-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/05/2016 in all areas
-
3 likes
-
Hướng Nhà Ở Hai Cực Trái Đất.
ATN and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
HƯỚNG NHÀ Ở HAI CỰC TRÁI ĐẤT. Hay Những vấn nạn và tính khoa học của ngành Địa Lý phong thủy Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt. 1/ PHẦN MỞ ĐẦU Quý vị và anh chị em thân mến. Bắt đầu từ một bài viết trên báo Xây Dựng bàn về hướng nhà trong chung cư, mà trong đó hầu hết các phong thủy gia cho rằng cần phải lấy hướng ban công làm hướng nhà. Điều này khác hẳn với truyền thống luôn lấy hướng cửa làm hướng nhà. Sự xác định cứ như đúng rồi của các phong thủy gia này, dựa trên căn bản lý luận nào để xác định? Khi mà toàn bộ hệ thống phương pháp luận mang tính lý thuyết của nền văn minh Đông phương, cho đến nay vẫn hoàn toàn bí ẩn?! http://www.baoxaydung.com.vn/news/vn/quy-hoach-kien-truc/kien-truc/cach-xac-dinh-huong-cua-can-ho-chung-cu.html Bởi vậy có thể nói đây là một trong những vấn nạn của ngành Địa lý phong thủy Đông phương. Và đó không phải vấn nạn duy nhất. Tôi đã đưa ra rất nhiều vấn nạn của ngành Phong thủy học Đông phương. Mà còn hàng trăm vấn nạn khác phải giải quyết, kể cả những vấn nạn từ nguyên lý căn bản. Chính vì những vấn nạn này và nhiều vấn đề khác trong nội hàm hệ thống lý thuyết của ngành Địa Lý Phong thủy học Đông phương, mà giới khoa học chính thống hiện nay vẫn hoài nghi tính khoa học của phong thủy. Mặc dù cá nhân tôi đã có rất nhiều cố gắng để chứng minh tính khoa học của nó. Một cuộc hội thảo về tính khoa học của phong thủy, quy mô nhất từ trước đến giờ này trong lịch sử phát triển của nền văn minh, do tôi phối hợp với Hội Đông Nam Á tổ chức tại Hanoi, vào ngày 15/ 12/ 2009 vẫn chưa đủ sức thuyết phục giới khoa học quốc tế. Có lẽ vì sức lan tỏa của nó không đủ rộng. Nhà khoa học Việt kiều nổi tiếng ở Úc là giáo sư Nguyễn Văn Tuấn - viết bài sau hội thảo - cho rằng: Phong thủy là giả khoa học và tôi đã biện minh trước những luận cứ của ông. Hiện nay, rất nhiều người - ngoài giới khoa học thực thụ và kể cả các thầy phong thủy nổi tiếng (Tôi không bàn đến những loại thầy bà phong thủy phọt phẹt, chém gió, đập ruồi) - cũng rất mơ hồ về tính khoa học của ngành Phong thủy Địa Lý học Đông phương. Bởi vậy tôi phải viết luận đề này để tiếp tục làm sáng tỏ tính khoa học của nó. Về hình thức mô tả của luận đề này là giải quyết những vấn nạn phong thủy về mặt ứng dụng lý thuyết của nó trên thực tế - qua bài báo được chia sẻ. Nhưng về nội dung đích thực mà luận đề này hướng tới là xác định một cách chắc chắn rằng: Ngành Địa Lý phong thủy Đông phương là một ngành khoa học thật sự. Cho dù khái niệm khoa học được định nghĩa như thế nào. Với mục đích chuyển tải nội dung đó, tất nhiên nó sẽ phải rất dài và đồ sộ. Cho nên, tôi sẽ phải chia làm nhiều kỳ. Rất mong quý vị và anh chị em thông cảm. PHẦN I/ NHỮNG VẤN NẠN CỦA ĐỊA LÝ PHONG THỦY ĐÔNG PHƯƠNG. Thưa các bạn. Cho đến ngày hôm nay, khi tôi đang gõ những hàng chữ này, ngành Địa Lý phong thủy Đông phương đã phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Giới phong thủy cũng có rất nhiều thần tượng ở cả những nước tiêu biểu cho nền văn minh hiện đại, kể cả Hoa Kỳ. Nhưng chưa có ai trong giới tinh hoa của ngành Địa Lý phong thủy Đông phương chứng minh được phong thủy là một ngành khoa học. Và cũng như cả một quá trình lịch sử hàng ngàn năm của ngành Địa Lý phong thủy Đông phương, nó chưa bao giờ được công nhận là một ngành học chính thống - Kể cả ở Trung Hoa, vốn tự nhận là cái nôi của nền văn minh Đông phương, xuất xứ của ngành Địa Lý phong thủy Đông phương - cũng chưa bao giờ coi những hệ thống trí thức của nó như là một giá trị chính thống được công nhận. Nó chỉ được lưu truyền trong dân gian và tồn tại đến ngày nay, bởi niềm tin vào hiệu quả của nó trong dân gian. Về mặt chính thức, thì chính người Trung Quốc đã định nghĩa về phong thủy trong từ điển của họ: "Phong thủy là một tín ngưỡng cổ xưa của nền văn minh Trung Hoa". Tức ngay chính nền văn minh Trung hoa, tự nhận là cội nguồn của ngành Địa Lý phong thủy Đông phương, cũng không thể thừa nhận nó là một ngành khoa học. Tôi có thể xác định rằng: Những vấn nạn trong ngành Địa Lý Phong Thủy Đông phương nằm ngay trong chính nội hàm cấu trúc của hệ thống tri thức của nó. Đó là sự mâu thuẫn giữa những cái gọi là "các trường phái phong thủy Trung Hoa". Và sự mâu thuẫn đó, còn nằm ngay trong nội hàm của hệ thống phương pháp luận, của từng cái gọi là trường phái đó. Đó là: Sự bí ẩn của các khái niệm, những nguyên lý và quy ước trong các phương pháp ứng dụng....Chỉ nội những mâu thuẫn và bí ẩn đó không thôi, cũng đủ để là cả một vấn nạn vô cùng đồ sộ phải giải quyết. Nhưng mọi chuyện chưa dừng lại ở đấy. Sự phát triển của nền văn minh hiện đại, đã tiếp tục đặt ra những vấn nạn rất cụ thể khi áp dụng những phương pháp luận trong hệ thống lý thuyết của Địa Lý Phong Thủy Đông phương, mà nó phải giải quyết. Đó là những trường hợp, như: hướng nhà trong một căn hộ chung cư phải như thế nào? (Thí dụ như nội dung bài báo đã trích dẫn); Thế nào là trạch mạng chủ? Thế nào là hướng bếp, khi mà những cái bếp từ hiện đại nằm chìm trong mặt bếp và không còn cái cửa lò bếp truyền thống?..vv...và ...vv. ...Đó là những ví dụ nhỏ nhoi và Địa Lý Phong Thủy Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - tức Địa Lý Phong thủy Lạc Việt, đã giải quyết từ lâu trên thực tế. Kể cả vấn đề: "Hướng nhà ở hai cực trái Đất". Tôi cần xác định ngay rằng: Chỉ có Địa lý phong thủy Lạc Việt, nhân danh nền văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử, cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương, mới đủ khả năng giải quyết tất cả những vấn nạn từ ngay trong nội hàm cấu trúc có tính hệ thống và sự giải thích hợp lý với tất cả mọi vấn nạn khi ứng dụng vào ngành kiến trúc xây dựng của nền văn minh hiện đại và xác định được tính khoa học của nó. Cho dù những tri thức khoa học tinh hoa của nền văn minh hiện đại định nghĩa khái niệm khoa học như thế nào. Còn tiếp2 likes -
CANH BẠC. - Cuối cùng thì một phần của canh bạc đã lộ rõ, khi mà cô gái Nga đa đi đêm với Trung Quốc ( Phát biểu của người Nga về Biển Đông). Và Trung Quốc đang có nhưng bước đi để loại bỏ cô em Đài Loan ra khỏi cuộc chơi. Nhà cái vân là cô gái Huê Kỳ. Sau một loạt cấm vận đối với Nga và triển khai các hệ thống tên lửa đánh chặn. Cùng chiêu bài "cò rỉa" đã rỉa đến tận xương tủy của Nga (nền kinh tế Nga gần như lâm vào khủng hoảng- Với tiêu tốn không hề nhỏ trong cuộc chiến IS tại Syria). Vấn đề Ukrain đã tạm lắng xuống. Thì chính là lúc người Mỹ xoay toàn bộ trục về ĐNA - Thái Bình Dương. - Chuyến thăm của tổng thống Huê Kỳ lần này đến Việt Nam làm cho TQ lo ngay ngáy. Chả thế mà tờ thời báo Hoàn Cầu liên tục xuyên tạc. - Dự là chuyến thăm này của ông Obama sẽ hoàn toàn dỡ bỏ lệnh cấm vũ khí sát thương với VN và để củng cố thêm niềm tin với các nước Đồng Minh của Mẽo ( ấy là với VN cựu thù mà đại ca còn quan tâm thì các chú mang tên đồng minh cứ yên tâm). Đây là nước đi khá chiến lược của nhà Mẽo. - Ngoài ra còn hoạch định chính sách kinh tế bang giao giữa hai nước. Cho nên sau chuyến thăm này VN yên tâm sẽ có một dòng tiền kha khá chảy vào để VN có thể tự đứng trên đôi chân của mình. Tránh phải trông chờ vào anh hàng xóm to xác nhưng xấu tính. ( Sau chuyến này cổ phiếu nào có liên quan tới Mẽo chắc chắn lên ầm ầm..). - Hiệp định thương mại TPP là bước đàm phán tiếp theo. - Quan trọng và đặc biệt nhất vẫn là tuần tra trên biển và hợp tác các dịch vụ khác... ( Vấn đề mở tổng kho LB và nâng cấp các loại VK ở trong đó mới là đáng quan tâm các bác ạ. Còn mua bán mấy cái máy bay hay tầu chiến không thèm tính ...) Mượn tạm câu này của Gia Cát Lạng : " Muốn đánh Tào Công, phải dùng hỏa công. Muôn việc đủ cả, chỉ thiếu gió đông". Nay Obama đa lập đàn cầu gió đông, sau này cho dù là phe Cộng Hòa hay Dân Chủ của Mẽo chỉ việc chờ gió đông nổi lên là "phù" thổi bay cái đảo nhân tạo nào đó. - Tiểu lộ Hoa Dung đã chờ sẵn chỉ e Quan Vũ bỏ lỡ cơ hội. (biết đâu nhân cơ hội đòi luôn cả Hoàng Sa)..2 likes
-
