• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 17/07/2016 in Bài viết

  1. Hậu phán quyết trọng tài, Biển Đông bình thường trở lại Ts Trần Công Trục 10:35 14/07/16 Thảo luận (10) (GDVN) - Hoa Kỳ đang sử dụng kênh "ngoại giao yên tĩnh" để thuyết phục Philippines, Indonesia, Việt Nam và các quốc gia châu Á khác không có những bước đi ... Bà Thái Anh Văn phái chiến hạm ra Ba Bình và "sai lầm lớn" Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ bình luận nóng về phán quyết trọng tài Biển Đông Sau phán quyết trọng tài, Trung Quốc đã âm thầm hủy đường 9 đoạn? LTS: Biển Đông sẽ diễn biến ra sao sau khi Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 ra phán quyết vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc đang là tâm điểm chú ý của dư luận. Phản ứng chính thức của các bên nhìn chung tương đối bình tĩnh và kiềm chế, tuy nhiên dư luận vẫn băn khoăn lo lắng có thể có diễn biến bất ngờ hoặc căng thẳng leo thang do một số thông tin từ các bên liên quan. Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài bình luận của ông về vấn đề này, xin trân trọng gửi đến quý bạn đọc. Phán quyết của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 về vụ kiện trọng tài Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc là chiến thắng của công lý, luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, chiến thắng của hòa bình và ổn định ở Biển Đông. Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp. Đằng sau sự vui mừng và chào đón nồng nhiệt của dư luận quốc tế về một phán quyết công bằng, khách quan, thượng tôn pháp luật, góp phần làm rõ nhiều vấn đề hệ trọng liên quan đến việc ứng dụng và giải thích UNCLOS 1982 ở Biển Đông, thì đồng thời cũng có không ít những lo lắng, băn khoăn về diễn biến tiếp theo trên Biển Đông sau phán quyết. Lo lắng băn khoăn ấy đến từ nhận định của một số học giả, nhà nghiên cứu quốc tế về khả năng phản ứng của Trung Quốc đối với phán quyết này, do họ vẫn tuyên bố "3 Không". Đồng thời đến từ phát biểu của một số quan chức Trung Quốc như ông Vương Nghị - Ngoại trưởng, ông Lưu Chấn Dân - Thứ trưởng Ngoại giao hay ông Thôi Thiên Khải - Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ. Trung - Mỹ đã thỏa hiệp, Biển Đông trở lại bình thường? Reuters ngày 13/7 cho biết, Hoa Kỳ đang sử dụng kênh "ngoại giao thầm lặng" để thuyết phục Philippines, Indonesia, Việt Nam và các quốc gia châu Á khác không có những bước đi "tích cực tận dụng phán quyết trọng tài để phủ nhận ngay các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông". Một quan chức ngoại giao Mỹ giấu tên nói với Reuters: "Những gì chúng tôi mong muốn là mọi thứ lắng xuống để những vấn đề này có thể được giải quyết một cách hợp lý thay vì cảm xúc". Mỹ đã gửi thông điệp này tới một số nước thông qua Đại sứ của mình, với một số nước khác thì Ngoại trưởng John Kerry hoặc Bộ trưởng Quốc phòng Ash Carter hay các quan chức cấp cao khác trực tiếp liên lạc, trao đổi. Washington phải nhanh chóng làm việc này sau khi Tiến sĩ Thái Anh Văn - nhà lãnh đạo Đài Loan điều chiến hạm đến Ba Bình, Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam) để tuần tra (trái phép), nhằm phản ứng với một nội dung phán quyết, rằng Ba Bình không có 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế theo Điều 121, UNCLOS 1982. Đồng thời Hoa Kỳ cũng đặc biệt chú ý tới Indonesia trước thông tin nước này muốn đưa hàng trăm ngư dân đến quần đảo Natuna để khẳng định quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế. Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana tiết lộ, trước khi phán quyết được công bố, Ash Carter đã gọi cho ông thông báo rằng, Trung Quốc đã cam kết với Hoa Kỳ họ sẽ phản ứng kiềm chế, Washington cũng đưa ra cam kết tương tự. Ông chủ Lầu Năm Góc tìm kiếm một cam kết tương tự như vậy và đã nhận được điều đó từ ông Delfin Lorenzana. Như vậy có thể thấy những phát biểu ngoại giao của Trung Quốc sau phán quyết trọng tài đã khá kiềm chế và có xu hướng âm thầm chấp nhận một phần nội dung phán quyết bằng việc không nhắc gì đến "đường lưỡi bò" trong Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển ở Biển Đông ngày 12/7. Tôi cũng xin bổ sung thêm, trong tuyên bố về "chủ quyền lãnh thổ và quyền lợi biển trên Biển Đông" của chính phủ Trung Quốc mà tôi vừa dẫn, cũng không nhắc gì đến bãi cạn Scarborough mà lâu nay họ vẫn đòi chủ quyền với tên gọi "đảo Hoàng Nham". Phải chăng đây là một dấu hiệu nữa cho thấy sự "thỏa hiệp" giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ? Còn những phát biểu mang màu sắc "3 Không" của ông Vương Nghị, Lưu Chấn Dân hay Thôi Thiên Khải có thể thấy đã có sự phân tầng, tuần tự chứ không ồ ạt, đồng loạt trên khắp các "mặt trận" như trước khi có phán quyết. Cá nhân tôi cho rằng, có thể xem đó như là một thái độ ứng xử "thích nghi" của các nhà ngoại giao Trung Quốc. Phải chăng tình hình Biển Đông sau phán quyết trọng tài sẽ có xu hướng cơ bản ổn định hơn? Các tranh chấp sẽ tiếp tục được xem xét, tìm cách giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, cho dù trên thực địa vẫn chưa vắng bóng những tàu chiến đi về xuôi ngược, những dàn hỏa tiễn, những nhóm người mặc quần áo rằn ri lăm le súng đạn? Tình hình nói trên liệu có cho phép cho chúng ta tin rằng dù sao thì chân lý và lẽ phải, công lý và luật pháp quốc tế có sức mạnh vô cùng, là phép màu hóa giải được mọi tranh chấp phức tạp? Phải chăng mọi thủ đoạn chính trị và ngoại giao hô hào vận động chống lại luật pháp quốc tế đều không mang lại hiệu quả, thậm chí còn mang lại những tác dụng ngược? Bởi vậy, chúng ta vui mừng vì công lý và lẽ phải chiến thắng, luật pháp quốc tế và UNCLOS 1982 được bảo vệ thì hòa bình, ổn định ở Biển Đông được bảo vệ, nhưng không có nghĩa là chúng ta nên lặp vết xe đổ - dùng cảm xúc, dùng các tuyên bố chính trị, ngoại giao để ứng xử với các vấn đề pháp lý như đã thấy trước phán quyết. Đây là lý do tại sao G-7, EU, ASEAN và các thành viên chủ chốt không ra một tuyên bố công khai kêu gọi Trung Quốc phải tuân thủ hoàn toàn phán quyết. Bởi cái gì đúng cái gì sai Hội đồng Trọng tài đã phán quyết rồi. Mọi tuyên bố chính trị, ngoại giao không thay đổi được gì, mà ngược lại có thể gây thêm mâu thuẫn, làm trầm trọng thêm tình trạng cạnh tranh không lành mạnh vì lợi ích hẹp hòi, vị kỷ của một nhóm thiểu số. Điều quan trọng nhất bây giờ là làm sao phán quyết được thực thi một cách thực chất, nghiêm túc và phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả của nó trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông. Phán quyết trọng tài là nền tảng cho một sự khởi đầu mới Đó là nhận định của cá nhân tôi, và cũng được chia sẻ bởi ngài cựu Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan trả lời phỏng vấn trên Nikkei Asian Review ngày 13/7. Phán quyết trọng tài vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc nên được xem, và nó có thể được chấp nhận như một sự mở đầu, một phần của việc xem xét các vấn đề liên quan đến Biển Đông trong tương lai. Cựu Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan, ảnh: Nikkei Asian Review. Ông Surin Pitsuwan tiết lộ, ASEAN đang xây dựng các chỉ tiêu với nhau và nhận ra rằng, hãy sử dụng phán quyết trọng tài như một trong những cơ sở để thúc đẩy tiến trình giải quyết vấn đề Biển Đông trong tương lai. Ngoại giao là một công việc luôn luôn đòi hỏi phải tìm kiếm những giải pháp cho các vấn đề nảy sinh liên tục và có vẻ rất khó khăn, nan giải do áp lực từ truyền thông, dư luận. Cá nhân tôi cho rằng, việc đầu tiên ASEAN và Trung Quốc có thể làm để thúc đẩy việc duy trì hòa bình, ổn định, luật pháp quốc tế ở Biển Đông là bàn bạc về bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Sở dĩ trước đây COC không đi đến đâu vì tranh cãi chủ yếu xung quanh phạm vi áp dụng nó. Tất nhiên Trung Quốc mong muốn và đòi hỏi áp dụng COC trong toàn bộ phạm vi đường 9 đoạn. Và tất nhiên không một quốc gia nào ven Biển Đông chấp nhận điều phi lý này. Bây giờ nhà nước Trung Quốc đã không còn nhắc đến yêu sách đường 9 đoạn nữa, mà chỉ có yêu sách với các thực thể là các đảo ở Biển Đông cùng với "quyền lịch sử với Biển Đông", pham vi bị nước này coi là tranh chấp đã thu hẹp hơn nhiều. Phán quyết trọng tài cho các bên một căn cứ pháp lý rất quan trọng, củng cố niềm tin và sự hợp tác khi chính thức tuyên bố, "quyền lịch sử" vô hiệu khi các thành viên đặt bút ký phê chuẩn UNCLOS 1982, và Trung Quốc không có "quyền lịch sử" đối với tài nguyên biển trong phạm vi đường 9 đoạn. Sau bài viết "Sau phán quyết trọng tài, Trung Quốc đã âm thầm hủy đường 9 đoạn?" đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 