-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 09/05/2016 in all areas
-
VÌ SAO LẠI PHÂN LOẠI ĐÔNG – TÂY TRẠCH TRONG PHONG THỦY ĐỊA LÝ - BÁT TRẠCH? Hoàng Triều Hải. Bản quyền thuộc về TTNC Lý học Đông phương và tác giả Phong thủy địa lý (PTĐL) được ứng dụng rộng rãi trong kiến trúc xây dựng và nếu ai quan tâm tới PTĐL đều biết cách tính hướng hung -cát của các hướng đối với chủ nhà, sẽ có 4 hướng tốt và 4 hướng xấu đối với trạch Chủ. Cung mạng trạch chính là cung bản mạng của chủ nhà và trong môn Bát Trạch sẽ chia mạng trạch làm hai nhóm: Đông tứ trạch (hay còn gọi là Đông trù) và Tây tứ trạch (hay còn gọi là Tây trù). Tuy nhiên, ít ai đặt câu hỏi vì sao lại chỉ có hai nhóm mà không phải là 4 nhóm ? Hoặc sao không phải là Bắc tứ trạch hay Nam tứ trạch ? Có thể nói rằng: việc ứng dụng Phong thuỷ trong cổ thư chữ Hán, coi như là một tiên đề miễn bàn cãi. Đó chính là nguyên nhân để bộ môn Phong thuỷ vốn dĩ là khoa học, trở thành mê tín dị đoan. Từ cái trên nền tảng kiến thức của Phong thuỷ Địa lý Lạc Việt, nhằm khẳng định tính khoa học trong bộ môn Phong thuỷ và thêm các yếu tố để chứng minh sự chính xác trong việc đổi chỗ Tốn-Khôn - Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt của PTĐL Lạc Việt, kết hợp với những tri thức khoa học hiện đại, tôi cố gắng trình bày cái hiểu của tôi cho vấn nạn này. Rất mong được mọi người đóng góp ý kiến cho vấn đề thêm hoàn thiện. I. NHÓM ĐÔNG TÂY TRẠCH: Trước hết, hãy xét tới cách chia nhóm, vì sao lại chia nhóm : Đông –Tây chứ không phải là Nam-Bắc? Trước hết, chúng ta xét đến quĩ đạo của trái đất quay quanh mặt trời sẽ tạo ra Ngày & Đêm, Sáng-Tối. Và theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành (ÂDNH) tương ứng sẽ là cặp phạm trù Dương và Âm. Nửa phía Tây của trái đất là ban ngày thì nửa phía Đông của trái đất sẽ là ban đêm. Ngược lại, khi nửa trái đất đón ánh sáng mặt trời thì cả hai nửa bán cầu trên (Bắc bán Cầu) và dưới (Nam bán Cầu) đều là Ngày hoặc đều là Đêm. Do vậy Đông – Tây mang tính qui luật Âm Dương: Âm trưởng Dương tiêu, Dương trưởng Âm tiêu mô tả sự vận động của tự nhiên nên tính qui luật đó được phân chia thành nhóm chịu tác động của qui luật tự nhiên đó. Trong sự vận động của trái Đất, ngày và đêm - tức Đông Tây - chính là chịu sự tương tác trực tiếp của vũ trụ. Do đó, cổ nhân đã phân định Đông & Tây trạch. Xin được lưu ý rằng, qui luật này là mô tả sự vận động Âm-Dương và không có nghĩa là Đông và Tây sẽ áp dụng cho người sinh vào buổi sáng hay buổi tối. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, trục từ trường trái đất được tính theo cực Bắc và cực Nam của trái đất, nhưng nếu xét theo phương thẳng đứng thì chúng ta nhận thấy trục trái đất theo phương thẳng đứng lại là trục Tây Bắc-Đông Nam tức là trục Càn-Khôn (336,5 độ trên la kinh là sơn Hợi thuộc quẻ Càn-hướng Tây bắc) do trục biểu kiến theo cực Bắc-Nam của trái đất nghiêng 23,5 -24,5 độ so với trục đứng. Như vậy Hậu thiên Lạc Việt Bát quái đồ mô tả trục Càn-Khôn chính là trục thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của trái Đất. Tức đường Bạch Đạo. Trong phong thủy Bát trạch thì Bắc-Nam được coi là trục Phúc Đức (Diên Niên) của người Đông tứ trạch và theo Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Viêt, chúng ta lại