• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 23/08/2016 in Bài viết

  1. 1 like
  2. Cháu nên biết rằng, diễn đàn lyhocdongphuong lập trình lá số có hơi khác đi các nơi khác 1 chút, nhưng đôi khi sự khác biệt nầy là mấu chốt cho sự luận đoán. Đặc biệt đốii với người thuộc thổ ngũ cục vòng tràng sinh sẽ khác với các nơi khác.
    1 like
  3. Cháu có anh chị em dị bào cùng cha khác mẹ ? Nếu không, cháu sinh giờ Sửu. Nếu xem tử vi trên mạng được thì mấy ông thầy bói như bác đây thất nghiệp hết.
    1 like
  4. 1 like
  5. Cháu nghĩ rằng bác có nên tính phí với cháu vs em cháu ? nếu cứ như thế này xem 1 người rồi kéo cả làng ra làm sao bác có thì giờ? trong khi đó nhu cầu nhiều cậu mợ khác còn đang chờ kia! Trả lời cho cháu về câu hỏi con cái, bác cũng biết rất nhiều trường hợp như vậy, nhưng trong trường hợp của cháu bác thấy có Phượng các giải thần thì hy vọng vào phúc dức của cháu, vì cung phúc của cháu có cô -quả-quang -quí hội chiếu đây là cách có phần thiêng liêng hộ trì cho cháu,tả phù-hông loan là người nữ,nếu cháu đạo phật nên đọc kinh Quán Âm, trong mọi công việc, cháu nên cầu nguyện đọc kinh ,dù cháu đạo nào... Cung tử có bạch hổ - phi liêm là số hiếm conn hay không có con, nhưng nếu có con sẽ đỗ đạt nên người, sanh được 3 gái nhưng sau chỉ còn lại 2.
    1 like
  6. HÌNH ÂM DƯƠNG LẠC VIỆT MÔ TẢ TRƯỜNG KHÍ Ở CÔNG TRÌNH CỔ ĐẠI. *** Chúng đang sống! Các công trình cự thạch không chỉ là đá tảng http://trithucvn.net/khoa-hoc/chung-dang-song-cac-cong-trinh-cu-thach-khong-chi-la-da.html Những người ghé thăm các đền thờ và công trình cự thạch cổ đại thường miêu tả một loại cảm giác đặc biệt khác lạ. Nhưng người ta lại thường chỉ xua tay cười khẩy, cho rằng đó chỉ là kết quả do ấn tượng mạnh mẽ khi chiêm ngưỡng các công trình cự thạch, ví như các vòng tròn đá, các ngôi đền và kim tự tháp cổ đại. Những tảng đá còn sót lại của vòng tròn đá Avebury (Ảnh: Flickr CC) Nhưng bằng chứng tổng thể lại cung cấp một cách giải thích khác: rằng các di chỉ cự thạch và các công trình linh thiêng cổ đại khác thực sự đang thâu góp, tồn trữ, và thậm chí sản sinh một trường năng lượng riêng của chúng, từ đó đưa con người tiến nhập vào một trạng thái ý thức biến đổi. Không cần quá nhiều động lực để kích hoạt hệ thống mạch điện từ của cơ thể con người; trên thực tế một sự thay đổi nhỏ trong môi trường xung quanh cũng là đủ để tạo ra một sự thay đổi trong nhận thức. Vòng tròn đá Stonehenge (Ảnh: Internet) Khảo sát chứng minh sự tồn tại của các trường năng lượng Năm 1983, một nghiên cứu tổng thể đã được kỹ sư Charles Brooker tiến hành để khảo sát từ tính tại các công trình linh thiêng. Đối tượng nghiên cứu là vòng tròn đá Rollright ở Anh. Vòng tròn đá Rollright ở Anh. (Ảnh: Aerial-Cam) Kết quả khảo sát từ tính tại khu vực cho thấy một dải lực từ được thâu hút vào vòng tròn thông qua một khoảng trống hẹp giữa các tảng đá – đóng vai trò như cổng vào. Dải lực từ này sau đó sẽ xoắn theo hình trôn ốc hướng vào trung tâm vòng tròn như thể đang hạ xuống một cái hang thỏ. Hai trong số các tảng đá ở phía tây vòng tròn cũng được phát hiện đang rung động với các vòng tròn dòng điện xoay chiều đồng tâm, tương tự gợn sóng trong một cái ao. Kết quả phân tích đã khiến tác giả Brooker đặt câu hỏi về cách thức “cường độ trung bình của trường địa từ bên trong vòng tròn là thấp hơn đáng kể so với bên ngoài vòng tròn, như thể các tảng đá đã có tác dụng như một loại tấm chắn”. Các khám phá này đã giúp chúng ta giải mã mục đích của người cổ đại khi họ xây dựng các công trình cự thạch này. Tại đền thờ Edfu ở Ai Cập có một bức tường miêu tả công thức thiết kế một khoảng không gian sao cho có năng lượng khác biệt với quang cảnh xung quanh — một ngôi đền. Các chỉ dẫn miêu tả một số vị thần sáng thế nhất định, đầu tiên họ tạo ra một mô đất, sau đó ‘đâm xuyên một con rắn’ ngay tại chỗ, và từ đó một lực lượng tự nhiên đặc biệt đã thấm nhuần vào mô đất, dẫn tới quyết định xây dựng đền thờ ngay bên trên. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau, biểu tượng con rắn vẫn luôn là một ký hiệu ẩn dụ cho các đường năng lượng uốn khúc trên Trái Đất, điều được các nhà khoa học gọi là những dòng điện đất, khá tương tự với khái niệm “long mạch” trong phong thuỷ. Nữ thần Ai Cập khống chế năng lượng rắn Nguyên lý tương tự như máy gia tốc hạt hiện đại Dường như các kiến trúc sư cổ đại đã sở hữu khả năng khai thác hiệu quả các quy luật của tạo hóa, bởi vì theo một nghiên cứu mới đây về các trường năng lượng bên trong và bên ngoài công trình cự thạch Avebury, vòng tròn đá lớn nhất trên thế giới, các tảng đá cự thạch này được thiết kế để thu hút một dòng điện đất vào bên trong. Các điện cực được lắp đặt ở Avebury hé lộ cách thức rãnh mương hình tròn làm gián đoạn sự truyền dẫn dòng điện đất và dẫn điện vào bên trong khu vực rãnh mương, nên về thực chất đã tích lũy năng lượng và giải phóng nó tại lối vào di chỉ, đôi lúc lên đến gấp đôi mức tỷ lệ năng lượng tại vùng đất xung quanh Các chỉ số đo lường từ tính tại di chỉ Avebury đã hạ dần về đêm, tại một mức độ lớn hơn rất nhiều so với trong các hoàn cảnh tự nhiên thông thường. Chúng sẽ “sạc lại” vào lúc bình minh, với dòng điện đất từ vùng đất xung quanh được thâu hút về phía vòng tròn cự thạch tương tự như khi các dao động từ tính tại khu vực di chỉ đạt mức tối đa. Theo các nghiên cứu được thực hiện bởi nhà vật lý quá cố John Burke, vòng tròn đá Avebury được chủ định dựng lập và bố cục để hội tụ các dòng điện từ chảy theo một hướng định trước, theo nguyên lý tương tự như các máy gia tốc hạt hiện đại, trong đó các hạt i-on trong không khí được lái theo một hướng nhất định. Toàn cảnh di chỉ vòng tròn đá Avebury. (Ảnh: Getty Images) Các tảng đá còn sót lại ở di chỉ Avebury. (Ảnh: Freddy Silva) Hiệu ứng hội tụ năng lượng điện từ của các công trình linh thiêng có thể sẽ được tăng cường nhờ loại đá được lựa chọn. Những khối đá được sử dụng trong các công trình cự thạch thường bao hàm một lượng lớn magnetite (một khoáng vật sắt từ), và cũng thường được vận chuyển qua một quãng đường dài. Hai yếu tố này biến các đền thờ thành các cục nam châm yếu, dù sở hữu kích thước lớn. Những “bình tụ điện” liên hệ trực tiếp với từ trường của Trái ĐấtCác trường năng lượng ở các công trình cổ đại có tác động mạnh mẽ đến cơ thể người, đặc biệt là lượng sắt hòa tan lưu chuyển trong các mạch máu, chưa kể hàng triệu hạt magnetite lưu thông bên trong hộp sọ, và tuyến tùng (quả), vốn tự nó rất nhạy cảm với các trường điện từ, và khi được kích thích sẽ sản sinh các chất dẫn truyền thần kinh như pinolene và seratonin. Trong một môi trường mà cường độ trường điện từ bị suy giảm, con người sẽ có thể trải nghiệm các trạng thái tâm linh siêu thường. Một cuộc điều tra toàn diện đã được tiến hành tại xã Carnac ở Pháp, nơi tập trung khoảng 80.000 công trình cự thạch. Kết quả điều tra đã tiết lộ sự tồn tại của một công nghệ tâm linh tương tự đang hoạt động. Lúc đầu, nhà nghiên cứu chính, kỹ sư điện Pierre Mereux, đã tỏ ra ngờ vực việc các công trình cự thạch có thể sở hữu bất kỳ huyền năng đặc biệt nào. Kết quả điều tra tại xã Carnac của kỹ sư Mereux cho thấy cách thức các mộ đá khởi tác dụng khuếch đại và giải phóng dòng điện đất vào ban ngày, với cường độ mạnh nhất được ghi nhận vào thời điểm bình minh. Sự dao động điện áp và từ tính có liên hệ với nhau, và theo sau một hiện tượng được biết đến là sự cảm ứng điện. Theo kỹ sư Mereux, “Các mộ đá đóng vai trò như một cuộn dây solenoid (cuộn dây kim loại quấn quanh một lõi sắt), trong đó các dòng điện được kích hoạt hoặc sản sinh bởi sự dao động, mạnh hơn hoặc yếu hơn, của trường từ tính xung quanh. Nhưng hiện tượng này sẽ không được kích hoạt với bất kỳ cường độ nào trừ khi mộ đá được tạo dựng bằng các tảng đá tinh thể giàu hàm lượng thạch anh, ví như đá granit”. Các chỉ số đo đạc các cột đá cự thạch đã cho thấy một loại năng lượng dao động tuần hoàn tại phần đáy, mang điện tích dương và âm, lên đến 10 m từ những tảng đá nguyên khối dựng đứng này, một số trong đó vẫn cho thấy hình chạm khắc các con rắn. Các mức dao động cực đại tuần hoàn cứ sau khoảng 70 phút, cho thấy các cột đá cự thạch tích và phóng điện thường xuyên. Kỹ sư Mereux cũng nhận thấy sự giảm dần cường độ điện áp của các cột đá cự thạch trong bố cục Grand Ménec khi càng đi ra xa khu vực vòng tròn đá, vốn tự nó đóng vai trò như một cái bình tụ điện hoặc một bộ tập trung năng lượng. Cột đá Carnac: Một trong 80.000 cột đá tại khu vưc xã Carnac. (Ảnh: Freddy Silva) Kết cấu của các tảng đá và khả năng truyền dẫn năng lượng của chúng cũng thu hút kỹ sư Mereux và những nhà khoa học khác. Với thành phần thạch anh rất cao, những tảng đá được lựa chọn đặc biệt là có tính áp điện, nghĩa là chúng sẽ tạo ra điện khi bị nén ép hoặc dao động. Các tảng cự thạch ở xã Carnac, được đặt tại vị trí 31 chỗ đứt gãy của khu vực có hoạt động động đất mạnh nhất ở Pháp, đang trong tình trạng dao động liên tục, khiến các tảng đá phát triển tính điện từ. Các cột đá đã không được dựng lên ở vị trí này một cách ngẫu nhiên, đặc biệt khi chúng