-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 03/01/2016 in Bài viết
-
Biển Đông năm 2016 sẽ không yên ả Đông Bình 02/01/16 07:35 Thảo luận (0) (GDVN) - Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra, tập trận ở Biển Đông, đồng thời mở rộng hợp tác với một số nước ven bờ Biển Đông, với đồng minh. Quân đội Mỹ quyết thách thức yêu sách "đưỡng lưỡi bò" phi pháp của Trung Quốc Nhật-Mỹ-Australia sẽ tổ chức tập trận chung ở Biển Đông vào tháng 2/2016 Đối đầu Trung-Mỹ biến Biển Đông thành thùng thuốc súng mới ở châu Á Kế hoạch mới của Mỹ ở Biển Đông Sputnik Nga ngày 30/12 đưa tin, cơ quan nghiên cứu Mỹ Stratfor Global Intelligence đưa ra báo cáo dự đoán thường niên, cho rằng, năm 2016 Mỹ sẽ tăng cường hoạt động ở Biển Đông, đồng thời củng cố hợp tác quân sự với các nước đối tác Đông Nam Á. Máy bay ném bom B-52 đã được Mỹ điều động tuần tra tự do hàng hải ở Biển Đông, ảnh minh họa. “Mỹ đã gia tăng ngân sách cho các cuộc diễn tập phòng thủ Biển Đông năm 2016, đồng thời sẽ tăng cường hợp tác quân sự với Nhật Bản và Australia”, báo cáo ghi nhận. Hợp tác kinh tế có thể kiềm chế cạnh tranh trong lĩnh vực an ninh khu vực, nhưng báo cáo này cho rằng, điều này sẽ không giải quyết các tranh chấp chính trị và lãnh thổ, Biển Đông vẫn sẽ là trung tâm chú ý của dư luận. Báo cáo viết: “Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra ở xung quanh các thực thể lúc nổi lúc chìm đang tranh chấp, đồng thời mở rộng hợp tác với một số nước ven bờ Biển Đông. Xung quanh các thực thể tranh chấp có thể sẽ tiếp tục căng thẳng, bởi vì Tòa Trọng tài Thường trực ở The Hague Hà Lan sẽ tuyên bố kết quả sơ bộ vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc”. Đồng thời, phán quyết sẽ tạo ra “khó khăn” mới cho giải quyết tranh chấp trên biển, sẽ đặt ra vấn đề là: Phán quyết này có thể trở thành căn cứ pháp lý để xác định phạm vi lãnh thổ hay không. Báo cáo cho rằng, mặc dù Mỹ có xu thế tích cực can dự Biển Đông, Trung Quốc vẫn sẽ không hạn chế quan hệ quân sự với Mỹ, cũng sẽ không từ bỏ thường xuyên tham gia diễn tập với các nước ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Máy bay tuần tra săn ngầm P-8A Poseidon Hải quân Mỹ Mỹ sẽ không bỏ qua cho Trung Quốc Về vấn đề Biển Đông, Thời báo Hoàn Cầu ngày 31/12 cũng đăng bài viết của học giả Chu Phong, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông thuộc Đại học Nam Kinh, Trung Quốc. Ông Phong cho rằng, tình hình Biển Đông năm 2016 chắc chắn sẽ không yên ả, rủi ro xung đột thậm chí sẽ tiếp tục lên cao. Chu Phong tiếp tục đổ tội cho các nước khác gây ra sóng gió ở Biển Đông, chứ không phải là Trung Quốc đang ra sức khiêu khích bằng các hành vi bành trướng lãnh thổ, bành trướng quân sự ở Biển Đông, điển hình là xây đảo nhân tạo, biến nó thành các tiền đồn quân sự. Chu Phong lập luận cho rằng, Mỹ sẽ tiếp tục tiến hành gây sức ép dưới mọi hình thức đối với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, muốn thông qua chính sách Biển Đông – từ răn đe vũ lực, ngoại giao pháo hạm, dựa vào các cơ chế đa dạng của châu Á-Thái Bình Dương để thường xuyên chỉ trích Trung Quốc, đến tổ chức tập trận ở Biển Đông, phối hợp tuần tra Biển Đông, gây sức ép để Trung Quốc từ bỏ xây dựng (bất hợp pháp) đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa, Việt Nam). Chính quyền Barack Obama mặc dù không muốn đối đầu với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, nhưng sự nhạy cảm cao của Mỹ đối với việc Trung Quốc mở rộng hiện diện quân sự trên biển, cùng với lợi ích chiến lược của Mỹ trong việc hỗ trợ cho các đồng minh, đối tác lớn nhỏ ở châu Á-Thái Bình Dương đều đã quyết định chính quyền Obama sẽ không bỏ qua cho Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Ngày 17 tháng 11 năm 2015, Tổng thống Mỹ Barack Obama đến thăm tàu chỉ huy BRP Gregorio del Pilar của Hải quân Philippines, biểu tượng cho sự viện trợ của Mỹ đối với Philippines. Năm 2016 còn có 2 nhân tố có thể làm leo thang tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và Mỹ: Một là Trung Quốc hoàn thành xây dựng bất hợp pháp các công trình ở các bãi cạn lúc nổi lúc chìm bị đảo hóa. Hai là “cuộc chiến” chính trị trong bầu cử Tổng thống Mỹ. Hiệu ứng đan xen của hai nhân tố này sẽ làm cho hai nước Trung Quốc và Mỹ “lên gân” ở Biển Đông trong năm 2016. Tiếp theo là vụ kiện Biển Đông nhằm vào Trung Quốc của Philippines và cuộc bầu cử ở Philippines. Tháng 6/2016, Philippines tổ chức bầu cử Tổng thống, Tổng thống Philippines hiện nay Benigno Aquino sẽ rời nhiệm sở. Từ tình hình bầu cử hiện nay ở Manila cho thấy, bất kể ai trúng cử, Tân Tổng thống Philippines sẽ khó có sự khác biệt mang tính thực chất với chính quyền Benigno Aquino trong chính sách Biển Đông. Sau khi lên cầm quyền, tân Chính phủ Philippines rất có thể sẽ tiếp tục chính sách đối kháng cứng rắn với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông của Manila hiện nay. Về vụ kiện Trung Quốc liên quan đến Biển Đông, ở Philippines hiện nay, không khí tràn ngập hy vọng Manila chắc chắn sẽ chiến thắng. Philippines có thể chiến thắng Trung Quốc trong vụ kiện Biển Đông Ngày 29/10/2015, Tòa trọng tài thường trực Liên hợp quốc đã công bố họ có quyền thụ lý vụ kiện của Philippines, đã trực tiếp thách thức yêu sách “đường lưỡi bò” vẽ bậy vẽ bạ của giới cầm quyền Bắc Kinh. Điều này chắc chắn sẽ đánh thẳng vào tham vọng bành trướng lãnh thổ và bành trướng quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông. Nếu Trung Quốc không kiềm chế, tiếp tục cố tình thực hiện lòng tham này, các nước ven Biển Đông khác kiên quyết bảo vệ chủ quyền và quyền lợi hợp pháp của mình, thì tình hình Biển Đông chắc chắn sẽ tiếp tục nóng lên. Thứ ba, chính quyền Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sẽ tiếp tục coi vấn đề Biển Đông là con bài chiến lược để kiềm chế Trung Quốc. Bất kể năm 2016 Nhật Bản có điều tàu chiến cùng Mỹ tiến hành tuần tra thông thường ở Biển Đông hay không, với việc thực hiện Luật bảo đảm an ninh mới, năm 2016, Nhật Bản chắc chắn sẽ không ngừng can thiệp vấn đề Biển Đông. Chính sách Biển Đông của Nhật Bản đã trở thành thước đo quan trọng nhất để phán đoán phương hướng chiến lược trong chính sách của Nhật đối với Trung Quốc. Tàu sân bay trực thăng Izumo của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản Cuối cùng, Chu Phong đe dọa Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực ở Biển Đông, cho rằng sẽ sử dụng “súng săn” để săn “sói”. Họ sợ con đường pháp lý – một con đường hòa bình. Đông Bình ====================== Không nằm ngoài dự báo của lão Gàn: "Cuối năm tới, biển Đông sôi sùng sục". Và trong điều kiện "nếu" chiến tranh xảy ra, lập tức nó lan tỏa toàn bộ Tây Bắc Thái Bình Dương và rất khốc liệt với chiến trường chính ở Hoa Đông. Các quốc gia liên quan ít nhiều đều "giăng miểng", "chẳng phải đầu cũng phải tai". Lão Gàn nhớ đến lời dự báo về sự thống nhất giữa hai miền Cao Ly, rằng: Các bạn có giới hạn cuối cùng là năm 2016. Vì tình cảm với đất nước Cao Ly, lão Gàn xác định cụ thể rằng: Các bạn có thời gian quyết định vận mệnh dân tộc của các bạn đến hết tháng 10 Bính Thân Việt lịch. Ít nhất đến giới hạn thời gian này, các bạn phải có những văn kiện xác định căn bản về tính thống nhất của đất nước và được tuân thủ với niềm tin chiến lược, mặc dù có thể chưa thống nhất trên thực tế. Thí dụ: Hai miền Cao Ly thống nhất về mặt ngoại giao chẳng hạn... Như vậy, với những mối tương tác liên quan thì đến hết tháng 10 Bính Thân Việt lịch, chưa thể có chiến tranh ở biển Đông. Nhưng sau đó ra sao thì "thiên cơ khả dĩ lộ từ từ...". Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến được vinh danh, là hy vọng mong manh cuối cùng để giải quyết vấn đề, là: chiến tranh, hay các thủ đoạn khác trong việc kết thúc "Canh bạc cuối cùng". Nhưng ngay cả cái hy vong mong manh này, cũng có giới hạn cuối cùng là mùng 10/ 3 Bính Thân Việt lịch. Đây là mốc thời gian kết thúc đúng 18 năm lão Gàn lăn lóc chứng minh cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử.2 likes
-
Ngẫm Nghĩ
yeuphunu liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thế giới và cụ tỷ là người Do Thái làm rồi. Việt Nam học tập làm theo. Ok thôi, lão Gàn ủng hộ (Và đã ủng hộ trên cả thực tế). Nhưng Việt Nam cần một cơ sở hạ tầng tương thích. Lão Gàn nghĩ mãi chưa ra làm sao thuyết phục được bác nông dân Việt bỏ tiền ra làm nông nghiệp số với mấy sào ruộng và con trâu của mình. Đại để là như vậy. Có thể bước đầu ứng dụng vào các doanh nghiệp.1 like -
BỐN NGÀN NĂM VĂN HIẾN © Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC Vấn đề dân tộc Việt Nam có “bốn ngàn năm văn hiến” như các nhà văn hóa hiện nay đã tuyên bố khiến cho trong giới thanh niên trí thức thắc mắc và nghi ngờ, không biết hai chữ “văn hiến” có ý nghĩa gì, và căn cứ vào đâu để nói với cả một tin tưởng. Nguyễn Trãi, khi giúp Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, xây dựng lại nền độc lập, tự trị của nước nhà cũng chỉ tuyên cáo với quốc dân: Duy ngã Việt chí quốc, Thực vi văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi phong vực kỳ thù Nam Bắc chi phong tục diệc dị. Việt, Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương. (Bình Ngô Đại Cáo) Nghĩa là: Thử xét nước nhà Đại Việt Vốn thật một nước văn hiến Núi sông khu vực đã khác biệt Phong tục phương Bắc, phương Nam không giống. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần dựng nên nước ta Với Hán, Đường, Tống, Nguyên ai nấy làm chúa một phương. Đấy là Nguyễn Trãi, muốn cổ võ cho tinh thần quốc gia dân tộc mà cũng chỉ dám kể từ nhà Triệu, tự xưng là Nam Việt vương đóng đô ở Phiên Ngung ngày nay là Quảng Châu tỉnh Quảng Đông vào năm 237 tr.cn. Như vậy thì lấy đâu ra 4000 năm văn hiến? Nói đến Văn hiến là ngụ ý có văn chương bút ký và người hiền tài, có công trình xây dựng cho nước, cho dân mà đời sau còn tôn thờ làm Anh hùng Dân tộc. Nói “Bốn ngàn năm văn hiến” của Việt Nam chẳng hóa ra ngoa ngôn cuồng tín hay sao? Khổng Phu tử xưa kia nói đến nước Hạ, nước Âu cũng chỉ dám tuyên bố: Nghĩa là: Xem thế đủ thấy nhà sử gia có lương tâm của một người học giả phải thận trọng điều mình nói, mình viết là nhường nào! Nay nói “bốn ngàn năm văn hiến” có nghĩa là bốn ngàn năm nước Việt Nam đã có văn học và người hiền, vậy thì lấy gì làm chứng cứ? Lại theo quốc sử, vua Trần Nhân Tông khi sai Quốc Tuấn ra chận đánh quân Nguyên có ban cho câu thơ nhắc đến Việt tộc: Nghĩa là: Ở đây, Trần Nhân Tông đã nhắc đến dòng dõi nhà Trần ngược dòng lịch sử đến thời oanh liệt và nhục nhã của ông Tổ xa xăm là Việt vương Câu Tiễn, đóng đô ở Cối Kê miền Triết Giang bên Tầu. Theo “Sử ký Tư Mã Thiên” mục “Việt vương Câu Tiễn thế gia” q.41, ch.11: “Việt vương Câu Tiễn dòng dõi vua Vũ mà là con thứ của vua Hạ hậu Thiếu Khang (2079 tr.cn) được phong ở Cối Kê để thừa tự họ Vũ. Vẽ mình cắt tóc, phá cỏ rậm để lập ấp, sau hơn 20 đời đến Ô Doãn Thường. Doãn Thường bấy giờ cùng với vua Ngô Hạp Lư đánh nhau gây thành oán thù lẫn nhau. Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn được nối ngôi làm vua Việt. Năm đầu vua nước Ngô là Hạp Lư nghe tin Doãn Thường đã chết mới kéo quân sang đánh nước Việt, Việt vương Câu Tiễn dùng mưu đem ba trăm tử tù đến trước cửa doanh vua Ngô, bầy hàng hô lên rồi tự đâm vào cổ chết. Quân vua Ngô ra xem, quân Việt nhân thế đánh tập kích quân Ngô, quân Ngô thua ở Tuy lý, quân Việt bắn trúng vua Ngô Hạp Lư, Hạp Lư bị thương rồi chết, bảo với con là Phù Sai rằng: “Không được quên mối thù đối với nước Việt!” Ba năm Câu Tiễn thấy vua Ngô Phù Sai đêm ngày luyện quân sĩ để báo thù nước Việt. Nước Việt muốn đánh Ngô trước khi nước Ngô chưa động binh. Phạm Lãi can vua rằng: “Không nên. Tôi nghe dạy rằng binh đao là đồ dữ, đánh nhau là cái đức tính ngược, tranh dành là việc hèn mạt vậy. Âm mưu, bạo ngược, thích dùng khí giới dữ tợn, đem thân thí nghiệm vào công việc hèn mạt ấy là điều Thượng Đế ngăn cấm, kẻ làm điều ấy không có lợi ích!” Vua Việt nói: “Ta đã quyết định rồi!” Vua kéo quân đi đánh nước Ngô. Vua nước Ngô được tin mới đem quân tinh nhuệ đánh quân Việt bại ở Phù tiêu. Vua Việt mới thu quân còn lại 5000 người về giữ ở Cối Kê. Vua Ngô đuổi đánh vây Côi Kê. Vua Việt gọi Phạm Lãi lại nói: “Vì không nghe lời ông cho nên đến nỗi này, biết sao bây giờ?” Lãi tâu: “Đầy mà không tràn là đạo Trời, khiêm nhường là đạo người, tiết dụng là theo phép đất: Đưa đồ lễ hậu sang, lấy lời nói nhún nhường của khúm núm, không để cho lấy nước Việt mà tự đem thân mình sang hầu hạ!” Nếu căn cứ vào dòng dõi Việt vương Câu Tiễn thì theo bộ sử cổ điển nhất của Tư Mã Thiên, một sử gia danh tiếng thế kỷ I trước công nguyên thì chủng tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhà Hạ bên Tàu (2205-1770 tr.cn) mà họ Hồng Bàng theo Việt sử có từ 2879 tr.cn, bắt đầu từ Kinh Dương Vương, truyền đến Hùng Vương tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Phong Châu theo sử cũ thì phía Đông đến bể, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam tiếp giáp với Hồ tôn. (Việt sử tiêu án) “Việt sử lược” là bộ sử đầu tiên của Việt Nam cũng viết rõ hơn: “Xưa Hoàng Đế dựng muôn nước thấy Giao Chỉ ở xa ngoài cõi Bách Việt, không thể thống thuộc được bèn chia giới hạn ở góc Tây Nam. “Đến đời Thánh vương nhà Chu (1024-1005 tr.cn) Việt Thường thị mới đem dâng bạch trĩ, sách Xuân