13/7 cũng có bạn đọc đặt câu hỏi với tôi rằng: "Giả sử một nước X nào đó kiện Việt Nam về việc tuyên bố quyền lịch sử và quyền chủ quyền vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, nếu theo cách tiếp cận trong phán quyết vừa ban hành, thì liệu Tòa có ra phán quyết bác các quyền tương tự đối với Việt Nam như đã ra đối với Trung Quốc không? Việt Nam phải làm gì, chuẩn bị gì để Tòa không thể ra phán quyết kiểu như vậy?" Qua câu hỏi này có thể thấy dư luận đặc biệt quan tâm đến phán quyết trọng tài và những ảnh hưởng, tác động của nó đến Việt Nam. Điều này rất đáng hoan nghênh và chia sẻ. Còn về nội dung câu hỏi, tôi xin trả lời ngay rằng: Một là, Việt Nam không có tuyên bố nào về "quyền lịch sử", “chủ quyền lịch sử”. Đó là tuyên bố của Trung Quốc để biện minh cho “đường lưỡi bò” và quyền thụ đắc lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, cũng như một số thực thể khác trong Biển Đông. Để không bị lạc vào “mê hồn trận chủ quyền lịch sử” theo bài binh bố trận của Trung Quốc, tôi xin nhăc lại rằng quan điểm pháp lý của Việt Nam về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện của nguyên tắc chiếm hữu thật sự mà Luật pháp và thực tiễn quốc tế đã và đang có hiệu lực. Căn cứ vào quy định của luật pháp quốc tế hiện hành, quan điểm “chủ quyền lịch sử”, “danh nghĩa lịch sử" hay “quyền lịch sử” hoàn toàn không phải là nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế. Đó là sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi, ôm ấp tham vọng phục hồi tham vọng bá chủ thiên hạ, muốn thế giới đảo lộn để “đục nước béo cò”. Xin đừng nhầm lẫn đáng tiếc để có những suy nghĩ và hành động sai lầm, mất phương hướng đấu tranh. Hai là, trong luật pháp quốc tế không có khái niệm chung chung, mơ hồ như "vùng biển Hoàng Sa" hay "vùng biển Trường Sa", hoặc nói như Trung Quốc là "vùng biển phụ cận". Theo quy định của UNCLOS 1982 mà nước ta là một thành viên, các vùng biển của các nước ven biển, các quốc gia quần đảo có được sẽ bao gồm: Nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa. Việc xác định phạm vi của chúng phải theo các tiêu chuẩn đã được thể hiện rõ trong các điều khoản liên quan của UNCLOS 1982 mà trong đó, không hề có quy định nào “chứa chấp” khái niệm vu vơ cái gọi là “quyền lịch sử”. Ngoài ra là biển cả, hay còn gọi là vùng biển quốc tế. Giữa các nước liền kề hoặc đối diện nhau, nếu các vùng biển này được xác lập một cách hợp pháp theo UNCLOS 1982 có chồng lấn, thì sẽ đàm phán giải quyết vùng chồng lấn. Hai bên không đàm phán được thì đưa ra cơ quan tài phán. Đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam là nước có chủ quyền được xác lập hợp pháp theo hệ thống luật pháp và thực tiễn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ chứ không phải UNCLOS 1982, trong đó chúng ta có đầy đủ bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý về thụ đắc lãnh thổ để chứng minh chủ quyền của mình với hai quần đảo này. Còn hiệu lực của 2 các thực thể cấu thành 2 quần đảo trong việc tính toán xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng cũng phải tuân thủ đúng các quy định của UNCLOS 1982. Không thể tùy tiện giải thích, áp dụng các quy định của Công ước này như thế nào cũng được. Phán quyết trọng tài về các thực thể ở Trường Sa và toàn bộ quần đảo cho chúng ta những tham chiếu, ví dụ và giải thích hết sức cặn kẽ, thuyết phục và hữu ích. Bởi vậy, bạn đọc nào thực sự muốn quan tâm, tìm hiểu xem chúng ta nên đấu tranh với Trung Quốc để đòi lại chủ quyền Hoàng Sa như thế nào, đấu tranh bảo vệ ngư dân Việt Nam ở Hoàng Sa ra sao bằng con đường pháp lý, xin vui lòng đọc các bài phân tích của tôi đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như các báo khác thì có thể tìm được câu trả lời. Trước hết cần phải xác định được bản chất tranh chấp là gì, sau đó là xác định nguyên tắc pháp lý quốc tế nào là cơ sở giải quyết tranh chấp đó, sau đó mới đến bằng chứng, thủ tục... Trong khuôn khổ một bài viết, cá nhân tôi chỉ có thể mổ xẻ một lát cắt, một vấn đề mới có thể sáng rõ. Cũng như một vấn đề, một câu chuyện phải có mở đầu, diễn biến, kết thúc thì người đọc mới thấy được bản chất vấn đề, nội dung và thông điệp câu chuyện. Sẽ rất khó hình dung nếu chỉ "cắt mỗi khúc giữa" ra để nói cho ngắn gọn. Trong khi một câu hỏi đặt ra theo quán tính, ví dụ như nhiều người vẫn đặt câu hỏi tại sao Việt Nam chưa kiện Trung Quốc? Có nên kiện hay không? Trả lời một câu hỏi thôi cũng cần phải mổ xẻ rất nhiều vấn đề mang tính tổng thể và xuyên xuốt, tính đến hiệu ứng và hiệu quả, tính khả thi như: Kiện nội dung gì? Căn cứ pháp lý nào? Tiến trình ra sao? Chuẩn bị những gì? Khả năng thắng đến đâu? Thắng rồi khả năng thực thi đến đâu?... Nói như vậy để thấy rằng, một câu hỏi dư luận đặt ra tưởng chừng đơn giản, nhưng để trả lời nó không hề đơn giản, bởi sau đó là cả những vấn đề hệ trọng liên quan đến vận mệnh quốc gia. Vì thế, trước những vấn đề nóng bỏng liên quan đến độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc, chúng ta cần giữ một cái đầu lạnh để nghiên cứu và tìm hiểu thấu đáo mới có thể tìm ra bản chất vấn đề và con đường giải quyết. Ts Trần Công Trục =================== Tôi ít khi xem bài viết của ai đến hai lần, thường chỉ xem lướt qua để hiểu ý chính. Nhưng với bài viết của ông Trần Công Trục tôi đã xem đến hai lần. Và cũng hai lần như vậy với bài trước đó của ông - "Sau phán quyết trọng tài, Trung Quốc đã âm thầm hủy đường 9 đoạn?"- có thể còn phải xem tiếp một hai lần nữa trong khi viết bài này. Với cái nhìn từ cá nhân tôi, hoàn toàn chủ quan, duy ý chí và rất cá nhân, tôi nhận thấy rằng: bài viết của ông Trần Công Trục có một cái nhìn sai, ngay khi ông đặt vấn đề: "Biển Đông bình thường trở lại?" và Bắc Kinh "đã âm thầm hủy đường 9 đoạn?". Mặc dù ông để một dấu hỏi sau vấn đề được đặt ra để tỏ mình là người thân trọng và không áp đặt. Nhưng ngay cách đặt vấn đề đó, đã chứng tỏ cách nghĩ sai của ông. Trước khi chứng minh sai lầm của ông Trục, tôi muốn nhắc đến cái tít bài báo của phóng viên Kiều Oanh trên báo Thanh Niên, mà tôi rất thích "Phán quyết Biển Đông, rồi sao nữa?". Nó hay ở cái bổ ngữ đặt sau câu này: "rồi sao nữa?". Ngay từ cách đặt tít, bài báo của pv Kiều Oang đã đặt một câu hỏi cho tương lai của biển Đông đang sôi sùng sục với ba hạm đội của Bắc Kinh và hai hạm đội của Hoa Kỳ đang hiện diện ở Tây Thái Bình Dương. Nó mở ra một khả năng phân tích nhiều chiều cho mọi khả năng sẽ xảy ra ở Tây Thái Bình Dương, trong góc nhìn của từng cá nhân, sau phán quyết của Tòa PCA. Hay thật! "Tiên sư anh Tào Tháo". Nó còn hay ở chỗ: nó không xác định một xu hướng cụ thể, mà hoàn toàn mở để đi tìm một sự thật khách quan trong cái nhìn đa chiều về tương lai của biền Đông. Cho nên, nó khác hẳn cách đặt vấn đề của ông Trục, mang xu hướng định hướng cho cái sẽ xảy ra của ông này. Đó là ông đã đặt vấn đề không thể rõ ràng hơn về một biển Đông lặng sóng với câu: "Biển Đông bình thường trở lại?" và "Trung Quốc đã âm thầm hủy đường chín đoạn?". Cái dấu "?" khôn ngoan trong cách viết của ông, khiến tôi cũng chỉ giới hạn về cách đặt vấn đề của ông, chứ tôi không nói ông đã xác định một sự kiện sẽ xảy ra. Và ông đã sai với cách đặt vấn đề này. Bởi vì, Bắc Kinh không phải đợi đến lúc có phán quyết từ Tòa PCA thì họ mới nhận thức được chân lý và "âm thầm hủy đường chín đoạn" với dấu hỏi mà ông đã đặt vào sau cụm từ mà ông viết. Và cũng không phải vì thế mà biển Đông "bình thường trở lại", khi mà cộng đồng quốc tế đã có những văn bản liên quan, làm cơ sở cho chính phán quyết của Tòa PCA. Hay nói cách khác: Chính từ những văn bản luật pháp quốc tế liên quan đến chủ quyền biển đảo làm cơ sở cho phán quyết cảu Tòa PCA. Không thể có bất cứ một tòa án nào - về mặt chính danh có tính lý thuyết - lại phán quyết không dựa trên cơ sở luật pháp cả. Do đó, nếu Trung Quốc quan tâm đến luật pháp - là cơ sở phán quyết của Tòa PCA - thì họ đã không tấn công các đảo và lấn chiếm các hòn đảo này của Việt Nam và một số nước khác và không tạo ra cái "đường lưỡi bò" của họ. Cho nên, không thể vì phán quyết của Tòa PCA, làm họ ngay lập tức chợt "giác ngộ" chân lý nhanh như chớp vấn đề mà ông Trục đặt ra, mà trước đó họ đã diễn giải cơ sở luật pháp quốc tế về biển đảo như cách hiểu của họ. Đó là sai lầm của ông ngay từ cách đặt đầu bài. Còn nội dung bài viết này của ông Trục thì vô cùng tệ hại. Nó quá nhiều mâu thuẫn. Hãy xem lại các đoạn sau đây của ông Trục trong bài viết. Ông Trục đặt vấn đề: Vì sao Trung - Mỹ thỏa hiệp mà lại là một điều kiện để "Biển Đông trở lại bình thường?". Trung - Mỹ là cái gì mà quyết định sóng gió, hay bình thường ở biển Đông? Viết đến đây, có thể nhiều người cười tôi. Vì trên thực tế hai siêu cường nhất nhì thế giới này có thể quyết định thế giới bởi sức mạnh của họ. Nhưng giữa một thực tế và tính chính danh lại là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Việt Nam và nhiều nước khác vẫn đang bị Trung Quốc lấn chiếm biển đảo ở biển Đông thì rõ ràng không thể gọi là "bình thường" được. Chủ quyền quốc gia không phải do Trung - Mỹ thỏa hiệp. Đấy là tính chính danh của các chủ quyền lãnh thổ được bảo vệ bởi trách nhiệm của các chính phủ. Ông Trục có vẻ không hiểu về vấn đề này, nên đã chấp nhận, hoặc chính ông đã đặt cái tít như vậy. Cá nhân tôi xác định rằng: Không có vấn đề vì "Trung - Mỹ thỏa hiệp" mà "biển Đông trở lại bình thường", khi chủ quyền quốc gia còn bị xâm phạm. Sau cái tựa nhỏ "Trung - Mỹ đã thỏa hiệp, Biển Đông trở lại bình thường?" của ông Trục, ông đưa ra một loạt những dẫn chứng, chứng minh cho vấn đề mà ông đặt ra. Nội dung của phần này trong bài viết của ông, đã cho thấy không những đã xác định vấn đề và tự xóa đi dấu hỏi khôn ngoan của ông, sau cái tựa nhỏ, khi ông kết luận: Vâng! Nếu kết luận của ông đúng "Mọi tuyên bố chính trị, ngoại giao không thay đổi được gì" thì làm sao lại do "Trung - Mỹ đã thỏa hiệp" , mà "Biển Đông trở lại bình thường được" thưa ông? Mà nó do - như chính ông viết: Bởi cái gì đúng cái gì sai Hội đồng Trọng tài đã phán quyết rồi". Trong phần kết luận, ông Trục cũng viết: Đây lại là một mâu thuẫn rõ nét nữa của ông Trục - khi ông đã chứng minh cho vấn đề ông đặt ra "Trung - Mỹ đã thỏa hiệp, Biển Đông trở lại bình thường?" trong phần nội dung bài viết. Nếu "Trung - Mỹ thỏa hiệp" là nguyên nhân"Biển Đông trở lại bình thường" thì cần gì phải "thực thi một cách thực chất, nghiêm túc và phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả của nó trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông"? Mà nó phụ thuộc vào "Trung - Mỹ thỏa hiệp". như chính ông viết. Trong phần này của bài viết, cho thấy ông Trục lập luận đầy mâu thuẫn giữa tính chính danh của chủ quyền lãnh thổ phải được kiên quyết bảo vệ dưới bất cứ hình thức nào với thực tại sức mạnh chi phối của các siêu cường. Còn cá nhân tôi - tôi chỉ nhân danh cá nhân thôi - rằng: Dù Trung - Mỹ thỏa thuận như thế nào, chủ quyền biển đảo của Việt Nam có từ hàng trăm năm trước mà tổ tiên để lại phải thuộc về Việt Nam. Đây là tính chính danh của vấn đề. Tôi tin rằng: Ngay cả các thỏa thuận Mỹ - Trung là có thật thì các chính khách Mỹ - (Trung quốc tôi không biết) - cũng không bao giờ công khai thừa nhận họ đã thỏa thuận về quyền lợi của họ với Trung Quốc, bất chấp thực tế chủ quyền biển đảo của các quốc gia khác. Phần sau, ông Trục đã nhắc tới một vấn đề được đặt ra cho ông: Và ông đã giải thích như sau: Theo tôi thì chính ông Trục đã bị lạc vào cái mà ông gọi là "mê hồn trận chủ quyền lịch sử" nên đã bác bỏ thuật ngữ "chủ quyền lịch sử" của Việt Nam, khi ông cho rằng: "Đó là tuyên bố của Trung Quốc để biện minh cho “đường lưỡi bò” và quyền thụ đắc lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, cũng như một số thực thể khác trong Biển Đông". Tôi cần phải xác định rằng:Về nguyên tắc khi chân lý được xác định - thí dụ như chủ quyền quốc gia - thì nó phải đúng trong mọi trường hợp. Cho nên, chủ quyền quốc gia của Việt Nam phải được xác định ngay cả với khái niệm "chủ quyền lịch sử" và không thể đó chỉ là luận cứ riêng của Trung Quốc được. Và chủ quyền này, tôi đã khẳng định với cái nhìn riêng tôi từ lâu ngay trong topic này là: Bắc Kinh không thể lấy những di sản khảo cổ mà họ cho là dấu tích của người Trung Quốc, tìm thấy ở các nơi trên biển Đông để xác định "chủ quyền lịch sử'. Cũng từ rất lâu, tôi đã xác định rằng: Di vật khảo cổ không phải bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Do đó, tôi đã khẳng định rằng: "Chủ quyền lịch sử" của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chính là quyền sở hữu của các triều đại phong kiến Việt Nam trong lịch sử. Ngay trong topic này và từ rất lâu, khi Bắc Kinh đưa ra những cái gọi là "di vật khảo cổ" chứng minh cho chủ quyền của họ, tôi đã xác định điều này. Một lần nữa tôi phải nhắc lại để nhấn mạnh rằng: Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử, như cái đám "hầu hết" ra rả mô tả khi phủ nhận cội nguồn lịch sử truyền thống của dân tộc Việt. Và rằng: Chân lý phải đúng trong mọi trường hợp. Cho nên không có vấn đề "chủ quyền lịch sử" chỉ là riêng luận cứ của Bắc Kinh. Chính ông Trục đã mô tả "chủ quyền lịch sử" của Việt Nam khi ông ta viết: Đây chính là nội dung khái niệm "chủ quyền lịch sử" của Việt Nam về các vấn để biển đảo ở biển Đông. Nhưng thật khó hiểu, khi ông Trục lại cho nó là "mê hồn trận" của Trung Quốc và khuyên mọi người không nên sa đà vào?! Việc ông Trục thừa nhận một chân lý, như: Trong đó ông cũng xác định :"Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình". Cho nên hoàn toàn mâu thuẫn đến khó hiểu, khi ông cho rằng: "Chủ quyền lịch sử" chỉ là quan điểm của Trung Quốc. Nếu ông chỉ xác định một thực tế hiện hữu và không thừa nhận luận cứ "chủ quyền lịch sử". Ông cũng xác định rằng: Tôi đồng ý với ông Trục về thực tại của các quy định, luật pháp quốc tế, có thể không chấp nhận "quyền lịch sử" khi ông viết: Tôi thừa nhận thực tế mà ông Trục mô tả - chứ không phải quan điểm của ông Trục - là việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam cần phải có căn cứ pháp lý theo luật pháp quốc tế. Nhưng điều đó không có nghĩa Việt Nam không xác định "chủ quyền lịch sử". Khi không xác định chủ quyền lịch sử - bằng chính khái niệm của ông Trục - là: "Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng", thì rõ ràng trước một thực tại là với các vùng mà Trung Quốc đang chiếm đóng gần đây trên thực tế, người Việt sẽ đòi lại chủ quyền từ những cơ sở nào, khi trước đó không lâu, những vùng biển đó thuộc về Việt Nam? Không một quốc gia nào tự nhiên chỉ duy nhất căn cứ vào một giá trị luật pháp quốc tế để đòi hỏi chủ quyền - Nếu như không có những "chủ quyền lịch sử" trước đó của họ. Tôi xác định rằng: Luật pháp quốc tế trong việc đấu tranh bảo vệ và đòi lại chủ quyền lãnh thổ, là một yếu tố cần, nhưng không phải duy nhất để xác định chủ quyền, nếu như nó không có "chủ quyền lịch sử". Ông Trục cho rằng: Vâng! Việc ông đặt vần đề: " Đó là sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc cực đoan hẹp hòi, ôm ấp tham vọng phục hồi tham vọng bá chủ thiên hạ, muốn thế giới đảo lộn để “đục nước béo cò”. Là hoàn toàn đúng với hành động lợi dụng chủ nghĩa dân tộc của Bắc Kinh, để sử dụng sức mạnh nội tại của dân tộc cho âm mưu của họ. Nhưng lòng tự trọng và có thể là tự hào dân tộc thì chắc ông và mọi người đều thấy rất cần thiết cho mỗi quốc gia và dân tộc của mình. Theo tôi, cần phải phân biệt rõ về lòng tự trọng của một dân tộc và việc lợi dụng của giới cầm quyền sử dụng vào mục đích của họ. Cho nên khi ông viết: Tôi cho rằng chính ông đã nhầm lẫn, giữa lòng tự trọng cần có của một dân tộc và sự lợi dụng bẩn thỉu của chủ nghĩa bá quyền. Tôi xác định rằng" Chính lòng tự trọng dân tộc và "chủ quyền lịch sử" về biển đảo của người Việt, đã quyết định cho cuộc đấu tranh đòi lại chủ quyền, bị Bắc Kinh chiếm hữu vô cớ. Một điều mâu thuẫn rất lớn nữa của ông Trục, lại chính là đoạn viết sau đây. Có lẽ cần phải nhắc lại rằng: Chính tôi cũng là một người xác định công khai ngay trong topic này - trước khi có kết quả của Tòa PCA - rằng: Việt Nam chưa cần thiết kiện Trung Quốc trong lúc này. Tôi nhắc lại là "trong lúc này". Nhưng với tôi thì đó là do những yếu tố khách quan tồn tại trên thực tế bởi nhiều tương tác phức tạp. Chứ không phải Việt Nam không thể kiện Trung Quốc. Còn với ông Trục, ông đã không thừa nhận luận cứ "chủ quyền lịch sử" và công khai xác định cuộc đấu tranh đòi lại chủ quyền biển đảo bằng con đường pháp lý: Và rằng: Nhưng chính ông lại không biết Việt Nam nên kiện như thế nào, qua đoạn sau đây: Ủa! Thế là thế nào? Đoạn trên ông vừa mới viết: "Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện của nguyên tắc chiếm hữu thật sự mà Luật pháp và thực tiễn quốc tế đã và đang có hiệu lực" - Và ông cũng xác định việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên cơ sở pháp lý. Nay ông lại không biết "kiện nội dung gì?" và cũng không biết "Căn cứ pháp lý nào?", khi mà ngay cả "chủ quyền lịch sử" của Việt Nam, ông cũng khuyên là không nên ứng dụng. Vậy ý ông muốn thế nào cho chủ quyền biển đảo của Việt Nam do tổ tiên để lại, đang bị chiếm đóng bất hợp pháp bởi Trung Quốc?