đã được vận chuyển từ một khu vực cách đó 97 km, bởi vì sự hiện diện và định hướng của chúng có mối liên hệ trực tiếp với từ trường của Trái Đất. Các công trình linh thiêng và các cổng từ tính Nhiều truyền thống bí ẩn cổ đại trên khắp thế giới đều giống nhau ở một khía cạnh đặc biệt: họ cho rằng một số địa điểm nhất định trên Trái Đất hội tụ một nguồn năng lượng lớn hơn những nơi khác. Những địa điểm này, được thổ dân Hopi gọi là “các vết đốm của nai nhỏ”, rốt cục đã trở thành nền móng của nhiều công trình linh thiêng và đền thờ mà chúng ta quan sát thấy ngày nay. Điều thú vị là mỗi nền văn hóa đều nói rằng những địa điểm đặc biệt này được kết nối với thiên đàng bằng một cái ống rỗng hoặc thân cây sậy rỗng, và thông qua sự kết nối mang tính trung tâm này linh hồn có thể tiếp cận với thế giới khác trong quá trình thực hiện nghi lễ. Tuy nhiên, nó cũng cung cấp một đường dẫn để thế giới linh hồn có thể tiến nhập vào lãnh địa vật lý này. Năm 2008 NASA có thể đã vô tình xác nhận tính chính xác của luận điểm này khi cơ quan này đăng tải chi tiết một cuộc điều tra các sự kiện chuyển giao thông lượng (flux transfer events), trong đó miêu tả cách thức Trái Đất được liên kết với Mặt Trời thông qua một mạng lưới các cổng từ mở ra sau mỗi 8 phút. Một sự kiện chuyển giao thông lượng (flux transfer event – FTE) xảy ra khi một cổng từ mở ra trên từ quyển Trái Đất và thông qua đó các hạt vật chất cao năng lượng từ phía Mặt Trời có thể chảy vào bên trong. (Ảnh: NASA) Những phát hiện như vậy đã giúp xác thực, dưới lăng kính khoa học, niềm tin được ôm giữ bấy lâu nay của những người nhạy cảm và các nhà cảm xạ học rằng: các công trình cự thạch và đền thờ cổ đại là những địa điểm tách biệt với thế giới trần tục, nơi một người có thể kết nối với những địa điểm vượt ra xa khỏi phạm vi Trái Đất. Chắc chắn những thầy tư tế Ai Cập cổ đại đã coi đền thờ như một thứ gì đó vượt quá tổ hợp các tảng đá vô tri vô giác. Hàng ngày vào lúc bình minh họ sẽ đi thức tỉnh mỗi căn phòng bằng những bài kinh trịnh trọng, đối đãi với đền thờ như một sinh vật sống vốn sẽ ngủ nghỉ về đêm và thức dậy vào lúc bình minh. Tư liệu trong bài viết được dưa trên cuốn sách của tác giả với tựa đề The Divine Blueprint: Temples, power places, and the global plan to shape the human soul, đền thờ vô hình, 2012. Có thể tìm mua cuốn sách này trên trang web của ông: invisibletemple.com. Tác giả: Freddy Silva, Ancient Origins. Quý Khải biên dịch
    1 like
  7. lớp đến 50 người mà toàn nam nhân :D nữ nhân - họ ko thích ngành này ..lẽ nào do phải suy nghĩ nhiều , sợ héo mòn nhan sắc :lol:
    1 like
  8. NĂM TỊ HỢI Năm Tị/Hợi: Quyết âm phong mộc tư thiên, Thiếu dương tướng hỏa tại tuyền. Nếu là năm thuộc Nam chính (Kỷ), thì mạch bộ thốn bên phải không ứng; nếu là năm thuộc Bắc chính thì mạch bộ Xích bên trái không ứng. Khí thứ 1 Kim khí tác dụng, rét bắt đầu; khí heo hắt tới, kim vượng tổn thương can, người hay bị chứng co rút. Khí thứ 2 Thủy tác dụng, rét không lui, có tuyết, nước đóng băng. Sát khí lan rộng, có sương xuống, mưa rét luôn, song khách khí thủy gia nên chủ khí hòa, thì khí của nó phải ứng; dương chuyển hóa trở lại, khách khí hàn giá vào ngoài, hỏa ứng lại thì sinh bệnh nhiệt ở trong. Khí thứ 3 Mộc khí tư thiên tác dụng, gió thường đến, mưa nhỏ; chứng bệnh thuộc về phong mộc, chảy máu, ù tai, váng đầu hoa mắt. Khí thứ 4 Khách khí hỏa gia lên chủ khí thổ, chủ thấp nhiệt lan tràn, người bị bệnh hoàng đản, phù thũng. Khí thứ 5 Khách khí thổ gia lên thổ khí kim, táo ôn lại thắng, khí lạnh phân bổ ra, rét đến thân thể; có mưa gió, nhân dân ít bệnh. Khí thứ 6 Tướng hỏa tại tuyền, dương chuyển hóa mạnh, loài sâu bọ đang ẩn nấp lại suốt hiện, nước không đóng băng, địa khí phát tiết mạnh, loài cá sinh nở, người được thoải mái, nhân dân bị bệnh ôn dịch. PHƯƠNG PHÁP ĐOÁN NÓI CHUNG năm Ất Tị/Hợi: người bị chứng hỏa tà, gây ra hắt hơi, chảy máu, bệnh âm quyết cách dương, huyết phần nhiều đi lên, thành chứng hỏa vô căn; đầu, não, miệng, lưỡi đều bị bệnh năm Đinh Tị/Hợi: chủ về bệnh nhiệt năm Kỷ Tị/Hợi: người bị chứng hay khát, mình nặng năm Tân Tị/Hợi: nhiều bệnh phong năm Quý Tị/Hợi: chủ bệnh nhiệt mười năm kể trên mộc khí tư thiên, mộc khắc thổ ứng nhiều chứng mình nặng, cốt nuy, liệt mắt, ù tai. Hỏa khắc kim, năm ấy hay bị bệnh nhiệt. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NÓI CHUNG Bộ phận trên là mộc, chữa dùng vị cay khí mát (hóa theo kim để trị thủy). Bộ phận giữa là Kỷ thổ, chữa dùng vị ngọt, khí hòa (thổ hư thì bổ); Tân thủy, chữa dùng vị đắng khí hòa (hòa theo hỏa để ôn thủy); Quý hỏa, chữa dùng vị mặn khí hòa (trị hỏa để bổ thủy bất túc); Ất kim, chữa dùng vị ngọt khí hòa (thu liễm kim, bổ kim); Đinh mộc, chữa dùng vị cay khí hòa (ức chế mộc để hạ hỏa); Vị chưa khí lạnh (để hóa hỏa trị hỏa), vị cay để điều hòa (lấy kim trị mộc). Khí hòa để trị bộ phận giữa, để bồi bổ bất cập (thiếu). Vị mặn để điều hòa bộ phận dưới, để trị hóa, tướng hỏa hư thực phần nhiều khó phân biệt, phải cẩn thận không nên sử dụng nhiều mà sai phạm. Năm Tị/Hợi mộc khí tư thiên, nên theo phong hóa, nếu hàn khí còn nhiều, đó là dư hàn của năm Thìn/Tuất chưa lui hết, mộc khí muốn hành lệnh mà hàn thủy chưa đi hết thì mùa xuân phải rét, đó là mùa xuân trái thời tiết - mộc khí mất sự bình thường của nó nên người ta hay bị bệnh co rút gân (thuộc kinh can), như chỉ trong 3 tháng xuân rét hết thì phong khí được lưu hành, mộc khí tư thiên; nếu không như thế thì tai hại lớn sẽ đến; hỏa khí tại tuyền, vật lạnh không sinh trưởng, loài thú đồng hóa với thiên khí không tổn hại gì, loài chim đồng hóa với địa khí sinh dục nhiều. Hỏa khắc chế thì kim biến hỏa, loài thú cũng không sinh dục. Lại nói, khí tương đắc với nhau thì hòa, tức khách khí sinh chủ khí; khí không tương đắc với nhau thì sinh bệnh, tức khách khí khắc chủ khí. Vì vị trí chủ khí ở dưới, vị trí khách khí ở trên, nếu chủ sinh khách thì chủ lại ở trên là nghịch, là sinh bệnh. 2.7 TÓM TẮT CÁCH ĐOÁN VẬN KHÍ Nội kinh nói: trước hết phải lập thành năm đó để rõ ràng vận khí của nó. Mỗi năm, trước hết lập vận khí để xét khí thái quá/bất cập của nó, rồi sau mới lấy chủ khí ở dưới làm gốc, khách khí gia lên trên chủ khí làm ngọn để tìm ra sự biến đổi của lục hóa. Nếu khí đó thắng (tức khách khí khắc chủ khí) thì giúp đỡ bên yếu; mạnh quá thì ức chế bên mạnh; khí đó phục thù lại (tức là chủ khí bị khắc thì con của khí bị khắc phục thù lại cho mẹ), hòa bình thì giải quyết một cách hòa bình, dữ dội thì giải quyết một cách thô bạo... đều tùy theo tình thế ưu thắng của khí đó mà khuất phục cho nó yên, lấy thăng bằng làm mức độ, chủ khí chỉ thuận theo khách khí ở trên mà thôi: khách khí thắng chủ khí là thuận chủ khí thắng khách khí là nghịch hai khí ấy chỉ có thiên thắng mà không có phục thù (nghĩa là chủ thắng thì tả chủ bổ khách; khách thắng thì tả khách bổ chủ - chứ không lấy hành con để phục thù). Năm dương khí chuyển hóa trước thời tiết thì bản thân chủ khí mạnh, mà có thể lấy khí bên trong thắng được chứng thực bên ngoài (chủ khắc khách), cho nên khí không thắng bị tà; năm âm khí chuyển hóa sau thời tiết, thì bản thân chủ khí suy nhược, mà có thể lấy khí bên ngoài thắng được chứng suy bên trong (khách thắng chủ) cho nên khí thắng nó tới khắc. 2.8 HƯỚNG DẪN CÁCH ĐOÁN VẬN KHÍ (Bí quyết này kết hợp tham khảo với khí trong Thất chính đại hội, và phương pháp tiểu vận trong Tam tài phú) Phương pháp này, chủ vận không bằng khách vận, chủ khí không bằng khách khí, xét cách xem mây trong sơ đồ Kính thiên của họ Cam có nói "Thiên vận, địa vận là số thủ thường, không thể tả hết được sự biến đổi của trời đất, thiên khí, địa khi, vận hành, thắng phục, thăng giáng, âm dương chi phối điều khiển và biến hóa tự nhiên vô cùng tận; cho nên người xem rất là quan trọng". Vì chủ vận, chủ khí chỉ xếp theo thứ tự ở dưới, cũng như mùa xuân ấm, mùa hạ nắng, mùa thu mát, mùa đông lạnh; còn khách vận khách khí đều theo khí của nó chu lưu ở trên, đúng vị trí của nó thì trời đất hanh thông, mọi vật bình thường, sai vị trí của nó thì trời đất bế tắc, mọi vật bệnh tật. Hễ muốn xem vận khí hàng năm, cần phải: Bước 1: lập thành chủ vận của năm ấy, để biết năm ấy từ tiết nào tới tiết nào, thuộc vận nào Bước 2: lập thành khách vận của năm ấy, để biết năm ấy thái quá hay bất cập (5 năm dương là thái quá, 5 năm âm là bất cập). Lại xem giữa 5 bước khách vận với 5 bước chủ vận sinh khắc tỷ hòa ra sao, để biết thuận hay nghịch, suy hay hòa: ĐỐI VỚI KHÁCH VẬN THÁI QUÁ Khách vận khắc chủ vận là nghịch: nghịch thì ức chế nó đi Khách vận sinh chủ vận là thuận: thuận thì theo nó Chủ vận khắc khách vận là suy: suy thì phải dìu dắt Chủ vận sinh khách vận là hòa: hòa thì phân giải ĐỐI VỚI KHÁCH VẬN BẤT CẬP Khách vận sinh chủ vận là thuận: thuận thì ngăn chặn Khách vận khắc chủ vận là nghịch: nghịch thì dẫn nó đi Chủ vận khắc khách vận là suy: suy thì làm ẩn phục nó đi Chủ vận sinh khách vận là hòa: hòa thì phân giải nó đi Đối với vận thái quá, thuận thì theo nó (tuy nó có mạnh, nhưng đã sinh ta thì khí mạnh của nó đã phát tiết rồi, nên theo đó mà chữa); nghịch