼 ) 5 Sự nghiệp hưng vượng vươn xa. (Hổ khí xung thiên 如虎添翼) Mừng năm mới Nhâm Dần chức các bạn trẻ một khí thế Khởi Nghiệp! Nhà nho xưa khi hạ bút đã cẩn thận như thế nào Tại đền Kiếp Bạc, nơi thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, có đôi câu đối của Thám hoa Vũ Phạm Hàm viết : Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí. Lục Đầu vô thủy bất thu thanh (萬袷有山皆劍氣。六頭無水不秋聲) (người đọc phải hiểu là: “Vạn Kiếp còn non nêu khí kiếm. Lục Đầu hết nước mới ngừng thiêng” [Thu 秋Thanh theo nghĩa chữ thì Thu秋 là mùa Thu 秋, Thanh 聲là âm Thanh聲, ở đây chữ Thu Thanh秋聲là chữ dùng để mượn âm chứ không mượn nghĩa, Thu Thanh tức là ThuTiếng, (nếu ta coi “Thu” như là một âm vận, coi “Tiếng” như là một phụ âm đứng cuối chữ thì trường hợp này chữ “Thu Tiếng”, giống như là một trong những trường hợp đặc biệt trong đọc chữ Lào là phải đánh vần ngược – tức phản thiết hay “lướt ngược” như của chữ nho - “Thu Tiếng” phải đánh vần ngược là “Tiếng Thu”, rồi mới lướt “Tiếng Thu” = “Tu Thiêng” (phản thiết), mà Tu 休 có nghĩa là dừng = ngừng (do từ đôi Nghỉ và Dừng được lướt “Nghỉ - Dừng” = Ngừng), cho nên “Tu thiêng” tức là “Ngừng thiêng”, ở đây tác giả đã dùng cách nói lái (của tiếng Việt) để tránh dùng phải từ gở “ngừng thiêng” tại nơi đền vốn rất linh thiêng, người đọc tự hiểu lấy ẩn ý)]. Bằng cách nói lướt (Qui Tắc Lướt) mà trong tiếng Việt có vô cùng nhiều từ mới một âm tiết đã được tạo ra từ những từ có hai âm tiết hoặc từ một câu nhiều âm tiết. Ví dụ để quảng cáo thì người ta dùng Biển Hiệu (một cái bảng trên đó có vẽ phù hiệu cần rao) nói lái lại thì là một sự Biểu Hiện sản phẩm cần rao. Nhưng thương hồ ở chợ nổi thỉ chỉ cần Biểu hiện sản phẩm rao bán bằng cách Treo chính nó lên cây nêu dựng đứng trên thuyền, nên cách “Biểu hiện sản phẩm rao bán bằng dựng cây nêu để Treo” = Bẹo (lướt gộp hai chữ đầu và cuối câu là “Biểu…Treo” = Bẹo, và cây nêu ấy được gọi là cây Bẹo, thật là ngắn gọn đơn giản mà súc tích, như cách tạo ra một chữ nho kiểu “hội ý” vậy. Ví dụ khác (1), khi nói từ “deo neo” thì ai cùng hình dung được đó là một cuộc sống vất vả tât bật mà vẫn không thoát cái Nghèo vì không đột phá thay đổi mà vẫn chỉ cặm cụi “Gieo cái Nghèo” = Deo và “Nuôi cái Nghèo”= Neo thì vẫn chỉ thu hoạch đươc cái “Deo Neo” mà thôi. Từ dính Deo Neo là một từ hai âm tiết không thể đảo ngược vị trí và không thể tách rời, tách ra độc lập thì nó mất nghĩa. Ví dụ khác (2), từ dính Lã Chã là từ đã được gia công bằng nguyên liệu là từ Lâu và Chậm bằng QT Lướt: "Lâu Ạ! " = Lã, "Chậm Ạ! " = Chã. Nên câu văn "Khóc mà nước mắt trào ra Lâu và Chậm" (do trạng thái tâm lý lúc khóc) đã được thay bằng câu súc tích hơn là "Khóc nước mắt Lã Chã" nghe hay hơn mà tiết kiệm lời. Cũng logic khi dùng từ đôi Lưu Chảy, Lưu 流 là từ hạn lâm. đồng nghĩa với Chảy là từ dân gian, nên có từ đôi Lưu Chảy ngụ ý Lưu cũng là Chảy, gia công: "Lưu 流 Dã 也!"