• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/11/2015 in Bài viết

  1. Cá nhân tôi không hề nhìn thấy ở ông này là một con người nói thẳng nói thật. Tôi chỉ nhìn thấy sau những lời lẽ của ông ta là một tâm địa dối trá. Đó là kết luận của tôi với ông này và với tất cả những kẻ trong "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 văn hiến". Họ không có một lời nào nhắc tới cội nguồn Việt sử bị chính họ phủ nhận. Cho nên những lời lẽ của họ không đủ tư cách, gỉa tạo và bịp bợm. Cái bịp bợm của ông này là trích dẫn thơ của Hồ Chủ tịch, nhưng không dám trích 4 câu tiếp theo xác định cội nguồn Việt sử trải gần 5000 văn hiến, cái dối trá nó nằm ở chỗ tỏ ra thống thiết với sử, nhưng không nhắc tới cội nguồn Việt sử bị phủ nhận. Chẳng qua thấy số đông lên tiếng thì hùa theo thể hiện. Tốt nhất tôi khuyên các vị hãy dẹp bớt những thông tin không hoàn chỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng. "Tích hợp môn sử sẽ là một thảm họa khôn lường" - nghe Phó giáo sư tiến sĩ Phạm Quốc Sử nhận xét thấy mà phát khiếp! Nhưng xóa bỏ toàn bộ cội nguồn lịch sử và là lòng tự hào dân tộc trải gần 5000 văn hiến thì sẽ làm sao? Bởi vậy dối trá, bịp bợm là vậy!
    4 likes
  2. VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ TÍCH HỢP MÔN SỬ Rất nhiều vị lên tiếng về tích hợp môn Sử, từ những giáo viên dạy trường phổ thông cho tới cả giáo sư tiến sĩ, các quan chức. Ý kiến của họ rất nhiều chiều và đa dang. Toàn những từ đao to búa lớn, hoặc lâm lý bi bét, thống thiết bùi ngùi.....Lão Gàn trước khi bình lựng về cái việc này, xin đưa lên vài đường link làm ví dụ, chứ không phải nó là điển hình để quý vị và anh chị em tham khảo: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GSDao-Trong-Thi-Day-tich-hop-nhung-khong-the-mu-quang-post163586.gd http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Nhieu-thay-co-o-Nghe-An-khong-nghi-Le-ban-chuyen-cuu-mon-Lich-su-post163566.gd http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/GSMach-Quang-Thang-neu-hai-dieu-tat-yeu-cua-mon-Lich-su-post163536.gd http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/hoi-nghi-dien-hong-truoc-nguy-co-mon-lich-su-bi-xoa-so-3312471.html http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/pgs-nghiem-dinh-vy-khong-nuoc-nao-tich-hop-lich-su-nhu-viet-nam-3315517.html Thưa quý vị và anh chị em. Trên đây chỉ là 5 bài làm ví dụ và tôi cũng xin được lặp lại là không phải tôi chọn 5 bài trên làm điển hình thay mặt cho hàng trăm bài đang làm ồn ào trên mạng "oanh tạc nét" các thể loại về vấn đề này. Ý kiến rất nhiều chiều, khai thác nhiều khía cạnh. Không chỉ "ý kiến quần chúng" là những giáo viên trực tiếp giảng day, còn cả những trí thức khoa bảng, luôn luôn có một chức danh, học vi đứng trước tên tuổi để bảo đảm ý kiến đáng được tôn trọng.....Cũng có cả những quan chức nghỉ hưu, hoặc đương nhiệm liên quan bình luận về sự kiện này.... Nhưng nói chung có thể thấy rõ xu hướng phản đối là chính. Cá nhân tôi thì không có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Các con tôi học xong Đại học cả rồi, chỉ có thằng cháu nội đang học lớp Mầm, khiến tôi phải quan tâm đến nền giáo dục nước nhà. Vì tương lai của cháu nội chúng ta - Í lộn - của tôi thôi. Tôi xin hỏi tất cả những quý vị phản đối với những lời lẽ lâm ly bi bét và thống thiết đầy cảm động, hay rất hàn lâm rằng: Nếu bây giờ BGD đồng ý ý kiến với quý vị phản đối thì mọi việc vẫn "Vũ Như Cẩn" chăng? Tức là đã có kỳ thi Sử chỉ có ...1 thí sinh cho cả một hội đồng thi và "giấy bài thi môn Sử trắng xóa sân trường" chăng? Trường hợp kéo dài bao nhiêu năm như vậy, quý vị thấy có cần phải đổi mới, cải cách không? Tích hợp, hay không tích hợp thì nó vẫn chỉ là phương pháp truyền đạt. Các vị đang khai thác những tiểu tiết nằm trong một tập hợp theo kiểu "thầy bói xem voi'. Vấn đề cốt lõi mà quý vị than van về tầm quan trọng của môn Sử là "nội dung truyền đạt" thì lại chẳng ai bàn tới. Về vần đề này, cá nhân tôi và nhiều học giả trong ngoài nước đã xác định cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử. Nhưng có thể nói: Về nội dung cội nguồn Việt sử thì tất cả các vị phát biểu hăng hái với chức danh ồn ào như trên, đều ....phớt lờ. Tôi xác định - từ năm 2006, và khẳng định lại, rằng: nếu chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương (Chính là nội hàm của khái niệm danh xưng văn hiến) chưa được sáng tỏ thì xin lỗi quý vị: Tất cả mọi cố gắng của quý vị đều vô ích. Tôi sẽ có những cố gắng cuối cùng trong việc vinh danh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, hy vọng những ai quan tâm đến cội nguồn Việt sử sẽ ủng hộ cố gắng này một cách sòng phẳng, minh bạch, đúng tinh thần khoa học. Tôi hy vọng những vị có những lời lẽ thống thiết về lịch sử nước nhà sẽ ủng hộ những cố gắng tìm về cội nguồn dân tộc của tôi, cho dù quan điểm của quý vị thuộc về "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Khoa học chân chính không phải là sự áp đặt và tính cố chấp.
    4 likes
  3. Đức Phật nói 8.4000 Pháp môn là có "cơ sở khoa học" đấy. Ngài mô tả nhiều con đường tu tập để đi đến giải thoát. Nói theo khoa học hiện đại là nhiều phương pháp để đạt tới mục đích. Nhưng Đức Phật cũng khẳng định rằng: "Phật pháp của ta chỉ có một vị là vị giải thoát". Nhiều phương pháp để đi đến mục đích = hình tượng 8. 400 pháp môn. Nhưng mục đích cuối cùng là "giải thoát". Đấy là chân lý cuối cùng theo Phật pháp. chân lý chỉ có một - nên với Pháp của Đức Phật thì giải thoát là chân lý tuyệt đối. Ông Thích Nhật Từ giỏi, kiến thức rộng. Nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Nếu ông ta nói ra là luôn luôn đúng thì chính ông ta là chân lý tuyệt đối. Điều này không có "cơ sở khoa học".
    2 likes
  4. Bài này thiếu một câu rất quan trọng. Đó là câu của ông Võ Điện Biên nói với báo chí, đã thông tin trên mạng. Đó là câu: "Mộ cha tôi chôn theo hướng Tây Bắc Đông Nam, tức chôn theo truyền thống của các triều đại phong kiến Việt Nam". Đây cũng là khí mạch chính của tổ long nước Việt hiện nay. Đây cũng là hướng Phúc Đức trạch của Địa Lý Lạc Việt - dành cho người Tây Trạch. Theo phong thủy Tàu, người Tây Trạch không có hướng Phúc Đức Trạch, mà chỉ có Sinh khí trạch - nhưng bị sai - đó là hướng Đông Bắc Tây Nam. Thực ra hướng Đông Bắc Tây Nam là Tuyệt Mạng trạch theo Địa Lý Lạc Việt. Đây chính là hướng mộ của Chú Hỏa và dòng họ này đã ly tán suy kiệt, sau khi ông này chôn theo hướng đó. Người viết bài trên có lẽ theo phong thủy Tàu và chưa đến thực địa đo đạc, nên cho rằng mộ Đại Tướng chôn theo hướng Bắc Nam (Bài viết về mộ chú Hỏa đã đăng trên diễn đàn).
    2 likes
  5. Bài diễn thuyết khiến cả Trung Quốc chấn động Thứ ba, 24/11/2015, 07:00 (GMT+7) (Quốc tế) - “Lời của Lưu Á Châu có thể làm nhiều người không thoải mái, nhưng con người chỉ nghe lời hay ý đẹp sẽ không thể thức tỉnh được. Bài phát biểu của Lưu chính là một tiếng nói khác.” LTS: Những ngày vừa qua, Nga và Pháp ngay lập tức gia tăng cường độ chiến dịch không kích nhằm vào tổ chức khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) tại Syria, sau các vụ khủng bố nhằm vào máy bay Nga và các vụ tấn công đẫm máu ở Paris. Trong khi đó, hành động của Trung Quốc – quốc gia có 1 công dân vừa bị IS hành quyết và 3 công dân khác thiệt mạng trong vụ khủng bố Mali hôm 20/11 vừa qua – vẫn chỉ dừng lại ở tuyên bố “tăng cường hợp tác với quốc tế”. Chính phủ Trung Quốc né tránh trả lời vấn đề này, trong khi truyền thông lý giải nguyên nhân là do sự khác biệt giữa những giá trị cốt lõi về lợi ích quốc gia mà Bắc Kinh cần “cân, đo, đong, đếm” nếu tham chiến. Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu tới quý độc giả bài diễn thuyết của của Thượng tướng Lưu Á Châu – Chính ủy ĐH Quốc phòng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc – phân tích cách thức mà xã hội Trung Quốc phản ứng với 1 sự kiện khủng bố phương Tây, cụ thể là vụ 11/9. Bài diễn thuyết tướng Lưu nói tại căn cứ quân sự Côn Minh ngày 10/5/2010 (thời điểm ông vẫn mang hàm Trung tướng) và được truyền thông Trung Quốc cũng như quốc tế đánh giá là “chấn động”. Dưới đây, chúng tôi xin trích đăng bài diễn thuyết trên. — Tín niệm và đạo đức Tôi là người kế thừa văn hóa Trung Quốc, cũng là người phê phán văn hóa Trung Quốc. Trong quá khứ, trước hết tôi là người kế thừa văn hóa Trung Quốc, sau đó mới là người phê phán. Hiện tại, tôi là người phê phán, sau mới là người kế thừa văn hóa Trung Quốc. Lịch sử phương Tây là quá trình “bỏ ác theo thiện”. Lịch sử Trung Quốc lại là quá trình “bỏ thiện theo ác”. Phương Tây cổ đại cấm đủ điều, chỉ có bản năng con người là không cấm. Trung Quốc cái gì cũng không cấm, chỉ cấm bản năng của con người. Người phương Tây dám thể hiện chính mình và tư tưởng cá nhân, cũng dám “khoe” bản thân lõa thể. Người Trung Quốc chỉ biết “mặc quần áo”. “Mặc quần áo” cho tư tưởng. Mặc quần áo dù sao cũng dễ hơn cởi quần áo. Hegel nói: “Trung Quốc không có triết học.” Tôi nhận định Trung Quốc hàng ngàn năm qua chưa từng sinh ra tư tưởng gia. Tư tưởng gia mà tôi nói tới, là những người có cống hiến trọng đại cho tiến trình văn minh nhân loại như Hegel, Socrates, Plato… Lão Đam (Lão Tử) có phải là tư tưởng gia hay không? Chỉ dựa vào cuốn “Đạo đức kinh” 5.000 chữ có thể trở thành tư tưởng gia được không? Chưa kể tới “Đạo đức kinh” có vấn đề. Khổng Tử có thể xem là tư tưởng gia