thì ức chế đi (nó mạnh mà lại nghịch, chữa nên ức chế nó để giúp ta). Suy thì phải dìu dắt (nó tuy mạnh nhưng ta thắng được, khí nó đã suy, chữa nên dìu dắt). Hòa thì phân giải (nó tuy mạnh nhưng cùng một khí với ta, thì cũng chẳng làm hại gì, chữa nên dùng hòa giải). Đối với vận bất cập, thuận thì ta ngăn chặn gấp đi (nó đã yếu mà khí lại suy, chữa nên ngăn chặn kịp thời); nghịch thì dắt dẫn nó đi (nó đã yếu mà lại lấn ta, là thế nó đã sắp tàn, chữa nên công phạt mà kiêm cả dắt dẫn nó). Suy thì làm cho nó ẩn phục đi (nó đã yếu ta lại thắng thế thì nó phải ẩn phục, chữa nên ức chế, làm cho nó tự ẩn phục). Hòa thì phân giải đi (nó tuy mạnh mà cùng khí với ta thì cũng chẳng làm hại gì, chữa nên hòa giải đi). Lại thêm tham khảo thiên vận, địa vận mà đoán; chỉ rất cần là lấy thiên khí địa khí làm căn bản, cho nên lại phải lập thành cục thứ 3 và cục thứ 4 nữa. Bước 3 Lập thành chủ khí của năm ấy, để biết rõ năm ấy từ tiết nào tới tiết nào, thuộc khí nào Bước 4 Lập thành khách khí của năm ấy, để biết rõ địa chi nào tư thiên, địa chi nào tư địa (tại tuyền); địa chi nào thuộc bước khí đầu, địa chi nào thuộc bước khí 2..vv.. Lại xét làm chủ năm ấy là khí nào, ví dụ: năm Tý/Ngọ: khí Quân hỏa làm chủ, chữa nên dùng vị mặn, khí lạnh..vv.. Lại xét xem 6 bước khách khí với 6 bước chủ khí của năm ấy sinh hay khắc, hay tỷ hòa. Ví dụ xem năm Tý thì: Tý là khí tư thiên, Dậu là khí tư địa (tại tuyền); bước khách khí 1 là Tuất hàn thùy gia lên chủ khí là phong mộc - tức trên sinh dưới; bước khách khí thứ 2 là Hợi phong mộc gia lên chủ khí là Quân hỏa - tức là trên sinh dưới; bước khách khí thứ 3 là Tý quân hỏa gia lên chủ khí là tướng hỏa - tức là trên dưới tỷ hòa; bước khách khí thứ 4 là Sửu thấp thổ gia lên chủ khí cũng là thấp thổ - tức hai khí tỷ hòa. bước khách khí thứ 5 là Dần tướng hỏa gia lên chủ khí táo kim - tức trên khắc dưới bước khách khí thứ 6 là Mão táo kim gia lên chủ khí hàn thủy, tức là trên sinh dưới Trên sinh dưới là tương đắc; dưới sinh trên tuy có tương đắc nhưng không tề chính (tức là loạn trật tự, con ở trên mẹ, chủ khí lâm dưới khách khí), nhân dân vẫn dễ bị bệnh tật; trên khắc dưới hay dưới khắc trên là không tương đắc - không tương đắc thì sinh bệnh. Cho nên, đắc là thuận, không tương đắc là nghịch. Thuận thì bên nào suy ta phải bổ bên ấy; nghịch thì bên nào mạnh ta phải ức chế bên ấy. Lại đem khách vận và lục khí gia lên nhau mà đoán: BẢNG KHÁCH KHÍ HÀNG NĂM 12 NĂM THIÊN PHÙ 8 NĂM TUẾ HỘI 6 NĂM ĐỒNG THIÊN PHÙ 4 NĂM THÁI ẤT THIÊN PHÙ 6 NĂM ĐỒNG TUẾ HỘI 12 NĂM BÌNH KHÍ 2.9 CƠ CHẾ BỆNH CỦA VẬN KHÍ CƠ CHẾ BỆNH THEO NGŨ VẬN Mộc vận thuộc về can: hễ các chứng phong đầu lắc, mắt hoa đều là triệu chứng của Can Hỏa vận thuộc về Tâm: hễ các chứng đau ngứa, mụn nhọt đều là triệu chứng của Tâm. Thổ vận thuộc Tỳ: hễ các chứng thấp thũng, đầy đều là triệu chứng của Tỳ. Kim vận thuộc về Phế: hễ các chứng thuộc về khí nghịch lên, uất lại đều là triệu chứng của Phế. Thủy vận thuộc Thận: hễ các chứng hàn, run rẩy đều là triệu chứng của Thận. CƠ CHẾ BỆNH THEO LỤC KHÍ Quyết âm phong mộc (Tị/Hợi): chủ khí của Can và Đởm, hễ các chứng bỗng nhiên sinh ra cứng đờ chân tay, đau liệt, bụng căng cứng, chân tay co rút đều là triệu chứng của nó. Thiếu âm quân hỏa (Tí/Ngọ): chủ về khí của Tâm và Tiểu tràng, hễ các chứng suyễn, mửa, nôn chua, ỉa chảy đột ngột, chuột rút, tiểu tiện đỏ, phiền khát, đầy chướng, mụn, nhọt, lở, sởi, bướu, hạch, nôn mửa, ỉa chảy, hắc loạn, tối tăm, uất, phù thũng, tắc mũi, chảy máu mũi, máu tràn qua các khiếu, ỉa ra máu, đái ra máu, huyết bế lại, mình nóng sợ lạnh, rét run, kinh sợ, hoặc khóc cười nói nhảm, mồ hôi tuôn ra... đều là triệu chứng của nó. Thái âm thấp thổ (Sửu/Mùi): chủ về khí của Tỳ và Vị, hễ các chứng kinh cứng đờ, phù thũng, tích đầy (bì mãn), nôn ra giun, hoắc loạn, mình nằng nặng, thịt nhão như bùn, ất xuống không nổi lên đều là triệu chứng của nó. Thiếu dương tướng hỏa (Dần/Thân): chủ về khí Tâm bào lạc và Tam tiêu; hễ các chứng nhiệt, buồn phiền rối loạn, co rút, bỗng nhiên câm, uất ức, hôn mê vật vã, phát cuồng, hay chạy, chửi mắng, kinh sợ, phù thũng, nhức nhối, xông nghịch lên, run sợ như mất hồn, hắt hơi, mụn nhọt, viêm họng, ù tai, điếc tai, nôn mửa, thực quản không nuốt được đồ ăn, mắt mờ, bỗng nhiên ỉa như tháo nước, thịt máy, gân co... thuộc về các chứng bạo bệnh thì đều là triệu chứng của nó. Dương minh táo kim (Mão/Dậu): chủ về khí của Phế và Đại tràng. Hễ các chứng khô sáp, ho khát, đờ đẫn đều là triệu chứng của nó. Thái dương hàn thủy (Thìn/Tuất): chủ khí của