Thu, gọi là Khuyết địa Đài ký (Lễ ký Đại Đái, Tiểu Đái chú) gọi là Điêu đề. “Đến đời Trung vương nhà Chu (696-682 tr.cn) ở bộ Gia Ninh (tức là Mê Linh nhà Hán. Phong Châu đời Đường quê hương của Trưng Trắc mà theo truyền thuyết là dòng dõi Hùng Vương) có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong thục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn (505-465 tr.cn) đã sai sứ tới dụ, Hùng Vương chống cự lại. “Cuối đời Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu. “Cuối đời Trần, Triệu Đà chiếm cứ Uất Lâm Nam Hải, Tượng Quận, xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung, quốc hiệu là Việt, tự xưng là Vũ Vương” (Việt Sử lược I, 1b) Trong các đoạn văn sử kiện chính thức của Tàu và Ta thì có điểm nào là sự thực, điểm nào là truyền thuyết? Ông giáo sư Henri Maspéro, trường E.F.E.O, Viễn Đông bác cổ học viện, có căn cứ vào hai chữ Văn Lang để mô tả xã hội xưa của giống người Việt trên đất Giao Chỉ. Truy nguyên hai chữ Văn Lang, H.Maspéro viết: “có sự lầm lẫn giữa chữ Văn Lang với chữ Dạ Lang. Sự sai lầm không phải hoàn toàn là một giả thuyết; những bản văn chứng rằng sự lầm lẫn đó đã xảy ra thực. Sách “Thông điển” viết: “Phong châu là nước Văn Lang cũ và chú thích rằng hiện nay có con sông con gọi là sông Văn Lang” (q.184 tr.25b). Sách “Nguyên hòa quận huyện chí” lại viết: “Phong châu là tên nước Dạ Lang cũ. Thực vậy, hiện nay thuộc huyện Tân Xương có con sông Dạ Lang. thế mà vào khoảng đầu đời nhà Hán có một nước Mèo ở về phía Nam Trung Hoa tên gọi là Dạ Lang chiếm một phần tỉnh Quảng Tây và Quế Châu. Về phía Tây giáp nước Điều của người Lô Lô miền Tây tỉnh Vân Nam bấy giờ, phía Đông hồ Vân Nam. Nhưng người ta biết rằng nước Mèo đã quy phục nhà Hán năm 111 tr.cn và gọi là Kiện Vi. Sau này quận đó chia làm hai, quận Kiện Vi ở phía bắc và quận Thương Ngô ở về phía nam. Nếu muốn biết rõ biên giới của hai quận này thì cũng không khó khăn lắm. cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Vi phía Bắc và phía Tây giáp sông Dương Tử giang ngăn quận Kiện vi với quận Ba. Còn quận Thương Ngô thì phía Bắc giáp quận Kiên Vi, phía Tây giáp quận Tấn Ninh tức là nước Điền cũ, phía Đông Bắc giáp quận Vũ Lăng tức là quận Kiến Trung đời nhà Tấn. Ở đó có hồ Động Đình” (H.Maspéro, Le royaume de Văn Lang, BEFEO t.XVIII 3, 1918) “Vậy người ta có thể nói rằng, nước Dạ Lang một mặt thì giáp quận Ba Thục và một mặt thì giáp hồ Động Đình”. Đấy là Văn Lang về khu vực địa lý. Maspéro còn truy nguyên Văn Lang về ý nghĩa chủng tộc nữa như sau: “Nhưng cái tên Văn Lang ở đâu mà ra? Một tên không thấy nói đến trong văn chương đời xưa cho tới thời Đường xuất hiện một cách đột nhiên, và lúc bấy giờ đã bị lầm với tên Dạ Lang. Phải chăng người ta tự hỏi cái tên đó là do một sự lẫn lộn khác? Sách “Lâm ấp ký” đặt về phía Nam huyện Chu ngô trong hạt Nhật Nam, nơi có giống mọi gọi là Văn Lang (sách Thuỷ kinh chú, Thái bình hoàn vũ ký cũng có ghi như thế). Họ không biết xây nhà, ở trên cây, ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Họ lấy tên họ đặt cho con sông phía Nam huyện ấy. Văn Lang Cứu…. Sau này họ lại lầm Văn Lang với Dạ Lang thành thử họ cho Văn Lang ở quận Phong thuộc địa phận huyện Bạch Hạc và Việt Trì ngày nay, đồng thời lại viết lầm hai chữ mà sử gia Việt Nam đã chép theo”. Đoạn văn suy diễn trên đây của Maspéroo toàn là suy từ giả thiết lầm chữ nọ ra chữ kia của người xưa, thật cũng khó cho chúng ta tin, duy có chữ Văn Lang là tên một giống người ở phương Nam Trung Hoa là đáng cho chúng ta để ý. Sách sử ký của Tư Mã Thiên chép lại đoạn văn ở Chiến Quốc sách (q.6 tờ 21) thế kỷ thứ III tr.cn: “tiễn phát văn thân thố tí tả nhậm Âu Việt chi dân dã” (Sử ký q.43 tờ 9). Sách Hoài Nam tử (q.1 tờ 4) cũng có đoạn viết về tục người Việt, và là tài liệu xưa nhất về ký chú: “Cửu nghi chi Nam lục sự quả nhi thuỷ sự chúng. Ư thi dân nhân bị phát văn thân dĩ tượng lân trùng”. Nghĩa là: “Phía nam Cửu Nghi (tức Thương Ngô) người ta làm việc trên bộ ít mà làm việc dưới nước nhiều. Bởi thế nên nhân dân cắt tóc ngắn, vẽ mình để bắt chước thuồng luồng”. Theo giáo sư La Hương Lâm là nhà sử học danh tiếng Trung Quốc hiện đại, trong tác phẩm “Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa”: Việt tộc thời cổ lấy cắt tóc vẽ mình “bị phát văn thân” làm dấu hiệu đặc trưng duy nhất. Mặc tử thiên “Cống Mạnh” “Việt vương Câu Tiễn phát văn thân”. Hàn Phi tử thiên Thuyết lâm: “Lũ vì lý chi dã, nhi Việt nhân tiện hành, cảo vi quán chi dã, nhi Việt nhân bị phát”: “dép gai làm giầy mà người Việt đi chân, the lụa làm mũ mà người Việt búi tóc”. “Hán thư địa lý chí” viết: “Nay Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Châu, Nam Hải, Nhật Nam đều là địa phận của người Việt, là sau vua Vũ, con thứ vua Thiếu Khang Đế, được phong ấp ở Cối Kê, vẽ mình cắt tóc để tránh cái hại về giao long, thuồng luồng, cá sấu”. Tóm lại, các sách cổ Hán văn đều ghi từ kỷ nguyên trước kỷ nguyên Thiên Chúa, ở phương Nam nước Tàu ngày nay có một giống người có tục vẽ mình, Văn Lang phân chia ra nhiều bộ lạc mà sử gia giáo thụ La Hương Lâm đã kê cứu: Ô Việt, Âu Việt, Mân Việt, Dương Việt, Sơn Việt, Nam Việt, Lạc Việt, Tây Ấu Việt, Việt Thường, Đan Việt, Đằng Việt, Điều Việt, Việt Tuỷ, Cứu Việt, Dạ Lang, Quỳ Việt v.v… Đấy là tổng danh Bách Việt vậy. Giáo sư L.E.Aurousseau trường Viễn Đông bác cổ cũng căn cứ cái tục Văn Lang, nghĩa đen là bộ lạc giống người vẽ mình để truy nguyên nói giống Việt, căn cứ vào đoạn văn Sử ký sau đây: Nghĩa là: Và chú giải của Tư Mã Thành rằng: “Họ Lưu bảo ngày nay (đầu thế kỷ thứ VIII) người quận Châu Nhai và Đàm Nhĩ có Âu Việt”. Trương Thủ Tiết (737) giải thích: Rồi Aurousseau suy luận rằng: Vậy có thể nói chắc rằng thời cổ xưa ở miền Nam nước Trung Hoa có một giống người theo tục vẽ mình gọi là “Văn thân, Văn Lang” phân biệt với giống người Hán tộc ở trên phía bắc Trung Hoa, trong lưu vực Hoàng Hà, còn lưu vực Dương Tử kể từ nước Sở trở xuống là khu vực sinh hoạt của Việt tộc Văn Lang, họ Mi gọi chung là Bách Việt, mà Việt vương Câu Tiễn ở kinh đô Cối Kê, miền Triết Giang đã từng có một thời đế bá oanh liệt. Bởi thế nên trong thơ “Sở từ” của Khuất Nguyên mới có lời ai oán, tiếc nhớ: Và lời thơ của vua Trần Nhân Tông giữa lúc vận nước điêu linh đã nói cho thượng tướng thống lĩnh quân dân cứu quốc” Cối Kê cựu sự quân tu kỳ! Như đã dẫn trên để chứng minh nhà Trần vẫn nghĩ đến dòng dõi Việt tộc Câu Tiễn ở Triết Giang thưở xưa. Hơn nữa chính sử của ta đều chép về nhà Trần sự kiện sau đây: “Thượng hoàng (Nhân Tông) thường ra ngự cung Trùng Quang. Vua Anh Tông đến chầu có Quốc Công, Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: Dòng nhà