    2 likes
  2. THỜI HÙNG VƯƠNG VÀ CHỮ VIỆT CỔ. Nguyễn Vũ Tuấn Anh Vào ngày 29 tháng 1. 2013, tại khách sạn Railway, 80 Lý Thường kiệt, Nhà xuất bản Hồng Đức phối hợp với Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương tổ chức một buổi giới thiệu sách "Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ" của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Một cuốn sách trong hàng trăm, hàng nghìn đầu sách xuất bản mỗi năm ở Việt Nam với nội dung viết về một thứ chữ đã trở thành lịch sử và bây giờ chẳng còn ai quan tâm đến nó. Nó không còn giá trị sử dụng trong xã hội Việt Nam hiện đại và có lẽ cả xã hội loài người nói chung. So với những cuốn sách khác bán chạy như tôm, viết về các phương pháp kinh doanh làm giầu, những bí mật của thế giới chính trị, quân sự; những kiến thức khoa học hiện đại; về tương lai của con người, xã hội và của cả thế giới này... để con người có thể nhanh chóng nắm bắt, trang bị kiến thức thời đại để nhanh chóng lao vào cuộc đời với khí thế hừng hực trong cuộc tranh đua - thì - cuốn sách của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền có vẻ như không nằm trong hành trang của tri thức hiện đại. Chữ Việt cổ, nếu có thật thì cũng chỉ như một chứng cứ lịch sử và chẳng còn gía trị sử dụng. Chẳng ai cần đến thứ chữ viết từ hàng ngàn năm trước. Người ta đua nhau học tiếng Anh, tiếng Trung để hội nhập với thế giới. Ngay cả chữ Quốc Ngữ hiện đại, ngay cả trình độ trên phổ thông trung học, người ta còn viết sai cả chính tả, huống chi là chữ viết của ông cha từ hàng ngàn năm trước. Nếu chỉ nhìn về góc độ thực dụng hạn hẹp thì có vẻ đúng như thế! Và có lẽ cũng vì thế mà nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền bỏ cả một đời người cũng chỉ cặm cụi một mình với rất nhiều gian nan, với nỗi lòng đau đáu tìm về cội nguồn chữ viết của dân tộc. Ông tự bỏ công sức với nguồn tài lực ít ỏi của chính ông và gia đình để lặn lội đi tìm chữ Việt cổ. Không phải đến ngày 29. 1. 2013 ông mới giới thiệu cuốn sách của này. Ngày mùng 4 tháng 5. 2012, tại Hội trường Nhà xuất bản Tri Thức 53 Nguyễn Du, Trung Tâm Minh Triết Việt và Nhà xuất bản Tri Thức đã phối hợp tổ chức một buổi thuyết trình về Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Sau buổi thuyết trình, sự quan tâm của các nhà khoa học chuyên ngành về lịch sử, ngôn ngữ đều cho rằng công trình của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền chưa đủ sức thuyết phục. Và họ - những nhà khoa học ấy - qua công trình nghiên cứu khoa học của ông, đã khen ngợi ông Xuyền là có "tinh thần yêu nước"?! Điều mà ông Xuyền đã quá đủ để chứng tỏ, khi vào tận sở mật thám Pháp tại Hải Phòng, giải cứu ngài Nguyễn Hữu Thọ - sau này là Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chủ tịch nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông không cần thiết phải bỏ cả cuộc đời còn lại của mình thể hiện lòng yêu nước qua công trình nghiên cứu chữ Việt cổ. Tôi nghĩ chính ông mới đủ tư cách nhận xét lòng yêu nước của người khác, qua những hành động quả cảm của ông khi tham gia chống quân Pháp xâm lược. Trong buổi thuyết trình này, giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê đã tham dự và cho rằng những luận cứ của ông Xuyền còn chưa đủ "cơ sở khoa học". Ý kiến của giáo sư Phan Huy Lê được báo Thanh Niên mô tả như sau: Tất nhiên, không phải chỉ có một mình giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê, những nhà khoa học chuyên ngành thuộc hàng "top", có chức danh và học vị trong các Viện nghiên cứu, khi phát biểu cũng thể hiện sự chưa thỏa mãn với luận điểm của ông Xuyền. Với địa vị học thuật thể hiện qua danh vị và những chức vụ đảm trách các bộ môn khoa học liên quan, những phát biểu của họ nghiễm nhiên mang tính quyền lực học thuật. Và thế là nó gây một cảm giác mơ hồ vốn mang tính phổ biến với cụm từ "chưa được khoa học công nhận". Đương nhiên với những ý kiến của những nhà khoa học có danh vị, làm cho đông đảo những người ủng hộ một cảm giác rằng: Một nhà nghiên cứu nghiệp dư, không tên tuổi, còn có bút danh là trong thế giới văn chương là Khánh Hoài - tức là không có "chuyên môn sâu", như cách nói của giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê - lại có thể làm được một công việc mà ngay những nhà khoa học tên tuổi - cả trong lẫn ngoài nước, từ hàng trăm năm nay - đã thất bại!? Nhưng sự thành công trong việc đi tìm hệ thống chữ Việt cổ đã thực sự xảy ra với công trình nghiên cứu của ông Xuyền. Bởi vì, trong nghiên cứu khoa học không lệ thuộc vào sức chứa bộ nhớ và chức danh của các nhà khoa học. Nó cũng không phụ thuộc vào số đông cổ vũ với những pan hâm mộ và phương tiện nghiên cứu hoàng tráng trong các Viện khoa học. Tất nhiên nó cũng không lệ thuộc vào các đề tài khoa học với kinh phí hàng chục triệu tiền Việt, hoặc hoàng tráng hơn - đến hàng trăm tỷ Dollar - như cỗ máy gia tốc hạt của cộng đồng khoa học châu Âu đi tìm Hạt của Chúa. Tất cả những điều đó chỉ là những yếu tố hỗ trợ. Để có những phát minh khoa học thì tôi cần phải xác định ngay rằng: Một trong những yếu tố có tính quyết định cho sự thành công của một công trình nghiên cứu khoa học, chính là phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu của nhà văn Khánh Hoài. Về phương pháp nghiên cứu chữ Việt cổ từ trước đến nay có thể phân loại với ba phương pháp đã thể hiện như sau: 1. Phương pháp dựa trên các di vật khảo cổ - do GS Hà Văn Tấn khởi xướng và đã tìm ra được một số hình, như là ký tự trên các di vật khảo cổ có niên đại xác định khác nhau. Nhưng chưa đủ căn cứ để xác định tính hệ thống của chữ Việt cổ. 2. Phương pháp dựa vào các hình khắc cổ trên đá - do một nhà nghiên cứu người Pháp đã và đang dựa trên hàng nghìn bản in từ đá cổ Sapa và các bãi đá cổ khác - sau khi tổng hợp và phân loại ông đã xác định được một số motif lặp lại trong nhiều hình vẽ có thể là một dạng ký tự - tuy nhiên chưa công bố kết quả cụ thể nào. 3. Phương pháp phỏng đoán chữ Việt cổ còn lại ở Tây Bắc và đi sưu tầm và hệ thống hóa - phương pháp này do GS Lê Trọng Khánh khởi xướng. Nhưng giáo sư Lê Trọng Khánh lại cho rằng đó là hệ thống chữ viết của người Tày Thái vì nó thể hiện ngôn ngữ trong sinh hoạt của người Tày Thái. Tất nhiên, tất cả những phương pháp này đã thất bại. Tôi trình bày khái quát nguyên nhân thất bại của ba phương pháp này, như sau: 1/ Phương pháp của giáo sư Hà Văn Tấn, chủ yếu dựa vào sự tìm thấy hay không những di sản cổ còn lại để xác định hệ thống chữ Việt cổ. Đây là một phương pháp nghiên cứu lịch sử - được "khoa học công nhận", nhưng tất nhiên không phải là duy nhất đúng - khá thịnh hành ở khoảng nửa đầu thế kỷ trước. Nhưng di sản khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Điều này dễ hiểu! Vì chẳng có lẽ nào vì không có di vật khảo cổ thì lịch sử không tồn tại. Nhất là những vấn đề lịch sử đã lùi sâu vào quá khứ tính bằng thiên niên kỷ - Tất nhiên, những di sản cổ ngay cả bằng sắt thép cũng hoàn toàn ...biến mất. Chưa nói đến di sản phi vật thể là hệ thống chữ viết của một dân tộc bị đô hộ hàng ngàn năm. Ngay cả trường hợp tìm thấy một di sản vật thể cổ có thể mô tả một sự kiện lịch sử nào đó thì cũng chỉ có thể coi đó là một sự hiện hữu khách quan và tự nó không nói lên điều gì. Nhà nghiên cứu với bằng chứng di sản vật thể khảo cổ tìm được, vẫn cần một hệ thống luận cứ hợp lý tối thiểu, để giải thích sự hiện hữu của di sản đó trong mối liên hệ với môi trường lịch sử mà nó đã ra đời. ở đâu đó trong cõi trần gian này. Điều kiện cần cốt lõi của phương pháp này là: Phải tìm thấy những di vật khảo cổ. Không tìm thấy thì bế tắc và giáo sư Hà Văn Tấn đã không tìm thấy. 2/ Phương pháp dựa vào các hình khắc cổ trên đá - dựa trên hàng nghìn bản in từ đá cổ Sapa và các bãi đá cổ khác do một nhà nghiên cứu người Pháp triển khai. Ông đã tổng hợp và phân loại và xác định được một số motif lặp lại trong nhiều hình vẽ có thể là một dạng ký tự - tuy nhiên chưa công bố kết quả cụ thể nào. Phương pháp này của nhà nghiên cứu người Pháp thực chất cũng chỉ là sự sưu tầm di vật khảo cổ dưới một hình thức khác. Nó vẫn đòi hỏi khả năng giải mã để có thể đọc và phục hồi lại toàn bộ hệ thống chữ Việt cổ. Nhưng với hàng ngàn năm đã trôi qua, ngôn từ của một dân tộc cũng biến đổi theo thời gian. Ngay cả hệ thống ký tự Ai Cập cổ đại trong Kim Tự Tháp, hiện hữu rõ ràng như vậy, nếu không tìm được mối liên hệ với 6 ký tự liên quan đến chữ viết hiện đại thì con người của nền văn minh hiện nay vẫn chưa đọc được những bản văn khắc trong các Kim Tự tháp cổ Ai Cập. Bởi vậy, cùng chung số phận với phương pháp của giáo sư Hà Văn Tấn - căn cứ trên di vật khảo cổ - là những di sản vật thể để xác định một giá trị văn hóa phi vật thể là một sai lầm. Cho nên, việc đi tìm hệ thống chữ Việt cổ của phương pháp này cũng đi vào bế tắc. Cho dù nó được thực hiện bởi những nhà khoa học tên tuổi tầm cỡ. 3. Phương pháp phỏng đoán chữ Việt cổ còn lại ở Tây Bắc và sưu tầm và hệ thống hóa - của GS Lê Trọng Khánh. Đây là phương pháp có một định hướng gần đúng hơn cả - so với hai phương pháp trên. Bởi vì với một di sản phi vật thể là hệ thống chữ Việt cổ thì nó phải được tìm hiểu và khám phá từ những giá trị di sản phi vật thể. Do đó, giáo sư Lê Trọng Khánh thành danh trong việc truy tìm hệ thống chữ Việt cổ. Nhưng sự thành công của giáo sư chỉ dừng lại ở đây. Chính vì mặc dù có một phương pháp gần đúng, nhưng giáo sư lại không có một hệ thống luận cứ đủ thuyết phục để tiếp tục tiến tới mục đích cuối cùng. Giáo sư Lê Trọng Khánh cho rằng đó là hệ thống chữ viết của người Tày Thái vì nó thể hiện ngôn ngữ trong sinh hoạt của người Tày Thái. Vấn đề được đặt ra là: Vì sao dân tộc Tày Thái - trong điều kiện chịu chung cảnh Bắc thuộc hàng ngàn năm như Việt tộc và là một bộ phận thiểu số trong cộng đồng Việt cổ lại có chữ viết, còn dân tộc Việt cổ lại không có? Nhu cầu nào và xuất phát từ một hệ thống quản trị xã hội nào để dân tộc Tày Thái có hệ thống chữ viết riêng của mình? Nhưng với nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã đi tìm một phương pháp hoàn toàn khác. Phương pháp nghiên cứu của ông có tính kế thừa từ những phương pháp trên với những tư liệu cực kỳ phong phú. Phương pháp của ông có nhiều điểm tương đồng với giáo sư Lê Trọng Khánh, là đi tìm nguồn gốc của chữ Việt cổ lưu truyền trong dân gian, qua những giá trị di sản phi vật thể. Do đó, có sự ngộ nhận ông đi theo con đường của giáo sư Lê Trọng Khánh. Nhưng điểm nhấn và cũng là sự khác biệt của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền với các phương pháp trên chính là ông đã tổng hợp những dữ kiện về chữ Việt cổ trong một hệ thống luận cứ chặt chẽ - dựa trên những tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học được coi là đúng - trong chuyên ngành khoa ngôn ngữ học hiện đại - để xác định bộ chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương dựng nước. Tiêu chí khoa học cho một lý thuyết, một giả thuyết, một phương pháp...vv....nhân danh khoa học, là những giá trị thẩm định và phản biện khoa học hoàn toàn khách quan, được hình thành trong lịch sử phát triển của khoa học hiện đại và được sự thừa nhận bởi những nhà khoa học thực sự. Nhà nghiên cứu không có "chuyên môn sâu" như ông Đỗ Văn Xuyền, không thể tự đặt ra tiêu chí khoa học của riêng ông, để tự thỏa mãn những luận cứ của ông với "lòng yêu nước". Tiêu chí khoa học chính là cái mốc chuẩn để phân biệt tính khoa học và phi khoa học. Đây cũng chính là cơ sở để thừa nhận hay phủ nhận những luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Do đó, để phản biện và chứng minh sự sai lầm trong hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền thì phải căn cứ vào chính những tiêu chí khoa học được ông đề cập, hoặc những tiêu chí khoa học mà ông Xuyên bỏ qua để chỉ ra sai lầm của ông. Nhưng có vẻ như những người phủ nhận công trình nghiên