Thận với Bàng quang, hễ những chứng thủy dịch chảy ra ở bộ phận trên hoặc dưới - trong suốt mát lạnh, trung hà (tích khối ở bụng dưới), sưng bìu giái, bụng đầy căng đau, đi lỵ ra chất trắng trong, ăn vào lâu thấy tiêu đói, mửa/ỉa ra chất tanh hôi, co duỗi không dễ dàng, quyết nghịch bế tắc đều là triệu chứng của nó. 2.10 CHÍNH HÓA VÀ ĐỐI HÓA (Từ đây trở đi theo trong quyển Vận Khí Tầm Nguyên) Xét bài tổng luận về vận khí trong Đồ Thư có nói: năm chính hóa có 6 là Ngọ, Mùi, Dần, Thìn, Dậu, Hợi năm đối hóa có 6 là Tý, Sửu, Thân, Tuất, Mão, Tị Vì Ngọ là phương chính Nam là chỗ vượng của Hỏa; Mùi là phương Tây Nam chỗ vượng của Thổ; Dần là phương Đông Bắc chỗ sinh của Hỏa; Thìn là phương Đông Nam cái Kho của Thủy; Dậu là phương Chính Tây chỗ vượng của Kim; Hợi là phương Tây Bắc là chỗ sinh của Mộc - đó là những năm chính hóa. Tý đối diện với Ngọ được khí của Hỏa; Sửu đối diện với Mùi được khí của thổ; Thân đối diện với Dần được khí của Hỏa; Tuất đối diện với Thìn được khí của Thủy; Mão đối diện với Dậu được khí của kim; Tị đối diện với Hợi được khí của mộc - đó là những năm đối hóa. Chính hóa nghĩa là: Ngọ nguyên là Hỏa Mùi nguyên là Thổ Thìn nguyên là Thủy Dậu nguyên là Kim những khí mà lâm vào lục dâm ở hai bên trái phải khí Tư thiên và khí Tại tuyền là thời lệnh thực - tham khảo với Hà đồ xem các số 1, 2, 3, 4, 5 ở tầng trong, từ bản chất mà sinh ra, thuộc về sinh số của trời đất - phương pháp chữa nên theo gốc của nó. Đối hóa nghĩa là: Tý không phải là Hỏa, mà do đối diện với Ngọ nên được khí Hỏa Sửu không phải là Thổi, mà do đối diện với Mùi nên được khí Thổ Thân không phải là Hỏa, mà do đối diện với Dần nên được khí Hỏa Mão không phải là Kim, mà do đối diện với Dậu nên được khí Kim Tị không phải là Mộc, mà do đối diện với Hợi nên được khí Dậu những khí ấy mà phối hợp với lục dâm ở trên hoặc ở dưới, tới trước hay tới sau là thời lệnh hư - tham khảo với Hà đồ xem số 6, 7, 8, 9, 10 ở tầng ngoài từ dư khí (khí thừa) mà thành ra, thuộc về số thành của trời đất - phương pháp chữa nên theo ngọn của nó. 2.11 PHƯƠNG PHÁP SUY LƯỜNG VỀ 5 THỨ THIÊN KHÍ Có người hỏi: Giáp không phải là Mộc, mà cùng với Kỷ âm Thổ đều hóa làm thổ. Ất không phải là mộc, mà cung Canh dương kim đều hóa thành kim; Bính không phải là hỏa, Tân không phải là kim mà cùng hóa làm thủy; Đinh không phải là hỏa, Nhâm không phải là thủy mà cùng hóa làm mộc; Mậu lại không phải là thổ, Quý không phải là thủy mà cùng hóa làm hỏa là cớ làm sao? Trả lời: 12 chi bắt đầu khởi từ Tý, gia 5 dương can (Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm) lên trên, đếm xuôi 5 vị tới Thìn, rồi đối chiếu xem trên Thìn là can nào tức hóa thành lần ấy. Xem trong Hà đồ chỉ có 10 số, có năm số sinh và năm số thành, mà số 5 (Thìn/Mậu) làm tác nhân sinh thành, ví dụ: thiên nhất (1) sinh thủy, địa lục (6) thành chi (1 +5 = 6) Do số 5 này là tác nhân hợp hóa, nên ta có thể dựa trên năm khởi tháng theo quy luật cứ 5 bước sẽ gặp can hợp, đồng thời khi khởi (lấy năm khởi tháng, lấy ngày khởi giờ) ta sẽ thấy 1 vòng hoa giáp 60 đơn vị đã hoàn thành. Ví dụ: năm nay là năm Ất Mùi, đếm tới 5 ta sẽ được năm Canh Tý, và năm Ất Mùi khởi tháng Bính Tý thì năm Canh Tý cũng khởi tháng Bính Tý (tức là hoa giáp đã vận hành đủ 60 đơn vị). Theo cách lấy năm khởi tháng, lấy ngày khởi giờ thì bắt đầu khởi từ cung Tý, đủ 5 bước sẽ đến cung Thìn, thấy Can nào độn với Thìn thì tính vận đó. Bởi Thìn tượng là con rồng, có thể biến hóa, cho nên mới hóa thành ngũ hành của vận khí. Ta thấy: năm Giáp/Kỷ: thì gia Giáp lên Tý thành Giáp Tý, tới cung Thìn thì lâm vào dưới Mậu, Mậu thuộc thổ cho nên Giáp/Kỷ mới hóa thành thổ. năm Ất/Canh: gia Bính lên Tý thành Bính Tý, đếm xuối tới cung Thìn thì lâm vào dưới can Canh, Canh thuộc kim cho nên Ất/Canh mới hợp hóa Kim. năm Bính/Tân: gia Mậu lên Tý thành Mậu Tý, đếm xuôi tới Thìn thành Nhâm Thìn, Nhâm thuộc thủy cho nên Bính/Tân mới hợp hóa thủy. năm Mậu/Quý: gia Nhâm lên Tý thành Nhâm Tý, đếm xuôi tới Thìn thì Thìn lâm dưới Bính, cho nên Mậu/Quý mới hợp hóa hỏa. PHƯƠNG PHÁP SUY LƯỜNG VỀ 5 THỨ THIÊN KHÍ Các thánh nhân thời thượng cổ tới ngày Đông Chí xem xét hiện tượng thiên văn của năm mới: Thấy khí trời xanh của phương Đông thẳng từ sao Quỷ, Liễu tới sao Nguy, Thất - lập Đinh/Nhâm làm mộc vận. Thấy khí trời đỏ của phương Nam thẳng từ sao Khuê, Bích tới sao Ngưu, Nữ - lập Mậu/Quý làm hỏa vận. Thấy khí trời vàng của trung ương thẳng từ sao Tâm, Vĩ tới sao Chẩn, Giác - lập Giáp/Kỷ làm thổ vận. Thấy khí trời trắng của phương Tây thẳng từ sao Cang