chăng? Hậu nhân chúng ta “kiểm duyệt” ông thế nào? Tác phẩm của ông chưa từng cung cấp cho người Trung Quốc một thể hệ giá trị quan về nội tâm có thể đối kháng được quyền lực thế tục. Cái ông đem lại là “tất cả xoay vòng quanh quyền lực”. Nếu như Nho học là tôn giáo, thì đó là “ngụy tôn giáo”; nếu là tín ngưỡng, thì đó là “ngụy tín ngưỡng”; còn nếu là triết học, thì đó là triết học của xã hội bị “quan trường hóa”. Xét từ ý nghĩa này, Nho học là có tội đối với người Trung Quốc. Trung Quốc không thể có tư tưởng gia mà chỉ có chiến lược gia. Xã hội Trung Quốc là một xã hội binh pháp. Dân tộc của chúng ta chỉ tôn sùng chiến lược gia. Một nhân vật có sự nghiệp chẳng mấy thành công như Gia Cát Lượng lại được người ta hoài niệm. Ông không có hùng tâm tráng chí, dùng người cũng không đúng đắn. Có tư liệu còn chỉ rõ ông là kẻ lộng quyền. Nhưng một người như thế lại được nâng lên tầm cao đáng giật mình. Đây cũng là một kiểu phản ánh tâm linh của dân tộc chúng ta. Trong một hình thái xã hội như thế, có 3 loại hành vi trở nên phổ biến: 1. Ngụy biện Con trai tôi năm nay (2010-PV) thi đỗ vào khoa báo chí một trường đại học. Khoa này là một trong những khoa báo chí xuất sắc nhất ở Trung Quốc. Tôi bèn bảo con trai đưa giáo trình để tôi xem. Xem xong tôi nói, thứ này không đáng để đọc. Trong giáo trình có một khẳng định: Trung Quốc phát minh ra thuốc súng. Sau khi thuốc súng truyền tới châu Âu đã “phá vỡ những thành trì phong kiến thời Trung cổ” ở châu Âu. Thật là nực cười, anh phát minh ra thuốc súng đi phá vỡ “thành trì phong kiến” của người ta, vậy thành trì của chính anh tại sao không bị phá? Ngược lại còn kiên cố hơn? Khi thảo luận vấn đề Đài Loan tại ĐH Quốc phòng, có một quan điểm khá “ăn khách”: Đài Loan là một “chiếc khóa”. Nếu không giải quyết được vấn đề Đài Loan thì “chiếc khóa” sẽ chặn “cửa lớn” của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không có đường ra biển lớn. Quan điểm này là ngụy biện. Tôi có thể phản bác lại trong một câu. Tây Ban Nha sau khi trở thành cường quốc trên biển đã không hề chặn nước láng giềng Bồ Đào Nha cũng trở thành cường quốc đại dương. Eo biển Dover (Calais), Pháp chỉ cách lãnh thổ nước Anh 28 hải lý, Anh có ngăn cản Pháp trở thành cường quốc trên biển hay không? Mấu chốt khiến Trung Quốc mất đi đại dương chính là các thế hệ thống trị trong lịch sử không có quan niệm “hải quyền”. 2. Đối ngoại mềm mỏng, đối nội tàn nhẫn Văn minh châu Âu và văn minh Trung Quốc gần như cất bước cùng nhau, nhưng châu Âu hình thành nhiều quốc gia nhỏ, trong khi Trung Quốc hình thành một đại đế quốc thống nhất. Nói tới điều này, chúng ta thường cảm thấy vui mừng. Kỳ thực, việc châu Âu hình thành nhiều quốc gia chính là một cách thể hiện lục địa này có tự do tư tưởng. Mặc dù bọn họ chia thành nhiều nước nhỏ, nhưng, ít nhiều những gì có liên quan tới văn minh nhân loại đã được sinh ra từ chính những quốc gia tách rời này. Còn chúng ta làm được gì cho văn minh thế giới? Thống nhất giang sơn chắc chắn có liên hệ tất yếu với thống nhất tư tưởng. Xã hội chiến lược là xã hội mang tính hướng nội. Tôi từng nghiên cứu kỹ lưỡng những khác biệt giữa Mỹ-Trung: Trung Quốc ở các sự vụ quốc tế về cơ bản là mềm mỏng, đối với sự vụ trong nước thì cứng rắn. Nước Mỹ ngược lại, cứng rắn trong lĩnh vực sự vụ quốc tế, mềm mỏng ở các vấn đề quốc nội. Tôi không nhớ tôi đọc được vấn đề này trong cuốn sách nào, nhưng có một kết luận: Đó là do bất đồng văn hóa quyết định. Văn hóa Trung Quốc là khép kín, hướng nội; văn hóa Mỹ là cởi mở, hướng ngoại. Quan niệm “nhất thống” cũng là một tư tưởng theo kiểu hướng nội. Điều này giải thích vì sao chúng ta là “cừu” trước các thế lực ngoại xâm, nhưng lại là “sói” trước chính đồng bào của mình. […] Người Trung Quốc muốn dân mình đánh mình, đó mới gọi là dũng mãnh! 3. Thấp hèn, thô tục Tinh thần thấp hèn tất dẫn đến hành vi thấp hèn. Tinh thần cao quý sẽ đưa tới hành vi cao quý. Khoảng 20 năm trước, ở khu tập thể tôi sống phát sinh một chuyện thế này: Một đôi vợ chồng đòi ly hôn. Ông chồng đưa “tình mới” về nhà, cãi cọ ầm ĩ. Bà vợ chạy lên nóc nhà định nhảy xuống. Người vây xung quanh đứng xem rất đông. Có người hào hứng hét lên: “Nhảy đi! Nhảy đi!” Sau đó bà vợ được cảnh sát cứu xuống, những người xem thậm chí còn thấy tiếc nuối. Tôi thở dài trở về nhà, bật tivi xem. Truyền hình đang phát một câu chuyện ở châu Âu. Tại nước nào đó, tôi nhớ mang máng là Hungary, 70 năm trước có một thợ mỏ trẻ tuổi chuẩn bị làm đám cưới. Lần cuối cùng người này xuống mỏ trước hôn lễ, tai nạn sập hầm xảy ra khiến anh ra đi mãi mãi. Cô dâu không tin người mình yêu đã ra đi nên mỏi mòn chờ đợi suốt 70 năm. Gần đây người ta tu sửa lại hầm mỏ đã phát hiện ra một thi thể chính là chú rể khi trước. Do trong hầm không có không khí, thi thể chú rể lại ngâm trong nước chứa khoáng chất nên vẫn giữa được sự trẻ trung như 70 năm trước. Còn cô dâu khi ấy đã trở thành một bà lão tóc bạc trắng. Bà ôm thi thể người yêu khóc thảm thiết và đưa ra quyết định tiếp tục hoàn thành hôn lễ. Đó là một cảnh tượng chấn động lòng người: Tân nương 80 tuổi trong bộ váy cưới trang trọng màu trắng, tóc bà cũng trắng như tuyết. Người yêu của bà, vẫn trẻ trung như vậy, được đặt nằm trong cỗ xe ngựa. Hôn lễ và tang lễ cử hành đồng thời, khiến bao người phải rơi nước mắt. Sự kiện dễ dàng khảo nghiệm tiêu chuẩn đạo đức của dân tộc chúng ta nhất chính là sự kiện 11/9 ở Mỹ. Vụ 11/9 dù không thay đổi thế giới, nhưng đã thay đổi nước Mỹ. Đồng thời, thế giới cũng rất khó quay trở về thời điểm “trước 11/9″. Khi vụ khủng bố trên xảy ra, ở đất nước chúng ta, ít nhất là trong một khoảng thời gian, một bầu không khí “kém lành mạnh” lan tỏa khắp nơi. Tối 12/9, có người gọi điện cho tôi nói rằng, sinh viên trường ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa đang “khua chiêng gõ trống”. Tôi nói đội tuyển bóng đá Trung Quốc ngày 7/10 mới thi đấu. Đó là trận cuối cùng gặp Các tiểu vương quốc Ả-Rập thống nhất (UAE), nếu thắng sẽ lọt vào vòng chung kết World Cup. Một lúc sau tôi mới biết thì ra các sinh viên Trung Quốc đang ăn mừng tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) tại Manhattan bị máy bay khủng bố đâm vào. Trung Quốc có một đoàn đại biểu nhà báo, khi ấy đang làm việc tại Mỹ. Khi nhìn thấy tháp đôi bị đâm trúng, nhóm ký giả này không đừng được đã vỗ tay hoan hô. Đây là một dạng thẩm thấu văn hóa. Không thể chỉ trích bọn họ vì hành động như vậy, bởi bản thân họ đã không thể tự kiểm soát được bản thân nữa. Kết quả nhóm này bị Mỹ tuyên bố “vĩnh viễn không hoan nghênh”. Tôi ở Không quân Bắc Kinh, mấy ngày ấy có nhiều người trong bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi cách nhìn của họ về sự kiện 11/9. Tất cả đều nói: “Nổ rất hay”. Về sau tôi mới nói, đó là điều đáng buồn. Nếu những người như thế yêu Trung Quốc, vậy Trung Quốc còn cứu được không? Truyền thông thì không cần nhắc tới, vì nơi không có thời sự nhất ở Trung Quốc chính là trên mặt báo. Năm 1997, công nương Diana qua đời trong vụ tai nạn giao thông. Bạn không cần biết Diana là người thế nào, Hoàng gia Anh ra sao, nhưng chí ít nhân vật này có “giá trị thời sự”. Các tờ báo lớn trên thế giới đều đăng thông tin đó trên trang nhất, chỉ có báo Trung Quốc không đăng. Ngày hôm đó, dòng tít lớn nhất trên báo chí Trung Quốc là “Các trường trung học, tiểu học ở Bắc Kinh khai giảng”. Bài báo này chẳng khác đưa tin “Ngày hôm nay người dân Bắc Kinh ăn cơm” là mấy, giá trị chỉ có vậy. Tối ngày thứ hai sau vụ 11/9, tôi xem chuyên mục “Phỏng vấn tiêu điểm” trên truyền hình với hy vọng được nghe một số bình luận về sự kiện này. Kết cục, chương trình tối hôm đó nói về… tăng cường tự thân xây dựng chi bộ đảng ở nông thôn như thế nào. Anh muốn xem gì? Đều không có. Cái anh không muốn nghe thì nhất định nói cho anh nghe. “Những cái miệng quốc gia” (các MC nổi tiếng-PV) đương nhiên không có tội tình gì. Bao người thiệt mạng trong vụ 11/9 đều là vô tội. Thứ mất đi là sinh mạng, điều tôn nghiêm nhất trên thế giới. Bản thân những sinh mạng này không liên quan gì tới chính phủ Mỹ. Chúng ta đối đãi với người khác bằng thái độ như vậy, nhưng người ta không dùng thái độ đó đối xử với chúng ta. Đối chiếu rõ ràng nhất chính là vụ thảm án Dover. Năm đó, một nhóm người Phúc Kiến trốn trong xe chở động vật từ eo biển Dover vượt biên vào Anh. Do bị thiếu không khí vì phải ở trong xe kín vài chục giờ đồng hồ, đa số đều bị ngạt chết, chỉ còn 2 người sống sót. Sau khi vụ việc bung bét, Đại sứ quán Trung Quốc không có lấy một người ra mặt. Cuối cùng, người dân Anh ở Dover phải đứng ra cử hành đám tang và truy điệu những người thiệt mạng. Rất nhiều trẻ em đã tới tham gia, trong tay chúng cầm đồ chơi do Trung Quốc sản xuất. Nhân tiện nhắc tới, trên thế giới hiện nay có tới 90% đồ chơi là “Made in China”. Phóng viên hỏi các em nhỏ: “Vì sao tới tham gia lễ truy điệu?”, đám trẻ trả lời rằng: “Vì bọn họ cũng là người, đồ chơi mà chúng cháu cầm trong tay có thể do một trong số họ góp phần làm ra”. Trong cả lễ truy điệu ấy không có một người Trung Quốc nào. Thế nào gọi là văn minh, thế nào là không văn minh? Tôi vẫn đang suy nghĩ. Hình ảnh trong vụ khủng bố New York 11/9/2001 Khen ngợi khủng bố mới thực sự là khủng bố Văn hóa Trung Quốc giáo dục ra người Trung Quốc. Đầu tiên, xem nhẹ tính mạng của bản thân thì mới coi người khác và tính mạng của họ như trò đùa. Tự thân không