Bà Thái Anh Văn tuyên thệ nhậm chức lãnh đạo Đài Loan 20/05/2016 12:09 GMT+7 TTO - Nhà lãnh đạo mới của Đài Loan, bà Thái Anh Văn, hôm nay chính thức nhậm chức và có bài diễn văn nhân sự kiện này. Bà Thái Anh Văn - Ảnh: Ibtimes Theo AFP, buổi lễ tuyên thệ nhậm chức của bà Thái Anh Văn diễn ra hoành tráng, trang nghiêm với chủ đề “Niềm tự hào của Đài Loan”. Bắc Kinh theo dõi rất sát sự kiện này và đặc biệt mong muốn bà Thái công khai thừa nhận thông điệp chính trị quan trọng về chính sách “một Trung Quốc”, một điều mà trước đó giới quan sát cho rằng rất khó xảy ra, và thực sự đã là như vậy. Theo Reuters, trong bài diễn văn nhậm chức, bà Thái Anh Văn, cho biết Đài Loan sẽ đóng vai trò trách nhiệm trong việc duy trì hòa bình và ổn định với quốc gia láng giềng Trung Quốc và sẽ là một “người bảo vệ trung thành cho hòa bình”. Bà Thái nói: “Các quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan đã trở thành một phần không thể thiếu trong việc xây dựng nền hòa bình khu vực và an ninh chung. Chúng tôi sẽ nỗ lực trong việc duy trì hòa bình và ổn định trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển”. Ngay sau khi bà Thái Anh Văn chính thức nhậm chức, chính quyền Mỹ cho biết rất trông đợi vào những hoạt động hợp tác với chính phủ mới ở Đài Loan. Hãng Reuters dẫn thông tin đại diện ngoại giao của Washington tại Đài Loan cho biết: “Mỹ chúc mừng nhà lãnh đạo Thái Anh Văn về việc bà đã trở thành nhà lãnh đạo thứ tư đắc cử tại Đài Loan”. Thông báo của cơ quan này nêu rõ: “Chúng tôi mong đợi việc hợp tác với chính quyền mới, cũng như với mọi đảng phái chính trị và các tổ chức xã hội dân sự của Đài Loan, để củng cố mối quan hệ giữa nhân dân Mỹ và nhân dân Đài Loan”. Trung Quốc hạn chế đưa tin lãnh đạo Đài Loan nhậm chức? Các cơ quan truyền thông chính thức của Trung Quốc đều đồng loạt hạn chế việc đưa tin về lễ tuyên thệ nhậm chức của bà Thái Anh Văn, theo các hãng tin lớn. Nhà lãnh đạo mới của Đài Loan, bà Thái Anh Văn, bước lên chuẩn bị đọc bài diễn văn nhậm chức tại Đài Bắc - Ảnh: Reuters Theo AFP, ngay cả trên mạng xã hội, các tìm kiếm có từ khóa gồm tên bà “Thái Anh Văn” và “Đài Loan” đều bị chặn. Sáng nay, nữ lãnh đạo đầu tiên của Đảng Dân tiến Đài Loan (DPP) đã chính thức tuyên thệ và đọc diễn văn nhậm chức tại Đài Bắc. Trung Quốc và Đài Loan tách ra năm 1949 sau một cuộc nội chiến, tuy nhiên Bắc Kinh vẫn luôn xem Đài Loan là một phần lãnh thổ của họ đang chờ ngày hợp nhất. Hôm nay, 20-5, truyền thông nhà nước Trung Quốc gần như không nói năng gì về lễ nhậm chức của bà Thái Anh Văn. Đài truyền hình quốc gia không đưa tin, các báo lớn như Nhân Dân Nhật báo cũng im hơi lặng tiếng. Hãng thông tấn chính thức Tân Hoa xã “mất gần 3 tiếng” kể từ lúc bà Thái Anh Văn tuyên thệ để phát đi dòng tin gồm 22 chữ bằng tiếng Anh nói về việc này. Các tìm kiếm trên mạng Sina Weibo có chứa từ khóa “Thái Anh Văn” và “Đài Loan” đều được trả về với kết quả: “Xin lỗi, không tìm thấy kết quả liên quan”. Bài xã luận đăng trên tờ Thời báo Hoàn Cầu viết rằng việc bà Thái lên nắm quyền sẽ mở ra một thời đại mới không chắc chắn cho khu vực ở bên kia eo biển Đài Loan. Bài báo cũng nói việc Đảng DPP lên nắm quyền sẽ khiến Đài Loan “bước thêm một bước xa hơn so với đại lục về mặt chính trị”. Ngay từ khi bà Thái Anh Văn đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 1 năm nay, Bắc Kinh đã gửi đi những thông điệp cứng rắn về chủ trương quan điểm “một Trung Quốc” sang phía bên kia eo biển. Trung Quốc cũng cảnh cáo mọi động thái manh nha đòi tuyên bố độc lập chính thức của Đài Loan. Tháng này, quân đội Trung Quốc triển khai ít nhất ba cuộc tập trận đổ bộ như một thông điệp đe dọa đối với những động thái gây bất ổn. D. KIM THOA ====================== Đúng là một ứng xử rất tiểu tiết, chứng tỏ tầm nhìn của Bắc Kinh không mấy sâu sắc. Bởi vậy mới có những sai lầm không thể sai hơn. Lệnh bà Thái Anh Văn chẳng ngọng gì mà công bố độc lập vào tình thế như hiện nay. Nhưng lão Gàn hy vọng sau khi ổn định quyền lực, lệnh bà Thái Anh Văn sẽ vô hiệu hóa yêu sách đường lưỡi bò mà chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố vào năm 1948.2 likes
-
Giống như món tôm hùm maine sốt nấm Đông cô. Nhưng tính chất lời khen khác nhau. Chém gió cho vui! Hì. PS:"Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời". Đại lão tiền bối Nguyễn Quảng Tuân - đồng dịch giả cuốn "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thái Ất Thần kinh" - trước khi mất có dặn lão: Truyện Kiều chính là một lời tiên tri.... http://soha.vn/video-nguoi-dan-ha-noi-moi-tong-thong-obama-di-dau-an-gi-20160519154502646.htm1 like
-
Cảm ơn Hạ Quốc Huy. Tôi thực sự không nghĩ tới vinh dự này. Bởi vì khi tôi bắt đầu cầm bút viết những dòng chữ đầu tiên vinh danh chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ Nam Dương tử, cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương, thì tôi cũng không nghĩ rằng để đạt tới một vinh quang nào đó cho cá nhân tôi. Lúc đó, phía trước tôi là cả một bề dày thời gian hàng thiên niên kỷ vùi lấp lịch sử Việt; là cả một định kiến về cội nguồn Lý học Đông phương được mặc định là của văn minh Hán. Và cuối cùng là cả một kho tàng tri thức huyền vĩ vô cùng đồ sộ đầy bí ẩn của nền văn minh Đông phương; mà chỉ cần một trong những ngành học của nó - thí dụ là Đông Y - cũng đủ cho tất cả những giáo sư tiến sĩ của cả một Trung Hoa hiện đại - hậu duệ của hàng ngàn năm lịch sử của đất nước này - phải thúc thủ và bất lực khi đề nghị chính phủ của họ xóa bỏ môn Đông y.... Trước cả một khối lượng tri thức và một khoảng không/ thời gian vô cùng đồ sộ đó, thật tình tôi không thể có một ý tưởng nào về một ngày nào đó, tôi sẽ được hưởng một cái gì đó cho bản thân mình, từ những việc tôi làm. Với tôi, nếu có được vài tri thức tinh hoa công nhận tôi đúng, đã là một niềm hạnh phúc của tôi. Nhưng dù sao tôi cũng cảm ơn lời chúc lành của Hạ Quốc Huy. Nó như là một sự an ủi cho tôi và khuyến khích tôi tiếp tục công việc của mình. Nhưng tôi thật sự mong muốn Hạ Quốc Huy và anh chị em với các bạn hãy hiểu được tính chân lý trong những gì mà tôi đã mô tả, hơn là nhìn thấy một sự cố gắng trong con người tôi. Trân trọng cảm ơn Hạ Quốc Huy.1 like
-
Việt Nam có thể khai thác được gì từ chuyến thăm của Tổng thống Mỹ? Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết 06:59 16/05/16 Thảo luận (21) (GDVN) - Mỹ là nước duy nhất có thể lập lại trật tự trên Biển Đông trước hành động leo thang của Trung Quốc. Do đó Việt Nam nên tận dụng tối đa. Quan chức Trung Quốc mạt sát các nước ủng hộ Philippines là "ngu dốt" Giáo sư Mỹ: Nguồn gốc mọi căng thẳng ở Biển Đông là tư tưởng Đại Hán Giáo sư Trung Quốc: Không dùng quân sự, không chiếm được Biển Đông LTS: Nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết – nguyên Đại biểu Quốc hội gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích một số khía cạnh trong quan hệ Việt - Mỹ và những gì Việt Nam nên khai thác, tận dụng từ chuyến đi này để phục vụ sự nghiệp bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài viết này của Giáo sư. Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, ảnh: NMT. Theo thông báo của Bộ Ngoại giao, từ ngày 23/5 đến 25/5 Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ thăm chính thức Việt Nam. Đây là vị Tổng thống đương nhiệm thứ 3 trong 3 nhiệm kỳ liên tiếp thăm chính thức Việt Nam và thời gian diễn ra chuyến thăm khá dài. Nó cho thấy sự coi trọng quan hệ Việt - Mỹ từ phía Chính phủ Hoa Kỳ, đồng thời cũng mở ra những cơ hội mới để tăng cường hợp tác giữa hai nước trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là an ninh hàng hải, kinh tế thương mại và giáo dục. Tan sương đầu ngõ Cá nhân tôi khá bất ngờ và cảm thấy thú vị về việc các nhà lãnh đạo cao nhất của nước Mỹ như Tổng thống Bill Clinton trước đây khi thăm Việt Nam năm 2000, hay Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden khi chủ trì tiệc chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ năm ngoái đã "lẩy" những câu Kiều rất giàu ý nghĩa, hợp cảnh, hợp tình. Điều đó cho thấy người Mỹ rất hiểu Việt Nam và mong muốn phát triển quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. Nếu chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton có thể xem như chuyến phá băng trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, hai đất nước vì những nguyên nhân lịch sử từng ở hai đầu chiến tuyến, Tổng thống George W. Bush thăm chính thức Việt Nam năm 2006 khi quan hệ hai nước đã có một bước tiến khá dài về hợp tác kinh tế - thương mại, thì chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng thống Barack Obama sau 2 người tiền nhiệm liên tiếp là một bước ngoặt. Bước ngoặt ấy thể hiện ở chỗ nó diễn ra sau khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ năm ngoái. Lần đầu tiên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam hiện diện tại Phòng Bầu dục, Nhà Trắng trên cương vị quốc khách của đương kim Tổng thống Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Obama. Hai chuyến đi này cho thấy, Mỹ tôn trọng sự lựa chọn thể chế của Việt Nam và hai chế độ, hai nhà nước hoàn toàn có thể hợp tác. Hai chuyến thăm thể hiện lòng tin chiến lược và mong muốn phát triển quan hệ song phương lên một tầm cao mới, bởi thế người viết rất ấn tượng với câu Kiều mà ông Joe Biden đã "lẩy" trong tiệc chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn Việt Nam: "Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời". Bản thân tôi đã đến Hoa Kỳ nhiều lần và mỗi lần đều chứng kiến những chuyển biến trong quan hệ giữa hai nước. Lần đầu tiên tôi đặt chân đến Hoa Kỳ là ngày 1/1/1993 trong một chuyến thăm New York cùng các giảng viên, sinh viên Đại học Laval ở Quebec, Canada. Khác với nhiều anh em cùng đoàn, tôi phải chờ một tuần để lấy visa. Nhân viên Tòa lãnh sự Hoa Kỳ giải thích:“Ông vui lòng chờ một tuần để chúng tôi hỏi ý kiến Washington, vì hai nước chúng ta chưa có quan hệ ngoại giao”. Nhưng rồi chỉ sau 3 ngày, Tòa lãnh sự đã điện cho tôi, mời lên lấy visa. Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã gây bất ngờ khi "lẩy" hai câu Kiều rất giàu ý nghĩa, hợp cảnh, hợp tình trong tiệc chiêu đãi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và phái đoàn Việt Nam. Ảnh: Reuters / Tuổi Trẻ. Chuyến đi đã xóa bỏ nhiều định kiến bấy lâu trong tôi về nước Mỹ. Chỉ lấy một ví dụ nhỏ là có ra đảo Liberty thăm bức tượng Nữ thần Tự do, tôi mới hiểu hơn về lịch sử bức tượng nổi tiếng này – tặng vật của nhân dân Pháp gửi nước Mỹ. Những người dân Mỹ mà tôi tiếp xúc đều tỏ ra khá thân thiện và cởi mở, như mọi người dân nước khác mà tôi từng gặp. Khi thăm đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, một cảm giác ớn lạnh chạy qua sống lưng tôi khi chợt thấy một người phụ nữ ngồi khóc bên bức tường. Chiến tranh là nỗi đau của hai bên chiến tuyến, đặc biệt là những người mẹ và những người có chồng, có cha, có anh em ruột thịt vĩnh viễn ra đi. Tôi cũng có người em trai hy sinh trong Kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Có lẽ buổi sáng gặp người phụ nữ khóc bên bức tường ấy đã góp phần thay đổi cái nhìn của tôi về nước Mỹ. Những người bên kia chiến tuyến cũng là nạn nhân của chiến tranh. Nói điều này, tôi chợt nhớ đến cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Trong số các nhà lãnh đạo Việt Nam, có lẽ hiếm ai có hoàn cảnh đặc biệt như ông. Năm 1966 người vợ đầu tiên của ông cùng hai con út, một trai một gái đã thiệt mạng khi quân đội Hoa Kỳ bắn chìm tàu Thuận Phong trong một cuộc càn quét chiến khu Củ Chi. Sau này, người con trai lớn của ông cũng hy sinh trên chiến trường. Nhưng cố Thủ tướng cũng là nhà lãnh đạo Việt Nam đi đầu trong việc bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, bởi với ông, lịch sử không được phép lãng quên nhưng cũng không nên là rào cản của tương lai. "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu... Đối với Việt Nam, nhất là ở miền Nam, tôi thường biết và hiểu nhiều gia đình đều có hai bên hết. Chính trong thân tộc của tôi, các anh em tôi, các cháu ruột của tôi cũng có số bên này và số bên kia. Cái đó có hoàn cảnh của nó. Có những gia đình một người mẹ có con đi chiến đấu, chết ở bên này và đứa con khác thì đi chiến đấu chết ở phía bên kia...", lời phát biểu của cố Thủ tướng thật thấm thía. Người Mỹ không né tránh lịch sử, chúng ta cũng vậy. Nhìn lại lịch sử để trân trọng hiện tại, hướng tới tương lai hòa bình, hợp tác và hữu nghị. Đây cũng là cách người Nhật Bản ứng xử với lịch sử, ứng xử với Hoa Kỳ, tận dụng tối đa đòn bẩy từ Hoa Kỳ để phát triển phồn vinh. Hợp tác an ninh hàng hải trên Biển Đông trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng leo thang quân sự hóa và có nhiều hành động bành trướng, ngang ngược có lẽ là nội dung được dư luận quan tâm hơn cả trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng thống Barack Obama. Lập trường của Hoa Kỳ về vấn đề Biển Đông cũng hết sức rõ ràng: Họ không đứng về bên nào trong vấn đề chủ quyền với các thực thể trên Biển Đông. Nhưng Hoa Kỳ có lợi ích trong việc duy trì và đảm bảo tự do hàng hải, hàng không và bảo vệ luật pháp quốc tế, trật tự quốc tế trên Biển Đông. Hành động của Trung Quốc hiện nay không chỉ phá vỡ hòa bình, ổn định trong khu vực, đe dọa nghiêm trọng an ninh của các quốc gia ven Biển Đông, mà còn trực tiếp uy hiếp tự do hàng hải, hàng không, phá vỡ luật pháp và trật tự quốc tế trên Biển Đông sau Chiến tranh Thế giới II. Trước những hành động ngày càng phiêu lưu của Trung Quốc, các nước trong khu vực đều rất lo ngại và đều hy vọng Hoa Kỳ đóng góp nhiều hơn trong việc duy trì hòa bình, ổn định, bảo vệ tự do hàng hải, hàng không và luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Theo nhìn nhận của tôi, hiện nay Mỹ là nước duy nhất có thể lập lại trật tự trên Biển Đông trước hành động leo thang của Trung Quốc. Do đó Việt Nam nên tận dụng tối đa chuyến thăm này của Tổng thống Obama để bàn bạc kế hoạch hợp tác, thắt chặt cam kết đảm bảo an ninh hàng hải trên Biển Đông. Trong khi có những tín hiệu đáng mừng về khả năng Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam, chúng ta cũng nên tập trung vào các khía cạnh khác liên quan và phục vụ trực tiếp cho chiến lược bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam và Mỹ, cũng như khu vực trên Biển Đông. Ví dụ như giao lưu hợp tác quân sự, chia sẻ thông tin tình báo, huấn luyện đảm bảo an ninh hàng hải, Mỹ hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực tuần tra đảm bảo an ninh trên biển. Đặc biệt Việt Nam nên hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ trong lĩnh vực pháp lý và truyền thông, bởi đấu tranh qua hai kênh này cũng quan trọng không kém. Bởi lẽ ông Barack Obama là vị Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm đầu tiên lên tiếng yêu cầu Trung Quốc làm rõ đường lưỡi bò, và khẳng định đường lưỡi bò người Trung Quốc tự vẽ hoàn toàn không có căn cứ trong luật pháp quốc tế. Mà đường lưỡi bò chính là gốc gác tranh chấp, rào cản rất lớn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ cũng là những người lên tiếng mạnh mẽ nhất chống lại các hành vi bành trướng ở Biển Đông và có thể tạo áp lực dư luận không nhỏ đối với Trung Quốc. Biển Đông đang là nơi hội tụ lợi ích giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể khai thác và tận dụng tối đa đòn bẩy từ vai trò, vị thế và lập trường, tiếng nói của Hoa Kỳ. Không liên minh chống nước thứ ba nhưng cần liên minh để bảo vệ mình Việt Nam yêu chuộng hòa bình, mong muốn hợp tác cùng phát triển với các nước yêu hòa bình và công lý. Việt Nam chủ trương không liên minh quân sự với nước này để chống nước kia, nhưng khi độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa thì liên minh liên kết để bảo vệ mình sẽ tự nó hình thành. Những bài học lịch sử cận hiện đại đã cho thấy rất rõ điều đó. Dư luận cũng có những quan điểm mong muốn Việt Nam và Hoa Kỳ hình thành quan hệ đồng minh như Mỹ - Nhật, Mỹ - Hàn, Mỹ - Australia để chống lại những thế lực bành trướng. Cá nhân người viết hiểu mong muốn ấy, tuy nhiên đặt vấn đề liên minh quân sự với bất kỳ nước nào trong thời điểm hiện nay với Việt Nam cần hết sức thận trọng. Việt Nam khác với Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản và Australia. Lãnh thổ Việt Nam tiếp giáp trực tiếp với Trung Quốc và những mối đe dọa quân sự từ Trung Quốc lớn hơn rất nhiều các quốc gia này một khi để quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc rơi vào thế đối đầu. Chúng ta không thể thay đổi láng giềng, chỉ có cách phát triển cường thịnh và ứng xử khéo léo mới mong giữ vững được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hòa bình ổn định và phát triển. Cha ông chúng ta cũng như người Hàn Quốc, Triều Tiên ngày trước thường xuyên phải đối mặt với những cuộc chiến tranh xâm lược từ Trung Quốc. Nhưng sau mỗi lần đánh thắng, cha ông ta đều giữ thể diện cho nước lớn bằng cách trong xưng đế, ngoài xưng vương để giữ gìn hòa hiếu, độc lập thực sự cho dân tộc. Ngày nay chúng ta may mắn hơn thế hệ cha ông ở chỗ, văn minh nhân loại và luật pháp quốc tế phát triển, về nguyên tắc nước lớn hay nước nhỏ đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế, không còn phải "xưng thần" hay "triều cống" như thời phong kiến. Nhân dân cũng không chấp nhận ai “xưng thần”. Nhưng bài học cha ông để lại không bao giờ được quên, đó là độc lập dân tộc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ là bất khả xâm phạm. Muốn giữ độc lập