đến sao Tất, Chủy - lập Ất/Canh làm kim vận. Thấy khí trời đen của phương Bắc thẳng từ sao Trương, Dực tới sao Lâu, Vị - lập Bính/Tân làm thủy vận (chú thích rõ ở loại tụ). Thiếu Giốc là 6 năm Đinh mộc bất cập (âm mộc), lại cùng với kim kiêm hóa thì thổ được bình thường. Thượng cung (tức khí ở trên - thấp thổ tư thiên) cùng với Chính cung (Kỷ Sửu/Kỷ Mùi thổ) chung một khí (Đinh Sửu, Đinh Mùi). Thiếu chủy là 6 năm Quý (âm hỏa) trong đó gặp năm Mão, năm Dậu khí táo kim thư thiên, Quý hỏa bất cập, lại kiêm hóa với thủy thì kim khí được lệnh, thượng thương (tức khí ở trên - táo kim tư thiên) với chính thương (Ất Dậu kim) chung một khí (Quý Mão, Quý Dậu). Thiếu cung là 6 năm Kỷ (âm thổ), trong đó gặp năm Sửu, năm Mùi khí thấp thổ tư thiên, là vận được giúp đỡ - Thượng cung (Kỷ Sửu, Kỷ Mùi) chung một khí (Đinh Sửu, Đinh Mùi), gặp năm Tị/Hợi khí phong mộc tư thiên, kiêm hóa với vận, Thượng Giốc (tức khí ở trên - phong mộc tư thiên) với Chính Giốc (Đinh Mão mộc) chung một khí (Kỷ Tị, Kỷ Hợi). Thiếu thương là 6 năm Ất (âm kim), Trong đó gặp năm Mão/Dậu khí táo kim tư thiên, là vận được giúp đỡ, Thượng thương (tức khí ở trên - táo kim tư thiên). Với chính thương (Ất Dậu kim) chung một khí (Ất Mão, Ất Dậu), gặp năm Tị/Hợi khí phong mộc tư thiên - Ất kim bất cập kiêm hóa với hỏa thì mộc được bình thường, Thượng Giốc (tức khí ở trên - phong mộc tư thiên) với Chính Giốc (Đinh Mão mộc) chung một khí (Ất Tị, Ất Hợi). Thiếu vũ là 6 năm Tân (âm thủy), Trong đó gặp năm Sửu năm Mùi khí thấp thổ tư thiên kiêm hóa với vận, Thượng cung (tức khí ở trên - thấp thổ tư thiên) với Chính cung (Kỷ Sửu, Kỷ Mùi) chung một khí (Tân Sửu, Tân Mùi) Giải thích: Khí ở trên (Thượng cung) tức là khí thời lệnh tư thiên. Thái và Thiếu tức chỉ 5 vận khí thái quá, 5 vận khí bất cập, mỗi năm khác nhau bởi gặp các khí tư thiên khác nhau nên phát sinh nhiều trường hợp như: khí tư thiên thắng khách vận (thiên hình) vận thắng khí tư thiên (bất hòa) vận thái quá, không được ức chế (dâm khí) vận bất cập, lánh chỗ thắng nó, không chịu kiêm hóa. 2.12 SỰ TƯƠNG QUAN, ĐỒNG HÓA GIỮA VẬN VÀ KHÍ Vận nào, khí nào hoặc thái quá, hoặc bất cập đều lần lượt làm chủ thời lệnh hàng năm mà thay đổi thịnh suy - trên thông lên trời thì có ứng với sự tăng giảm của 5 ngôi sao, dưới suy ra ở mặt đất - thì có nghiệm với sự tiêu hao sinh trưởng của lục khí về ngũ cốc/ngũ vị/ngũ sắc theo loại mà biến hóa. Không năm nào không có, chỉ khác có kết quả của ngũ cốc có khi nhiều khi ít, ngũ sắc ngũ vị có khi nồng khi nhạt, vì kim mộc thủy hỏa thổ đều vận hành biến hóa - có hưu tù vượng tướng khác nhau - gặp năm âm thì khí suy mà bất cập, khí thái quá được thắng thì muốn hóa cả khí mình đã thắng, khí bất cập đã yếu thì bị khí thắng mình đến kiêm hóa cả đi. Năm thái quá là: năm Giáp: thổ cùng mộc hóa năm Bính: thủy cùng thổ hóa năm Mậu: hỏa cùng thủy hóa năm Canh: kim cùng hỏa hóa năm Nhâm: mộc cùng kim hóa Năm bất cập là: năm Ất: kim kiêm cả hỏa đồng hóa năm Đinh: mộc kiêm cả kim đồng hóa năm Kỷ: thổ kiêm cả mộc đồng hóa năm Tân: thủy kiêm cả thổ đồng hóa năm Quý: hỏa kiêm cả thủy đồng hóa Về khí tư thiên với khách khí khách vận "gia" "lâm" lên nhau cũng có các trường hợp thuận, nghịch, hại, thù nhau. Vận với khí tư thiên giống nhau (tỉ hòa) là chính khí, khí tư thiên khắc chế vận thì trái với bình thường - như thế là ngụ khí bình thường thì không lấn hại nhau. Tới đây đã hết phần trích lược sách "Vận Khí Bí Điển" - một tập sách trong bộ "Hải thượng lãn ông Y Tông Tâm Lĩnh". Trong đây miêu tả nguyên lý vận hành của thời tiết, ngũ hành, can chi ..vv.. rất là quan trọng. Tuy có hơi thô cứng, nhưng mà: Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại. An bình thái. Nhạc dữ nhị, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kỳ vô vị. Thị chi nhi bất túc kiến, thính chi nhi bất túc văn. Dụng chi bất khả ký. Dịch xuôi: 1. Thánh nhân cầm gương lớn, cho thiên hạ theo. Theo mà chẳng hại, lại an ổn, thanh bình. 2. Nhã nhạc, cỗ bàn khi khách về rồi thời hết. Đạo ra khỏi miệng thời nhạt nhẽo như thể là vô vi, không đáng xem, không đáng nghe, nhưng đem dùng thì vô tận. Dịch thơ: 1. Đấng thánh nhân là gương trong trẻo, Soi Đạo trời cho mọi người theo, Ai theo nào hại đâu nào, Lại còn an lạc, ra vào thái khang. 2. Bao nhã nhạc cỗ bàn yến ẩm, Khách đi rồi vắng lặng như không. Đạo Trời ra khỏi tấc lòng, Nói ra ngoài miệng, nhạt không, nhạt phèo. Để mắt nhìn, như chiều chẳng xứng, Lắng tai nghe ngỡ chẳng đáng nghe, Nhưng đem dùng thật thỏa thuê. Muôn nghìn ứng dụng chẳng hề có vơi.
