• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/08/2016 in all areas

  1. trích lược sách "Vận Khí Bí Điển" - do Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác viết. Trong sách có nhiều nội dung liên quan tới vận, khí, số mệnh. Và vấn đề về ngũ hành được thảo luận một cách tinh vi thấu đáo - nay post lên đây để các bạn tham khảo. -------------- 1. PHƯƠNG PHÁP XEM GIÓ, MÂY, KHÍ, SẮC 1.1 PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN KHÍ MÂY GIÓ ĐẦU NĂM 1.2 PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN 8 THỨ GIÓ BỐN MÙA 1.3 PHƯƠNG PHÁP XEM GIÓ ĐỘC 1.4 PHƯƠNG PHÁP XEM 8 THỨ GIÓ TRONG 9 CUNG 2. VẬN KHÍ 2.1 THUYẾT CHỦ KHÍ 2.2 PHƯƠNG PHÁP ĐOÁN CHỦ KHÍ 2.3 THUYẾT KHÁCH VẬN 2.4 PHÉP ĐOÁN KHÁCH VẬN 2.5 THUYẾT KHÁCH KHÍ 2.6 PHÉP ĐOÁN KHÁCH KHÍ 2.7 TÓM TẮT CÁCH ĐOÁN VẬN KHÍ 2.8 HƯỚNG DẪN CÁCH ĐOÁN VẬN KHÍ 2.9 CƠ CHẾ BỆNH CỦA VẬN KHÍ 2.10 CHÍNH HÓA VÀ ĐỐI HÓA 2.11 PHƯƠNG PHÁP SUY LƯỜNG VỀ 5 THỨ THIÊN KHÍ 2.12 SỰ TƯƠNG QUAN, ĐỒNG HÓA GIỮA VẬN VÀ KHÍ ------------------- 1. PHƯƠNG PHÁP XEM GIÓ, MÂY, KHÍ, SẮC Bậc thánh nhân thời xưa xem "ngũ sắc" của mây, thấy vàng - trắng - đen - đỏ qua năm phương mà lâm vào vị nào trong 10 can, mới lập ra "ngũ vận". Lại xét ngũ khí kể trên đi qua 28 sao, dưới ứng với 28 phương vị mà lập ra "lục khí". Cho nên cổ nhân trông khí mây, nếu có điềm lành/điềm dữ về phương nào là biết ngay, khí của núi bốc lên thường có gió theo, mà mây là khí thăng giáng của âm dương. Ta hãy xem lúc oi bức, âm khí bốc lên, dương khí giáng xuống mà thành mây thành gió, khi có mưa mới thôi. Cho nên mưa rồi ở nơi núi trầm, mây khói bốc lên chả phải là âm khí phát tiết hay sao? Lại xem loài chim bay đè khí mà đi lên, lá rụng đảo đi đảo lại rồi mới rơi xuống, cũng bởi khí vướng lại. Cho nên xem mây phải xem đến gió, xem gió không thể bỏ qua được khí của mây; mỗi khi xem khí của mây lại xem gió ứng về phương nào: Phương tốt: là những phương có Thiên đức, Nguyệt đức, Chi đức, Can đức, Sinh khí. Phương xấu: các hung thần tướng, tử khí, tam hình, lục hại. Xét tam hợp, lục hợp, sinh khắc, suy vượng, Thái tuế, không vong... để hiểu hết được triệu chứng tốt hay xấu. PHÉP XEM GIÓ/MÂY Lập Kính Thiên đài: đắp một cái đài ở chỗ tịch mịch, cao 12 trượng (theo về 12 chi), chung quanh rộng 4 thước (theo về 24 khí), quay lưng về hướng Tý, mặt quay về hướng Ngọ. Ở giữa cắm một cụm cờ để xem gió: Cán cờ xem mùa Xuân mùa Hạ cao 15 thước (vì mùa Xuân và mùa Hạ thì khí của gió trở đi trở lại) Cán cờ xem mùa Thu cao 20 thước (vì khí gió mùa Thu đi trên cao) Cán cờ xem mùa Đông cao 10 thước (vì khí gió mùa Đông đi thấp) ở dưới cán cờ đặt một cây kim để định phương hướng. Trên mặt đài, xung quanh cắm biển 12 giờ để chỉ rõ từng khu vực Hàng năm, nên xem vào lúc giờ Dần ngày mùng 1 tháng Giêng. Người xem phải tắm rửa trai tịnh, sạch sẽ, lên đài thắp hương, kính lễ xong lui ra, đứng ở chính xem giữa, xem khí mây khắp cả 5 phương, hoặc thấy mây ở phương nào đó, hoặc là thấy hai lần ở cùng một phương nào, đầu hướng về phương nào, đuôi chỉ về phương nào (to mà đậm đặc là đầu, nhỏ mà loãng nhạt là đuôi), khí sắc thế nào, nhạt hay đậm? Rồi lại xem gió thổi trái chiều lá cờ từ phương nào thì biết gió từ phương ấy tới. Như trên đã nói, phải xem gió từ phương tốt hay phương xấu tới, có gặp hình khắc xung phá gì không, sinh vượng hay hưu tù... để xét tốt xấu; trong tốt có thể ẩn xấu, trong xấu có thể ẩn tốt, hoặc tốt mà gặp sinh vượng thì càng thêm tốt, xấu mà gặp hưu tù, khắc, hình hại xung phá thì càng thêm xấu. Phải xem ứng xa hay ứng gần, ngày nào giờ nào, xem xét xong, lạy tạ mà lui ra. 1.1 PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN KHÍ MÂY GIÓ ĐẦU NĂM Phương pháp đoán, hễ thấy: khí xanh là phong khí đỏ là nhiệt khí vàng là thấp khí đen là hàn khí trắng là táo lại nói, nếu khí hiện kiêm nhiều màu thì phải xem màu nào chiếm nhiều, màu nào kiêm ít mà làm chủ đạo, đây là nói sơ lược. Điều cốt yếu là người coi phải xem khí mây gì, sắc gì, hiện phương nào để xem biết sinh khắc chế hóa, ví dụ: thấy sắc vàng tức hành thổ hiện ra ở phương Tý, tức là khí thổ khắc khí phương vị thì phương Tý ấy gặp nhiều dịch bệnh. Lại xem phương ấy có gì sinh khắc chế hóa hay không, ví như có Can đức, Chi đức, Sinh khí lâm vào, được vượng tướng khí thì trong xấu có tốt, bệnh dịch sinh ra sẽ phải lui. Còn ngược lại bị hưu tù, gặp Tử khí, Tử thần tức là đã xấu còn xấu thêm tất bệnh dịch nghiêm trọng. Lại xem gió lúc ấy từ phương nào thổi tới, ví như gió từ phương Ngọ thổi tới, tức là Hỏa phong xung khắc phương Tý thì tình hình càng tệ hại; còn nếu gió từ phương Thân thổi tới là Kim phong, tam hợp với phương Tý thì tai dịch đó nhất định sẽ nhẹ đi. Lại tiếp tục xem phương ấy với Thái tuế có xung khắc hình hại gì không, tốt xấu như thế nào mà phán đoán thành bại. Như năm Mão xem phương Tý thủy sinh Mão mộc thì phương Tý ấy có triệu hao tán rồi, tuy Mão mộc có thể khắc Thổ sắc vàng, nhưng Mão Tý tương hình, cái xấu không giải được, tuy có ý đến giải nhưng không thực tâm đến cứu. Nếu năm Dậu xem phương Tý thì Dậu sinh Tý, phương này có tai biến sẽ giải được. Sau lại xem phương nào ứng với thời sở nào, xa hay gần: ví dụ xem phương Tý có khí vàng Thổ thì suy ra phương Tý bị hại, thời gian bị hại vào các năm tháng ngày giờ hành thủy, xa thì ứng ngoài nghìn dặm, gần thì ứng trong nghìn dặm, hoặc ứng vào ngày, giờ. Còn như thấy trời trong gió nhẹ, bốn phương tạnh sáng thì đều là tươi tốt, không cần phải truy tìm nghiên cứu, hoặc thảng trên trời phảng phất có sắc hơi đỏ, hơi vàng, như hơi có ráng (hào quang), đó là mây lành triệu tốt, thì năm ấy chẳng những mọi việc yên ổn, mà còn được mùa. Nếu xem về ngày, mà suốt ngày mây dầm gió lạnh, âm u ảm đạm đều là triệu xấu, tuy có Nguyệt đức, Thiên đức sinh hợp với Thái tuế cũng đều vô dụng, hoặc sắc mây dầm xanh xanh như màu khí sắt, thì năm đó không những dịch lệ tai thương, mà trong nước phải có triệu binh đao. Phép xem trên đây, hễ thấy hoặc tốt hoặc xấu, hãy nên im lặng suy nghĩ. Nếu trong 3 ngày, ngày nào cũng thấy hiện tượng như vậy thì sự tốt xấu mới ứng nghiệm; nếu trong 3 ngày mà có một trận gió to hay mưa to thì việc xem hôm đầu, xấu cũng không thành xấu, tốt cũng không thành tốt, cho nên gọi là "không vong" Ví dụ: năm Giáp Tý (nạp âm kim), tháng giêng Bính Dần (hỏa), ngày mùng 1 Ất Mão (thủy), giờ Mậu Dần (thổ) bỗng xem thấy phương Mão (mộc) hiện ra một đám mây đầu hướng về phương Tý (thủy) mà đuôi hướng về phương Ngọ (hỏa), sắc mây màu trắng phá xanh lơ - là sát khí. Lúc bấy giờ lại thấy gió từ phương Dậu tới, nghe tiếng gió giống như kêu gào thảm thương, phải rợn tóc gáy thì đoán rằng: phương Mão tuy có 3 sao tốt là Niên đức, Niên vượng và Tuế sinh (Tý đức ở Mão, Tý thủy, nên phương Mão mộc vượng, thái tuế là Tý thủy sinh phương Mão mộc), song khí mây là hành kim, tháng Bính thì hành kim của khí mây bị bệnh ở Thân, tử ở Dậu (tức khí mây là tử khí), kiêm có triệu tiếng gió kêu gào thảm thương, lại thêm phương Mão hình thái tuế Tý: kết luận năm Giáp Tý đó về phương Mão phải bị mất mùa và bệnh dịch, người chết nhiều vô kể. Nếu về mùa Hạ hỏa vượng mộc suy thì tai họa xảy ra ở nơi xa (gần thì dưới nghìn dặm, xa thì ứng trên nghìn dặm)... Trên đây là ví dụ của phép suy luận, gặp các trường hợp cứ thế mà suy ra. Lại nói đậm đặc là mây mà loãng nhạt là khí, tuy loãng nhạt mà di động thì là mây bay. Tuy đậm đặc mà trong thì là khí (trích trong quyển Kinh Thiên). 