-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 07/02/2016 in Bài viết
-
Hàn Quốc quyết định đàm phán triển khai hệ thống THADD với Mỹ Hồng Thủy 07/02/16 14:01 (GDVN) - Đây là một trong những hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến nhất, Trung Quốc xem nó như mối đe dọa đối với lợi ích chiến lược. Lực lượng phòng vệ Nhật Bản đã chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, đánh chặn tên lửa Triều Tiên nhưng cuối cùng không hành động. Ảnh: SCMP. Hãng thông tấn AP ngày 7/2 đưa tin, cục diện bán đảo Triều Tiên lại gia tăng căng thẳng sau vụ phóng tên lửa tầm xa của Bắc Triều Tiên sáng nay. Trong diễn biến mới có thể khiến cả Bắc Kinh lẫn Bình Nhưỡng lo ngại, Seoul và Washington đã thống nhất bắt đầu đàm phán việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THADD trên lãnh thổ Hàn Quốc. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Yoo Seung Jeh đã nói điều này với các phóng viên. Đây là một trong những hệ thống phòng thủ tên lửa tiên tiến nhất, Trung Quốc xem nó như mối đe dọa đối với lợi ích chiến lược của nước này. Ông Yoo Seung Jeh cho hay, các cuộc đàm phán về THADD nhằm mục đích củng cố hợp tác quốc phòng Mỹ - Hàn để đối phó với các mối đe dọa đang lên từ Bắc Triều Tiên. Tham dự cuộc họp báo cùng ông Thứ trưởng còn có Trung tướng Thomas Vandal, một sĩ quan chỉ huy của lực lượng quân sự Hoa Kỳ đồn trú tại Hàn Quốc. Vandal cho hay, quyết định này được thực hiện trên cơ sở khuyến cáo của tướng Curtis Scaparrotti, Tư lệnh lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc. Hồng Thủy ========================== Còn một giờ nữa mới đến giao thừa. nên có nói chuyện bắn súng, phi dao găm giữa các quốc gia trên thế giới thì nói nốt. Chứ trong ba ngày Tết là các cụ kiêng lắm. Lão phát biểu là các cụ kiêng là hoàn toàn có "cơ sở Lý học", chứ không phải phong long đâu. Vài bữa , nếu rảnh lão Gàn sẽ lần lượt phân tích vì sao các cụ kiêng: Kiêng nói bậy, chửi nhau, kiêng sát sinh..... Với bài viết cuối cùng của năm Ất Mùi, lão nhận xét thế này: Mọi chuyện bắt đầu keng thẻng. Nó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến biển Đông. Vì Bắc Kinh lâm vào thế "cờ bí, dí tốt".1 like
-
Em trai Lệnh Kế Hoạch tiết lộ bí mật động trời của Trung Quốc 06:56 ngày 06 tháng 02 năm 2016 Tình báo Mỹ đang thẩm vấn Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lệnh Kế Hoạch. Lệnh Hoàn Thành (trái) và anh trai Lệnh Kế Hoạch. Lệnh Hoàn Thành, em trai cựu Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lệnh Kế Hoạch, đã tiết lộ một số những bí mật diện thâm cung bí sử nhất về chính quyền và quân đội Trung Quốc, trong đó có thông tin chi tiết liên quan đến hệ thống điều khiển và trung tâm điều hành lực lượng hạt nhân – tờ Washington Freebeacon ngày 3/2 dẫn lời các quan chức tình báo Mỹ đưa tin. Kẻ đào tẩu bị Trung Quốc truy lùng gắt gao này đã không còn xuất hiện công khai ở California từ cuối năm ngoái, ngay sau khi người anh trai Lệnh Kế Hoạch bị bắt giữ với cáo buộc tham nhũng. Các quan chức Mỹ theo dõi vụ việc tiết lộ, kể từ cuối mùa thu năm 2015, Cục Điều tra Liên bang (FBI), Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã bắt đầu thẩm vấn Lệnh Hoàn Thành tại một địa điểm bí mật ở Mỹ. Kẻ đào tẩu này được cho là đối tượng bị các điệp vụ Trung Quốc truy nã gắt gao, với mục tiêu bắt giữ hoặc thủ tiêu. Một trong những thông tin mà tình báo Mỹ thu lượm được là quy trình vận hành vũ khí hạt nhân của giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, ví như các bước chuẩn bị đối với lực lượng hạt nhân trước khi tung đòn tấn công, mã khởi động vũ khí hạt nhân… Một số bí mật khác liên quan đến giới lãnh đạo Bắc Kinh, khu phức hợp được bảo vệ nghiêm ngặt ở thủ đô được biết với cái tên Trung Nam Hải. Đây được xem là nguồn tin rất có giá trị đối với lực lượng tình báo điện tử của Mỹ, nhất là khi nó được sử dụng cho các chiến dịch tấn công tình báo mạng nhằm vào các hệ thống bảo mật của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo giới chức Mỹ, Lệnh Hoàn Thành hiện đang được quản thúc dưới sự bảo vệ an ninh nghiêm ngặt, sau khi các cơ quan tình báo Mỹ phát hiện ra hoạt động của các đặc vụ ngầm Trung Quốc – những người được Bắc Kinh phái đi với nhiệm vụ truy lùng những nhân vật trốn khỏi đại lục, tháo chạy ra nước ngoài. “Quả bom” sẽ có sức công phá mạnh hơn nữa một khi ông Lệnh khai ra thông tin liên quan đến tình hình chính trị nội bộ Trung Quốc, liên quan đến số phận gần đây của Chu Vĩnh Khang, Bạch Hy Lai…, cùng với đó là các bí mật trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp, quy