• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 11/08/2016 in all areas

  1. Cảm ơn Thời báo Hoàn Cầu nhắc Việt Nam ghi nhớ bài học lịch sử Hồng Thủy 16:49 11/08/16 (GDVN) - Đừng một thế lực nào ảo tưởng Việt Nam sẽ đánh đổi độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc lấy "tình hữu nghị viển vông". Xung quanh việc hãng thông tấn Reuters ngày 10/8 dẫn một số nguồn tin quan chức quốc phòng, ngoại giao phương Tây nói rằng, Việt Nam kéo một số bệ phóng tên lửa ra Trường Sa, Thời báo Hoàn Cầu đã có 2 bài xã luận. Bản tiếng Anh của Thời báo Hoàn Cầu ngày 11/8 có bài xã luận với tiêu đề: "Kiềm chế là rất quan trọng để tránh cuộc khủng hoảng mới ở Biển Đông", trong đó đưa ra một số thông điệp đến Việt Nam. [1] Người Việt Nam không bao giờ quên bài học lịch sử Xã luận Thời báo Hoàn Cầu bản tiếng Anh hôm nay viết: "Bộ Ngoại giao Việt Nam đã khẳng định thông tin về các bệ phóng tên lửa mà Reuters đề cập là không chính xác. Chúng tôi hy vọng rằng thông tin này chỉ là suy đoán của truyền thông phương Tây. Vụ kiện trọng tài quốc tế về Biển Đông đã thất bại trong việc tạo ra kết quả như phương Tây mong muốn. Hậu phán quyết, Manila và Bắc Kinh đã khởi động lại các cuộc đàm phán song phương để sửa chữa mối quan hệ đã bị bầm dập. Chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam luôn chắc tay súng bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích hợp pháp của Tổ quốc, ảnh minh họa: Internet. Có thể thấy rằng phương Tây sẽ không dễ dàng từ bỏ sử dụng phán quyết trọng tài làm đòn bẩy tiếp tục gây áp lực lên Trung Quốc và thúc đẩy căng thẳng gia tăng trong khu vực. Các bên liên quan cần cảnh giác với chiến thuật của phương Tây. Nếu hoạt động triển khai mới nhất của Việt Nam là nhằm vào Trung Quốc thì đó sẽ là một sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi hy vọng Việt Nam sẽ ghi nhớ và rút ra một số bài học từ lịch sử." Cá nhân người viết thấy rằng mình cần phải cảm ơn lời nhắc của Thời báo Hoàn Cầu và cũng xin thưa lại với Thời báo Hoàn Cầu, người Việt Nam không bao giờ quên những bài học từ lịch sử với hàng ngàn năm chống chiến tranh xâm lược và âm mưu thôn tính của ngoại bang. Người Việt Nam đã trải qua quá nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và hơn ai hết, Việt Nam hiểu giá trị của hòa bình. Việt Nam nhất quán chủ trương và luôn nỗ lực tìm cách giải quyết mọi tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng không vì thế mà để bất kỳ ai lấn lướt, áp đặt. Bởi giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh! Người Việt Nam luôn trân trọng tình hữu nghị và mong muốn chung sống hòa bình với các dân tộc khác trong khu vực, bao gồm dân tộc Trung Hoa. Nhưng đừng một thế lực nào ảo tưởng Việt Nam sẽ đánh đổi độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc lấy "tình hữu nghị viển vông". [2] Về thông tin của hãng Reuters, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có trả lời chính thức, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng đã bảo lưu quyền tự vệ chính đáng, quyền phòng thủ bảo vệ lãnh thổ quốc gia trước bất kỳ thế lực ngoại xâm nào. Thời báo Hoàn Cầu khuyến nghị: "Các bên liên quan trong khu vực cần phải cảnh giác với chiến thuật của phương Tây", thì người viết cũng xin lưu ý rằng, mọi thông tin về các động thái diễn biến mới ngoài thực địa Biển Đông lâu nay hầu như đều xuất phát từ Hoa Kỳ với thời điểm, bối cảnh công bố thông tin một cách có tính toán. Nhận định của Reuters mà xã luận Thời báo Hoàn Cầu dẫn lại rằng: "Các bệ phóng được cho là có khả năng tấn công đường băng Trung Quốc (xây dựng bất hợp pháp ở Trường Sa) và các tuyến đường thương mại quan trọng trong khu vực" cũng đến từ các học giả phương Tây. Do đó thiết nghĩ, chính Thời báo Hoàn Cầu và Trung Quốc cũng nên thận trọng khi xem xét các thông tin này. Còn phán quyết trọng tài vụ kiện Biển Đông là của một cơ quan tài phán có thẩm quyền, Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 ban hành về việc ứng dụng, giải thích UNCLOS 1982 ở Biển Đông. Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và các thành viên UNCLOS 1982 có liên quan đều có nghĩa vụ thi hành. Bản thân Trung Quốc cũng đã có đóng góp nhiều vào việc xây dựng Công ước này, đừng vì những cái lợi bất chính trước mắt mà hất đổ tất cả. Thời báo Hoàn Cầu nói gì với người dân Trung Quốc? Bản tiếng Trung Quốc của Thời báo Hoàn Cầu hôm nay đăng bài: "Xã luận: Tên lửa Việt Nam ra Trường Sa không nên làm Trung Quốc quá phân tâm." [3] Phương Tây đưa thông tin Việt Nam bố trí bệ phóng tên lửa ra Trường Sa, thì cũng chính phương Tây công bố hình ảnh mới nhất về các nhà chứa máy bay chiến đấu Trung Quốc xây dựng ở Chữ Thập. Ảnh: CSIS, Việt hóa nội dung chú thích: Vnexpress. Ngoài ra, mục Quốc tế bản tiếng Trung Quốc của Thời báo Hoàn Cầu có bài tổng hợp của phóng viên thường trú báo này từ Việt Nam, Singapore với tiêu đề: "Việt Nam bí mật bố trí tên lửa ở Trường Sa, tầm bắn bao trùm 3 đảo (nhân tạo) Trung Quốc (chiếm đóng bất hợp pháp)". [4] Nội dung và lời lẽ bài xã luận và bài tổng hợp này trên bản tiếng Trung Quốc khác hẳn với bài xã luận trên phiên bản tiếng Anh. Khác với thái độ tương đối kiềm chế và chừng mực trong xã luận bản tiếng Anh, bài xã luận bản tiếng Trung Quốc tìm mọi cách chứng minh thông tin của Reuters là thật, rồi vu cho Việt Nam vi phạm DOC. Vấn đề DOC và quyền phòng thủ chính đáng của Việt Nam ở Trường Sa đã được người viết phân tích nên xin không nhắc lại ở đây. Chỉ xin đưa ra một số nội dung đáng chú ý trong bài xã luận viết cho người Trung Quốc để bạn đọc tham khảo. Thời báo Hoàn Cầu viết: "Hành động của Việt Nam hiển nhiên uy hiếp an toàn các đảo Trung Quốc chiếm đóng, nhưng trong giai đoạn này chúng ta cần làm rõ, áp lực lớn nhất Trung Quốc đang phải đối mặt ở Biển Đông đến từ Hoa Kỳ. Bắc Kinh nên cảnh giác với nhất cử nhất động của Hà Nội ở Trường Sa, nhưng chúng ta hiện nay không nên làm nóng cục diện căng thẳng quân sự Trung - Việt ở Trường Sa, tránh đi hướng đối đầu mới, mà nên tập trung chú ý vào thách thức chủ yếu. Trung Quốc nên tự tin rằng không có bất kỳ bên nào dám có hành động với các đảo (nhân tạo). Biển Đông là một bàn cờ vây, mỗi một