• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 18/05/2016 in all areas

  1. Oh! Thế thì tốt. Lão Gàn có cảm tình với nước Nga từ hồi còn nhỏ. Những lời khuyên của lão Gàn với nước Nga là rất chân tình. Ngài Putin cũng thông cảm. Lão Gàn chỉ là phó thường dân dự khuyết hạng II Nam Bộ, nên mọi thông tin lão Gàn biết được đều qua báo chí chính thống. Nếu quả là họ thông tin sai, ngài hãy trách móc họ.
    3 likes
  2. BỔ SUNG CÁC HIỆN VẬT LIÊN QUAN. Áo cài vạt bên trái - "Nam tả nữ hữu" - Đây là tinh thần của Dịch học Đông phương. Áo cài vạt bên trái trong di chỉ khảo cổ tìm được ở Nam Dương Tử. Thiên Hiến Vấn, sách Luận Ngữ được coi là của Khổng Tử viết: "Nếu không có Quản Trọng thì tất cả người Hán chúng ta cái áo vạt bên trái như người Man rồi". Dấu ấn "áo cài vạt bên trái" vẫn còn đến bây giờ ở đồng bào các dân tộc ít người ở Việt Nam và trong các di sản văn hóa của người Kinh. Xin xem "Y phục dân tộc thời Hùng Vương" Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Khám phá thế giới Chủ Nhật, 15/5/2016 1:20:49 GMT+7 (THVL) ‘Bảo tàng dưới lòng đất’ của tỉnh Quảng Tây15-08-2008 Cán Giang là nhánh sông lớn thứ 2 của sông Trường Giang, chảy qua địa phận tỉnh Giang Tây. Tháng 9/1989, để bảo vệ con đê sông Cán Giang ở Trình Gia Thôn, trấn Đại Dương Châu, người dân đã lấy cát trên đống cát gần đó bồi đắp cho con đê và đã phát hiện một số đồ vật kỳ lạ trong đống cát. Các nhà khảo cổ phán đoán nơi đây là một di chỉ văn hóa cổ đại quan trọng. Căn cứ theo ghi chép trong sách cổ, vào thời xa xưa, trung và hạ du sông Trường Giang là khu vực vắng vẻ, khảo cổ bao năm qua của tỉnh Giang Tây cũng thu được chút thành quả nhỏ. Năm 1989, những phát hiện khảo cổ ở Trình Gia Thôn gây kinh ngạc cho nhiều người. Trên đồi cát, đội khảo cổ phát hiện lớp cát màu hạt dẻ, 3 đống đồ vật phân bố bên trong bao gồm : một số lễ khí, binh khí, công cụ sản xuất bằng đồng kích thước nhỏ, ngoài ra còn có đồ gốm. Công việc khai quật tiến hành 10 ngày, toàn bộ di vật đã lộ ra ngoài. Phía Đông là đồ gốm; ở gần phía Đông đặt một số đỉnh đồng, bình đồng hũ gốm; ở giữa đặt binh khí cỡ nhỏ, xung quanh có đặt lượng lớn đồ ngọc khiến mọi người hoa mắt. Ở phía Tây Nam và góc Tây Bắc cũng phân bố nhiều loại đồ vật. Trong đất cát ở 3 nơi khác nhau, các nhà khảo cổ đã tìm được 24 chiếc răng của con người. Đây là răng của nhiều cá thể khác nhau, gồm răng của phụ nữ trung niên, răng của trẻ con. Sau khi kết thúc công việc khai quật, các nhà khảo cổ tìm được hơn 1.000 văn vật, trong đó có hơn 700 đồ vật bằng ngọc, hơn 100 đồ vật bằng gốm và 475 đồ vật bằng đồng. Giới khảo cổ ước đoán, chúng có niên đại lịch sử cách nay hơn 3.000 năm. Hơn 3.000 năm trước, nhà Thương cai trị Trung Quốc. Kinh đô An Khư của nhà Thương nằm ở lưu vực sông Hoàng Hà – phía Bắc Trung Quốc. Người đời sau cho rằng, An Khư là kinh đô phồn hoa nhất Trung Quốc lúc bấy giờ. Nhưng vào năm 1986, người ta đã khai quật được văn vật tại di chỉ văn hóa Tam Tinh Đôi ở tỉnh Tứ Xuyên thuộc trung du sông Trường Giang. Chúng không thua kém gì phát hiện ở An Khư. Điều này cho thấy, ở tỉnh Tứ Xuyên từng có một nước nhỏ tồn tại song song với nhà Thương. Vào thời kỳ văn minh đồ đồng Trung Quốc, lễ khí đồ đồng tượng trưng cho thân phận, địa vị và quyền lực. Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở An Khư giúp người đời sau biết được khí thế của vương triều Thương cổ đại. Đồ đồng tỉ trọng lớn khai quật ở Đại Dương Châu không thua kém gì An Khư. Nồi hông bằng đồng cao 105 cm, khai quật được ở Đại Dương Châu là dụng cụ chính nấu thức ăn. Với trọng lượng 78.5 kg, nó là cái nồi hông lớn nhất được tìm thấy ở Trung Quốc hiện nay và được gọi vua nồi hông Trung Quốc. Thiết kế của cái nồi hông rất đặc biệt. Trên 2 quai cầm có hai con nai nhỏ quay đầu nhìn nhau, hoa văn trang sức của cái nồi hông hoàn toàn khác nhau, đường nét thô mà thanh thoát, trên tròn dưới vuông. Ngoài ra còn có nhiều loại hoa văn kỳ lạ làm cho đồ vật trang trọng mà không cứng nhắc, quí giá và giàu hơi thở cuộc sống. Ở thời đại đồ đồng, binh khí hoa văn tinh xảo còn tượng trưng uy quyền. Ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một chiếc rìu lớn, lưỡi rìu rộng 36.3 cm, nặng 11.4 kg. Ở giữa chiếc rìu có chạm rỗng hình chữ nhật, trông giống như cái miệng lớn, bên trong có 11 chiếc răng sắc nhọn rất khí thế. Những đồ vật bằng đồng này cho thấy, chủ nhân của chúng có thế lực rất lớn, địa vị hiển hách. Trên đồ đồng khai quật ở Đại Dương Châu, nhiều lần xuất hiện hoa văn hung tợn và bí ẩn – con thao thiết. Con thao thiết là hoa văn trang sức kinh điển nhất trên đồ đồng An Khư. Thao thiết là con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự. Hoa văn hình con thao thiết – con thứ năm của rồng Giống như An Khư, ở Đại Dương Châu cũng đã khai quật một lượng lớn dụng cụ ăn uống làm lễ khí. Đỉnh là đồ vật tiểu biểu quan trọng nhất của lễ khí đồ đồng Trung Quốc. Ở Đại Dương Châu, giới khảo cổ đã tìm thấy hơn 30 cái đỉnh, ngoài ra còn có 6 chiếc đỉnh vuông, trong đó có chiếc đỉnh trọng lượng lớn và chiếc đỉnh nhỏ xinh xắn. Thú vị hơn, trên hai quai của những chiếc đỉnh tìm thấy ở Đại Dương Châu đều có gắn trang sức hình thú sinh động, hoạt bát tự nhiên, đặc biệt là hình tượng con hổ nằm xuất hiện rất nhiều lần. Hình tượng con hổ xuất hiện nhiều lần cho thấy, đây không phải là trang sức đơn giản, mà nó mang ý nghĩa rất sâu sắc. Theo ghi chép chữ giáp cốt, vào đời Thương, ở khu vực trung và hạ du sông Trường Giang có một nước nhỏ tôn sùng con hổ tên gọi Hổ Phương. Nhà Thương xem Hổ Phương là đối thủ mạnh, nhiều lần xuất binh chinh phạt. Năm 1973, các chuyên gia khảo cổ đã phát hiện một di chỉ văn minh cổ cách Đại Dương Châu 20 km. Trung tâm nền văn minh là thôn Ngô Thành nên được gọi là văn hóa Ngô Thành. Phần lớn đồ gốm và đồ ngọc và số ít đồ đồng đã phát hiện cho thấy sự phồn hoa xưa kia của thành phố này Năm 1988, mọi người lại phát hiện một di chỉ cổ thành Ngưu Đầu với quy mô lớn cách Đại Dương Châu 3.5 km. Đứng trên cao nhìn xuống cổ thành, mọi người chỉ nhìn thấy bức tường thành có hình bậc thang, có 5 cổng thành, chiếm diện tích hơn 50 vạn mét vuông. Khu vực nội thành có dạng hình chữ nhật, nằm ở phía Tây Nam cổ thành. Ngày nay, xung quanh nội thành cây mọc um tùm, bãi đất bằng phẳng ở giữa được người nông dân biến thành đất canh tác. Từ những văn vật tìm thấy, các chuyên gia suy đoán đây là tòa thành cổ được xây dựng vào cuối nhà Thương. Các chuyên gia khảo cổ cho rằng, chủ nhân của văn vật Đại Dương Châu không phải ở di chỉ Ngô Thành, mà ở thành Ngưu Đầu. Cư dân thành Ngưu Đầu nắm vững kỹ thuật xây dựng tiên tiến, có thể họ là dân di cư đến từ Trung Nguyên. Nhưng cũng có không ít chuyên gia cho rằng, người sáng tạo văn minh có lẽ là cư dân địa phương. Họ đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Nguyên. Tuy văn vật họ sáng tạo có điểm giống với văn hóa Trung Nguyên, nhưng nó thể hiện nhiều về đặc sắc bản địa. Hồng Mẫn