= Lã, "Chảy A!" = Chã, cũng được từ mới Lã Chã, còn hàm ý là Lâu và Chậm (vì tốn thời gian gia công, chảy Lâu là do Chậm, chảy Chậm là do Lâu) Ví dụ khác (3), Từ dính Mấp Máy là nói đôi Môi cứ đóng lại mở ra liên tục (nguyên liệu đầu vào để gia công tạo từ là phụ âm M của từ Môi và âm vận Âp của từ Nhập - 0ff và âm vận Ay của từ Thảy - On). Từ dính Mặn Mà nói lên sự đậm đà của tinh yêu thương (nguyên liệu là phụ âm M của từ Môi - cơ quan để hôn thể hiện tình thương và vị nồng đậm của từ Mặn - như "gừng cay muối măn" thê hiện tình cảm đậm đà) Ví dụ khác (4), Từ dính Nhấp Nháy hiểu ngay là cặp mắt ( cho mượn nguyên liệu là phụ âm Nh của từ Nhìn của cái Nhãn 眼) cứ liên tục đóng lại (nguyên liệu là âm vận Âp của từ Nhập - Off) và mở ra ( nguyên liệu là âm vận Ay của từ Thảy - On) một cách bình thường. Nhưng nếu nói "cặp mắt cứ Hấp Háy" thì hiểu ngay là cũng đông tác ây của cặp mắt nhưng rất dâm đãng. Vì nguyên liệu phụ âm H là do từ Háy của tiếng Quảng Đông, Háy (tiếng Việt Đông) = Hi ( tiếng Tày ) = Yoni (tiếng Chăm) = Pi (tiếng Đài Loan) = Pizđa (tiếng Nga) = Đĩ (tiếng Kinh - Nghệ An) = =Đui (tiếng Khơme) đều là chỉ cái Âm thực khí. Bởi vậy Ham nhục dục thì còn gọi là Hám Hố hay Hám Háy. Đặt trạng từ lên trước hay sau động từ? Trong ngữ pháp tiếng Việt hiện đại qui định trạng từ phải đặt sau động từ ( như là Thuyết phải đặt sau Đề), ví dụ động từ là Sáng thì trạng từ đi sau nó là Chói hay Dịu để thuyết mức độ mà động từ gây ra, Sáng Chói (như mặt trời). Sáng Dịu (như mặt trăng). Nhưng ở tiếng Việt hàn lâm thì trạng từ lại đặt lên trước. Sáng là từ dân gian, nó để lại cái “gen đực” là “S” của nó trong nhiều từ hàn lâm đồng nghĩa như từ Sán燦(Sán Lạn 燦爛), hoặc để lại cái “gen cái” là “áng” của nó trong nhiều từ hàn lâm đồng nghĩa như Tráng 壯, Lãng 朗…làm thành một Nôi Khái Niệm (NKN) gồm nhiều từ dân gian và hàn lâm đồng nghĩa: Sáng = Sán 燦 = Lạn 爛 = Tráng 壯 = Quang 光 = Hoàng 煌 = Lãng 朗 = Lượng 亮 = Liệu 瞭 = Thiều 韶...(Trong các từ này mức độ chiếu rọi của từ Lãng 朗 mạnh hơn mức độ chiếu rọi của từ Lượng 亮 nên ở Hán ngữ cổ vẫn dùng như ngữ pháp tiếng Việt dân gian để gọi là Nhật Lãng 日朗 – là Trời Sáng chứ không phải là sáng trời và Nguyệt Lượng 月亮 – là Trăng Sáng chứ không phải là sáng trăng,còn phát âm của tiếng Mandarin tức Hán ngữ hiện đại thì đã bị lơ lớ đi nên khó nhận ra nguồn gốc cổ, như “Nhật 日” thì phát âm là “Ri 日”, “Nguyệt 月” thì phát âm là “Yue月”, “Chiếu照” thì phát âm là ”Zhao 照”). Khi đặt trạng từ lên trước thì sáng chói tức Liệu Chói được đảo thành Chói Liệu và lướt thành một từ mới là “Chói Liệu瞭” = Chiếu 照, đồng nghĩa với Soi, thành NKN: Rọi = Soi = Chói = Chiếu 照. Còn sáng dịu tức Liệu Dịu được đảo thành Dịu Liệu và lướt thành một từ mới là “Dịu Liệu 瞭” = Diệu 曜 đồng nghĩa với Soi, thành NKN: Rọi = Soi = Chói = Chiếu 照 = Diệu 曜. Thành ngữ viết gộp là “Nhật Nguyêt Chiếu Diệu 日月照耀” có nghĩa là Nhật 日 thì Chiếu 照 còn Nguyệt 月thì Diệu 曜. Ở tiếng Việt dân gian khi cần nhấn mạnh, nhất là trong văn thơ thì trạng từ cũng thường được đặt lên trước, ví dụ ca từ: “Ngọt bùi bên nhau như nhành cau đĩa trầu. Mặn mà nghĩa phu thê chớ phụ câu thề”, nếu bình thường thì phải đặt Thuyết sau Đề là: “Bên nhau chia sẻ ngọt bùi. Nghĩa phu thê gắn bó mặn mà”.1 like
-
Quán vắng!