ta vốn sống nghề thuyền chài, đời đời hùng dũng ai ai đều xâm vẽ ở đùi. Đời nọ sang đời kia chuộng võ nghệ nên phải xem xâm vẽ đùi tỏ ra không quên gốc. Bấy giờ người thợ xâm mình đang chờ ở cửa để thừa hành mệnh lệnh. Vua Anh Tông liếc thấy Thượng Hoàng nhìn đi chỗ khác bèn bỏ về cung Trùng Hoa. Một lát sau Thượng Hoàng hỏi: Vua đâu? Tả hữu tâu rằng Vua đã về cung Trùng Hoa. Thượng Hoàng nói: Vua đã trốn chăng? Mới chỉ xâm mình cho Huệ Vũ Vương, Quốc Trân Vương, Hưng Đạo Vương ở đùi cái hình rồng “loa thoa”. Từ đấy về sau các vua nối nghiệp nhà Trần không xâm vẽ đùi nữa là bắt đầu từ vua Anh Tông vậy. “Buổi đầu lập quốc nhà Trần, quân sĩ đều cùng xâm hình rồng ở bụng, ở lưng và ở hai bên đùi, gọi là “thái long”, “vẽ rồng”. Bởi vậy mà lái buôn nhà Tống thấy dân Việt ta vẽ hình rồng vào thân mình mới bảo là giống thuồng luồng biển sợ hình rồng, thuyền đi biển gặp gió chìm đắm thì thuồng luồng không dám làm hại cho nên tự gọi là “thái long, vẽ rồng” vậy” Ngoài ra, bên cạnh cái nền Văn hiến dòng Việt Câu Tiễn trong nền Văn hiến Việt Nam kể từ thế kỷ thứ IV, thuộc về sử kiện lịch sử, ngày nay người ta lại chứng minh cách chính xác sự có thật của Văn hiến Ba Thục (Tứ Xuyên) trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Theo Lã Sĩ Bằng trong tác phẩm “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” do “Đại học Trung văn” ở Hương Cảng xuất bản có trình bày sự kiện về tiền sử văn hóa Thục Việt như sau: “Qua sự khai quật khảo cổ cận đại, người ta thấy hai khu vực văn hóa trên rất giống nhau. Sự phát hiện về tiền sử ở Tứ Xuyên có thể phân ra 4 thời kỷ đồ đá: - thời đồ đã đẽo, - thời đồ đá truốt đẽo. - thời đồ đá đẽo - thời đồ đá mài sáng Trong bốn loại ấy, thì loại thứ 1 và thứ 2 thấy ở tầng lớp vị trí trước sau rõ ràng giống hệt với văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn ở Việt Nam. Như thế có nghĩa là thời đại Trung thạch khí (Mesolithic) ở Tứ Xuyên đến thời đại Á tân thạch khí (subsolithic) thì giống với văn hóa Việt Nam thời đại Hòa Bình Trung thạch khí, và thời đại Bắc Sơn nguyên tân thạch khí. Đại thể thì kỹ thuật thời tiền sử của hai khu vực văn hóa đó là một, có đường lối thông đồng. Chủ nhân của văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam thuộc về chủng tộc “Proto-Australoid” và “Proto-Melanésoid”, còn chủ nhân của văn hóa Bắc Sơn thành phần chủ yếu thuộc về “Indonesian” và “Proto-Melanésoid”. Về văn hóa thời đại Thanh đồng thuộc đồ kim khí ở Việt Nam gọi là văn hóa Đông Sơn lấy Trống đồng đại biểu cho nên gọi là văn hóa Trống đồng. Di tích phát hiện Trống đồng thấy ở một khu vực địa lý rộng lớn chu vi gồm lục địa Đông Nam Á, bán đảo hải đảo từ Tứ Xuyên cho đến quần đảo Malacca. Theo giáo sư Lăng Thuần Thanh từng nghiên cứu thì bắt đầu khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt mà Hoa trung là địa khu từ xưa của dân tộc Bách Việt chiếm cứ sinh hoạt. Theo sự phát hiện trống đồng tối cổ ở Hoa trung thì thấy nhiều nhất ở huyện Hưng Văn tỉnh Tứ Xuyên. Còn ở bán đảo Đông Dương thì trống đồng Lạc Việt ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ là có danh tiếng hơn cả. F.Heger, nhà khảo cổ học gọi trống đồng Lạc Việt thuộc hạng thứ nhất. Khảo về dân tộc Bách Việt thời cổ, bao hàm Bách Việt miền Đông Nam với Bách Bộc miền Tây nam Trung Quốc thấy rằng thời cổ xưa khu vực địa lý của nước Thục với Bách Việt vốn liền với nhau. Theo “Hoa dương quốc chí” q.3 Thục chí: “Vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ cùng với nước Thục. Đất Thục phía đông liền với nước Ba, phía Nam giáp với nước Việt, phía bắc phân giới với nước Tần, phía Tây gồm núi Ngọ và núi Phồn, đất ấy xưng là Thiên Phủ”. Nước Thục giao thông với bên ngoài rất phát đạt. Sự giao thông ấy lấy Điền (Vân Nam) và đất Kiềm làm chủ yếu, mà sự mở mang đất Vân Nam lại hướng vào nước Thục làm trọng tâm để buôn bán mậu dịch. Vân Nam với Bắc Việt liền tiếp với nhau, từ thời cổ xưa hai miền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ Xuyên với Bắc Việt chắc hẳn là tấp nập. Bấy giờ miền hạ lưu sông Trường Giang chưa có ảnh hưởng khai hóa của Hán tộc, mãi đến thời Chiến quốc (dân mà người Hán gọi là man di phía Tây trong vùng Tứ Xuyên – Bắc Việt, và “Tây nam di ở Điền, Kiềm (Vân Nam, Quý Châu ngày nay), nước Tần, nước Sở đang đua tranh vũ lực để thôn tính, kết quả là vua nước Sở Trang Kiêu làm vua Điền (Vân Nam) nước Tần, chiếm lấy nước Ba, nước Thục, nước Kiềm tức Quý Châu. Theo Hoa dương quốc chí q.1 Ba chí viết: “Chu Thuận (Thuyến) làm vua 5 năm (316 tr.cn) vua nước Thục đánh chúa Tư, chúa Tư chạy vào nước Ba, nước Ba xin nước Tàu cứu. Vua Tần Huệ Văn sai Trương Nghi, Tư Mã Thác đi cứu nước Tư, Ba, bèn đánh nước Thục mà diệt đi. Từ Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm (316 tr.cn) nước Thục mất về nước Tàu, cho đến Chu Báo làm vua 58 năm (257 tr.cn) An Dương Vương là Thục Phán xưng vua ở Việt Nam, thời gian cách nhau là 59 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người dân nước Thục chịu sự áp bách của thế lực quân sự nhà Tần, tập đoàn chống đối quân Tân dần dần đi xuống phương Nam, đi vào bắc bộ Việt Nam, cùng với vua Hùng nước Văn Lang đánh nhau tranh dành. Lúc đầu, vì thế lực còn yếu, luôn luôn bị thua, mãi sau mới chinh phục được Văn Lang. Về việc An Dương Vương từ nước Thục đi vào nước Việt, thì sách sử của Tàu và Việt đều không ghi chép lịch trình tiến triển, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước Tần và nước Thục có thể tìm thấy dấu vết ở cuộc thiên di về phương Nam của tập đoàn vương thất nước Thục chống đối với nhà Tần. “Hoa dương quốc chí” q.3 mục Thục chí viết: Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm, quan đại phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô Uý Mặc cùng theo đường Thạch Ngưu đánh nước Thục. Vua nước Thục từ đất Hạ Manh chống cự, thất bại, vua chạy trốn đến đất Vũ Dương bị quân Tần giết hại. Tướng, Phó cùng Thái tử rút lui về Bàng Hương, chết ở dưới núi Bạch Lộc, họ Khai Minh mới hết, làm vua nước Thục 22 đời.” Lã Sĩ Bằng trong “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” suy diễn sử kiện trên đây như sau: “Xét về việc vua Thục bị ở đất Vũ Dương, ngày nay là Bái Sơn vị trí ở phía nam Thành đô, tên bờ sông Manh khoảng giữa đến như Bàng hương núi Bạch Lộc ngày nay ở đâu thì hông thể tìm xét, chỉ nên hiểu là ở phía nam núi Bành, thế nhân vì quân Tần từ phía bắc xuống miền Nam, tập đoàn ngừơi Thục chống đối quân Tần bị thua mà hướng phương Nam để thoát lui vậy. Từ đấy về sau 59 năm có lịch sử đích thực là vua Thục Phán làm vua Việt. Chúng ta có thể suy định rằng vua Thục bị bại ở Vũ Dương, quan Tướng, Phó, Thái