trình vận hành hệ thống tài chính – đầu trong và ngoài nước. Lệnh Hoàn Thành được cho là chuồn sang Mỹ hồi mùa hè năm 2015, ngay sau khi Lệnh Kế Hoạch - người nắm giữ hơn 2.700 tài liệu mật có được từ quãng thời gian làm Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, bị bắt giữ. Lệnh Kế Hoạch đã chuyển tài liệu cho em trai, người sở hữu dinh thự trị giá 2,5 triệu USD ở Loomis, California, gần Sacramento. Việc chuyển giao thông tin mật này được xem như là một biện pháp bảo vệ an toàn cho hai người: Chúng được sử dụng như là sức ép buộc chính quyền Trung Quốc không có biện pháp mạnh nhằm vào Lệnh Kế Hoạch. Khu dinh thự 2,5 triệu USD được cho là của Lệnh Hoàn Thành ở California. Ảnh: AP. Phía Mỹ cho biết, ông Lệnh Hoàn Thành giữ số tài liệu này để “giữ mạng” và sẽ giao thẳng cho chính quyền Mỹ một khi anh trai bị bắt giữ. Hồi tháng 7/2015, Bắc Kinh tuyên bố truy tố Lệnh Kế Hoạch vì tội tiết lộ bí mật, nhận hối lộ, quan hệ trai gái, sử dụng cương vị cá nhân làm giàu bất chính cho người thân trong gia đình. Cựu quan chức dưới thời Chủ tịch Hồ Cẩm Đào này hiện đang bị thẩm vấn gắt gao ở Trung Quốc.Số phận của Lệnh Hoàn Thành là một trong những điểm nhạy cảm trong quan hệ Mỹ - Trung thời gian gần đây. Tháng 8/2015, Trung Quốc đã yêu cầu chính quyền Tổng thống Barack Obama trao trả nhân vật này, nhưng chưa được Washington hồi âm, với lý do không thấy có yếu tố cấu thành phạm tội với ông này. Bắc Kinh xem vụ việc này là tội hình sự, trong khi Mỹ lại coi đào tẩu là vấn đề thuộc về tình báo, thuộc phận sự của FBI hay các cơ quan thực thi pháp luật nội địa nào đó. Chính yếu tố này khiến cho việc dẫn độ Lệnh Hoàn Thành về nước gặp khó khăn. Phát ngôn viên Nhà Trắng, FBI, CIA và Bộ An ninh Nội địa Mỹ từ chối bình luận về thông tin mà tờ Washington Freebeacon đưa ra. Một số quan chức khác tiết lộ, nếu Lệnh Hoàn Thành được cấp quốc tịch Mỹ trong vòng vài tháng tới, thì “kẻ đào tẩu hợp pháp” thì sẽ là con cá lớn nhất từ Trung Quốc mà tình báo Mỹ “tóm” được trong suốt hơn 30 năm qua. “Đó là món quà tình báo đầy bất ngờ”, một quan chức cấp cao nói. Theo Báo Tin Tức =========================== Tên hai anh em nhà ông này quái chiêu: Kế hoạch hoàn thành. Nếu mọi chuyện cứ đúng như kế hoạch và hoàn thành thì sự đau đầu của Bắc Kinh là hoàn toàn có "cơ sở khoa học"(*). Hì. =========================== * Thuật ngữ được giáo sư Viện sĩ Phan Huy Lê chính thức sử dụng trong phản biện hệ thống luận điểm về "Chữ Việt cổ" của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền. Nhưng không thấy định nghĩa trong từ điển tiếng Việt. Cũng như từ "Điếu mựa" của Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng chưa có trong từ điển.1 like
-
Ngôn Ngữ Việt
hungphupy liked a post in a topic by Thiên Sứ
Vua Lê Thánh Tông và giấc mộng lạ về thứ ngôn ngữ đã thất truyền của người Việt Âm vang sử Việt Đăng ngày Thứ sáu, 22 Tháng 1 2016 09:21 Vua Lê Thánh Tông không chỉ là một vị minh quân trong lịch sử Việt Nam mà còn là người có tài văn học và đứng đầu Tao đàn nhị thập bát tú. Ông cũng chính là người đầu tiên trong lịch sử nước ta đã đề cập và nghiên cứu vấn đề chữ Việt cổ. Giấc mộng của nhà vua Vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) là một vị minh quân trong lịch sử Việt Nam. Không chỉ thế, ông còn là người có tài văn học và đứng đầu Tao đàn nhị thập bát tú (28 vì sao văn học thời bấy giờ). Nhà vua để lại nhiều tác phẩm thơ văn cho đời, trong đó có tập "Thánh Tông di thảo" gồm 20 truyện ký, trong đó có một câu chuyện lạ, nhà vua ghi lại giấc mơ của mình (truyện Mộng ký). Nội dung câu chuyện như sau: Một lần, vua Lê Thánh Tông đi chơi, gặp mưa, nghỉ đêm bên bờ hồ Trúc Bạch, mộng thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông ( khoảng năm 1176 - 1210) hiện lên, dâng thư bày tỏ nỗi oan ức gồm hai bài thơ bằng chữ Hán và một tờ tâu bằng chữ bản địa có 71 chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế. Vua không đọc được. Trải ba năm, cả triều đình không ai đọc đươc tờ tâu đó. Thế rồi, Lê Thánh Tông lại nằm mộng thấy có người hiện lên giảng giải cho vua rõ thêm về hai bài thơ chữ Hán. Vua hỏi âm, nghĩa của 71 chữ kèm theo thì người đó nói: "Chữ ấy là lối chữ cổ sơ của nước Nam. Nay Mường Mán ở núi rừng có người còn đọc được, nhà vua vời họ đến thì tự khắc sẽ biết". Những phân tích về hai giấc mộng Như vậy là có đến hai giấc mộng của vua Lê Thánh Tông, thời gian xảy ra cách nhau đến ba năm. Chúng ta hãy phân tích hai giấc mộng đó. Giấc mộng thứ nhất: Nhà vua đi chơi và ngủ đêm ngoài Hoàng