con cờ đơn phương của bên nào đó đều không nên xem xét nó một cách độc lập. Cạnh tranh quân sự chỉ là một mặt của vấn đề Biển Đông. Hơn nữa "chiến trường chủ yếu" ở Biển Đông chưa chắc đã chỉ giới hạn trong phạm vi địa lý ven Biển Đông. Là một người chơi chính, Trung Quốc cần phải quan sát để ý toàn cục và kiểm soát chặt các trọng điểm. Mỹ - Việt đều có năng lực uy hiếp an toàn các đảo Trung Quốc chiếm đóng ở mức độ khác nhau, và cũng đều không dễ dàng sử dụng chúng. Nhưng uy hiếp của Mỹ có thể chuyển hóa thành các sức mạnh và thủ đoạn khác nhau để gây áp lực lên Trung Quốc, duy trì thái độ với Trung Quốc của chính Mỹ và các đồng minh, gây ra các khó khăn cho Trung Quốc trong thực tế.Còn uy hiếp từ phía Việt Nam thì không mang tính cơ động chiến lược như Hoa Kỳ, mà nó chủ yếu là vấn đề của quan hệ Trung - Việt, nằm trong phạm vi quan hệ chính trị Trung - Việt có thể kiểm soát được. Ngoài ra, Việt Nam "quân sự hóa" các đảo chỉ càng tạo cớ cho Trung Quốc đẩy mạnh việc bố trí vũ khí khí tài quân sự ra các đảo. Biển Đông là một khu vực có tác động qua lại giữa các bên nên rất nhiều xu hướng hay động thái chưa chắc đã là chuyện lợi - hại mang tính tuyệt đối với Trung Quốc. Được hay mất của Trung Quốc cuối cùng quyết định bởi khả năng và chất lượng phản ứng của chúng ta với hành động của các bên. Khách quan mà nói, bánh răng nhỏ của vấn đề Biển Đông luôn ăn khớp, ngậm chặt bánh răng lớn của lợi ích nước lớn, lợi và hại có thể chuyển hóa cho nhau." Người viết xin không bàn về những bình luận của Thời báo Hoàn Cầu trong bài xã luận và tổng hợp bằng tiếng Trung Quốc xuất bản hôm nay, chỉ xin đưa một số nội dung đáng chú ý để bạn đọc tham khảo. Qua đó có thể thấy rằng, khi tiếp cận với những thông tin, bình luận về các diễn biến mới trên Biển Đông cần có cái nhìn toàn cục, tỉnh táo và dùng luật pháp quốc tế làm căn cứ để xác định các thông điệp, ý đồ và thủ đoạn của các bên. Chạy theo những bình luận mang màu sắc cảm xúc, kích động dù từ bất kỳ phía nào thiết nghĩ đều không phải là lựa chọn tốt cho chúng ta, cho lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc cũng như hòa bình, ổn định của khu vực. Hoa Kỳ hay Trung Quốc đều có lợi ích và mục đích của riêng họ khi đưa ra những thông tin và bình luận về Biển Đông. Những thông tin và bình luận ấy có lợi hay có hại cho Việt Nam phụ thuộc vào chính cái đầu lạnh và trái tim nóng của mỗi người Việt, bởi không thận trọng là có thể bị đối phương "định hướng" bất cứ lúc nào. Tài liệu tham khảo: [1]http://www.globaltimes.cn/content/999722.shtml [2]http://baochinhphu.vn/Tieu-diem/Thu-tuong-Nguyen-Tan-Dung-tra-loi-phong-van-bao-chi-nuoc-ngoai/200027.vgp [3]http://opinion.huanqiu.com/editorial/2016-08/9292218.html [4]http://world.huanqiu.com/exclusive/2016-08/9292487.html Hồng Thủy ======================== Đến "giai đoạn này" mới biết "áp lực lớn nhất Trung Quốc đang phải đối mặt ở Biển Đông đến từ Hoa Kỳ" à?! Lão đây biết lâu rùi nhá. Biết từ lúc Hoa Kỳ chưa tuyên bố "Không đứng về bên nào trong tranh chấp biển Đông" ý nhá. Điếu mựa! Ngu thì chết. Mà chết chắc cũng chưa hết ngu.
    3 likes
  2. Trung Quốc: Tướng quân đội dâng con gái cho cấp trên làm tình nhân Hoàng Hà | 10/08/2016 21:22 ` Để thăng quan phát tài, Cốc Tuấn Sơn đã dâng con gái cho Từ Tài Hậu và ngồi ngoài cửa đợi trong khi cấp trên “ngấu nghiến” con đẻ của mình. Cốc Tuấn Sơn (trái) và Từ Tài Hậu. Ảnh: Internet Website của tờ "Đông phương nhật báo" (nhật báo có lượng phát hành lớn nhất Hong Kong, Trung Quốc) chiều 10/8 cho hay vào tháng trước, Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Lưu Á Châu có bài phát biểu tại Đại học Quốc phòng. Sau đó, toàn văn bài phát biểu vốn chỉ được đăng tải trong mạng nội bộ của quân đội nước này đã bị tiết lộ ra bên ngoài. Trong bài diễn thuyết được nhiều cơ quan truyền thông bằng tiếng Hoa bên ngoài Trung Quốc đăng tải, tướng Lưu tiết lộ nguyên Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Từ Tài Hậu ban đầu là người rất thận trọng và sợ gây ra chuyện, nhưng sau đó dần dần biến chất, trở thành kẻ không còn cốt cách, linh hồn, mất hết nguyên tắc của người đảng viên. Khi Từ Tài Hậu tới Quân khu Tế Nam làm Chính ủy, Cốc Tuấn Sơn giữ chức Cục trưởng Cục Sản xuất quân khu, kiên trì tới nhà khách xin gặp Từ Tài Hậu, cuối cùng đã làm Từ Tài Hậu mủi lòng. Sau này, để thăng quan tiến chức, ngoài việc mang ngôi sao ca nhạc, minh tinh màn bạc… cúng tiến cho Từ Tài Hậu, Cốc Tuấn Sơn còn dâng con gái cho cấp trên của mình. Và điều khiến tướng Lưu "kính phục" hơn là trong khi Từ Tài Hậu và con gái mây mưa trong phòng, Cốc Tuấn Sơn vẫn ngồi bên ngoài đợi. Lần cuối cùng Cốc Tuấn Sơn tới gặp xin Từ Tài hậu giúp, Từ Tài Hậu nói: "Anh đã làm tôi mất hết uy tín trong toàn quân rồi". Khi đó, Cốc Tuấn Sơn chẳng nể mặt nói thẳng: "Anh thì có uy tín gì!" rồi quay gót bỏ đi. Theo Phoenix Weekly, Cốc Tuấn Sơn là tâm phúc của Từ Tài Hậu tại Tổng cục Hậu cần, làm tới chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, mang quân hàm Trung tướng. Khi Cốc Tuấn Sơn lọt vào tầm ngắm của Tổng cục Hậu cần và Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Quân đội hồi đầu năm 2012, thông tin về việc Từ Tài Hậu có liên quan đến một số vụ án tham nhũng đã lan truyền khắp quân đội. Tháng 3/2014, Trung Quốc bắt đầu điều tra Từ Tài Hậu, 3 tháng sau thì khai trừ Từ Tài Hậu khỏi Đảng Cộng sản rồi tước quân tịch của nhân vật này. Ngày 15/3/2015, Từ Tài Hậu qua đời vì ung thư bàng quang. Hôm sau, website tờ Quân Giải phóng của Trung Quốc đăng một bài xã luận nói cái chết của Từ Tài Hậu đánh dấu sự kết thúc của một "cuộc đời đáng hổ thẹn và khinh bỉ". Đối với Cốc Tuấn Sơn, Tân Hoa xã cho hay ngày 10/8/2015, tòa án binh đã tuyên án tử hình, nhưng hoãn thi hành án 2 năm đối với nhân vật này vì phạm tội tham ô, nhận hối lộ, sử dụng ngân sách nhà nước sai mục đích và lạm dụng quyền lực. Cựu thủ lĩnh tình báo Mỹ muốn giết người Nga và người Iran theo Báo tin tức ======================== Một sự rệu rã đến tận cùng. Ngài Tập Cận Bình không đủ khả năng để cứu vãn. Trung Quốc không phải chủ nhân đích thực của Lý học Đông phương. Điều này lão cũng đã nói lâu rồi, ngay trong topic này.