tử đều chết ở núi Bạch Lộc, sau đấy đảng vua Thục còn lại mới suy tôn con hay cháu nhà vua lên tiếp tục chạy về phương Nam, theo hạ lưu sông Manh tiến vào khu đất tiếp giáp giữa Qúy Châu và Vân Nam thuộc phạm vi thế lực người Sở… Nhưng khu đất giao tiếp giữa Quý Châu (Kiềm) và Vân Nam (Điền) thời Hán là Trường Kha là đất thuỷ lảo nghèo nàn. Thục vốn là nước Thiên phủ, người Thục khó ở lâu tại đất ấy được, và thế lực quân Tần đang rất mạnh, dòng dõi vua Thục hết hy vọng khôi phục lại đất cũ mới tìm phát triển về phương Nam tiến vào đất bình nguyên Bắc Việt, khí hậu ôn hòa, nông sản phì nhiêu, cùng với Hùng Vương tranh chiến, nhiều phen thất bại đến đời Chu Bảo Vương năm 518 (tr.cn 257) mới chinh phục được Văn Lang. “Sách sử Trung Hoa và Việt Nam đều có ghi nhận giai đoạn lịch sử giữa Thục Phán An Dương Vương đánh nhau chinh phục Hùng Vương” Xem thế đủ biết chắc chắn là có sự cống hiến vào văn hiến nước Việt Nam của nòi giống Bách bộc bên cạnh sự cống hiến của Bách Việt. Sự hiện diện của Bách bộc do Thục An Vương với tập đoàn nhà Thục từ Tứ Xuyên đi xuống qua Quý Châu và Vân Nam phía tây bắc Bắc Việt ngày nay mà di tích là kiểu thành Cổ Loa vốn của nước Ba Thục. Một khi đã chứng nhận có Thục An Dương Vương vào thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Thiên Chúa thì phải công nhận có Hùng Vương của nước Văn Lang, là chủ nhân đất Bắc Việt trước khi tập đoàn vua Thục Phán chinh phục. Căn cứ vào kết quả của khảo cổ học của trường Viễn Đông Bác Cổ trước đây ở Thanh Hóa, Bắc Ninh (Bắc Việt Nam), và ở Óc Eo (Nam Việt Nam), giáo sư Olov Janse hội viên của Viện, đã tổng kết về “Việt Nam ngã ba của dân tộc và văn minh” (carrefour de peuples et de civilisations) ed France-Asie Tokyo 1961, tr.1645: “Theo một ý kiến thông thường trước đây thì văn minh Việt Nam hoàn toàn từ lưu vực sông Dương tử di chuyển xuống vào thế kỷ thứ IV tr.cn. Dân mới đến định cư tại Bắc Việt hiện thời đã mang theo một thứ văn hóa lai Tàu để rồi dần dần trở nên mô thức bản xứ. Thuyết ấy thiếu căn cứ, không dựa vào một cơ sở chắc chắn và không được hoặc khảo cổ học, hoặc ngữ học, hoặc nhân chủng học công nhận ấn chứng. Những phát hiện trong khoảng 30 năm gần đây chứng minh trái lại rằng văn minh Việt Nam đã tuần tự phát triển ở miền Bắc Việt và Trung Việt từ những pha trộn chủng tộc và những cống hiến văn hóa mà nguyên lai phải tìm không những ở Tàu mà là ở các biên giới phía Nam lục địa Á châu. Nếu người ta nghiên cứu về thời gian tính sự thành hình cá tính văn hóa thuần tuý Việt Nam người ta có thể phân thành được ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có một đặc tính kỹ thuật nhất định. Giai đoạn thứ nhất ngày nay gọi là văn minh Đông Sơn bao quát một thời đại giữa kỷ nguyên trước Thiên Chúa đến đầu kỷ nguyên sau Thiên Chúa. Về khu vực địa lý của kỹ thuật này thì thuộc miền tây nam Trung Hoa mà dân cư ở đấy không phải Tàu, bao hàm khắp bán đảo Đông Dương (Indochine) và một phần các xứ ngoại Ấn. Về Việt Nam thì văn minh Đông Sơn phần lớn của dân tộc Proto-Melanésoid Indonesian. Giai đoạn thứ hai là đặc trưng của kỹ thuật Lạch Trường bao quát đại khái ba thế kỷ trước và sau kỷ nguyên Thiên Chúa. Nó chi phối một khu vực không được giới hạn rõ rệt nhưng gồm một phần tây nam Trung Hoa Bắc Việt và một vài tỉnh trung Việt. Văn minh thời kỳ này là của chủng tộc phần lớn nguồn gốc Thái. Hai nhóm trên đây ảnh hưởng quyết định không những vào văn minh Việt Nam mà còn vào cả văn minh của nhân dân miền núi hiện đang sinh hoạt ở tây nam Trung Hoa và phần lớn miền Đông Nam Á. Giai đoạn thứ ba là văn minh Óc Eo mà đặc trưng là kỹ thuật thuộc thời kỳ đầu thế kỷ thứ II sau công nguyên cho đến năm 500. Nó bao quát một khu vực hãy còn chưa định rõ gồm miền nam Việt Nam và cũng phải đã ảnh hưởng ít nhiều vào các dân tộc sinh hoạt thời ấy theo bờ biển phía bắc đến tận Thanh Hóa. Văn minh Óc Eo thuộc hẳn về dân tộc Ấn Độ hay là Indo-Seythe (Nguyệt thị) hình như có giao dịch thông thương trực tiếp hay gián tiếp với miền Cận Đông và Đông La Hy”. Những suy đoán trên đây của nhà khảo cổ học về tiền sử Việt Nam trên dải đất Bắc Việt có vẻ chính xác hơn là những suy luận về tài liệu sử ký Tần. Tiếp tục công cuộc khảo cổ trên đây của trường Viễn Đông, Viễn Bảo tàng Hà Nội năm 1963 có phát hiện ở vị trí Văn điển gần Hà Nội những dụng cụ thuộc về thời kỳ “Nguyên tân thạch khí” (Upper Neolithic). Và ông Văn Tân đã suy đoán rằng: “Những hình dạng, kiểu thức và kỹ thuật sản xuất của chúng, cũng như những chất liệu nhắc lại những phát hiện ở Phùng Nguyên (Phú Thọ có đền Hùng). Vị trí của nơi phát hiện ở trung tâm trung châu chứng minh rằng 5000 năm về trước Tiên tổ chúng ta đã định cư tại đấy” (The beginnings of archaeology in the Democratic Republic of Việt Nam – Xunhasaba – Hanoi) Còn về thời đại đồ đồng thì những phát hiện mới đây ở Bắc Việt vẫn theo tài liệu ông Văn Tân dịch thuật ra Anh ngữ trên đây thì: “Một kho tàng gần 10.000 đầu tên nỏ bằng đồng đã khai quật ở Cổ Loa (kinh đô Thục An Dương Vương gần Hà Nội) ngày 17 tháng 7 năm 1959. Những đầu tên ấy đều lớn khổ, ba cạnh… Tất cả những đầu tên nỏ ấy đều tương tự với đầu tên của người Tàu thời Chiến Quốc (463-200 tr.cn). Ở vị trí Việt Tiên (Phú Thọ) phát hiện năm 1961 trong khoảng đất chu vi 400 thước vuông, người ta thấy những mảnh đất gốm, trang trí rất phong phú, mà đề tài thì tương tự với đề tài trang trí trên đồ khai quật được ở Phùng Nguyên. Hơn nữa, trong sự phát hiện thấy có đến 54,3% đồ bằng đá, điều này chưa từng thấy ởo các vị trí “thời đại đồ đồng” khác. Còn đồ đồng ở đây, phần lớn bị hủy hoại, thì đại khái là đồ nhỏ như lưỡi câu và vòng khuyên hoa tai. Chúng khác hẳn với những đồ phát hiện ở Đông Sơn, do đấy mà có thể kết luận rằng Văn minh Việt tiên (hay Phùng Nguyên) có trước thời Đông Sơn và các thời đồ đồng khác đã được khám phá ở Việt Nam. Tháng 9 ngày 14 năm 1960 sẩy bờ sông lở ở vị trí Dao Thịnh (Yên Bái, phía trên Phú Thọ) làm xuất hiện một cái cóng bằng đồng có nắp cao 0,84m và rộng 0.7m. Trên sườn có trạm trổ hình thuyền, người và chim (như ở trên trống đồng Đông Sơn) trên nắp có 4 đối tượng, đàn ông đàn bà đang giao hợp… Việt lở núi ngày 24 tháng 9 năm 1962 lại làm xuất hiện một cái trống đồng lớn. Theo giáo sư khảo cổ học ngừơi Nga là Boriskoswki đã hướng dẫn Viện lịch sử Hà Nội thì sự phát hiện vị trí Núi Do ở Thanh Hóa chứng minh miền ấy là một trung tâm văn minh thạch khí thời đại cổ nhất. Nó xác nhận cái giả thuyết khoa học cho rằng Việt Nam và toàn cõi Đông Dương là một khu vực có lẽ đã là một trong những cái nôi của nhân loại”. (thuật theo tài liệu đã dẫn trên) Kết luận của khảo cổ Bắc Việt hiện thời