thành, vì vậy nằm mơ thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông (một triều đại trước đấy gần 300 năm). Trước hết, tác giả đẩy giấc mộng ra phía ngoài Hoàng thành, để câu chuyện gần với đời sống dân gian, chứ không phải trong cung cấm. Chúng ta đặt vấn đề nghi vấn: Đã là giấc mộng (không thật) thì làm sao có tờ tâu gồm 71 chữ ngoằn ngoèo (vật có thật) trưng ra cho cả triều đình xem? Không lẽ Lê Thánh Tông sau khi thức dậy, cố nhớ ra để viết lại? Điều đó là không thể thực hiện được đối với một loại văn tự mà ta không hiểu nghĩa. Vậy có thể nói rằng giấc mộng này là do nhà vua hư cấu. Nhà vua bịa ra giấc mộng? Điều đó tưởng như khó tin nhưng lại là sự thực: Giấc mộng nói lên điều day dứt, trăn trở của vua Lê Thánh Tông rằng phải chăng ở nước ta từng tồn tại chữ viết bản địa "ngoằn ngoèo như hình giun dế", khác hẳn chữ Hán, trước khi có chữ Hán xâm nhập vào? Không phải ngẫu nhiên Lê Thánh Tông đặt vấn đề như vậy. Chúng ta còn gặp nhiều đoạn trong thư tịch nước ngoài ghi về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Đó là lối chữ khoa đẩu, ngoằn ngoèo như con nòng nọc. Sách Thông giám cương mục do Chu Hy đời Tống soạn, chép: "Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ 5 (2353 TCN) có Nam di Việt Thường thị đến chầu hiến con rùa lớn". Cũng sự kiện này, sách Thông chí do Trịnh Tiều đời Tống soạn, chép rõ hơn: "Đời Đào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được nghìn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là lịch rùa (quy lịch)". Vậy thì thư tịch của ta không ghi chép gì đến chữ Việt cổ, nhưng chính thư tịch nước ngoài lại mách bảo chúng ta rằng đã từng tồn tại chữ viết cổ của nước ta, loại chữ đó "ngoằn ngoèo như con nòng nọc" khác xa với loại chữ Hán "hình vuông" của Trung Hoa sau này. Nghi vấn có căn cứ Đây lại là điều nghi vấn thứ hai của Lê Thánh Tông về sự tồn tại chữ viết cổ sơ của dân tộc hiện còn ở một số tộc người miền núi. Tại sao lại không ở đồng bằng mà ở miền núi? Vì miền núi là nơi vùng sâu vùng xa, ít bị ảnh hưởng của văn hóa Hán, còn giữ được nhiều tính bản địa hơn đồng bằng. Điều nghi vấn của Lê Thánh Tông không phải không có căn cứ. Vào đầu thế kỷ XX, Tổng đốc Thanh Hóa Vương Duy Trinh có viết cuốn "Thanh Hóa quan phong", trong đó ông ghi lại những câu ca dân gian trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đặc biệt, ông còn ghi lại được khoảng 500 thổ âm, viết bằng chữ viết của người miền núi (kiểu chữ Thái). Nội dung ghi chép là bài thơ "Mời trầu", bên dưới có chua nghĩa chữ Hán. Vương Duy Trinh cho rằng đó là chữ cổ của nước ta và nhận định: "Tỉnh Thanh Hóa là một châu quan, có chữ là lối chữ Thập châu đó. Người ta thường nói rằng, nước ta không có chữ. Tôi (tức Vương Duy Trinh) nghĩ rằng không phải. Thập châu vẫn là đất nước ta, trên châu còn có chữ mà dưới chợ lại không có? Lối chữ châu là lối chữ của nước ta đó". Vào khoảng những năm 1970, các nhà khảo cổ phát hiện được một chiếc trống đồng ở Lũng Cú, trên mặt trống cũng có những đường cong lạ mà các nhà nghiên cứu đặt vấn đề nghi vấn là chữ viết. Rồi những ký tự ngoằn nghèo trên trống đồng Đền Hùng, trên qua đồng Đông Sơn... Những công trình nghiên cứu về chữ Việt cổ Gần đây, một số tác giả cũng đã công bố một số công trình nghiên cứu về chữ Việt cổ. Chúng ta có thể kể: 1. Phát hiện một hệ thống chữ viết có niên đại Đông Sơn của GS Hà Văn Tấn (Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1981). 2. Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký Đông Dương (Thái Văn Chải, Nxb Khoa học xã hội, 2009). 3. Đặc biệt, GS Lê Trọng Khánh có công bố một công trình nghiên cứu về chữ Việt cổ, nhan đề: "Phát hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình khoa đẩu" (NXB Từ điển Bách khoa và Trung tâm văn hóa Tràng An ấn hành, 2010), trong đó ông đưa ra nhiều bằng chứng về dấu tích tồn tại chữ Việt cổ. Tất cả các công trình nghiên cứu đều khẳng định một điều rằng, vào thời Hùng Vương, nước ta đã từng có chữ viết, đó là loại chữ khoa đẩu (như con nòng nọc). Suốt hơn ngàn năm Bắc thuộc, để thực hiện ý đồ đồng hóa dân tộc ta, các quan lại cai trị Trung Hoa đã tìm mọi cách xóa bỏ dấu tích văn tự đó và truyền bá một lối chữ hình vuông của người Hán. Lâu dần, chữ "khoa đẩu" mai một, may ra chỉ còn di sót lại trên miền núi cao, rừng xa. 4. Trong quá trình tìm hiểu chữ viết thời Hùng Vương, nhà giáo Đỗ Văn Xuyền đã tìm được một hệ thống đền miếu thờ những thầy giáo, học trò có công với dân, với nước thời Hùng Vương. Ông tìm hiểu, thống kê được từ thời Hùng Vương đến An Dương