thanhdc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Philippines: Quyền mà không một nước nào khác trên thế giới có được Alexei Syunnerberg Lần đầu tiên trong lịch sử Philippines cho phép cư dân của đất nước này bắn chết những kẻ buôn bán ma túy mà không qua xét xử. Tân Tổng thống Philippines Rodrigo Roa Duterte trao quyền cho người dân bắn chết tội phạm ma túy. Theo dữ liệu của các phương tiện truyền thông, số lượng những kẻ buôn bán ma túy bị giết chết lên tới khoảng hai nghìn người. Ngày 19 tháng 8, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về các vụ giết người phi pháp đã tuyên bố rằng, lời kêu gọi của Tổng thống Duterte giết chết những kẻ buôn bán ma túy là một bước đi vô trách nhiệm, hơn nữa là một hành vi tội ác. Ngày 21 tháng 8, Tổng thống Duterte đã tuyên bố, có khả năng chúng tôi phải quyết định rút khỏi Liên Hợp Quốc. © REUTERS/ Lean Daval Philippines dọa rút khỏi Liên Hiệp Quốc Sau đây là ý kiến của Giáo sư Vladimir Kolotov, chuyên gia về các vấn đề Đông Nam Á: "Tại Philippines, vì sự lộng hành quá đáng của mafia ma túy, đất nước chịu thiệt hại khủng khiếp. Trong tình huống này, Tổng thống quyết định dựa vào nhân dân, ông kêu gọi người dân giết những kẻ buôn. Tham nhũng bao trùm các cơ quan thực thi pháp luật của nước này, vì thế không có cách nào khác ngoài việc dựa vào nhân dân. Hơn nữa, Tổng thống đã công bố danh sách các quan chức cao cấp trong chính phủ và các cơ quan an ninh tiếp tay cho kinh doanh ma túy". Chuyên gia Kolotov nói tiếp: khi ở Philippines hàng chục nghìn người đã chết vì ma túy thì các tổ chức quốc tế không có phản ứng gì. Nhưng, ngay sau khi mấy chục kẻ buôn bán ma túy đầu tiên bị giết chết thì các tổ chức quốc tế ngay lập tức coi đó là hành vi vi phạm nhân quyền. Phản ứng này không khác gì một biểu hiện của chính sách tiêu chuẩn kép! Tại sao các chiến sĩ "bảo vệ quyền lợi của các trùm ma túy" không có phản ứng gì khi số người dân Philippines lớn gấp hàng trăm lần đã chết vì ma túy, và các băng đảng mafia thu siêu lợi nhuận? Chính điều đó đã gây ra một phản ứng gay gắt như vậy của tân tống thống, mà bây giờ người ta cố gắng trói buộc ông, để ông không có khả năng đấu tranh chống tội phạm có tổ chức trong nước, mà đây là nhà lãnh đạo do nhân dân bầu ra. Chuyên gia Nga không loại trừ rằng, ở Philippines có những người có thể lợi dụng quyền bắn chết những kẻ buôn để thanh toán với những cá nhân không có gì chung với buôn bán ma túy. Tuy nhiên, tình trạng khẩn cấp đòi hỏi các biện pháp bất thường. Hy vọng rằng, trong tương lai gần Tổng thống Duterte sẽ có thể chấm dứt tệ nạn ma túy tràn lan ở Philippines, sẽ thay thế các quan chức tham nhũng trong chính phủ và các cơ quan an ninh, và tình hình trong nước sẽ về với nề nếp bình thường trong khuôn khổ pháp lý. ======================== Quyết định cho phép dân chúng bắn chết tội phạm ma tủy không cần xét xử có thể là sai lầm. Theo tôi vấn đề chỉ nên dừng lại ở việc cho phép cảnh sát tiêu diệt tội phạm ma túy. Nhưng điều này cho thấy tệ nạn ma tủy ở đất nước này đã quá nghiêm trọng và có thể dẫn tới nguy cơ hủy diệt cả một dân tộc. Và đó là nguyên nhân để ngài Tổng Thống Phi Luật Tân phải có biện pháp quyết liệt, vì trách nhiệm với tương lai dân tộc của ngài. Việc một số quốc gia trên thế giới vội vã lên án hành động quyết liệt của ngài Tổng thống Phi luật Tân, mà không xét đến thực trạng ma túy tràn lan ở đất nước này, có thể dẫn đến khủng khoảng niềm tin vào những gía trị nhân đạo. Khi những giá trị nhân đạo. được nhân danh để phê phán mà không giải quyết được sự việc dẫn đến khủng khoảng. Điều này có thể thí dụ như sau: Khi khuyên một thằng bé anh không nên đánh em khi em nó quấy khóc, thì người khuyên phải có biện pháp chứng minh rằng có thể dỗ thằng em không quấy khóc, mà không cần đánh. Đại để vậy.1 like -
HÌNH ÂM DƯƠNG LẠC VIỆT MÔ TẢ TRƯỜNG KHÍ Ở CÔNG TRÌNH CỔ ĐẠI. *** Chúng đang sống! Các công trình cự thạch không chỉ là đá tảng http://trithucvn.net/khoa-hoc/chung-dang-song-cac-cong-trinh-cu-thach-khong-chi-la-da.html Những người ghé thăm các đền thờ và công trình cự thạch cổ đại thường miêu tả một loại cảm giác đặc biệt khác lạ. Nhưng người ta lại thường chỉ xua tay cười khẩy, cho rằng đó chỉ là kết quả do ấn tượng mạnh mẽ khi chiêm ngưỡng các công trình cự thạch, ví như các vòng tròn đá, các ngôi đền và kim tự tháp cổ đại. Những tảng đá còn sót lại của vòng tròn đá Avebury (Ảnh: Flickr CC) Nhưng bằng chứng tổng thể lại cung cấp một cách giải thích khác: rằng các di chỉ cự thạch và các công trình linh thiêng cổ đại khác thực sự đang thâu góp, tồn trữ, và thậm chí sản sinh một trường năng lượng riêng của chúng, từ đó đưa con người tiến nhập vào một trạng thái ý thức biến đổi. Không cần quá nhiều động lực để kích hoạt hệ thống mạch điện từ của cơ thể con người; trên thực tế một sự thay đổi nhỏ trong môi trường xung quanh cũng là đủ để tạo ra một sự thay đổi trong nhận thức. Vòng tròn đá Stonehenge (Ảnh: Internet) Khảo sát chứng minh sự tồn tại của các trường năng lượng Năm 1983, một nghiên cứu tổng thể đã được kỹ sư Charles Brooker tiến hành để khảo sát từ tính tại các công trình linh thiêng. Đối tượng nghiên cứu là vòng tròn đá Rollright ở Anh. Vòng tròn đá Rollright ở Anh. (Ảnh: Aerial-Cam) Kết quả khảo sát từ tính tại khu vực cho thấy một dải lực từ được thâu hút vào vòng tròn thông qua một khoảng trống hẹp giữa các tảng đá – đóng vai trò như cổng vào. Dải lực từ này sau đó sẽ xoắn theo hình trôn ốc hướng vào trung tâm vòng tròn như thể đang hạ xuống một cái hang thỏ. Hai trong số các tảng đá ở phía tây vòng tròn cũng được phát hiện đang rung động với các vòng tròn dòng điện xoay chiều đồng tâm, tương tự gợn sóng trong một cái ao. Kết quả phân tích đã khiến tác giả Brooker đặt câu hỏi về cách thức “cường độ trung bình của trường địa từ bên trong vòng tròn là thấp hơn đáng kể so với bên ngoài vòng tròn, như thể các tảng đá đã có tác dụng như một loại tấm chắn”. Các khám phá này đã giúp chúng ta giải mã mục đích của người cổ đại khi họ xây dựng các công trình cự thạch này. Tại đền thờ Edfu ở Ai Cập có một bức tường miêu tả công thức thiết kế một khoảng không gian sao cho có năng lượng khác biệt với quang cảnh xung quanh — một ngôi đền. Các chỉ dẫn miêu tả một số vị thần sáng thế nhất định, đầu tiên họ tạo ra một mô đất, sau đó ‘đâm xuyên một con rắn’ ngay tại chỗ, và từ đó một lực lượng tự nhiên đặc biệt đã thấm nhuần vào mô đất, dẫn tới quyết định xây dựng đền thờ ngay bên trên. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau, biểu tượng con rắn vẫn luôn là một ký hiệu ẩn dụ cho các đường năng lượng uốn khúc trên Trái Đất, điều được các nhà khoa học gọi là những dòng điện đất, khá tương tự với khái niệm “long mạch” trong phong thuỷ. Nữ thần Ai Cập khống chế năng lượng rắn Nguyên lý tương tự như máy gia tốc hạt hiện đại Dường như các kiến trúc sư cổ đại đã sở hữu khả năng khai thác hiệu quả các quy luật của tạo hóa, bởi vì theo một nghiên cứu mới đây về các trường năng lượng bên trong và bên ngoài công trình cự thạch Avebury, vòng tròn đá lớn nhất trên thế giới, các tảng đá cự thạch này được thiết kế để thu hút một dòng điện đất vào bên trong. Các điện cực được lắp đặt ở Avebury hé lộ cách thức rãnh mương hình tròn làm gián đoạn sự truyền dẫn dòng điện đất và dẫn điện vào bên trong khu vực rãnh mương, nên về thực chất đã tích lũy năng lượng và giải phóng nó tại lối vào di chỉ, đôi lúc lên đến gấp đôi mức tỷ lệ năng lượng tại vùng đất xung quanh Các chỉ số đo lường từ tính tại di chỉ Avebury đã hạ dần về đêm, tại một mức độ lớn hơn rất nhiều so với trong các hoàn cảnh tự nhiên thông thường. Chúng sẽ “sạc lại” vào lúc bình minh, với dòng điện đất từ vùng đất xung quanh được thâu hút về phía vòng tròn cự thạch tương tự như khi các dao động từ tính tại khu vực di chỉ đạt mức tối đa. Theo các nghiên cứu được thực hiện bởi nhà vật lý quá cố John Burke, vòng tròn đá Avebury được chủ định dựng lập và bố cục để hội tụ các dòng điện từ chảy theo một hướng định trước, theo nguyên lý tương tự như các máy gia tốc hạt hiện đại, trong đó các hạt i-on trong không khí được lái theo một hướng nhất định. Toàn cảnh di chỉ vòng tròn đá Avebury. (Ảnh: Getty Images) Các tảng đá còn sót lại ở di chỉ Avebury. (Ảnh: Freddy Silva) Hiệu ứng hội tụ năng lượng điện từ của các công trình linh thiêng có thể sẽ được tăng cường nhờ loại đá được lựa chọn. Những khối đá được sử dụng trong các công trình cự thạch thường bao hàm một lượng lớn magnetite (một khoáng vật sắt từ), và cũng thường được vận chuyển qua một quãng đường dài. Hai yếu tố này biến các đền thờ thành các cục nam châm yếu, dù sở hữu kích thước lớn. Những “bình tụ điện” liên hệ trực tiếp với từ trường của Trái ĐấtCác trường năng lượng ở các công trình cổ đại có tác động mạnh mẽ đến cơ thể người, đặc biệt là lượng sắt hòa tan lưu chuyển trong các mạch máu, chưa kể hàng triệu hạt magnetite lưu thông bên trong hộp sọ, và tuyến tùng (quả), vốn tự nó rất nhạy cảm với các trường điện từ, và khi được kích thích sẽ sản sinh các chất dẫn truyền thần kinh như pinolene và seratonin. Trong một môi trường mà cường độ trường điện từ bị suy giảm, con người sẽ có thể trải nghiệm các trạng thái tâm linh siêu thường. Một cuộc điều tra toàn diện đã được tiến hành tại xã Carnac ở Pháp, nơi tập trung khoảng 80.000 công trình cự thạch. Kết quả điều tra đã tiết lộ sự tồn