trên đây cũng phù hợp với kết luận của nhà khảo cổ Mỹ Wihelm G.Solheim đăng tải ở tạp chí National Geographic Vol 139 n.3 tháng 3-1971, dưới nhan đề “New light on forgotten past”: “Tôi đồng ý với Sauer rằng sự thuần thục các thứ cây ở thế giới đã là công trình của nhân dân thuộc văn hóa Hòa Bình ở một địa điểm Đông Nam Á. Tôi không thấy ngạc nhiên nếu sự kiện bắt đầu sớm nhất từ 15.000 năm trước dương lịch. “Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh có sớm nhất tìm thấy ở miền Bắc châu Uc 20.000 năm trước dương lịch nguyên lai thuộc Hòa Bình. Người ta hiện biết rằng đồ gốm sớm nhất là thấy ở Nhật Bản khoảng 10.000 tr.cn. Tôi mong rằng khi nào có nhiều phát hiện về văn minh Hòa Bình với đồ gốm có dấu dây thừng được quy định thời đại tính, bấy giờ chúng ta sẽ thấy loại đồ gốm ấy là do dân ở Hòa Bình chế tạo vào trước 10.000 tr.cn. “Thuyết tập truyền cho rằng tiền sử Đông Nam Á đã di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy trái lại rằng văn hóa Nguyên tân thạch hệ (proto-neolithic) phía bắc Trung Hoa gọi là văn minh Yang-shao đã do trình độ thấp văn hóa Hòa Bình phát triển lên từ miền bắc Nam Á vào khoảng kỷ nguyên thứ VI hay thứ V tr.cn. “Tôi có ý kiến rằng văn hóa sau này được gọi là Lungshan mà người ta xưa nay vẫn cho nó xuất phát ở Yangshan phía bắc Trung Hoa, rồi mới bành trướng sang phía đông và đông nam, thì thực ra cả hai nền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản Hòa Bình. “Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã được sử dụng trên các dòng sông nhỏ ở Đông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V tr.cn. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài bể bắt đầu khoảng 4000 tr.cn tình cờ đã đi đến Đài Loan và Nhật Bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa màu khác. “Vào khoảng kỷ nguyên thứ III tr.cn các dân tộc Đông Nam Á đã lành nghề đi thuyền mới đi sang các đảo Nam Dương và Phi luật tân. Họ đem theo kiểu nghệ thuật kỷ hà học như các hình vòng tròn, xoáy ốc, hình tam giác và hình chữ nhật vẽ trên đồ gốm, trạm vào gỗ, xâm vào mình, quần áo bằng vỏ cây và sau đến là vải dệt. Đấy là những hình tượng thấy trên đồ đồng ở Đông Sơn (Thanh Hóa) mà có giả thuyết cho nó đã từ Đông Âu đưa đến. “Dân tộc Đông Nam Á cũng đã di chuyển sang phía Tây, đạt tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 trước. Có lẽ họ đã cống hiến một số cây thuần thục cho nền kinh tế miền Đông Phi châu. “Vào khoảng đồng thời ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Địa Trung Hải có lẽ qua đường biển do kết quả của việc thông thương. Một số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc từ Địa Trung Hải cũng đã được tìm thấy ở địa điểm Đông Sơn”. Kết Luận Với những tài liệu của sử học và khảo cổ học sơ lược trên đây của học giả đáng tin cậy, có quan hệ đến cổ sử dân tộc Việt Nam chúng ta, nay có thể tạm kết luận về “Bốn ngàn năm văn hiến” của nền văn hóa dân tộc. Người ta không còn có thể hoài nghi về di tích Cổ Loa với tên nỏ bằng đồng và triều đại nhà Thục của An Dương Vương vào thế kỷ thứ III tr.cn. Như thế thì cũng không có thể phủ nhận cuộc chinh chiến giữa nhà Hồng Bàng của nước Văn Lang, nước người xâm mình ở di tích Phùng Nguyên tỉnh Phú Thọ, Yên Bái theo bờ sông Hồng Hà ngày nay. Văn hóa Phùng Nguyên đã có đồ đồng đặc biệt là cóng bằng đồng với hình thuyền và người chim trạm trước văn hóa Đông Sơn với đặc trưng biểu hiệu của Trống đồng. Đồ đồng ở đây có trước Trung Hoa 1000 năm, vậy thì Văn Lang, Hồng Bàng hay Lạc Việt ít ra phải có trên 4000 năm văn hiến kể tới nay. Đặc biệt với tinh thần truyền thống dân tộc là cái Trống đồng tiêu biểu cho nền văn hóa Đông Sơn Việt Nam đã từ một dụng cụ kỹ thuật biến thành một đối tượng tín ngưỡng tôn giáo Quốc gia như là một vị Thần linh. Quốc tổ bắt đầu với triều Lý để thành cái Quốc lễ long trọng hàng năm triều đình, từ Vua đến các quan chức đến trước Thần Núi Trống đồng “Đồng cổ sơn thần” để thề trung thành với tổ quốc. Theo Đại Nam nhất thống chí - tỉnh Thanh Hóa chép rằng: “Ngày xưa vua Hùng đi đánh Chiêm Thành, đóng quân ở núi Khả Lao, đêm mơ thấy thần báo mộng bảo vua: “Xin có cái trống đồng và dùi đồng giúp nhà vua thắng trận phen này!” Đến lúc ra trận thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống đồng rồi quả nhiên Vua được toàn thắng. Vua bèn sắc phong là “Đồng cổ Đại vương”. Đời vua Lý Thái Tông khi còn làm Thái tử (1020) vâng mệnh đi đánh Chiêm Thành, đêm mơ thấy một người mình mặc áo nhung, tay cầm bảo kiếm tâu vua rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ xin theo để lập công cùng Thái tử”. Tới khi bình định được giặc liền lập miếu để thờ. Sau khi thái tử lên ngôi lại mộng thấy Thần mang bài thơ đến bảo cho biết là có ba vị vương định gây loạn, sau cả quả nhiên có thật. Nhân thế mới phong chức “Thiên hạ minh chủ” thăng lên làm Thượng đẳng Thần, và hàng năm đắp đàn ở trước cửa đền sai các quan đến lễ và đọc lời thề: “Đạo làm dân một nước, làm con một nhà cốt ở luân thường! Làm con, mà bất hiếu, làm dân mà không hết lòng yêu nước, xin Thần linh ngầm xét, tiêu diệt cả họ!” Ngày nay, nghĩa là trước năm 1945, theo tường thuật của Victor Goloubew (BEFEO t.33-1933) chùa Đồng Cổ trên con đường đi Phủ Quảng, gần bến đò Yên Định sông Mã. Chùa là một ngôi Đình kiến trúc khá xưa. Cái trống đồng để thờ trong chùa ấy được đặt trên cái giá gỗ trạm và sơn son tại trong cung cấm đình trong, bề kính, 0.85m bề cao 0.58m. Bên cạnh Trống có cái biểu gỗ khắc chữ. Đây là bản dịch của Trần Văn Giáp: “Tại phía Tây tỉnh Thanh Hóa, ở làng Đan nê, huyện Yên Định có ngọn núi Đồng Cổ. Ba ngọn hình ngôi sao cho nên cũng lại gọi là núi Tam thai. Trong thung lũng, gần núi ấy có ngôi đền cổ thờ Thần. Núi mà uy linh đã nổi tiếng là huyền diệu. “Mùa xuân năm Canh Tuất (1790) theo mệnh của đức vua cha, tôi nhậm chức cai quản hạt tỉnh lỵ biên thuỳ này. Trong khi ấy dân miền núi nổi lên khiến tôi phải cầm quân hai lần dẹp giặc. Đi qua hạt này, tôi thường hay nghỉ chân trong đền và tôi có kêu cầu Thần linh. Nhờ quyền năng vô hình, quân cảu tôi tấn công được dễ dàng. Biết có thần linh đã che chở, tôi tra hỏi các bô lão trong làng để được hiểu biết ít nhiều về vị thần cũng như về cái Trống Đồng, nhưng thiếu tài liệu ký chú, tôi không được biết chi hết, thời giai đã nhòa tátcả di tích quá khứ trong ký ức mọi người. “Vào năm Canh Tuất (1800) hai ngày trước ngày hội vào 9 tháng 9 sự tình cờ khiến tôi tìm thấy trên bờ sông phía Nam một cái trống đồng, cao 0.56m và rộng 0.75m, còn nguyên vẹn, công trình khuôn đúc tỉ mỉ công phu nhưng về nguyên lai vẫn mù tịt. “Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1802) trong