Vương (tức trước khi nhà Hán sang cai trị nước ta) đã có tới 19 nhà giáo, 35 trường học và 58 học trò trên cả nước (tìm hiểu qua hệ thống Ngọc phả, thần tích của các đền miếu, tính đến Đèo Ngang là biên cương phía nam của đất nước Văn Lang). Điều đó chứng tỏ rằng vào thời Hùng Vương đã có sự truyền dạy kiến thức. Mà đã có sự dạy và học thì tất nhiên phải có chữ. Vào thế kỷ XV, Lê Thánh Tông là một ông vua rất chú trọng sưu tầm văn hóa dân tộc và di sản văn hóa của cha ông. Có thể thời ấy đã từng phát hiện ra những văn bản có văn tự cổ và những văn bản ấy đã đến tay nhà vua. Ông và triều đình không thể lý giải được nên đã "hư cấu" thành câu chuyện về giấc mộng, nhằm gửi gắm những nghi vấn của mình cho hậu thế. Vậy thì chính vua Lê Thánh Tông, Nhà văn hóa Lê Thánh Tông là người đầu tiên trong lịch sử nước ta đã đề cập và nghiên cứu vấn đề chữ Việt cổ. Theo KIẾN THỨC1 like -
NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI Trong buổi giới thiệu Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài tại hội trường Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam, tôi đã phát biểu: "Công trình nghiên cứu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền, là nét vẽ cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh mô tả Việt sử 5000 năm văn hiến". Bởi vì một nền văn minh được thừa nhận thì phải có chữ Viết để duy trì và phát triển nên văn minh đó. Đây là một điều kiện hiển nhiên để minh chứng rõ hơn khi xác định một nền văn minh đã tồn tại. Nhưng điều kiện này không phải là một tiêu chí bắt buộc. Bởi vì khi một nền văn minh được xác định thì tất yếu nó phải có chữ viết. Vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào mà thôi. Đó là nội dung của lời phát biểu của tôi trong hội thảo. Bởi vậy, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn của nền văn minh Đông phương, khi đã hoàn chỉnh về mọi phương diện thì tất yếu nền văn minh này phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Tất nhiên, nó không phải là hệ thống 30. 000 từ gọi là Hán Việt - thực chất là Việt Nho - đó. Quí vị lớn tuổi chắc cũng biết là trước đây, người ta đã cố gắng chuẩn hỏa một dạng ngôn ngữ gọi là "quốc tế ngữ". Tất nhiên nếu thành công thì những ngôn ngữ phổ biến hiện nay là Anh , Pháp, hoặc Hin đu, Trung Hoa..., đều không cần dùng đến trong giao dịch quốc tế. Ở Việt Nam, lúc tôi còn là một gã thanh niên mới lớn, đã gặp không ít kẻ mặt vênh lên khi khoe khoang là đi học cái gọi là "quốc tế ngữ", khiến tôi phải ngậm ngùi vì sự dốt nát của mình. Nhưng đến nay, cái gọi là "quốc tế ngữ" đó, không phổ biến bằng tiếng Ai Cập cổ đại. Chưa hết, chính người Trung Hoa, bằng mọi cố gắng vẫn không thể nào chuẩn hóa được ký tự chữ Hán ra chữ Latin. Qua đó, với hệ thống 30. 000 từ tiếng Việt Nho ấy, không thể từ trên trời rơi xuống, ưu ái cho những học giả "mũ cao áo dài", học vị lủng xủng, lẻng xẻng căn cứ vào đấy để rung đùi phát biểu rằng: Ngôn ngữ Việt - là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Ngay cả Hoa Kỳ siêu cường số một thế giới, qua hơn 200 năm lập quốc, cũng chưa có ngôn ngữ và tiếng nói riêng của mình. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng: Trừ những kẻ cố tình phủ nhận những gía trị văn hóa truyền thống Việt sử vì một mục đích nào đó - Còn nhưng ai có chút tỉnh táo của tư duy khoa học, cần suy ngẫm cho kỹ khi cho rằng: ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và lệ thuộc văn hóa Hán với những từ gọi là Hán Việt trong ngôn ngữ Việt. Với hệ thống 30. 000 từ Việt Nho, quen gọi là Hán Việt ấy, phải là sản phẩm của văn minh Việt tộc từ trước thời Bắc thuộc. Chỉ có quốc gia Văn Lang - một thể chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại (2622 năm) và những bậc trí giả thực sự của nền văn hiến Việt mới có thể hệ thống hóa và Việt hóa, từ một ngôn ngữ cao cấp vượt trội, mới hệ thống hóa được 30. 000 từ và ký tự Hán ra tiếng Việt. Tất nhiên, một nền văn minh sở hữu một ngôn ngữ cao cấp thì phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Đó là điều hiển nhiên và không cấn phải chứng minh. Nhưng nếu xác định được một hệ thống chữ viết của nền văn minh đó thì sẽ làm sinh đông thêm những chứng lý cho sự tồn tại hoàn hảo trực quan cho nền văn minh đó. Do đó, vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào? Chữ Khoa đẩu trên trống đồng Lũng Cú - đặt tại bảo tàng Pháp tại Paris. Có thể nói rằng: nếu xét về mặt tổng quát thì có thể xác định rằng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ Việt cổ là chữ Khoa đẩu. Điều này rõ ràng. Dấu ấn của chữ Khoa Đẩu rải rác khắp nơi từ Đài Loan (Có vĩ tuyến ngang với sông Dương Tử, ngay cả chữ Nhật Bản vẫn còn lưu lại dấu ấn của chữ Khoa Đẩu, Đồng bào Tày Thái cũng sử dụng chữ Khoa Đẩu (có một bức ảnh dạy học Bình dân học vụ vào năm 1945, 46 mô tả một giáo viện dạy học đồng bào Tày Thái bằng chữ khoa đẩu. Đã đưa lên diễn đàn). Quí vị quan tâm chỉ cần lên Goolge gõ chữ "Khoa đẩu " là có hàng tá tư liệu về vấn đề này. Dạy chữ Việt cổ trên vùng cao Cho đến thế kỷ XVII, Nguyễn Hữu Chỉnh trong cuộc họp nội các, cũng đã bàn đến việc sử dụng chữ Khoa Đẩu cho dân tộc Việt để chứng tỏ tính độc lập với văn hóa Hán. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh đã bác bỏ đề xuất này (Tư liệu của tôi đã đưa lên diễn đàn, khi tìm được tôi sẽ bổ sung sau). Di sản hệ thống chữ Khoa đẩu tìm thấy ở Lào Cai. Tôi nghĩ rằng chỉ cần như vậy cũng quá đủ để xác định nền văn minh Việt đã có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh. Vấn đề cụ thế hệ thống chữ viết đó như thế nào . Cụ Khánh Hoài đã trình bày một cách rất cụ thể và chi tiết hệ thống ngôn ngữ Việt, trên cơ sở sưu tầm và tổng hợp những di sản còn lại của hệ thống chữ Khoa đẩu của Việt tộc. Cụ Khánh Hoài đã căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc để chứng minh cho hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình bày. Cụ đã chứng minh rằng: Toàn bộ hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ trình bày, hoàn toàn phủ hợp với những tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc. Phương pháp chứng minh của cụ hoàn toàn tương tự như phương pháp chứng minh của tôi, khi tôi phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Sự trùng hợp giữa hai phương pháp chứng minh này, bởi vì cả hai đều chứng minh cho những hệ thống thuộc di sản văn hóa phi vật thể. Đó là một hệ thống lý thuyết cổ xưa và một hệ thống chữ viết đã thất truyền. Như phần trên tôi đã trình bày: Tôi đã theo cụ Khánh Hoài nhiều năm và tìm hiểu, so sánh đối chiếu rất kỹ những chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc với hệ thống chữ Viết mà cụ Khánh Hoài công bố, tôi mới nhiệt tình ủng hộ cụ với tư cách ủng hộ một chân lý đã được làm sáng tỏ. Tôi cần phải xác định lại một lần nữa rằng: Không phải dễ dàng tạo dựng cả một hệ thống chữ viết hoàn toàn phù hợp với ngôn ngữ của cả một dân tộc và những tiêu chí là chuẩn mực cho hệ thống chữ viết của dân tộc đó. Đây là điều mà tôi đã chứng minh ở trên. Sự thất bại của hệ thống Quốc tế ngữ, của những cố gắng Latin hóa ngôn ngữ Hán....ở cấp quốc gia và quốc tế, đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, cụ Khánh Hoài với tư cách là một cá nhân không thể tự mình tạo ra một hệ thống chữ viết cho cả một dân tộc - nếu như nó không phải là một thực tế đã tồn tại một cách khách quan trong quá khứ và chỉ để lại những di sản mờ nhạt. Cụ Khánh Hoài đã chứng minh: 1/ Hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình hoàn toàn phủ hợp với những ký tự cổ được xác định là của Việt tộc tồn tại rải rác trong những bản văn còn sót lại, như: Thanh Hóa Quan phong, Tự điển Việt Bồ La... Đây là những di sản tồn tại khách quan. Do đó, sự phù hợp của hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dung chứa những ký tự trong những di sản còn lại, tồn tại một cách hợp lý trong hệ thống đó, hoàn toàn không thể là sự áp đặt chủ quan. 2/ Những tiêu chí cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc hoàn toàn phủ hợp với hệ thống chữ Việt cổ mà cụ đã trình bày. Như vậy, những chứng lý khách quan và khoa học đã được thực hiện đầy đủ và là một công trình nghiên cứu thực sự của một trí tuệ thông minh. Bởi vậy, những ý kiến phản biện - nếu có - phải chỉ ra: 1/ Mâu thuẫn giữa hệ thống chữ Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày với chính những tiêu chí khoa học mà cụ đã nêu. 2/ Phải chỉ ra và những ký tự trong các bản văn cổ - là những di sản tồn tại khách quan - mà cụ trình bày trong hệ thống chữ Việt cổ của cụ là ...không có thật. Chẳng một nhà gọi là "khoa học" mũ cáo áo rộng, bằng cấp lùng bùng nào ở Việt Nam thực hiện được điều này. Nhưng họ vẫn nhao nhao phản đối, mà đáng nhẽ ra họ là người có trách nhiệm phục hồi và chứng minh điều đó, chứ không phải cụ Khánh Hoài với động cơ mà họ gán cho là "Tinh thần yêu nước" trong công trình nghiên cứu của cụ. Duy nhất có giáo sư Lê Trọng Khánh đặt vấn đề hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Thái. Thực chất đây không phải yếu tố phản biện, mà chỉ là đặt vấn đề đối chiếu. Tôi vốn không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng tôi có thể xác định ngay rằng: Giả thiết hệ thống ký tự của đồng bào Tày Thái trùng khớp gần như hoàn toàn với những ký tự trong hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày - tức là giả thuyết thuận lợi tối ưu cho cách đặt vấn đề này - thì điều đó không có nghĩa phủ nhận hệ thống của cụ Khánh Hoài không phải của người Việt cổ. Bởi những yếu tố sau đây: 1/ Dân tộc Tày Thái đã có chữ viết thì tất yếu dân tộc Kinh phải có chữ viết. 2/ Dân tộc Tày Thái là một bộ phận của nhà nước Văn Lang xưa ở Nam Dương tử, cho nên phải có mối liên hệ văn hóa và khả năng họ dùng chung một hệ thống ký tự với Việt tộc hoàn toàn không có gì là lạ. Nhưng chắc chắn với những ngôn ngữ khác nhau giữa Việt tộc và dân tộc Tày Thái thì cấu trúc mô tả ngôn ngữ của những ký tự chữ viết thể hiện ngôn ngữ khác nhau, không thể giống nhau. Một minh chứng cho vấn đề này chính là rất nhiều quốc gia sử dụng hệ thống chữ Latin. Nhưng rõ ràng chữ Quốc Ngữ của người Việt hiện nay thì không phải cấu trúc mô tả tiếng Anh của hệ thống chữ Latin này. Tất nhiên, chẳng ai bảo hệ thống chữ Quốc Ngữ hiện nay không phải hệ thống chữ Việt vì nó giống chữ Latin của các dân tộc khác trên thế giới. Bởi vậy, cá nhân tôi - nhân danh cá nhân - tôi xác định rằng: Hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dày công tìm tòi, hoàn toàn đầy đủ yếu tố khách quan của một công trình nghiên cứu khoa học đúng nghĩa. Còn số đông không thừa nhận, đấy là chuyện của họ. Số đông không quyết định tính chân lý. Mà nó chỉ quyết định sự phố biến của một trí thức nền tảng trong xã hội. Có một nhà khoa học đã hỏi tôi: "Ý kiến của anh về hệ thống chữ Việt cổ của ông Khánh Hoài như thế nào?". Tôi trả lời: "Hoàn toàn là một công trình khoa học thực sự!". Hôm nay tôi trình bày sự biện minh của cá nhân tôi ở đây về tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền. Tôi có niềm tin chắc chắn rằng: Không ai có thể phản biện được những luận cứ của cụ Khánh Hoài. Điều này cũng giống như tôi thách tất cả "cộng đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" có quan điểm phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống Việt, chứng minh được rằng: "Thành Cổ Loa chính là Loa thành của An Dương Vương Thục Phán". Còn tiếp ====================== VÀI TƯ LIỆU LIÊN QUAN NHỮNG DẤU ẤN CỦA CHỮ KHOA ĐẨU. Trong một lần đi mua xôi sáng từ "thời xa vắng", Thiên Sứ tôi thấy bà bán xôi có một xấp giấy in roneo dùng để gói xôi. Thoáng nhìn thấy mấy chữ "Thời Hồng Bàng" và chữ "Khoa Đẩu", tôi vội đề nghị đổi ngay một tập vở giấy trắng mới tinh, vừa mới mua dùng để viết giải Tử Vi cho khách hàng kiếm tiền lay lứt qua ngày. Và quả là những tư liệu quý với tôi liên quan đến chữ Khoa Đẩu. Tất nhiên, thứ "tư liêu tham khảo" nhặt được từ con mẹ bán xôi dạo, chẳng bao giờ là "cơ sở khoa học" để được "khoa học công nhận" cả. Nhưng cái vấn đề chính là ở chỗ nó cho tôi và chúng ta biết người ta đã nói gì về thời Hùng Vương và chữ Khoa Đẩu. Tôi cứ tưởng đã mất tư liệu này sau ngót cả chục lần dọn nhà. Nhưng may quá, nhân một yêu cầu của nhóm cải cách tôi đi tìm lại một bộ hồ sơ thì thấy được tài liệu này. Tôi xin chụp ảnh vài đoạn và đưa lên để anh chị em và quí vị quan tâm tham khảo. Phần này của tài liệu xác định sách Kim Cổ kỳ quan đã nói đến "chữ khoa đẩu" của man sứ khiến vua Đường Minh Hoàng không đọc được. Sự tích Lý Bạch không đọc được quốc thứ từ man sứ là một sự tích nổi tiếng. Trong đó quan Trung Thư phải cởi giầy, quan Thái Úy phải mài mực. Sự tưởng thưởng của vị vua đào hoa nhất đời Đường này với Lý Bạch là cho phép ông được uống rượu thả giàn trên khắp đế chế nhà Đường và ngân khố của huyện phải trả cho ông ta. Tài năng của Lý Bạch đã giúp cho đế chế đời Đường giữ thể diện của nhà cầm quyền trước sứ giả lân bang, chỉ vì ông đọc được loại chữ này. Phần này của tài liệu cũng xác định các dòng chúa Trịng đã dùng chữ Khoa Đẩu làm chữ riêng- lúc ấy không còn phổ biến như một loại chữ chính thống - nhưng vẫn có người dùng và đọc được, để ghi gia phả cho dòng dõi nhà Trịnh. Đây là tư liệu đáng chú ý. Nó xác thực cho việc chữ khoa đẩu vẫn còn có người dùng đến thế kỷ XVIII và là cơ sở để các giáo sĩ Tây phương vốn thâm nhập để giảng đạo cho tầng lớp bình dân và đã thu lượm được loại chữ này làm tiền đề cho loại chữ Latin dùng cho người Việt sau này. Đây chính là một trong những luận cứ quan trọng của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền. Tôi sẽ giới thiệu với quý vị quan tâm và anh chị em toàn bộ tư liệu này vào buổi sáng. =========================== Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. Mục Đồng THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.1 like