    2 likes
  3. GÓP PHẦN GIẢI MÃ DI CẢO CỦA SỬ GIA TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG Tác giả: Hà Văn Thùy Không biết có phải vì tôi ba lần “thưa chuyện” với ông mà trong Di cảo, sử gia họ Tạ cũng ba lần nhắc tới tôi. Thực lòng, khi thưa chuyện với ông, tôi chỉ muốn cung cấp những phát hiện lịch sử mới để mong rằng với danh tiếng của mình, ông giúp bạn đọc nhìn nhận lại lịch sử. Thật buồn, do “không có duyên” nên trong Di cảo, ông vẫn băn khoăn trăn trở đẩy những cánh cửa… mở. Nay ông đã thành người thiên cổ. Mọi chuyện luận bàn với ông là vô nghĩa, nhưng thể theo lời đề nghị chí tình của Diễn Đàn Thế Kỷ*, tôi xin mạo muội góp phần giải mã những “u ẩn” của người đã khuất. Có thể dẫn ra những “u ẩn”nổi cộm trong Di cảo như sau: 1. Về Hồng Bàng thị truyện. Tài liệu truyền thống cho rằng, truyện họ Hồng Bàng vốn được lưu truyền từ xa xưa trong ký ức người Việt. Tới đời Trần được ghi lại trong Lĩnh Nam chích quái. Nhưng L. Kelley dựa vào việc những biến thể của câu chuyện có mặt trên đất Trung Hoa như Liễu Nghị truyện hay trong Hoa Dương Quốc chí nên cho rằng, vào thời Trung đại, những trí thức người Việt được Hán hóa đã sao chép câu chuyện đó vào LNCQ để tô vẽ cội nguồn dân tộc Việt. Ông Tạ Chí Đại Trường ủng hộ quan điểm này. Tuy nhiên, có thể thấy, khi làm việc đó, Kelley đã thực hiện một thao tác suy luận theo logic hình thức đơn giản, chỉ dựa trên sách vở mà bỏ qua sự thực lịch sử. Ông không biết rằng, trong quá khứ, dân cư từ Nam Dương Tử xuống tới Việt Nam đều là người Việt, cùng một chủng tộc, cùng tiếng nói, văn hóa, cùng chung một lịch sử. Từ năm 1936, khảo cổ học Trung Quốc phát hiện di chỉ văn hóa Lương Chử vùng Thái Hồ.[1] Sau nhiều năm khảo cứu, đã kết luận, có một nhà nước cổ đại tồn tại từ 3.300 – 2.200 năm TCN, mà kinh đô là Lương Chử, còn ranh giới gần khớp với địa giới nước Xích Quỷ truyền thuyết. Chủ nhân nhà nước này là người Việt cổ. Những vật khắc bằng ngọc cho thấy, dân cư Lương Chử được gọi là Vũ nhân (羽人)hay Vũ dân (羽民). Điều này cho thấy có mối liên hệ với chim, với Hồng Bàng (洪龐).Khám phá trên cho ta lý do để kết nối nhà nước Lương Chử với nhà nước Xích Quỷ huyền thoại. Như vậy, Xích Quỷ là một thực thể quốc gia từng tồn tại. Câu chuyện Lạc Long Quân lấy tiên nữ con Động Đình Quân đã trở thành truyền thuyết mang ý nghĩa cội nguồn của người dân trong nước. Khi Xích Quỷ tan rã, dân cư sống trên đất cũ Chiết Giang, Vân Nam và Việt Nam vẫn giữ truyền thuyết Hồng Bàng thị như dấu ấn của nguồn cội. Về sau, truyện dân gian được ghi vào sách. Do không hiểu quá trình lịch sử này, L. Kelley chỉ căn cứ vào biên giới quốc gia hiện tại mà chia tách người Việt Nam và người Trung Quốc trong quá khứ một cách khiên cưỡng. Sai lầm của Kelley thuộc về trình độ học thuật. Tiếc là sử gia họ Tạ hiểu lịch sử dân tộc không khác gì người ngoài! [2] 2. Trong Di cảo, ông Tạ Chí Đại Trường dành nhiều câu chữ phủ định Hùng vương và thời kỳ Hùng vương trong lịch sử. Muốn biết tổ tiên người Việt là ai cần phải biết quá trình hình thành của người Việt trong lịch sử. Khảo cổ học cho thấy, suốt thời đồ đá, dân cư trên đất nước ta thuộc chủng Australoid. Nhưng sang thời kỳ kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở nên chủ thể của dân cư Việt Nam. Tại nhiều di chỉ thời Phùng Nguyên phát hiện di cốt của người Australoid lẫn người Mongoloid. Đặc biệt tại di chỉ Mán Bạc tỉnh Ninh Bình có tuổi 2000 năm TCN, tìm được nghĩa địa chôn chung 30 di hài của hai chủng người này. Các nhà khảo cổ Việt-Úc đưa ra kết luận: “Trên đất Việt Nam có quá trình chuyển hóa dân cư từ người Australoid sang chủng Mongoloid phương Nam và được hoàn thành khoảng 2000 năm TCN.” Phát hiện này cho thấy, có việc người Mongoloid từ nơi khác tới, chung sống lâu dài, đã chuyển hóa di truyền của người Việt từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Như vậy, đây là việc “diễn biến hòa bình” mà không phải là “xâm lăng diệt chủng” như người Arian thực hiện ở Ấn Độ 2000 năm TCN. Câu hỏi thứ hai: người Mongoloid từ đâu tới? Do suốt thời đồ đá, ở Đông Nam Á có duy nhất người Australoid sinh sống nên người Mongoloid phương Nam chỉ có thể từ phương Bắc xuống. Khảo cổ học xác nhận, người Mongoloid phương Nam xuất hiện đầu tiên tại văn hóa Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước. Đó là sản phẩm hòa huyết giữa người du mục Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid) và người Việt chủng Australoid ở Nam Hoàng Hà. Người Ngưỡng Thiều tăng nhân số, trở thành chủ thể của lưu vực Hoàng Hà, là chủ nhân của đồng bằng Trong Nguồn và vùng Thái Sơn. Khoảng 4.000 năm TCN, tại đây xuất hiện các vị vua huyền thoại của người Việt là Phục Hy, Nữ Oa. Khoảng 3.300 năm TCN, nhà nước của Thần Nông ra đời mà kinh đô tại Lương Chử vùng Thái Hồ. Khoảng năm 2879 TCN, kế tục quốc thống của Thần Nông, nhà nước Xích Quỷ ra đời. Thời gian này người Mông Cổ du mục tăng cường đánh phá phía nam Hoàng Hà. Trong trận Trác Lộc năm 2698 TCN, liên quân Việt của Lạc Long Quân và Đế Lai thất bại. Lạc Long Quân dùng thuyền đưa đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà, ra biển, đổ bộ vào Nghệ An. Như truyền thuyết và Ngọc phả Hùng vương ghi nhận, đoàn người của Lạc long Quân được người bản địa đón tiếp và tôn Hùng vương làm vua nước Văn Lang. Trong tiếng Việt cổ, bố -> bua -> vua cùng có nghĩa là cha. Khi người dân tôn Hùng vương làm vua cũng có nghĩa coi ngài là cha rồi thành tổ chung của cộng đồng. Cố nhiên, không phải vua Hùng sinh ra tất cả mà những người Mongoloid di cư trở về lai với người tại chỗ sinh ra người Mongoloid trên đất Nghệ An. Không chỉ vậy, những đợt di cư tiếp theo, người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái- Trong Nguồn, từ vùng Động Đình Hồ trở về hòa huyết với dân nhiều nơi khác, tiếp tục sinh ra người Mongoloid phương Nam. Cho tới khoảng 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư Việt Nam thành chủng Mongoloid phương Nam. Tất cả đều coi người di cư về đầu tiên Lạc Long Quân và Hùng vương là quốc tổ. Do vậy, không chỉ người Kinh mà tất cả các tộc người trên đất Việt Nam mang mã di truyền Mongoloid phương Nam đều là con cháu vua Hùng. Cùng nhận được nguồn gen Mongoloid từ con cháu vua Hùng thì việc người Tây Nguyên, người Khmer Nam Bộ thờ vua Hùng có gì là trái lẽ? [2] Nếu ai để ý, sẽ thấy hiện tượng là, trong cổ tích về cội nguồn của các sắc dân thiểu số phía Bắc như người Dao, Mường… đều cho rằng, người Kinh là con út. Trong khi đó, cổ tích nhiều sắc dân Tây Nguyên lại gọi người Kinh là anh cả. Phải chăng điều này phản ánh thực tế phát sinh dòng giống từ xa xưa đã in sâu trong ký ức cộng đồng? 3. Chuyện “người Việt vào Trung Hoa trước” Không hiểu vì sao, cho đến nay ông Tạ Chí Đại Trường vẫn căng thẳng với cụ Kim Định về ý tưởng “người Việt vào Trung Hoa trước”? Nói cho cùng, đó đâu phải là hư cấu của Kim Định? Chính là ông dựa vào sách của hai học giả Trung Quốc Vương Đồng Linh và Chu Cốc Thành. Không những thế, cho tới năm 1924, trong một bài giảng cho đảng viên cao cấp của Quốc dân đảng, Tôn Dật Tiên cũng cho rằng, khi người Trung Quốc từ phía Tây xâm nhập, họ đã gặp những người man di ở đây rồi. Không chỉ vậy, tới năm 2005, học giả Trung Quốc Zhou Jixu cũng cho rằng, khi người Trung Quốc Indo-Europian từ phía Tây vào thì họ là khách, chiếm vị trí người chủ đã sống ở đó từ trước. Đấy là chuyện sách vở. Nhưng sự thực lịch sử còn đẹp hơn mong ước của Kim Định: đúng là người Việt vào Trung Quốc trước nhưng không phải từ Nam Thiên Sơn xuống mà lại từ Việt Nam lên. Do vậy, thuyết Việt nho của Kim Định càng có cơ sở vững chắc. [3] 4. Về chuyện “người Lê Mường”, “Trịnh Lào” Trong Di cảo, ông Tạ cho rằng, khi nhấn mạnh vai trò nam tiến của người Việt, người cộng sản bỏ qua vai trò của 53 cộng đồng khác! Có một thực tế: Sử học là khoa học nghiên cứu hoạt động xã hội của con người trong quá khứ. Do vậy, điều tiên quyết cho thành công của Sử học là phải xác định được đối tượng nghiên cứu. Nếu không xác định đúng đối tượng nghiên cứu: một tập đoàn người, một chủng tộc, một quốc gia đang nghiên cứu là ai, có nguồn gốc thế nào và có quá trình hình thành ra sao, mọi nghiên cứu cầm chắc thất bại. Nhưng đó lại là công việc của Nhân học. Sử học là cái nghề ăn theo bén gót Nhân học. Thật không may, Nhân học thế kỷ XX chỉ dựa vào những hòn đá, những mẩu xương hóa thạch nên thất bại trong việc khảo cứu nguồn gốc loài người cũng như các tộc người. Do vậy, suốt thế kỷ trước, các sử gia luôn nói về người Việt, người Hoa, người Mường, người Lào, người Thái… nhưng thực sự chẳng hiểu họ là ai nên hầu hết chỉ là nói mò! Jared Diamond, nhà nhân học danh tiếng nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Giờ không còn là lúc chơi với những mẩu xương và những hòn đá nữa. Những gì thuộc về con người mà chưa được di truyền học xác nhận thì không đáng tin.” Chỉ sang kỷ nguyên mới, khi công nghệ di truyền vào cuộc, ta mới có hiểu biết minh xác về các chủng người. Tuy Việt Nam chưa bỏ đồng xu nhỏ cho việc này nhưng do đất Việt là nơi phát tích của dân cư châu Á nên nhiều nghiên cứu di truyền học đề cập tới dân cư Việt Nam. Những tài liệu đó cho thấy rằng, 2000 năm TCN, toàn bộ dân cư trên đất Việt Nam đều thuộc chủng (race) Mongoloid phương Nam. Người Kinh, người Mường, người Thái, Người Tày, người Dao… chỉ là những sắc tộc (ethnicity) của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay chúng ta vẫn lầm khi cho rằng, đồng bằng sông Hồng là nơi phát tích của dân tộc Việt Nam. Sự thực là, muộn nhất thì 50.000 năm trước, tổ tiên chúng ta đã định cư tại vùng Thanh Nghệ rồi lan ra toàn Đông Dương và đất Trung Hoa. Khoảng 500 năm TCN, khi đồng bằng sông Hồng hình thành, người Việt từ phía bắc Đông Dương và Nam Dương Tử kéo về khai phá đất mới. Do cùng nòi giống, tiếng nói và văn hoá nên con người sống với nhau hòa hợp. Nhờ điều kiện môi trường sống thuận lợi, cộng đồng dân cư đồng bằng ra đời, được gọi là người Kinh. Như vậy, người Kinh là lứa con út của dân tộc Việt. Người Việt vốn do người Lạc Việt đa số lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ nên tiếng nói chung là đa âm, vô thanh. Do người Việt từ Trung Quốc trở về như người Thái, Tày, người Hẹ (Hakka) mang theo tiếng nói đơn âm, hữu thanh nên người đồng bằng dần dần chuyển sang tiếng nói đơn âm hữu thanh. Cũng do suốt quá trình lịch sử dài, người từ Nam Dương Tử trở xuống thuộc cùng chủng tộc, cùng văn hóa, cùng quốc gia nên việc di chuyển của con người trong một nước là chuyện bình thường. Vì vậy, dòng chuyển dịch của người Việt từ phía bắc về diễn ra lâu dài. Sau này, dù quốc gia chia ranh giới nhưng máu huyết và văn hóa giữa con người không dễ phân lìa. Người Việt từ Trung Quốc như tổ tiên của Lý Bôn, thân phụ Đinh Bộ Lĩnh, nhà Lý, nhà Trần… trở về sinh sống, xây dựng đất Việt- mảnh đất cuối cùng còn tự chủ của tộc Việt- là xu hướng tất yếu của tâm linh và lịch sử…[4] 5. Ai là chủ của thơ lục bát? Dẫn việc nhà văn Võ Phiến “buột miệng” nói rằng, thơ lục bát là của người Chăm, ông Tạ khơi ra cuộc tranh chấp “bản quyền” thơ lục bát giữa người Chăm và người Kinh. Thực ra, không chỉ ở người Chăm mà trong nhiều câu ca của người Mường, người Dao cũng có bóng dáng của thơ lục bát. Vấn đề này cần được tìm hiểu sâu hơn. Ta biết rằng, người Việt từ xa xưa có thói quen hay hát, múa: hát Ghẹo, hát Xoan, hát Đối, hát Đúm… Ngoài âm nhạc cho mỗi loại hình ca hát mà chủ đạo là nhịp tương đối cố định thì lời bài hát lại rất thay đổi, linh động tùy theo hoàn cảnh. Vì vậy, sáng tạo lời cho bài hát là cuộc đua trường kỳ giữa trai tài gái sắc trong lễ hội hay những cuộc vui. Từ kinh nghiệm hàng nghìn năm của cuộc đua này, người Việt nhận ra, những bài vè lần lượt 6 tiếng rồi 8 tiếng nối nhau theo vần chân hay vần lưng rất dễ chuyển thành những bài hát theo các điệu khác nhau. Do vậy, dần dần thể vè 6-8 ra đời. Cố nhiên thời đó ngôn ngữ đa âm, vô thanh nên số tiếng trong mỗi câu ca không cố định, thường nhiều hơn 6-8. Những bài vè như vậy trở thành tài sản chung của cộng đồng Lạc Việt. Bài ca lục bát được ghi lại sớm nhất là Việt nhân ca trong sách Thuyết uyển 2800 năm trước. Đó là bài ca của người người Việt chèo thuyền cho vị quân vương nước Sở. Cảm vì lời ca hay nhưng mình không hiểu, vị quân vương yêu cầu dịch sang tiếng Sở. Nhờ vậy bài ca được ghi lại bằng chữ Sở. Sau này được sao lại bằng chữ Hán trong sách Thuyết uyển. Hơn 2000 năm qua đi, bài ca thở thành quốc bảo của Trung Hoa nhưng không ai hiểu đúng nghĩa của nó. Chỉ mới đây, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành phục nguyên bài ca trở lại tiếng Việt thì phát hiện ra đó là bài thơ lục bát. [5] Điều này chứng tỏ, thơ lục bát là tài sản chung của các bộ tộc người Việt từ xa xưa. Đến nay một số sắc dân vẫn giữ được hình thức thơ này nhưng thể hiện bằng ngôn ngữ đa âm của mình. Trong khi đó, nơi người Kinh, do tiếng nói được đơn âm hóa triệt để cùng với thanh điệu phong phú, nói như hát nên người Kinh sáng tạo được những câu ca lục bát có vần điệu tuyệt vời mà đỉnh cao là Truyện Kiều. . Sài Gòn, 28.5.2016 *www.diendantheky.net/.../di-cao-cua-nha-su-hoc-ta-chi-ai-truong.html Tài liệu tham khảo 1. Hà Văn Thùy. Di chỉ văn hoá Lương Chử Là kinh đô nước Xích Quỷ - www.vanhoahoc.vn 2. Hà Văn Thùy. Tôi khẳng định Kinh Dương vương là thủy tổ người Việt Nam http://trannhuong.ne...i-viet-nam.vhtm 3. Hà Văn Thùy. XỨ NGHỆ NƠI PHÁT TÍCH CỦA NGƯỜI VIỆT HIỆN ĐẠI thuyhavan.blogspot.com/.../xu-nghe-noi-phat-tich-cua-nguoi-viet.html 4. Hà Văn Thùy. Thêm một lần buộc phải tranh biện với GS L. Kelley - ChúngTa.com www.chungta.com › Tư liệu nguồn & tra cứu 5. Hà Văn Thùy. TRUY TÌM GỐC TÍCH NGƯỜI KINH thuyhavan.blogspot.com/2016/01/truy-tim-goc-tich-nguoi-kinh.html 6. Đỗ Ngọc Thành. PHÁT HIỆN LẠI VỀ VIỆT NHÂN CA (越人歌) - Việt Văn Mới Newvietart newvietart.com/index4.606.html Tôi ghi chú: Nếu chúng ta không nhận biết và phân tích một cách logic và cần phải nhấn mạnh ở đây - đó là chứng cứ vật chất được khám phá (thấu hiểu chúng tức những gửi gắm về mặt tư tưởng, triết học, sử học, tâm