khi đi giám sát,tôi lại đến bái yết ngôi đền, và khi trở về tôi có ra lệnh cho Quận công Tá trị Trương Hữu Tá và cho Xuân Hoa Nguyễn Xuân cho rước cái trống đồng để dâng cúng cho đền thờ Thần”. (Bản văn viết vào năm Bảo Hưng thứ 2 (1812) của em vua là Đức Tuyên, thanh tra chính trị tỉnh Thanh Hóa, do Trần Đình Hựu khắc viết vào gỗ bởi tay Quán quan sự Hoàng Đình Đồng). Ở trên núi Tam thai nói trên đây còn một tấm bia mới dựng để kỷ niệm ngày vãn cảnh chùa của ông Pierre Pasquier. Lời bia dịch ra như sau: “Trải qua các thế hệ chúng ta đã kính thờ thần Đồng cổ. Tiền nhân truyền lại cho chúng ta biết rằng vào thời Hùng Vương (265 tr.cn) nhà vua có cầm quyền dẹp giặc, và dưới triều vua Lý (1028-1253) để thuần phong mỹ tục nhà vua có lập tòa án để phạt kẻ phạm phép. Sơn Thần Đồng cổ là đệ nhất Thượng đẳng Thần cai quản thế gian và bảo vệ hòa bình, nhân loại. Nhờ những công lao phò trợ ấy mà các Đế vương các triều đại đã ban sắc phong cho Thần. Danh tiếng của Thần được lan truyền từ ba bốn ngàn năm nay, do đấy mà nhân dân sâu lắng chúng tôi đều muốn phụng thờ Thần linh quyền năng siêu việt”. Đấy là nét trọng yếu Thần đạo và Phật đạo, Đình với Chùa hợp nhất dung thông trong tin tưởng vào một nước”Bốn ngàn năm văn hiến” mà nhân dân Việt Nam ngày nay đòi trở về nguồn tổ Hùng Vương để biểu dương tinh thần dân tộc bất diệt vậy. Xem đấy đủ thấy rằng không những ở giới lãnh đạo những người hiền năng “văn hiến” thuộc người phương bắc di cư xuống Việt Nam, lai máu định cư ở đấy lâu năm với người bản xứ, mà còn có cả lớp người bình dân như dòng Việt tộc phương Nam Trung Hoa đã di cư xuống Việt Nam còn giữ những tập tục cổ truyền Văn Lang. © Giáo Sư NGUYỄN ĐĂNG THỤC1 like
-
TIN VUI! TIN VUI ĐẶC BIỆT ĐÂY. Anh chị em Địa Lý Lạc Việt và các nhà hảo tâm chắc còn nhớ sự kiện cháu bé Hoa ở Bắc Giang bị bệnh hiểm nghèo từ nhiếu tháng trước và Địa Lý Lạc Việt đã can thiệp giúp cháu. Mặc dù đến nay, sửa nhà chưa hoàn tất, nhưng bệnh tình của cháu đã rất tiến triển. Dưới đây là thông tin. Đây là tin nhắn trên Fb của tôi. 15:17 Dạ con chào bác! Bác ơi,con là Nga ở gần nhà bé Hoa mà bác cung các anh đã giúp điều trị TS: Uh. Thật tuyệt vời là bé đã có tiến triển khá tốt Phần mông đã ko bị loét TS: Uh. Vậy là tốt lắm. Bé khá hơn nhiều ah TS: Ok Con thay mặt bé cám on bác cùng các anh ạ TS: Ok. Ko có chi. Khi nhà bé hoàn thiện con sẽ chụp ảnh gửi bác ah TS: Oh. Chưa hoàn thiện hả? Sao thế? Và con xin phiền bác một việc được ko ạ? TS: Uh. Cô cứ nói đi/ Nhà bé vẫn đang hoàn thiện ah ...... ======================= Như vậy, mặc dù chưa hoàn thiện hẳn, nhưng Địa Lý Lạc Việt đã chứng tỏ hiệu quả của nó. Hy vọng gia đình cháu Hoa sẽ tiếp tục hoàn thiện nhà theo Địa Lý Lạc Việt dưới sự chỉ đạo của các cao thủ Địa Lý Lạc Việt là Hoàng Triều Hải, Lê Ninh....mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đầu năm mới, Thiên Sứ tôi thay mặt toàn thể anh chị em Địa Lý Lạc Việt và các nhà hảo tâm chúc mọi điều tốt lành đến gia đình cháu Hoa. Mong gia đình cháu nhanh chóng hoàn thiện nhà theo Địa Lý Lạc Việt để nhanh chóng bình phục, sớm bước đến trường.1 like
-
Nhóm nữ gợi cảm Moranbong hủy diễn vì “lời bài hát chống Mỹ” 18/12/2015 18:53 GMT+7 TTO - Một nguồn tin thân cận với cả hai phía Triều Tiên và Trung Quốc tiết lộ nhóm nhạc nữ Moranbong hủy buổi diễn sau khi giới chức Trung Quốc chỉ trích lời ca khúc của họ là “chống lại Mỹ”, Hãng tin Reuters cho hay hôm 18-12. Các thành viên trong nhóm nhạc Moranbong. Ảnh: Reuters Theo kế hoạch, nhóm nhạc Moranbong sẽ biểu diễn trong chương trình hôm 12-12 tại Nhà hát lớn quốc gia ở Bắc Kinh nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nước Trung Quốc và Triều Tiên. Tuy nhiên, các thành viên của nhóm này bất ngờ rời khỏi sân bay Bắc Kinh và quay về Bình Nhưỡng chỉ vài giờ trước khi chương trình văn nghệ mà họ dự kiến tham gia chính thức diễn ra. Nguồn tin nói với Reuters rằng bộ phận kiểm duyệt nội dung tại Trung Quốc đã không chấp thuận cho các cô gái biểu diễn bài hát trong đó có đoạn miêu tả Mỹ là “con sói tham vọng”, đồng thời tôn vinh cuộc chiến tranh năm 1950-53. “Trung Quốc không yêu cầu đổi lời bài hát, nhưng bên phía kiểm duyệt lại không chấp thuận cho biểu diễn”, người này nói và yêu cầu được giấu tên vì tính chất tế nhị của vấn đề. “Quan điểm của Trung Quốc là bài hát đó sẽ làm phật lòng nước Mỹ một cách không cần thiết”. Nguồn tin cũng nói thêm rằng khi giới chức Trung Quốc không phê duyệt lời bài hát, nhóm Moranbong lên tiếng phản đối, không chịu đổi lời và quay về Bình Nhưỡng sau khi đã tham vấn trực tiếp với Chủ tịch Kim Jong Un. Các thành viên của nhóm nhạc do chính Chủ tịch Kim Jong-Un chọn lựa. Ảnh: soompi Cho đến nay, phía Triều Tiên vẫn chưa đưa ra bất cứ bình luận nào về hành động của nhóm nhạc nữ. Thành lập năm 2012, Moranbong là một trong những nhóm nhạc nổi tiếng nhất tại Triều Tiên, với khả năng chơi nhiều loại nhạc cụ, trong đó có violon điện. Các thành viên của nhóm nhạc do chính Chủ tịch Kim Jong-Un chọn lựa và thường xuyên biểu diễn phục vụ Chủ tịch Kim cùng các quan chức Triều Tiên. Buổi diễn dự kiến ở Trung Quốc là lần đầu tiên nhóm nhạc Moranbong ra nước ngoài trình diễn. Rất tiếc buổi diễn lại bị hủy giờ chót. Trang Tân Hoa Xã hôm 13-12 cho biết nguyên nhân là vì “các vấn đề về giao tiếp trong quá trình làm việc”. Thành lập năm 2012, Moranbong là một trong những nhóm nhạc nổi tiếng nhất tại Triều Tiên. *Moranbong: nhóm nhạc nữ gợi cảm do Kim Jong-Un thành lập BÌNH MINH (Theo Reuters) ============================ Lại một chiêu trò mới của Tàu, muốn tỏ vẻ ta đây thân thiện với Mỹ. Điếu mựa! Ngay cả cái ban nhạc này đứng trước cửa Nhà Trắng hát bài này, có khi ngài Obama còn ra xem và vỗ tay, mặc dù ông ta không vừa lòng về nội dung. Ngay cả ông Uông Dương phó chủ tịch Trung Quốc, tuyên bố ủng hộ Hoa Kỳ là bá chủ thế giới, mà còn chưa ăn thua, huống chi chỉ là cản trở một bài hát chống Mỹ. Muốn Hoa Kỳ hài lòng vì tính hữu nghị Trung Mỹ thì không phải cấm ban nhạc này hát bài chống Mỹ. Híc. Đúng là vớ vẩn thật. Một tầm nhìn chính trị rất tiểu tiết.1 like
-