tại của một công nghệ tâm linh tương tự đang hoạt động. Lúc đầu, nhà nghiên cứu chính, kỹ sư điện Pierre Mereux, đã tỏ ra ngờ vực việc các công trình cự thạch có thể sở hữu bất kỳ huyền năng đặc biệt nào. Kết quả điều tra tại xã Carnac của kỹ sư Mereux cho thấy cách thức các mộ đá khởi tác dụng khuếch đại và giải phóng dòng điện đất vào ban ngày, với cường độ mạnh nhất được ghi nhận vào thời điểm bình minh. Sự dao động điện áp và từ tính có liên hệ với nhau, và theo sau một hiện tượng được biết đến là sự cảm ứng điện. Theo kỹ sư Mereux, “Các mộ đá đóng vai trò như một cuộn dây solenoid (cuộn dây kim loại quấn quanh một lõi sắt), trong đó các dòng điện được kích hoạt hoặc sản sinh bởi sự dao động, mạnh hơn hoặc yếu hơn, của trường từ tính xung quanh. Nhưng hiện tượng này sẽ không được kích hoạt với bất kỳ cường độ nào trừ khi mộ đá được tạo dựng bằng các tảng đá tinh thể giàu hàm lượng thạch anh, ví như đá granit”. Các chỉ số đo đạc các cột đá cự thạch đã cho thấy một loại năng lượng dao động tuần hoàn tại phần đáy, mang điện tích dương và âm, lên đến 10 m từ những tảng đá nguyên khối dựng đứng này, một số trong đó vẫn cho thấy hình chạm khắc các con rắn. Các mức dao động cực đại tuần hoàn cứ sau khoảng 70 phút, cho thấy các cột đá cự thạch tích và phóng điện thường xuyên. Kỹ sư Mereux cũng nhận thấy sự giảm dần cường độ điện áp của các cột đá cự thạch trong bố cục Grand Ménec khi càng đi ra xa khu vực vòng tròn đá, vốn tự nó đóng vai trò như một cái bình tụ điện hoặc một bộ tập trung năng lượng. Cột đá Carnac: Một trong 80.000 cột đá tại khu vưc xã Carnac. (Ảnh: Freddy Silva) Kết cấu của các tảng đá và khả năng truyền dẫn năng lượng của chúng cũng thu hút kỹ sư Mereux và những nhà khoa học khác. Với thành phần thạch anh rất cao, những tảng đá được lựa chọn đặc biệt là có tính áp điện, nghĩa là chúng sẽ tạo ra điện khi bị nén ép hoặc dao động. Các tảng cự thạch ở xã Carnac, được đặt tại vị trí 31 chỗ đứt gãy của khu vực có hoạt động động đất mạnh nhất ở Pháp, đang trong tình trạng dao động liên tục, khiến các tảng đá phát triển tính điện từ. Các cột đá đã không được dựng lên ở vị trí này một cách ngẫu nhiên, đặc biệt khi chúng đã được vận chuyển từ một khu vực cách đó 97 km, bởi vì sự hiện diện và định hướng của chúng có mối liên hệ trực tiếp với từ trường của Trái Đất. Các công trình linh thiêng và các cổng từ tính Nhiều truyền thống bí ẩn cổ đại trên khắp thế giới đều giống nhau ở một khía cạnh đặc biệt: họ cho rằng một số địa điểm nhất định trên Trái Đất hội tụ một nguồn năng lượng lớn hơn những nơi khác. Những địa điểm này, được thổ dân Hopi gọi là “các vết đốm của nai nhỏ”, rốt cục đã trở thành nền móng của nhiều công trình linh thiêng và đền thờ mà chúng ta quan sát thấy ngày nay. Điều thú vị là mỗi nền văn hóa đều nói rằng những địa điểm đặc biệt này được kết nối với thiên đàng bằng một cái ống rỗng hoặc thân cây sậy rỗng, và thông qua sự kết nối mang tính trung tâm này linh hồn có thể tiếp cận với thế giới khác trong quá trình thực hiện nghi lễ. Tuy nhiên, nó cũng cung cấp một đường dẫn để thế giới linh hồn có thể tiến nhập