1.2 PHƯƠNG PHÁP PHÁN ĐOÁN 8 THỨ GIÓ BỐN MÙA Hễ xem 8 thứ gió thì gọi là "phong giốc", giốc nghĩa là đánh trọi, giốc phong tức là gió trái thời tiết, gió phát đột ngột, kêu gào như sát khí, phải rợn tóc gáy trong cả 4 mùa - loại gió như vậy đều có thể chiêm nghiệm, chỉ lấy 8 phương mà xem, không cần hỏi tới năm, tháng, ngày, giờ. Ngoài ra chỉ chú trọng lúc đó khí trời thế nào, hoặc ban ngày, hoặc ban đêm: nếu khí trời sáng sủa, được gió tốt thì càng tốt, nếu gặp gió xấu cũng có thể cứu được. nếu khí trời âm u ảm đạm, tuy được gió tốt cũng xấu lại như trời mưa thì không kể, chỉ tính khi không mưa tự nhiên bỗng có gió tới như trào tuôn, nghe như ngựa hí, cát chạy thì gọi là "quỷ sầu phong". Hễ phương nào mà có gió này thổi tới là sẽ có đao binh dịch lệ, những người gặp phải gió này thì hay xảy ra chứng đột tử. Lại nghiệm xem tiếng gió hoặc du dương như tiếng ca nhạc, hoặc rầm rập như xe ngựa rong ruổi, hoặc bi thảm giống như tiếng kêu thương khóc lóc, gào thét như tiếng tức giận quát mắng, hoặc là tiếng đánh giết nhau, đều nên xem xét sự tốt xấu của nó. Còn như kỳ hạn ứng việc, thì xem sức gió thổi tới dài hay ngắn, chậm hay nhanh mà đoán nhật kỳ xa hay gần. Lại lấy bên bị khắc là báo ứng của kỳ xấu, bên tương sinh là báo ứng của kỳ tốt. Lại như những nơi đi qua, những phương gió tới đều là những phương bị dính tai họa/hay được cát lợi (tùy theo triệu). Bài phú "Phong giốc" nói "muốn thông tai biến của trời đất, phải đọc thuộc sách phong giốc. Lại nói "người trên có thể đem quân đi đánh giặc, giúp nước yên dân, người dưới có thể biết điềm tốt xấu, tìm phương lánh nạn". Hoặc nói "biết rõ sự trái hướng của bốn mùa, mới định được gió mây trong 8 cõi". MÙA XUÂN gió phương Càn, nhân dân bệnh tật gió phương Khảm, cảm bệnh nhiều hơn Cấn lai, tai biến gây nên, Chấn phong phát động muôn nghìn hoa tươi Gió phương Tốn thuận thời lúa tốt Gió Ly tới mất hết mùa màng Khôn phong mưa gió thuận thường Đoài phong đồng ruộng vắng tràng tiếng ca. MÙA HẠ Gió phương Càn, không an súc vật Gió phương Khảm bệnh tật tai ương, Cấn phong, hạn hán khác thường Chấn phong, dịch đậu rõ ràng nơi nơi, Gió phương Tốn hoa tươi cỏ tốt Gió phương Ly, bệnh tật gây ra Khôn phong, khan hiếm quả hoa Đoài phong, đồng ruộng nhiều nhà thất thu MÙA THU Gió phương Càn, cỏ cây chen chúc Gió phương Khảm, lục súc thảm thương Cấn phong, chim chóc tai ương, Chấn phong lục súc khó đường chăn nuôi Tốn phong tật dịch nhiều nơi, Ly phong phương ấy lại người bất an Khôn phong ác dịch nhiều nơi Đoài phong cây cỏ héo mòn khó tươi MÙA ĐÔNG Càn phong lúa tốt đầy đồng Khảm phong tật dịch bỗng dưng chết người Cấn phong trâu dê bị toi, Chấn phong dịch lệ nơi nơi hoành hành Tốn phong trâu dê chẳng lành Ly phong tật dịch phát sinh rõ ràng Khôn phong lục súc bất thường Đoài phong tuyết xuống đầy đường đầy sân 1.3 PHƯƠNG PHÁP XEM GIÓ ĐỘC Nội kinh nói "tà khí, gió độc phải lựa chiều mà tránh" 1.4 PHƯƠNG PHÁP XEM 8 THỨ GIÓ TRONG 9 CUNG Thiên "bát phong" trong Kim Quỹ nói: sao Thái Nhất thường bắt đầu từ ngày Đông chí là ở cung Hiệp trập, qua 46 ngày đêm lại ở cung Thiên lưu, qua 46 ngày đêm lại ở cung Thương môn, qua 46 ngày đêm lại ở cung Âm lạc, qua 46 ngày đêm lại ở cung Thiên cung, qua 46 ngày đêm lại ở cung Huyền ủy, qua 46 ngày đêm lại ở cung Thương quá, qua 46 ngày đêm lại ở cung Tân lạc, qua 45 ngày nữa lại trở lại cung Hiệp trập - tức ngày Đông chí, cứ như vậy hết vòng này qua vòng khác. Hễ những ngày sao Thái nhất đổi cung thì trời phải có mưa gió ứng, nên những ngày đó có mưa gió thì tốt, vì mùa màng tốt, dân yên, ít bệnh tật. Còn nếu mưa gió ứng vào trước khi sao Thái nhất đổi cung thì năm đó gió nhiều, ứng vào sau ngày đó thì năm đó đại hạn. Những cái gọi là tai biến, tức là ngày mà sao Thái nhất di chuyển qua 5 cung có gió mạnh gãy cây cối, cát đá tung bay nên căn cứ vào sở chủ của từng cung(sở chủ, nghĩa là ý nghĩa của cung đó nói về cái gì) mà phán đoán tốt xấu, lại xem phương gió thổi tới mà chiêm nghiệm. Lại xem phương gió thổi tới là chiêm nghiệm: Gió thổi tới từng phương có sao Thái nhất tới: gọi là Thực phong, chủ sinh trưởng muôn vật; Gió thổi tới từ phương đối xung (với sao Thái nhất) gọi là Hư phong, nó làm hại người, chủ sát hại; Tôi (Hải Thượng Lãn Ông) căn cứ vào phương pháp xem gió trong 9 cung ở lịch Đại Thống, phối hợp với số Cửu diệu (tử bạch cửu tinh), mà nhà xem số Thái ất lấy ngày lập thành tính toán ra phương pháp Kỳ Môn Độn Giáp từ chỗ bắt đầu qua chỗ nối tiếp, ứng nghiệm của nó rất là quan trọng: như sao Thái nhất tức là nơi chuyển động hàng ngày của mặt trời (trên vòng hoàng đạo), nhà xem số Lục nhâm, chỗ là Nguyệt tướng, từ Đông chí một ngày tính số bắt đầu, rồi di chuyển đi 9 cung - từ cung Hiệp trập tới cung Tân lạc - phân bố thành 24 tiết khí là tròn 1 năm rồi lại bắt đầu Đông chí. Hễ ngày khởi đầu cung, không những (có thể biết được) trong nước có điều hay dở, (dùng cho việc) xuất quân đánh giặc, cực kỳ linh nghiệm. Như sao Thái nhất ở 5 cung, quan trọng là ở các ngày Đông chí, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, những ngày đó các nhà làm lịch gọi là ngày Tứ tuyệt - lúc âm dương giao hội, là nơi khởi phát điềm của các việc tốt xấu. 2. VẬN KHÍ - THUYẾT CHỦ VẬN Ngũ vận so với Ngũ hành, thì ngũ vận là bản thể mà ngũ hành là tác dụng: Mộc: nghĩa là xúc, dương khí tiếp xúc với đất mà sinh ra, quẻ thuộc loại Khúc trực (cong thẳng: là hình tượng của cây, gỗ); Hỏa: nghĩa là biến hóa, đốt cháy mạnh để biến hóa mọi vật, quẻ thuộc loại Viêm thượng (bốc lên, hình tượng của lửa); Kim: nghĩa là cấm, ngăn cấm mọi vật thay đổi, quẻ thuộc loại Tòng cách (tòng cách: thay đổi tùy theo lúc); Thủy: có tính thấm nhuận nuôi dưỡng vạn vật, quẻ thuộc loại Nhuận hạ (tính của nước); Thổ: nghĩa là nhả ra, ngậm mọi vật vào. Cái lẽ sinh ra cũng do đất, mà chết đi cũng về đất (quy thổ), quẻ thuộc loại Giá sắc (là cày cấy). Vì trời lấy ngũ hành ngự trị ngũ vị để sinh ra khí: hàn, thử, táo, thấp, phong; người có ngũ tạng, hóa sinh ra 5 khí để sinh ra mừng, giận, lo, nghĩ, sợ; do đó ta thấy vạn vật, muôn lý, âm dương trời đất gì cũng không ra khỏi được lý của ngũ hành. CHỦ VẬN LÀ GÌ? Chủ vận có nghĩa là thời gian vận hành cố định của thời tiết trong tự nhiên của một năm, mỗi năm có 5 giai đoạn. Suy đoán chủ vận bắt đầu từ ngày tiết Đại hàn, mỗi vận quý chiếm khoảng 73 ngày lẻ 5 khắc. Theo ngũ hành tương sinh: Mộc thuộc sơ vận: bắt đầu từ Đại hàn, tới Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, giao nhau 3 ngày trước Thanh minh. Sơ vận: mộc khí chủ phong Hoả thuộc nhị vận: giao nhau khoảng Thanh minh, tới Vũ cốc, Lập hạ, Tiểu mãn, giao nhau 3 ngày trước Mang chủng. Nhị vận hoả khí chủ thử nhiệt Thổ thuộc tam vận: từ Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, giao nhau 3 ngày sau Lập thu. Tam vận hoả khí chủ thấp Kim thuộc tứ vận: từ Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, giao nhau 6 ngày trước Sương giáng. Tứ vận kim khí chủ táo Thuỷ thuộc cuối vận: từ Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, giao nhau sau 9 ngày Đại hàn. cuối vận thuỷ khí chủ hàn Thơ rằng: Ngày Đại hàn bắt đầu giao mộc vận Hỏa vận sang ba hôm trước Thanh minh Sau mang chủng 3 hôm là thổ vận, Lập thu qua sáu tối vận kim tinh Thủy vận sau Lập đông ngày thứ 9 Muôn ngàn năm cứ thế vần quanh. Phương pháp này cứ mỗi năm đều lấy tiết Đại hàn làm mộc vận thứ nhất; trước tiết Thanh minh 3 ngày giao hỏa vận thứ hai; sau tiết Mang chủng 3 ngày giao thổ vận thứ 3; sau tiết Lập thu 6 ngày giao kim vận thứ tư; sau tiết Lập đông 9 ngày giao thủy vận thứ năm, năm nào cũng thế - không thay đổi. Mỗi vận làm chủ 73 ngày 5 khắc, nhân với 5 vận là 365,25 ngày mỗi năm. Đại khái lấy lý mà suy thì ngũ vận không thay đổi, chỉ lấy vị thứ xếp đặt trên dưới nhau, không bao giờ biến đổi mới thành ra mùa xuân ấm, mùa hạ nóng, mùa thu mát, mùa đông lạnh. Cho nên khí Phong để chuyển Đông, Hỏa để ấm nóng, nắng để nung nấu, thấp để tẩm nhuần, táo để khô ráo, hàn để cứng rắn là sự đồng hóa trong bốn mùa mà thành ra chính khí của trời đất. Chỉ có khách khí "gia" lên chủ vận (ví dụ như khách khí hỏa, chủ vận mộc, tức là chủ vận sinh khách khí, chủ vận là mẹ khách khí là con, con ở trên mẹ gọi là gia lên) là lúc thời tiết không bình thường, nhân dân bị bệnh tật nhiều, như thấy khí tự nhiên đến khắc chủ vận thì thuận, khách khí đến khắc chủ vận thì không thuận. Phương pháp chữa tùy theo, nghịch thì ức chế, dùng công phạt khí thiên hòa (thiên lệch), đó là điều cốt yếu. LÀM QUEN VỚI ĐỊNH NGHĨA Chủ khí: là khí chủ thời dùng để chỉ rõ quy luật khí hậu bình thường trong mỗi năm, có ý nghĩa giống như vận chủ tứ thời. Lục khí chủ thời cố định hay biến đổi được gọi là chủ khí. Khách vận: chỉ sự biến đổi khí hậu khác thường trong 5 vận quý của mỗi năm. Suy đoán khách vận dựa theo năm thiên can đại vận là sơ vạn, khách vận kết hợp với 5 tiết quý và 5 bước suy đoán. Đại vận: là suy đoán biến hoá khí tượng của các năm, 10 năm một vòng theo thiên can (5 năm thái quá, 5 năm bất cập). Chủ vận: là chủ biến hoá khí hậu bình thường của 5 giai đoạn trong một năm. Khách vận là suy đoán khí hậu khác thường của năm giai đoạn (tiết quý) của mỗi năm. Chuyển dịch của lục khí: là sáu khí trong vũ bao gồm: phong, nhiệt, hoả, thấp, táo, hàn. Mỗi năm lục khí được chia làm hai loại: chủ khí và khách khí. Chủ khí là chỉ biến đổi khí hậu bình thường Khách khí là chỉ khí hậu biến đổi thất thường Khách chủ gia lãm (khách khí thêm chủ khí) phân tích sâu thêm sự biến hoá phức tạp của khí hậu. Đoạn trên có nghĩa là năm nào thì cũng đều đặn 4 mùa xuân hạ thu đông chia đều cho 12 tháng thành ra mỗi mùa 3 tháng, nhưng tháng âm lịch có khi vận hành không trùng với tiết khí cho nên phân ra làm 5 giai đoạn vận hành (tức 5 vận) lấy mốc theo tiết khí. Đoạn tiếp theo sẽ trình bày về "khí" thời tiết... ----------------- 2.1 THUYẾT CHỦ KHÍ Chủ khí tức là lục khí, do tương ứng với lục phủ của cơ thể con người nên gọi là "lục hóa":, bao gồm: Mộc khí, hóa phong, là Quyết âm phong mộc, chủ về mùa xuân. Dương khí cổ vũ mà làm thành hiệu lệnh. Hỏa khí, Thiếu âm Quân hỏa hóa nhiệt, chủ về cuối mùa xuân và đầu mùa hạ, thời lệnh ấm áp mà không nắng nực; Hỏa khí, Thiếu dương Tướng hỏa chủ về mùa hạ, nắng nực dữ dội Thổ khí, Thái âm Thấp thổ, nắng làm cho đất ướt hóa nóng ẩm, thấp hóa lưu hành. Vì ẩm thấp thì thổ mới sinh trưởng được. Còn thổ mà hàn/lạnh thì mọi vật trong đất đều phải chết. Kim khí, Dương minh táo kim: hóa thành táo, thời lệnh mát mẻ, vì kim là phần âm của Bính, có kèm hỏa khí cho nên khô táo. Thủy khí, Thái dương hàn thủy, thời lệnh rét dữ dội. Suối ở trong lòng đất/thổ, đó là thấp hóa phong (mộc), cho nên linh khí của ở trời là Phong, ở đất là mộc, ở người là giận dữ. Linh khí của hành hỏa ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa, ở người là mừng rỡ; Linh khí của hành thổ ở trời là thấp, ở đất là đất, ở người là suy nghĩ; linh khí của hành kim ở trời là táo, ở đất là kim loại, ở người là lo lắng; linh khí của hành thủy ở trời là khí hàn, ở đất là nước, ở người là sợ sệt. Các khí đều có chỗ xuất phát của nó, đúng vào vị trí thì gọi là chính khí, không đúng vào vị trí của nó thì là tà khí, chính khí suy thì tà khí vượng. PHƯƠNG PHÁP LẬP CHỦ KHÍ thơ rằng: Đại hàn, mộc khí đầu tiên, Xuân phân, Quân hỏa tiếp liền thứ hai Ba Tiểu mãn Tướng hỏa ngay, Thái âm Đại thử khí này thứ tư Năm, Thu phân dương minh chờ Thứ sáu Tiểu tuyết khí là Thái dương Phương pháp này hàng năm đều lấy từ ngày Đại hàn đến ngày Kinh trập làm mộc khí thứ nhất; từ ngày Xuân phân khởi hỏa khí thứ hai; từ ngày Tiểu mãn khởi hỏa khí thứ ba; từ ngày Đại thử khởi thổ khí thứ tư; từ ngày Thu phân khởi kim khí thứ năm; từ ngày Tiểu tuyết khởi thủy khí thứ sáu. Cứ thế hết vòng này qua vòng khác, không bao giờ thay đổi. 2.2 PHƯƠNG PHÁP ĐOÁN CHỦ KHÍ Đại khái chủ khí chỉ tuân theo khách khí ở trên mà thôi, khách thắng (khắc) chủ thì thuận, chủ thắng khách thì nghịch, hai khí ấy chỉ có thắng mà không có phục (con phục thù cho mẹ). Chủ thắng thì tả chủ bổ khách, khách thắng thì tả khách bổ chủ. Lại nói: chủ khí mà "lâm" vào dưới khách khí, thiên thời vì thế không điều hòa, tật bệnh trong nhân dân do đó mà sinh ra. Ví dụ: năm Thìn, năm Tuất (Thìn/Tuất quy định là Thái dương hàn thủy): Khách khí của vận 1 là Thiếu dương tướng hỏa, "gia" lên chủ khí là Quyết âm phong mộc Khách khí thứ hai là Dương minh Táo kim, "gia" lên chủ khí Thiếu âm quân hỏa; Khách khí thứ ba là Thái dương hàn thủy, "gia" lên chủ khí Thiếu dương tướng hỏa; Khách khí thứ tư là Quyết âm phong mộc, gia lên chủ khí Thái âm thấp thổ... Lấy hai nằm Thìn Tuất này làm ví dụ, các năm khác cứ theo đó mà suy ra. Hễ gọi là "lâm", tức là con lại ở trên, mẹ lại ở dưới: như mộc chủ khí sinh ra hỏa khách khí chẳng hạn - đó là nghịch. Nếu mẹ ở trên, mà con ở dưới - đó là thuận. Chú thích rằng: Chủ thắng thì nghịch, nghịch thì dùng phương pháp chính trị (có nghĩa là bản chất của bệnh bên trong phù hợp với triệu chứng bên ngoài, ví dụ thấy chứng hàn thì lấy thuốc nhiệt để trị, thấy chứng nhiệt thì lấy thuốc hàn để trị - như thế gọi là chính trị). Khách thắng thì thuận, thuận thì dùng phương pháp phản trị (nghĩa là triệu chứng bệnh không phù hợp hợp với bản chất của bệnh, ví dụ như chứng chân nhiệt giả hàn... mặc dầu thầy thuốc thấy triệu chứng hàn nhưng vẫn cho thuốc hàn để trị - như thế gọi là phản trị). Như nói: chỉ có thắng mà không có phục - nghĩa là thịnh quá thì sẽ hại chỗ nó thắng, chỗ thắng nó không ức chế lại (theo lý ngũ hành thì chỗ bị khắc sẽ sinh ra một hành để ức chế lại, ví dụ như hỏa cương thịnh quá sẽ khắc hại kim, kim phải sinh thủy để ức chế hỏa - như thế gọi là phục thù... nhưng trong việc trị bệnh không nói như thế, nếu có một hành thái quá khắc chế, hành bị khắc sẽ tổn hại chứ không có chuyện sinh ra hành khác khắc chế lại).</p> --------------------- Đoạn này diễn giải giữa Chủ khí: tức là khí hậu tự nhiên bản chất phải có tại một thời điểm nhất định. Lấy ví dụ như vào vận 1 của mỗi năm thì Chủ khí là Quyết âm Phong mộc (tức khí của mùa Xuân), nếu năm đó là năm Thìn/Tuất thì khách khí tới thăm chính là Thiếu dương tướng hỏa - tức Chủ khí sinh Khách khí. --------------------- 2.3 THUYẾT KHÁCH VẬN Âm dương ngũ hành chu lưu thành 10 can, ngũ hành vận hành quanh khắp trong trời đất thành ra nguồn gốc của vạn vật, cho nên hàng năm xoay vần biến đổi theo thứ tự mà làm khách vận. Tính vận thì theo 10 thiên can, phối hợp lại chia thành 5 vận. Theo tính chất anh em, âm dương, phương vị của 10 can thì: Giáp dương là anh, Ất âm là em, vị trí ở phương Đông thuộc quẻ Chấn, Tốn - hành mộc; Bính dương là anh, Đinh âm là em, vị trí ở phía phương Nam, thuộc quẻ Ly - hành hỏa; Mậu dương là anh, Kỷ âm là em, vị trí thuộc trung ương, thuộc quẻ Cấn, Khôn - hành thổ; Canh dương là anh, Tân âm là em, vị trí ở phía Tây, thuộc quẻ Càn, Đoài - hành kim; Nhâm dương là anh, Quý âm là em, vị trí ở phía Bắc, thuộc quẻ Khảm - hành Thủy. Cho nên nói: Giáp là đầu mùa xuân, cây cỏ bắt đầu từ trong vỏ phát triển ra; Ất là dương khí còn ẩn khuất; Bính là vạn vật xuất hiện ra rõ rệt; Đinh là gặp lúc đương hành động mạnh mà được lớn mạnh lên; Mậu là dương thổ, vạn vật sinh trưởng cũng từ đó mà ra - mà tiêu diệt cũng từ chỗ đó; Kỷ là âm thổ không làm gì được riêng một mình; Canh là dương biến đổi mà bao gồm; Tân là âm cực ở chỗ đó mà thay đổi mới; Nhâm là dương khí mới sinh - cũng "nhâm" là đã có thai - cùng với chữ "tử" là con có chung một ý nghĩa; Quý là vạn vật bế tàng, trong thai nghén, chứ mầm mống một cách kín đáo, đó là sự tinh vi của trời đất. PHƯƠNG PHÁP LẬP KHÁCH VẬN (theo thiên âm dương trong sách "Tam tài bí chỉ") Phương pháp này mô tả sự hình thành khách vận theo nguyên tắc "vợ chồng lấy nhau, rồi sinh con đẻ cháu" - theo lịch pháp lấy vượng số sinh thành, còn lẻ ra thì lấy số trưởng nam để làm nguyệt kiến cho tháng giêng. Theo nghĩa "vợ chồng phối hợp", "con cháu sinh thành" thì: Giáp là chồng, Kỷ là vợ; vượng ở Dần mới sinh con là Bính, Bính sinh cháu là Mậu - vận hành thổ. Canh là chồng, Ất là vợ; vượng ở Kỷ (hay Tị?) mới sinh con là Mậu, Mậu sinh cháu là Canh - vận hành kim. Bính là chồng, Tân là vợ; vượng ở Sửu mới sinh con là Canh, Canh sinh cháu là Nhâm - vận hành thủy. Đinh là chồng, Nhâm là vợ; vượng ở Hợi mới sinh con là Nhâm, Nhâm sinh cháu là Giáp - vận mộc. Mậu là chồng, Quý là vợ, vượng Mùi mới sinh con là Giáp, Giáp sinh cháu là Bính - vận hỏa. (chú thích: bảng này VN cũng không hiểu "vượng" là thế nào, có lẽ người dịch sách bị nhầm) 2.4 PHÉP ĐOÁN KHÁCH VẬN Phương pháp này lấy: những năm Giáp Bính Mậu Canh Nhâm dương can - là những năm thái quá - gọi là thiên thiên, thì tuế vận giao trước tiết Đại hàn là 13 ngày. những năm Ất Đinh Kỷ Tân Quý âm can - là những năm bất cập - gọi là hậu thiên, thì tuế vận giao sau tiết Đại hàn 13 ngày. Căn cứ vào sơ đồ và dự đoán sau: 6 NĂM GIÁP Thổ vận thái quá thì mưa thấp lan tràn, bệnh thấp phát sinh, thận thủy bì tà. Điều trị nên trừ thấp bổ thận. Lại nói: người ta cảm phải bệnh tà trước tiên tổn thận, sau thương tổn Tỳ, mạch thận suy, gây thành bệnh thổ thắng khắc thủy. Người bệnh hay đau bụng, âm quyết (chứng chân tay lạnh), mình nặng nề, buồn phiền vật vã, bí kết, da vàng, chân liệt, tay không cất nhắc lên được: Giáp Tý: hỏa kim hợp thổ Giáp Dần: đầu, giữa thịnh; cuối hư Giáp Thân: đầu, giữa thịnh; cuối hư Giáp Thìn: đầu rất thịnh Giáp Tuất: cuối rất thịnh Thổ thắng thì khắc thủy, khinh nhờn thủy, sắc vàng kiêm sắc trắng; vàng là sắc thổ thắng, trắng là sắc mẹ của thủy. Khí của con và mẹ cần phải tương ứng, cho nên thấy cả hai sắc cùng hiện ra. Thấp khí lưu hành mạnh, cho nên nước suối chảy mạnh, sông tràn đầy, tưới nhuần loài cá sinh nở; thấp nhiều phong lấn vào; mưa to gió lớn đến đất bị lở vỡ, loài cá ngược lên trên đất cạn. 6 NĂM ẤT kim vận bất cập thì hỏa khí thừa thế vượng, lại hóa thành nhiệt mới lan ra. Điều trị nên thanh phế để giáng hỏa. Lại nói: người ta cảm phải thời khí ấy, kim bị hỏa tà, thì mũi hắt hơi, ỉa ra máu. Lại nói: bệnh âm quyết cách dương (tức chứng âm thịnh quá ngăn trở dương, âm dương không giao hợp nhau tạo thành chứng thượng giả nhiệt, hạ chân hàn), dương đó ngược lên làm thành chứng hỏa không có gốc. Đầu, não, miệng, lưỡi đều bị bệnh, nặng thì đau ở tâm. Ất Sửu: thổ thủy hợp kim Ất Mùi: thổ thủy hợp kim Ất Mão: kim khí hợp Ất Dậu: kim khí hợp Ất Tị: kim hư, hỏa khắc, thủy thịnh Kim bất cập, hỏa thừa thế bốc lên mạnh, kim không thắng được mộc nên cây cỏ tươi tốt, chỉ có một hỏa khí vượng nên thiêu đốt mạnh, hỏa quá thịnh, thủy phục thù lại thì mưa rét bỗng chốc đến, tiếp theo đó là có băng giá, mưa đá, sương tuyết làm tai họa muôn vật, mùa màng cũng mất. Nếu mùa hạ có biến cố: nắng nóng thiêu đốt thì đến mùa thu có tổn hại nạn băng giá, mưa đá, sương giá. Không thắng thì không có phục thù lại (nghĩa là mùa hạ không hạn thì mùa thu không nạn băng giá). 