có quyền lực để quý trọng sinh mạng của mình, cũng không cho phép người khác có. Lỗ Tấn từng phê phán tâm thái bàng quan cũng được “luyện” thành từ đó. Người Trung Quốc thấy người khác bị giết, không ai không hào hứng kích động. Giai cấp thống trị cũng cố tình đưa người ra giữa đám đông để hành hình. Giai cấp bị trị thì hưởng thụ cảm giác “hưng phấn” của nhà thống trị trong đám đông. Đặc biệt là khi phạm nhân bị xử tử bằng lăng trì, người xem đông “như rừng như biển” suốt 3 ngày 3 đêm. Ngay cả quán sá cũng mang ra đó mở hàng, đao phủ tay còn nhuốm máu vẫn cầm bánh bao rao bán. Ngày nay không còn lăng trì nữa, nhưng thói quen “xét xử giữa công chúng” vẫn còn. Ngày xưa người dân đi xem xử tử Đàm Tự Đồng và nhóm Lục quân tử (sự kiện Mậu Tuất biến pháp 1898-PV) như trẩy hội thì làm sao trận Giáp Ngọ (1894) không thất bại? Còn hậu duệ của bọn họ thì thế nào? […] Anh thực hiện được “4 hiện đại hóa” thì có tác dụng gì? Buổi sáng tôi thường xem tivi trong khi tập thể dục. Sản phẩm “chạy” nhất trong tiết mục quảng cáo của Thời sự Buổi sáng là gì? Cửa chống trộm. Đó là bi kịch của một dân tộc. Chúng ta sống như ở trong lồng. Khi tôi sống tại Thành Đô thì ở trong căn hộ của mấy đời Chính ủy Không quân trước đó. Vừa vào nhà nhìn qua thì, trời ơi, như ở trong ngục vậy! Cửa sổ và ban công đều được lắp các tấm lưới chống trộm. Tôi cho bỏ hết. Gần đây có một cuốn sách tiêu đề “Trung Quốc có thể nói ‘Không'”. Tôi nói, đúng là anh có thể nói “không”, nhưng anh nói khi đứng sau cánh cửa chống trộm. Đó không phải là dũng cảm, mà là yếu hèn. Kiều Lương (Thiếu tướng, tác giả quân đội nổi tiếng Trung Quốc-PV) nói rất hay: “Những người ái quốc mà đến trông thấy phường trộm cắp chó gà còn phải tránh đường để đi, lại có hào khí can đảm nói ‘không’ với các cường quốc phương xa!” Cần nhìn nhận nước Mỹ khách quan, toàn diện Mỹ là quốc gia như thế nào? Trước đây tôi từng nghe một câu mô tả: Những gì tốt nhất và tồi tệ nhất trên thế giới cộng lại chính là New York. Dùng câu này để nói về nước Mỹ ngày nay phải chăng cũng phù hợp? Thế hệ quân nhân chúng ta là những quân nhân gánh vác hy vọng tương lai của đất nước. Không thể làm “phái thân Mỹ”, nhưng cũng không thể đơn giản là “phái chống Mỹ”, mà phải là “phái hiểu Mỹ” thành thục. Biết đối thủ mới chiến thắng được đối thủ. Hạ thấp đối thủ chính là hạ thấp bản thân. Thác Bạt Hoành (Hiếu Văn Đế triều Bắc Ngụy-PV) đổi tên nước Nhu Nhiên thành Nhu Nhu, ý là “sâu bọ”, rồi ông bị chính Nhu Nhiên đánh bại, khác nào “không bằng cả sâu bọ”. Mỹ không mong Trung Quốc hùng mạnh, cũng giống như Trung Quốc không hy vọng Mỹ “xưng bá”. Quan hệ Mỹ-Trung có xung đột, nhưng cũng có lợi ích chung nhất định. Làm thế nào để hóa giải xung đột, phát triển lợi ích chung mới là điều mà các nhà ngoại giao Trung Quốc cần phải nỗ lực thực hiện. Trung Quốc muốn phát triển thì không được đoạn tuyệt giao lưu với thế giới. Thế giới hiện tại vẫn là đơn cực. Chỉ có Mỹ suy yếu mới xuất hiện thế giới đa cực. Chúng ta không thể đoạn tuyệt với Mỹ, cũng không thể ôm kỳ vọng lớn vào Mỹ. Hiện tại không phải là thời cơ thích hợp nhất để đối đầu với Mỹ. Lợi ích quốc gia phải là chuẩn mực cao nhất cho hành động của chúng ta. Chúng ta cần nhẫn nại. Nhẫn nại không phải là mềm yếu. Chỉ có khuất phục mới là mềm yếu. Mỹ đương nhiên không muốn Trung Quốc trỗi dậy, không muốn kinh tế Trung Quốc đi lên. Nhưng chúng ta cần nhớ: Đấu tranh với đối thủ thì anh nhất định phải cho đối phương chứng kiến cục diện mà họ không muốn thấy nhất. Người Mỹ hy vọng người Trung Quốc nội chiến thì chúng ta đã nội chiến thật. Mỹ không “cười lăn cười bò” mới lạ. Đương nhiên, nếu chỉ “nằm gai nếm mật, nhẫn nại chờ thời” thì cũng không được. Trung Quốc trong vai trò nước lớn có thể giống như một võ hiệp thời cổ đại, giấu mình trong thâm sơn cùng cốc tu luyện võ công, đợi ngày “quyết chiến” với kẻ địch hay không? Với nguồn tài nguyên và dân số, cùng với văn hóa của Trung Quốc, Trung Quốc không có khả năng hùng mạnh như Mỹ, chưa kể nước Mỹ vẫn đang tiến lên không ngừng. Vẫn là Mao Trạch Đông nói đúng: “Đánh vẫn phải đánh, đàm vẫn phải đàm, hòa vẫn phải hòa.” Con người cần phải mưu trí. Đấu tranh về ngoại giao càng cần mưu trí. Phải “dắt mũi” được người khác chứ không phải bị người ta “dắt mũi”. Khrushchyov (cựu Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên Xô-PV) chính là một người mưu trí. Trong một lần đại hội, Khrushchyov “to gan” phê phán Stalin. Có người đưa vụ việc lên báo chất vấn Khrushchyov rằng ông cũng là một nhân vật trong nhóm quyền lực cốt lõi thời Stalin cầm quyền, vậy tại sao không đứng ra phê phán từ thời đó? Đáp lại, Khrushchyov đọc to câu hỏi một lần, sau đó hô lên trước đám đông: “Là ai đã gửi câu hỏi này? Hãy đứng ra đây!…” Ở phía dưới xao động một hồi nhưng không có ai bước ra. Khrushchyov bèn nói: “Các anh xem, trong tình hình dân chủ, không cần e sợ như thế này mà đồng chí gửi câu hỏi còn không dám đứng ra, vậy trong bầu không khí thời kỳ Stalin, có ai dám đứng lên phê phán ông ấy?” Cả hội trường liền vỗ tay. Trong cuộc đấu với nước Mỹ, chúng ta cần có mưu trí như Khrushchyov. Khi cần ẩn nhẫn thì ẩn nhẫn. Giống như Đặng Tiểu Bình từng nói với Thủ tướng Canada Pierre Trudeau: “Taoguangyanghui (chiến lược ngoại giao ‘ẩn nhẫn’ của ông Đặng-PV) mà chúng tôi nói đến, bao gồm bất chấp thể diện cũng phải duy trì quan hệ với quốc gia phát triển nhất trên thế giới.” Đại ý của Đặng Tiểu Bình là, Trung Quốc nhất định phải “đồng bước” cùng văn minh thế giới, không được xa rời văn minh thế giới. Khi cần đấu tranh thì quyết không nhượng bộ. Sùng bái Mỹ là không đúng, thân Mỹ không đúng và ghét Mỹ cũng không đúng. Chính phủ Mỹ, các chính khách và người dân Mỹ có điểm tương đồng, cũng có khác biệt. Anh phải có trí tuệ cao độ để phân biệt điều đó. Trong quá khứ, nhân dân Mỹ giúp Trung Quốc thoát ách thực dân, cống hiến to lớn đưa xã hội Trung Quốc tiến bộ. Giữa hai nước không có xung đột về lợi ích căn bản. Ngày nay, lợi ích quốc gia của Mỹ trải khắp toàn cầu, giữa hai nước đã có xung đột nảy sinh. Nhưng chúng ta vẫn phải dùng tâm thế đạo đức để đánh giá sự vật, không được kích động. […] Một lính cứu hỏa sử dụng thiết bị ảnh nhiệt để tìm kiếm dấu hiệu của sự sống trong buổi sáng ngày 12/9/2001, khoảng 24 giờ sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC). Điểm đáng sợ thực sự của nước Mỹ ở đâu? Mặc dù Mỹ có quân đội hùng mạnh nhất thế giới, công nghệ tiên tiến nhất, nhưng tôi cho rằng điều này không đáng sợ. Nghe nói máy bay tàng hình của họ bay qua Trung Quốc rất tự do, nhưng điều đó cũng không có gì đáng ngại. Những điều đáng sợ của Mỹ không nằm trong số đó. Năm 1972, tôi theo học ĐH Vũ Hán. Trong tiết chính trị, một thầy giáo giảng rằng: “Mỹ là đại diện cho các nước tư bản chủ nghĩa ‘giãy chết’, giống như Mặt trời xuống núi, hơi thở đã rất yếu ớt.” Tôi – một sinh viên công-nông-binh trang bị “tận răng” – lập tức phản bác: “Thưa thầy, em cảm thấy thầy nói không đúng. Nước Mỹ dù không giống như Trung Quốc – là Mặt trời mọc đằng Đông lúc 8, 9 giờ sáng, nhưng họ cũng không phải là hoàng hôn, mà là Mặt trời giữa trưa.” Câu nói của tôi làm thấy giáo giận tím mặt nói: “Em dám nói những lời như vậy ư!” Thầy giáo không hỏi tôi vì sao trả lời như vậy, nhưng đã dùng ngay một chữ “dám”. Tâm lý ở trong đó rất dễ dàng đoán định. Chính “quốc gia tư bản chủ nghĩa ‘giãy chết'” đã lãnh đạo cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới của thế giới thập niên 1990 của thế kỷ trước. Khi tôi tốt nghiệp đại học cũng là lúc Trung Quốc cải cách mở cửa. Tôi lại có một quan điểm: Mỹ là quốc gia do hàng nghìn hàng vạn người không yêu tổ quốc của chính mình tập hợp thành, nhưng bọn họ đều yêu nước Mỹ. Vào thời đó rất nhiều lãnh đạo một mặt thì mắng Mỹ, nhưng mặt khác lại đưa con cái sang Mỹ học hành. Sự khác biệt rất lớn! Vậy, điểm đáng sợ của Mỹ là gì? Cá nhân tôi cảm thấy có 3 điểm: 1. Giới tinh anh của Mỹ không thể xem thường Chế độ cán bộ và cơ chế tranh cử của Mỹ cho phép bảo đảm những nhà quyết sách của nước này là nhóm tinh anh. Bi kịch của Trung Quốc, từ lớn như quốc gia cho tới nhỏ như từng cơ quan thì tình trạng phổ biến là, người có tư tưởng không quyết sách, người quyết sách không có tư tưởng. Người có đầu óc thì không có chức quyền, có chức quyền thì không đầu óc. Mỹ thì ngược lại, hệ thống hình tháp của họ vừa hay phù hợp để “nâng” giới tinh hoa lên cao. Vì vậy, thứ nhất, Mỹ không phạm sai lầm. Thứ hai, Mỹ ít phạm sai lầm. Thứ ba, nếu phạm sai lầm Mỹ cũng nhanh chóng sửa đổi. Chúng ta phạm sai lầm, đó là thứ nhất. Thứ hai, thường xuyên phạm sai lầm. Thứ ba, phạm sai lầm rồi rất khó sửa sai. […] Đối với một dân tộc hùng mạnh mà nói, tầm quan trọng của lãnh thổ đã giảm xuống, thay vào đó là theo đuổi “quốc thế” (vị thế quốc gia-PV). Người Mỹ không có yêu sách về lãnh thổ đối với bất kỳ quốc gia nào. Họ không quan tâm tới lãnh thổ, những gì Mỹ làm trong toàn bộ thế kỷ XX là tạo dựng vị thế. Thế nào gọi là “tạo thế”? Bên cạnh kinh tế lớn mạnh chính là lòng dân! Có lòng dân thì quốc gia sẽ có sức “ngưng tụ”, mất đi lãnh thổ cũng có thể lấy về. Không có lòng dân thì anh có lãnh thổ cũng sẽ để mất. Nhiều lãnh đạo quốc gia chỉ nhìn 1 bước. Nước Mỹ hành động thường tính trước 10 bước. Chính vì như vậy, mỗi một sự kiện trọng đại trên thế giới kể từ sau Thế chiến II đều làm gia tăng vị thế của nước Mỹ. Nếu chúng ta để họ “dắt mũi” thì rất có khả năng sẽ đánh mất tất cả “vốn liếng” chiến lược. Trọng tâm chiến lược của Mỹ sẽ không chuyển dịch sang châu Á, nhưng không có nghĩa là họ không bao vây Trung Quốc. Rất nhiều người chỉ nhìn vào Mỹ bao vây Trung Quốc về quân sự, cũng như chỉ nhìn thấy chênh lệch giữa Mỹ-Trung về công nghệ và vũ khí mà không thấy được ở tầm chiến lược, đặc biệt là sự mất cân bằng ở bình diện ngoại giao còn nghiêm trọng hơn cả tụt hậu về khí tài. Việc ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, hoặc là có hình thức mà không có giới hạn, hoặc là có chi tiết mà không có toàn cục. Sau sự kiện 11/9, Mỹ tấn công Afghanistan trong vòng 2 tháng, áp sát Trung Quốc từ phía Tây. Áp lực quân sự từ Nhật Bản,[…], Ấn Độ cũng không giảm. Nhìn từ bên ngoài, Trung Quốc giành được một số lợi ích từ vụ 11/9, nhưng những lợi ích này có thể sẽ biến mất chỉ sau 1,2 năm nữa. Tôi nhận định sự bao vây chiến lược đối với Trung Quốc là một dạng khác, không phải quân sự mà vượt qua quân sự. Những năm gần đây, các quốc gia xung quanh chúng ta đều lần lượt cải cách chế độ xã hội, […]. Nga, Mông Cổ đã thay đổi; Kazakhstan cũng vậy, bên cạnh các quốc gia đi trước là Hàn Quốc, Philippines, Indonesia… Mối đe dọa này đối với Trung Quốc còn nguy hiểm hơn đe dọa quân sự. Đe dọa về quân sự chỉ là hiệu ứng trong thời gian ngắn, trong khi sự bao vây bởi các quốc gia “dân chủ” như trên mới là ảnh hưởng dài hạn. 2. Nước Mỹ khoan dung và rộng lượng Bạn nên tới châu Âu trước rồi qua Mỹ. Bạn sẽ nhận thấy sự khác biệt lớn: Buổi sáng tại châu Âu trên phố hầu như không có người, trong khi đường phố ở Mỹ có rất nhiều người tập thể dục, thậm chí cả ngày đều như vậy. Tôi có một nhận định: Rèn luyện là một loại phẩm chất. Rèn luyện thân thể đại diện cho một dạng văn hóa cầu tiến. Muốn biết một quốc gia có mạnh mẽ hay không thì nhìn vào số lượng người tập luyện thể dục là rõ. Người Mỹ có thể lấy quốc kỳ làm quần để mặc lên người. Tôi cũng mua một chiếc như vậy ở Mỹ và mặc thường xuyên. Tôi mặc nó là để kỳ thị nó, để trút giận, giống như một dạng giải tỏa và thỏa mãn về tâm lý. Người Mỹ mặc nó là một kiểu chế giễu, nhưng bản chất khác nhau. Người Mỹ có thể đốt quốc kỳ của họ giữa đường phố. Đới Húc (Đại tá không quân, Viện trưởng Viện nghiên cứu hợp tác và an ninh hải dương Trung Quốc, bạn của tác giả-PV) nói: “Nếu một quốc gia ngay cả quốc kỳ của mình cũng tự đốt được, thì anh còn lý do gì để đốt quốc kỳ của họ?” 3. Sức mạnh vĩ đại của tinh thần và đạo đức Đây là điều đáng sợ nhất. Sự kiện 11/9 là một thảm họa. Khi thảm họa ập đến, thứ đầu tiên gục ngã là thân thể, nhưng cái đứng vững là linh hồn. Có những dân tộc khi gặp tai họa, thân thể chưa đổ nhưng linh hồn đã tiêu biến. Trong sự kiện 11/9 phát sinh 3 sự việc đều cho phép chúng ta nhìn thấy sức mạnh của người Mỹ. Thứ nhất, sau khi phần đỉnh tòa nhà WTC bị máy bay đâm vào, khói lửa bốc lên, tình hình vô cùng nguy cấp. Mọi người thông qua lối thoát hiểm để ra ngoài nhưng không quá hoảng loạn. Mọi người đi xuống, nhân viên cứu hỏa xông lên; đôi bên nhường đường cho nhau, không ai đâm vào ai. Khi có phụ nữ, trẻ em, người mù tới, mọi người tự giác nhường lối cho họ đi trước. Thậm chí một chú chó cũng được nhường lối đi. Nếu tinh thần của một dân tộc không mạnh mẽ đạt tới trình độ nào đó thì họ tuyệt nhiên không thể có những hành động như thế. Đối diện với tử vong vẫn bình tĩnh như vậy, nếu không phải là thánh nhân thì cũng tiệm cận với thánh nhân rồi. Chuyện thứ hai, ngày tiếp theo sau vụ 11/9, thế giới đã biết đây là hành động của các phần tử khủng bố Ả-Rập. Rất nhiều siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập bị những người Mỹ phẫn nộ đập phá. Các thương nhân người Ả-Rập cũng bị tấn công. Trong thời khắc đó, một nhóm người Mỹ đã tập hợp lại và tới các siêu thị, nhà hàng của người Ả-Rập để đứng gác, đến các khu dân cư của người Ả-Rập đi tuần, ngăn chặn bi kịch leo thang. Đây là một tinh thần như thế nào? Trung Quốc tự cổ đã có truyền thống báo thù. Tôi sống ở Thành Đô. Đặng Ngải (tướng Ngụy thời Tam Quốc-PV) phá Thành Đô xong, con trai Bàng Đức (tướng Ngụy-PV) đem nam phụ lão ấu cả nhà Quan Vũ giết sạch. Những cuộc báo thù tanh máu không hiếm trong lịch sử Trung Quốc. Chuyện thứ ba, chiếc máy bay Boeing 767 rơi xuống Pennsylvania vốn dĩ có mục tiêu là Nhà Trắng, sau đó hành khách trên máy bay chống trả bọn khủng bố mới làm máy bay rơi xuống. Bởi thời điểm đó bọn họ đã biết tin tòa nhà WTC và Lầu Năm Góc bị máy bay đâm vào. Các hành khác đã nhanh chóng quyết định, không thể không làm gì mà phải quyết tử với khủng bố. Cho dù là trong tình thế như vậy, họ vẫn làm một việc: Bỏ phiếu thông qua việc “liều chết” với những tên khủng bố. Vào thời khắc sinh tử cũng không áp đặt ý chí của mình lên người khác. Sau đó tập thể đồng tình, họ mới hành động. Thế nào gọi là dân chủ, đây chính là dân chủ. Tư tưởng của dân chủ đã ăn sâu vào sinh mạng, huyết mạch, cốt tủy của họ. Một dân tộc như thế, họ không cường thịnh thì ai cường thịnh; một dân tộc như thế, họ không thống trị thế giới thì ai thống trị thế giới. Ngày 11/9/2011, Tổng thống Mỹ Barack Obama và phu nhân Michelle thăm lại địa điểm mà chuyến bay số hiệu 93 đâm xuống Pennsylvania nhân hoạt động kỷ niệm 10 năm vụ khủng bố. Tôi thường suy tư rằng: Vũ khí tân tiến, công nghệ mới nhất, lực lượng vũ trang hùng mạnh nhất thế giới nằm trong tay những người như thế rất phù hợp. […] Cho dù nằm trong tay Trung Quốc, Trung Quốc có thể làm được gì cũng không biết chắc được. Nước Mỹ có nhiều kinh nghiệm thành công đáng để chúng ta tham khảo, học hỏi. Sau vụ 11/9, Mỹ không thành lập “Ủy ban 11/9″, cũng không thành lập bộ chỉ huy khẩn cấp gì đó. Tôi rất phản đối những điều không thực tế. Sau khi tôi tới Không quân Thành Đô, hoặc là không họp, hoặc là ít họp. Những cuộc họp không thể tránh thì họp nhanh. Việc đầu tiên tôi làm là thay đổi “học tập Thường ủy” thành tự học. Cầm văn bản đọc thì gọi gì là học! Tôi đấu tranh với thế lực thủ cựu. Sức lực cá nhân tôi có hạn nhưng không thể không đấu tranh, cho dù sứt đầu mẻ trán cũng không nản. Ví dụ, thường ở trong bộ đội tôi không ăn cơm. Ngày nào về nhà được thì tôi mang theo lương khô chứ không ăn trong quân. Tôi tới sư đoàn 33, ở Không quân Bắc Kinh cũng như vậy. Nếu không thể không ăn thì tôi ăn đơn giản. Dù nói rằng uống nửa lít rượu không đổ được hồng kỳ, ăn một bữa cơm không sập được giang sơn. Nhưng cái gì nhiều quá, lãnh phí quá, để tích tiểu thành đại thì rất khó nói. Khi nghiên cứu nước Mỹ, chúng ta nên nắm chắc nội hàm của nó. Không được chỉ nhìn những cái nhỏ, mà phải xem cái lớn. Có một câu nói hay: Thường nghị luận khuyết điểm của người khác thì bạn là kẻ dưới đáy chuẩn mực đạo đức; thường nghị luận khuyết điểm của nhân loại thì bạn chính là tư tưởng gia. Lời kết Qua bài diễn thuyết 3 tiếng đồng hồ ngày hôm nay, mục tiêu mà tôi theo đuổi là sự giải phóng con người. Nếu nói rằng tôi đến đây để gặp gỡ mọi người thì không bằng nói rằng mọi người tới để “nhận biết” tôi. Tôi đã rất phóng khoáng trao gửi “toàn bộ bản thân” cho các bạn, tôi thể hiện tư tưởng cá nhân trước các bạn. Đặc biệt, những điều tôi nói về phương Tây, về nước Mỹ cũng không tách rời chủ đề cuộc thảo luận này. Có 2 điều tôi muốn bổ sung. Thứ nhất, tôi là một người trung thành với chủ nghĩa dân tộc. Mọi điều tôi nói ra đều vì cái tốt cho quốc gia, dân tộc. Trong bất cứ tình huống nào, tôi cũng xem lợi ích dân tộc là tối cao. Vì điều đó, tôi chấp nhận đổ máu, sứt đầu mẻ trán. Trong đầu tôi vẫn thường hiện lên cảnh tượng trong chiến tranh Triều Tiên: Mùa đông năm 1951, đơn vị của cha tôi tấn công quân Mỹ. Do vũ khí thua kém Mỹ nên buộc phải mai phục trong đêm tại vị trí gần quân địch nhất. Một liên đội yên lặng chờ đợi cả một đêm. Đêm đó trời đổ tuyết lớn, lạnh vô cùng. Lúc trời sáng, còi hiệu xung phong vang lên, nhưng hơn 100 chiến sĩ mai phục ở đó không có một ai đứng dậy. Tất cả bọn họ đã chết vì lạnh. Cho đến chết họ vẫn giữ đội hình chiến đấu. Về sau Chủ tịch Mao khi nghe báo cáo, ông lập tức bỏ mũ, đứng dậy rất lâu không nói gì. Chiến tranh biên giới Trung-Ấn 1962, máy bay Trung Quốc tiêu diệt một đơn vị của Ấn Độ. Đơn vị này ngày xưa từng thuộc biên chế quân đội Anh, tham gia cuộc Chiến tranh nha phiến lần thứ 2, hỏa thiêu Viên Minh Viên. Chủ tịch Mao nhận tin qua điện thoại, đập bàn đứng dậy, nói: “Quốc nhục trăm năm!” Đồng thời, mọi người cũng nên nhận thấy, tình hình Trung Quốc so với phương Tây không giống nhau. Có những việc mặc dù nhìn thấy rồi, nhưng lại không thể dễ dàng đạt được. Cũng có những việc còn chưa nhìn thấy. Có những khác biệt về quan niệm chỉ có thời gian qua đi mới rút ngắn khoảng cách được. Lần đâu tiên gặp gỡ các cán bộ cấp doanh trở lên ở căn cứ Côn Minh, tôi đã vô cùng thẳng thắn, mạnh dạn nói nhiều như vậy. Đó là những thành quả nghiên cứu của tôi. Tôi chịu trách nhiệm với phát biểu của mình. Chỗ nào nói đúng, các vị hãy ghi nhớ lấy; còn chỗ nào nói sai, mọi người hãy “vào tai này lọt tai kia”, xem như chưa nghe thấy. Mỗi con người là một cá thể, mỗi cá thể đều được tự do. Tôi không thể áp đặt tư tưởng của mình lên mọi người. Tôi cũng không thể yêu cầu tư tưởng của mọi người phải thống nhất đến một tư tưởng nào đó. Đó là điều không thể. Thế nhưng chúng ta lúc nào cũng muốn theo đuổi mục tiêu này. Đó là điều hết sức mơ hồ, trên thực tế không thể thực hiện được. (Theo Trí Thức Trẻ)