dân tộc phải biết tự lực tự cường là chủ đạo, đồng thời cần tận dụng tối đa mọi sự giúp đỡ cũng như các xu thế đối nội, đối ngoại có lợi cho mình. Muốn nhận được sự giúp đỡ ấy, bản thân chúng ta phải tạo dựng được lòng tin chiến lược từ bạn bè, đối tác. Do đó trong vấn đề Biển Đông, chúng ta phải cho công luận khu vực và quốc tế, đặc biệt là những nước quan trọng như Hoa Kỳ, Nhật Bản thấy rõ lập trường của mình, không thể có chuyện coi tranh chấp Biển Đông như "chuyện trong nhà, anh em mâu thuẫn, đóng cửa bảo nhau". Cũng không thể để bạn bè, đối tác muốn giúp đỡ Việt Nam lại phải đặt câu hỏi hay hiểu lầm về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chỉ vì, một trong những mục đích chuyến thăm Việt Nam vừa qua của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, ông Thường Vạn Toàn là để "phản bác lại những luận điệu xuyên tạc sai trái của các thế lực thù địch về những vướng mắc, bất đồng trong quan hệ giữa hai nước thời gian qua." Trong quan hệ với các nước lớn, ứng xử của Việt Nam cần hết sức khéo léo và tỉnh táo, nhưng rõ ràng, minh bạch, không để Trung Quốc đẩy ta rơi vào cái bẫy chính trị hóa các vấn đề pháp lý hay khiến dư luận quốc tế hiểu lầm lập trường của ta giống Trung Quốc. Chỉ có như vậy, Việt Nam mới không đẩy mình vào thế kẹt trong cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc. Cái bắt tay xuyên Thái Bình Dương hay Tuyên bố Thượng Hải giữa Nixon và Mao Trạch Đông năm 1972 vẫn là bài học nóng hổi. Đối thoại nhân quyền cần lắng nghe nhau để tìm được tiếng nói chung Các vấn đề về nhân quyền giữa hai nước vẫn còn những nhận thức khác nhau, thiết nghĩ điều này cũng hết sức bình thường. Trong chuyến thăm Việt Nam lần này của Tổng thống Mỹ Barack Obama, vấn đề nhân quyền cũng được hai bên đưa vào chương trình nghị sự. Thiết nghĩ đây là cơ hội để hai bên lắng nghe nhau, tiếp tục thu hẹp những bất đồng, khác biệt. Nội bộ dư luận Mỹ có những nhận thức khác nhau, thậm chí tranh cãi về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, trong khi chính Hoa Kỳ cũng đang phải gánh chịu hậu quả và bị lên án vì áp đặt mô hình, xuất khẩu hệ giá trị của mình sang các nước Trung Đông, Trung Á như Syria, Lybia, Iraq, Afghanistan... Tuy nhiên, nhân loại ngày càng văn minh tiến bộ, hệ thống luật pháp từng nước cũng như công pháp quốc tế ngày một hoàn thiện thì những vấn đề về tự do, dân chủ, nhân quyền ngày càng mang tính phổ quát và hình thành chuẩn mực chung của nhân loại. Cả hai nước đều không thể coi thường các giá trị phổ quát của nhân loại. Trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như Hoa Kỳ đều có những nội dung quy định rõ về các vấn đề này, tuy có thể còn những cách hiểu và vận dụng khác nhau, nhưng thông qua đối thoại trên tinh thần thiện chí, cầu thị, khách quan, thiết nghĩ chúng ta sẽ tìm được tiếng nói chung. Làm tốt việc này không chỉ củng cố và phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, mà quan trọng hơn là nó sẽ góp phần rất lớn củng cố ổn định, đoàn kết xã hội, bởi lẽ những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản luật ngày càng được tôn trọng và thực thi. Ví dụ việc Quốc hội Việt Nam mới thông qua Luật Tiếp cận thông tin gần đây cũng có thể được xem như một nỗ lực làm tốt hơn việc đảm bảo tự do, dân chủ, nhân quyền. Bởi lẽ thông tin minh bạch vừa là yêu cầu, vừa là đòi hỏi của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Chúng ta càng minh bạch, càng tránh được tham nhũng, lãng phí, bất ổn xã hội... Vì vậy, trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng phát triển, người viết thiết nghĩ chúng ta nên và hoàn toàn có thể xem lĩnh vực nhân quyền là nơi Việt Nam và Hoa Kỳ có thể hợp tác để mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân cả hai nước, thay vì là rào cản của quan hệ song phương. Tất nhiên mọi sự lợi dụng các giá trị phổ quát này để thực hiện các hành động phạm pháp, thì luật pháp mỗi nước đều có những điều khoản phòng ngừa và điều chỉnh. Việt Nam và Hoa Kỳ hoàn toàn có thể trao đổi và học hỏi lẫn nhau, bởi suy cho cùng lợi ích chung của cộng đồng, xã hội, an ninh quốc gia là vấn đề chung của quốc tế, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin và sự xuất hiện, lây lan của chủ nghĩa khủng bố như hiện nay. Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết ============================= Câu này hay! Lão cho 10 điểm. Nghe rất giống "Không đứng về bên nào trong tranh chấp bể Đông. Nhưng bảo vệ tự do hàng hải". Tuy nhiên nói ra hơi bị sớm. Lão Gàn ko hề bình luận gì về nội dung và kết quả chuyến thăm của ngài Tổng Thống Hoa Kỳ. Chính bởi "Thiên cơ khả dĩ lộ từ từ....". Nhưng lão đoán thế này: Trong một bữa tiệc chiêu đãi ngài Barack Obama, có một món đặc sản Việt được quan khách khen là ngon, thuộc về thủy sản. Giống như món tôm hùm maine sốt nấm Đông cô. Nhưng tính chất lời khen khác nhau. Chém gió cho vui! Hì. PS:"Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời". Đại lão tiền bối Nguyễn Quảng Tuân - đồng dịch giả cuốn "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Thái Ất Thần kinh" - trước khi mất có dặn lão: Truyện Kiều chính là một lời tiên tri....1 like
-
ÁO CÀI VẠT BÊN TRÁI Ở NHẬT BẢN. Thưa các bạn. Đây là trang phục của một Cty Nhật Bản được thiết kế từ cổ trang Nhật Bản cho nhân viên tiếp thị của họ. Các bạn cũng thấy rất rõ rằng: Người Nam mặc trang phục này cài vạt áo bên trái. Đó là Cty trà tea plus MatCha theo công nghệ Nhật Bản. Công ty này lấy theo phong cách của trang phục truyền thống của Nhật và cải tiến thêm. Các bạn thân mến. Từ trong sách đã xuất bản và các bài viết trên diễn đàn- cụ thể là ngay trong topic này- tôi đã chứng minh rằng: Cội nguồn dân tộc Nhật xuất phát từ đất nước Văn Lang xưa, dưới thời đại của các vua Hùng, một thời huy hoàng bên bờ Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của văn minh Đông phương. Việc bộ đồng phục của người Nhật kế thừa từ truyền thống văn hóa cổ xưa của Việt tộc, "Nam tả, nữ hữu" , người nam cài vạt áo bên trái - là một bằng chứng nữa, chứng minh điều này. (Xin xem thêm bài viết trên Fb của tôi về trang phục cổ Nhật Bản cách đây vài ngày). Còn đây là một chiến binh cổ đại của Nhật Bản. Trong sách mô tả là một cô gái. Tôi không tranh luận với người biên soan cuốn sách này về giới tính của pho tượng. Nhưng rõ ràng pho tượng đã mặc áo cài vạt bên trái. Niên đại của pho tương xác định vào đầu thế kỷ thứ III đến đầu thế kỷ thứ VI AC.1 like
-
1000 năm Thăng Long nhìn lại Thiền sư Không Lộ - Tác giả bài Nam quốc sơn hà - Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta! Viên Như Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Sông núi nước nam vua Nam ở Rành rành ghi rõ tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. 1- Xuất xứ Bài thơ Thần "Nam quấc sơn hà" được xem là bài Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Từ lâu bài thơ này luôn gắn với tên tuổi của Lý Thường Kiệt (1019-1105) xuất phát từ cuộc kháng chiến chống nhà Tống xâm lăng kết thúc bằng trận chiến trên sông Như Nguyệt được ghi lại trong Đại Việt Sử Kí Toàn Thư như sau : "Mùa xuân tháng 3 nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ Triệu Tiết làm phó ....sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý thường Kiệt đón đánh đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người Quách Quỳ lui quân lại lấy châu Quảng Nguyên của ta. Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào dọc theo sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng : "Nam quốc sơn hà nam đế cư ....thủ bại hư." (1) Và Việt Điện U Linh : "Đến thời vua Lý Nhân Tông quân Tống sang lấn tiến vào trong cõi. Vua sai Thái uý Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm quân sĩ nghe trong đền có tiếng thần ngâm thơ: "Nam quốc sơn hà ...thủ bại hư". Rồi quả nhiên quân Tống bị thua phải rút về nước".(2) Từ đó người ta ngộ nhận bài thơ ấy là của Lý Thường Kiệt. Sự việc phổ biến đến nỗi đã có nhiều người lên tiếng về điều này như GS Hà Văn Tấn ( Lịch sử-sự thật và Sử học. Xưa và nay tháng 3-1994) GS.NGND Bùi Duy Tân (phongdiep.net). Ngoài ra bài thơ này còn xuất hiện ở nhiều văn bản khác với những khác biệt nhất định đáng kể nhất là Lĩnh Nam Chích Quái.- "Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng mười trời tối đen mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không lớn tiếng ngâm rằng: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư. Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm Bạch nhẫn phiên thành phá trúc dư". ". Quân Tống nghe thơ xéo đạp vào nhau mà chạy tan...Lê Đại Hành trở về ăn mừng phong thưởng công thần truy phong cho hai vị thần nhân ...sai dân phụng thờ ...nay vẫn còn là phúc thần"(3) Tác phẩm này cho ta biết rằng bài thơ này không phải được đọc trên sông Như Nguyệt thời Lý thường Kiệt mà nó cũng đã được đọc trên con sông này nhưng từ thời Lê Hoàn và cũng không nói rõ ai là tác giả. Như vậy về xuất xứ của bài thơ thì đến nay vẫn chưa thống nhất được. Theo thời gian cho đến nay các nhà nghiên cứu đã ghi lại có trên 30 bài NQSH được viết thành văn bản ngoài ra còn có các bản được khắc ở các di tích đền thờ giữa các bản có sự khác nhau nhưng tựu trung hầu hết đều chọn bản trong ĐVSKTT làm chuẩn. Như đã nói trên sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam Chích Quái không khẳng định ai là tác giả bài thơ này. Tất nhiên phải có ai đó sáng tác bài thơ này nhưng vì không biết cụ thể ai là tác giả đích thực nên dựa vào nội dung quan trọng và lớn lao của bài thơ lại được đọc lên vào đêm tối trong một ngôi đền nên gọi thơ THẦN. Tuy nói là thơ của THẦN nhưng rõ ràng phải có ai đó là tác giả chính vì vậy có nhiều người đã để tâm nghiên cứu và đề nghị một con người cụ thể là tác giả như bài viết của Nguyễn Thị Oanh (Văn nghệ số 12. 21-3-2009) cho rằng tác giả NQSH có thể là đại sư Khuông Việt hay như Lê Mạnh Thát (Lịch sử Phật Giáo tập2 Tập 2. Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh - 2001) cho rằng NQSH của Pháp Thuận. Các đề nghị này chủ yếu dựa vào mối quan hệ của các Thiền sư nói trên với các vua thời ấy nên chưa có tính thuyết phục cao. Trong bài viết này cùng suy nghĩ phải có ai đó trong số những trí thức dân tộc thời ấy là tác giả của bài thơ nên tôi cũng đề nghị ở đây một con người cụ thể người mà tôi cho rằng có nhiều yếu tố để có thể là tác giả bài thơ NQSH. Tuy nhiên trước khi xem xét đến con người mà tôi đề nghị có thể là tác giả hay chính là tác giả bài NQSH có một vấn đề cần phải giải quyết trước đó là : BÀI " NQSH" ĐƯỢC SÁNG TÁC VÀO THỜI NÀO? Như đã nêu trên có hai truyền thuyết về sự ra đời của bài thơ thần: A -Theo Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ): Thời Lê Hoàn (981) B - Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT) (Trận Như Nguyệt 1076) A - VỀ SÁCH LNCQ Tác giả LNCQ đến nay vẫn chỉ là giả thuyết chưa chắc chắn Trần Thế Pháp là ai thân thế và sự nghiệp ra sao vẫn là một dấu hỏi. Nội dung LNCQ thì ít ỏi chủ yếu lấy từ sách khác không có tính sáng tạo cao. Do lấy từ sách khác như nghĩa của từ "chích" trong tên sách mang lại nên có người cho rằng bài NQSH cũng chép từ sách khác có nghĩa là trước đó đã có sách viết về câu chuyện đó rồi nên cho là đáng tin cậy từ đó cho rằng việc Ngô Sĩ Liên viết rằng NQSH được viết và đọc vào thời Lý là ngoa truyền. Tuy nhiên câu chuyện về bài thơ thần trong LNCQ ngoài khác biệt so với ĐVSKTT như: thời đại -Tiền Lê thay vì thời Lý- Trên sông Như Nguyệt thay vì Bạch Đằng thời gian cũng khác. LNCQ viết "Canh ba đêm ba mươi tháng mười trời tối đen mưa to gió lớn đùng đùng". ĐVSKTT viết " Mùa xuân tháng 2". Ở đây có điều làm cho ta phải đặt dấu hỏi. Như ta biết cuối tháng 10 âm lịch ở miền bắc nước ta đang là giữa mùa đông thời tiết mưa gió rét như cắt da lại thêm tiết Nguyên đán gần kề tâm lý binh lính sao khỏi chạnh lòng sao nhà Tống lại điều binh sang xâm lăng nước ta vào lúc này liệu các nhà cầm quân của triều Tống có điên không? Thất bại của quân Nam Hán năm 938 là một minh chứng. Về ngôn từ của bài thơ trong LNCQ cũng khác mà theo tôi thực chất chỉ là sửa lại bài này từ ĐVSKTT do đó có những giới hạn. So sánh với bài thơ Thần trong ĐVSKTT bài trong LNCQ có những giới hạn như sau : - Câu 2 viết " Hoàng thiên......thiên thư". Đã là sách trời thì do trời viết hay nói khác nội hàm ngữ nghĩa của từ "thiên thư" là đã có trời rồi vậy cần gì phải "Hoàng thiên" . thêm vào đó "thiên thư " nghĩa đen là sách trời nhưng ta phải hiểu là "sách công lý" có nghĩa là điều đó xưa nay ai cũng biết. Do đó thêm " Hoàng thiên" chỉ làm yếu đi nếu không nói là thừa so với cách dùng "Tiệt nhiên" của ĐVSKTT. - Câu 3 LNCQ đã cụ thể giặc là " Bắc lỗ" thay vì "nghịch lỗ" . Làm như thế có ý chỉ thẳng giặc là ai nhưng lại mất đi tính phổ quát của một tuyên ngôn bởi vì viết như thế thì bài này chỉ có giá trị với giặc phương bắc thôi còn giặc các phương khác thì sao? - Còn câu cuối thì " gươm bén chẻ như chẻ tre" so với câu " Nhữ đẳng....thủ bại hư" thì lời lẽ hơi thô . Bởi vì chuyện thất bại của quân xâm lược đâu chỉ là qua việc chém giết mà nó còn thất bại trên nhiều mặt khác nữa do đó nói nếu giặc phương Bắc sang thì sẽ dùng gươm bén mà đánh cho tan tát như chẻ tre thì rỏ ràng đây chỉ là ngôn từ của chốn riêng tư chứ nếu đem làm thông điệp của một quốc gia là điều bất cập. Từ những nhận định như thế ta thấy rõ ràng bài thơ Thần trong LNCQ chỉ là sửa lại từ bài thơ trong ĐVSKTT do đó tính khả tín của bài NQSH trong LNCQ là không cao. Vậy tại sao tác giả LNCQ lại viết NQSH thuộc về thời Tiền Lê? Tác giả "chích" từ sách nào? Hay tác giả tự sáng tác? Câu trả lời là: Tác giả rất có thể đã "chích" câu chuyện này từ bộ ĐVSK của Lê Văn Hưu rồi sửa lại thời không từ đời Lý sang thời Tiền Lê. Lý do cho việc sửa này chắc là lấy lòng nhà Hậu Lê. Bởi vì chính nghĩa của Lê Lợi là con cháu nhà họ Lê. Như vậy tác phẩm này có thể ra đời sau khi Lê Lợi lên ngôi chứ không phải thời Trần mạt như có người đề nghị. B - VỀ SÁCH ĐVSKTT Nội dung ĐVSKTT là một bộ sử hết sức công phu có tính bác học điều này cho thấy đây là một công trình mang tính tập thể mà Ngô Sĩ Liên là chủ biên. Một công trình được vua sai làm thì đâu thể không cẩn trọng. Trong tác phẩm này đã rất nhiều lần (29 lần) đề cập tới Lê Văn Hưu tác giả bộ Đại Việt Sử Ký với dòng chữ "Lê Văn Hưu viết......" điều này chứng tỏ ĐVSKTT phần lớn dựa vào ĐVSK của Lê Văn Hưu. Như thế có nghĩa là bộ ĐVSKTT là một tác phẩm được viết nên bởi công sức của rất nhiều người có kinh nghiệm và kiến thức uyên bác với phương pháp làm việc hết sức nghiêm túc dưới sự tài trợ của triều đình qua hai triều đại Trần - Lê thì lẽ nào thông tin trong bộ sách này lại viết tùy tiện. Đồng thời với ngần ấy thời gian và con người lẽ nào không phát hiện cuốn sách có nội dung mà LNCQ ghi lại. Từ những so sánh phân tích trên với tính khả tín của bộ ĐVSKTT tôi cho rằng bài thơ thần đã được viết và đọc vào thời Lý Thường Kiệt phá quân Tống trên sông Như Nguyệt năm 1076.. 2 - AI LÀ TÁC GIẢ BÀI "NAM QUỐC SƠN HÀ" ? Như vậy tác giả của nó phải là người thời Lý do vậy ta phải nghiên cứu xem ai có thể có được những yếu tố thuyết phục để có thể xem là tác giả bài thơ nổi tiếng này. Con người ấy nhất định phải có mối liên hệ chặc chẽ với chế độ đương thời và nhất là phải có những tác phẩm còn lại phản ảnh được mối tương quan với bài thơ NQSH . Tìm lại trong văn học đời Lý vào thời điểm đó ta thấy có một con người với những yếu tố mà tôi cho là có thể là tác giả bài thơ Nam Quốc Sơn Hà - bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Người đó chính là Thiền sư Không Lộ. Dương Không Lộ (1016 - 1094) tên thật là Dương Minh Nghiêm Pháp Hiệu là Không Lộ quê ở Hải Thanh Giao Thủy Tỉnh Nam Định. Ông xuất thân làm nghề chài lưới nhưng giỏi văn chương và mộ đạo Phật. Không Lộ kết bạn tu hành với các Thiền sư Từ Đạo Hạnh và Giác Hải tôn Đạo Hạnh làm huynh trưởng nhưng cùng Giác Hải đi vân du rồi cùng về tu tại chùa Hà Trạch trong khi Đạo hHạnh về tu tại chùa Sài Sơn Quốc Oai . Không Lộ là một thiền sư lớn đời Lý được phong làm Quốc sư đã từng tu các chùa: Nghiêm Quang (chùa Keo) Hà Trạch Chúc Thánh. Không Lộ vừa được xem là thiền sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông vừa được cho là thuộc thiền phái Thảo Đường. ( Bách khoa toàn thư mở wikipedia) Sự nghiệp văn chương của Ts Không Lộ hiện nay còn hai bài thơ Ngôn hoài và Ngư nhàn. Ở đây tôi đặc biệt tìm hiểu về bài Ngôn hoài từ đó đem so sánh với bài NQSH để thấy những mối tương đồng giữa hai bài thơ. Ngôn hoài (NH) Không Lộ Trạch đắc long xà địa khả cư Dã tình chung nhật lạc vô dư. Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Tạm dịch : Nỗi lòng Chọn được đất thiêng để ở đời Tình quê vui thú suốt ngày chơi. Đúng thời lên thẳng non cao vút Hét một tiếng vang lạnh cả trời. Bài thơ này cũng như có nhiều bài thơ khác trong kho tàng thơ Thiền Việt Nam lại giống với một bài thơ của Trung Hoa cụ thể là của Lý Tường tặng thiền sư Dược Sư Duy Nghiễm đời Đường: (4) Tuyển đắc u cư hiệp dã tình Chung niên vô tống diệc vô nghinh. Hửu thời trực thướng cô phong đỉnh Nguyệt hạ phi vân tiếu nhất thanh. Về việc giống nhau của hai bài thơ cũng như ai đã đạo văn của ai tôi sẽ bàn sau trước hết chúng ta hãy tìm hiểu bài thơ của Không Lộ. Bài "Ngôn hoài" là một kiệt tác của Không Lộ. Chính vì vậy ta cần phải soi chiếu bài thơ này trong con mắt của thi pháp học có nghĩa là phải nghiên cứu bài thơ một cách toàn diện: từ thân thế tác giả không gian và thời gian bài thơ ra đời ngôn từ được xử dụng trong bài thơ biện pháp nghệ thuật và thông điệp mà bài thơ mang lại và cuối cùng là xâu chuỗi tất cả những yếu tố ấy vào một chỉnh thể thống nhất. Chỉ khi nào làm được như thế ta mới thuyết phục được chính mình và người đọc. Câu 1 - Trạch đắc long xà địa khả cư Bài thơ này trước đây đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm bình giảng như Đặng Thai Mai đã viết "Nhà thơ vui mừng nhìn địa vật qua những rặng núi hình rồng hình rắn uốn quanh ngôi nhà mình. Đó là lối nhìn của các thầy địa lý"(5) có thể từ nhận xét của một trong những cây đại thụ trong làng nghiên cứu văn học nước ta như vậy lại thêm vào hình ảnh mà lịch sử cung cấp nên hầu như ai cũng nghĩ bài thơ phản ảnh cái nhìn phong thủy có thể vì trong suy nghĩ của nhiều người thầy tu Phật giáo thường gắn liền với những kiến thức về phong thủy thậm chí gần như mê tín dị đoan nên khi đọc bài thơ của một tác giả là thiền sư người ta dễ liên tưởng đến vấn đề này nhất là ở câu một tác giả đã viết "Trạch đắc long xà địa khả cư". Ngay câu mở đầu người đọc đã bắt gặp ngay hình ảnh rồng rắn thì dĩ nhiên người đọc rất dễ nghĩ rằng đất rồng rắn là một thế đất tốt theo thầy địa lý(Đất rồng rắn dỉ nhiên là một tiêu chí phong thủy nhưng không phải là yếu tố dị đoan thầy địa lý cũng không phải là xấu như ngày nay một số người thường nghĩ). Như vậy ta đi vào cõi thơ của Không Lộ bằng cái nhìn phong thủy tiêu cực thì những ý tưởng tiếp theo trong bài thơ cũng phải theo chiều hướng này kết quả là qua bao cuộc mổ xẻ bài thơ cũng chưa được giải thích một cách thống nhất và thấu đáo từ tên bài thơ cho đến nội dung nên bài thơ vẫn cứ bao trùm một màu huyền bí mà có người còn gọi là "siêu thơ". Do đó chúng cần tìm hiểu xem " Long xà địa là gì?" Có phải là một thuật ngữ phong thủy hay không? Thuật ngữ này đã xử dụng ở đâu? Với nghĩa nào? -Về phong thủy thì trong 92 thuật ngữ phong thủy (6) không thấy có thuật ngữ long xà địa. Vậy chúng ta tìm hiểu theo hướng khác. -Trong Kinh Dịch viết rằng: "Long xà chi chập dĩ tồn thân dã" dịch nghĩa "rồng rắn mà ẩn nấp cốt để giữ mình vậy". (7) -Truyện Dương Hùng trong Hán Thư cũng nói: "Quân tử đắc thời tắc đại hành bất đắc thời tắc long xà" dịch nghĩa "Người quân tử mà gặp thời thì làm việc lớn không gặp thời thì ở ẩn". (8 ) Như thế là đã rõ thuật ngữ "long xà" có nghĩa là ở ẩn ẩn ở đây không phải là tìm vào chốn xa xôi hẻo lánh mà là hòa mình vào cuộc đời của người quân tử khi chưa đúng thời. Người quân tử ở đây là người có khả năng giúp nước giúp đời. Khi quốc gia hữu sự thì người quân tử phải dấn thân mà bảo vệ tổ quốc khi hòa bình thì họ cũng như bao công dân khác hòa mình vào xã hội âm thầm xây dựng quê hương (rồng thành rắn hay rồng đất). Như thế câu này có nghĩa là: Chọn được cuộc đất tốt có thể ở được. Như tiểu sử của ông cho biết ông sinh năm 1016 chỉ sáu năm sau khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long ông đã lớn lên cùng với cái hào khí của một đất nước trong một vận hội mới một thời kỳ mà chưa một triều đại nào trước đó làm được: đó là nền độc lập của đất nước. Từ nền độc lập này nước Việt đã phát triển trên mọi mặt nhất là đối với nhân dân những người luôn phải chịu đau khổ trước nhất khi không có hòa bình độc lập. Mọi hoài bão đó được gởi vào hai chữ "Thăng Long". "Thăng Long" là "rồng dậy rồng lên". Như thế có nghĩa là rồng này không phải ở trên trời mà từ mặt đất từ lòng người là ý chí độc lập tự cường là khát vọng hòa bình hạnh phúc. Tự cái việc dùng từ ‘Thăng" đủ cho thấy Lý Thái Tổ đã nhận thức về sức mạnh của nhân dân như thế nào. "Thăng Long" cũng chỉ cho bản thân Lý Thái Tổ mà cũng là tiêu biểu cho nhân dân. "Thăng" là "vươn từ dưới lên" như "thăng tiến" "tỏa từ trong ra ngoài" như "thăng hoa". Điều đó cho thấy yếu tố phong thủy chỉ là thứ yếu trong quyết định này. Điều này đã thể hiện rõ trong Chiếu dời đô trước là" trên kính mệnh trời dưới theo ý dân" sau mới nói địa thế " rồng sinh hổ ở". Sau những nhiễu nhương của triều đại trước đó chính Thiền sư Vạn Hạnh đã chủ động đề nghị Lý Công Uẩn hãy vì quốc gia mà nắm lấy triều chính và chắc chắn rằng những công việc triều chính sau đó phải có sự tham gia của Vạn Hạnh tất nhiên quyết định dời đô về Đại La không nằm ngoài dự tính của Vạn Hạnh. Ngày nay khi chúng ta đọc vào lịch sử chỉ thấy ghi lại chiếu chỉ dời đô ngắn ngủi của Lý Thái Tổ nhưng chúng ta phải hiểu rằng để đi đến một quyết định như vậy triều đình nhà Lý rút kinh nghiệm từ những sự kiện xảy ra trước đó đã phải bàn bạc cân nhắc trên mọi lãnh vực để sao cho tại kinh đô mới phải củng cố được mọi mặt từ chính trị quân sự văn hóa kinh tế. " Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa thực là chổ tụ hội quan yếu của bốn phương đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời". (Chiếu dời đô). Bởi vì những gì đã xảy ra trước đó nhắc nhở cho Lý Thái Tổ biết rằng: việc thế lực phương bắc xâm chiếm nước ta không phải là quyết định nhất thời mà là một hiện thực lâu dài. Chính vì vậy cần phải chọn một nơi có thể đáp ứng được những mục tiêu đó nơi ấy là một cuộc đất có thế vừa tiến đánh sớm nhất khi quân xâm lược tiến vào nước ta lui về phòng thủ khi cần thiết bằng một hậu phương vững mạnh cả trên hai phương diện thủy và bộ đặc biệt ông đã thành công trong việc dời đô khi đã xây dựng một thế trận lòng dân vô cùng vững chãi. Chắc chắn đã có nhiều phương án được đưa ra và cuối cùng đi đến quyết định chọn (trạch đắc) Đại La rồi đổi thành Thăng Long (rồng đất) (Long xà địa - rồng đất) để định đô (khả cư) (9). Như đã nói ở trên Không Lộ sinh năm 1016 như vậy ông đã lớn lên cùng với cùng với âm vang từ Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ chiếu chỉ này chắc chắn phải được thường xuyên nhắc nhở trong triều đại nhà Lý sau đó (hay như cách ta nói ngày nay là "quán triệt"). Mấy mươi năm sau ông trở thành quốc sư thì chắc chắn ông phải nằm lòng chiếu chỉ này. Tất nhiên ông hiểu và thời đó có lẽ ai cũng hiểu "thăng long" là "rồng đất" là sức mạnh của nhân dân. Câu 2 - " Dã tình chung nhật lạc vô dư". "Dã" là thôn quê "tình" là tình cảm tâm tư ở đây là đời sống tinh thần nơi thôn dã. Nhưng tại sao lại là đời sống tinh thần nơi chốn quê mà không phải là thành thị? Đây chính là cái tài của tác giả. Thông thường trong một quốc gia thôn quê là nơi ít được hưởng thụ những thành quả của xã hội nhất thế mà ở đây người dân nơi thôn quê lại được hưởng trọn vẹn thành quả của xã hội trên mọi mặt thì những thành phần khác trong xã hội phải ngang bằng hoặc hơn. Như ta nói: "Ở Việt Nam người nghèo nhất cũng có một chiếc xe hơi" thì cũng có nghĩa là những thành phần còn lại phải có một hoặc hơn một chiếc xe hơi. Đây là một nghệ thuật dùng từ mà ngày nay ta gọi là biện pháp tu từ "dùng cái thấp nhất để chỉ cái cao nhất". Rõ ràng tác giả dùng từ rất đắt. Từ "vô dư" lấy từ nhà Phật nghĩa là không còn gì "lạc vô dư" có nghĩa là vui không sót vui không thiếu lãnh vực nào không còn gì không được vui. Như ta biết lịch sử nước ta được viết bằng máu bằng sự hy sinh của biết bao thế hệ không một gia đình dòng họ nào ở nước Việt mà không có người đã hy sinh nơi chiến trận một đất nước hết bị phương bắc xâm lăng thì phía nam quấy phá trong một quốc gia như vậy thì chiến tranh luôn là nỗi lo không những của người nắm giữ vận mệnh của quốc gia dân tộc mà còn là của nhân dân. Bởi vì chiến tranh đồng nghĩa đau thương mất mát và đói khổ không phải chỉ đau thương mất mát trên chiến trường mà nỗi đau đó kéo dài theo những gia đình khi con mất cha vợ mất chồng nhà tan cửa nát. Còn đau đớn hơn nữa khi tổ quốc bị ngoại bang cai trị như Nguyễn Trãi đã viết : "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn vùi con đỏ xuống hầm tai họa ............ Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi !" Bình Ngô đại cáo Thỉnh thoảng cũng có hòa bình thì gặp phải cảnh hôn quân bạo chúa thế là có hòa bình nhưng chưa phải thái bình. Chính vì vậy khát vọng một cuộc sống trong một quốc gia độc lập thái bình thịnh trị trên thì có vua anh minh dưới thì các quan liêm khiết là khát vọng vô cùng to lớn của người dân Việt trong mọi thời đại. Việc đời đô từ Hoa Lư về Thăng Long và những năm tháng thái bình sau đó là minh chứng cho thấy sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ dưới sự cố vấn của Quốc sư Vạn Hạnh nó cho thấy sự đồng lòng từ vua quan cho đến thứ dân quyết định đó đã làm thay da đổi thịt đất nước trên mọi mặt. Quốc gia thì thái bình thịnh trị luật pháp thì khoan hồng mà nghiêm minh văn hóa thì thăng hoa rực rõ nhân dân thì ấm no hạnh phúc. Do vậy dù ở chốn thôn dã mà vẫn hưởng thụ được thành quả của thái bình không phải chỉ là cơm ăn áo mặc mà trên tất cả các lãnh vực khác của cuộc sống. Đó là niềm vui trọn vẹn. Thế mới gọi là "chung nhật lạc vô dư". Một quốc gia mà nơi thôn quê dân dã lại được hưởng trọn vẹn tất cả những thành quả của xã hội thì biết rằng xã hội đó tiến bộ thế nào. Không Lộ cũng lớn lên và tận hưởng niềm vui chung đó ông đã chứng kiến sự phát triển của quê hương trên mọi mặt và hương vị của thái bình đã thấm vào tâm hồn ông. Với tất cả những gì mà ông trải nghiệm ông đã gởi gắm vào câu này. Câu 3 - Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh ("Hữu thời"- chữ "thời" ở đây là chữ "thời" trong Kinh dịch có nghĩa là thời cơ cơ hội vận hội. Vì ở câu một ông đã dùng "long xà địa"cũng trong Kinh dịch hơn nữa nếu ta hiểu " hữu thời" là có khi hay thỉnh thoảng thì yếu quá so với khí lực của bài thơ và đồng thời không liên kết được với ý sau của câu thơ. "Trực thướng" nghĩa đen là lên thẳng nghĩa bóng là ngay tức khắc. "Cô phong đỉnh" là đỉnh núi chon von núi đứng một mình nghĩa bóng là chủ quyền quốc gia). Vui là thế thanh bình là thế niềm vui lớn quá cứ tưởng chừng như nhân dân nước Việt giờ đây quên hết những đau thương mất mát khi ngoại bang xâm lăng nước họ rồi. Không đâu! Người dân Việt tuy được vui hưởng thái bình nhưng họ nhận thức được rằng trong mỗi bát cơm ăn một đêm yên giấc thanh bình là kết quả của sự độc lập thái bình. Những đau thương mất mát của cha ông đã kết tinh vào trong tâm thức họ ý thức chủ quyền của quốc gia tuy không bộc lộ ra ngoài nhưng dòng tâm thức đó vẫn luân lưu trong mỗi người dân Việt. Hơn ai hết họ biết rằng làm sao hạnh phúc được khi đất nước bị mất chủ quyền bị ngoại bang xâm lăng dày xéo. Tuy ngày ngày vui nơi thôn dã làm rắn sống giữa đồng nhưng khi quốc gia hữu sự lập tức rắn hóa thành rồng đứng lên chung sức chung lòng bảo vệ sơn hà xã tắc. Không Lộ là quốc sư mà tiêu chí để vua quan triều Lý phong làm quốc sư thì đâu phải chỉ biết xem ngày lành tháng tốt đất thịnh hướng thông mà phải là con người có tầm nhìn đối với quốc gia đại sự để tham mưu cố vấn cho triều đình trong việc trị quốc an dân. Với tư cách là một thiền sư thì ông cố vấn cho triều đình lãnh vực nào ngoài văn hóa - tư tưởng mà văn hóa cao nhất và cũng là nhiệm vụ thiêng liêng nhất trong một quốc gia đó là lòng yêu nước. Do đó chắc chắn rằng dưới sự cố vấn của ông triều đình luôn nhắc nhở giáo dục người dân về lòng yêu nước bảo vệ non sông. Từ tầm nhìn vĩ mô ông nhận biết rằng tuy vui trong thanh bình như thế nhưng mỗi người Việt luôn có lòng tự hào dân tộc.Do vậy khi có bất cứ thế lực nào xâm phạm quốc gia thì đó chính là lúc (hữu thời) và ngay tức khắc (trực thướng) họ đứng trên lập trường chủ quyền quốc gia (cô phong đỉnh) để đối mặt với quân thù. Hình ảnh một người leo thẳng lên đỉnh núi cao chót vót mà theo chữ Hán trong bài thơ gọi là "cô phong đỉnh" là một hình tượng độc lập hùng vĩ và rất đẹp. Cô là trơ trọi không có gì chung quanh có nghĩa là chẳng có ngọn núi nào khả dĩ so sánh được hình ảnh ngọn núi cao vút đứng một mình thẳng hướng lên trời cao là hình ảnh vô cùng mạnh mẽ hùng tráng nhưng cô độc. Ngọn núi cao là vậy hùng vĩ là vậy thì làm sao thỉng thoảng lại leo thẳng lên đỉnh núi được ai mà leo cho nỗi. Do vậy đây là ngọn núi tâm linh văn hóa ngọn núi này mỗi người dân Việt ai cũng có trong lòng chính vì vậy khi cần thiết là ngay tức khắc họ có mặt ở non cao nơi ngày ngày quận tụ hồn thiêng sông núi. Đây cũng chính là hình ảnh của thiền hình ảnh bất khả tư nghị bất khả tỷ giảo cũng như đỉnh cao của trí tuệ giác ngộ cái trí tuệ mà kẻ giác ngộ không thể chia sẻ với ai không thể so sánh với cái gì cũng như trong một quốc gia chủ quyền là cái duy nhất không có gì có thể so sánh và đánh đổi được. Câu 4 - Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Như vậy trong lòng mỗi người dân Việt luôn có một đỉnh núi một ý thức về chủ quyền quốc gia ý thức đó tuôn chảy từ đời này sang đời khác. Nhưng vấn đề là những kẻ xâm lược luôn tìm mọi cách để phủ nhận điều đó. Chính vì vậy chủ quyền này cần phải được tuyên bố nhất là khi chủ quyền của nước nhà bị xâm phạm. Từ ý thức chủ quyền đó ở trên đỉnh núi cao đó ngay tức khắc họ long trọng tuyên bố nước Việt là một nước có chủ quyền. Ở đây tác giả dùng từ thét mà thét dài (trường khiếu) nó cho ta thấy sự dõng dạc cương quyết và hùng tráng. Khi ta quá đau khổ ta cũng thét khi ta quá hạnh phúc ta cũng thét thét là một ngôn ngữ ở đỉnh cao hay có thể nói là siêu ngôn ngữ nó được dùng để diễn tả những gì mà ngôn ngữ có nói cũng không thể nói hết được mà nền độc lập chủ quyền của quốc gia có được là từ máu xương của bao thế hệ xây dựng nên thì bút mực lời nói nào diễn tả cho hết. Trong đạo thiền tiếng thét cũng là ngôn ngữ của người giác ngộ chỉ có tiếng thét mới làm cho kinh hãi cả ba cõi thấu khắp cả tam thiên chứ cái ngôn ngữ đối đãi thì làm sao mà diễn tả được cái sâu thẳm của đạo được thế mới gọi là nói mà không nói hay ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt vậy. Còn đối với một đất nước thì chỉ có tiếng thét không những thét mà còn thét dài và chỉ thét dài một tiếng (nhất thanh) mới có thể nói lên được cái ý thức chủ quyền độc lập là to lớn đến chừng nào. Nhưng sao lại thét dài một tiếng vâng! một tiếng thôi hàng triệu triệu người con Việt dị khẩu đồng âm (khác miệng giống lời) cùng thét dài lên một tiếng một lập trường một ý thức "độc lập" có như thế mới làm cho những kẻ xâm lược rởn tóc gáy lạnh cả người cả thế giới phải im lặng lắng nghe (hàn thái hư). Không phải ngẫu nhiên mà người đời sau đặt tên bài thơ này là "Ngôn hoài" "lời hoài bão" Hoài bão của một con người một công dân một dân tộc.Hoài bão đó là gì nếu không phải là một quốc gia hưng thịnh thiên hạ thái bình dựa trên một nền độc lập tự cường và sẵn sàng bảo vệ nền độc lập ấy bằng bất cứ giá nào nếu như có bất cứ ai bất cứ thế lực nào xâm phạm. Như thế ta thấy bài thơ này chuyên chở một thông điệp xuyên suốt ý tứ nhất quán cách dùng từ có tính khái quát cao lối hành văn dứt khoát làm cho khí lực của bài thơ vô cùng mạnh mẽ và khiến cho người đọc cảm thấy hết sức trang trọng. Có thể bài thơ này Không Lộ làm vào độ tuổi 35-45 có nghĩa là vào khoảng những năm 1051-1061. Có lẽ không trễ hơn được. Vì sau 50 tuổi theo quy luật tự nhiên khí lực con người bắt đầu đi xuống do đó bút lực khó mà đạt được như vậy. Trong thời kỳ này nhà Lý cho dựng chùa Một Cột nói là nằm mộng chứ kỳ thực ý muốn nói nền độc lập của nước nhà. Ta có thể tóm lược như sau: Câu 1 - Khẳng định lãnh thổ và thiết chế chính trị: Đất Long xà hay đất Thăng Long là kinh đô của nước Việt là tiêu biểu cho nước Việt. (chính trị) Câu 2 - Nhân dân trong nước sống sung túc an lạc-yêu chuộng hòa bình.(kinh tế) Câu 3 - Văn hóa chủ quyền quốc gia là tư tưởng chủ đạo của mọi người dân (văn hóa). Câu 4 - Sẵn sàng bão vệ chủ quyền đó (quân sự)và và được tuyên bố rộng rãi chủ quyền đó trên trường quốc tế. Như thế bài thơ này có khác gì một Tuyên ngôn độc lập hay có thể nói rằng đây là bài Tuyên ngôn độc lập. Vậy liệu bài thơ này tuyên ngôn độc lập này có liên quan gì đến bản Tuyên ngôn độc lập Nam quốc sơn hà không? Như lịch sử cho biết Lý Thường Kiệt (người cho đọc bài thơ thần trên sông Như Nguyệt) sinh năm 1019 sau Không Lộ 3 năm. Nghĩa là Lý Thường Kiệt và Không Lộ là người cùng thời. Khi trận Như Nguyệt xảy ra lúc ấy Lý Thường kiệt 57 tuổi và Không Lộ 60 tuổi. Một bên là quan võ đầu triều người kia là quốc sư cả hai là lão thần của triều Lý. Là quốc sư không lẽ khi quốc gia nguy biến như vậy mà ông không hay biết hay sao có thể ông cũng có mặt trong Thiền sư Không Lộ tác giả bài Nam quốc sơn hà - Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam! (2) 10/08/2009,19:32:03 | 1 Comment(s) | 335 View(s) So sánh hai bài thơ : Nam Quốc sơn hà và Ngôn hoài. Câu 1- Nam quốc sơn hà nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở ) Trạch đắc long xà địa khả cư (Chọn được đất thiêng để ở đời ) Sông núi nước Nam vua Nam ở: Câu này khẳng định lãnh thổ của nước Nam và thiết chế chính trị -Chọn được đất thiêng để định đô: Kinh đô là chỗ ở của vua là mảnh đất trung tâm chính trị của một đất nước là tiêu biểu cho một quốc gia. Như đã nói ở trên "Thăng Long" là "rồng đất" con rồng phương nam con rồng đặc hữu của Việt Nam mà đất của rồng phương nam thì vua nam ở đó là điều tất nhiên. Rõ ràng câu này cũng để khẳng định chủ quyền về lãnh thổ và thiết chế chính trị. Như vậy hai câu này hoàn toàn giống nhau về ý và cả cách hành văn nữa "Nam quốc sơn hà - trạch đắc long xà" "đế cư - khả cư". Câu 2 - Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. (Rành rành định phận tại sách trời.) Dã tình chung nhật lạc vô dư. (Tình quê vui thú suốt ngày chơi ) Mới nghe qua ta tưởng hai câu này khác nhau nhưng kỳ thật chúng giống nhau. Sao bảo là giống nhau? Như ta biết Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ là một văn bản thiêng liêng lúc bấy giờ chắc chắn các nho sinh phải học tập nằm lòng các quan triều Lý cũng không ngoại lệ. Trong Chiếu dời đô viết "trên kính mệnh trời dưới theo ý dân". Như vậy trong bài NQSH dùng vế trước còn NH thì dùng vế sau của một câu hai vế tuy khác nhau về ngôn từ nhưng ý chỉ là một. Vì " trời cũng chính là dân và dân cũng chính là trời". Nhưng khi ta dùng để nói với kẻ mệnh danh là "thiên triều" thì ta phải dùng trời mà trả lời thế mới tương xứng. Câu này khẳng định lãnh thổ đó thiết chế chính trị đó đã được công nhận bởi công lý thế giới. Câu 3 - Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Nếu như quân giặc sang xâm phạm) Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh (Đúng thời lên thẳng non cao vút) Câu này trong NQSH là cụ thể hóa ý "hữu thời" chính vào lúc khi giặc sang ở đây nói xâm phạm là xâm phạm chủ quyền xâm phạm "cô phong đỉnh" xâm phạm điều thiêng liêng nhất của một đất nước. Hai câu này tuy câu chữ khác nhau nhưng ý tứ liền lạc với nhau. Điều này dễ hiểu vì bài NQSH nhằm mục đích đáp ứng cho nhu cầu chiến tranh tâm lý đối tượng là số đông nên ngôn từ phải rõ ràng dễ hiểu. Câu 4 - Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. (Các ông sẽ thấy bại vong thôi.) Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. (Hét một tiếng vang lạnh cả trời.) Câu kết này tuy nặng nhẹ khác nhau nhưng cũng có ý như nhau. NQSH thì nói thẳng quân giặc sẽ thấy thất bại còn NH thì làm cho quân thù nghe mà ớn lạnh khiếp vía kinh hồn. Như vậy chúng ta thấy liên quan đến hai bài thơ có những giống nhau sau đây: Về con người : - Cả hai đều quan đầu triều (nếu ta xem quốc sư như một chức quan hay tương đương) - Cả hai cùng tham gia trận đánh. Về bài thơ : - Cùng được viết trong một thời đại. - Cùng chuyên chở một thông điệp. - Cùng giống ý trong từng câu. - Cùng vận (cư) và lối hành văn. Chỉ có một điều khác duy nhất đó là một người là tác giả một trong hai bài thơ còn người kia chỉ là người cho đọc bài thơ chứ không phải là tác giả. Với những phân tích và so sánh trên ta có thể nói rằng bài thơ này chính là anh em sinh đôi của bài kia mà một trong hai có khai sinh rõ ràng thì người anh em kia chắc phải là cùng một mẹ. Hay nói khác bài NQSH là chiếc bóng của bài NH do đó Không Lộ có thể là tác giả bài thơ này hay chính là tác giả bài thơ này bài Nam Quốc Sơn Hà - Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta . Nhưng điều mà ai cũng biết: Cả hai bài thơ trên đều thoát thai từ Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ - từ Hoa Lư về Thăng Long - năm Canh Tuất - 1010. ................................o0o................................. 1 - Đại Việt Sử Kí toàn thư-NXB Văn Hóa-Thông tin-C1-tr 428. 2 - (Việt điện u linh (1329)- Lý Tế Xuyên. Bản dịch. NXB Văn học H.1972 tr 70-71) 3 - (Lĩnh Nam chích quái - Vũ Quỳnh - Kiều Phú. Bản dịch NXB Văn hoá H 1990 tr. 83-84). Về ngày tháng trong LNCQ có nhiều sai khác giữa các bản ngày 2/10 23/10 Việt sử diễn âm 15/12 ở đây chỉ luận theo văn bản đã trích. 4 - Bài thơ của Lý Tường là một bài thơ có nhiều khiếm khuyết : A-Ngay câu đầu cách dùng từ đã khiên cưõng. "Tuyển" nội hàm ngữ nghĩa của từ này có nghĩa là chọn nhưng mà chọn một trong số những cái đẹp hay tốt có sẵn. Như tuyển tập văn học tuyển sinh tuyển thủ tuyển phi. Chứ chẳng thấy ở đâu nói tuyển cư tuyển thổ. Hay nói khác hơn từ "tuyển" đi sau nó là những từ thuộc về con người hay sản phẩm của con người và có nghĩa tốt. B-Tự hai chữ "u cư" đã bao hàm nghĩa của "dã" rồi nên nói "u cư hợp dã tình" là thừa. Hơn nữa "dã tình" đâu phải tính chất cố hữu của con người mà hợp. Do đó câu này bị lủng củng. C-Câu thứ tư "nguyệt hạ phi vân" cách dùng từ như thế này không phù hợp với trật tự tư duy. Ba câu trước là những câu hoàn chỉnh không ngắt quãng sao bỗng dưng câu này lại ngắt ra. Lại thêm hai từ ghép đi liền với nhau không đối xứng mà lại đối nghịch nhau trăng với mây đi liền nhau đáng ra phải viết là nguyệt hạ vân nhàn hay nguyệt hạ vân... mới phù hợp với quy tắc ngôn ngữ như tuyết tán vân phi. Hay trong tiếng Việt ta thường nói kính trên nhường dưới nhà tan cửa nát mâm cao cỗ đầy. Ai lại nói kính trên dưới nhường nhà tan nát cửa mâm cao đầy cỗ bao giờ.Rõ ràng bài thơ này chẳng có ông Lý Tường nào làm cả mà sửa từ một bài khác mới ra nông nỗi ấy.Cụ thể là sửa từ bài Ngôn hoài của Không Lộ chứ không thể ngược lại được. chuyện này không phải chỉ riêng bài Ngôn hoài mà thôi mà còn nhiều bài khác nữa như bài Xuân nhật tức sự của Huyền Quang chẳng hạn. Rõ ràng đây là một chính sách nhất quán của các triều đại của Trung Hoa chứ không riêng một thời nào. D- Sẽ có người nói "Nhưng mà về văn bản học thì bài thơ này có từ đời Đường cơ mà". Ngàn năm trước thì việc thêm vào lấy ra một bài thơ có khó gì. Còn có điều lạ nữa là chuyện trùng thơ này chủ yếu chỉ xảy ra với các thiền sư mà thiền sư nổi tiếng của VN mới lạ chứ! Lẽ nào trong chốn thiền môn ở VN lại tập hợp nhiều người đạo văn thế sao? Đ-Trước đây tôi cũng có bài "Tuyên ngôn độc lập của một thiền sư" cũng viết theo lối suy nghĩ như thế nay nghĩ lại thấy có lỗi với bậc tiền nhân quá. 5 - "Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học"- Thơ văn Lí - Trần tập 1 trang 41 - NXB Viện Văn học - Hà Nội - 1977. 6 - Xem bí ẩn của phong thuỷ Vương Ngọc Đức chủ biên Trần Đình Hiến dịch nxb Văn Hoá Thông Tin 1996. 7 - Kinh Dịch: Đạo của người Quân tử - Nguyễn Hiến Lê Hệ từ truyện - thiên hạ - chương 5 tiết 3 trang 483 nxb văn hoá tb 1994. 8 - Nhị Thập tứ sử - Hán Thư - Truyện Dương Hùng cuốn 1 tr 2243.(thư viện Hán Nôm - HV-488) Dương Hùng thượng truyện đệ ngũ thập thất thượng 2234 Thương vụ ấn thư quán - Túc Ân bách nạp bổn - Nhị thập tứ sử . 9 - Rồng biến thể từ rắn là đặc hữu của VN. Đây cũng có thể là một yếu tố cho thấy Kinh dịch có thể là của Việt Nam như có người đã nghiên cứu và đề nghị.1 like
-
Phù điêu Quốc tổ Lạc Long Quân là bảo vật quốc gia Ngày 12/4, UBND huyện Thanh Oai (Hà Nội) trang trọng tổ chức đón nhận quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận bức giá tượng Lạc Long Quân là bảo vật quốc gia. Bức phù điêu Quốc tổ Lạc Long Quân. Nguồn ảnh: TTXVN Lễ trao bằng công nhận bức giá tượng Lạc Long Quân là Bảo vật quốc gia. (Ảnh: Đinh Thị Thuận/TTXVN) Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật thời kỳ Hùng Vương đang lưu giữ tại di tích đình Nội (đền Lạc Long Quân), thuộc thôn Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai có niên đại từ cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX. Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật thời kỳ Hùng Vương đang lưu giữ tại di tích đình Nội (đền Lạc Long Quân), thuộc thôn Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai có niên đại từ cuối thế kỷ 19-đầu thế kỷ 20. Bức tượng được chạm khắc tinh xảo trên nền gỗ sơn son thếp vàng, miêu tả cảnh Lạc Long Quân cùng văn võ bá quan xem hội đua thuyền, tái hiện sống động cảnh sinh hoạt thời đại Hùng Vương. Lạc Long Quân ngự trên ngai vàng, đầu đội vương miện chạm hình “lưỡng long chầu nguyệt” với khuôn mặt hiền từ, phúc hậu, mình khoác long bào, vóc dáng bệ vệ, oai phong. Ba tầng trên cùng là biểu tượng của nhà nước sơ khai song vẫn có đủ triều thần văn quan võ tướng mang ý nghĩa về sự phát triển từ Lạc Long Quân đến thời Hùng Vương thứ nhất. Ngoài giá trị lịch sử, độc bản, nghệ thuật bức giá còn thể hiện rõ tư tưởng tín ngưỡng tôn giáo và văn hóa dân gian giúp mọi người nhớ về nguồn cội dân tộc. Bức giá tượng được trùng tu nhiều lần song vẫn giữ nguyên các giá trị gốc. Thanh Phương (tổng hợp) Tôi ghi chú: Bức phù điêu này có từ thời Lý chứ không phải thế kỷ XIX.1 like