    3 likes
  3. NGÔN NGỮ VIỆT Tôi xin được mở đầu bài viết thể hiện cái nhìn của tôi về ngôn ngữ Việt, qua sự trích dẫn quan điểm của ông Phạm Công Thiện trên thư viện mở Wikipedia: Cái nhìn của ông Phạm Công Thiên đúng hay sai, được "khoa học công nhận" chưa thì chưa bàn vội. Tôi giới thiệu đoạn trích dẫn này chỉ như là một hiện tượng xác định sự minh triết của ngôn ngữ Việt từ ông Phạm Công Thiện - một nhân vật được giới thiệu trên thư viện mở - chắc hẳn phải thông minh hơn nhiều so với Thiên Sứ tôi. Một hiện tượng thứ hai tôi dẫn ra đây là cái tên cổ của đường Thanh Niên bên Hồ Tây và hồ Trúc Bạch ở Hanoi. Cái tên ấy bây giờ người ta gọi là "Cố (cố gắng) - Ngự (phòng ngự)". Nhưng trước đây từ đời cụ kỵ của tất cả những người dân Hanoi sinh ra ở cõi Tràng An, đều gọi là "Cổ (Cổ xưa) Ngư (Cá)". Vậy tại sao nó là thành "cố ngự"? Cái sự tích nó là thế này: Vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, có một vị sĩ phu Bắc Hà nào đó (lâu quá tôi quên mất tên vị này) phán rằng: Cổ Ngư thực ra là hiểu nhầm từ văn bản tiếng Pháp vốn ghi âm tiếng Việt không có dấu nên ghi là "Co ngu" và các cụ Nho nhà ta đã phiên âm là "Cổ Ngư". Chứ thật ra nó là "Cố Ngự" . Căn cứ vào một số nhà ngâm cứu thì cái đường gọi là "Cổ Ngư" đó, thực chất ngày xa xưa là một quãng đê. Vậy chắc chắn nó là "Cố ngự" rồi. Tức là quãng đê này cố gắng chống lại Hà Bá sông Hồng , mỗi khi ngài dâng nước nổi cơn thịnh nộ. Chà! Có lý! Thế là từ đó người ta cứ thế mà phang khi nói đến tên cổ của đường Thanh Niên là "cố ngự" như là một sản phẩm của kiến thức hàn lâm, đã được "khoa học công nhận". Ngày ấy, tôi chỉ là một gã thanh niên mới lớn, đọc báo thì biết vậy, chứ cũng chẳng đủ hiểu biết để ý kiến , ý cò gì. "Cổ Ngư" hay "cố ngự" thì cũng chẳng làm phai mờ mối tình đầu dang dở của tôi. Lúc ấy, như nhiều gã thanh niên mới lớn, tôi quan tâm đến mối tình của tôi hơn nhiều thứ trên đời. Nhưng bây giờ, tình đã nhạt phai, ngồi ngẫm lại về ngôn ngữ Việt, tôi mới thấy tính hệ thống và nhất quán của ngôn ngữ cao cấp nhất trong văn minh nhân loại, chính là ngôn ngữ Việt. Và phải bắt đầu từ một địa danh này. Tôi xin bắt đầu từ "Co Ngu". "Co ngu" là phiên âm tiếng Tây từ tiếng Việt thì đúng quá rồi. Nhưng nếu thêm dấu để nó thành "Cố Ngự" thì có thế thêm dấu thành rất nhiều chữ khác. Thí dụ: "Cò (Con cò) ngủ"; "Cỗ Ngự"; "Có Ngu" và tất nhiên là có cả "Cổ Ngư" nữa. Bây giờ, theo cái nhìn của tôi thì cần đặt lại vấn đề đường Thanh Niên bây giờ có phải ngày xửa, ngày xưa là con đê chắn nước không? Theo tôi hoàn toàn không! Bởi vì đê chắn sóng sông Hồng thì phải chạy dọc theo sông Hồng. Cho dù ngày xưa, rất xưa Hồ Tây được coi là một nhánh của sông Hồng thì cũng chằng ai mần một con đê chắn ngang Hồ Tây và chia đôi nó thánh Hồ Trúc Bạch cả. Khi mà con đê sông Hồng chạy sờ sờ bên kia Hồ Tây. Hơn nữa, tôi nhận thấy rằng: Chùa Trấn Quốc có từ trước cả thế kỷ XV. Trước đây nó vốn là hành cung của vua Lê. Sau này, dùng làm nơi để đưa những cung nữ có lỗi ra đấy. Cuối cùng nó mới thành chùa (Theo Doãn Kế Thiện - "Cổ tích và thắng cảnh Hanoi" Nxb Văn Hóa 1959). Vậy thì cái đê "cố ngự" ấy lập nên để làm gì khi con đường vào chùa Trấn Quốc phải có từ rất lâu, ít nhất từ hàng trăm năm trước vào thời Lê Trịnh. Chứ không lẽ bơi thuyền vào cung? Giả sử nó thật sự là con đê gì đó thì nó cũng chỉ là đê phụ sau đê sông Hồng, Nhưng đê phụ thì phải trước mặt đê chính chứ không thể sau đê chính để "cố ngự" cả. Hơn nữa, cái vô lý nó ở chỗ này: chẳng bao giờ cùng một danh từ mô tả một địa điểm, lại nửa nôm, nửa Nho như cái tên "Cố Ngự" cả. Vấn đề này tôi xin liên hệ với một hiện tượng là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi lập am ở Hồ Tây thì bà lấy tên là "Cổ Nguyệt" - Trăng xưa. Những địa danh ở quanh vùng đất Thăng Long xưa, có rất nhiều địa danh mang chữ đầu là "Cổ", như: Cổ Bi, Cổ Lễ, Cổ Nhuế, Cổ Mễ.... Vậy vùng đất Thăng Long xưa có dịa danh "Cổ Ngư" hoàn toàn hợp lý trong sự nhất quán và tính hệ thống với các địa danh gần gũi liên quan. Và quan trọng hơn cả, khi cụ Doãn Kế Thiện - người sống qua hai thế kỷ XIX và XX - trong tác phẩm của mình vẫn gọi là "Cổ Ngư". Vậy Tây nó phiên âm tiếng Việt từ chữ "Cổ Ngư" hay "cố ngự"? Khi chính cụ - một học giả cổ xưa vẫn gọi là "Cổ Ngư". Tức là địa danh Cổ Ngư đã có từ trước cả thời Tây xâm lược nước ta và "co ngu" không thể là "Cò ngủ", "có ngu", hoặc "Cố ngự", mà chính là "Cổ Ngư" Với địa danh "Cổ Ngư" vừa mang tính nhất quán về tính hệ thống của chữ Nho trong địa danh "Cổ" - xưa cũ, "Ngư" - cá. Chứ không như cái địa danh suy luận không có "cơ sở khoa học" là "cố ngự", nửa nôm, nửa Việt Nho - Thói quen gọi là từ Hán Việt - này. Vấn đề được đặt ra mà tôi muốn trình bày với bạn đọc là: tính nhất quán và tính hệ thống của tiếng Việt - ngôn ngữ cao cấp nhất trong lịch sử nhận thức được của văn minh nhân loại mà tôi xin tiếp tục trình bày dưới đây, để chứng tỏ rằng: Ngôn ngữ Việt trong đó bao hàm chữ Việt, không phải thích thì đổi loạn cào cào. Còn tiếp
    1 like
  4. Học giả phương Đông phản bác Thuyết Tiến hóa của Darwin Trong những năm đầu của thế kỷ 20, trong khi Thuyết Tiến hóa của Darwin được tin tưởng và ủng hộ bởi các nhà sinh học và những kẻ phân biệt chủng tộc ở Tây Phương, đã có một học giả Đông Phương mạnh mẽ phê phán Darwin. Theo học giả này, Darwin đã sai lầm khi coi đấu tranh sinh tồn như một định luật bắt buộc duy nhất của tiến hóa. Trong bài này tôi xin giới thiệu người đó là ai và luận cứ của ông như thế nào. Học giả đó là Lý Tôn Ngô, sinh năm 1879 ở Thành Đô, Trung Hoa, mất năm 1944 (5 năm trước khi CHND Trung Hoa ra đời). Quan điểm của Lý Tôn Ngô phê phán Thuyết Tiến hóa của Darwin được trình bầy trong cuốn Hậu Hắc Học của ông, xuất bản lần đầu tiên năm 1934, được bổ sung thêm trong những lần tái bản về sau, được dư luận đánh giá là một “kỳ thư”. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Trinh và Huy Sanh do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2000. Điều tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh ở đây là Lý Tôn Ngô đã đi trước các học giả Tây Phương trong việc phê phán Darwin – trong khi thiên hạ tôn sùng Darwin như thần thánh thì ông ung dung chỉ ra những sai lầm của Darwin rõ như ban ngày. Ông không sa vào học thuật chuyên sâu của sinh học, mà bằng con mắt tinh đời của một người trung thực, ông chỉ ra những lệch lạc của Darwin bằng những lý lẽ rất đơn giản mà bất cứ ai cũng hiểu. Tính cách độc lập tư duy của ông rất đáng để cho các nhà khoa học và giáo dục suy ngẫm. Tôi kính trọng ông bởi tính cách không xu thời – không để cho bất cứ ai dắt mũi mình trong việc nhận thức chân lý. Sau đây là những trích đoạn trong cuốn sách nói trên. Tôi có sửa chữa một hai từ ngữ cho dễ hiểu hơn, lược bỏ vài ba đoạn tôi cho là không cần thiết. Những chỗ tô đậm là do tôi. Xin trân trọng giới thiệu với độc giả: Lý Tôn Ngô phê phán Darwin Darwin nghiên cứu sinh vật học mấy chục năm, nghiên cứu hết con trùng, thảo mộc, chim muông, cầm thú, rút ra được mấy kết luận, giới khoa học coi đây là những phát kiến quý báu. Nhưng trong phòng thực nghiệm của Darwin có một động vật cao cấp không được nghiên cứu cho nên học thuyết của ông còn nhiều sơ hở. Động vật cao cấp đó là bản thân Darwin. Darwin bỏ qua xã hội loài người, sao không lấy Darwin làm tiêu bản để nghiên cứu bổ sung thêm. Do đó Tôn Ngô dùng những từ ngữ rất thú vị, thiết tưởng rằng Darwin sinh ra cho đến lúc ông ta già chết đi, sự phát triển tâm lý và hành vi ấy là lấy học thuyết Darwin chống lại Darwin, từ đó rút ra 5 điều kết luận trong xã hội loài người: 1/ Cùng một người, tri thức càng tiến bộ, tầm mắt nhìn càng xa, cạnh tranh càng ít. 2/ Cạnh tranh lấy sinh tồn làm giới hạn, quá giới hạn sẽ bị tổn hại. 3/ Cùng là người trong một nước, người đạo đức thấp kém đối với đồng loại càng gần càng cạnh tranh, người đạo đức cao thượng với đồng loại càng gần càng khiêm nhường. 4/ Con đường cạnh tranh có hai: “Một con đường dùng vũ lực ra bên ngoài tấn công người khác, một con đường dùng lực vào bên trong tìm ở sức mình. Người dùng lực ra bên ngoài xung đột với lực tuyến của người khác, lực của hai người không cân bằng thì một được một thua, hai lực bằng nhau thì cả hai cùng bại và đều bị thương tổn. Người dùng lực vào bên trong không xung đột với lực tuyến người khác, lực của ta và người cân bằng thì cùng bay bổng, ai dùng lực sâu hơn thì người đó chiếm ưu thế“. 5/ Làm việc gì cũng phải theo nguyên tắc người và ta cùng có lợi, cả hai không được thay thế nhau, thì lợi người mà không hại mình hoặc lợi mình mà không hại người. Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Trinh và Huy Sanh do NXB Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2000. Căn cứ vào 5 điều luật nói trên thì thấy cần sửa lại 8 chữ “cạnh tranh sinh tồn mạnh được yếu thua” của Darwin. Điều luật của Darwin rút ra từ xã hội cầm thú, nó mâu thuẫn với xã hội loài người, luật của Darwin nếu ứng dụng trong xã hội loài người, làm nền tảng tạo ra một thế giới loài người chém giết lẫn nhau, nên không thể không bác bỏ được. Darwin nói nhân loại tiến hóa là do cạnh tranh với nhau, nhưng quan sát từ nhiều mặt thì thấy nhân loại tiến hóa là do nhường nhau. Ví dụ: “Tôi đi đường đang chạy thật nhanh thì thấy phía trước có người đâm bổ tới, tôi phải né mình tránh ra mới không bỏ lỡ cuộc hành trình. Nếu theo cách nói của Darwin thấy ai đâm bổ tới, tôi phải quật ngã hắn nằm ra đất, đi đường phải đánh mở đường máu mà đi. Thử hỏi trên thế gian này có ai dùng cách đó để mà đi không? Nếu như muốn nói: “Thích nghi để tồn tại” thì phải hiểu lẽ nhường nhau mới thích nghi, mới tồn tại được“. Điều luật của Darwin rút ra từ xã hội cầm thú, nó mâu thuẫn với xã hội loài người, luật của Darwin nếu ứng dụng trong xã hội loài người, làm nền tảng tạo ra một thế giới loài người chém giết lẫn nhau, nên không thể không bác bỏ được. Cách nhìn của Darwin, trong giới sinh vật đầy rẫy hiện tượng tranh nhau, cách nhìn của tôi trong giới sinh vật đầy rẫy hiện tượng nhường nhau. Thử đi vào rừng mà xem, các cành cây đều nhường nhau, cành lá đều phát triển lên không trung, cành nọ chèn cành kia rất ít. Cây cỏ là vật vô tri còn biết nhường nhau thì thấy nhường nhau là bản tính của giới sinh vật, không nhường nhau thì không phát triển được. Các sinh vật khác cũng vậy, chim muông cũng hót với nhau, các thú vật quần tụ bên nhau, thời gian chung sống hòa bình nhiều hơn, thời gian cạnh tranh nhau ít hơn. Do đó có thể rút ra một điều: “Giới sinh vật nhường nhau là chuyện thường, tranh nhau là chuyện hiếm”. Darwin biến thường thành hiếm, có lẽ không đúng chăng? Cánh lá của cây, nếu như xung đột chống nhau, sẽ níu kéo nhau thành một khối, sẽ không phát triển được. Đại chiến ở Châu Âu là nhân loại níu kéo nhau thành một khối. Học thuyết Darwin nói hiện tượng này là tiến hóa, nghe ra khó thông. Cách nói của Darwin, ai mạnh thì kẻ đó tồn tại. Nhưng trên thực tế, có lúc kẻ mạnh bị tiêu diệt. Thời đại hồng hoang, hổ báo ở khắp nơi, sức chúng còn mạnh hơn người. Nếu loài người không chiến thắng chúng thì sao càng ngày chúng càng ít dần đi? Chiến tranh Châu Âu, sức đế chế Đức rất mạnh, muốn bá chủ thế giới, tại sao thất bại? Dân Quốc năm thứ nhất, thế lực Viên Thế Khải rất mạnh, có thể thống nhất Trung Quốc, tại sao thất bại? Cách nói của Darwin, ai mạnh thì kẻ đó tồn tại. Nhưng trên thực tế, có lúc kẻ mạnh bị tiêu diệt. Sự thực là như vậy, cho nên cần xét lại cách nói của Darwin. Ta đi sâu nghiên cứu thì biết, hổ báo bị tiêu diệt là vì nhân loại muốn đánh đuổi chúng. Đế chế Đức thất bại là vì thế giới muốn đánh chúng. Viên Thế Khải thất bại là do toàn Trung Quốc muốn đánh hắn. Tư tưởng giống nhau trở thành tuyến hợp lực ở hai hướng giống nhau. Hổ báo, đế chế Đức, Viên Thế Khải đều do hợp lực mà đánh bại được. Do đó có thể nói “Sinh tồn do hợp lực”. Biết hợp lực thì sinh tồn, chống lại hợp lực thì bị tiêu diệt. Quan sát như vậy thì thấy ai dùng quyền áp bức người khác, tự nhiên sẽ bị đào thải. Quan điểm sai lầm của Darwin có thể lấy một ví dụ khác đề nói rõ: “Nếu chúng ta nói với người nào đó, rằng sinh vật tiến hóa như chiều cao của thân người, ngày một lớn lên. Có người hỏi: Làm thế nào để lớn lên? Trả lời: Nếu nó không chết, nói sinh tồn sẽ lớn lên. Hỏi: Làm thế nào để sinh tồn? Trả lời: Phải ăn cơm mới sinh tồn. Hỏi: Làm thế nào để có cơm ăn? Chúng ta đứng bên chưa kịp trả lời, Darwin đứng bên đã trả lời: Anh thấy người khác có cơm phải cướp lấy mà ăn, có cơm ăn càng nhiều, thân thể càng mau lớn“. Cách trả lời của Darwin sai hoặc không sai? Chúng ta nghiên cứu thấy Darwin nói sinh vật tiến hóa không sai, nói tiến hóa nhờ sinh tồn không sai, nói sinh tồn nhờ thức ăn cũng không sai, chỉ câu cuối cùng nói muốn có thức ăn do cạnh tranh (cướp đoạt) là sai, sửa câu cuối cùng của ông ta là đúng vậy. Hỏi: sửa như thế nào? Rất thông thường: có cơm mọi người cùng