6 NĂM BÍNH Thủy vận thái quá, thì hàn khí lan tràn, bệnh hàn sinh ra, tâm hỏa bị tà. Điều trị nên trục hàn để bổ tâm. Lại nói: người cảm phải thời khí ấy thì phát bênh mình nóng tâm phiền, kinh sợ, âm quyết (lạnh) khắp trên dưới, nói nhảm, đau ở tâm, (nếu bệnh) nửa người trên còn chưa nặng lắm, nếu nặng thì thủy tự khắc sinh bệnh bụng to, chân thũng, suyễn ho, ra mồ hôi trộm, sợ gió. Lại nói: âm thịnh dương suy, thủy khắc ngược tỳ thổ sinh chứng bụng sôi, ỉa lỏng, ăn không tiêu. Nếu thủy khinh nhờn thổ, thì tâm mất chức năng, sinh bệnh khát mà hôn mê, thành bệnh tâm phế suy. Bính Tý: thủy hợp khắc hỏa Bính Ngọ: thủy hợp khắc hỏa Bính Dần: kiêm thủy hỏa, không rét lắm Bính Thân: kiêm thủy hỏa, không rét lắm Bính Thìn: kiêm thủy hỏa, không rét lắm Bính Tuất: kiêm thủy hỏa, không rét lắm Thủy thắng khắc hỏa, thủy thắng thổ phục thù cho nên mưa lụt đến, mưa mù u uất, năm Bính Thìn và Bính Tuất đầu năm gặp khí Thái dương hàn thủy tư thiên gia lâm, nên mưa lụt sương giá xuống đột ngột, thấp khí làm biến đổi mọi vật, âm thịnh dương suy. 6 NĂM ĐINH Mộc vận bất cập thì kim khí thừa thế vượng lên, ngược lại hóa táo. Bệnh táo lan tràn, điều trị nên lấy thanh táo để bổ can. Lại nói: người ta cảm phải thời khí ấy thì kim khác mộc, hàn ở trong và gân đau, bụng dưới đau, mộc mất chức năng không sinh được hỏa nên sinh bệnh sôi bụng, ỉa chảy. Lại nói: người ta mắc bệnh chân tay bại liệt, phong, ung nhọt, tê liệt, phù thũng, mụn lở. Đinh Sửu: mộc quá bất cập Đinh Mùi: mộc quá bất cập Đinh Mão: mộc quá bất cập Đinh Dậu: mộc quá bất cập Đinh Tị: mộc bất cập, có giúp đỡ Đinh Hợi: mộc bất cập, có giúp đỡ Mộc bất cập, kim thừa thế lấn át, cây cỏ ủ rũ, nếu kim khí nặng lắm thì cả loài gỗ cũng bị nứt nẻ, loài gỗ mềm thì héo khô - những năm ấy thường có mưa lạnh. Mộc vận bất cập thì thổ không được ức chế, những quả chính bị sâu ăn. Kim thịnh hỏa phục thù, nên sinh nhiều giống sâu mọt - do hỏa khí hóa ra. Tới bước hỏa vận (tức tới năm Mậu) lại củng cố nhiều. Kim thắng mộc thì héo nát, hỏa phục thù thì nắng nóng dữ, mộc uất thì phát sấm sét. 6 NĂM MẬU Hỏa vận thái quá thì nhiệt khí lan tràn, bệnh nhiệt mới sinh ra, phế kim bị tà. Điều trị nên giáng hỏa để thanh phế. Lại nói, người ta cảm phải khí ấy thì sinh sốt rét, ho. Nhiệt thì bụng đau, sườn đầy tức, vai lưng đau, mình nóng, xương nhức. Lại nói, trước tổn thương tỳ, sau tổn thương tâm. Mậu Tý: hỏa thái quá không được ức chế Mậu Ngọ: hỏa thái quá không được ức chế Mậu Dần/Mậu Thân: hỏa rất mạnh Mậu Thìn: thủy ức chế hỏa không nhiều Mậu Tuất: thủy ức chế hỏa không nhiều Hỏa thịnh kim suy, thủy tất lấn vào, những năm ấy nhiều mưa lụt, sương giá, hòa quá thịnh kim phục thù lại. 6 NĂM KỶ Thổ vận bất cập thì mộc khí thừa thế vượng, lại hóa sinh hỏa, bệnh phong mới sinh ra. Điều trị nên lấy bổ tỳ để bình mộc. Lại nói, người ta cảm phải thời khí ấy thì mình nặng, bụng đầy, da thịt máy dựt, hay giận. Thổ hư nên thủy không còn gì nữa. Kỷ Sửu: thổ hư có giúp đỡ Kỷ Mùi: thổ bất cập Kỷ Mão: thổ bất cập Kỷ Dậu: thổ bất cập Kỷ Tị: thổ bất cập, thủy thắng Kỷ Hợi: thổ bất cập, thủy thắng Thổ bất cập, mộc thừa thế lấn vào, gió to thịnh hành, mộc thịnh thì cây cỏ tốt tương, nhưng thành quả là do ở thổ, do thổ khí không đầy đủ nên tuy cây cối tốt mà không ra trái. Trên khí quyết âm gia lâm, dưới khác tướng hỏa, nước không thành băng - sâu bọ xuất hiện. Lửa ẩn nấp dưới đất cho nên thủy không có tác dụng mà kim khí không phục vụ cho được. Chưa được chuyên chủ về thời bệnh của nó, nên người cũng được khỏe mạnh ít bệnh. Năm Kỷ Mão và Kỷ Dậu mộc thăng thổ rung chuyển trời đất, phục thù kim, phục thù mộc cho nên bệnh ghẻ lở khô và tróc vảy, 4 tháng cuối bốn mùa có gió to là do mộc khắc thổ. Mùa thu heo hắt mưa dầm là do kim phục thù mộc, không có thắng thì không có phục thù. 6 NĂM CANH Kim vận thái quá thì táo khí lan tràn, bệnh táo mới sinh ra, can mộc bị tà. Điều trị nên lấy thanh táo bổ can. Lại nói, người ta cảm phải thời khí ấy thì kim thắng tổn thương tới can, bị bệnh đau gân, mắt đỏ, mình lở, tai điếc. Nặng thì tổn thương phế, bản thân phế bị bệnh thì ho nghịch lên, đau vai. Kim bị bệnh không sinh được thủy, gây ra bộ phận dưới đều bị bệnh. Lại nói, trước tổn thương gan, sau tổn thương tỳ. Canh Tý/Canh Ngọ: kim khí thái quá có giúp đỡ Canh Dần/Canh Thân: kim khắc quá, hóa hình lại Canh Tuất/Canh Thìn: kim thái quá, không có ức chế Kim thịnh thì mộc suy, cây cỏ khô gầy, kim thịnh quá hỏa mới lấn vào. 6 NĂM TÂN Thủy vận bất cập thì thổ khí vượng, lại hóa thành thấp, bệnh thấp mới lan ra. Điều trị nên bổ thận để trừ thấp. Lại nói, người cảm phải thời khí này phần nhiều là bệnh ở bộ phận dưới, sắc mặt thường biến đổi, gân xương co rút, thịt máy dựt, mắt không trông rõ ràng, phong chẩn phát ra ngoài, đau bụng, đau vùng tim. Tân Sửu/Tân Mùi: thủy trên hư, dưới thực thịnh Tân Mão/Tân Dậu: thủy bất cập Tân Tị/Tân Hợi: thủy đại hư Thủy bất cập, thổ thừa thế lấn át, thấp lan tràn. Thủy suy, thổ với hỏa đồng hóa, cho nên gọi là "hỏa khí dụng sự". Hóa nhanh chóng, nắng mưa luôn, giống lúa đen không thu hoạch, giống lúa vàng cũng không tốt. người phần đông bị bệnh ở hạ bộ. Thổ mạnh quá thì mộc phục thù cho nên gió to phát ra bất ngờ, cỏ lướt cây đổ, sự sinh trưởng sai mùa, mọi vật không tươi sáng. 6 NĂM NHÂM Mộc vận thái quá thì phong khí lan tràn, bệnh phong sinh ra, tỳ thổ bị tà. Điều trị nên bình mộc để bổ tỳ. Lại nói, người ta cảm phải thời khí ấy thì tỳ tổn thương nặng nên hay giận, hay đau bụng, về 6 tháng cuối năm mạnh tỳ hơi vi, thì bệnh càng phát triển. Lại nói, trước tổn thương tỳ sau tổn thương can. Nhâm Tý/Nhâm Ngọ: mộc thái qua Nhâm Dần/Nhâm Thân: mộc thịnh quá Nhâm Thìn/Nhâm Tuất: mộc thái quá, không có ức chế Mộc thái quá nên nhiều gió to, mộc thịnh thổ suy, trong không gian mây mù bay chuyển, cây cỏ không yên. Mộc thắng kim lấn vào, đến nỗi cây cỏ tàn rụng. Sao Thái bạch sáng thì kim khí phục thù lại. Các năm Tý Ngọ Dần Thân mộc khí có thừa (thái quá), mà hỏa khí tư thiên (hỏa khí làm chủ nửa năm đầu) thì khí của mẹ (mộc) và khí của con (hỏa) đều ngược lên, nên sinh ra bệnh nôn mửa. 6 NĂM QUÝ Hỏa vận bất cập thì thủy khí thừa thế vượng lại hóa thành hàn, bệnh hàn phát sinh. Điều trị nên bổ tâm để trục hàn. Lại nói, người ta cảm phải thời khí ấy thì sinh bệnh hỏa bất cập mà âm tà thịnh, tâm khí tổn thương nên đau gân vai, lưng đau, mắt mờ, bụng đau nặng, đau khắp sườn eo và lưng. Lại nói, người ta cảm phải thời khí ấy thì sinh bệnh ỉa lỏng, bụng đầy, không ăn được, bổng nhiên co rút, tê liệt, chân không đứng được xuống đất. Quý Sửu/Quý Mùi: hỏa mộc bất cập Quý Mão/Quý Dậu: hỏa hợp với tuế hội Quý Tị/Quý Hợi: hỏa hư có giúp đỡ Hỏa khí bất cập, thủy khí thừa thế lấn át, hàn khí lan tràn, mọi vật chỉ tươi tốt ở phần dưới mà không tươi tốt ở phần trên, rét lắm dương suy, mất hết tươi tốt. Thủy mạnh quá thì thổ phục thù, thành bụi mù ra u uất, mưa lụt to. Thủy thắng thì hỏa ngưng, nên rét dữ run rẩy. Thổ phục thù thì bỗng nhiên mưa dầm, hỏa uất thì sấm sét dữ dội, khiến cho mùa hạ mà có thắng khí; rét mướt, ngưng đọng, nứt nẻ; bất thình lịnh lại có phục khí: bụi mù, tối tăm, mưa to. Nếu không có thắng khí thì không có phục khí. SỰ THUẬN NGHỊCH GIỮA VẬN VÀ KHÍ Khách khí tư thiên tới khắc khách vận, thì năm đó khí và vận thuận với nhau, người và súc vận đều yên ổn ít tật bệnh. Nếu thấy khách vận tới thắng khách khí thì khí và vận nghịch với nhau, người và súc vật không yên, nhiều bệnh tật. Phương pháp điều trị: khí và vận thuận nhau: thì thuận theo khí và vận nghịch nhau: thì ức chế đi chớ nên phục khí thiên hòa (là khí của thời bệnh, ví dụ: năm thiếu âm quân hỏa tư thiên thì mạch hai bộ thốn không ứng, tức là hai mạch bộ thốn trầm tế, hễ thấy như thế là phù hợp với tuế vận. Nếu cho là mạch hai bộ thốn kém rồi dùng thuốc nâng hai bộ mạch đó lên tức là phát khí thiên hòa). Ví dụ: năm Tý thiếu âm quân hỏa tư thiên sẽ khắc vận Canh kim; năm Thìn khách khí là Thái dương hàn thủy tư thiên sẽ khắc vận Mậu hỏa; năm vận Giáp thổ khắc khách khí năm Thìn là Thái dương hàn thủy tư thiên..vv... về phần khách khí sẽ nói rõ ở phần sau. 2.5 THUYẾT KHÁCH KHÍ Phương pháp lập khách khí như sau: ví dụ như xem năm Tý thì lấy Thiếu âm quân hỏa ở Tý là khí tư thiên (khí 6 tháng đầu năm), như vậy: Ngọ đối diện với Tý Sửu Thái âm thấp thổ phía bên trái của Tý gọi là "tả gian" Dần Thiếu dương tướng hỏa là khí bên phải "hữu gian" của khí tại tuyền (đó là hai khí bên trái khí tư thiên, chi phối thiên khí và mọi vật) Một khí ở trên là Ngọ, chi phối thiên khí một năm, lại chủ về nửa năm đầu; một khí ở dưới