thấy được sự mô tả trục biểu kiến của sự vận động trái đất bằng trục Càn-Khôn <tức là Cha-Mẹ (hướng Tây Bắc-Đông Nam) và theo Phong thủy địa lý Lạc Việt thì Càn-Khôn chính là trục Phúc Đức (Diên Niên) của người Tây tứ trạch , và trục Tây Nam (tốn)- Đông Bắc (cấn) là trục Sinh-Tử. Những người thuộc Đông tứ trạch hay Tây tứ trạch lại tiếp tục được phân chia thuộc nhóm nào dựa trên cơ sở Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt (theo các phương pháp truyền thống là Lạc Thư phối Hâu Thiên Văn Vương ) là nhóm gồm các quẻ tương ứng với hướng trên Hà Đồ , sẽ là hướng hợp với chủ nhà có mạng trạch được tính theo năm sinh của chủ nhà theo bảng tính Bát Trạch tam nguyên. Dựa trên Hà Đồ mà năm sinh được quy thành Quẻ tương ứng với Cung mệnh của chủ nhà. Đông tứ trạch gồm: quẻ Khảm-Ly-Chấn-Tốn tương ứng với các hướng là : Bắc-Nam-Đông-Tây Nam theo PT ĐL Lạc Việt trên cơ sở Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt .Còn theo cổ thư thì các hướng Bắc-Nam-Đông-Đông Nam trên cơ sở Lạc Thư phối Hâu Thiên Văn Vương. Tây tứ trạch gồm: quẻ Càn-Khôn-Cấn-Chấn tương ứng với các hướng là : Tây Bắc-Đông Nam –Tây- Đông Bắc theo PT ĐL Lạc Việt trên cơ sở Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt . Còn theo cổ thư thì các hướng Tây Bắc- Tây Nam –Tây- Đông Bắc trên cơ sở Lạc thư phối Hâu Thiên Văn Vương. Hà Đồ được sắp xếp theo chiều tương sinh ngũ hành của các quẻ mà ý nghĩa của số quẻ cũng như ngũ hành theo số của Lạc Thư được sắp xếp theo chiều ngũ hành tương Khắc của chữ Vạn) : 1-6 thuộc hành Thủy, 3-8 thuộc hành Mộc, 2-7 thuộc hành Hỏa và 4-9 thuộc Hành Kim. Ở đây đã có sự gượng ép khi đưa 4-9 vào hành Hỏa và 2-7 vào hành Kim khi mà Hà Đồ sắp xếp theo chiều ngũ hành tương Sinh. Rất nhiều cuốn sách và tác giả đã đề cập tới ý nghĩa và ngũ hành Hà Đồ và Lạc Thư, nhưng khi sắp xếp trên Bát quái cửu cung thì hoàn toàn không đề cập tới Hà Đồ. Vấn đề ở chỗ, có sự gượng ép từ ý nghĩa của các con số trên Ma Phương 3x3. tuy có sự trùng hợp, nhưng ý nghĩa giữa Bát quái đồ và Ma Phương 3x3 lai khác nhau. Nếu sắp xếp các con số theo Hà Đồ và Bát Quái theo tượng Số Ngũ Hành tương sinh ( bỏ qua sắp việc sắp xếp Quẻ theo hướng). Theo cách đó, ta sẽ được Hà Đồ Phối Hậu Thiên Lạc Việt. Có lẽ quá cứng nhắc khi nhất định phải sắp xếp sao cho khi cộng hàng dọc và hàng ngang để luôn có tổng là 15 đã làm mất đi ý nghĩa của chiều ngũ hành tương sinh trên Hà Đồ. Để tìm hiểu thêm về Ma phương 3x3 và Hà Đồ sẽ phân tích ở một bài viết khác. Tham khảo thêm về lý thuyết Hà Đồ Phối Hậu Thiên Lạc Việt - Đổi chỗ quẻ Tốn (tây nam)- Khôn (đông nam) qua các bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh có nick name Thiên Sứ Lạc Việt, là người phát hiện phục hồi và ứng dụng lý thuyết này. Tính hợp lý và thống nhất được thể hiện thêm trên các yếu tố sau; 1/ Trong các cuốn sách về Huyền Không cũng như Kinh Dịch đều đề cập tới ý nghĩa,biểu tượng của các con số trong Hà Đồ và Lạc Thư. Ý nghĩa của Hồng Phạm Cửu trù với Lạc Thư và Hà Đồ sẽ không bàn kĩ ở bài viết này. Tuy nhiên ta có thể nhận thấy sự sắp xếp nguyên gốc của Lạc Thư (từ chữ Tỉnh mà tổ tiên sáng tạo ra Lạc Thư – theo Gs.Lương Kim Định) là sự đối lập của các cặp quẻ mà ngũ hành xung khắc trên hình chữ Vạn. Trong cuốn Thẩm thị Huyền Không của tác giả Thẩm trúc Nhưng, có đề cập tới cát hung của cửu tinh trên Hà Đồ nhưng chỉ để tham khảo. Nếu ta bỏ qua Hướng trên Hà Đồ mà chỉ ghép các Quẻ theo chiều ngũ hành tương sinh, chúng ra sẽ có đồ hình Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt. 2/ Trên Tiên thiên Bát quái đồ, chúng ta sẽ thấy xuất hiện 8 tam giác đối nhau qua đỉnh. Mỗi cặp tam giác đối nhau có tổng số hào Âm và tổng số hào Dương luôn bằng nhau .