ăn. Bình tâm mà nói: “Darwin một mực dạy người cạnh tranh nên bị thiên lệch, chúng ta một mực dạy người nhường nhau cũng bị thiên lệch? Ở đây phải đề ra một định lý: “Nhường người, nhường đến mức không tổn hại đến sinh tồn của ta thì thôi, cạnh tranh với người, cạnh tranh đến mức ta sinh tồn được thì thôi”… Darwin chỉ lấy cạnh tranh để tiến hóa làm nguyên nhân duy nhất nên bị lệch lạc vô cùng“. Tóm lại, Darwin phát minh sinh vật tiến hóa cũng như Newton phát minh ra “sức hút tâm quả đất” là công thần lớn của giới học thuật, nhưng điều ông nói “Muốn sinh tồn phải cạnh tranh mạnh được yếu thua” không khỏi lệch lạc, cần uốn nắn lại. Bình luận quan điểm của Lý Tôn Ngô 1/ Lý Tôn Ngô hoàn toàn trái ngược với Darwin trước hết ở cái nhìn nhân bản đối với thế giới. Nếu Thuyết Tiến hóa của Darwin nhìn sự “tiến hóa” hoàn toàn theo con mắt phi nhân bản – động lực của tiến hóa là tranh giành, kẻ mạnh là kẻ sống sót, kẻ mạnh là kẻ có quyền tồn tại – thì học giả họ Lý đưa ra quan điểm hoàn toàn đối lập: Điều luật của Darwin rút ra từ xã hội cầm thú, nó mâu thuẫn với xã hội loài người, luật của Darwin nếu ứng dụng trong xã hội loài người, làm nền tảng tạo ra một thế giới loài người chém giết lẫn nhau, nên không thể không bác bỏ được. 2/ Ý kiến của Tôn Ngô không những thể hiện tính nhân bản, mà còn chỉ rõ Darwin đã sai lầm như thế nào từ cách nhận thức. Ông chỉ ra một sự thật mà Darwin không thấy, đó là hành vi của con người. Nếu Darwin coi con người về bản chất cũng chỉ là một động vật, thì Tôn Ngô giảng cho Darwin thấy rằng con người có khả năng nhận thức về hành vi của mình, do đó có thể điều chỉnh hành vi đó để không ứng xử như con vật. Thật vậy, ông giảng cho Darwin hiểu điều mà Thuyết Tiến hóa không biết: Cùng một người, tri thức càng tiến bộ, tầm mắt nhìn càng xa, cạnh tranh càng ít. Có nghĩa là con người không nhất thiết phải tranh giành và tiêu diệt kẻ yếu hơn mình mới tồn tại được. Thiết tưởng một người có giáo dục bình thường cũng thấy điều này, vậy tại sao một nhà khoa học hàn lâm như Darwin không thấy? Có hai giả thiết: 1/ Bản chất Darwin mang trong mình một cái nhìn đen tối về con người, chỉ thấy cái ác trong con người mà không thấy cái thiện. Từ đó ông xây dựng một Thuyết Tiến hóa không có lương tri của con người tham dự vào. 2/ Darwin quá mơ mộng trên mây trên gió, quá say mê với việc nghiên cứu chim muông, sâu bọ, thú vật,… và chỉ nhìn thấy ở đó cơ chế vật chất thuần túy, quên mất chính bản thân mình cũng là một đối tượng phải nghiên cứu kỹ, như chính học giả Tôn Ngô đã nói, rằng phòng thí nghiệm của Darwin thiếu một tiêu bản là chính ông. Vì thiếu tiêu bản đó nên quan điểm của ông mới trở nên lệch lạc, nhất là khi áp dụng quy luật của thế giới động vật vào con người. 3/ Tôi không dám quả quyết giả thiết nào là đúng. Có thể giả thiết một đúng, hoặc hai đúng, hoặc cả hai. Nhưng điều tôi thấy đáng tiếc không phải là hình ảnh cá nhân Darwin, mà là tại sao sai lầm của Darwin rõ như thế, mà lại chiếm được lòng tin của rất rất nhiều người, trong đó có những học giả rất uyên bác. Bao giờ nhân loại sẽ tỉnh ra để loại bỏ Thuyết Tiến hóa ra khỏi khoa học và giáo dục? Thật đáng sợ khi một học thuyết sai lầm như thế mà lại được coi là một khoa học chính thống để truyền bá cho mọi thế hệ ở nhà trường. 4/ Hiện nay đã và đang dấy lên một làn sóng chống Darwin trên khắp thế giới. Chỉ những người bàng quan mới không biết điều này. Tôi sẽ tiếp tục công bố những sự thật đó, nhưng hôm nay tôi muốn nhấn mạnh rằng không cần đợi đến bây giờ Darwin mới bị phê phán, trong quá khứ đã có những học giả nhìn xa thấy rộng phê phán Darwin rồi. Có điều chúng ta chưa biết đó thôi. Nhưng muộn còn hơn không bao giờ. Tôi tin chắc làn sóng chống Darwin sẽ ngày càng mạnh, đơn giản vì Thuyết Tiến hóa của Darwin là sai lầm. 5/ Đọc Hậu Hắc Học, tôi giật mình khi thấy Lý Tôn Ngô như một nhà tiên tri khi ông dự báo tai họa do Thuyết Tiến hóa của Darwin sẽ mang lại cho loài người: “…luật của Darwin nếu ứng dụng trong xã hội loài người, làm nền tảng tạo ra một thế giới loài người chém giết lẫn nhau,…”. Đó là lời tổng kết cuộc Thế Chiến I và dự báo Thế Chiến II. 6/ Lý Tôn Ngô còn tỏ ra sắc sảo gấp bội so với Darwin khi ông chỉ ra rằng sinh giới không chỉ cạnh tranh, mà còn hợp tác chung sống hòa bình để tồn tại: Thử đi vào rừng mà xem, các cành cây đều nhường nhau, cành lá đều phát triển lên không trung, cành nọ chèn cành kia rất ít. Cây cỏ là vật vô tri còn biết nhường nhau thì thấy nhường nhau là bản tính của giới sinh vật, không nhường nhau thì không phát triển được. Các sinh vật khác cũng vậy, chim muông cũng hót với nhau, các thú vật quần tụ bên nhau, thời gian chung sống hòa bình nhiều hơn, thời gian cạnh tranh nhau ít hơn. Vậy không phải chỉ có loài người mới có sự chung sống hòa bình, mà ngay cả sinh vật nói chung cũng vậy. Thậm chí theo Lý Tôn Ngô, chung sống hòa bình nhiều hơn cạnh tranh. 7/ Với quan điểm của Lý Tôn Ngô, học thuyết của Darwin hoàn toàn phá sản! Bởi nền tảng của học thuyết này là chọn lọc tự nhiên và đấu tranh sinh tồn. Cả 2 khái niệm này đều sai. Lý Tôn Ngô đã chỉ ra sai lầm ở vế sau, tức là coi đấu tranh sinh tồn là động lục tất yếu duy nhất của tiến hóa. Tôi sẽ tiếp tục chỉ ra sai lầm ở vế thứ nhất, tức là coi chọn lọc tự nhiên là chìa khóa để tiến hóa. Nhưng xin dành việc thảo luận đó cho bài kỳ sau. http://phongthuyquan.com/diendan/index.php?PHPSESSID=sdo87ecb2hir5isp9kn2pp2qa0&topic=941.15
    1 like
  5. ĐẠO GIÁO VÀ VIỆT SỬ Nguồn Fb Thien Sư Lạc Việt Thưa tất cả các nhà nghiên cứu Kinh Dịch Việt Nam và trên thế giới thân mến. Thưa tất cả các bạn và anh chị em bạn bè của tôi trên Fb và các thành viên diễn đàn. Dưới đây là một linh phù trấn trạch trong Đạo Giáo của Đông phương . Các bạn sẽ thấy rõ đồ hình Bát quái trong hình chính là đồ hình Hậu Thiên bát quái Lạc Việt. Tất nhiên, linh phù này đã có từ rất lâu và lưu truyền trong dân gian và hoàn toàn độc lập với mọi tư duy của Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh khi chứng minh thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt với đồ hình nổi tiếng Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đây chính là một di sản còn lại trong Đạo Giáo - có nguồn gốc văn hiến Việt, chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương - chứng minh một cách sắc sảo Kinh Dịch chính thống thuộc về nền văn hiến Việt. So sánh với hình hậu thiên Lạc Việt theo luận điểm của Nguyễn Vũ Tuấn Anh (đổi chỗ Tốn - Khôn) Còn đây là một hình ảnh khác trong Đạo Giáo mô tả một vị đạo sĩ đang cầm sớ tấu trình lên cõi trên trong nghi thức của Đạo Giáo. Vị đạo sĩ trong hình mặc áo cài Vạt bên trái. Đây chính là y phục cổ xưa của Việt tộc mà tôi đã chứng minh. Điều này một lần nữa xác định luận điểm của tôi đã chứng minh rằng: Đạo Giáo chính là của Việt tộc với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và chính là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Và vị giáo chủ chính là Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong truyền thuyết về thời Hùng Vương. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. Nguồn Fb https://www.facebook...vn/?pnref=story