    1 like
  9. Chuyện con thiên lý mã Có một con thiên lý mã trẻ tuổi, đang đợi Bá Nhạc (người có tài xem tướng ngựa) đến phát hiện ra nó. Thương gia đến, nói: “Bạn sẵn lòng đi theo tôi không?” Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, sao có thể đi theo thương gia vận chuyển hàng hóa được?” Binh lính đến, nói: “Bạn có muốn đi theo tôi không?” Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, một binh sĩ bình thường sao có thể phát huy hết khả năng của tôi?” Thợ săn đến, nói: “Bạn sẵn sàng đi theo tôi không?” Ngựa lắc đầu nói: “Tôi là thiên lý mã, sao có thể đi theo hầu thợ săn?” Ngày qua ngày, năm qua năm, con ngựa vẫn chưa tìm được cơ hội lý tưởng cho mình. Rồi một ngày, khâm sai đại thần phụng mệnh đến nhân gian tìm kiếm thiên lỹ mã. Thiên lý mã gặp được khâm sai đại thần, nói: “Tôi chính là thiên lý mã mà ông muốn tìm.” Khâm sai hỏi: “Bạn có thông thuộc đường đi trên đất nước chúng ta không?”, Ngựa lắc đầu. “Bạn đã từng ra trận, có kinh nghiệm tác chiến chưa?”, Ngựa lắc đầu Khâm sai lại hỏi: “Tôi có thể dùng bạn vào việc gì?” Ngựa trả lời: “Tôi có thể một ngày đi được một nghìn dặm, một đêm đi được 800 dặm” Khâm sai đại thần cho ngựa chạy thử một đoạn đường. Ngựa cố gắng hết sức chạy tiến lên phía trước, nhưng chỉ được vài bước nó đã thở hồng hộc, mồ hôi chảy đầm đìa. “Bạn già rồi, không dùng được!”, nói xong khâm sai liền bỏ đi. (st)
    1 like
  10. VẤN ĐỀ LÀ THÁI ĐỘ TRƯỚC CUỘC SỐNG. Theo tôi, đấy là nội dung của bài trên. Cổ học Đông phương thuật lại một câu truyện: Khuất Nguyên, đến bên sông Tương, tình cờ gặp một ông lão chèo đó. Ông lão hỏi: "Sao Thượng Đại phu lại buồn như vậy?'. Khuất Nguyên trả lời: "Ta buồn vì - cả đời đục cả, một mình ta trong. Cả đời say cả một mình ta tỉnh". Ông lão chèo đó nói: "Cả đời đục cả , sao ông không quậy nó cho đục thêm? Cả đời say cả sao ông không uống thêm rượu, húp cả bã cho say thêm...Mà cứ phải khư khư ôm lấy cái cô liêu của chính ông?! Nói xong, ông lão lái đò chèo thuyền đi. Vừa chèo thuyền, ông lái đò vừa hát: Sông Thương nước đục phù sa. Thì ta xuống đó để mà rửa chân. Sông Thương nước chảy trong ngần. Thì ta xuống đó giặt lèo mũ ta. Câu chuyện cổ học dừng ở đây và để lại cho thế nhân một thái độ sống cần suy ngẫm.
    1 like
  11. Dạo qua lịch sử đầy biến động cuối thế kỷ 20 trong không gian hậu Xô Viết, có vài suy nghĩ... Bà Clinton chính là nhân vật đã ra lệnh tấn công Liên bang Nam Tư 1999, theo phim tài liệu của một kênh đài truyền hình Đức : Phim tài liệu : Cuộc chiến bắt đầu bằng sự dối trá Một trong những sự kiện gây chú ý nhất trong cuộc không kích vào thời điểm đó : "Sự kiện gây tranh cãi nhất là vụ đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade hôm mùng 7 tháng 5, khiến 3 nhà báo Trung Quốc thiệt mạng và gây ra một cuộc khủng hoảng ngoại giao trong quan hệ Mỹ – Trung." http://fddinh.blogspot.com/2015/03/24031999-nato-khong-kich-nam-tu.html Có ý kiến rằng, sự kiện trên được cho là trả đũa việc Trung Quốc thu được bí mật của máy bay tàng hình F117A bị phòng không Nam Tư bắn hạ, chính phủ Hoa Kỳ cũng ngưng toàn bộ chương trình F117A sau sự kiện này. Bởi vậy, một cuộc chiến nếu có ở tương lai sau sự kiện bầu cử tổng thống ở Mỹ... ngẫm lại, cứ như một định mệnh, mà ở đó, cả 2 bên đều như đang chờ đợi sẵn, chuẩn bị sẵn, như đi guốc trong bụng nhau vậy. Vài lời chém gió :)
    1 like
  12. Nếu đúng lá số này của chị thì đúng là có xu hướng lấy chồng nước ngoài, thiên lương cự môn lại có phượng các giải thần nữa. Năm sau em thấy vẫn còn hạn lập gia đình nên mối duyên gặp năm nay khả năng cao sẽ trở thành chồng chị. Em cũng ko giỏi lắm mong các bác ở diễn đàn sẽ giúp chị xem kỹ hơn :lol:
    1 like