lý tình cảm...) - nó có thể làm đảo ngược hoàn toàn 100% kết luận của chúng ta trong thời đại ngày nay (tức kết luật của chúng ta sai hoàn toàn), do vậy thực sự phải có đầy đủ dữ liệu liên quan đến mọi mặt kinh tế, văn hóa... trong tiến trình lịch sử, ít nhất là 5.000 năm -> nếu không thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma trong phần kết luật về bất cứ một sự kiện nào liên quan đến nước Văn Lang hay trước đó như Xích Quỷ chẳng hạn, cũng như sau này là nước Âu Lạc thời An Dương Vương hay thời Trưng Vương nữa... Do vậy, những vấn đề cần xác định như dưới đây: - Cấu trúc quốc gia theo dòng chảy lịch sử được xác định: Quốc gia thời Đế Minh và trước đó? -> Xích Quỷ -> Văn Lang ->Âu Lạc -> Nam Việt -> Hậu Âu Lạc thời Trưng Vương (tạm gọi vậy đã). - Tại thời Đế Minh có một sự kiện cực kỳ quan trọng là chia đôi nước, ranh giới đôi bên là sông Dương Tử, chi tiết chỉ rất rõ trong truyện Hồng Bàng Thị của Lĩnh Nam Chích Quái, tất nhiên còn có thần tích, gia phả, ngọc phả bí ẩn khác nữa... Đặc biệt, sự kiện Đế Lai chu du Nam Dương Tử là cần phải thấu hiểu chi tiết này của tác giả khi viết về Hồng Bàng Thị... - Huyền thoại và truyền thuyết về tổ tiên dân tộc Trung Hoa là Thần Nông và Hoàng Đế, giai đoạn Hoàng Đế thay dòng Thần Nông trị vì và có trận chiến khốc liệt với bộ tộc có thủ lĩnh Suy Vưu tại di chỉ Trác Lộc thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay, vậy nó có liên quan đến truyện Hồng Bàng thị hay không? Rất quan trọng! - Về mặt thời gian và không gian lịch sử được định vị tại mốc Âm lịch tối quan trọng: năm lên ngôi của Kinh Dương Vương 2879 TCN, năm Ngài bao nhiêu tuổi phải tra cứu lại thần phả, ngọc phổ... - Nội dung cuốn sách Nguồn gốc người Việt người Mường của tác giả Tạ Đức là rất quan trọng, nếu chúng ta không thấy được mối quan hệ lịch sử về mặt huyền thoại và cổ vật Bắc - Nam Dương Tử là không bao giờ tìm ra mắt xích kể từ thời Hạ Vũ trở về trước, khi mà vua Hạ Vũ người tỉnh Chiết Giang, Nam Dương Tử, thuộc bộ Ư Việt của Văn Lang lại đi làm vua Bắc Dương Tử, được truyền ngôi từ Đế Thuấn - người Đông Di tức vùng Sơn Đông hay các tỉnh thuộc phương này, có thể cả Triều Tiên hay Nhật Bản nữa? Thời kỳ Hạ Vũ sử gọi là nhà Hạ (hè, phương nam). - Mắt xích lịch sử thời vua Hạ Vũ sẽ kéo theo dòng chảy lịch sử Nghiêu, Thuấn và trước đó của Bắc Dương Tử -> Điều này sẽ định vị được kinh đô Nghiêu - Thuấn - Vũ và sẽ chỉ ra kinh đô Văn Lang? - Đến đây, vậy quan hệ cổ vật thời Hạ Vũ - tức Lương Chử tại bộ Ư Việt với các bộ khác của Văn Lang là như thế nào? Điều này sẽ dẫn đến Cửu Trù Hồng Phạm... -> dẫn đến biểu tượng Văn Lang trước trống đồng Đông Sơn! - Tiếp tục xử lý bang giao thời vua Nghiêu, thời Thương với chiến tranh thời Hùng Vương VI và bang giao thời Chu - hiến trĩ trắng... -... Chẳng hạn chi tiết sử được nhận định sai là: Làm sao mà Lạc Long Quân lại từ núi Thái thuộc Bắc Dương Tử lại di chuyển về Nghệ An được? Một chi tiết sai thỉ dẫn đến hàng loạt các nhận định khác cũng sẽ sai lệch lớn.
    1 like
  4. VỀ NHỮNG NGÔI MỘ CỦA KINH DƯƠNG VƯƠNG TRÊN ĐẤT VIỆT NAM Hà Văn Thùy I.Điểm một vài thông tin Vào mạng tra mục từ “mộ Kinh Dương Vương” dễ dàng gặp những thông tin sau: -“Rất nhiều người không biết rằng, ngôi mộ Kinh Dương Vương, thủy tổ nước Việt nằm ngay bên bờ sông Đuống, thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Mộ giản dị, đắp trên một gò đất nhìn ra bờ sông, xung quanh là những cây cổ thụ quanh năm xanh tốt. Nhân dân không xây thành lăng mà chỉ xây cao lên bằng gạch cổ, có mái nhỏ che mưa nắng. Rêu xanh màu thời gian. …Điều quan trọng là ngôi mộ nằm ở trung tâm thời dựng nước, từng là một thánh địa do chính Kinh Dương Vương chọn. Trên đường đi kinh lý, qua trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (nay là), nhận ra thế đất quý, có tứ linh long, ly, quy, phượng, có sông núi bao quanh, rồng chầu, hổ phục, ngài đã đem những cư dân Việt cổ quy tụ về lập nên xóm làng đầu tiên.” (http://khoahoc.tv/khampha/kham-pha/50784_di-tim-mo-to-kinh-duong-vuong.aspx) - “Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924). Đền thờ Kinh Dương Vương ở thôn Á Lữ -Thật là tự hào, chúng ta có nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Xích Quỷ (sao Quỷ Đỏ ở phương Nam), Văn Lang, Nam Việt, Vạn Xuân, Đại Việt, Đại Ngu, Việt nam với Văn minh lúa nước và thuần phục trâu cấy cầy....từ thời Vua Phục Hy và Thần Nông của nhà nước Cực Lạc. Đóng đô ở Thạch Thất Hà nội Kinh Dương Vương được Vua Cha Đế Minh giao cai quản nước Xích Quỷ, từ phía Nam sông Dương Tử. Xích là đỏ, Quỷ là sao Quỷ (nằm trong nhị thập Bát Tú). Thời kỳ này là khoảng 2879 năm trước công nguyên (cách 2013 là 4892 năm) Lạc Long Quân lấy Mẫu Thoải Âu Cơ, Đệ Tam Thánh Mẫu, đẻ ra 100 trứng ở Đền Lăng Xương, Thanh Thuỷ, Phú Thọ. Nơi đây có suối nước nóng của đứt gẫy vỏ trái đất, nhận Địa khí, gần với Ba vì, nơi nhận được Thiên khí. Các con theo Cha xuống biển ở Hà Đông, theo Mẹ lên núi ở Việt trì, Phú Thọ. Người con cả được phong là Vua Hùng. Chúng ta có 108 Vua Hùng (18 Vua Hùng ghi trong sử sách là những người có công mở cõi). Đền Thờ các Vua Hùng, mộ các Vua Hùng, các Mẫu....đều nằm ở Kinh đô cổ Phong Châu, Vân nội, Hà Đông. -Kinh đô cổ của các nhà nước Cực Lạc, Hồng Bàng, Lạc Việt, Văn Lang, còn nằm ở các Huyện Thạch Thất, Quốc Oai, Thanh Oai, Ứng Hoà, Hà Đông...Phố Xốm, Vân Nội, Hà Đông chính là Phong Châu cổ, Kinh đô của Vua Hùng Tinh hoa văn hóa Việt với tư duy minh triết .GS-TSKH-VS Nguyễn Xuân Trường Tiến; Chủ tịch Hội Cơ Học Đất và Địa Kỹ thuật Công Trình Việt nam, VSSMGE. http://nguyenngocson.vn/?module=news_detail&cat_id=12&id=453 -Kinh Dương Vương húy Nguyễn Lộc Tục tự Phúc Lộc (đổi họ Thần Nông thành họ Hồng Bàng) là con trai trưởng của Thái Khương Công- Nguyễn Minh Khiết và bà Đỗ Quý Thị- Hương Vân Cái Bồ Tát. Chồng lấy vợ hai, mẹ con bị bạc đãi. Bà Đỗ Quý Thị giận, đem Lộc Tục vào núi Hòa Bình tu. Nhiều năm cụ tu ở Động Tiên, huyện Lạc Thủy- Hòa Bình. Cụ cùng tám người em trai nuôi dạy con trai là Nguyễn Lộc Tục. Lớn lên Lộc Tục đánh thắng giặc Gạc Ma được cha Nguyễn Minh Khiết phong Thánh Tổ làm vua hiệu Kinh Dương Vương. Ngài lập kinh đô ở bến Ong, làng Vân Lôi (Kẻ Xốm) đặt tên nước là Xích Quỷ. Ngài sinh ngày 17- 8. Mất ngày 25- 12. Mộ táng tại chỗ giáp ranh hai làng Quang Lâm và Vân Nội- Thanh Oai- Hà Nội ngày nay. Đền thờ ngài 24 tòa xây tại 24 làng. Đạo Của Tổ Tiên Việt. MAI THỤC http://newvietart.com/index3.5181.html Những thông tin trên cho thấy, ít nhất trên đất nước ta có hai nơi được cho là có mộ của Kinh Dương Vương. Cố nhiên, một câu hỏi nảy sinh: một người sao lại có tới hai ngôi mộ? Từ đó dẫn tới sự hoài nghi về tính xác thực của những ngôi mộ này. Đành rằng, mộ thủy tổ là thiêng liêng nhưng khi sự hoài nghi xuất hiện sẽ gây hậu quả khó lường! Vì vậy cần được làm rõ: thực sự đó có phải là mộ của Ngài không? II. Những lý do cho thấy không thể có mộ của Kinh Dương Vương trên đất Việt Nam Từ khảo cứu nhiều nguồn tài liệu, chúng tôi xin trình ra những lý do khẳng định không thể có mộ Kinh Dương Vương trên đất Việt Nam Lý do thứ nhất: dựa vào thư tịch. - Cuốn sách sớm nhất nói tới Phục Hy, Thần Nông là Kinh Dịch, do Khổng Tử san định vào cuối thời Xuân Thu, cách nay gần 2500 năm. Kinh Dịch viết: “Họ Bào Hy mất, họ Thần Nông xuất hiện, dạy dân lấy gỗ đẽo cày, họp chợ. Tất cả đều lấy hứng tứ quẻ Ích.” -Theo Từ Hải thì Phục Hy còn có tên là Bào Hy, Thái Hạo v.v. . . là một trong ba ông vua thời Thái cổ, hai ông kia là Toại Nhân, Thần Nông. Phục Hy dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật, tạo ra Bát quái và thư khế (văn tự, khế ước). Có sách nói Phục Hy sống ở thế kỷ 43 TCN. -Trong tài liệu Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh, bác sĩ Trần Đại Sĩ ghi cuộc điều tra điền dã của ông như sau: “Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tròn có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang… Tại thư viện Hồ-nam tôi tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: “Thiên-đài di sự lục. Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.” Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ? Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần. Phần của Chu Minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của một sư ni tên Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Tài liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên sinh ra Lộc Tục. Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời đất, vì vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn. Minh-Văn còn kể thêm : « Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Dương. Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-dương ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường để xóa vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây chùa tại đây ».[1] Tài liệu này là chứng cứ cho thấy truyền thuyết Đế Minh tuần thú phương Nam, tới núi Thiên Đài lập đàn tế cáo trời đất xuất hiện từ xa xưa và phổ biến ở vùng Giang Nam. Đó cũng là thêm bằng chứng về việc ra đời nước Xích Quỷ. Trong khi đó, những người chủ trương Châu Phong Hà Đông là kinh đô và nơi an nghỉ của Phục Hy, Thần Nông, Kinh Dương Vương chỉ dựa vào cuốn Cổ Lôi ngọc phả truyền thư, xuất hiện quá mới, khoảng giữa thế kỷ XIX, lại đầy mâu thuẫn mà nhiều người chỉ ra là ngụy thư, có đáng tin không? Ngay với ngôi mộ ở Thuận Thành Bắc Ninh, dù có thần tích, bia ký rồi sắc phong thì tất cả cũng đều quá mới, không có giá trị sử liệu xác nhận đó thực sự là mộ của Kinh Dương Vương. Lý do thứ hai: Cho rằng các vị Phục Hy, Thần Nông, Kinh Dương vương sống ở Phong Châu Hà Nội, Thuận Thành Bắc Ninh. Từ khảo sát hơn trăm cốt sọ thời Đồ Đá tới thời Kim khí được phát hiện ở Đông Nam Á (Việt Nam chiếm 70 mẫu), Giáo sư Nguyễn Đình Khoa trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á (NXB DH&THCN. H,1983) xác nhận: “Suốt thời Đồ đá, dân cư ở Việt Nam và Đông Nam Á gồm hai chủng Indonesian và Melanesian, đều thuộc loại hình Australoid” Do 4879 năm trước trên đất nước ta thuộc Thời Đồ đá, chỉ có người Australoid nên mặc nhiên, Kinh Dương Vương nếu sống ở nước ta thời đó cũng là người Australoid. Hệ quả là, một người mang gen Australoid không thể sinh ra người mang gen Mongoloid phương Nam. Điều này có nghĩa, các vị không thể là tổ tiên người Việt! Lý do thứ ba: không có di tích kinh đô. Nói tới kinh đô cổ mặc nhiên phải nói tới di tích của thành trì, khu dân cư. Ở Phong Châu không hề thấy dấu vết nào như vậy. Tài liệu khảo cổ của vùng chỉ phát hiện những ngôi mộ dân thường, kèm theo tiền Ngũ thù thời Hán của những thế kỷ đầu Công Nguyên. Trong khi đó, ở vùng Thái Hồ Nam Dương Tử, từ năm 1936 phát hiện văn hóa Lương Chử có địa giới tương đương với nước Xích Quỷ. Kinh đô Lương Chử hình chữ nhật gần tròn, rộng 3.000.000 m2, vẫn còn di tích hai bức thành dài 1700 m và 1500 m, có đáy rộng 60 m, cao 40 m và mặt thành 40 m. Một quốc gia rộng lớn như Văn Lang mà kinh đô Phong Châu không có thành lũy thì vua quan, quân đội đóng ở chỗ nào? Lý do thứ tư: vào thời của Kinh Dương Vương, vùng Bắc Ninh, Hà Nội còn chìm trong biển nước. Sách cổ ghi Phục Hy sống khoảng 4000 năm TCN, Thần Nông khoảng 3080 năm TCN và Kinh Dương Vương 2879 năm TCN. Trong khi đó, khảo cổ học đồng bằng sông Hồng cho thấy: “Vào thời kỳ đồ đồng (2000-700 năm TCN) đang trong giai đoạn biển thoái Radrian, lúc này các thùy châu thổ của đồng bằng châu thổ sông Hồng đã được hình thành và được mở rộng dần về phía biển đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cư dân cổ chuyển dần xuống định cư tại các vùng đất thấp hơn. Từ giai đoạn Phùng Nguyên đến Đồng Đậu và Gò Mun, chúng ta có thể thấy rõ sự phân bố của các di tích có sự dịch chuyển dần xuống các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Thời đại đồ sắt- văn hóa Đông Sơn 2700-1800 cách nay Trong giai đoạn này, mực nước biển cũng có sự dao động, đầu tiên là mực nước biển dâng lên và đến giai đoạn khoảng 2000 năm, mực nước biển lại rút dần. Diện phát triển và phân bố của văn hoá Đông Sơn lớn rộng hơn, đông đặc hơn các di tích tiền Đông Sơn, trong giai đoạn sớm các di tích phân bố chủ yếu ở vùng rìa cao của đồng bằng châu thổ. Trong quá trình phát triển, nó tràn đến cả những vùng thấp, trũng. Những nơi cư trú của thời này có quy mô to lớn hơn trước, nhiều di tích lại tập trung thành từng nhóm, cụm xung quanh một khối cư trú tạo thành các trung tâm như trung tâm Vinh Quang, Cổ Loa, Phú Lương, Việt Khê...”[2] Như vậy, phải tới thời kỳ văn hóa Đông Sơn muộn, khoảng 200 năm TCN, con người mới tụ cư tại Kẻ Ốc (Cổ Loa) mà Vân Nội gần đó không phải là một di chỉ khảo cổ. Điều này có nghĩa là, vào năm 2879 TCN, cả vùng Hà Đông, Bắc Ninh còn chìm trong nước sâu của vịnh Hà Nội. Làm cách nào Kinh Dương Vương dựng được kinh đô trên biển nước mênh mông? Vào thời điểm sớm nhất con người đến sống trên vùng đất này, khoảng 200 năm TCN thì Kinh Dương Vương đã chết được hơn 2600 năm. Vậy tìm đâu xương cốt Ngài đem về đây cải táng? III. Lý giải về những ngôi mộ được cho là của Kinh Dương Vương. Khi châu thổ sông Hồng được bồi tụ, người từ Thanh Nghệ kéo ra, từ Đồng Đậu Phú Thọ xuống rồi người Việt từ nam Trung Quốc trở về. Người trở về mang theo những kỷ niệm từ đất tổ Núi Thái - Trong Nguồn phía Nam Hoàng Hà Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng những câu chuyện về Thần Nông, Kinh Dương Vương, nước Xích Quỷ, cha rồng mẹ tiên và một bọc trăm trứng… Những câu chuyện xa xưa đã thành truyền thuyết lưu truyền trong ký ức nhân dân một cách bền bỉ. Từ thời Trần, những câu chuyện như vậy được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh… càng hun dúc tâm trí người dân nhớ tới cội nguồn. Có thể những kịch bản như sau đã xảy ra: Tại vùng Vân Nội Hà Đông, một lúc nào đó, do lòng kính ngưỡng tổ tiên thôi thúc, các già làng bàn nhau, chọn cuộc đất đẹp đắp ngôi mộ gió của Thủy tổ Kinh Dương Vương để bái vọng. Truy từ sách vở ngày mất của Tổ rồi hàng năm theo lệ tế lễ. Một phần do việc làm này, văn hóa cùng phong tục tập quán của làng trở nên tốt đẹp