Đây chính là định luật bất dịch của Tiên thiên Bát quái đồ.- Nếu chúng ta áp dụng định luật này đối với Lạc Thư phối Hậu thiên bát quái Văn Vương, định luật này bị phá bỏ hoàn toàn. Ví dụ : Càn - Tốn có tổng số 5 hào Dương+1 hào Âm. - Nếu chúng ta áp dụng định luật này đối với Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt: hoàn toàn thỏa mãn định luật của Tiên thiên bát quái đồ. Ví dụ : Càn-Khôn có tổng 3 hào Dương + 3 Hào Âm. “Không có gì xảy ra trên vòm trời xanh kia mà không có phần đối xứng lại ở quả đất này” II. Ý NGHĨA CÁT HUNG ĐỐI VỚI TRẠCH CHỦ 1. Đông tứ trạch: Khảm – Ly - Chấn - Tốn, theo Địa Lý phong thủy Lạc Việt tương ứng với các hướng Bắc- Nam – Đông – Tây Nam. Vì sao lại xếp nhóm các Quẻ này vào nhóm Đông tứ trạch mà không phải là hướng khác ? Theo phép Qui tàng dịch thì các cặp quẻ thuộc Đông trạch khi phối hợp với nhau, thì được Cát hướng tức là các quẻ Sinh khí (Cấn), Phúc Đức (Càn), Thiên Y (Đoài), Phục Vị (chính là quẻ đó). Nếu phối hợp với các quẻ thuộc Tây tứ trạch sẽ gặp Hung hướng tức là hóa thành các quẻ Ngũ Quỉ (Tốn), Lục Sát (Ly), Tuyệt Mạng (Khảm), Họa Hại (Chấn) 2. Tây tứ trạch: Càn – Khôn - Cấn - Đoài ứng với các hướng Tây Bắc – Đông Nam - Đông Bắc – Tây. Khi phối với các quẻ cùng nhóm sẽ được các quẻ Cấn - Càn - Đoài - Khôn thành Phục vị và phối hợp với các quẻ thuộc nhóm Đông tứ trạch sẽ thành các quẻ Tốn - Khảm - Ly - Chấn Tên của các Hướng biểu trưng cho mức độ Cát –Hung chứ không phải là ý nghĩa theo nghĩa đen của từ, vì mức độ Cát-Hung còn phụ thuộc nhiều yếu tố quan trọng khác trong phong thủy. Còn lý do vì sao quẻ Càn - Cấn - Đoài - Khôn Phục Vị lại được coi là Cát và KHảm -Ly -Chấn-Tốn lại bị coi là Hung thì xin được trình bày ở bài viết khác. Con cảm ơn SP Thiên Sứ đã góp ý cho bài viết của đệ tử. Hà nội tháng 4 năm 2016 Mạnh Đại Quân (hth)1 like
-
Kính Gửi Sư Phụ
Loanj liked a post in a topic by Thiên Sứ
Hạ Quốc Huy thân mến. Nhân trả lời Quốc Huy, tôi muốn nhắc lại một điều mà tôi đã bày tỏ nhiều lần trên diễn đàn và chắc cũng nhiều người còn nhớ. Đó là, tôi thường nói: "Ngay cả toàn bộ sự huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, đối với tôi cũng chỉ là phương tiện, phụng sự cho mục đích chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến". Qua đó thì Hạ Quốc Huy chắc cũng hiểu và nên hiểu rằng: Khi mà cả một hệ thống tri thức vũ trụ vô cùng huyền vĩ, được tích lũy hàng chục ngàn năm của cả một nền văn minh cổ xưa, vượt trội hơn hẳn toàn bộ lịch sử của nền văn minh hiện đại đầy kiêu hãnh này - mà chỉ là một thứ phương tiện để tôi sử dụng chứng minh cho chân lý Việt sử, trải gần 5000 năm văn hiến - thì những giá trị khác như cả cái TTNC Lý học Đông phương, diễn đàn....và tất cả cụm từ ngôi thứ ba "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" với "cộng đồng khoa học quốc tế" phủ nhận cội