-
NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. Vì là người Việt, tiếp xúc với ngôn ngữ Việt, nên học bất cứ một ngoại ngữ nào thì cảm nhận đầu tiên là: các bài tập dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt đều rất dễ. Nhưng từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài rất khó. Nhưng vì đang học tiếng nước ngoài chưa thật thông thạo, nên cứ nghĩ là tại mình chưa hiểu hết, nên khó dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, tôi cần phải xác định với bạn đọc về một chân lý hiển nhiên là: một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác ra ngôn ngữ đó. Ngược lại, một ngôn ngữ kém phát triển hơn thì rất khó dịch từ ngôn ngữ đó ra ngôn ngữ cao cấp hơn. Đó là nguyên nhân chính để dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt rất dễ. Ngược lại thì rất khó là vậy. Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt có khả năng dịch tất cả các văn bản từ các ngôn ngữ trên thế giới ra ngôn ngữ Việt, ngược lại không phải các ngôn ngữ nào cũng có thể dịch một cách hoàn hảo các bản văn tiếng Việt ra ngôn ngữ đó. Thực tình lúc đầu khi tìm hiểu về cội nguồn Việt sử, tôi cũng chưa nghĩ đến điều này. Nhưng vào đầu năm 2000, hay 2001 gì đó, tôi làm một trang web để trình bày những luận điểm của tôi. Tôi đặt cái tựa là Việt sử 5000 năm văn hiến. và yêu cầu bên làm web có câu tiếng Anh kèm theo. Họ nói với tôi: Trong tiếng Anh không có từ văn hiến. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên. Bởi vì không lẽ một ngôn ngữ quốc tế bao trùm mọi lĩnh vực mà lại không có từ này? Nhưng cho đến tận ngày hôm nay, quả là tiếng Anh không có từ này thật. Cuối cùng, để dịch thoát ý từ "văn hiến", tôi đề nghi dùng thuật ngữ là "nền văn hóa hướng thượng". Ngay cả tiếng Hán, một nền văn hóa mà rất không ít người ra rả như ve sầu rằng: Nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng từ văn hóa Hán, Hay tệ hơn, họ coi là nền văn minh Hán là chủ thể của văn hóa Việt. Cả thế giới tin điều đó. Nhưng thực ra, vấn đề hoàn toàn ngược lại: Chính nền văn hóa Việt là chủ thể của nền văn hóa Hán, sau khi nền văn minh Văn Lạng sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử. Tất nhiên, nó thể hiện ngay trong ngôn ngữ Việt. Trước hết tôi xin nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Có thê nói cả thế giới tin rằng nó có cội nguồn từ văn minh Hán. Nhưng sự thực hiển nhiên và sờ sờ ra đấy , là các nhà nghiên cứu Hán hiện đại - tức là tri thức của họ tồng hợp cả một qúa trình lịch sử của một nền văn minh - lại không thể chứng minh được thuyết Âm Dương Ngũ hành ra đời vào lúc nào trong lịch sử văn minh Hán. Chưa hết, trong tất cả các bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - tính từ khi nền văn minh Việt sụp đổ ở Nam Dương Tử - chưa hề có một cuốn sách Hán ngữ nào mô tả - dù chỉ là tóm tắt sơ lược nội dung của học thuyết này?! Mặc dù hệ thống phương pháp luận của nó lại thể hiện rộng khắp trên tất cả các phương pháp ứng dụng: Dự báo, gồm Tử Vi, Bốc Dịch, Thái Ất, Độn giáp....vv...hoặc kiến trúc xây dựng (Phong thủy; Y học (Đông Y)....?! Tất cả đều rất mơ hồ và bí ẩn. Cho nên cả thế giới hiện đại đã coi nền văn minh Đông phương vốn mặc định từ văn minh Hán, hoàn toàn là huyền bí! Ngay cả khi hai nền văn minh Tây phương và Đông phương giao tiếp thì trí thức của cả hai nền văn minh này - gồm có nền văn minh Đông phương được mặc định từ văn minh Hán với những bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - cũng không thể phục hồi được của cái mà chính nền văn minh Hán tự nhận là của mình. Về vấn đề này, đã nhiều năm tôi đã chứng minh rằng: Cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. Bởi vì, chỉ có nền văn hiến Việt với những di sản văn hoa truyền thống của người Việt - dù đã tan nát qua hơn 2000 năm lịch sử hiện đại - mới có khả năng phục hồi và làm sáng tỏ được học thuyết này. Chỉ có chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương, mới có thể làm sáng tỏ được sự bí ẩn huyền vĩ của nó. Đương nhiên, khi Việt tộc là chủ nhân đích thực của văn minh Đông phương thì có thể xác định rằng: ngôn ngữ Việt không thể là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Đây là điều hiển nhiên. Bởi vì ngôn ngữ Việt khác hẳn ngôn ngữ Hán, ít nhất là cách phát âm hoàn toàn khác nhau, như tiếng Tây với tiếng Tàu vậy. Một ngôn ngữ cao cấp trong tất cả các ngôn ngữ hiện đại, nếu nó không phải là nguồn gốc của tất cả