là Tý, chi phối địa khí một năm, lại chủ về nửa năm cuối. Sau Tý 3 vị trí là Dậu Dương minh Táo kim tại tuyền (tư địa), sau Tý 2 vị trí là Tuất Thái dương hàn thủy là khách khí đầu thuận chiều tới Hợi Quyết âm phong mộc là khách khí thứ hai; Tý thiếu âm quân hỏa là khách khí thứ 3; Sửu thái âm thấp thổ là khách khí thứ 4; Dần thiếu dương tướng hỏa là khách khí thứ năm; Mão dương minh táo kim là khách khí thứ 6. Cứ thế mà suy ra. Mỗi khí chủ vượng 60 ngày lẻ 87 khắc rưỡi (mỗi ngày có 100 khắc) NĂM TÝ NGỌ Năm Tý Ngọ Thiếu âm quân hỏa tư thiên, Dương minh táo kim tại tuyền. Nếu là năm thuộc Nam chính thì mạch hai bộ thốn không ứng; nếu là năm thuộc Bắc chính thì mạch hai bộ xích không ứng (Nam chính là năm Giáp/Kỷ, Bắc chính là năm Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Mạch không ứng là mạch trầm tế). Khí thứ 1: nếu năm trước là năm Kỷ Hợi thì từ tiết Đại Hàn trở về trước, ấm ấp tới lúc này mới bắt đầu rét, loại sâu bọ trước vì ấm mà ra, đến lúc này lại ẩn nấp; nước thành băng, sương lại xuống, gió bắt đầu đến dương khí uấư thiên, nhân dân bị bệnh hàn, cơ da răng và eo lưng bị đau. Đến đầu tháng 3, nắng bức sắp bắt đầu - các nơi có chứng mụn lở, do Thiếu âm quân hỏa tư thiên, lại gặp chủ khí thứ 2 nên có bệnh ấy. Khí thứ 2 khách khí phong mộc gia lên chủ khí quân hỏa dương khí phân bố, phong khí mới hành động. Xuân khí phát sinh, muôn vật tươi tốt, lúc khí tư thiên quân hỏa chưa thịnh, hàn khí thường đến, mộc hỏa tương ứng với thời tiết, người bị bệnh mắt mờ, mắt đỏ, khí uất ở trên và nóng, là bệnh thuộc quân hỏa. Khí thứ 3 Khách khí quân hỏa tư thiên gia lên chủ khí tướng hỏa, khí tư thiên phân bố, hỏa hành động mạnh, mọi vật phồn thịnh tươi tốt. Hỏa đến cực độ thì thủy phục thù lại, nhiệt cực sinh hàn, hàn khí thường đến, quân hỏa và tướng hỏa kết hợp nhau thiêu đốt. Người bị bệnh khí quyết (bỗng nhiên tay chân giá lạnh, ngã lăn ra) đau vùng tim, nóng rét thay đổi nhau, ho suyễn, mắt đỏ. Khí thứ 4 Thấp thổ thịnh, nắng nóng đến thường có mưa to, nóng lạnh thay đổi nhau đến, người bị bệnh nóng rét họng khô, hoàng đản, đổ máu mũi, nhiệt khát. Khí thứ 5 Sợ hỏa đến (chủ khí kim sợ khách khí hỏa) nên nắng đến một cách bất thường, thì dương khí mới hóa muôn vật tươi tốt, dân mới khỏe mạnh. Song thời tiết lạnh mà khí lại nóng, dương tà thắng nên nhân dân bị bệnh ôn. Khí cuối cùng Khách khí kim gia lên chủ khí thủy, kim chủ thu liễm, khí thời bệnh lưu hành là táo, dư hỏa (tà hỏa còn sót lại) của ngũ hành làm ngăn cách ở trong, hàn khi1bo61c lên luôn thì sương mù che lấp; nhân dân bị bệnh thũng, ho suyền, ra máu, đau các đốt xương chân tay, thớ thịt và gan. Mười năm kể trên năm nào quân hỏa tư thiên thì kim uất; táo kim tại tuyền thì mộc uất. Dùng vị mặn làm cho mềm đi, để điều hòa quân hỏa ở trên, nặng lắm thì dùng vị đắng để cho hỏa phát tiết ra, dùng vị chua để cho kim thu liễm lại. Quân hỏa bình thì táo kim được yên, song hỏa thuộc nhiệt, kim thuộc táo, nếu không có vị đắng tính hàn làm cho phát tiết ra là không phát được. Hỏa khắc kim, năm ấy nóng nhiệt nhiều, mụn lở và bệnh dịch nhiều. Phương pháp điều trị chung: bộ phận trên thuộc quân hỏa, chữa nên dùng vị mặn, tính lạnh (lấy thủy trị hỏa); bộ phận giữa thuộc Giáp thấp thổ, Canh táo kim, chữa nên dùng vị đắng tính nóng, vị cay khí ôn làm cho phát tiết ra, làm cho ấm lại. Bính là hàn thủy, chữa nên dùng phương pháp tòng chị (tức chính trị) làm cho ấm lại. Bộ phận dưới thuộc táo kim, chữa nên dùng vị chua cho ôn lại. Nửa năm trước nên xa vị nóng, chữa bộ phận giữa và bộ phận dưới nên xa vị lạnh (riêng năm Mậu Ngọ thì không xa vị lạnh). Tóm lại, năm Tý/Ngọ hỏa tư thiên ở trên nên nhiệt hóa. Khiến cho mùa xuân hay mát lạnh, gió to không mưa; đó là do phong vận của năm Tị/Hợi chưa lui hết. Cho nên dùng phương pháp tả quyết âm là phải, nhưng đến thiết Xuân phân đã tới thì vị trí hỏa, mộc tuy có thừa cũng không thể quá mức. Táo tại tuyền ở dưới thì vật ẩm thấp không thành được, loại có lông cánh hòa đồng với thiên khí thì yên ổn, không bị tổn hại; loại thực trùng (sâu) hòa đồng với địa khí, sinh dục nhiều. Kim tới thì mộc suy, loài có lông không thành thai. Kim hỏa không điều hòa, loài có lông cánh cũng không thành. Năm Canh Tý/Ngọ kim thừa kim vận thì loài có lông tổn thương càng nhiều. NĂM SỬU MÙI năm Sửu Mùi: Thái âm thấp thổ tư thiên; Thái dương hàn thủy tại tuyền. Nếu là năm thuộc Nam chính thì mạch bộ thốn bên trái không ứng; nếu là năm thuộc Bắc chính thì mạch bộ xích không ứng (nam chính là năm Giáp Kỷ, bắc chính là Ất, Bính, Đinh, Mậu, canh, Tân, Nhâm Quý. Mạch không ứng là mạch trầm tế). Khí thứ 1 khách khí, chủ khí đều là phong, rét hết, khí mùa xuân đến phong khí lại về; mọi vật tươi tốt, thấp thổ tư thiên, phong thấp kết hợp nhau, phong thắng thấp sau khi mưa; phong thương can, phong lại lan ra. Nhân dân bị các chứng huyết tràn ra các khiếu (huyết giật), gân co cứng, khớp xương không thuận lợi, mình nặng, liệt gân. Khí thứ 2 chủ khí, khách khí đều là quân hỏa, giữa mùa khí nóng, Thái âm tư thiên, thấp nhiệt kết hợp nhau, mùa mưa xuống, hỏa thịnh khí nóng; người bị bệnh ôn dịch nặng, xa gần một loạt như nhau. Khí thứ 3 Chủ khí hỏa sinh khách khí thổ, thời lệnh của khí tư thiên phân bố ra, thấp khí giáng xuống, sau khi mưa có lạnh tiếp theo, vì Thái dương tại tuyền bắt đầu tác dụng. Cảm về khí hàn thấp, thì nhân dân bị bệnh mình nặng, chân thũng, ngực bụng đầy. Khí thứ 4 Khách khí tướng hỏa sinh chủ khí thấp thổ, thổ hỏa khí hợp lại thì thấp khí bốc lên, thiên khí ngăn cách. Song khí Thái dương tại tuyền, gió lạnh theo đó mà phát ra hàng ngày, thấp nhiệt kết hợp nhau, cây có có hơi đọng lại do thấp gặp hỏa. Thấp không hóa được, chỉ có sương buông tỏa trong đêm để thành thời lệnh mùa thu. Thấp nhiệt cũng lan ra, nhân dân bị bệnh nhiệt ở thấu lý, huyết bỗng tràn ra, sốt rét, bụng trên đầy, nóng lắm thì sinh phù thũng. Khí thứ 5 Khách khí, chủ khí đều thuộc kim, thời lệnh thê thảm (do tính sát của kim), sương lạnh xuống, sương giá có sớm, cây cỏ úa rụng, khí lạnh làm cho người ta rùng rợn, bệnh gây ra ở da và thớ thịt. Mười năm kể trên Thấp thổ tư thiên, thổ khắc, thủy ứng, tâm hỏa bị bệnh; hàn thủy tại tuyền, thủy khắc hỏa, hay bị bệnh ở bụng dưới. Trong hai năm Ất Sửu Ất Mùi thừa vận kim, kim có thể sinh thủy, lại gặp lục thủy vượng, lúc đó rét càng dữ (đất lạnh, vật nóng không thành được), loại động vật không lông đồng hóa với thiên khí yên tĩnh thì không bị tổn hại, song khí thủy thổ không điều hòa, tuy sinh nở mà không nuôi được. Loài cá cùng đồng hóa với địa khí thì sinh dục nhiều. Thủy thịnh hỏa suy nên loài chim (thuộc hỏa) không sinh nở. Hai năm Tân Sửu Tân Mùi thủy thừa thủy vận, hỏa bị khắc nặng nên loài chim thương tổn càng nặng. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ NÓI CHUNG bộ phận trên là thấp thổ, chữa dùng vị đắng tính ôn, hóa theo hỏa để trị thấp, bộ phận giữa là Ất táo kim, Đinh phong mộc, nên dùng vị đắng, hóa theo hỏa để trị kim; vị cay tính ôn, hóa theo kim để trị mộc; Kỷ thấp thổ, Tân hàn thủy, nên dùng vị đắng tính hòa bình. Chữa chứng hàn dùng vị nhiệt, nếu bất cập thì nên ôn bổ. Bổ bộ phận dưới nên dùng vị ngọt tính nhiệt, hóa theo thổ để chữa hàn. Năm Tân không nên dùng vị đắng tính nhiệt. Hai năm Sửu Mùi thổ tư thiên, nên hóa theo mưa, mà nhiệt khí vẫn còn nhiều là do dư hóa của hai năm Tý Ngọ chưa lui hết, hỏa lại trở thành hỏa, thì tà hỏa là đúng. Thấp sinh về mùa xuân, là hiện tượng Thiếu âm không thoái vị, thổ khí không được di chuyển đúng chỗ, muôn vật đương lúc vượng mà không phát sinh được, người ta hay bị bệnh ở tỳ. Về mùa đó hay nóng không mưa, tức là hỏa lui mà thổ hợp lại, gặp tiết Tiểu thử thì thổ không thể hợp lại mà đến lúc hỏa nung nấu. NĂM DẦN THÂN năm Dần Thân: Thiếu dương tướng hỏa tư thiên; Quyết âm phong mộc tại tuyền. Nếu là năm thuộc nam chính (Giáp) thì bộ mạch xích bên trái không ứng; nếu năm thuộc bắc chính (ngoài năm Giáp ra) thì mạch bộ thốn bên phải không ứng. Khí thứ 1 là Quân hỏa kiêm tướng hỏa tư thiên, phong thắng làm lay động lạnh hết; khí hậu lại quá ấm, cây cỏ sớm tươi tốt, lạnh tới mà không buốt; quân hỏa và tướng hỏa hợp lại, bệnh ôn bắt đầu có, bệnh khí nghịch lên trên, huyết tràn ra, mắt đỏ, ho rực lên, đau đầu, băng huyết, gân căng tức, trong làn da thớ thịt bị lở. Khí thứ 2 Thấp thổ tác dụng, chủ khí Quân hỏa bị uất lại, bụi trắng bốc lên khắp nơi, mây mưa dồn dập, phong không thắng thấp, mưa vặt, chủ khí và khách khí tương sinh, nhân dân được khỏe mạnh. Thấp nhiệt gây bệnh, nhiệt uất lên trên, nôn nghịch lnê, phát lở bên trong, ngực đầy không thoải mái, đau đầu, mình nóng, hôn mê, lở loét. Khí thứ 3 Chủ khí và khách khí đều là tướng hỏa, nắng nực đến, mưa ít, hai hỏa kết hợp nhau bốc lên gây thành bệnh nhiệt: tai điếc, chảy máu, khát, hắt hơi, ngáp, họng tê, mắt đỏ, hay chết đột tử. Khí thứ 4 Khách khí kim, chủ khí thổ, khí mát đến, nắng nực lục có lúc không, biến hóa xen kẽ nhau, thổ và kim tương sinh, sức khỏe của dân bình thường. Táo thắng thì phế bị bệnh ngực đầy; thấp thắng thì tỳ bị bệnh mình nặng. Khí thứ 5 Khách khí thủy gia lên chủ khí, thủy hàn làm kim han rỉ, dương đi thì hàn tới, mưa xuống khí bế tắc, loài cây cứng tàn rụng sớm, người phải tránh hàn tà, giữ gìn cơ thể cho kín đáo. Khí cuối cùng Mộc tác dụng được chủ khí thủy tương sinh, khí tại tuyền được chính đáng, phong khí đến, sương móc xuống, vừa thời lệnh bế tàng, mà có phong khí lưu động, phong tà dương tà, sinh bệnh đau vùng tim, dương khí không bế tàng lại được mà sinh ho. Mười năm kể trên: hỏa ở trên khắc kim, năm đó nắng nhiều tổn thương phế, nhiều bệnh nhiệt, mộc khắc thổ; nửa năm sau nhiều phong, nhiều bệnh ở tỳ vị; dương đúng vị trí của nó thì khí trời chính thường, phong động ở dưới, địa khí rối loạn, phong mới cử động dữ dội, cây lướt cát bay, hỏa bốc nóng khắp, âm vận hành, dương biến hóa; nửa năm trước mưa là thời tiết ứng trong vòng hai khí tư thiên và tại tuyền. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CHUNG Tướng hỏa ở trên chữa dùng vị chua (lấy mộc trị hỏa), Bính thủy, Mậu hỏa ở giữa - chữa dùng vị mặn tính ôn Canh kim, Nhâm mộc, Giáp thổ: chữa dùng vị cay tính ôn, lấy kim trị mộc năm Mậu dùng vị cay khí ôn để đề phòng hỏa thái quá năm Dần Thân tướng hỏa tư thiên, nên hóa theo cách đó. Nếu mưa ẩm thấp còn nhiều đó là dư khí thổ của hai năm Sửu Mùi chưa lui hết, thổ lại làm hại trở lại, nên tả trung châu (vị) là đúng. Khí thái âm không chịu lui, bốn tháng cuối mùa nắng rét bất thường, mùa hạ lại mát, mùa thu lại nóng, mùa màng thu hoạch đều muộn. Nếu tiết Tiểu mãn, Tiểu thư nóng tợn, là hỏa lệnh, nếu không thì tai hại; phong mộc tại tuyền, mát mà không sinh nở, giống thú đống hóa với địa khí nên sinh dục nhiều. Mộc uất ở dưới hỏa mất thời lệnh, giống sinh trùng tuy không sinh nở, song song đồng hóa với thiên khí yên tĩnh nên không bị tổn hại. Mộc khắc thổ, loài động vật không long bị hao tổn. Năm Nhâm Dần, Nhâm Thân, mộc ở vào vị trí mộc nên (động vật không lông) càng thương tổn nặng. (còn tiếp)
    5 likes
  2. · ĐẶT KINH LUÂN TRONG NHÀ SẼ KHÔNG CÒN CẦN ĐẾN PHONG THỦY 20 Tháng 8 lúc 22:18 Để một Kinh luân trong nhà sẽ mang lại từ trường an lạc, bình quân vô cùng tích cực mà không cần có sự sắp đặt phong thủy. Khi an vị Kinh luân trên núi cao, tất cả chúng sinh phía dưới đều có thể giải thoát khỏi khổ đau của loại ngạ quỷ. Khi kinh luân được đặt trên mặt đất, tất cả chúng sinh chạm vào mặt đất đó cũng thoát khỏi mọi đau đớn, khổ sở của quỷ đói. Nếu biết an vị một Kinh luân Vương nơi nhiều người qua lại và nơi chư Thiên thường ghé thăm thì đó sẽ là bánh xe chuyển Pháp vĩ đại. vietrigpa.org Viet Rigpa Mani ========================== KINH LUÂN VƯƠNG VÀ PHONG THỦY. Bài viết được trình bày ở trên, cho rằng: "Đặt kinh luân trong nhà không cần đến phong thủy". Đây là một quan niệm sai hoàn toàn. Chúng ta hãy suy ngẫm đến xuất xứ của kinh luân từ Tây Tạng và đất nước Tây Tạng ngày xưa với bây giờ, nơi xuất xứ của kinh luân này. Tôi không phủ nhận, và vẫn tôn trọng niềm tin của tác giả bài viết này với kinh luân. Nhưng việc coi đó là yếu tố duy nhất đúng để cải thiện cuộc sống là sai lầm nguy hiểm, vì tính cực đoan. Trong những nghiên cứu tìm hiểu của tôi về Lý học Đông phương, thì có những yếu tố tương tác sau đây: 1/ Quy luật của những yếu tố tương tác bao trùm - chính là thời vận cho cả một nền văn minh, các quốc gia cho đến từng con người. Quen gọi là "Định mệnh". 2/ Địa lý Phong thủy Đông phương - chính là yếu tố mô tả các quy luật tương tác trong thiên nhiên, vũ trụ, môi trường và cấu trúc ngôi gia với cuộc sống con người. Cả hai yếu tố này, đều là những thực tại khách quan của vũ trụ - được nền văn hiến Việt mô tả như sức mạnh của Rồng. Và sự nhận thức những quy luật đó là trí tuệ của Tiên, Thánh ("Con Rồng, cháu Tiên") - Tức là nó được con người nhận thức và mô tả ứng dụng trong cuộc sống của một nền văn minh cổ xưa. Cực đoan, cố chấp ...chính là điều Đức Phật khuyên nên xả bỏ và cần "Chính Tư duy". - Đức Phật cũng nói: "Những điều ta nói đây như nắm lá trong bàn tay của ta. Còn chân lý như lá trong rừng Kỳ Đà phía sau lưng ta". Câu này Đức Phật dạy rằng phải tiếp tục tìm hiểu chân lý và chính những gì Đức Phật đã dạy không phải là duy nhất đúng với toàn bộ chân lý tối thượng. Mà nó chỉ hướng đến chân lý tối thượng. - Đức Phật cũng nói: "Những điều ta nói như ngón tay chỉ đến mặt trăng. Các người phải nương theo ngón tay để nhìn thấy mặt Trăng". Đức Phật muốn xác định rằng hệ thống giáo lý của Ngài mô tả chân lý, định hướng tới chân lý, chứ không phải chân lý rốt ráo - là điều mà con người phải tự nghiệm chứng. - Đức Phật cũng đã nói từ 2500 năm trước - Đại ý: Sau này sẽ có những kẻ nói giống như ta, nhưng hiểu sai ý của ta, xuyên tạc ý của ta. Khiến tha nhân ngộ nhận chân lý của ta. Đó là Ma Ba Tuần". Đó là thời Mạt pháp. Việc chấp vào Pháp Luân như một phương tiện duy nhất đúng, là một hành vi làm hủy hoại gía trị đích thực của Phật pháp.
    4 likes
  3. Cửa sổ hy vọng của cháu mở hẹp quá lại không có nhiều cơ hội, cháu nên thử năm tới thử thời vận xem sao. Nhìn vào lá số của em cháu không được xinh bằng cháu nhưng sao cô ta lại may mắn và có nhiều cơ hội như vậy, ông trời có bất công với cháu không ? thôi để khi nào có dịp gặp ông Trời bác hỏi giúp cháu nhé.
    2 likes
  4. TÒA HÀNH CHÍNH ĐÀ NẴNG DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA LÝ LẠC VIỆT. Tiếp theo 2/ CẤU TRÚC HÌNH THỂ TÒA NHÀ. 2.2/ Cấu trúc hình thể phần đế của tòa Hành Chính Đà Nẵng. Có thể nói cấu trúc phần đế của tòa Hành Chính Đà Nẵng, có nhiều vấn đề cần bàn đến nhất. A/ Về mặt tổng quát thì một tổ hợp kiến trúc 4 mặt tiền sẽ không tụ khí. Đây là yếu tố xấu đầu tiên và là một nguyên nhân không phải duy nhất gây nên cảm giác thiếu dưỡng khí của con người làm việc nơi đây. B/ Tòa nhà này có đến 7 của chính theo mô tả của bài trên. Theo định nghĩa được phục hồi từ những nguyên lý của Địa Lý Phong thủy Lạc Việt, thì đây là trường hợp đựơc phân loại, gọi là "Biến động trạch". Phàm những nhà xếp loại "Biến động trạch" và nhà cấu trúc hình tròn, rất dễ bị "đứt trạch" bởi các công trình ngầm và các cột chính của tòa nhà rộng lớn này, nếu kiến trúc sư không có kiến thức Địa lý phong thủy Lạc Việt, về những quy ước mô tả trạch nhà.Cho nên có thể xác định ngay tòa Hành Chính Đà Năng bị đứt trạch. Vấn đề "đứt trạch" có thể ví dụ như các mạch máu chính, hoặc xương sống bị tổn thương, hoặc bị bế. Theo cái nhìn từ lý thuyết của Địa Lý phong thủy Lạc Việt thì đây chính là một yếu tố nữa gây nên sự khó chịu cho những người làm việc ở đây, ngoài yếu tố không tụ khí đã trình bày ở trên. C/ Cấu trúc chi tiết các bộ phần phần đế khác. Thưa quý vị và anh chị em. Trên cơ sở hình ảnh từ bài viết sưu tầm ở trên, tôi phân tích từng cấu trúc trong tập hợp phần đế mà hình ảnh mô tả. C. 1: Tòa Trung tâm hành chính Đà Nẵng tọa lạc bên cạnh khách sạn Novotel. Có lẽ đây là hình ảnh rõ nhất cho cấu trúc về hình thức bên ngoài giữa tòa tháp tròn và chân đế. Quý vị và anh chị em có thế nhìn thấy rõ những chiếc cột trắng nối giữa phần tháp tròn và chân đế. Với cấu trúc hình thể này, phạm nhiều cách rất nặng trong phong thủy. a/ Cách thứ nhất: gọi là "lộ cốt". Phạm cách này khiến kinh tế suy thoái cho chủ nhân của tòa nhà này. b/ Cách thứ hai: gọi là "trụ tiểu, mái đại". Có thể mô tả phạm cách này giống như một người già như tôi mà phải nâng một quả tạ của một võ sĩ cử tạ. Phạm cách này, nhân viên dưới quyền chịu áp lực công việc nặng nề, mà không thực hiện được. Phạm cách này, địa vị người chủ quản không vững chắc. C2/ BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH Đã hoàn chỉnh bài trên
    2 likes
  5. vâng , việc coi kinh luân đặt trong nhà mà ko cần đến phong thủy là 1 điều hết sức mê tín dị đoan :D việc đó đồng nghĩa coi phong thủy là 1 thứ lố bịch , phi khoa học , chỉ có tác dụng về tinh thần ;) về mặt phong thủy : kinh luân chỉ là 1 pháp khí , nó có tác dụng trong những hoàn cảnh nhất định , thế thôi còn ông nào khẳng định kinh luân có thể thay thế phong thủy thì chứng minh đi ? môn phong thủy có thể đáp ứng các tiêu chí khoa học hiện nay , còn kinh luân nếu xét trên các tiêu chuẩn khoa học - nó có thể đáp ứng những gì ? -_- có thể kiến thức của td còn giới hạn ko hiểu dc sự huyền diệu của kinh luân ...nhưng nếu kinh luân có tác dụng cao như vậy , đức phật đã ko cần phải tốn công nghĩ ra 84 nghìn pháp môn để độ hóa cho chúng sinh ..... -_-