nguồn Việt sử, không phải là thứ mà tôi quan tâm. Đối với tôi, toàn bộ những giá trị của nền văn minh hiện nay, kể cả những thứ quen gọi là "vật chất" lẫn "tinh thần", chỉ là những hiện tượng xuất hiện trong một quá trình tiến hóa của vũ trụ. Tất nhiên, những danh vị hão huyền của trần gian như viện sĩ, giáo sư, sự nổi tiếng....chỉ là những thứ phần thưởng cho những học sinh giỏi được tuyên dương ở trong trường phổ thông trung học. Sắp hết tháng Ba Việt lịch, nếu như sức khỏe của tôi được hồi phục thì mọi chuyện sẽ được tính tiếp.1 like -
Ý NGHĨA CỦA NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG & NỀN VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG. Bài trên Fb của Thien Su Lac Viet Thưa các bạn. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10/ 3 là một trong những ngày lễ lớn trong tâm khảm của mỗi con người Việt Nam. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương ăn sâu vào dòng máu Việt và như thôi thúc con người Việt hướng về ngày giỗ Tổ. Những ghi chép lịch sử đã xác định rằng: Ngay sau khi giành được chính quyền ngày 19/ 8 1945, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là Ngài Hồ Chí Minh, đã cử Phó Chủ Tịch nước là Ngài Huỳnh Thúc Kháng đem một tấm bản đồ nước Việt và một bộ ấn kiếm dâng lên Chư Tổ Hùng Vương ở đền thờ vua Hùng Phú Thọ, khẳng định quyết tâm gìn giữ giang sơn do tổ tiên để lại. Sau ngày Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà nội, tôi và một số người bạn đã lên Đền Hùng Phú Thọ lễ tạ. Do khí lực suy kiệt vì dồn hết thần lực trong những ngày canh mưa của thời gian Đại Lễ, sức khỏe không tốt, nên tôi chỉ lên đến Đền Hạ và nghỉ ở đó. Trời sẩm tối và mưa nhỏ. Các bạn tôi cầm ô để leo lên đền Thượng. Tôi đã nói: "Các bạn không cần phải cầm ô theo. Tôi bảo đảm tạnh mưa ngay bây giờ!". Các bạn tôi vẫn đem ô theo, để làm.... gậy chống. Vì mưa tạnh ngay sau đó, như lời tiên đoán của tôi. Khi lên đến Đền Thượng, các bạn tôi đã được vị thủ từ cho xem thanh kiếm, cái ấn và bản đồ Việt của cụ Huỳnh Thúc Kháng dâng lên chư tổ Hùng Vương. Sở dĩ tôi phải viết thêm những dòng này, trước khi mô tả về ý nghĩa của ngày Giổ Tổ Hùng Vương trong nền văn minh Đông phương, vì có vài ý kiến cho rằng: "Việc Ngài Hồ Chí Minh cử Ngài Huỳnh Thúc Kháng dâng ấn, kiếm và bản đồ Việt lên anh linh tổ tiên là không thật". Cho nên, dù không tận mắt nhìn thấy, nhưng tôi phải xác định rằng: Đây là một sự kiện lịch sử có thật. Qua sự kiện này cho thấy, ngay những ngày đầu tiên hưng quốc sau 100 năm đô hộ của Pháp, vị lãnh đạo tối cao và là khai quốc công thần số một, là Ngài Hồ Chí Minh, đã nghĩ ngay đến anh linh tổ tiên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Sau ngày chiến thắng quân đội Pháp, Ngài Hồ Chí Minh cũng ngồi ngay tại Đền Hùng Phú Thọ, phát biểu một câu nổi tiếng: "Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ nước". Thưa các bạn. Những sự kiện lịch sử trên, đã xác định sự hướng về cội nguồn của tất cả những con người Việt từ lãnh tụ tối cao, cho đến mọi người dân Việt. Là người Việt Nam, dù mang bất cứ quốc tịch nào, theo tôn giáo, tín ngưỡng nào, quan điểm chính trị nào, nhưng nếu muốn xác định cội nguồn dân tộc của mình, đều phải hướng tới ngày giỗ Tổ Hùng Vương, như một bằng chứng của giống nòi xuất thân. Bởi