cứu của ông Xuyền, chưa đủ tầm để thực hiện điều đó. Mặc dù học vị của họ cũng rất đáng kính nể. Từ nhiều năm nay, công trình nghiên cứu của ông Xuyền đã phổ biến rộng rãi, nhưng chưa có dù chỉ một bài viết có tính hệ thống với những luận cứ chặt chẽ, thể hiện tính "chuyên môn sâu" của những học giả đáng kính, phản biện những luận điểm của ông Xuyền?! Ông đã chứng minh sự tồn tại của một hệ thống chữ Việt cổ thỏa mãn đầy đủ tiêu chỉ khoa học cần có cho một hệ thống chữ viết của một nền văn minh. Từ cơ sở tiêu chí này so sánh với chữ Việt cổ liên hệ với ngôn ngữ trên các vùng miền của người Việt hoàn toàn thỏa mãn. Những người phủ nhận luận cứ của nhà văn Khánh Hoài lạm dụng khá nhiều từ khoa học. Nhưng họ lại không định nghĩa được chính khái niệm mà họ sử dụng. Thí dụ như giáo sư viện sĩ Phan Huy Lê đặt vấn đề về "cơ sở khoa học" trong hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Nhưng vấn đề được đặt ra là: Thế nào nội dung của 'cơ sở khoa học'. Tôi nghĩ: Những nhà nghiên cứu vốn không có "chuyên môn sâu", như ông Xuyền và cả tôi, và có lẽ cũng rất nhiều người khác, cần được hiểu nội dung thế nào là "cơ sở khoa học", để căn cứ vào đấy tự thẩm định?! Hoặc giả như PGS. TS Tống Trung Tín phát biểu: “Tôi đánh giá đây là một cách đọc theo phương pháp khoa học là… tưởng tượng. Nghĩa là nó không mấy chặt chẽ và hơi võ đoán” - thì chí ít ông cũng cần phải đưa ra cơ sở nào để ông có một "đánh giá" như vậy chứ nhỉ?! Tóm lại, tôi có thể kết luận rằng: Sự phủ nhận một cách vội vã là thái độ vô trách nhiệm đối với lịch sử văn hóa của dân tộc, ít nhất là do thiểu hiểu biết. Ý nghĩa của việc tìm ra Chữ Việt cổ. "Để xác định một nền văn minh thì nó phải có hệ thống chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó". Đó là một trong những tiêu chí khoa học để thẩm định một nền văn minh đã tồn tại trong lịch sử. Cội nguồn dân tộc Việt thời Hùng Vương, được ghi nhận trong tâm khảm của những người Việt Nam sau hàng ngàn năm Bắc Thuộc, bằng những truyền thuyết và huyền thoại và những dòng viết ngắn ngủi trong chính sử một cách mơ hồ. Đó chính là cái nguyên cớ để vào những thập niên cuối thế kỷ XX, những người có học vị đã đặt lại vấn đề cội nguồn lịch sử dân tộc nhân danh khoa học. Nhưng những lập luận của họ - do chỉ dựa trên sự hoài nghi về cội nguồn lịch sử dân tộc - nên không hề tỏ ra có một luận cứ sắc xảo. Mặc dù vậy, lợi dụng học vị họ vẫn ngang nhiên kết luận về Thời Hùng Vương cội nguồn lịch sử của Việt tộc, chỉ tồn tại "khoảng từ thế kỷ thứ VII trước CN" và chỉ "cùng lắm là một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố". Địa bàn hoạt động của nước Văn Lang - theo họ - chỉ vỏn vẹn ở "đồng bằng Bắc Bộ". Chúng tôi đã bác bỏ những luận điểm của họ, rõ ràng, minh bạch trên web của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Một trong những luận điểm trong việc phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt chính là việc không tìm thấy một hệ thống chữ viết để chứng tỏ sự tồn tại một nền văn hiến đầy tự hào của người Việt. Đây cũng chính là tiêu chí khoa học để xác định sự tồn tại của một nền văn minh. Nhưng đó là một yêu cầu khám phá, tìm hiểu và phục hồi, chứ không phải là một luận điểm phủ định - ngay cả như không tìm thấy hệ thống chữ Việt cổ. Nhưng thật may mắn! Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã xác định được hệ thống chữ Việt cổ. Đây chính là một điểm nhấn sắc sảo trong việc xác định cội nguồn lịch sử Việt tộc với gần 5000 năm văn hiến. Sự khám phá của nhà văn Khánh Hoài xác định "một nền văn minh thì nó phải có hệ thống chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó". Bởi vậy, nên "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" phủ nhận Việt sử gần 5000 năm văn hiến, đã có những cố gắng phi lý để phủ nhận thành tựu xuất sắc của ông. Tôi có thể thẳng thắn mà phát biểu như vậy. Nhưng thật đáng tiếc cho họ - những nhà khoa học với bằng cấp đáng kính - vẫn không hề có những luận cứ phản biện đủ minh bạch trước công luận - dù chỉ là trong một bài viết nghiêm túc - để chỉ ra sai lầm trong hệ thống luận cứ của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Tôi nghĩ, nếu những nhà khoa học thực sự có trách nhiệm với cội nguồn văn hóa sử dân tộc, thực sự có tinh thần khoa học, đủ tính công bằng và đủ tự tin vào khả năng tri thức thể hiện qua học vị của họ cho việc làm sáng tỏ chân lý - thì - cần tổ chức một cuộc hội thảo tranh luận một cách công khai, minh bạch để xác định tính chân lý cội nguồn văn hóa sử của Việt tộc, trong đó bao gồm một thành tố quan trọng là hệ thống chữ Việt cổ của nhà văn Khánh Hoài. Điều mà chúng tôi luôn xác định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương Tử và là cội nguồn của nền văn minh Đông phương một thời huyền vĩ. 6. 2. 2013 26. tháng Chạp Nhâm Thìn Việt lịch ============================= * Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng và các nhóm và trong một số trường hợp là cá nhân công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản văn hóa phi vật thể được cộng đồng, các nhóm không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người. Định nghĩa "di sản văn hóa phi vật thể của cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc
    1 like
  3. Ngũ vận Lục khí là gì? 1. Khoa dự báo có giá trị nhất: Lâu nay, khi nói đến khoa lý số, phương thuật, dự trắc cổ đại, người ta thường chỉ hay nhắc tới "Tử vi", "Bát tự", "Tử bình", "Kỳ môn độn giáp", "Thái ất thần số", ... Thực ra, còn có một bộ môn hết sức quan trọng nằm trong Hệ thống lý luận cơ bản của Đông y, đó là "Ngũ vận Lục khí", thường hay gọi tắt là "Vận Khí học". Trong các phương pháp dự trắc cổ đại, "Vận Khí học" được giới học thuật xưa và nay công nhận là phương pháp dự báo có độ chính xác và giá trị thực tiễn cao nhất. Ngũ vận Lục khí học lấy "Thiên nhân hợp nhất" làm tư tưởng chủ đạo. Nghĩa là công nhận: "Có một số phép tắc chung, có tính phổ quát, chi phối tất cả các biến động trong vũ trụ, từ sự vận hành của thiên thể, biến động của thời tiết khí hậu, cho đến những biến đổi của sinh vật và phi sinh vật". Ngay từ khi bắt đầu hình thành, Đông y học đã được xây dựng theo mô thức "Tự nhiên ­ Sinh học ­ Xã hội". Đó không phải là mô thức "Y học sinh học" thuần túy của Tây y trong thuở sơ khai, cũng không phải là mô thức "Sinh học ­ Tâm lý ­ Xã hội" của Y học hiện đại ngày nay. Do được xây dựng trên cơ sở "Thiên nhân hợp nhất", nên trong mô thức y học của Đông y còn có thêm nhân tố sinh thái. Đông y luôn nhìn nhận cơ thể con người như một "Hệ thống mở". Con người là một thành phần trong giới tự nhiên. Con người và thiên nhiên là một thể thống nhất. Mọi hoạt động sinh mệnh của con người đều gắn liền với những biến đổi của môi trường, sinh thái chung quanh. Sức khỏe là một trạng thái cân bằng động: Cân bằng giữa nhân thể với môi trường bên ngoài và cân bằng giữa các bộ phận bên trong nhân thể. Sự vận động và biến đổi của Ngũ vận và Lục khí có ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động sinh mệnh và sự hình thành, diễn biến của bệnh tật. Do đó, trong dưỡng sinh phòng bệnh cũng như trong chữa trị bệnh tật, Đông y luôn tuân theo nguyên tắc tổng quát: "Nhân thời, nhân địa, nhân nhân chế nghi" ­ căn cứ vào điều kiện thời tiết khí hậu trong từng thời điểm (nhân thời), hoàn cảnh địa lý (nhân địa) và đặc điểm cụ thể của từng người (nhân nhân) để lập ra phương án phòng trị thích hợp. Chính vì Đông y là một khoa "Y học sinh thái", do đó muốn thành thầy thuốc theo đúng nghĩa thì cần phải "Thượng tri thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự". 2. Vận khí học với Đông y học: Vận Khí" là tên gọi tắt của "Ngũ vận" và "Lục khí". Theo nghĩa rộng, đó là lý thuyết về mối quan hệ vĩ mô giữa những biến động của vũ trụ với những biến động của vạn vật. "Vạn vật" nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là "hệ sinh thái", bao gồm toàn bộ sinh vật (thực vật, đông vật, vi sinh vật) và phi sinh vật trong môi trường (ánh sáng mặt trời, ôn độ, nước, không khí, thổ nhưỡng). Theo nghĩa hẹp, Vận Khí là một bộ môn trong Đông y học chuyên tính toán, dự báo về sự biến đổi của thời tiết khí hậu hàng năm và tác động của những biến đổi đó đối với tổ chức kết cấu, chức năng sinh lý và bệnh lý của con người, để chỉ đạo dưỡng sinh, phòng bệnh và chữa bệnh có hiệu quả nhất Vận Khí học là bộ phận không tách rời của Đông y học và từ xưa đến nay luôn được y gia các thời đại coi trọng. Chính như Hải Thượng Lãn Ông đã nhận định: "Không thông Ngũ vận Lục khí thì đọc hết các sách cũng chẳng làm được việc gì". Còn sách Nội Kinh thì có câu: "Không hiểu Lục khí gia lâm hàng năm, sự thịnh suy của tiết khí, bệnh khí hư thực, không thể coi là lương y". Giáo sư Dương Lực ở Viện nghiên cứu Trung y Bắc Kinh (Trung Quốc) đã so sánh: "Nếu nói "Hoàng Đế Nội Kinh" là chiếc vương niệm của Đông y, thì Vận Khí học là viên ngọc sáng đính trên vương niệm đó. Có điều, viên ngọc đó chỉ dành cho những người không sợ khó khăn và nguy hiểm, dám dũng cảm vươn tới những đỉnh cao của khoa học. Nói cách khác, Vận Khí học là bộ phận tinh túy, uyên thâm nhất trong Đông y học, song cũng là một lý luận rất bí áo, hết sức khó hiểu". Ngay bậc kiệt xuất như Lãn Ông khi nghiên cứu Vận Khí học cũng phải than rằng: "... khi đọc đến quyển Vận Khí, cảm thấy mờ mịt như người đi đêm, chẳng khác nào trăng dưới nước, hoa trong gương, chỉ trông thấy mà không cầm lấy được, ... khiến người trong cuộc phải thèm rỏ dãi". Sau nhiều năm khổ công nghiên cứu và vài lần "toan cất làm của riêng", cuối cùng Lãn Ông đã quyết định "tiết lộ thiên cơ" và viết cuốn Vận Khí bí điển để cho môn Vận Khí học "trở thành vật báu chung của trăm họ" 3. Ứng dụng lâm sàng: Trong quá trình chẩn đoán và điều trị trên lâm sàng, ngoài việc sử dụng tư liệu thu được qua chẩn đoán ở từng người bệnh để tiến hành biện chứng luận trị theo "Bát cương" ­ "Âm Dương, Biểu Lý, Hàn Nhiệt, Hư Thực", người thầy thuốc Đông y còn chú ý đến thời gian và hoàn cảnh phát bệnh, nghĩa là còn luôn luôn tính đến mối quan hệ thống nhất giữa cơ thể con người với hoàn cảnh, môi trường sinh thái chung quanh. Thí dụ, ngay cả khi chữa trị cảm mạo một chứng bệnh rất thường gặp, Đông y cũng luôn luôn căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng những biện pháp, vị thuốc chữa trị khác nhau: Mùa đông bị cảm lạnh thì sử dụng những vị thuốc cay nóng để "phát tán phong hàn" như ma hoàng, quế chi, tế tân, kinh giới, tử tô, ... Mùa hè bị cảm nóng thì sử dụng những vị thuốc cay mát để "phát tán phong nhiệt" như trúc diệp (lá tre), cát căn (rễ sắn dây), bạc hà, tang diệp (lá dâu tằm), cúc hoa, ... Một ví dụ khác: Năm 1955 khi ở Thạch Gia Trang (Trung Quốc) bùng phát dịch viêm não B, các thầy thuốc đã sử dụng bài thuốc "Thạch cao thang" chữa trị đạt kết quả tốt. Tới năm 1956 ở Bắc Kinh cũng phát sinh dịch viêm não B, người ta cũng dùng "Thạch cao thang" nhưng không kết quả. Về sau phải cải tiến, dùng các bài thuốc giải trừ thấp nhiệt và phương hương hóa thấp thì mới có kết quả tốt. Lý do: Cùng là một bệnh viêm não B nhưng bệnh dịch phát tác trong các mùa khác nhau (thời gian hoàn cảnh khác nhau). Tại Thạch Gia Trang bệnh dịch phát sinh vào giữa mùa hè, khí hậu viêm nhiệt, tính chất của bệnh thiên về "nhiệt". Còn ở Bắc Kinh phát sinh trong mùa trưởng hạ, trời mưa liên miên, tính chất của bệnh thiên về "thấp", nên phương pháp chữa trị và vị thuốc cũng phải khác đi. Đây cũng là một thí dụ hết sức tiêu biểu thể hiện tính ưu việt của phương pháp chữa bệnh theo quan điểm sinh thái "Thiên nhân hợp nhất" của Đông y học. Lương y HƯ ĐAN Xin vui lòng ghi rõ nguồn "Thuốc vườn nhà ­ http://www.thuocvuonnha.com" khi phát hành lại thông tin Thông tin trên thuocvuonnha.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức; không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Quý bạn đọc.