    1 like
  6. 1 like
  7. 1 like
  8. Bác đếm dấu hỏi trong câu trên hình như tưới 5 câu lận chứ đâu có 2 câu đâu ? Thôi để bác đi pha ly cà phê đã ...
    1 like
  9. Em xin đăng ký bổ sung thông tin về địa chỉ mail 1. Nick: wildwindhill 2. Tên: Trịnh Tiến Đạt 3. Ngày sinh: 07.10.1982 4. Địa chỉ: Phòng 509, nhà K3, khu tập thể 7.2ha, Vĩnh Phúc, Ba Đình, Hà Nội 5. Số Đt: 0936 380 666 6. email: dat.trinhtien@gmail.com Trân trọng./.
    1 like
  10. Rất cảm ơn Tuấn Dương vì bài sưu tầm này. Xin chuyển lời cảm ơn tác giả bài viết - Lương y Thái Hư. Trong các bài viết và tác phẩm của mình, tôi cũng dẫn chứng chính phong trào bài bác Đông y này đã chứng tỏ cội nguồn truyền thống của Đông Y hoàn toàn không phải của Trung Quốc. Tôi xác định rằng: Không thề có một hệ thống lý thuyết được tạo dựng từ một nền văn minh, mà chính nền văn minh đó lại không thể hiểu gì về chính những khái niệm nội hàm của lý thuyết đó. Việc bác bỏ Đông ý từ chính ngay của Trung Quốc dai dẳng hàng thế kỷ qua, đã chứng tỏ điều này. Tôi xác định rằng: Chỉ duy nhất có nền văn hóa truyền thống Việt mới phục hồi và chứng minh một cách hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống Lý thuyết ngành Y học Đông phương.
    1 like
  11. Con xin bổ sung thông tin ạ: Phạm Huỳnh Anh Khoa, sdt 01224965234, email: khoaphamw@gmail.com Con xin học chung với nhóm của anh Phan Lưu, sdt:0976977302 ạ. Xin cám ơn các thầy ạ
    1 like
  12. VẤN ĐỀ LÀ THÁI ĐỘ TRƯỚC CUỘC SỐNG. Theo tôi, đấy là nội dung của bài trên. Cổ học Đông phương thuật lại một câu truyện: Khuất Nguyên, đến bên sông Tương, tình cờ gặp một ông lão chèo đó. Ông lão hỏi: "Sao Thượng Đại phu lại buồn như vậy?'. Khuất Nguyên trả lời: "Ta buồn vì - cả đời đục cả, một mình ta trong. Cả đời say cả một mình ta tỉnh". Ông lão chèo đó nói: "Cả đời đục cả , sao ông không quậy nó cho đục thêm? Cả đời say cả sao ông không uống thêm rượu, húp cả bã cho say thêm...Mà cứ phải khư khư ôm lấy cái cô liêu của chính ông?! Nói xong, ông lão lái đò chèo thuyền đi. Vừa chèo thuyền, ông lái đò vừa hát: Sông Thương nước đục phù sa. Thì ta xuống đó để mà rửa chân. Sông Thương nước chảy trong ngần. Thì ta xuống đó giặt lèo mũ ta. Câu chuyện cổ học dừng ở đây và để lại cho thế nhân một thái độ sống cần suy ngẫm.
    1 like
  13. Thưa SP & ACE! Sau khi aygia thống kê tất cả các ACE đã đăng ký tham gia lớp học thì: 1. Tổng số hiện nay là 49 người trong đó có 1 cặp học chung nick là: Mai Quang Minh Võ Cẩm Hương và 2 người có nhu cầu học chung với người khác (nhưng chưa tìm dc người học chung) là: Nguyễn Quốc Tuấn Phạm Huỳnh Anh Khoa Như vậy còn lại là 48 người đăng ký. 2. Có 2 bạn trong bản đăng ký không cho biết Họ & tên gồm các nic: (đề nghị bổ xung Họ & tên) vanle HOÀNG KIM 3. Có 1 bạn không có số điện thoại: (Đề nghị bổ xung số điện thoại) Nguyễn Quốc Tuấn 4. Và một số bạn không có địa chỉ email (Đề nghị bổ xung) Trịnh Tuấn Hà Nguyễn Đức Luận Trịnh Tiến Đạt lê hải đồng Nguyễn Tuấn Cương Phạm Huỳnh Anh Khoa P/S: Mình đề nghị bổ xung là vì: - Đối với Họ và Tên là mang tính chính danh của người học, sau này khi cấp chứng chỉ cũng như suốt quá trình của khóa học ACE trong lớp là đồng môn, sẽ giao lưu cũng như liên lạc là bằng họ và tên của mình. - Đối với số điện thoại thì đây là phương tiện liên lạc đảm bảo nhất để kịp thời thông báo trong những trường hợp khẩn cấp... - Đối với Email, chúng ta sẽ thường xuyên liên lạc thông qua phương tiện này (và nếu như SP đồng ý thì mình sẽ gửi 1 tài liệu giúp các bạn có kiến thức cơ bản về sử dụng, lưu trữ cũng như viết một email sao cho chuẩn mực) trong suốt quá trình của khóa học. Thân ái!
    1 like
  14. Làm gì để lấy lại lòng tin? 20/08/2016 10:07 GMT+7 TTO - Câu nói của Thủ tướng “Người dân thiếu niềm tin thì đất nước khó bình yên” có thể được coi là lời nhắc nhở, cảnh báo dành cho những người có trách nhiệm, đồng thời cũng là thách thức có ý nghĩa sinh tử đối với bộ máy quản trị quốc gia. Sự giảm sút lòng tin của dân đối với chính quyền là có thật và có dấu hiệu gia tăng. Lý do chủ yếu là rất nhiều cam kết chắc nịch đã được đưa ra từ những vị trí được cho là có thẩm quyền, nhưng rồi những điều được hứa hẹn vẫn xa vời. Ví dụ điển hình là những lời hứa về cải cách thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp. Các quy định về kinh doanh có điều kiện, được biết nhiều hơn dưới tên gọi quy định về “giấy phép con”, được điểm mặt là nơi ẩn giấu các công cụ nhũng nhiễu. Mặc dù pháp luật kinh doanh, được sửa đổi theo hướng hội nhập, đã khẳng định nguyên tắc người dân được làm tất cả trừ những điều cấm, đến nay vẫn còn mấy ngàn giấy phép con được duy trì kiểu rào cản “ngăn sông cấm chợ”. Bị bắt gặp tại các thông tư và bị yêu cầu bãi bỏ, giấy phép con “chạy” sang các nghị định (nghĩa là tại cấp văn bản còn cao hơn) để nương náu. Có nhiều nguyên nhân khiến chủ trương cải cách, đổi mới chậm được hiện thực hóa. Một trong những nguyên nhân chính được cho là sự chậm thay đổi trong nhận thức về bản chất mối quan hệ giữa nhà chức trách và người dân thường. Với Nhà nước gọi là phục vụ, thành viên của bộ máy phải hiểu rằng mình có điều kiện làm việc và hưởng thù lao từ công việc là nhờ tiền thuế do dân đóng. Bởi vậy công chức, viên chức phải làm việc trong tâm thế người phục vụ. Cũng với Nhà nước phục vụ, người dân hiểu rằng mình có quyền đòi hỏi bộ máy dịch vụ công phải làm việc cho mình. Khi có gì cần phải đến công sở, người dân ở trong tư thế người được phục vụ, có quyền yêu cầu cung cấp thông tin, yêu cầu được chỉ dẫn, yêu cầu giải quyết những vấn đề của mình. Trong quan hệ giao tiếp với dân, công chức thường vẫn coi mình là người đi ban phát chứ không phải người phục vụ. Lời cảm ơn của người ở cửa công dành cho người dân tìm đến công đường trong giao tiếp công vụ vẫn là điều mơ ước. Mặt khác, nhiều đặc quyền đặc lợi dành cho quan chức vẫn được duy trì cách này cách nọ. Chiếc ghế quan chức luôn là đối tượng tranh giành quyết liệt, tạo động lực cho những cuộc chạy chức chạy quyền với đầy rẫy điều thị phi. Về phần mình, người dân có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng vào vai người làm chủ, người được phục vụ, mà vẫn mang nặng tâm thế của người đi xin và chờ được cho. Có công trình dân sinh gì đó hoàn thành, người dân được phỏng vấn nhân lễ khánh thành thường bày tỏ lòng tri ân sâu sắc, thay vì nói lời cảm ơn theo phép lịch sự về sự phục vụ của chính quyền. Đến cửa công mà bị làm khó, người dân thường chấp nhận chung chi hơn là dựa vào luật để làm cho ra lẽ. Một nghiên cứu đáng tin cậy cho thấy người dân có sức chịu đựng ngày càng cao đối với nạn nhũng nhiễu. Một khi tư tưởng ban phát còn tồn tại ở phía này và tư tưởng nhận ban phát còn ở phía kia, chẳng cách gì xây dựng được Nhà nước phục vụ và tạo được lòng tin của dân vào sự trong sạch của chính quyền. Có thể chỉ ra ngay, chứ không phải như câu chuyện về quan hệ sinh thành con gà và quả trứng, là trước hết cần xóa bỏ suy nghĩ kiểu ăn trên ngồi trước ở quan chức. Quan chức đổi sang tư thế phục vụ thì người dân mới có điều kiện xây dựng tâm thế ông chủ. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN ===================== Thấy câu hỏi hay hay, lão trả lời thế này: Việc đầu tiên là người dân phải tin rằng mình đã đúng và cái đúng của họ được luật pháp bảo vệ. Trước mắt hãy thế đã.