những ngôn ngữ liên quan đến nó thì nó cũng không thể có cái gọi là "nguồn gốc" từ bất cứ ngôn ngữ nào. Cho dù người ta có thể tìm thấy mối liên hệ gần giống giữa vài cách phát âm. Cũng không ít các học giả, nhà nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ Việt có nguồn gốc từ Mã Lai, Nam đảo gì đó, vì so sánh một vài hiện tượng cục bộ. Nếu giả thuyết về nguồn gốc Mã Lai, Nam Đảo là đúng, vậy thì cái ngôn ngữ Hán đóng vai trò gì trong việc ảnh hưởng đến ngôn ngữ Việt trong ngôn từ? Chẳng một học giả nào tìm thấy mối liên hệ giữa ngôn ngữ Việt từ ngôn ngữ Hán. Nhưng họ lại cho rằng 70% tiếng Việt có gốc là từ Hán Việt, như là một bằng chứng cho văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán. Thật là một sự mâu thuẫn đến ngược đời khi đem đặt lập luận của họ cạnh nhau. Cụ Lê Gia thống kê có 30. 000 từ tiếng Việt có gốc Hán Việt. Cụ Lê Gia rất giỏi chữ Nho, tôi rất quý và kính trọng cụ, nhưng tôi tin cụ không giỏi tiếng Tàu. Các nhà nghiên cứu cứ bám vào số lượng từ Hán Việt từ chữ Nho để xác định văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán tộc. Nhưng rất tiếc! Cách phát âm của hơn 30. 000 chữ Nho trong ngôn ngữ Việt khác hoàn toàn ngôn ngữ Hán khi cùng đọc một ký tự, mặc dù có một số những từ gần giống. Ấy là khi dịch ra tiếng Việt thì phát âm lại càng khác hẳn. Tôi thí dụ như câu sau đây trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đọc theo Việt Nho là: Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán * 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Tiếng Việt khi đọc từ Việt Nho như tôi đã trình bày. Nhưng tiếng Hán lại phát âm khi đọc các từ trên như sau: Lia lia sing khí xi xu giai shấu. 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Zdén zdén xeo kủ xi shứ chha ooan. 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Rõ ràng cách phát âm khác hẳn nhau giữa từ Việt Nho và tiếng Hán cho cùng một ký tự. Còn dịch ra tiếng Việt lại càng khác xa về phát âm: Lớp lớp sông cờ hề sầu ra ải Inh ỏi tiêu trống hề oán ly gia * Vậy với 30. 000 từ chiếm 70 % ngôn ngữ Việt thì người Việt sao không nói luôn tiếng Hán trong suốt 1000 năm đô hộ đó, mà phải mất công Việt hóa trên 30. 000 từ để phổ biến trong tiếng Việt làm gì?! Từ đây vấn đề được đặt ra: 1/ Ngay bản thân người Hán vào đầu thế kỷ XX - tức là một xã hội rất phát triển với mọi quan hệ xã hội phức tạp, bao gồm cả đời sống sinh hoạt xã hội và quan hệ xã hội - so với hàng ngàn năm trước đó; nhưng họ chỉ cần 1000 chữ phổ thông để xóa nạn mù chữ. Vậy xuất phát từ nhu cầu gì của người Việt để cần phải có cả một hệ thống hơn 30. 000 từ tiếng Việt Nho trong việc mô tả từ Hán? 2/ Chủ thể xuất xứ để tạo ra cả một hệ thống tiếng Việt Nho - quen gọi là từ Hán Việt ấy - là tổ chức nào trong lịch sử? Bởi vì, để tạo ra cả một hệ thống gần 30. 000 từ đó, cần phải có một tập hợp những tri thức cao cấp, chuyên ngành làm việc một cách qui mô và có tính hệ thống trong một cơ chế tổ chức chặt chẽ. Chưa hết, hệ thống gồm 30. 000 từ Việt Nho này còn cần những quyết định cấp quốc gia để phổ biến và lưu truyền đến ngày nay. Nó không phải chỉ vài chữ như "bánh dầy" hay "bánh giày", "Thúy" hay "Thúi" , "Cố Ngự" hay "Cổ Ngư" do vài nhà ngâm cứu đề xuất, mà còn rất chật vật. Đây là cả một hệ thống ngôn ngữ Việt Nho với cái mà chính những người phủ nhận truyền thống văn hiến Việt cho là : 70% tiếng Việt liên quan đến ngôn ngữ Hán. Híc! Trong lịch sử hơn 2000 năm nay của cả Trung Quốc và Việt Nam - tức sau khi nhà nước Văn Lang của Việt tộc sụp đổ ở bờ Nam Dương Tử - không hể nói tới một tổ chức quốc gia và một tập hợp qui mô của những nhà tri thức để có hệ thống 30. 000 từ Việt Nho này. Tất nhiên, vì nó không hề xảy ra vào thời Hán tộc xâm lược và cai trị Việt tộc ở Nam Dương tử. Chính tính qui mô của hệ thống Việt Nho và - xin lỗi - ngay thời hiện đại với tập hợp những nhà tri thức chuyên ngành với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng không thể thực hiện được một cách dễ dàng. Chưa nói đến từ hàng ngàn năm trước. Điều hiển nhiên này đã bác bỏ xuất xứ Hán của hệ thống Việt Nho, không thể do người Hán tạo nên trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt. mặc dù ngay từ đầu có thể không phải có ngay 30. 000 từ như vậy. Thưa quí vị. Nếu thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" và "địa bản sinh hoạt chỉ vỏn vẹn ở đồng bắng sông Hồng" thì không cần thiết phải Hán hóa ký tự Hán ra ngôn ngữ Việt. Còn tiếp ============================ * Theo wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm1 like