    1 like
  4. 15/ 7 là hôm qua đây. ko biết thế nào, vì không để ý. Nhưng hôm nay 16/ 7, sau 1 ngày, Hanoi nóng đến 34 độ. PS: Đoán trước từ một tháng, chính xác đến ngày. Khí Tượng Thủy Văn Hoa Kỳ cũng không đủ trình để dự đoán như vậy.
    1 like
  5. Dân gian vẫn thường cho rằng ma quỷ thật đáng sợ, có thể quấy phá ở dương gian, mang đến tai họa cho con người. Bên cạnh đó, người ta cũng cho rằng có một số thứ lại khiến ma quỷ phải sợ. Quỷ sợ ánh sáng Mặt trời Trong dân gian có cách nói “hai cõi âm dương”, chính là quan niệm rằng con người sống ở “dương gian” , ma quỷ sống ở “âm gian”. Con người chết đi sẽ thành ma quỷ, tức là đi về cõi âm, ma quỷ vẫn có thể chuyển sinh thành người (hoặc là những động vật khác) tức là quay trở lại dương gian. Giữa người và quỷ, có thể có sự qua lại với nhau, ví như khi người ta nằm mộng hoặc khi linh hồn rời khỏi thân xác, có thể du ngoạn “âm tào địa phủ”, đến âm gian một chuyến. Còn ma quỷ vào lúc đêm tối hoặc những lúc âm u cũng lén lút mà chạy đến dương gian quậy phá tác quái một phen. Tuy nhiên, thông thường thì người và quỷ không thể qua lại giao du với nhau được. Ở đây, ranh giới và chướng ngại lớn nhất chính là “ánh sáng Mặt trời”. Con người hoạt động vào ban ngày, hoạt động dưới ánh sáng Mặt trời, và Mặt trời lại là thứ mà quỷ hồn khiếp sợ nhất. Giữa thanh thiên bạch nhật, hết thảy ma quỷ đều không có nơi ẩn núp. Vậy nên khi Mặt trời sắp ló rạng, ma quỷ đã vội vàng bỏ chạy mất rồi. Quỷ sợ lửa Ánh lửa từ ngọn lửa đang cháy, loại ánh sáng này rất giống với ánh sáng Mặt trời, chỉ là không có cường độ ánh sáng mạnh mẽ như của Mặt trời, nhưng đối với ma quỷ cũng có sức uy hiếp rất lớn. Dân gian tương truyền rằng, buổi tối khi người ta đi đường, nếu như gặp phải ma quỷ chỉ cần đốt một cây đuốc sẽ dọa cho ma quỷ sợ hãi mà bỏ chạy đi mất. Khi không có mồi lửa, thì hãy dùng tay vò vò đầu tóc, bởi đốm sáng phát ra từ tóc cũng có khả năng đuổi quỷ tránh tà. Có thể thấy phần lớn ma quỷ đều sợ ánh lửa. Bởi vậy, dân gian thường dùng cách đốt lửa để trừng trị ác quỷ. Quỷ sợ tiếng nổ Khi thanh gỗ, tre trúc dập tắt, sẽ phát ra tiếng vang “Bộp! Bộp! Bộp! Bộp!”. Người ta nói rằng, loại tiếng nổ này cũng là khiến cho ma quỷ phải kinh sợ. Trong dân gian khi xua đuổi tà ma thường hay đốt pháo, chính là dựa theo loại phong tục này. Quỷ sợ màu đỏ Dân gian cho rằng ma quỷ không dám chạm vào vật có màu đỏ. Vậy nên dân gian thường dùng lấy vải đỏ, máu động vật để xua đuổi tà ma. Ma quỷ sợ đèn Đèn phát ra ánh sáng, tác dụng của nó có phần tương tự như Mặt trời. Những ngọn đèn thời xưa, thường là loại đèn dầu, là dùng ánh lửa để chiếu sáng. Vì vậy, nó là thứ khiến cho ma quỷ phải khiếp sợ. Ma quỷ sợ đồ đồng Có người cho rằng ma quỷ có khả năng né tránh viên đạn, nhưng trong súng lắp cái chốt bằng đồng, thì ma quỷ không thể tránh được. Trong phong tục cưới hỏi của dân tộc Hán thời xưa, tân nương trước khi bước lên kiệu, sẽ đeo một chiếc gương đồng cổ trước ngực, tục gọi là “kính chiếu yêu”. Người ta cho rằng, có tấm gương này rồi, một số yêu ma quỷ quái sẽ không dám đến quấy nhiễu cô dâu nữa. Ma quỷ sợ tiếng gà gáy Tục gọi là quỷ sợ gà, kỵ tiếng gà gáy. Nghe nói, ma quỷ mà nghe thấy tiếng gà gáy thì người co rút, hoảng loạn, trong tâm vô cùng khiếp sợ. Cách nói này rất có thể là bắt nguồn từ câu “gà gáy trời sẽ sáng”. Quỷ âm sợ Mặt trời, gà thuộc dương, gà gáy tức là Mặt trời sẽ ló rạng. Mặt trời ló rạng thì ma quỷ không còn chỗ ẩn náu nữa. Vậy nên nói, gà là thứ mà ma quỷ kiêng kỵ. Ma quỷ sợ hình con hổ Dân gian thường hay vẽ hổ ngay trước cửa nhà, hoặc là làm đồ trang sức có hình con hổ cho trẻ em (mang giày đầu hổ, đội mũ đầu hổ) thì có thể đuổi tà tránh quỷ. Có thể thấy trong tương truyền của dân gian, quỷ cũng sợ hổ, tránh hổ như tránh người vậy. Ma quỷ sợ gỗ đào Cây gì trừ ma quỷ? Theo tục lệ, vào ngày cuối năm mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là “lên nêu” có thể đuổi được ma quỷ. Ngoài ra, dân gian cũng có thói quen lấy gỗ đào làm cung tên, đao, gậy, cũng là để đuổi tà trừ quỷ. Ma quỷ sợ gạo Dân gian cho rằng gạo có tác dụng xua quỷ tránh tà. Ở nhiều vùng có tục rằng, sản phụ đầy tháng trên đường về nhà mẹ đẻ, mỗi lần đi qua một giao lộ đều cần phải rải một nắm gạo. Nếu không làm vậy, người ta cho rằng sẽ bị ma quỷ tác quái làm hại. Ở Đài Loan, khi tân nương xuống kiệu cần người nhà giơ cái sàng gạo bát quái đội lên đầu mới có thể đi vào phòng lớn, đây cũng là phong tục dùng vật dụng có liên quan với gạo để xua đuổi tà ma, chiêu mời phúc lành. Khi trẻ em té ngã, dân gian quen dùng muối và gạo rải xuống nơi trẻ té ngã, tin rằng như vậy liền có thể xua đuổi ta ma làm hại trẻ nhỏ. Khi chôn cất, sau khi rải muối gạo, quỷ hồn của người đã chết sẽ không làm hại những người khiêng quan tài được nữa. Trong phong tục “gọi hồn” ở vùng Giang Tô cũng thường dùng gạo thóc làm “đạo cụ” chủ yếu trong việc đuổi tà dẫn hồn. Có thể thấy, gạo thóc là vật khiến cho ma quỷ khiếp sợ. Trên đây là những điều vẫn tương truyền trong dân gian, là những phong tục thường thấy ở nhiều vùng đất khác nhau. Tuy nhiên, lại nói thêm rằng, ma quỷ chỉ có thể quấy nhiễu khi con người có tâm bất chính chiêu mời chúng đến mà thôi. Còn đối với một người sống cuộc sống lành mạnh, tâm gieo điều thiện, một lòng kính ngưỡng đối với Thần Phật, đặc biệt là những người tu luyện chân chính … thì sẽ không ma quỷ nào dám quấy nhiễu. Bởi ma quỷ sợ nhất chính là những người này. Tiểu Thiện, dịch từ hege8.com những cách làm trên phần lớn để tránh âm khí tích tụ , gây ra bệnh tật , điềm xui rủi
    1 like
  6. Viettimes.vn ======================= Lại chém gió! Người Trung Quốc không đủ tư cách để nói đến phạm trù "phân định lại Càn Khôn". Đây là việc của lão Gàn.