    1 like
  6. Thưa quý vị và anh chị em. Nếu không phải là tất cả thì hầu hết những ký tự của chữ Do Thái đều có trong Chữ Khoa Đẩu của Việt tộc, mà nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền tìm ra.
    1 like
  7. Nước Nga trong ván cờ ngạo mạn của TQ trên Biển Đông Cập nhật : 05:00 | 13/05/2016 Căng thẳng tại Biển Đông tiếp tục leo thang khi ngày càng có nhiều cường quốc tham gia. Đặc biệt, mới đây Nga công khai quan điểm đứng về phía Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại các bên khác trong tranh chấp tại khu vực nhạy cảm này. Trong một cuộc họp báo ngày 6/5 tại Bắc Kinh, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov và người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị nhất trí quan điểm chung là phản đối Mỹ trong một loạt vấn đề, trong đó có các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông. Ông Lavrov cho biết “quan điểm của Nga không thay đổi, đó là các vấn đề tại Biển Đông không nên được quốc tế hóa, các nước không có tranh chấp không nên can thiệp vào các nỗ lực giải quyết vấn đề của các bên tranh chấp”. Khi Nga, vốn không phải là một bên tranh chấp, lên tiếng đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của công luận. Không ít người phân tích rằng, các tuyên bố trên phù hợp với kế hoạch trò chơi của Bắc Kinh nhằm chia rẽ và xâm chiếm các nước láng giềng châu Á nhỏ hơn. Bởi Trung Quốc luôn ngạo ngược từ chối đàm phán với 10 quốc gia Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với tư cách một khối, họ muốn thương lượng với từng thành viên riêng rẽ. Nga không là một bên nào trong tranh chấp tại Biển Đông. Ảnh minh họa: Tân Hoa Xã Điều này có nghĩa là Bắc Kinh có thể bắt nạt từng nước nhỏ hơn bằng các biện pháp trả đũa kinh tế và trả thù nếu họ không ủng hộ Trung Quốc. Philippines đã phải trải qua bài học này năm 2012, sau khi Manila đối đầu với Trung Quốc, họ đã mất lãnh thổ. Mỹ và Nga không phải là các nước ngoài khu vực duy nhất cho rằng họ có các lợi ích tại vùng biển tấp nập ở Đông Nam Á này. Ấn Độ, và mới đây nhất là Nhật Bản cũng đã thể hiện sự hiện diện của mình bằng việc cử các tàu đi qua vùng biển mà họ coi là một phần của tài sản chung toàn cầu. Tàu thuyền New Delhi đã nhiều năm nay thường xuyên qua lại các cảng biển của Việt Nam, một quốc gia bạn hữu. Tháng 7/2011, một giọng nói qua loa phóng thanh tự xưng là “Hải quân Trung Quốc” định chặn tàu đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ khi tàu này đi qua hòa bình tại vùng biển quốc tế để tới cảng Hải Phòng. Về phần mình, Nhật Bản hồi tháng trước đã cử tàu chiến tới vịnh Subic ở Philippines. Có thể thấy một bức tranh toàn cảnh về sự đối đầu giữa các nước lớn. Một bên, Trung Quốc với sự ủng hộ ngầm của nước Nga, trong khi ở bên kia, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước khác muốn duy trì vùng biển này mở đối với mọi quốc gia. Đây là một cuộc đối đầu “được ăn cả ngã về không”. Cả hai bên đều đánh cược cho một vấn đề quan trọng và không thể thương lượng. Nhưng điều khiến Biển Đông thậm chí còn nguy hiểm hơn, đó là hiện các bên đều tỏ ra mập mờ. Giống như thời điểm trước khi nổ ra Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình rất khó để các bên can thiệp vì không rõ các nước khác sẽ làm gì nếu sự thù địch xảy ra. Ví dụ Mỹ hiện có nguy cơ không chỉ đối đầu với Bắc Kinh mà cả với Moscow về bãi cạn Scarborough và nhiều thực thể khác. Trung Quốc chiếm bãi cạn này của Philippines từ đầu năm 2012, và dường như Trung Quốc có ý định biến đây thành một pháo đài quân sự. Mặt khác Trung Quốc có thể phải chứng kiến Nhật Bản và Mỹ bảo vệ Philippines. Sự phối hợp của các liên minh sẽ là không có hồi kết, nhưng sự không chắc chắn sẽ khiến các nhà hoạch định chính sách phải nản chí. Câu hỏi đặt ra là liệu sự mập mờ của Bắc Kinh có mang tính tạm thời hay không? Mối nguy hiện nay là biện pháp răn đe có thể thất bại trong bối cảnh phức tạp này. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nên rút ra bài học đã xảy ra trên bán đảo Triều Tiên hồi tháng 6/1950. Ông Kim Nhật Thành hồi đó đã tính toán rằng, ngay sau khi Ngoại trưởng Dean Acheson rút Hàn Quốc khỏi “chiếc ô phòng thủ” của Mỹ tại châu Á, sẽ không có nước nào bảo vệ Seoul nữa. Nhưng ông ấy đã không ngờ rằng, Mỹ đã bất ngờ quay lại đến cứu Seoul. Ai cũng biết là sẽ không nước nào hưởng ứng lời ông Lavrov và ông Vương khi hai ông nói rằng các nước khác nên để Trung Quốc một mình, nhất là khi Bắc Kinh dùng các chiến thuật quân sự và ngoại giao hiếu chiến chống lại các nước có tranh chấp khác. Điều này có nghĩa là bất cứ sự cố nào, dù nhỏ hay chỉ là tai nạn, cũng đều có thể bùng phát thành một cuộc đối đầu lớn. Thảo Linh ======================== Tôi xin nói thẳng với ngài Putin rằng: Từ khi liên bang Xô Viết sụp đổ, biển Đông không còn là vị trí chiến lược để nước Nga thực hiện tham vọng của mình. Ngày nay, nước Nga gần như không liên quan gì đền biển Đông, ngoài việc có tàu thuyền buôn bán qua lại nơi đây. Về mặt thực tế, đang nhẽ nước Nga phải ủng hộ các nước ASEAN và Hoa Kỳ bảo đảm tự do thương mại ở biển Đông mới phải. Đằng này ngài Putin và chính phủ của ngài lại có những phát biểu có lợi cho Bắc Kinh trong việc độc chiếm biển Đông. Trong khi đó, rõ ràng nước Nga ko có một quyền lợi nào đáng kể ở đây. Vậy thì việc chính phủ của ngài Putin lên tiếng có lợi cho Bắc Kinh, thực chất nhằm mục đích gì? Thưa ngài Putin. Tôi có thể xác định ngay là các ngài muốn làm giá trong các cuộc thương lượng với Hoa Kỳ ở Trung Đông, nhiều hơn là một sách lược quốc gia phải có ở vùng biển này. Nếu suy nghĩ của tôi là đúng thì tôi thành thật khuyên ngài Putin hãy từ bỏ ngay những phát ngôn bất lợi cho cả khối ASEAN và Việt Nam nói riêng. Bởi vì, nó sẽ không gây được cảm tình của khối ASEAN với nước Nga và sẽ là điều bất lợi của nước Nga trong mối quan hệ với các nước ASEAN trong tương lai gần ở đây. Hơn nữa, phát ngôn của chính phủ Nga không có trọng lượng trên thực tế, mà chỉ làm mất lòng các nước trong khối ASEAN. Tôi nghĩ đây là điều không nên làm của ngài Putin.