vậy, ngày giỗ Tổ Hùng Vương có một ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt. Nó vượt xa mọi tôn giáo, tín ngưỡng đối với người Việt. Nó không phải là một tín ngưỡng - như một đề xuất công nhận di sản văn hóa Việt Nam đối với Liên Hiệp Quốc - mà là bằng chứng cội nguồn của giống nòi Việt. Do đó, giáo sư linh mục Thiên Chúa giáo Lương Kim Định - một tôn giáo chỉ xác định thờ Chúa Jesu và không mặn mà lắm với việc thờ cúng tổ tiên - đã nhận thấy sai lầm của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trong việc tìm về cội nguồn Việt tộc. Và ông đã cố gắng hết sức mình chứng minh những giá trị minh triết Việt từ cội nguồn Việt trên đất nước Văn Lang. Nhưng ông đã không thành công. Những công trình nghiên cứu của ông chỉ mang tính định hướng về sự huyền vĩ của cội nguồn Việt tộc. Nhưng những luận cứ của ông chưa đủ sức thuyết phục để chứng minh điều này. Tuy nhiên, là một người miệt mài tìm về cội nguồn Việt tộc đã 18 năm nay, tôi xác định rằng: giáo sư linh mục Lương Kim Định là người đầu tiên đã đặt vấn đề về sự huyền vĩ của nền văn hiến Việt trong những giá trị của văn minh Đông phương. Nhưng tôi cũng cần phải xác định rằng: Hệ thống luận cứ của tôi chứng minh sự huyền vĩ của nền văn hiến Việt, hoàn toàn không phải bắt nguồn, hay chịu ảnh hưởng từ giáo sư Lương Kim Định. Mà nó hoàn toàn độc lập với những phương pháp chứng minh khác hẳn. Tôi là một chứng nhân khách quan của giáo sư Lương Kim Định trong học thuật, chứ không phải là người tiếp nối phát triển hệ thống luận cứ của ông. Thưa các bạn. Một trong những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ, nằm ngay trong ngày giỗ Tổ Hùng Vương của nền văn hiến Việt, mà tôi sẽ trình bày với các bạn sau đây. Thưa các bạn. Đã có nhiều ý kiến trên Fb và các trang mạng xã hội, trên web, kể cả những web nhân danh khoa học như khoahoc.tv...đã đặt nhiều vấn đề về ngày giỗ tổ 10/ 3 xuất phát từ nguyên nhân nào? Họ đặt vấn đề có 18 chư tổ thời Hùng Vương, tại sao lại chỉ có một ngày giỗ? Hoặc ngày 10/ 3 là ngày mất của vi Tổ nào trong 18 Chư Tổ Hùng Vương? Họ dẫn chứng những tư liệu lịch sử để chứng minh ngày giỗ Tổ Hùng Vương 10/ 3 chỉ bắt đầu từ thời vua Khải Định, rằng trước đó ngày giỗ tổ là ngày 11, hay mùng 9..vv... Các bạn có thể xem bài viết trong đường link này, để thấy được một trong những sự thắc mắc của tha nhân với ngày giỗ tổ Hùng Vương, mùng 10/ 3. http://khoahoc.tv/co-18-doi-vua-hung-vay-103-la-gio-vi-vua-… Thưa các bạn. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương không phải là ngày mất của bất cứ vị vua lập quốc nào của Việt tộc. Việt sử trải hơn 1000 năm Bắc thuộc, cho nên sau đó cũng chỉ được nhắc tới năm lập Quốc theo lịch Thái Ất: "Năm thứ 8 - Nhâm Tuất, vận VII, Hội Ngọ - tức năm 2879 trc CN". Thậm chí không còn tư liệu cho biết ngày tháng nào trong năm đó, là ngày vị vua Hùng đầu tiên tuyên ngôn lập quốc. Vâng! Như vậy làm sao có thể ghi nhận ngày sinh, hay ngày mất của vị vua đầu tiên, hay một vị vua nào đó trong chư tổ các thời Hùng Vương?! Bởi vậy, việc đặt vấn đề: ngày 10/ 3 là ngày giỗ (Ngày mất) của vị vua nào trong 18 chư tổ của 18 thời Hùng Vương chỉ là một nhận thức mang tính giới hạn, do bị chấp vào một nghi lễ của Việt tộc thờ và giỗ người đã khuất sau khi mất, khi các