Hé lộ những loại vũ khí không gian tuyệt mật của Trung Quốc Thứ sáu, 18/12/2015 - 20:00 Lầu Năm Góc từng tuyên bố: "Trung Quốc đang sở hữu chương trình không gian chín muồi nhanh nhất thế giới". >> Lo ngại Trung Quốc, Mỹ - Nhật tăng cường giám sát hàng hải từ trong không gian >> "Chiến tranh Lạnh" ngoài không gian giữa Mỹ-Trung-Nga Tuy vậy, bản chất của những sự phát triển đang khiến nhiều chuyên gia đặt câu hỏi hoài nghi rằng ý định thực sự mà chính quyền Trung Quốc đang triển khai trên vũ trụ là gì? Một trong những vấn đề then chốt là những thí nghiệm của Trung Quốc với các vũ khí không gian. Trung Quốc đã từng thử nghiệm một vài vũ khí dạng này. Mỹ tỏ ra quan ngại về việc Chính phủ Trung Quốc đang "tiếp tục phát triển các công nghệ không gian hủy diệt" và có thể "đe dọa nền hòa bình vũ trụ cho tất cả các quốc gia khác", dẫn thông cáo thường niên năm 2015 của Lầu Năm Góc đối với "Những phát triển an ninh và quân sự của Chính phủ Trung Quốc". Những chương trình này đang đặc biệt gây lo ngại cho phía Mỹ. Một phần quan trọng của sức mạnh quân sự hiện đại dựa trên các vệ tinh - từ định vị vệ tinh toàn cầu (GPS) và thông tin liên lạc cho đến các hệ thống cảnh báo sớm. Sự phát triển vũ khí của Trung Quốc tập trung vào việc vô hiệu hóa hoặc hủy diệt các vệ tinh - theo báo cáo của Lầu Năm Góc, là "không phù hợp với các tuyên bố công khai của Trung Quốc về việc sử dụng vũ trụ vì các mục đích hòa bình". Tên lửa mang theo tàu thăm dò mặt trăng được phóng đi từ Trung tâm phóng vệ tinh Tây Xương (Tứ Xuyên) vào ngày 2-12-2013. Chính phủ Trung Quốc đang phát triển các loại vũ khí hủy diệt hoặc vô hiệu hóa vệ tinh. Những thử nghiệm khét tiếng nhất đã được diễn ra vào tháng Giêng năm 2007 khi Chính phủ Trung Quốc phóng một tên lửa và hủy diệt một trong các vệ tinh của họ. Tuy nhiên, hôm nay, các vũ khí không gian đã vượt xa ranh giới tên lửa bao gồm những loại vũ khí năng lượng và thiết bị làm nhiễu vệ tinh. Thêm nữa là chương trình vũ khí không gian thật sự đang gây mối ngờ vực, các báo cáo hàn lâm quân sự của Trung Quốc thường công bố trấn an đại loại như "không có bất kỳ chương trình chống vệ tinh bổ sung đã được thừa nhận công khai". Tuy vậy, trong các tài liệu quân sự thì "nhấn mạnh về sự cần thiết phải hủy hoại, phá hỏng và can thiệp vào các vệ tinh thông tin và trinh sát của đối phương". Thông cáo thường niên của Trung Quốc chỉ rõ "Chính phủ Trung Quốc có thể nhắm mục tiêu chuyển hướng và các vệ tinh cảnh báo sớm, các chương trình được thiết kế để "làm mù và điếc đối phương"". Suy nghĩ của chính quyền Trung Quốc có thể nói trắng ra là hủy diệt hoặc bắt giữ các vệ tinh cũng như những thiết bị cảm biến khác, nhằm "làm kiệt quệ" một đối thủ chủ động trên chiến trường cũng như gây khó khăn cho họ khi triển khai hiệu quả các loại vũ khí dẫn đường chính xác". Trong khi giới chuyên gia quốc phòng lên tiếng cảnh báo về sự phát triển vũ khí không gian của Trung Quốc trong các năm qua, thì vấn đề mấu chốt ở đây là tin tức chính thống. Bộ chỉ huy không gian Mỹ (AFSC) gần đây đã phá vỡ sự im lặng bằng việc công chiếu một tập tài liệu trong chương trình "60 phút" vào ngày 26-4-2015, trong đó giới chức quân sự cao cấp của Mỹ lên tiếng cảnh báo các vũ khí chống vệ tinh của Trung Quốc, và tuyên bố rằng Chính phủ Trung Quốc là một mối đe dọa quân sự. Ông William Triplett, cựu trưởng cố vấn của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ (SFRC), là một chuyên gia về an ninh quốc gia, đã phát biểu với hãng tin Epoch Times trong một cuộc phỏng vấn trước đó rằng: "Sự phát triển quan trọng hơn là sự hiện diện của nó. Có khi nào đó, vào phút cuối, chính quyền Mỹ ra phát biểu khẳng khái mà rằng Trung Quốc là một mối đe dọa quân sự. Tôi cho rằng phát biểu này là điều hiển nhiên". Một nhân viên bảo vệ đang đứng cạnh mô hình các loại tên lửa được trưng bày tại Bắc Kinh vào ngày 24-9-2013. Trong khi đó chỉ vài tuần trước khi chiếu chương trình "60 phút", vào ngày 14-4-2015, Trung tướng Jay Raymond của AFSC đã lên tiếng cảnh báo rằng chương trình chiến tranh không gian của Chính phủ Trung Quốc - như là một phần của Hội nghị không gian ở Colorado Springs, "Chẳng chóng thì chầy, các vệ tinh trong quỹ đạo sẽ bị thu giữ hết. Điều tôi muốn nhấn mạnh là chương trình chống vệ tinh (ASAT) đang thật sự là mối đe dọa. Tôi khẳng định đây là đề tài nóng". Một trong những lý do chủ chốt lý giải tại sao các chương trình chống vệ tinh của Trung Quốc khiến gây quan ngại sâu sắc cho giới chức Mỹ, chính là Mỹ đang đặt mục tiêu chống lại những chương trình này. Chính quyền Trung Quốc phân loại những loại vũ khí chống vệ tinh là 2 loại ít được biết đến nhất, gồm "Chùy ám sát" và "Lá bài Trump". Một báo cáo từ Trung tâm tình báo mặt đất quốc gia Mỹ (NGIC) được giải mật vào năm 2011 có đoạn "Những loại vũ khí hiện đại (2 loại tối mật) sẽ cho phép lực lượng công nghệ thấp của Trung Quốc làm chủ trước lực lượng công nghệ cao của Mỹ trong một cuộc xung đột cục bộ...". Phía Mỹ đặt giả thuyết rằng, trong trường hợp các vũ khí chống vệ tinh sẽ cho phép Trung Quốc vô hiệu hóa các hệ thống vũ khí công nghệ cao của Mỹ mà quân đội Mỹ không thể "đánh hơi" được, sân chơi sẽ được san bằng. Theo Nguyễn Thanh Hải (tổng hợp) Cảnh sát toàn cầu ========================= Bởi vậy, bể Đông chỉ là cái cớ thui. Một cái cớ chính đáng với Hoa Kỳ. Lão đã nói lâu rồi. Cuối năm tới, mọi chuyện liên quan đến bề Đông sẽ rõ ràng và không còn cần khả năng tiên tri. Cho nên, sau 10/ 3 Bính Thân, nếu những cố gắng cuối cùng của lão Gàn nhằm xác định cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến không có những tín hiệu tích cực, theo những tiêu chí của tri thức khoa học hiện đại, như: Hội thảo, tranh luận công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, sách vở in ấn liên quan.... để đi đến chính thức được công nhận, thì lão sẽ cáo lỗi với tổ tiên để "tập hợp lớn nhất trong tất cả mọi tập hợp và không có một tập hợp nào lớn hơn nó" quyết định vấn đề. Lúc ấy sẽ không còn cơ hội để đối thoại nhân danh khoa học. Híc! Nhà tiên tri Vanga nói - Đại ý: "Cái đáng sợ nhất không phải cái hữu hình. Mà là cái vô hình". Cái vô hình nói theo khoa học hiện đại là "vật chất tối" đấy. Vừa rồi báo đăng Tàu mới phóng vệ tinh để khám phá vật chất tối trong vũ trụ. Điếu mựa! Thật là chuyện bi hài, còn tệ hơn với việc đi tìm "Hạt của Chúa". Chỉ có những đám dốt nát - "Dở hơi, nhưng biết bơi" - mới phung phí tiền bạc vào việc vô bổ như vậy. Vậy mà cũng xưng xưng là chủ nhân của Lý học Đông phương.1 like
-
Từ trước đến nay, hầu hết mọi người đều coi phong thủy là của người Trung Hoa. Nhưng ít ra đến ngày hôm nay, trên trang Thư viện mở vi.wikipedia.org đã có một câu cân bằng sinh thái trong nhận thức như sau: https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_th%E1%BB%A7y Kể ra thì cũng có tiến bộ chút đỉnh. Nhưng lão Gàn xác định: Địa Lý Lạc Việt - danh xưng chính thức của ngành phong thủy, nhân danh nền văn hiến Việt - không phải là một trường phái. Xin đừng hiểu nhầm như vậy. Mà là sự khẳng định cội nguồn phong thủy nói riêng và toàn bộ nền Lý học Đông phương nói chung thuộc về nền văn hiến Việt, trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử.1 like