    1 like
  6. PGS-TS Phạm Quốc Sử: 'Tích hợp môn lịch sử sẽ là một thảm họa khôn lường!'Đăng Bởi Một Thế Giới - 14:03 23-11-2015 PGS-TS Phạm Quốc Sử “Đừng bao giờ nghĩ bảo vệ môn lịch sử là bảo vệ “miếng cơm, manh áo” cho người dạy sử, mà đó còn là bảo vệ sợi dây kết nối tốt nhất của dân tộc hôm nay với nguồn sinh khí truyền thống và thời đại”, PGS-TS Phạm Quốc Sử - Trưởng khoa Lịch sử, Trường đại học Thủ đô Hà Nội khẳng định. Xoay quanh việc tích hợp môn lịch sử được Bộ Giáo dục - Đào tạo nêu ra, cùng với những ý kiến đa chiều từ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu sử học, các giáo viên lịch sử, PGS-TS Phạm Quốc Sử đã có những chia sẻ, những quan điểm hết sức thẳng thắn về vấn đề này. Tìm hiểu, dạy và học lịch sử là vấn đề sống còn của dân tộc -Thưa thầy, lịch sử và môn lịch sử có vai trò như thế nào trong đời sống hiện nay? -PGS-TS Phạm Quốc Sử: Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống. Hầu hết những gì diễn ra hôm nay đều có nguồn cội, căn nguyên từ quá khứ, hay nói cách khác đó là sự tiếp nối của quá khứ. Bởi thế, muốn hiểu hiện tại, muốn hành xử cho đúng, không lệch lạc trong tương lai thì phải soi chiếu vào lịch sử. Còn môn lịch sử, nó sẽ giúp chúng ta tìm hiểu quá khứ một cách có hệ thống. Tuy nhiên, có nhận thức đúng về quá khứ hay không còn phụ thuộc vào quan điểm và phương pháp nhận thức, quan điểm và phương pháp nghiên cứu lịch sử, dạy và học sử của mỗi người. Đất nước, cộng đồng hay cá nhân nào cũng cần đến vai trò của lịch sử. Với dân tộc Việt Nam, việc tìm hiểu lịch sử còn quan trọng hơn nhiều, bởi lẽ đất nước ta luôn bị đe dọa, xâm lăng, ngay cả lúc này. Vì vậy, việc tìm hiểu, dạy và học lịch sử là một trong những vấn đề sống còn của mỗi người trong cộng đồng dân tộc. Hơn nữa, Việt Nam đang ở trong thời kỳ hội nhập, học sử là để hiểu mình, hiểu người, giúp chúng ta biết mình đang ở tầm vóc nào, hiểu rõ bạn bè và kẻ thù của mình, từ đó sẽ hội nhập tốt hơn. -Theo thầy, việc tích hợp môn lịch sử cùng 2 môn giáo dục công dân và giáo dục quốc phòng thành môn công dân với Tổ quốc thì có hợp lý không và tại sao? -PGS-TS Phạm Quốc Sử: Bản thân tôi nhận thấy không hợp lý chút nào, thậm chí là phản khoa học, phản chính trị. Chính trị ở đây là muốn nói đến nhận thức non kém, mất cảnh giác khi việc tích hợp có thể làm nhạt nhòa, biến mất môn lịch sử, môn học mà ở bất cứ quốc gia nào cũng được giao một nhiệm vụ tối thượng là trang bị cho người học kiến thức để nuôi dưỡng tình yêu Tổ quốc và nhận diện mọi kẻ thù. PGS-TS Phạm Quốc Sử cho rằng "tích hợp môn lịch sử sẽ là một thảm họa khôn lường!" Môn lịch sử không phải chỉ của người dạy lịch sử mà là của nền giáo dục đất nước. Với vai trò quan trọng của nó, đặc biệt là môn quốc sử cùng với môn quốc văn đã được khẳng định rằng không thể nào thiếu và trộn lẫn với các môn khác. Nếu như môn quốc văn giữ cho dân tộc hồn cốt thiêng liêng để người Việt không quên tiếng Việt và văn hóa Việt thì môn quốc sử giữ cho dân tộc nguồn sinh khí và sức mạnh, giúp cho dân tộc không quỳ gối trước bất kỳ thế lực cường quyền nào. Bởi thế kẻ nào “đánh vào môn lịch sử”, thủ tiêu hay làm biến dạng và tan rã bộ môn này tức là đã chặt đứt động mạch chính kết nối quá khứ với hiện tại, kết nối nguồn sinh khí với cơ thể sống của dân tộc hôm nay. Quan trọng là lựa chọn cái gì và dạy như thế nào -Về chuyện tại sao lại có việc gộp môn lịch sử vào môn công dân với Tổ quốc, theo Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: "Thứ nhất là theo tinh thần chủ trương tích hợp. Thứ hai, Luật Giáo dục quốc phòng an ninh được Quốc hội thông qua có quy định giảng dạy lịch sử giữ nước, lịch sử quốc phòng. Chúng tôi dự kiến đưa lịch sử vào đó để tránh trùng lặp”. Thầy có ý kiến như thế nào? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Theo tôi, đây là cách giải thích hoàn toàn không hợp lý. Giải trình thế là sai, bởi mấy lẽ: Thứ nhất, “tích hợp” là một chủ trương, thậm chí là một chủ trương “sáng giá” của Bộ GD-ĐT, nhưng không có nghĩa là cho phép Bộ lôi tuột tất cả các môn vào đó mà không có cân nhắc. Lịch sử là môn học có thiên chức đặc biệt, cần hết sức thận trọng nếu như định đụng đến nó. Đã trót để cho nó “nhếch nhác” rồi thì giờ là lúc giúp cho nó “phục sinh” chứ không phải làm cho nó bị “hòa tan”! Tiếc là Bộ không có chuyên gia lịch sử, hoặc đã không hỏi các chuyên gia lịch sử về vấn đề này. Thứ hai, sao lại sợ trùng lặp kiến thức lịch sử giữ nước với giáo dục an ninh quốc phòng mà bỏ cả môn lịch sử? Vậy lịch sử đất nước trên các bình diện khác (như kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa), lịch sử nhân loại không học nữa sao? Các môn khác có thể sử dụng ít nhiều kiến thức lịch sử, nhưng là để phục vụ cho nhiệm vụ của chúng, không thể thay thế cho hệ thống kiến thức toàn diện và sâu sắc của môn lịch sử được. Thứ ba, chủ trương tích hợp như vậy là quá đơn giản, thuần túy từ góc độ kỹ thuật mà thiếu nhãn quan khoa học, không có triết lý và tư tưởng trong việc giáo dục học sinh. -Thầy có cho rằng vì kiến thức lịch sử của ta quá nặng mà chưa có sự đổi mới trong cách dạy, tạo sự thích thú cho người học nên dẫn đến có dự án tích hợp này không? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Đã có gì mà nặng. Liệu người ta còn muốn cuốn sách giáo khoa lịch sử mỏng thế nào nữa, còn muốn kiến thức lịch sử được dạy trong nhà trường bị lược bớt, giản đơn đến mức nào nữa? Tôi đã cầm hai cuốn lịch sử phổ thông trung học nước Mỹ, mới xuất bản, nó to gần bằng khổ giấy A4 và dày gấp 3-4 lần cuốn lịch sử phổ thông trung học của ta, dày đặc chữ, tranh ảnh và tư liệu. Không thấy dư luận nước Mỹ kêu ca vì sách dày, kiến thức nặng nề. Hãy nói với học sinh bằng thứ ngôn ngữ uyên bác, có văn hóa của chốn học đường thì mới mong có được những học trò thông thái. Còn nếu cứ cố nói với các em thứ ngôn ngữ thật đơn giản, nôm na cho dễ hiểu, dễ nhớ đến mức cả các bậc phụ huynh vốn thiệt thòi do không được đi học cũng hiểu được, thì e rằng “hậu sinh” không thể “khả úy” được đâu. Kiến thức nặng đến đâu cũng không quan trọng. Quan trọng là lựa chọn cái gì và dạy thế nào. Cũng không phải không có đổi mới trong cách dạy, cách học. Nói không đổi mới thì quả là phụ công ngành giáo dục, phụ công các thầy cô giáo dạy lịch sử ở trường phổ thông. Công việc này đã thực hiện từ nhiều năm nay rồi, song hiệu quả không đáng là bao. Nhưng nghiêm túc mà nói, với nội dung sách giáo khoa được biên soạn theo hướng chính trị hóa như vậy, lại thêm chỉ đạo môn học có tính pháp lệnh về cách dạy, cách học, cách kiểm tra, thi cử như hiện nay thì có tài thánh cũng không thể đổi mới để dạy hay, học hay lịch sử được. Đã làm hỏng môn lịch sử, biến nó từ môn học đầy tính hấp dẫn và bác học, thành một môn học buồn tẻ, khiến cho học sinh chán học, giờ đây thay vì đầu tư làm cho nó hồi sinh, trở về đúng với giá trị chân chính và vinh quang của nó, thì lại nhân đó “tích hợp” để bóp chết nó, liệu có phải là việc làm có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc không? Xóa môn lịch sử, không thảm họa thì là gì? - GS-TS Đinh Quang Báo, Ủy viên Hội đồng Giáo dục quốc gia nói: “Không nên đặt vấn đề tích hợp là xóa môn học mà chỉ là tạo ra giá trị mới cho môn học. Tôi không nghĩ, môn sử cứng nhắc đến mức chỉ khi đứng độc lập thì mới giáo dục được”. Thầy nghĩ sao về ý kiến này? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Phát biểu thế nào là quyền của mỗi người, song ý kiến ấy nếu đúng như vậy thì rất nông cạn và mâu thuẫn. Tích hợp rõ ràng là xóa một số môn học cũ để tạo ra môn học mới, còn biện hộ gì nữa. Đã tích hợp rồi thì làm gì còn môn lịch sử nữa, mà là môn khoa học xã hội, hay “công dân với Tổ quốc”, trong đó có kiến thức lịch sử được sử dụng một cách vụn vặt, chắp vá, trộn lẫn với kiến thức khác. Đề án đã xác định rõ thế rồi. Mà đã xóa rồi thì làm gì còn giá trị mới nữa. Đã xóa rồi thì làm gì còn có thể phát huy tính giáo dục được với tư cách môn lịch sử nữa. Môn lịch sử nếu không “cứng nhắc” đứng độc lập, mà bị hòa tan, bị thủ tiêu rồi thì làm sao còn giáo dục được. Một vài mảnh thân xác vụn rời của nó trong một cơ thể khác, nếu có phát huy được tính giáo dục, cũng là rất hạn chế, nếu không nói là chẳng đáng kể gì. -Là người làm công tác giảng dạy lịch sử lâu năm, thầy nghĩ sao nếu việc tích hợp môn lịch sử được tiến hành? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Nếu việc tích hợp môn lịch sử vào các môn học khác được tiến hành, tôi cho rằng đó sẽ là một hình thái hỗn loạn, sẽ tạo ra những trò cười mới, như lâu nay ta đã chứng kiến. Sách giáo khoa sẽ thay đổi, biên soạn mới, vứt sách cũ, tài liệu cũ đi; việc đào tạo giáo viên lịch sử từ các bậc cao đẳng đến đại học… sẽ phải làm lại toàn bộ, kinh phí tốn kém cho xã hội sẽ không phải là con số 70.000 tỉ đồng mà Bộ đã lộ ra rồi lấp đi như trước đây, mà là vài trăm lần như thế. Nhưng điều quan trọng là sẽ làm hỏng hẳn một nền giáo dục dân tộc. Đến đây thì sẽ là một kịch bản “vỡ nát” và khôi hài từ người dạy đến người học, từ nhà trường đến xã hội về nhận thức lịch sử mà chính những người hôm nay thiết kế và vỗ tay cho “tích hợp” môn lịch sử sẽ phải “im bặt”. Bộ Giáo dục - Đào tạo lúc đó sẽ im bặt. Ngài bộ trưởng hôm nay khi đó đã nghỉ hưu, “hạ cánh an toàn”, còn ngài mới lên sau đó có thể sẽ “nghiêm túc” xin lỗi trước Quốc hội và thanh minh “khi đó tôi chưa phụ trách chính việc này” hoặc “khi đó tôi đang công tác ở nước ngoài”. -Nếu tích hợp thì các giáo viên, các em học sinh sẽ phải dạy và học như thế nào, thưa thầy? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Câu hỏi này nên dành cho các tác giả đề án tích hợp môn lịch sử, là Bộ GD-ĐT, và những người bênh vực nó (đề án), bởi tôi là người phản đối thì tôi không hình dung kịch bản việc dạy và học sẽ thế nào. Theo một người bênh Bộ GD-ĐT, ông nói ý thế này: Việc tích hợp giống như chế biến một “món ăn tổng hợp”! Ông nói, ví như đáng lẽ ta ăn rời từng món: thịt bò, cần tây, tỏi tây, nước mắm…, thì giờ ta cho cả vào xào, được ăn cùng lúc tất cả, mà có khi lại ngon. Cái “khéo” của vị chuyên gia biện hộ lừng danh này là lấy ví dụ từ món xào thịt bò - cần - tỏi vốn đã thông dụng, nhiều người thích. Nhưng cái đáng tiếc là ông lại ví việc tích hợp môn lịch sử, một môn có chức năng giáo dục đặc biệt, đòi hỏi cả tính khách quan khoa học lẫn lý trí và ý thức dân tộc, với việc chế biến món ăn nghiêng về khía cạnh hưởng thụ và tiêu khiển, khoái khẩu thì “xơi”, không khoái thì nhè ra, gọi nhà hàng đến mắng. Không chỉ khôi hài, mà sẽ là thảm họa khi món lẩu tổng hợp của ông ấy có thể là thịt gà với mắm tôm và bỗng rượu, thịt chó với cá điêu hồng và đường phèn, trứng gà với dấm thanh và tỏi…, và theo ông ấy, liệu đó có thể là những món khám phá mới, hấp dẫn? Ông nói nhiều nước đã làm thế mà và Việt Nam cũng nên làm theo. Theo tôi, vị chuyên gia này sẽ là người thích hợp nhất để trả lời câu hỏi: Nên dạy và nên học môn tích hợp lịch sử như thế nào? -Thầy nghĩ sao nếu môn lịch sử bị xóa bỏ? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Đó sẽ là thảm họa cho dân tộc. Bên ngoài thì Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, một số đảo Trường Sa, bên trong thì xóa môn lịch sử, chặt đứt mối liên hệ giữa lớp trẻ hiện tại với truyền thống cha ông. Trong ngoài như thế không thảm họa thì là gì? Thực ra, những gì diễn ra hôm nay đối với môn lịch sử cũng đã là thảm họa rồi. Những ngày hân hoan mới giành được độc lập, hay đang vượt qua thử thách thù trong giặc ngoài 1945-1946, chắc không ai tưởng tượng sẽ có ngày học sinh tung hê tài liệu môn lịch sử vì “thoát nạn”, không phải thi môn học buồn tẻ khó nhớ này. Đấy là thảm họa, nhưng không phải chỉ cho mấy cô giáo dạy môn lịch sử trong trường phổ thông, mà cho tương lai của toàn dân tộc. Một thảm họa khôn lường. Có người nói: Người không hiểu lịch sử thì không khác gì con trâu. Con trâu thì ruộng nào cũng cày, bởi nó không tự biết mình, nguồn cội mình! Thế mà người ta lại định xóa môn lịch sử, thử hỏi có nguy không? Không xóa, nhưng phải làm lại, đổi mới căn bản môn sử -Vậy khi việc “tích hợp” bị phản đối, môn lịch sử nên được giảng dạy trên ghế nhà trường theo cách nào, để không lâm vào cảnh bi đát như những gì từng được nhắc đến trong vài năm qua, thưa thầy? - PGS-TS Phạm Quốc Sử: Đó là một câu chuyện nghiêm túc. Thứ nhất, đấu tranh cho môn lịch sử tiếp tục có vị trí độc lập trong chương trình giáo dục phổ thông không có nghĩa là duy trì thực trạng môn học đã bị chính trị hóa đến tê liệt trong nhiều chục năm qua, khiến người dạy loay hoay mãi không thể dạy hay được, người học thì chán ngán. Đã đến lúc phải thay đổi căn bản đối với môn học này, từ nội dung đến phương pháp, chứ không chỉ sửa chữa. Thứ hai, rất cần thiết phải công bố một cách ngắn ngọn, hàm súc cho xã hội hiểu và phân biệt rõ ba khai niệm: Lịch sử, sử học và dạy - học lịch sử, cũng như mối quan hệ giữa ba điều ấy. Việc này không thừa, bởi ngay trong ngành sử không phải ai cũng đã tỏ, còn trong xã hội thì số người hiểu cực ít. Khi giới lãnh đạo chính trị không hiểu thì sẽ xem nhẹ môn lịch sử và khó có thể giải thích, thuyết phục được. Thứ ba, lịch sử thì khách quan, nhưng sử học và dạy học lịch sử thì không phải như vậy. Trong sử học, nguyên tắc tối thượng là tôn trọng sự thật, nhưng điều này thường bị vi phạm. Khi sử học bị chính trị hóa thì nguyên tắc trên sẽ bị vi phạm, bởi nó buộc sử học phải quỳ gối phục vụ cho mục đích của chính trị mà có trường hợp dẫn đến xuyên tạc sự thật. Thứ tư, sử học vinh quang thật, nhưng lại rất dễ phạm phải những căn bệnh nặng, những lỗi không nhỏ. Tiếc thay, sử học nước ta đã không tránh được. Một thứ “sử học nhà nước”, “sử học quốc doanh” (phân biệt với sử học chân chính) đang ngự trị. Một nhà sử học nổi tiếng nước ta mới mất cách đây vài năm, nói: Sử học ta chẳng có tư tưởng gì. Sợ thật! Bị biến thành công cụ tuyên truyền, đến mức bị chính học sinh chối bỏ, người dân nghi ngờ, rồi lại chính cơ quan giáo dục quyền lực nhất xóa bỏ. Phải chăng, đó là số phận của một thứ sử học “phải đạo”?. Bởi thế, ngành sử cần phải làm lại từ đầu. Thứ năm, sử học thế nào thì dạy học lịch sử cũng gần như thế, bởi dạy học phải sử dụng thành tựu nghiên cứu của sử học, đồng thời cả hai cùng có chung một “bầu trời”, một thể chế. Tư tưởng chỉ đạo cho sử học, đương nhiên cũng được áp dụng cho dạy học lịch sử. Từ rất sớm, sử học và dạy học lịch sử nước ta đã được tiêm những liều “vắc xin” để ngừa những tư tưởng trái chiều. Nhưng liều tiêm khá nặng, khiến cho đối tượng bị tê cứng, hết sinh khí. Để học sinh chán học sử, để giáo viên không thể giảng hay được tức là môn sử hết sinh khí rồi. Có người bảo ngành sử các ông toàn chạy theo chính trị, chủ yếu là ca ngợi và lặp đi lặp lại, nên rất nhàm. Điều này đúng nhưng chưa đủ. Đúng bởi là lẽ sách vở nhiều, tiến sĩ nhiều nhưng chất lượng sử học rất thấp. Song, thử hỏi, nếu anh bị buộc phải tiêm “vắc xin” anh có chống lại được không? Vả lại, những thành quả “nhàm chán” thì anh mới được đọc, còn những thứ “không nhàm chán” thì không dễ xuất bản, và nếu có thì anh liệu có biết đọc không? Có người nói học sinh chán sử là tại sách giáo khoa của môn này viết khô khan và một chiều. Điều này đúng. Cả giáo trình đại học nữa chứ, đâu phải chỉ sách giáo khoa đâu. Mà sách giáo khoa là “rút gọn”, là “hạ cấp” của giáo trình. Người viết sách đã quen tư duy thế rồi. Không khô khan, một chiều sao được khi bị chỉ đạo, bị cạo gọt từ chương trình chung đến từng bài học, hoặc do sợ quá mà tác giả tự cắt gọt cho an toàn. Có người nói, các thầy cô dạy sử không chịu thay đổi phương pháp nên việc dạy học nhàm chán, học sinh chán học, chất lượng môn sử rơi đến thảm hại. Điều này cũng đúng. Nhưng sự thực, đã có thay đổi bộ phận rồi, nhưng chủ yếu là chuyển từ “đọc chép” sang “nhìn chép” và một vài thứ khác. Song, tài thánh cũng không hấp dẫn được, bởi phải đi theo rãnh chỉ đạo của cấp trên, từ nội dung sách giáo khoa đến các bước lên lớp, giáo án. Có nhiều phương pháp được vận dụng, nhưng chạy đi đâu khỏi khối tài liệu từ đọc thêm đến tranh ảnh, hiện vật, bản đồ, sơ đồ, băng đĩa đều được biên soạn theo cùng một hướng, với vai trò minh họa cho sách giáo khoa. Mọi thứ đều minh họa thêm cho sách giáo khoa, còn sách giáo khoa minh họa cho đường lối chỉ đạo, vậy sáng tạo sao được. Đã có ý kiến khá hay về phương pháp dạy học thực chứng, dùng tài liệu gốc để khuyến khích học sinh khám phá, tự đưa đến nhận thức bài học lịch sử. Hay, nhưng dùng tài liệu gốc nào đây? Tư liệu gốc có giá trị nhưng “cấm kỵ”, “nhạy cảm” thì không được sử dụng, còn tư liệu không giá trị, không đáng tin cậy, vô thưởng vô phạt thì không dùng còn tốt hơn là dùng. Dẫn học sinh đi thăm bảo tàng ư? Bảo tàng, nhà truyền thống cũng được sắp đặt, được uốn nắn giống như công trình sử học, giống giáo trình, sách giáo khoa và hằng hà sa số tài liệu đọc thêm môn lịch sử. Cứ quyển nọ chép lẫn, xào xáo của cuốn kia thôi, anh chạy đằng trời! Vả lại, tôi bảo anh sáng tạo nhưng anh cứ biết vậy, sáng tạo vừa vừa thôi, anh sáng tạo quá, tôi không kiểm soát được, anh “chệch rãnh” thì sao... Nhưng xin cảnh báo, ngữ văn và triết học cũng thế. Văn, triết mà chẳng có văn có triết, chẳng có sinh lực gì. Nguyên nhân, thực trạng cũng gần cũng giống như môn lịch sử. Chỉ có điều không bị động đến. Không bị động đến, nhưng không có nghĩa là vô can! Cụ Hồ nói “dân ta phải biết sử ta” là để “cho tường gốc tích nước nhà", chứ không phải để càng học càng tối, càng biết càng hoài nghi. Cũng giống như “văn học phải đạo” với công thức dạy văn: Yêu-căm-chiến-lạc (yêu nước, căm thù giặc, chiến đấu, lạc quan tin tưởng), sử học “quốc doanh” không thể làm “cho tường gốc tích”, không làm rạng danh nước nhà được. Tóm lại, câu chuyện dạy dỗ thế nào, phương pháp này, nọ vẫn chỉ là phần ngọn của vấn đề. Nếu cứ bàn mãi về phương pháp, cứ trách thầy cô giáo dạy sử thì chỉ là né tránh, luẩn quẩn, thiếu hiểu biết và giỏi “bắt nạt người yếu”. Gốc rễ vẫn là ở tính khoa học độc lập của môn sử, ngành sử. Độc lập ở đây là không bị chính trị hóa, chứ không phải chỉ là môn lịch sử tồn tại độc lập trong chương trình giáo dục phổ thông. Có độc lập thì sẽ có khách quan, khoa học, có cống hiến thực sự cho Tổ quốc, cho dân tộc, cho lẽ sống, sẽ được đời kính trọng, nhà nước nể vì. Có độc lập thì có sáng tạo trong dạy học lịch sử, sẽ có muôn vàn phương pháp tìm hiểu, khám phá lý thú được áp dụng, và học sinh sẽ lại say mê, yêu thích môn học này. -Xin chân thành cảm ơn thầy! Thu Anh (thực hiện) Nguồn: http://motthegioi.vn/khoa-hoc-giao-duc/tin-tuc-cong-nghe/pgs-ts-pham-quoc-su-tich-hop-mon-lich-su-se-la-mot-tham-hoa-khon-luong-258976.html ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Thêm một tư liệu về Tích hợp môn sử: Một góc nhìn thẳng, thực chất.