    1 like
  8. Mỹ “ra tay không thương tiếc” nếu Trung Quốc khai chiến Biển Đông Lê Việt Dũng Thứ Năm, ngày 12/5/2016 - 11:55 VietTimes -- Theo trang tin tiếng Trung Worldjournal ngày 11/5, Đô đốc Harry Harris trả lời phỏng vấn tờ Thời báo New York cho hay, lực lượng dưới quyền ông đã làm tốt chuẩn bị để có thể sẵn sàng “ngày đêm khai chiến”. Hải quân Mỹ và Nhật Bản tập trận trên biển gần Philippines. Theo Worldjournal, phát biểu này của Đô đốc Harry Harris được chuyên gia cho là đã tiết lộ kế hoạch sử dụng vũ lực tiềm tàng của Quân đội Mỹ tại khu vực Biển Đông. Vào tháng trước, Trung tâm nghiên cứu Toàn cầu hóa Canada công bố một báo cáo cho rằng, hiện nay, Mỹ triển khai hành động tự do đi lại thực chất là để bảo đảm cho các tàu chiến Mỹ có thể tự do ra vào Biển Đông. Đây là một phần trong kế hoạch sẵn sàng chiến đấu với Trung Quốc của Lầu Năm Góc. Chiến lược tác chiến hợp nhất không-hải quân của Mỹ cho thấy, nếu xảy ra một cuộc chiến tranh với Trung Quốc, một là Mỹ sẽ tiến hành ném bom quy mô lớn đối với Trung Quốc, hai là Mỹ sẽ ngăn chặn tàu thuyền Trung Quốc vận chuyển năng lượng và nguyên vật liệu trên Biển Đông. Dự kiến, Toà trọng tài thường trực Liên hợp quốc sẽ nhanh chóng đưa ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông của Philippines. Dư luận quốc tế phổ biến cho rằng, tòa sẽ đưa ra phán quyết bất lợi cho Bắc Kinh, điều này sẽ làm cho quan hệ Trung-Mỹ đang ngày càng yếu ớt có sự thay đổi đột ngột. Đô đốc Harry Harris, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương. Theo trang thông tin tiếng Trung Quốc này, tổng chỉ huy của Quân đội Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Đô đốc Harry Harris sẽ "ra tay không thương tiếc" đối với Trung Quốc. Các phát biểu cứng rắn của ông không chỉ đã chọc giận Bắc Kinh, mà còn khiến cho Washington khó xử. Khi được hỏi về khả năng khai chiến vì bãi cạn Scarborough, Đô đốc Harry Harris cho hay, để bảo vệ lợi ích của Mỹ, "tôi không thể không sử dụng công cụ mà mình có, đó là công cụ quân sự, là công cụ rất tuyệt vời". Tướng Harry Harris cho rằng, ông hoàn toàn không lo ngại giữa Quân đội Trung Quốc và quân đội các nước khác ở Biển Đông sẽ xảy ra hiểu lầm. "Tôi cho rằng, họ là quân đội chuyên nghiệp". Rủi ro lớn hơn ở chỗ, các cuộc xung đột do tàu bán quân sự của Trung Quốc gây ra có thể sẽ buộc lực lượng Mỹ phải triển khai công tác phòng thủ của đồng minh Mỹ. Hiện nay, Tòa trọng tài thường trực Liên hợp quốc sắp đưa ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông của Philippines. Việc Trung Quốc một mực từ chối tham gia, chấp nhận vụ kiện này được nhiều học giả dự báo là, 99% Trung Quốc sẽ thua kiện Philippines. Các học giả cho rằng, một khi Trung Quốc thua kiện, các nước xung quanh Biển Đông như Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia sẽ đi theo Philippines, khởi kiện Trung Quốc ra tòa, khiến cho Trung Quốc phải mệt mỏi ứng phó. Đồng thời, các nước như Mỹ, Nhật Bản đã sẵn sàng cho một cuộc bao vây toàn diện đối với Trung Quốc, ngoại giao Trung Quốc sẽ rơi vào cục diện bất lợi. Tàu khu trục USS William P. Lawrence Hải quân Mỹ. Nguồn ảnh: Rappler.com. Vấn đề chủ yếu mà Đô đốc Harry Harris quan tâm là, Trung quốc sẽ đưa ra phản ứng cứng rắn thế nào đối với phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế. Nếu Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy hoạt động kiểm soát tuyến đường hàng hải Biển Đông, bất kể là ngắn hạn hay dài hạn, Mỹ đều phải áp dụng đáp trả quân sự nhất định. Gần đây, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cũng cảnh báo, nếu bất cứ bên nào liên quan đến vụ kiện Biển Đông không tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài sẽ tạo ra tiền lệ nguy hiểm cho trật tự quốc tế và biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi. Bốn năm trước, Trung Quốc cướp đi bãi cạn Scarborough từ tay Philippines. Một quan chức Mỹ cho rằng, sự lợi hại có liên quan là cực kỳ lớn. Bởi vì, khi gặp gỡ nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình ở Washington gần đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama từng cảnh báo, Trung Quốc không được có hành động ở bãi cạn Scarborough hoặc lập ra cái gọi là "vùng nhận dạng phòng không" (ADIZ). Bất kỳ bên nào đều không hy vọng để xảy ra xung đột vì những đảo đá bé nhỏ trên Biển Đông. Nhưng, khả năng này cần phải cân nhắc. Quan chức Lầu Năm Góc cho rằng, Mỹ có thể sẽ làm rõ lập trường đối với bãi cạn Scarborough. Điều cần lưu ý là, hiện nay, Mỹ đã tăng cường hiện diện quân sự ở Philippines. Philippines đã mở cửa 5 căn cứ quân sự cho Quân đội Mỹ triển khai luân phiên, tạo khả năng cho Mỹ triển khai các hành động phản ứng nhanh khi Biển Đông xảy ra xung đột. Trong các cuộc tập trận thường niên giữa Mỹ-Philippines như Balikatan, hai nước đã tổ chức diễn tập nhiều khoa mục, trong đó có tập đổ bộ đánh chiếm đảo. Ngoài ra, vào tháng 4 vừa qua, Mỹ đã phô trương sức mạnh quân sự răn đe Trung Quốc bằng cách điều 6 máy bay tấn công A-10C và 2 máy bay trực thăng Pave Hawk bay trên bầu trời bãi cạn Scarborough, khu vực Trung Quốc cưỡng đoạt của Philippines từ năm 2012. Lê Việt Dũng ========================== Cái này lão Gàn cũng phán từ lâu rùi. Và nhắc đi nhắc lại trong topic này là: "Nếu chiến tranh xảy ra thì sẽ rất thảm khốc". Vì đây là "canh bạc cuối cùng"". Bắc Kinh đừng có lãng mạn và giàu trí tưởng tượng khi cho rằng sẽ chiến thắng với Hoa Kỳ. Cho dù có tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Lão cũng cần nhắc lại rằng: Biển Đông chỉ là cái cớ để xẩy ra xung đột trên quy mô lớn.