hơn. Tiếng lành đồn xa, người trong vùng quy tụ tới nơi thờ Tổ. Cũng do vậy, việc làm ăn của người dân phát đạt hơn. Do kinh tế khá lên, các vị già làng huy động công đức của bá tánh chỉnh trang mộ và xây đền thờ… Khoảng năm 1840, một số vị có chữ trong làng, dựa vào truyền ngôn và sách vở tạo ra sách Cổ Lôi ngọc phả truyền lại. Còn ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh sự việc có thể như sau: Do vị trí của mình, từ trước Công nguyên, Liên Lâu sớm trở thành nơi đô hội sầm uất với những chùa chiền được xây dựng rồi là nơi đóng trị sở của chính quyền đô hộ. Do vậy kinh tế và văn hóa ngày càng thịnh vượng. Còn ở vùng Á Lữ thì do bên sông Đuống hung hãn nên được khai thác muộn hơn. Tài liệu lịch sử còn ghi: “Dưới triều Lê sơ những con đê lớn hơn được đắp mới và tôn tạo trên hai bờ sông Nhị Hà được xem là sự can thiệp vào tự nhiên quá giới hạn cho phép, kết quả là sông Hồng trở nên hung dữ, đã vỡ và gây ngập lụt triền miên trong thời nhà Nguyễn, và lúc đó đã có nhiều ý kiến đề nghị xem xét vấn đề bỏ hay giữ đê. Trước năm 1837, Nguyễn Công Trứ đã đề xuất giải pháp nắn chỉnh, khai đào đoạn khởi đầu sông Đuống (tức sông Thiên Đức thời bấy giờ), chuyển cửa nhận nước từ sông Hồng dịch về phía thượng nguồn, giúp cho việc phân lũ sông Hồng được thuận lợi. Nhưng phải sang thời Tự Đức ý tưởng đó mới được thực hiện một phần và được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp thuộc. Từ đó, sông Đuống trở thành đường thoát lũ quan trọng nhất của sông Hồng.” [3] Có thể là tới cuối thời Lê, cũng do thôi thúc của tâm linh, các già làng Á Lữ bàn nhau chọn đất đắp ngôi mộ của Thủy tổ Kinh Dương Vương. Sau đó, do kinh tế trù phú lên, các cụ xây lăng, dựng đền thành nơi thờ tự sầm uất. Nằm trong cảnh quan vùng Liên Lâu, theo thời gian, khu lăng mộ và đền Á Lữ trở nên thắng tích nổi tiếng. Năm Gia Long thứ 10, nhận được sắc phong của triều đình. Từ đó tới nay, việc thờ tự được người dân duy trì. Năm tháng qua đi, người đời sau vì không biết nguyên do xuất hiện của ngôi mộ mà chỉ thấy lăng mộ, đền thờ cổ linh thiêng nên lầm tưởng đó chính là nơi an nghỉ của Thủy tổ. Cũng có sự thực là, từ gần 5000 năm trước, Tổ Kinh Dương Vương đã yên nghỉ ở kinh đô Lương Chử với lăng tẩm rồi đền đài uy nghiêm. Nhưng thời gian trôi, vật đổi sao dời, đất bao lần thay chủ. Lăng mộ, đền đài hoang phế, mất dấu. Hồn thiêng của tổ tiên dù ở nơi cực lạc nhưng khi muốn cũng không có nơi tìm về. Từ khi những ngôi mộ gió thành tạo, lòng kính ngưỡng của con cháu thấu tới cõi linh thiêng. Theo phong tục người Việt, con cháu đâu, ông bà ở đấy, tổ tiên vui lòng nên cũng về với con cháu trong những ngày lễ trọng. Có thể, một vài nhà ngoại cảm, với khả năng đặc biệt, giao tiếp được với tổ tiên đã củng cố thêm lòng tin cho dân… Chúng tôi cho rằng, dù chỉ là những ngôi mộ gió được đắp để bái vọng tổ tiên thì việc hiện diện của những ngôi mộ và lăng rồi đền thờ là điều vô cùng quý giá. Nó thể hiện bản thể tốt đẹp của văn hóa Việt tộc biết uống nước nhớ nguồn, thờ kính tổ tiên. Đó cũng là di sản vật chất giúp cho ổn cố tâm linh, gắn kết cộng đồng dân tộc. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta cùng con cháu là phải nối tiếp công việc của tiền nhân giữ gìn, tôn tạo những cố tích thiêng liêng quý giá này. Mặt khác, cũng cần công khai với con cháu và du khách: đấy là những ngôi mộ, ngôi đền mà tiền nhân chúng tôi đựng lên để từ xa bái vọng tổ tiên, những người từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa, sau đó trở về sinh thành dân tộc chúng tôi. Cần minh bạch như vậy để một mặt tránh sự u mê ngu tín của những người vô minh. Mặt khác cũng giải tỏa sự hoài nghi của những người chưa hiểu biết tường tận. Danh có chính ngôn mới thuận là vậy! Sài Gòn, 2 tháng 11 năm 2015 Tài liệu tham khảo: 1. Trần Đại Sĩ. Về Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh. http://www.vietnamvanhien.net/NuiNguLinh.pdf 2. Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam. Khảo cổ đồng bằng sông Hồng http://caf.vass.gov.vn/noidung/nghiencuukhoahoc/Lists/NghienCuuKhoaHoc/view_detail.aspx?iDCapCoQuan=47&ItemID=1714 3. Wikipedia: Việc đắp đê sông Hồng ===================== Vào những cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Khi tôi bắt đầu viết sách trình bày luận điểm về cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, có một người đem đến cho tôi một cuốn sách mỏng. Tôi quên tên tác giả, chỉ nhớ là ông này chính là người sáng tạo cái logo đền Hùng. Người cho sách khuyên tôi nên lấy những tư liệu trong cuốn sách này để viết, sẽ có nhiều "chứng cứ thuyết phục". Mà một trong những "chứng cứ thuyết phục" trong cuốn sách chính là mộ Lạc long Quân. Anh ta khuyên tôi đây là chứng cứ "di vật khảo cổ" quan trọng. Trước khi tôi cảm ơn lòng tốt của anh ta, tôi nhìn kỹ mặt anh ta xem có phải là một tên khiêu khích không? Thấy anh ta thật thà và tỏ ra chân tình, tôi mới cảm ơn lòng tốt và mời uống trà. Nhưng cuốn sách tôi chỉ xem lướt qua và chẳng bao giờ đọc lần thứ hai. Tất nhiên tôi chẳng ngu gì tạo kẽ hở cho "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế" đốn mạt, xưng xưng phủ nhận cội nguồn dân tộc của chính họ. có cớ để công kích luận điểm của tôi. Quan điểm của tôi nhất quán, trước sau như một, xác định rằng: Di vật khảo cổ cùng tất cả những di sản khác, đều không phải là chứng cứ duy nhất chứng minh cho một hệ thống luận điểm nhân danh khoa học. Những di sản và di vật đó, chỉ là những thực tại khách quan vô cảm. Nên nó cần một hệ thống luận cứ phù hợp với tiêu chí khoa học , cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Trong đó, mô tả được sự tồn tại của những di vật và di sản đó một cách hợp lý trong hệ thống chứng minh cho chân lý. Bởi vậy, việc tồn tại của những những ngôi mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và những truyền thuyết mô tả với những địa danh ở đồng bằng sông Hồng , chỉ là những ngôi mộ gió, được tổ tiên ta lập ra để thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Tục lập mộ gió còn tồn tại đến bây giờ trong văn hóa truyền thống Việt. Nó không phản ánh bản chất cội nguồn địa sử của dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ đây. Bởi vậy, việc tồn tại của những những ngôi mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và những truyền thuyết mô tả với những địa danh ở đồng bằng sông Hồng , chỉ là những ngôi mộ gió, được tổ tiên ta lập ra để thế hệ sau nhớ về cội nguồn. Tục lập mộ gió còn tồn tại đến bây giờ trong văn hóa truyền thống Việt. Nó không phản ánh bản chất cội nguồn địa sử của dân tộc Việt Nam có xuất xứ từ đây. Nhưng chính những ngôi mộ gió và nhựng địa danh liên quan tồn tại ở Bắc Việt Nam, đã nhắc nhở đến một thời huy hoàng của Việt tộc ở miền nam sông Dương Tử. Và khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ, tổ tiên ta di cư xuống Bắc Việt Nam, đã đem theo những di sản văn hóa sử xuống vùng đất này. Đất nước Việt Nam hiện nay là nơi rút lui cuối cùng của Việt tộc, khi nền văn minh Việt sụp đổ từ hơn 2000 năm trước..