    1 like
  7. "Ngôn hành bất nhất", TQ đang trả giá đắt không lường hết được? Kiều Tỉnh | 23/11/2015 07:47 Báo chí Trung Quốc và nước ngoài thời gian qua cho rằng những ứng xử thô bạo và ý đồ chiếm toàn bộ Biển Đông đã làm các nước láng giềng xa lánh Bắc Kinh. Ảnh: AP Những tuyên bố "nghe lọt tai" Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh lại chính sách ngoại giao láng giềng với kỳ vọng xoay chuyển tình hình. Nhưng diễn biến thực tế thì sao? Tháng 10/2013, trong chuyến thăm các nước ASEAN, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra ý tưởng thành lập Ngân hàng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) để trợ giúp các nước, nhất là khu vực Đông Nam Á. Tiếp đó, Bắc Kinh đưa ra những chương trình như xây dựng Khối cộng đồng ASEAN (RCEP), Khu vực mậu dịch tự do Châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) và Con đường tơ lụa trên biển, Hợp tác kinh tế vòng cung toàn Vịnh Bắc Bộ (báo Thông tin tài chính ngày 25/5/2014). Ngày 21/5/2014, phát biểu trong Hội nghị thượng đỉnh Những biện pháp hợp tác và xây dựng lòng tin (CICA) ở Thượng Hải, ông Tập đưa ra khái niệm "An ninh Châu Á mới" gồm các nội dung: Cộng đồng, tổng hợp, hợp tác, bền vững. Phương châm ông nêu ra là “đối thoại, tin cậy, hợp tác” theo tinh thần 4 chữ “Thân, Thành, Huệ, Dung”, tức thân thiện, chân thành, có lợi, bao dung. Báo cáo về công tác đối ngoại năm 2015 trước Quốc hội Trung Quốc ngày 5/3, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nhấn mạnh: "Ngoại giao nước lớn là then chốt, Ngoại giao láng giềng là hàng đầu, Ngoại giao với các nước đang phát triển là cơ sở, Ngoại giao đa phương là vũ đài quan trọng”. Ông Lý đồng thời khẳng định trách nhiệm nước lớn của Trung Quốc và Ngoại giao “Một vành đai, một con đường”, nhất là “Con đường tơ lụa trên biển” (Trung Quốc cam kết chi 40 tỉ USD), là một chiến lược lâu dài trong chính sách ngoại giao của Bắc Kinh. Thủ tướng Trung Quốc khi thăm các nước ASEAN tháng 10/2013 cũng cam kết: “Mâu thuẫn tranh chấp nổi lên ở Biển Đông không có lợi cho bất kỳ ai. Chúng ta hãy cùng nhau phấn đấu để Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác”. Ông Tập Cận Bình tại Hội nghị thượng đỉnh Những biện pháp hợp tác và xây dựng lòng tin (CICA) ngày 21/5/2014. Ảnh: Xinhua Nói không đi đôi với làm Với chính sách ngoại giao này, dư luận các nước trong khu vực kể cả ASEAN cũng như cộng đồng quốc tế đều tỏ ra hy vọng về sự thay đổi của Bắc Kinh đối với láng giềng. Hòa bình, ổn định ở Biển Đông sẽ được duy trì, đẩy lùi được những nguy cơ xảy ra xung đột và mâu thuẫn. Nhưng thực tế diễn ra không phải như vậy mà Trung Quốc vẫn duy trì chính sách đe dọa, dùng sức mạnh lấn át các nước. Bài “Ngoại giao láng giềng của Trung Quốc” đăng trên mạng tin Đa Chiều hôm 15/11 viết: “Kể từ ngày Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm quyền, Trung Quốc tỏ ra rất coi trọng địa vị của các nước láng giềng, nhất là ASEAN. Nhưng hơn 30 tháng cầm quyền tới nay, ông cùng lãnh đạo Trung Quốc đi thăm tới hàng chục nước trên thế giới, trong khi thăm các nước láng giềng rất thưa thớt, nhất là đối với ASEAN. Hơn nữa những chuyến thăm này phần lớn chỉ là ‘nhân tiện’ khi tới đó tham dự các hội nghị quốc tế”. Dư luận báo chí nước ngoài bình luận, một trong những nguyên nhân quan trọng mà lãnh đạo Trung Quốc ít tới thăm các nước ASEAN là khi tới đây những tiếng nói lên án những hành vi thô bạo của Bắc Kinh ở Biển Đông dấy lên làm lãnh đạo nước này khó chịu. Những diễn đàn quốc tế của ASEAN cũng là nơi để các nước Đông Nam Á và đại biểu các nước trên thế giới tới dự bày tỏ bất bình đối với Trung Quốc. Đối thoại an ninh Shangri-la ở Singapore là một ví dụ sống động. Hai năm qua, diễn đàn này trở thành bản “đại hợp xướng” lên án hành vi thô bạo của Trung Quốc ở Biển Đông. Trước khi tới dự Hội nghị thượng đỉnh không chính thức APEC lần thứ 23 ở Philippines hôm 18-19/11 vừa qua, ông Tập đã tỏ ra lo ngại những tiếng nói lên án Trung Quốc lại đồng loạt dấy lên, nhất là quan hệ Trung Quốc-Philippines những năm gần đây trở nên căng thẳng. Bởi vậy, Trung Quốc cử Ngoại trưởng Vương Nghị đi dọn đường trước. Trong chuyến thăm Philippines hai ngày 10/11-11/11, Ngoại trưởng Vương Nghị nói: “Quan hệ Trung Quốc-Philippines hiện nay thực sự gặp nhiều khó khăn.” Ông Vương bày tỏ quan ngại và yêu cầu nước chủ nhà “vấn đề Biển Đông không nên thành một trong những nghị trình chính thức của Hội nghị APEC”, đồng thời đe dọa nếu không đạt được thỏa thuận trên thì “việc tham dự APEC của Chủ tịch Tập Cận Bình thực sự tồn tại những yếu tố không xác định”. Trong cuộc họp báo ngày 10/11 tại Bắc Kinh, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Bảo Đông nói Tập Cận Bình “chỉ thuần túy tới Philippines tham dự APEC chứ không thăm Philippines.” Ông Tập đã phải nhờ đến chuyến công du Philippines "chớp nhoáng" của Ngoại trưởng Vương Nghị để tránh vấn đề biển Đông tại APEC. Ảnh: Reuters Trung Quốc tự làm xấu quan hệ với láng giềng Quan hệ Trung Quốc-Philippines những năm gần đây trở nên căng thẳng khi Bắc Kinh bị Manila phản ứng gay gắt vì hành vi xâm chiếm, xây đảo nhân tạo trái phép trên Biển Đông. Hải quân Trung Quốc cũng bị tố là không ngừng ngăn chặn, tấn công các tàu thuyền của ngư dân Philippines đang tác nghiệp bình thường trong vùng biển của mình, ra sức ngăn chặn và tấn công các tàu hậu cần của Hải quân Philippines. Hôm 4/2, tàu chiến Trung Quốc đã ngăn chặn 3 tàu cá Philippines, trong đó đâm hỏng một chiếc gần bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham). Sự kiện này làm cho dân chúng Philippines phẫn nộ. Thậm chí, trong chuyến thăm Nhật Bản 4 ngày từ 2/6/2015, Tổng thống Philippines Benigno Aquino III đã lên án những hành động và ứng xử của Trung Quốc với các nước láng giềng ở Biển Đông "giống như phát xít Đức từng làm trong Thế chiến II". Trở lại Hội nghị APEC mới đây, mặc dù phía Philippines từ Tổng thống tới Ngoại trưởng và Chủ tịch Ủy ban tổ chức APEC đều cam kết không nêu vấn đề Biển Đông trong nghị trình chính thức, đồng thời bày tỏ hoan nghênh và đón tiếp trọng thị đối với ông Tập, nhưng các nước khác và dân chúng Philippines vẫn dấy lên tiếng nói chỉ trích Trung Quốc. Tờ “Thương báo” của Philippines ngày 12/11 dẫn phát biểu của Người phát ngôn Bộ ngoại giao nước này Charles Jose nói nhân dịp APEC, Philippines sẽ công bố về những trình tự kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế. Trước dư luận và những tiếng nói lên án những hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông tại APEC-23, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lưu Chấn Dân ngày 17/11 lên tiếng hăm dọa: “Chính phủ Trung Quốc có quyền và khả năng giành lại những quần đảo, rạn san hô bị các nước ASEAN chiếm đóng (?). Nhưng chúng tôi không làm như vậy. Đây là sự kiềm chế cực lớn để duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông”. Ngay sau Philippines, Bộ trưởng an ninh Indonesia Luhut Panjaitan ngày 11/11 cũng tuyên bố sẽ kiện Trung Quốc lên tòa án quốc tế vì đã đưa một phần lãnh thổ thuộc quần đảo Natuna của nước này vào bản đồ Trung Quốc. Theo ông Luhut, nói cái gọi là “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc nêu ra chẳng những trực tiếp ảnh hưởng tới lợi ích của Indonesia mà cũng ảnh hưởng tới lợi ích của các nước Malaysia, Brunei, Việt Nam, Philippines và đe dọa hòa bình, an ninh khu vực. Một tàu tiếp tế của Philippines thoát khỏi sự bao vây và truy đuổi của 2 tàu hải cảnh Trung Quốc ngày 29/3/2014. Ảnh: Reuters Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có quan hệ “đối tác chiến lược toàn diện” và có nhiều điểm tương đồng, nhưng phía Trung Quốc vẫn thường xuyên phá các cam kết mà lãnh đạo cấp cao đã đạt được. Trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng bí thư (TBT) Nguyễn Phú Trọng, ngày 15/10/2011, hai bên đã ra Tuyên bố chung, thỏa thuận 6 điểm về Biển Đông và 9 biện pháp đẩy mạnh quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, tới tháng 6/2012, Trung Quốc đã bất chấp thỏa thuận trên, tiến hành thăm dò dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam. Sau khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền thì tình trạng này vẫn tái diễn. Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 10/2013 của ông Lý Khắc Cường, hai bên đã thỏa thuận 3 biện pháp tăng cường hợp tác trên biển, nhưng chưa được bao lâu tới đầu tháng 5/2014, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải dương 981 và đông đảo tàu chiến tác nghiệp trái phép ngay trong thềm lục địa của Việt Nam. Gần đây nhất, sau khi kết thúc chuyến thăm Việt Nam hai ngày 5-6/11 của Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, hai bên đạt được nhiều thỏa thuận. Chiều 6/11 tới Singapore, thì ngày 7/11 ông Tập đã lớn tiếng tuyên bố một cách vô căn cứ rằng: “Toàn bộ khu vực Biển Đông từ trước tới nay là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc”. Phát biểu này của ông làm dư luận các nước ngạc nhiên và phản cảm vì nó mâu thuẫn với những phát biểu ở Việt Nam. Trong khi đó liên tiếp trong các ngày từ 14/11-16/11 mới đây, các tàu cá của Việt Nam đã bị hàng trăm tàu cá Trung Quốc vô cớ tấn công, đâm hỏng và phá hỏng hơn 40 tấm lưới của ngư dân đang tác nghiệp ngay trong vùng biển của Việt Nam. Ông Lý Khắc Cường phát biểu tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 hôm 21/11 ở Kuala Lumpur, Malaysia. Ảnh: AP Truyền thông Trung Quốc lên tiếng Những hành vi ứng xử trên của Trung Quốc khiến các nước ASEAN lo ngại, cảnh giác và bất bình. Thậm chí, chính truyền thông Trung Quốc cũng tỏ ra lo ngại. Trong bài “Chúng ta ngôn hành bất nhất, làm các nước ASEAN cảnh giác” đăng trên tờ Văn Trích của Trung Quốc ngày 6/6/2014, tác giả Hàn Lỗi viết: "Hậu quả của ngôn hành bất nhất sẽ không thể lường hết được, các nước ASEAN không tin và nêu cao cảnh giác đối với Trung Quốc, liệu các mặt hợp tác khác còn thuận lợi hay không? Môi trường an ninh còn đảm bảo hay không khi một nước đều bị các nước láng giềng hoài nghi và cảnh giác, thậm chí tẩy chay. Dư luận thế giới dù rất ngưỡng mộ những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong 30 năm qua, nhưng giờ đây sự ngưỡng mộ này bị mất đi thay vào đó là sự hoài nghi và cảnh giác. Liệu vai trò nước lớn và hình tượng quốc tế của Trung Quốc trên trường quốc tế còn giữ được không? Trung Quốc phải dùng bao nhiêu thời gian mới lấy lại được uy tín của mình? Rõ ràng việc ngôn hành bất nhất đã phải trả giá đắt." Trang web “China on-line” của Trung Quốc đầu tháng 1/2013 cũng viết: "Nhìn lại quan hệ đối ngoại những năm qua cho thấy rất nhiều nước đều lạnh nhạt và xa lánh Trung Quốc. Châu Á là láng giềng của Trung Quốc, nhưng có mấy nước gắn bó với Trung Quốc, trái lại càng xa lánh, ngay Triều Tiên là nước anh em chung một chiến hào nay cũng đồng sàng dị mộng. Myanmar từng gắn bó khăng khít, vừa qua đã dấy lên làn sóng chống Trung Quốc và dùng vũ lực xua đuổi người Hoa… Chúng ta vẫn tuyên truyền Trung Quốc có bạn bè khắp năm châu, nhưng giờ đây nhìn lại có mấy nước là bạn bè?" Trong bài “Nước cờ chiến lược Trung-Mỹ”, đăng trên tờ Văn Trích ngày 17/6/2014, tác giả Ngưu Bạch Vũ cũng cho rằng Trung Quốc vẫn chưa tự hoàn thiện mình về cả ba mặt, trong đó có hai chiến lược quan trọng nhất về đối ngoại hiện nay là Ngoại giao nước lớn và Ngoại giao láng giềng đều bộc lộ yếu kém. Trang Đa Chiều hôm 28/10 viết: “Thời gian qua, phái quân sự cứng rắn ở Trung Quốc muốn sử dụng vũ lực, nhưng hậu quả đã đi ngược lại mong muốn của Trung Quốc. Một số nhân vật cấp tiến khác ở Trung Quốc hiện đang kêu gọi lãnh đạo cần chuyển từ giấu mình chờ thời sang cái gọi là 'can dự tích cực trong khu vực'.” Đa Chiều cho rằng mọi hành động gọi là “can dự tích cực” kể cả quân sự ở Biển Đông đều bất lợi đối với Trung Quốc và càng làm cho các nước Đông Nam Á phản cảm hơn. Hành động này lợi bất cập hại. Trong khi đó, tờ Washington Post (Mỹ) ngày 18/11 đưa tin, ông Tập Cận Bình "bị cô lập và khó chịu khi tham dự APEC ở Philippines". Ông Lý Khắc Cường có lẽ cũng sẽ có cảm giác như trên khi tham dự Hội nghị ASEAN +1 (ASEAN-Trung Quốc), ASEAN+3 (ASEAN-Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) lần thứ 18 và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á lần thứ 10 tổ chức ở Kuala Lumpur, Malaysia từ 20-23/11/2015. Dư luận các nước cho rằng “An ninh Châu Á mới” do ông Tập Cận Bình đưa ra theo tinh thần 4 chữ “Thân, Thành, Huệ, Dung” cũng như “Ngoại giao láng giềng là hàng đầu” chỉ là bề ngoài, còn đe dọa, lấn ất.Thậm chí, dùng vũ lực và tiếp tục xây dựng trái phép đảo nhân tạo để từng bước thực hiện ý đồ chiếm toàn bộ mà Trung Quốc gọi là “đường 9 đoạn” mới là nội dung thực chất của Ngoại giao láng giềng Trung Quốc đối với Khu vực Đông Nam Á./. Khủng bố Mali: Lý do "lực lượng tinh nhuệ" TQ không cứu công dân theo Trí Thức Trẻ ======================== "Bụt chùa nhà không thiêng". Sai lầm của Bắc Kinh lão nói từ lâu lém rùi. Từ hồi năm nẳm lận. Rằng thì là Bắc Kinh đã sai lầm chiến lược nghiêm trọng. Sai lầm tới mức mà lão cứ tưởng có gián điệp chiến lược nằm ở cấp hoạch định chính sách quốc gia. Từ sai lầm chiến lược nghiêm trọng này , mới dẫn đến phát ngôn bất nhất. Phát ngôn bất nhất thì cùng lắm bị cho là điên, chứ không nguy lắm. Sở dĩ Bắc Kinh sẽ nguy chính vì sai lầm chiến lược này. Khi nào tình thế không thể xoay chuyển được, lão sẽ nói ra cái ngu nó ở chỗ nào. "Thiên cơ khả dĩ lộ từ từ...". Mặc dù trở nên giàu có đột xuất do số phận mỉm cười, nhưng vẫn điếu thoát khỏi tư duy từ nguồn gốc "ve chai lông vịt".