    1 like
  9. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI Trong buổi giới thiệu Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài tại hội trường Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam, tôi đã phát biểu: "Công trình nghiên cứu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền, là nét vẽ cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh mô tả Việt sử 5000 năm văn hiến". Bởi vì một nền văn minh được thừa nhận thì phải có chữ Viết để duy trì và phát triển nên văn minh đó. Đây là một điều kiện hiển nhiên để minh chứng rõ hơn khi xác định một nền văn minh đã tồn tại. Nhưng điều kiện này không phải là một tiêu chí bắt buộc. Bởi vì khi một nền văn minh được xác định thì tất yếu nó phải có chữ viết. Vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào mà thôi. Đó là nội dung của lời phát biểu của tôi trong hội thảo. Bởi vậy, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn của nền văn minh Đông phương, khi đã hoàn chỉnh về mọi phương diện thì tất yếu nền văn minh này phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Tất nhiên, nó không phải là hệ thống 30. 000 từ gọi là Hán Việt - thực chất là Việt Nho - đó. Quí vị lớn tuổi chắc cũng biết là trước đây, người ta đã cố gắng chuẩn hỏa một dạng ngôn ngữ gọi là "quốc tế ngữ". Tất nhiên nếu thành công thì những ngôn ngữ phổ biến hiện nay là Anh , Pháp, hoặc Hin đu, Trung Hoa..., đều không cần dùng đến trong giao dịch quốc tế. Ở Việt Nam, lúc tôi còn là một gã thanh niên mới lớn, đã gặp không ít kẻ mặt vênh lên khi khoe khoang là đi học cái gọi là "quốc tế ngữ", khiến tôi phải ngậm ngùi vì sự dốt nát của mình. Nhưng đến nay, cái gọi là "quốc tế ngữ" đó, không phổ biến bằng tiếng Ai Cập cổ đại. Chưa hết, chính người Trung Hoa, bằng mọi cố gắng vẫn không thể nào chuẩn hóa được ký tự chữ Hán ra chữ Latin. Qua đó, với hệ thống 30. 000 từ tiếng Việt Nho ấy, không thể từ trên trời rơi xuống, ưu ái cho những học giả "mũ cao áo dài", học vị lủng xủng, lẻng xẻng căn cứ vào đấy để rung đùi phát biểu rằng: Ngôn ngữ Việt - là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Ngay cả Hoa Kỳ siêu cường số một thế giới, qua hơn 200 năm lập quốc, cũng chưa có ngôn ngữ và tiếng nói riêng của mình. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng: Trừ những kẻ cố tình phủ nhận những gía trị văn hóa truyền thống Việt sử vì một mục đích nào đó - Còn nhưng ai có chút tỉnh táo của tư duy khoa học, cần suy ngẫm cho kỹ khi cho rằng: ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và lệ thuộc văn hóa Hán với những từ gọi là Hán Việt trong ngôn ngữ Việt. Với hệ thống 30. 000 từ Việt Nho, quen gọi là Hán Việt ấy, phải là sản phẩm của văn minh Việt tộc từ trước thời Bắc thuộc. Chỉ có quốc gia Văn Lang - một thể chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại (2622 năm) và những bậc trí giả thực sự của nền văn hiến Việt mới có thể hệ thống hóa và Việt hóa, từ một ngôn ngữ cao cấp vượt trội, mới hệ thống hóa được 30. 000 từ và ký tự Hán ra tiếng Việt. Tất nhiên, một nền văn minh sở hữu một ngôn ngữ cao cấp thì phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Đó là điều hiển nhiên và không cấn phải chứng minh. Nhưng nếu xác định được một hệ thống chữ viết của nền văn minh đó thì sẽ làm sinh đông thêm những chứng lý cho sự tồn tại hoàn hảo trực quan cho nền văn minh đó. Do đó, vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào? Chữ Khoa đẩu trên trống đồng Lũng Cú - đặt tại bảo tàng Pháp tại Paris. Có thể nói rằng: nếu xét về mặt tổng quát thì có thể xác định rằng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ Việt cổ là chữ Khoa đẩu. Điều này rõ ràng. Dấu ấn của chữ Khoa Đẩu rải rác khắp nơi từ Đài Loan (Có vĩ tuyến ngang với sông Dương Tử, ngay cả chữ Nhật Bản vẫn còn lưu lại dấu ấn của chữ Khoa Đẩu, Đồng bào Tày Thái cũng sử dụng chữ Khoa Đẩu (có một bức ảnh dạy học Bình dân học vụ vào năm 1945, 46 mô tả một giáo viện dạy học đồng bào Tày Thái bằng chữ khoa đẩu. Đã đưa lên diễn đàn). Quí vị quan tâm chỉ cần lên Goolge gõ chữ "Khoa đẩu " là có hàng tá tư liệu về vấn đề này. Dạy chữ Việt cổ trên vùng cao Cho đến thế kỷ XVII, Nguyễn Hữu Chỉnh trong cuộc họp nội các, cũng đã bàn đến việc sử dụng chữ Khoa Đẩu cho dân tộc Việt để chứng tỏ tính độc lập với văn hóa Hán. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh đã bác bỏ đề xuất này (Tư liệu của tôi đã đưa lên diễn đàn, khi tìm được tôi sẽ bổ sung sau). Di sản hệ thống chữ Khoa đẩu tìm thấy ở Lào Cai. Tôi nghĩ rằng chỉ cần như vậy cũng quá đủ để xác định nền văn minh Việt đã có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh. Vấn đề cụ thế hệ thống chữ viết đó như thế nào . Cụ Khánh Hoài đã trình bày một cách rất cụ thể và chi tiết hệ thống ngôn ngữ Việt, trên cơ sở sưu tầm và tổng hợp những di sản còn lại của hệ thống chữ Khoa đẩu của Việt tộc. Cụ Khánh Hoài đã căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc để chứng minh cho hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình bày. Cụ đã chứng minh rằng: Toàn bộ hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ trình bày, hoàn toàn phủ hợp với những tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc. Phương pháp chứng minh của cụ hoàn toàn tương tự như phương pháp chứng minh của tôi, khi tôi phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Sự trùng hợp giữa hai phương pháp chứng minh này, bởi vì cả hai đều chứng minh cho những hệ thống thuộc di sản văn hóa phi vật thể. Đó là một hệ thống lý thuyết cổ xưa và một hệ thống chữ viết đã thất truyền. Như phần trên tôi đã trình bày: Tôi đã theo cụ Khánh Hoài nhiều năm và tìm hiểu, so sánh đối chiếu rất kỹ những chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc với hệ thống chữ Viết mà cụ Khánh Hoài công bố, tôi mới nhiệt tình ủng hộ cụ với tư cách ủng hộ một chân lý đã được làm sáng tỏ. Tôi cần phải xác định lại một lần nữa rằng: Không phải dễ dàng tạo dựng cả một hệ thống chữ viết hoàn toàn phù hợp với ngôn ngữ của cả một dân tộc và những tiêu chí là chuẩn mực cho hệ thống chữ viết của dân tộc đó. Đây là điều mà tôi đã chứng minh ở trên. Sự thất bại của hệ thống Quốc tế ngữ, của những cố gắng Latin hóa ngôn ngữ Hán....