    1 like
  7. Hoàn Cầu: “Mỹ chuẩn bị kịch bản liên quân 8 nước bao vây Trung Quốc“ VietTimes 23/06/2016 06:38 GMT+7 VietTimes -- Khi hai nước Mỹ - Trung giao chiến, nếu Mỹ không giành được chiến thắng nhanh gọn, rất có thể Mỹ sẽ áp dụng chiến thuật truyền thống, phối hợp với Nhật Bản, Philippines, Ấn Độ, Úc, Canada, Malaysia, thậm chí cả Đài Loan... tạo thành liên minh quân sự bao vây Trung Quốc, Hoàn Cầu dự báo. Trung Quốc hết sức lo ngại Mỹ sẽ lôi kéo các nước đối phó với Trung Quốc Như thế, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với mối nguy hiểm có một không hai từ phía “8 nước liên quân”. Đây là khả năng có thể xảy ra, Trung Quốc không nên coi thường mà cần có sự chuẩn bị từ trước – bài viết được đăng trên mạng Trung Hoa với tựa đề: Một khi Trung – Mỹ khai chiến: Rất có thể Trung Quốc sẽ phải đối mặt với 8 nước liên quân mới. Thời báo Hoàn Cầu mới đây la lối: "Trong hai tuần tới, Mỹ dự định sẽ đưa tàu chiến vào lãnh hải trên biển Đông của Trung Quốc!". Ngày 7/6, tờ Thời báo hải quân của Mỹ đưa tin, từ tháng 5 trở lại đây, luôn có nguồn tin nói rằng Mỹ đang lên kế hoạch đưa tàu chiến vào vùng biển gần với các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép trên Biển Đông. Ba quan chức của Lầu Năm Góc tiết lộ, hải quân Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng và đang chờ đợi lệnh phê chuẩn cuối cùng của chính quyền tổng thống Obama. Ngày 8/6, tờ Thời báo tài chính của Anh dẫn lời một quan chức Mỹ cho biết, tàu chiến Mỹ sẽ tiến vào khu vực 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam, dự định kế hoạch sẽ được triển khai trong một tuần tới. Nhà Trắng đã từ chối bình luận về điều này đồng thời chỉ nói những hành động này thuộc phạm trù “cơ mật”. Ngày 8/6, hãng Reuters của Anh đưa tin, cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh đã phát biểu trong cuộc họp báo định kỳ rằng Trung Quốc đã chú ý đến bản tin này. Trước đó, Bộ ngoại giao Trung Quốc từng phát biểu rằng hoạt động tự do hàng hải không bao hàm việc tàu chiến, chiến đấu cơ nước ngoài có thể tùy tiện tiến vào lãnh hải và không phận của một quốc gia. Hoa Xuân Oánh nói: "Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến những bản tin như thế này. Trong nhiều dịp tiếp xúc song phương và trong chuyến thăm Mỹ của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, hai bên đã có sự trao đổi sâu rộng về vấn đề biển Đông, do đó chúng tôi tin rằng phía Mỹ đã hiểu rất rõ về lập trường nguyên tắc của Trung Quốc. Điều chúng tôi mong muốn là phía Mỹ có thể nhận thức một cách khách quan, đúng đắn về cục diện Biển Đông hiện nay, cùng Trung Quốc phát huy vai trò mang tính xây dựng thực sự cho nền hòa bình, ổn định của khu vực Biển Đông". Ngày 8/6, Hứa Lệ Bình – chuyên gia của Viện nghiên cứu nghiến lược quốc tế và khu vực châu Á Thái Bình Dương thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc trả lời phỏng vấn Hoàn Cầu phán một cách hết sức vô lối rằng "Nếu Mỹ làm như vậy, chắc chắn sẽ khiến cục diện Biển Đông rối như mớ bòng bong. Điều này sẽ phát đi tín hiệu sai cho Philippines và Việt Nam, khiến hai quốc gia này có thể có những hành động mạo hiểm sau khi đánh giá sai về tình hình, đe dọa đến sự ổn định của Biển Đông". Cận cảnh một phần Đá Chữ Thập ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp, xây dựng thành đảo nhân tạo trái phép Còn Dự Chí Vinh – nghiên cứu viên của Viện nghiên cứu phát triển hải dương Trung Quốc quả quyết, nếu quân đội Mỹ tiến vào “lãnh hải” của Trung Quốc và có những hành động mang tính xâm phạm, Trung Quốc sẽ ngăn chặn. Nếu chỉ là hoạt động đi qua thông thường, Trung Quốc sẽ cảnh cáo và bám sát để theo dõi. Bài viết chỉ ra rằng, từ lời phát ngôn của người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc có thể thấy, trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc đã nhiều lần trao đổi với Mỹ trong các dịp tiếp xúc, nhưng Mỹ vẫn cố tình làm như vậy, đồng thời còn công khai nói với Trung Quốc, đây chẳng phải là hành vi khiêu khích ngang nhiên hay sao? Theo nguồn tin của truyền thông Mỹ, thực ra Mỹ đã nhiều lần ra tay, chỉ có điều không thông báo trước với Trung Quốc như lần này. Nguồn tin từ báo chí Mỹ cho biết, quân độ Mỹ đã xây dựng một kế hoạch tấn công Trung Quốc, chia Trung Quốc thành các chiến khu Đông Hải, chiến khu Nam Hải, chiến khu Không Thiên. Mặt khác, Mỹ còn đưa ra những suy đoán về kết quả chiến tranh, cho rằng cho dù là giao chiến ở biển Hoa Đông hay Biển Đông, Trung Quốc đều không thể giành chiến thắng. Tạm thời chưa nói đến kết quả thực tế thế nào, nhưng những thông tin này ít nhất cho thấy chính phủ và quân đội Mỹ đã nhiều lần lên kế hoạch tấn công quân sự nhằm vào Trung Quốc. Chỉ có điều Washington lo ngại Bắc Kinh sẽ dựa vào ưu thế về mặt địa lý tấn công căn cứ quân sự của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương bằng tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. Vì việc khai chiến hay không là do Mỹ quyết định, tuy nhiên tấn công thế nào, bao giờ kết thúc lại phụ thuộc vào Trung Quốc. Vì một khi súng đã nổ, với Trung Quốc là không có đường lùi, buộc phải đánh lại, báo chí Trung Quốc hô hào. Gần đây, cho dù là phương tiện truyền thông hay lời phát ngôn của phía quân đội Mỹ hay Trung Quốc, đều đề cập rất nhiều tới chiến tranh. Trung Quốc cho rằng những hành vi mang tính khiêu khích của Mỹ ngày càng xuất hiện nhiều hơn và nghiêm trọng hơn. Hai tàu sân bay thuộc Hạm đội số 3 của Mỹ là USS Carl Vinson và Ronald Reagan cũng từ Đông Thái Bình Dương tiến vào Tây Thái Bình Dương. Bắc Kinh cho rằng, bất luận nhằm mục đích gì, ít nhất đây cũng là một lời đe dọa. Tất cả những điều này tạo cho dư luận một cảm giác rằng vùng biển xung quanh Trung Quốc ngày càng sặc mùi thuốc súng của chiến tranh. Theo lời một nhà chiến lược của Mỹ, mối quan hệ Mỹ - Trung đã đến điểm tới hạn. Tác giả bài viết đặt ra câu hỏi rằng, chẳng lẽ mối quan hệ Trung - Mỹ đã đi tới bờ vực thẳm, buộc phải dùng chiến tranh để giải quyết ư? Trong một bài viết có tên gọi Cuộc chiến cả Mỹ và Trung Quốc đều không thể thua đã nêu rõ quan điểm này. Giả dụ Mỹ không quan tâm đến hậu quả, ngang nhiên chĩa súng vào Trung Quốc thì rất có thể cuộc chiến tranh này sẽ diễn ra rất dài, cho đến khi nào phân được thắng bại mới dừng. Báo Trung Quốc chủ quan nhận định rằng khi chiến tranh đã nổ ra thì cả Trung Quốc và Mỹ đều không thể để bại trận. Nếu chiến bại, chắc chắn Mỹ sẽ để mất lòng tin trước các nước đồng minh, vị thế bá chủ của Mỹ sẽ rớt thảm hại, Nhật Bản, Nga sẽ thừa cơ vùng lên, Việt Nam, Philippines sẽ “ngả về” phía Trung Quốc. Mỹ bị hất cẳng ra khỏi châu Á, chính sách tái cân bằng châu Á – Thái Bình Dương sẽ phá sản hoàn toàn, do đó Mỹ chỉ có thể chiến thắng mà không được phép chiến bại. Tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio của Mỹ Máy bay trinh sát, săn ngầm P-8 Poseidon của Mỹ thường xuyên hoạt động ở Biển Đông Hải quân Mỹ và Nhật Bản tập trận chung trên biển Còn đối với Trung Quốc, sự thắng bại càng có mối liên hệ mật thiết với mối sinh tử tồn vong của quốc gia này. Nếu Mỹ bại trận, hậu quả nghiêm trọng nhất chỉ là rút khỏi châu Á, nhưng nếu Trung Quốc thua cuộc, đồng nghĩa với sự sụp đổ của chính quyền, bất ổn trong nội bộ quốc gia, đất nước chia tách, do đó bất luận thế nào cũng phải đánh thắng. Bài viết nhấn mạnh, ý tưởng Mỹ muốn chiến tranh để phân định lại càn khôn là phi thực tế, là hết sức nguy hiểm. Giả dụ không thể đánh nhanh thắng nhanh, và lại không thể thỏa hiệp, chắc chắn Mỹ sẽ dùng chiêu bài cũ là bắt tay với các nước Nhật Bản, Philippines, Ấn Độ, Úc, Canada, Malaysia…, thậm chí cả Đài Loan để bao vây Trung Quốc. Đây là nguy cơ Trung Quốc cần đăc biệt cảnh giác vì rất có khả năng xảy ra. Lúc này, thái độ của Nga sẽ hết sức quan trọng, nếu Nga nghiêng về bên nào, cán cân chiến thắng sẽ nghiêng về bên đó, nếu Trung Quốc bắt tay với Nga, hình thành nên mặt trận song cường, chiến tranh thế giới thứ ba sẽ ập xuống đầu nhân loại... Viettimes.vn ======================= Cái này lão cũng nói lâu rùi mừ! Ngay trong topic này, rằng: Bây giờ quý zdị mới biết điều này à? Híc! Quý zdị tưởng rằng áp dụng Binh pháp Tôn Tử "Lùi vào đất chết, để ắt phải thắng" - theo kiểu dựa lưng vào bờ sông cắm trại, binh lính không còn đường lui nữa, nên buộc phải chiến đấu đến cùng, và chỉ có chiến thắng mới giành được sự sống, phải không? "nhưng nếu Trung Quốc thua cuộc, đồng nghĩa với sự sụp đổ của chính quyền, bất ổn trong nội bộ quốc gia, đất nước chia tách, do đó bất luận thế nào cũng phải đánh thắng". Quên nhanh đi nhá. Lão chưa bàn đến cuốn "Binh pháp Tôn Tử" chính thống đã thất truyền - vì vốn nó thuộc về Việt tộc - và chỉ còn là cuốn sách mang tính chiến thuật trong quân sự; mà lão muốn nói thẳng vào nội dung của vấn đề này: Khi "lùi vào đất chết, để ắt phải thắng" là khi binh lực hai bên tương đương, hoặc gần tương đương thì lúc đó, bên nào quyết tử sẽ thắng. Còn nếu binh lực yếu mà lùi vào đất chết thì...chết luôn. Lịch sử Tàu đã ghi nhận điều này. Nay các quý zdị Tàu hãy so sánh tương quan không chỉ quân lực mà là cả cái xã hội Tàu đầy bất công của quý zdị với Hoa Kỳ, thì chẳng là cái đinh gì. Kể cả khi quý zdị dùng đến đội quân thứ 5 - là Hoa Kiều ngay trên đất Mỹ. Bởi vậy, từ lâu lão Gàn đã phán rằng: Bắc Kinh mắc sai lầm chiến lược - cho "Giấc mơ Trung Hoa" - sai lầm bắt đầu khi các người đụng đến Việt Nam. Lão cũng nhắc nhở lại với các người rằng: Đây là "Canh bạc cuối cùng", nên rất khốc liệt. Nó không hiền như khi cuộc chiến tranh Lạnh kết thúc với sự sụp đố của khối Liên Xô. Nhắc tới Liên Xô, nhân đây lão cũng quảng cáo cho nước Nga rằng: Từ lâu, lão đã thường khuyên ngài Putin với một tư duy nhất quán rằng: Hãy hợp tác với Hoa Kỳ, ngay bây giờ cũng chưa muộn. Và hôm nay, nhân bình luận bài viết trên Vietimes, lão cũng nói luôn: Khối Nato chẳng phải ngẫu nhiên kéo quân đến biên giới phía Đông và Hắc Hải, khi mà nước Nga không có ý định chống lại họ. Cái mà người phát ngôn bộ ngoại giao của nước Nga cho rằng: "Nato tưởng tưởng ra một nguy cơ ở phía Đông". Thưa ngài Putin! Nato không tưởng tượng đâu. Họ cũng thừa hiểu nước Nga ko hề muốn gây sự với họ. Nhưng họ đề phòng nước Nga của ngài tham gia vào "canh bạc cuối cùng" và trở thành một đồng minh của Bắc Kinh. Lúc đó, buộc họ phải phản ứng với tư cách Đồng Minh của Hoa Kỳ. Thưa ngài Putin. Đấy là cái nhìn rất "chủ quan" duy ý chỉ của lão. Nhưng nó mang tính hợp lý tổng hợp. Và nếu lão lại "gặp may" mà nó đúng thì qua đó thấy rằng: Hoa Kỳ đã chuẩn bị chu đáo cho "canh bạc cuối cùng": Trung Quốc không phải Iraq. PS. Lão nghĩ đến một viễn cảnh chiến tranh khốc liệt có khả năng xảy ra mà thấy tội nghiệp. Trong tháng 8 Việt lịch có một ngày Thiên Xá và một giờ Thiên Xá. Rất hiếm hoi ngày giờ Thiên Xá xảy ra trong cùng một khoảng thời gian. Có thể sử dụng ngày giờ này để hóa giải chiến tranh. Nhưng nó nằm ngoài quyền năng của lão Gàn.