văn bản mô tả liên quan sau hàng ngàn năm thăng trầm sử Việt cũng không còn. Cũng không thể chấp vào một cái văn bản từ thời Khải Định xác định ngày giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày mùng 10/ 3 để cho rằng: Ngày giỗ Tổ bắt đầu từ Khải Định năm thứ nhất (tôi sẽ phân tích rõ hơn vấn đề này dưới đây). Cũng không thể căn cứ vào vài tục lệ - tùy theo thời gian và vùng miền - mà cho rằng có nơi lấy ngày mùng 9/ 3; có nơi lấy ngày 11/ 3 để hoài nghi ngày giỗ Tổ mùng 10 / 3. Bởi vì, trong phong tục cúng giỗ của Việt tộc với một người - có ngày mất cụ thể - thì có nơi bớt một ngày, lấy ngày trước ngày mất làm ngày giỗ; có nơi thêm một ngày, lấy ngày sau ngày mất làm ngày giỗ. Cho nên với hàng ngàn năm thăng trầm của Việt sử, ý nghĩa đích thực của ngày giỗ Tổ đã mất đi, và thế gian chấp vào ngày gọi là "giỗ" để bàn tán một cách cục bộ và sai lầm về vấn đề: đó có phải là ngày mất của vị vua nào và nó có từ bao giờ? Thực ra, ngày giỗ Tổ mùng 10/ 3 hoàn toàn không phải là ngày mất của bất cứ một vị vua nào trong lịch sử thời Hùng Vương. Mà ngược lại. Đây chính là biểu tượng của một đồ hình nổi tiếng trong Lý học Đông phương, nguyên lý căn để của thuyết Âm dương Ngũ hành, một học thuyết làm chủ đạo chi phối mọi quan hệ xã hội của nền văn hiến Việt, cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Thưa các bạn. Như tôi đã trình bày với các bạn: Ngày mùng 10/ 3 thực chất là con số của Trung cung một đồ hình nổi tiếng của nền văn minh Đông phương, quen gọi là "Hà Đồ". Có hai đồ hình Hà Đồ. 1/ Là Hà Đồ điểm gồm 55 chấm đen trắng, trong đó có 30 chấm đen và 25 chấm trắng. Chấm trắng thuộc Dương và chấm đen thuộc Âm. 2/ Là Hà Đồ cửu cung, trong đó mô tả rõ Trung cung (ô ở giữa) màu vàng và ghi độ số 5/ 10. ĐỒ HÌNH HÀ ĐỒ ĐIỂM VÀ HÀ ĐỒ CỬU CUNG Hai đồ hình Hà Đồ này chỉ mô tả một nội dung là độ số ở các phương vị. Theo cổ thư chữ Hán thì do vua Phục Hy (khoảng 6000 năm cách ngày nay), đi tuần ở trên sông Hoàng Hà. Ngài thấy một con long mã nổi lên, trên lưng có các vòng xoáy. Từ những vòng xoáy này, Ngài nghĩ ra đồ hình Hà Đồ điểm và từ đó lập ra Tiên Thiên Bát quái trên cơ sở đồ hình Hà Đồ này. Truyền thuyết Trung Hoa thì ghi nhận như vậy, nhưng phải đến 5000 năm sau đó, tức 1000 năm cách ngày nay, đồ hình Hà Đồ mới được công bố vào cuối đời Tống. Trong tất cả các phương pháp ứng dụng liên quan đến Dịch học và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn chữ Hán cổ kim, đồ hình Hà Đồ không được thể hiện tính ứng dụng. Trong cuốn sách đã xuất bản: "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" (Nxb Tổng Hợp T/p HCM 2006), tôi đã chứng minh với bạn đọc rằng: Chính đồ hình "Hà đồ phối với Hậu Thiên Lạc Việt", mới là nguyên lý căn để của tất cả mọi hệ thống ứng dụng, chứ không phải "Lạc thư phối Hậu Thiên Văn Vương", như các bản văn cổ kim chữ Hán thể hiện. Trên cơ sở này, tôi đã hệ thống hóa, một cách nhất quán và hoàn chỉnh, toàn bộ các ngành ứng dụng của Lý học Đông phương liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành, như: Phong thủy, Tử Vi, Đông Y...Và đó cũng là cơ sở để tôi xác định bảng "Lục thập hoa giáp" của Tàu đã sai, từ đó hiệu chỉnh thành Lạc thư hoa giáp với sự đổi chỗ Thủy Hỏa, gây tranh luận nhiều năm trên các diễn đàn. Với tất cả những điều kiện đã xác định trên - tôi đã chứng minh rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một hệ thống lý thuyết vũ trụ và nhân sinh quan, mô tả toàn bộ lịch sử hình thành vũ trụ, từ khởi nguyên đến mọi sự vận đông có quy luật, tương tác, đã tạo nên cuộc sống, xã hội và con người trên trái Đất hiện nay với khả năng tiên tri. Và đây chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Vì là một lý thuyết, nên nó phải có một hệ thống cấu trúc hợp lý lý thuyết phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được là đúng. Thuyết Âm Dương Ngũ hành với nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt", hoàn toàn phù hợp với tiêu chí này. Không chỉ dừng lại ở đó, nó còn hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học của một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Tất cả những giá trị đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành, đã được hiệu chỉnh và phục hồi từ những di sản văn hóa truyền thống Việt, nhân danh nền văn hiến Việt và thuộc về nền văn hiến Việt: Cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Tôi đã chứng minh điều này với sự tổng hợp từ những luận điểm được chứng tỏ từ nhiều cuốn sách xuất bản trước đó và các bài viết trên web lyhocdongphuong.org.vn. Thưa các bạn. Tất cả mọi luận cứ mang tính hệ thống, hoàn chỉnh và chặt chẽ ấy, đã xác định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Chính nền văn hiến Việt huyền vĩ ấy, đã lấy học thuyết Âm Dương Ngũ hành làm một lý thuyết chủ đạo trong hình thái ý thức của thượng tầng kiến trúc xã hội và chi phối toàn bộ mọi quan hệ xã hội; từ sự hoạch định chính sách, chỉ đạo quốc gia, tổ chức xã hội...cho đến cả sinh hoạt đời sống xã hội và từng con người. Nó cũng chi phối đến cả sự hình thành một ngôn ngữ cao cấp nhất thế giới văn minh cho đến tận ngày hôm nay, đó là ngôn ngữ Việt. Thưa các bạn. Do đó, ngày giỗ tổ Hùng Vương mùng 10/ 3 không phải là ngày mất của bất cứ vị vua Hùng nào trong 18 thời đại các vua Hùng, kéo dài 2622 năm; mà là một con số tiêu biểu cho hệ thống tri thức huyền vĩ của nền văn hiến Việt, nhằm nhắc nhở và tôn vinh nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Đó chính là độ số 5 - 10 của Trung cung Hà Đồ, nguyên lý căn để chi phối toàn bộ mọi tri thức ứng dụng của nền văn minh Đông phương huyền vĩ. Nền văn minh này đã bị hủy diệt, nên khi dùng cốt lõi căn bản trong nguyên lý của nó là con số của Trung cung Hà Đồ làm ngày giỗ Tổ, tổ tiên ta đã muốn nhắc nhở con cháu về một nền văn minh huyền vĩ, do tổ tiên tạo lập từ cội nguồn là quốc gia Văn Lang bên bờ nam sông Dương tử. Hy vọng rằng đời sau sẽ phục dựng lại những giá trị huyền vĩ của nó. Thưa các bạn. Trong một lời nguyền ghi ở Kim Tự Tháp Keof, vị Pharaon đã nhắc nhở: "Ta sẽ quay lại với các người". Nhà tiên tri vĩ đại người Ba Lan cũng phát biểu: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại". Chỉ có thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt, mới chính là ứng cử viên duy nhất cho lời tiên tri của bà Vanga. Ngày giỗ Tổ các vua Hùng mùng 10/ 3 chính là sự nhắc nhở đến các thế hệ Việt về cội nguồn giá trị của một nền văn Việt, một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử , từ gần 5000 năm trước. Cảm ơn sự chia sẻ và quan tâm của các bạn.1 like