    1 like
  15. THÔNG BÁO VỀ VIỆC LỢI DỤNG DANH NGHĨA PHONG THỦY LẠC VIỆT -ĐỆ TỬ THẦY THIÊN SỨ Hiện nay có rất nhiều người không thuộc TTNCLH ĐÔNG PHƯƠNG , hoặc đã từng tham gia và từng học Sư Phụ Thiên Sứ một thời gian rồi từ bỏ Trung Tâm và không đi theo nguyên lý căn để Hà đồ phối hậu thiên Lạc Việt, nhưng vẫn tiếp tục xưng danh là người của Trung Tâm, hoặc là đệ tử của PTLV để quảng bá tên tuổi . Những người này dựa vào uy tín của Trung tâm cũng như Sư phụ Thiên Sứ để gây lòng tin và kiếm tiền từ khách hàng, nhưng lại không theo bất cứ một qui định nào của Trung tâm cũng như về mặt chuyên môn. Thay mặt TTNCLH Đông Phương và Sư Phụ Thiên Sứ, tôi xin thông báo chính thức: 1. Tất cả những ai tuyên bố làm theo PTLV thì nhất định phải tuân thủ nguyên lý căn để : "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Viêt", đổi chỗ Tốn - Khôn, hoán vị Thủy-Hỏa trong Lạc Thư hoa giáp. Quái Tốn theo PTLV được xác định ở Tây Nam, và Quái Khôn theo PTLV được xác định ở Đông Nam. Huyền Không Lạc Việt cũng xác định Cung LY độ số 7, cung Đoài độ số 9, Cung Khôn độ số 2 và Cung Tốn độ số 4. 2. Một số đệ tử của Sp Thiên Sứ tuy đã học PTLV, nhưng vẫn mơ hồ hoặc nghi ngại nguyên lý đổi chỗ Tốn -Khôn đều là những người mượn danh kiếm tiền . Chúng tôi trân trọng cảm ơn quí vị thông báo ngay với chúng tôi các trường hợp này để kịp thời xử lý. Chúng tôi xác nhận những người này KHÔNG phải là đệ tử của sp Thiên Sứ. Cũng thật tiếc, có một vài đệ tử trước đây của SP, quay lưng lại và rời bỏ Sư Phụ chỉ vì danh lợi, khi mà thời đó PTLV còn chưa hiểu được sự chứng minh đúng đắn, khi mà lúc đó PT cổ thư truyền thống kiếm được tiền nhiều hơn là việc phải đi giải thích và làm rạng danh PTLV. Cảm ơn sự quan tâm của mọi người\ Trân trọng Mạnh Đại Quân
    1 like
  16. Thưa quý vị và anh chị em. Do quan sát từ xa với những hình ảnh tìm thấy trện các trang mạng, nên tôi có thiếu sót là không phát hiện từ đầu tòa nhà khách sạn Novotel, án ngữ ngay trước mặt tiền đắc địa nhất của Tòa hành chính Đà Nẵng. Bởi vậy, tôi có viết bổ sung trong bài một, phân tích bổ sung về vấn đề này trong bài I, phần phân tích về cảnh quan môi trường. Quý vị tham khảo thêm. Tuy nhiên, đây là một khó khăn rất quan trọng trong việc khắc phục yếu điểm phong thủy cảnh quan của tòa nhà này. Nhưng dù khắc phục được hay không, tôi sẽ tiếp tục phân tích trọn vẹn bài viết của tôi.
    1 like
  17. TÒA HÀNH CHÍNH ĐÀ NẴNG DƯỚI GÓC NHÌN ĐỊA LÝ LẠC VIỆT. Tiếp theo 2/ CẤU TRÚC HÌNH THỂ TÒA NHÀ. 2.1/ Cấu trúc tổng thể tòa nhà. Trước khi bàn về cấu trúc toàn thể toàn nhà, chúng ta có thể khảo sát bài viết dưới đây, có nội dung mô tả khá hoàn hảo cấu trúc nội ngoại thất của tòa nhà này. Và quý vị cùng anh chị em có thể xem video clip mô tả cấu trúc tòa nhà này: Trên cơ sở hình ảnh và video clip được mô tả trong bài viết được trích dẫn này, quý vị và anh chị em xem tại hình thể tổng quát của tòa nhà: Toàn thể tòa nhà Hành chính Đà Nẵng được xây theo hình ảnh một tòa tháp vút cao trên một chân đế gồm nhiều tầng nhà phía dưới. Về hình tượng, nó giống một trái bắp được mọc đâm thẳng lên trời xanh. Đây là cách "cực Âm" (*)theo nguyên lý của Địa Lý phong thủy Lạc Việt "Âm nhô cao, Dương trũng thấp". Thông thường những công trình kiến trúc cao vút như vậy, thể hiện những ước vọng lớn lao. Nhưng còn tùy theo hình thể kiến trúc và công năng sử dụng vào mục đích gì. Với những cách cực âm như vậy, chỉ dùng cho những doanh nghiệp kinh tế. Dùng cho một cơ quan hành chính quyền lực đầu tỉnh - nói theo cách nói của Lý học - là "không hợp cách". Những tòa nhà hành chính như vậy - hoặc cơ quan quyền lực nói chung - thường phải là hình cái ấn, hoặc cái ngai, hoặc các hình thức khác liên quan đến quyền lực..... Quý vị và anh chị em có thể tham khảo những tòa nhà hành chính quen thuộc sau đây: Tòa Bạch ốc. Hình cái ngai. Tuy nhiên, sự khắc phục hình thể tổng quát bên ngoài của tòa nhà này nhằm xác định tính quyền lực của tòa Hành chính cấp tỉnh có thể khắc phục được trong điều kiện cải tạo cấu trúc phần đế và phần đầu ngọn của tòa tháp này. Đồng bộ với việc sửa chữa hình thể là phải sắp xếp lại công năng sử dụng từng tầng trong tòa nhà này. Còn tiếp Bài sau: 2/ CẤU TRÚC HÌNH THỂ TÒA NHÀ. 2.2/ Cấu trúc hình thể phần đế của tòa Hành Chính Đà Nẵng.
    1 like
  18. Anh chị em đăng ký học Địa Lý phong thủy Lạc Việt thân mến. Trước hết tôi chân thành cảm ơn anh chị em quan tâm và đăng ký học lớp này. Hiện nay, tôi cũng đang hết sức cố gắng biện soạn giáo trình của ngành học này. Tôi đang sưu tầm, tập hợp các bài giảng của tôi từ khi mở khóa đầu tiên đến nay, kết hợp với những kiến thức sách vở và nghiên cứu thực nghiệm gần 15 năm làm phong thủy của tôi. Hiện khối lượng kiến thức khá đồ sộ. Tôi hy vọng rằng có thể truyền lại những kiến thức này một cách hoàn hảo nhất, trong ứng dụng của ngành Địa lý phong thủy Lạc Việt đến với anh chị em. Tôi đang cố gắng nhanh nhất có thể, để khai giảng lớp này nhanh nhất. Rất mong anh chị em hãy vui lòng chờ.
    1 like
  19. Mỹ làm gì nếu Trung Quốc ra tay ở Biển Đông vào tháng tới? Thanh Minh (tổng hợp) Thứ Hai, ngày 15/08/2016 16:30 PM (GMT+7) (Dân Việt) Trung Quốc dường như đang chuẩn bị kỹ các kế hoạch hành động gia tăng căng thẳng trên Biển Đông sau hội nghị G-20, nhưng giới chuyên gia nhận định, thời điểm đó, Mỹ hầu như khó xoay xở. Nhìn lại cách Trung Quốc đối phó với phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông, điểm xuất phát cơ bản là sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh, bố trí lực lượng quân sự lớn tại khu vực Biển Đông, sẵn sàng tác chiến, nhằm vào tàu sân bay của Mỹ, đặc biệt lực lượng tên lửa của Trung Quốc còn phô trương vũ khí sát thủ tàu sân bay. Trang mạng National Interest ngày 15.8 nhận định, nếu như Trung Quốc đang ủ mưu thay đổi hoàn toàn hiện trạng của Biển Đông bằng cách tiếp tục ngang ngược cải tạo bãi cạn Scarborough, có khả năng kế hoạch này sẽ được tiến hành vào khoảng đầu tháng 9 đến ngày 8.11. Đây là khoảng thời gian sau Hội nghị Thượng đỉnh G-20 tổ chức tại Trung Quốc và trước khi cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra. Trước đó, ngày 13.8, tờ South China Morning Post (SCMP) cũng trích dẫn một nguồn tin tin cậy, cho biết Bắc Kinh sẽ không thực hiện bất kỳ công việc cải tạo nào trên bãi cạn cho đến khi Hội nghị G-20 được tổ chức vào tháng tới và sẽ bắt đầy xây dựng trước khi Mỹ bỏ phiếu Tổng thống. Tuy vậy, giới phân tích cho rằng, nếu Trung Quốc ra tay ở thời điểm đó, Mỹ sẽ không thể có hành động quyết liệt ngay với Trung Quốc vào thời điểm này. Nguyên nhân hàng đầu đó là kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ đang bước vào giai đoạn nước rút với cuộc đua rất khó đoán định giữa bà Hillary Clinton và ông Donald Trump. Hiện cả hai ứng cử viên đều muốn tranh thủ lá phiếu của cộng đồng Hoa kiều tại Mỹ. Do đó, Chính quyền Obama sẽ không dám hành động mạnh vì không muốn để mất số phiếu này, hoặc chí ít không để đảng đối lập lợi dụng lôi kéo. Thứ hai, nền kinh tế và chính trị Mỹ đang bị Trung Quốc và cộng đồng Hoa kiều chi phối một phần. Trong nhiều năm qua, người Mỹ gốc Hoa và giới tỷ phú Trung Quốc đã chen chân được vào nhiều tập đoàn lớn của Mỹ. Họ có những ảnh hưởng nhất định đối với giới hoạch định chính sách ở cả cấp bang và liên bang. Tương tự, giới chính trị gia ở Trung Quốc cũng có rất nhiều kênh liên lạc và tác động tới các chính trị gia Mỹ. Ngược lại, Mỹ hầu như không thể chi phối hoặc tác động mạnh tới nền chính trị Trung Quốc. Những tác động ngầm đối với kinh tế cũng không nhiều. Trong tình hình Biển Đông hiện nay, Chính quyền Obama (của đảng Dân chủ) và Quốc hội (của đảng Cộng hòa) khó đi đến thống nhất phương thức hành động, ít nhất cho tới sau khi biết kết quả bầu cử Tổng thống vào tháng 11 tới. Ngoài ra, nếu Mỹ-Trung thực sự đối đầu, Mỹ sẽ có nguy cơ đánh mất vị thế siêu cường thế giới và sức mạnh trước Nga, Trung Quốc. Bất kỳ cuộc đối đầu nào giữa Mỹ với Trung Quốc cũng sẽ tạo điều kiện cho Nga, một đối thủ nguy hiểm khác của Mỹ, trỗi dậy. Mỹ hiện rất lo ngại việc Nga-Trung bắt tay nên sẽ không quá cứng rắn với bất cứ bên nào để tránh đẩy hai bên xích lại gần nhau hơn. Như vậy, có thể thấy Mỹ hiện rất khó có thể đưa ra quyết sách hành động mạnh với Trung Quốc tại thời điểm này. Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng, càng cố tỏ ra là một đất nước phớt lờ luật pháp, ỷ lớn hiếp bé, Trung Quốc sẽ tự họ làm tổn hại nghiêm trọng đến hình ảnh và uy tín của đất nước mình trên trường quốc tế. Hơn nữa, dù Mỹ có thể không thể phản ứng mạnh ở thời điểm hiện tại, thì Mỹ cũng không bỏ qua những hành động của Trung Quốc làm ảnh hưởng đến an toàn, an ninh hàng hải trên Biển Đông, ảnh hưởng đến lợi ích nước Mỹ và chiến lược “xoay trục” của Mỹ. Một số nhà phân tích cho rằng, phản ứng của Mỹ và hành động của Trung Quốc như thế nào chưa thể nói cụ thể, song điều dễ đoán định nhất là mùa Thu này, Biển Đông sẽ không yên ả. ======================== Tháng tới tức là tháng 8 Âm lịch đấy! Thời gian đó, lão Gàn còn phải thưởng thức bánh Trung Thu đặc sản cao cấp với trà Thái Nguyên loại xịn nhất. Bởi vậy, chưa wan tâm lắm. Nhưng sau tháng đó tức là tháng 9 Âm lịch đấy. Lão nói trước lâu rùi nha: Chỉ bảo kê đến giữa tháng 9. Tức là sang ngày 16/ 9 Bính Thân Việt lịch - Gõ cái beng! Hết giờ chơi của Lọ Lem. Nếu Bắc Kinh chiển bị quậy tưng ở bể Đông vào tháng 8 thì lão Gàn đây quảng cáo rằng: Trong tháng 8 không có ngày tốt để động thổ. Năm nay động thổ hướng Đông Nam (so với Trung Quốc) là điều tối kỵ. Hãy đợi đấy!
    1 like