    1 like
  8. Vỗ ngực tự xưng là cái nôi Văn Minh Phương Đông, một bụng sách tàu sao không biết cái gọi là "Vây Ngụy cứu Triệu" ta...? Cái "lỗ mũi" Biển Đông sao so được cái "mạn sườn" Hoa Đông...? Ku Cao bồi Viễn Tây cũng "tào lao" thiệt... nhảy vô la làng "tự do hàng hải, không đứng về bên nào"... nhưng lại "âm thầm" dựng "lá chắn" ở Hàn, cho Nhật "giải thích lại" Hiến Pháp để tái vũ trang...!? Nhớ lại năm 91 của thế kỷ trước... Tàu bè Mỹ và đồng mình tụm năm tụm bảy ở Vịnh Ba Tư... ra vẻ định "ốp" Irak bằng đường biển... làm cho Ngài Sadam kéo hết 70% quân về miền biển... Giờ cuối bất ngờ... "Bão táp sa mạc" nổi lên... nhanh như từng gọi là nhanh... Tình hình bây giờ... hơi hao hao...! Cái "nồi" gì thế...?
    1 like
  9. Trung Quốc tập trận 3 tháng với tình huống tham chiến thật ở Biển Đông Thanh Niên Online11:20 PM - 14/07/2016 Trung Quốc ngày 14.7 cảnh báo sẽ “kiên quyết đáp trả” những hành động gây hấn ở Biển Đông và tuyên bố tập trận kéo dài ba tháng giả lập tình huống tham chiến thật ở Biển Đông. Quân đội Trung Quốc ngày 14.7 tuyên bố sẽ tiến hành tập trận quy mô lớn kéo dài ba tháng (tháng 7 - 9), giả lập tình huống tham chiến thật trên Biển Đông Tin liên quan EU vẫn im lặng về phán quyết vụ kiện Biển Đông ASEAN không ra tuyên bố chung về phán quyết vụ kiện Biển Đông Philippines sẽ đề nghị Trung Quốc tôn trọng phán quyết vụ kiện Biển Đông Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra tuyên bố trên ba ngày sau khi Toà trọng tài thường trực (PCA, tại The Hague, Hà Lan) hôm 12.7 đã ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc liên quan vấn đề Biển Đông, theo đó Bắc Kinh không có “quyền lịch sử” ở Biển Đông, không có cơ sở pháp lý cho cái gọi là “đường lưỡi bò” hay "đường chín đoạn" chiếm trọn gần cả Biển Đông, theo AFP. Trung Quốc đã tuyên bố phớt lờ phán quyết của PCA, khẳng định PCA không có quyền tài phán. Bắc Kinh ngày 13.7 còn đe dọa lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông, một động thái nhằm trả đũa phán quyết này. “Nếu bất kỳ ai muốn có hành động gây hấn chống lại lợi ích, an ninh của Trung Quốc dựa trên phán quyết của PCA, Trung Quốc sẽ kiên quyết trả đũa”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lục Khảng tuyên bố ngày 14.7. Quân đội Trung Quốc cũng tuyên bố sẽ tiến hành cuộc tập trận quy mô lớn kéo dài ba tháng (tháng 7 - 9), giả lập tình huống tham chiến thật trên Biển Đông. Cũng trong ngày 14.7, Bộ Ngoại giao Philippines cho biết tại thượng đỉnh Á-Âu (ASEM), Ngoại trưởng nước này sẽ đề nghị Trung Quốc tuân thủ phán quyết của tòa trọng tài quốc tế về vụ kiện Biển Đông. Mỹ, Nhật Bản và Úc cũng đã lên tiếng kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của PCA, gọi phán quyết này là “ràng buộc về pháp lý”. Tuy nhiên, tân Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte lại ra chỉ thị muốn “hạ cánh nhẹ nhàng” với Trung Quốc sau phán quyết của PCA, tỏ ý muốn ngồi vào bàn đàm phán với Bắc Kinh. Ông Duterte ngày 14.7 còn đề xuất cựu Tổng thống Philippines Fidel Ramos, năm nay 88 tuổi, đến Trung Quốc đàm phán. “Chiến tranh không phải là một lựa chọn”, ông Duterte nói, đồng thời kêu gọi tiến hành “đàm phán hòa bình” nhưng không nói rõ khi nào. Ông Duterte, nhậm chức Tổng thống Philippines vào ngày 30.6, từng tuyên bố muốn thắt chặt quan hệ với Trung Quốc và thu hút thêm đầu tư từ Trung Quốc trong những dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn. Bộ Ngoại giao Philippines ngày 14.7 cho biết tại thượng đỉnh Á-Âu (ASEM), Ngoại trưởng nước này sẽ đề nghị Trung Quốc tuân thủ phán quyết của tòa trọng tài quốc tế về vụ kiện Biển Đông.Bắc Kinh trước đây từng đề xuất sẽ đồng ý ngồi vào bàn đàm phán với Philippines để giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông với điều kiện Manila phải bỏ qua phán quyết của PCA. Khác với chính phủ ông Duterte, chính quyền Philippines dưới thời Tổng thống Benigno Aquino, đệ đơn kiện Trung Quốc lên PCA vào năm 2013, nhiều lần lên án hành động ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông. Ông Aquino hồi tháng 6.2015 từng ví hành động bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông như phát xít Đức, đồng thời nhấn mạnh thế giới không thể tiếp tục nhân nhượng Trung Quốc. Phúc Duy ====================== Tung Coóc tiên bố tập đến tháng 9 - tức tương đương tháng 8 Việt lịch - Tức là còn hai tháng nữa mới hết hạn bảo kê của lão Gàn. Quả đúng như lời tiên tri của lão Gàn: Sau phán quyết từ Tòa PCA rất nhiều chiêu trò sẽ xuất hiện. Sẽ còn nhiều trò típ theo. Nhưng lão Gàn cũng cần nhắc nhở rằng: Ở cõi Hậu Thiên này, cái gì cũng có giới hạn của nó. Vượt quá giới hạn thì sang phim.
    1 like
  10. 1. Hôm rồi đi mát xa chân, thôi thì chuyện trên trời dưới bể... Rồi em hỏi anh có muốn biết đứa con tiếp theo của anh là con trai hay gái không? - Oh! Em biết xem à? Xem ntn? Xem cho anh đi... - Anh có nhẫn không? Em biết quay nhẫn, em quay là biết ngay, rất chính xác! - Nhưng anh không deo nhẫn bao giờ cả, thế có quay cái khác dc không? - Không, em chỉ biết quay nhẫn thôi, có một người dậy em, em quay cho một số người rồi, không sai bao giờ, quay còn biết dc là có mấy con rồi, trai hay gái nữa cơ... - Quay nhẫn thì làm sao mà chính xác dc, em lấy cái nhẫn của em quay cũng dc chứ gì? - Không phải là nhẫn của anh, anh đeo lâu rồi mới dc, khi anh đeo nhẫn vào, lâu ngày năng lượng của anh truyền vào cái nhẫn thì quay mới chính xác... ... chuyện thì còn dài, nhưng có vẻ như là dòng màu xanh ở trên là có cơ sở lý học thì phải!! 2. Có lần phải đi xa công tác cả tháng, vợ ở nhà một mình với thằng con nhỏ, khi về vợ kể.. "Khi anh đi, con nó khóc, không ngủ em phải lấy áo của anh, ủ cho nó ngủ đấy!" Mình nghĩ bụng, "Cái ao giặt sạnh rồi thì làm sao còn mùi hơi của mình nữa??" Nhưng có lẽ là có tác dụng, liệu có phải giải thích bằng cơ sở lý học không??? 3. Bạn có thể nhìn vào một căn nhà hoang & một căn nhà có người ở thì sẽ phân biệt ra ngay lập tức. Ngôi nhà không có người ở sẽ nhanh hư hơn ngôi nhà có người ở rất nhiều. Ngoài ra bạn chỉ cần đi vắng khỏi nhà 1 tuần thôi là khi về bạn sẽ thấy rất khác... Xem ra thì chính chúng ta và mọi vật xung quanh ta đều tương tác với nhau, còn ở mức độ ntn thì tùy vào từng vật chứ không hẳn là ở mỗi cái gương soi...
    1 like
  11. Mình cũng giống bạn, từ ngày lập gia đình đến nay đã 6 năm nhưng nghĩ lại vẫn thấy tức cười vì lời thầy xem tử vi cách đây 8 năm phán xanh rờn như vậy, chẳng nhẽ cãi thầy :)
    1 like