ở cấp quốc gia và quốc tế, đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, cụ Khánh Hoài với tư cách là một cá nhân không thể tự mình tạo ra một hệ thống chữ viết cho cả một dân tộc - nếu như nó không phải là một thực tế đã tồn tại một cách khách quan trong quá khứ và chỉ để lại những di sản mờ nhạt. Cụ Khánh Hoài đã chứng minh: 1/ Hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình hoàn toàn phủ hợp với những ký tự cổ được xác định là của Việt tộc tồn tại rải rác trong những bản văn còn sót lại, như: Thanh Hóa Quan phong, Tự điển Việt Bồ La... Đây là những di sản tồn tại khách quan. Do đó, sự phù hợp của hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dung chứa những ký tự trong những di sản còn lại, tồn tại một cách hợp lý trong hệ thống đó, hoàn toàn không thể là sự áp đặt chủ quan. 2/ Những tiêu chí cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc hoàn toàn phủ hợp với hệ thống chữ Việt cổ mà cụ đã trình bày. Như vậy, những chứng lý khách quan và khoa học đã được thực hiện đầy đủ và là một công trình nghiên cứu thực sự của một trí tuệ thông minh. Bởi vậy, những ý kiến phản biện - nếu có - phải chỉ ra: 1/ Mâu thuẫn giữa hệ thống chữ Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày với chính những tiêu chí khoa học mà cụ đã nêu. 2/ Phải chỉ ra và những ký tự trong các bản văn cổ - là những di sản tồn tại khách quan - mà cụ trình bày trong hệ thống chữ Việt cổ của cụ là ...không có thật. Chẳng một nhà gọi là "khoa học" mũ cáo áo rộng, bằng cấp lùng bùng nào ở Việt Nam thực hiện được điều này. Nhưng họ vẫn nhao nhao phản đối, mà đáng nhẽ ra họ là người có trách nhiệm phục hồi và chứng minh điều đó, chứ không phải cụ Khánh Hoài với động cơ mà họ gán cho là "Tinh thần yêu nước" trong công trình nghiên cứu của cụ. Duy nhất có giáo sư Lê Trọng Khánh đặt vấn đề hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Thái. Thực chất đây không phải yếu tố phản biện, mà chỉ là đặt vấn đề đối chiếu. Tôi vốn không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng tôi có thể xác định ngay rằng: Giả thiết hệ thống ký tự của đồng bào Tày Thái trùng khớp gần như hoàn toàn với những ký tự trong hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày - tức là giả thuyết thuận lợi tối ưu cho cách đặt vấn đề này - thì điều đó không có nghĩa phủ nhận hệ thống của cụ Khánh Hoài không phải của người Việt cổ. Bởi những yếu tố sau đây: 1/ Dân tộc Tày Thái đã có chữ viết thì tất yếu dân tộc Kinh phải có chữ viết. 2/ Dân tộc Tày Thái là một bộ phận của nhà nước Văn Lang xưa ở Nam Dương tử, cho nên phải có mối liên hệ văn hóa và khả năng họ dùng chung một hệ thống ký tự với Việt tộc hoàn toàn không có gì là lạ. Nhưng chắc chắn với những ngôn ngữ khác nhau giữa Việt tộc và dân tộc Tày Thái thì cấu trúc mô tả ngôn ngữ của những ký tự chữ viết thể hiện ngôn ngữ khác nhau, không thể giống nhau. Một minh chứng cho vấn đề này chính là rất nhiều quốc gia sử dụng hệ thống chữ Latin. Nhưng rõ ràng chữ Quốc Ngữ của người Việt hiện nay thì không phải cấu trúc mô tả tiếng Anh của hệ thống chữ Latin này. Tất nhiên, chẳng ai bảo hệ thống chữ Quốc Ngữ hiện nay không phải hệ thống chữ Việt vì nó giống chữ Latin của các dân tộc khác trên thế giới. Bởi vậy, cá nhân tôi - nhân danh cá nhân - tôi xác định rằng: Hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dày công tìm tòi, hoàn toàn đầy đủ yếu tố khách quan của một công trình nghiên cứu khoa học đúng nghĩa. Còn số đông không thừa nhận, đấy là chuyện của họ. Số đông không quyết định tính chân lý. Mà nó chỉ quyết định sự phố biến của một trí thức nền tảng trong xã hội. Có một nhà khoa học đã hỏi tôi: "Ý kiến của anh về hệ thống chữ Việt cổ của ông Khánh Hoài như thế nào?". Tôi trả lời: "Hoàn toàn là một công trình khoa học thực sự!". Hôm nay tôi trình bày sự biện minh của cá nhân tôi ở đây về tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền. Tôi có niềm tin chắc chắn rằng: Không ai có thể phản biện được những luận cứ của cụ Khánh Hoài. Điều này cũng giống như tôi thách tất cả "cộng đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" có quan điểm phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống Việt, chứng minh được rằng: "Thành Cổ Loa chính là Loa thành của An Dương Vương Thục Phán". Còn tiếp ====================== VÀI TƯ LIỆU LIÊN QUAN NHỮNG DẤU ẤN CỦA CHỮ KHOA ĐẨU. Trong một lần đi mua xôi sáng từ "thời xa vắng", Thiên Sứ tôi thấy bà bán xôi có một xấp giấy in roneo dùng để gói xôi. Thoáng nhìn thấy mấy chữ "Thời Hồng Bàng" và chữ "Khoa Đẩu", tôi vội đề nghị đổi ngay một tập vở giấy trắng mới tinh, vừa mới mua dùng để viết giải Tử Vi cho khách hàng kiếm tiền lay lứt qua ngày. Và quả là những tư liệu quý với tôi liên quan đến chữ Khoa Đẩu. Tất nhiên, thứ "tư liêu tham khảo" nhặt được từ con mẹ bán xôi dạo, chẳng bao giờ là "cơ sở khoa học" để được "khoa học công nhận" cả. Nhưng cái vấn đề chính là ở chỗ nó cho tôi và chúng ta biết người ta đã nói gì về thời Hùng Vương và chữ Khoa Đẩu. Tôi cứ tưởng đã mất tư liệu này sau ngót cả chục lần dọn nhà. Nhưng may quá, nhân một yêu cầu của nhóm cải cách tôi đi tìm lại một bộ hồ sơ thì thấy được tài liệu này. Tôi xin chụp ảnh vài đoạn và đưa lên để anh chị em và quí vị quan tâm tham khảo. Phần này của tài liệu xác định sách Kim Cổ kỳ quan đã nói đến "chữ khoa đẩu" của man sứ khiến vua Đường Minh Hoàng không đọc được. Sự tích Lý Bạch không đọc được quốc thứ từ man sứ là một sự tích nổi tiếng. Trong đó quan Trung Thư phải cởi giầy, quan Thái Úy phải mài mực. Sự tưởng thưởng của vị vua đào hoa nhất đời Đường này với Lý Bạch là cho phép ông được uống rượu thả giàn trên khắp đế chế nhà Đường và ngân khố của huyện phải trả cho ông ta. Tài năng của Lý Bạch đã giúp cho đế chế đời Đường giữ thể diện của nhà cầm quyền trước sứ giả lân bang, chỉ vì ông đọc được loại chữ này. Phần này của tài liệu cũng xác định các dòng chúa Trịng đã dùng chữ Khoa Đẩu làm chữ riêng- lúc ấy không còn phổ biến như một loại chữ chính thống - nhưng vẫn có người dùng và đọc được, để ghi gia phả cho dòng dõi nhà Trịnh. Đây là tư liệu đáng chú ý. Nó xác thực cho việc chữ khoa đẩu vẫn còn có người dùng đến thế kỷ XVIII và là cơ sở để các giáo sĩ Tây phương vốn thâm nhập để giảng đạo cho tầng lớp bình dân và đã thu lượm được loại chữ này làm tiền đề cho loại chữ Latin dùng cho người Việt sau này. Đây chính là một trong những luận cứ quan trọng của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền. Tôi sẽ giới thiệu với quý vị quan tâm và anh chị em toàn bộ tư liệu này vào buổi sáng. =========================== Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. Mục Đồng THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.
    1 like