    1 like
  5. Nữ Bộ trưởng Inada chỉ thị bắn hạ mọi vật thể hướng về Nhật Bản VietnamPlus 08/08/2016 20:16 GMT+7 Tân Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Inada đã chỉ thị cho Các Lực lượng phòng vệ (SDF) sẵn sàng bắn hạ bất kỳ vật thể nào hướng vào lãnh thổ nước này, nhằm đề phòng khả năng Triều Tiên phóng tên lửa. Tân Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, bà Tomomi Inada. (Nguồn: ABC News) Tân Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, bà Tomomi Inada, ngày 8/8 đã chỉ thị cho Các Lực lượng phòng vệ (SDF) sẵn sàng bắn hạ bất kỳ vật thể nào hướng vào lãnh thổ nước này, nhằm đề phòng khả năng Triều Tiên phóng tên lửa. Theo hãng tin Kyodo, chỉ thị trên của Bộ trưởng Inada dường như nhằm đảm bảo rằng SDF sẵn sàng ngăn chặn các vật thể bất kỳ lúc nào do việc sử dụng các bệ phóng di động có thể khiến việc phát hiện Triều Tiên chuẩn bị phóng tên lửa gặp khó khăn. Trong khi đó, theo đài NHK của Nhật Bản, SDF sẽ được đặt trong tình trạng báo động ít nhất 3 tháng và cứ sau 3 tháng, chỉ thị trên của Bộ trưởng Quốc phòng Inada cũng sẽ được xem xét lại. Chỉ thị này không nêu rõ Bình Nhưỡng có đang chuẩn bị phóng tên lửa hay không. Đến nay, Nhật Bản đã ban hành các chỉ thị tạm thời khi có dấu hiệu Triều Tiên sắp phóng tên lửa, song các chỉ thị đó đã được hủy bỏ sau vụ phóng. Tuy nhiên, do một số vụ phóng khó bị phát hiện, Nhật Bản đã quyết định đặt quân đội ở tình trạng trực chiến trong thời gian dài hơn. Bà Tomomi Inada được Thủ tướng Shinzo Abe bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản vào ngày 3/8 vừa qua, cùng ngày Triều Tiên phóng một tên lửa đạn đạo, bay xa khoảng 250 km và lần đầu tiên rơi vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Nhật Bản. Ngay sau khi vụ việc trên xảy ra, các quan chức nước này bày tỏ lo ngại rằng Bình Nhưỡng đang che giấu tốt hơn việc chuẩn bị tiến hành các vụ phóng tên lửa. Quân đội Mỹ cho rằng thực tế Triều Tiên đã phóng đồng thời 2 tên lửa tầm trung Rodong, song 1 tên lửa dường như đã phát nổ ngay khi vừa rời bệ phóng. Các vụ phóng trên được thực hiện sau khi Bình Nhưỡng đe dọa "dùng vũ lực" để đối phó với quyết định triển khai Hệ thống Phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) của Mỹ tại Hàn Quốc và vài tuần trước trước khi Hàn-Mỹ bắt đầu tiến hành một cuộc tập trận chung quy mô lớn. Trong năm 2016, Bình Nhưỡng đã tiến hành phóng một loạt tên lửa nhằm phản đối các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc sau khi nước này tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ tư hồi tháng 1 vừa qua./. ========================= Quân đội Mỹ lên kế hoạch chuẩn bị chiến tranh với Trung Quốc Dân Việt 07/08/2016 14:07 GMT+7 Quân đội Mỹ, Tổng công ty RAND đã chuẩn bị cho kế hoạch chiến tranh với Trung Quốc khi Bắc Kinh trở nên hung hăng trên Biển Đông hơn sau khi có phán quyết của Tòa Trọng tài. Theo Sputnik, một nghiên cứu của quân đội Mỹ đi vạch ra kế hoạch chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chống lại Trung Quốc sau khi Bắc Kinh từ chối tuân theo và đã trở nên hung hăng hơn để phản ứng với phán quyết bất lợi do Tòa Trọng tài đưa ra liên quan đến yêu cầu của họ đối với Biển Đông. Một nghiên cứu mới khác của RAND có tiêu đề: “Chiến tranh với Trung Quốc: Những suy nghĩ không thể tưởng tượng”, cũng đề cập đến kịch bản xảy ra chiến tranh và hậu quả không lường được. Sự gây hấn của Bắc Kinh đã leo thang sau khi có bài viết trên tờ Thời báo Hoàn Cầu, kêu gọi cho một cuộc chiến tranh nóng với Úc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Bài báo đã dùng những ngôn từ dọa dẫm như “tấn công hộc máu”… để de dọa Úc. Tờ báo này cũng gọi Canberra là một "con mèo giấy" và thề rằng Úc sẽ "học được bài học của mình" sau khi hỗ trợ phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ kiện Biển Đông. Bắc Kinh biểu hiện khó chịu với việc Úc, Mỹ và Nhật Bản kêu gọi Trung Quốc và Philippines "tuân thủ phán quyết cuối cùng của tòa án trọng tài ngày 12 tháng 7, có tính ràng buộc pháp lý đối với cả hai bên". Quan hệ Trung-Úc còn trở nên ảm đảm bởi thực tế Không quân Úc thực hiện bay trên các lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông. Canberra tuyên bố những chuyến bay này là động thái bình thường góp phần duy trì ổn định và an ninh trong khu vực, nhằm đảm bảo tự do cho hoạt động hàng hải và hàng không. Bắc Kinh lập luận rằng Tòa Trọng tài không có đủ thẩm quyền để xử vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc đang chịu áp lực ngày càng tăng từ chính quyền Mỹ yêu cầu tuân thủ luật pháp và thực hiện đúng với những nguyên tắc của Công ước luật biển UNCLOS 1982 đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các tuyến đường thủy quan trọng ở vùng biển này đối với thương mại thế giới. Chỉ vài ngày sau khi cảnh báo công dân nước mình rằng cần chuẩn bị một cuộc chiến tranh trên biển để “bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia”, vào ngày 6.8, Trung Quốc đã đưa máy bay ném bom, chiến đấu cơ đến Biển Đông với lý do để tuần tra vùng biển này. ========================= Lão Gàn thì không ưa chiến tranh. Nhưng mọi việc đã vượt ngoài tầm kiểm soát. Tuy nhiên, một lần nữa lão cần xác định - với sự mong muốn gặp may đúng - rằng: Chưa thể có chiến tranh trước rằm tháng 9 Việt lịch, sau đó thì lão không biết. Một cơ hội cứu vãn rất mỏng manh với xác xuất cực nhỏ có thể xảy ra vào tháng 8 Việt lịch. Nhưng ngay cả cơ hội này cũng có điều kiện tiên quyết.
    1 like