vào lãnh địa vật lý này. Năm 2008 NASA có thể đã vô tình xác nhận tính chính xác của luận điểm này khi cơ quan này đăng tải chi tiết một cuộc điều tra các sự kiện chuyển giao thông lượng (flux transfer events), trong đó miêu tả cách thức Trái Đất được liên kết với Mặt Trời thông qua một mạng lưới các cổng từ mở ra sau mỗi 8 phút. Một sự kiện chuyển giao thông lượng (flux transfer event – FTE) xảy ra khi một cổng từ mở ra trên từ quyển Trái Đất và thông qua đó các hạt vật chất cao năng lượng từ phía Mặt Trời có thể chảy vào bên trong. (Ảnh: NASA) Những phát hiện như vậy đã giúp xác thực, dưới lăng kính khoa học, niềm tin được ôm giữ bấy lâu nay của những người nhạy cảm và các nhà cảm xạ học rằng: các công trình cự thạch và đền thờ cổ đại là những địa điểm tách biệt với thế giới trần tục, nơi một người có thể kết nối với những địa điểm vượt ra xa khỏi phạm vi Trái Đất. Chắc chắn những thầy tư tế Ai Cập cổ đại đã coi đền thờ như một thứ gì đó vượt quá tổ hợp các tảng đá vô tri vô giác. Hàng ngày vào lúc bình minh họ sẽ đi thức tỉnh mỗi căn phòng bằng những bài kinh trịnh trọng, đối đãi với đền thờ như một sinh vật sống vốn sẽ ngủ nghỉ về đêm và thức dậy vào lúc bình minh. Tư liệu trong bài viết được dưa trên cuốn sách của tác giả với tựa đề The Divine Blueprint: Temples, power places, and the global plan to shape the human soul, đền thờ vô hình, 2012. Có thể tìm mua cuốn sách này trên trang web của ông: invisibletemple.com. Tác giả: Freddy Silva, Ancient Origins. Quý Khải biên dịch1 like
-
Thông tin mới nhất: Tòa Bạch Ốc xác định đã nhận sách. Vạn sự tùy duyên.1 like
-
Điều gì quan trọng nhất đời bạn ? Khi những tình huống dưới đây xảy ra đồng thời, bạn sẽ giải quyết việc gì trước tiên? Hãy nhanh chóng đưa ra kết quả, và sau đó bạn sẽ khám phá được chính tính cách con người bạn. 1. Em bé khóc quấy. 2. Trời bắt đầu mưa, và quần áo đang phơi. 3. Từng hồi chuông điện thoại reo lên gấp gáp 4. Chuông cửa réo ầm ầm, có ai đó đang đợi bạn mở cửa. 5. Nước đang chảy lênh láng . Mỗi lựa chọn cho thấy những điều bạn ưu tiên nhất và đặt lên trên hết trong cuộc đời mình: 1. Khi bạn quyết định chạy tới dỗ dành em bé, điều đó cho thấy trong trái tim bạn, gia đình luôn ở vị trí quan trọng nhất. Bạn sẵn sàng hy sinh sự nghiệp để có được những giây phút đầm ấm bên người mình thương yêu. 2. Bạn bỏ mặc tất cả và bước ra ngoài rút quần áo để tránh cơn mưa? Vậy thì, với bạn, chuyện tình cảm luôn được đặt lên hàng đầu. Chỉ cần tình yêu vẫy gọi, bạn sẵn sàng hy sinh tất cả để chạy theo tiếng gọi ái tình. 3. Bạn bước tới và nhấc điện thoại lên? Không thể phủ nhận được bạn luôn mải mê với sự nghiệp, công việc. Đối với bạn, thành công, thăng tiến là phần thưởng quan trọng nhất của cuộc đời. 4. Tiếng chuông làm bạn nông nóng chạy ra mở cửa? Bạn quả thực rất đề cao tình bạn, các mối quan hệ xã hội và sẵn sàng vì nó mà thực hiện bất kể điều gì. 5. Mối bận tâm của bạn là phải tắt ngay vòi nước? Vậy thì bạn rất quan tâm đến tiền bạc và luôn muốn đồng tiền mình làm ra sinh sôi. Bạn thích được giàu có và luôn vì thế mà phấn đấu hết mình. Nguyên Hương Ngoisao.net1 like