    1 like
  8. Qua nhận định phối hợp giữa thiên văn Đông phương và những khám phá về hệ mặt trời của thiên văn hiện đại đã cho chúng ta thấy có sự chính xác về mặt số lượng hành tinh, đó là 10 hành tinh. Đối với mặt trời, theo Lý học Đông phương, được phân loại Âm Dương Ngũ Hành với thuộc tính quy ước "dương thổ", điều này cho thấy tính tự thân của thành phần trung tâm cũng phải phân ra Âm/ Dương. Sự đầy đủ cấu trúc hành tinh Âm Dương Ngũ Hành ở đây cho chúng ta thấy rõ về 1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, tổ hợp này sẽ vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là công thức Hà đồ đã được bàn từ cổ chí kim, ngay trên các diễn đàn liên quan đến Lý học cũng thường xuyên đề cập, tuy nhiên thực sự là vẫn chưa rõ bản chất của nó là gì! Hà đồ thể hiện lý tương sinh của quy luật tổng thể sau khi đổi Tốn Khôn Lạc thư thể hiện lý tương khắc nhằm điều chỉnh các mối tương quan với Hà đồ Một cách tương ứng về bản chất, thì bất kỳ một hành tinh nào trong hệ mặt trời cũng sẽ vận động theo Hà đồ - Lạc thư, chúng ta lấy đối tượng chủ thể là trái đất. Hà đồ của địa cầu (nếu xét chưa được phối hợp với Hậu Thiên Bát Quái) Đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ cấu trúc Hà đồ - Lạc thư rồi. Tuy nhiên, khi chúng ta định vị trên trái đất, tức chọn trái đất là chủ thể nhận tương tác, thì sẽ xảy ra những nhận định: Trái đất (Hà đồ - Lạc thư)/con đang vận động trong một hệ mặt trời (Hà đồ - Lạc thư)/mẹ sẽ nhận những chủng loại tương tác có quy luật từ hệ mặt trời - khách thể. Đồng thời, cũng có nhận định chi tiết hơn về sự sinh trưởng của các loài thực vật (được lấy làm biểu tượng Cây Đời Sống chứ không phải con người hay động vật nào đó) trải qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đối với hệ mặt trời là khách thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư mẹ, thì quy luật tương sinh này bao trùm, tức quy luật của Thiên Can như chúng ta thấy. Dòng khí tương tác Thiên Can vận động Đối với trái đất là chủ thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư con, trên nó có thực vật sinh sống, trải qua chu kỳ bắt buộc của Hà đồ con trong một năm trái đất quay quanh mặt trời, nhưng dòng vận động chịu tương tác theo quy luật xuân - hạ - thu - đông tức mộc - hỏa - kim - thủy. Cùng với các dữ kiện khác như: sao Mộc vận động chu kỳ 12 năm, trái đất chu kỳ 1 năm, mặt trăng quay xung quanh trái đất 12 vòng... mà các nhà Lý học cổ xưa khám phá ra Địa Chi (với sự chú ý dặc biệt về sự sống trên trái đất - dương mộc có cây xanh, chu kỳ 1 năm và sao Mộc - âm mộc, chu kỳ 12 năm, không có thực vật). Dòng khí tương tác Địa Chi vận động Địa Chi chính là quy luật tương tác tới trái đất quay quanh Mặt trời trong sự phối hợp đầy đủ Âm Dương giữa Trái đất (1 năm) - dương mộc và sao Mộc (12 năm) - âm mộc (với sự nhận biết thông qua chu kỳ Mặt trăng, cũng là một điểm tham chiếu). Điểm hay ở đây là chu kỳ sinh - vượng - mộ và 4 cung hành thổ chuyển tiếp từ các hành khác nhau trong quá trình tương sinh của quy luật tương tác, ở đây quy luật này chính là Hậu Thiên Bát Quái và chỉ với chủ thể là trái đất, cây xanh, động vật, con người mà thôi. Hậu Thiên Bát Quái sau khi điều chỉnh Tốn Khôn Không chỉ vậy, Địa chi ngoài nhận thức về vạn vật như cây xanh, mà còn chính là tương tác tới trái đất theo Hậu Thiên Bát Quái. Hậu Thiên Bát Quái này khi xét trong hệ mặt trời thì là từ toàn hệ mặt trời đi tới chủ thể Trái đất, và khi xét trong hệ thiên văn lớn hơn cũng vẫn là chính nó, tuy nhiên sẽ có những công thức khác nữa như Huyền không phi tinh chẳng hạn, tất nhiên Huyền không phi tinh sẽ vận động tuân thủ quy luật Hà đồ. Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu La kinh sau khi chỉnh Tốn Khôn Huyền không phi tinh phối Hà đồ (dùng tên gọi phối công thức) Sau khi nhận xét tổng quát như vậy, chúng ta quay trở lại Bảng lục thập hoa giáp. Địa cầu chủ thể nhận tương tác theo quy luật Địa Chi với sự quay quanh mặt trời chu kỳ một năm và nhận tương tác từ toàn thể hệ mặt trời theo quy luật khách thể Thiên Can, ở đây Thiên Can là quy luật chính và quy tắc sinh - vượng - mộ của một hành nào đó đã được nhận biết. Đồng thời, giữa khách thể hệ mặt trời (Thiên Can) và chủ thể Nhân trên trái đất luôn tạo nên 5 trạng thái tương quan lẫn nhau: sinh, khắc, hòa, bị sinh, bị khắc. Mặt khác, điểm bắt đầu liên kết khởi thủy giữa 5 trạng thái trên là từ "mốc" Giáp Tý cũng đã khám phá (sẽ phân tích sau) để từ đó có Bảng lục thập hoa giáp (30 năm Dương, 30 Âm). "Vận khí" ở đây là "trường khí được tạo ra" trên trái đất tại thời điểm "giao" giữa Thiên Can và Địa Chi, tức khi một con người, động vật, thực vật được sinh ra trong thời điểm này sẽ nhận "thuộc tính" riêng dựa trên Thiên Can làm chủ (hệ mặt trời là mẹ của trái đất). Điều này có thể hiểu như sau: - Hệ mặt trời: khách thể mẹ. - Trái đất: chủ thể con, nhưng trái đất tại một thời điểm trên nó có "con người..." được sinh ra, tức "Con người" đã trở thành chủ thể và lúc này, Hệ mặt trời và trái đất là khách thể liên hợp. Ý nghĩa này mang mật mã rõ ràng về Thiên - Địa - Nhân hợp nhất. Từ đó, chúng ta sẽ thấy: Thiên Can (Gốc) -> Địa chi (Cành) -> Lục thập hoa giáp (Hoa của cây) và động vật, Nhân (động vật, con người) là Quả đậu ra từ Hoa. Tuy nhiên, khi chúng ta quan sát một công thức đặc biệt khác là bộ môn Huyền không phi tinh ở trên, nó tuân thủ chiều phi tinh trên Hà đồ (nghịch hoặc thuận) nhưng không tuân thủy công thức tương tác Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tại sao vậy? Bởi đây là quy luật ở một hệ thiên văn khác, nhưng nó vẫn phải tuân thủy quy luật tương sinh như của Thiên Can với chủ thể nhận tương tác vẫn là Trái đất. Qua bảng Lục thập hoa giáp, khi xét đến Bát Trạch phong thủy về các hướng hợp với cá nhân, thì chỉ có hai loại người Âm/ Dương phù hợp với 8 hướng của Hậu Thiên Bát Quái, vấn đề này ở đây sẽ được hiểu như thế nào? Bản chất chính là trái đất tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường trái đất, đây phải chăng chính là nguyên nhân! Điều này cho thấy, cần xem xét phương pháp phong thủy mang tính lý thuyết thống nhất cao là Bát Trạch và Huyền Không phi tinh, rồi mới đến Loan Đầu và Dương trạch. La kinh chỉnh Tốn Khôn Cũng như hệ mặt trời, trái đất vận động theo quy luật Hà đồ - Lạc thư, thì quy luật dòng trường khí vận động theo Thiên Can vẫn đang phát huy và ảnh hưởng toàn diện đến quy luật vận động của trái đất, và ngay cả con người sinh sống trên nó, chưa kể Hệ mặt trời đang vận động dựa trên công thức Hà đồ - Lạc thư, vì vậy phải chăng ta có sự phối hợp: Thiên Can phối Hà đồ (được phối Hậu Thiên Bát Quái để nhận thức thêm về tổ hợp tương tác tại một thời điểm lên cùng một sự vật, hiện tượng) Ở đây, chúng ta chưa xét về mặt quy ước Độ Số! Qua đó, có thể thấy các công thức ở trên mô phỏng những tổ hợp tương tác từ các khách thể tới các chủ thể đã chọn: - Hệ mặt trời tự quay quay chính nó, cấu trúc trường khí vận động trong nó theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Dòng khí vận động theo lý tương sinh của Hà đồ là Thiên Can. - Trái đất tự quay quanh mình nó, tạo nên từ trường và trường khí vận động trong nó vẫn chính là công thức ở trên Hà đồ - Lạc thư. Trường khí vận động tương tác mà trái đất nhận được theo Địa Chi (sự phát triển của Hậu Thiên Bát Quái). - Động thực vật, con người trên Trái đất chịu tương tác theo quy luật phối hợp giữa Thiên Can (sinh) -> Địa Chi (sinh) -> Vạn vật với thuộc tính tuân thủ Lục thập hoa giáp. Vạn vật vẫn tuân thủ công thức Hà đồ - Lạc thư và nhận quy luật tương tác của dòng khí vận động theo Địa Chi tức Hậu Thiên Bát Quái, để từ đó chúng ta thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ. - Riêng cho trái đất ở trạng thái tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường, thì mỗi cá nhân ngay khi sinh ra có thuộc tính trong bảng Lục thập hoa giáp sẽ tương ứng Tây hoặc Đông tứ trạch của bộ môn Bát Trạch nữa. - Không chỉ vậy, còn phải xem xét tiếp công thức Thiên Can phối Hà đồ là như thế nào? Và như đã biết, trong Lục thập hoa giáp thì Thiên Can quyết định thuộc tính của mỗi Con Người khi sinh ra, điều này chỉ rõ sự tất nhiên và hợp lý của Thiên Can có quan hệ như thế nào với Hà đồ - Lạc thư! Để từ đó, nhận thức được bộ môn Độn Giáp và khái niệm "Hóa Khí". - Riêng đối với Huyền không phi tinh, rõ ràng ở đây chúng ta không thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái mà chỉ thấy quy luật dòng trường khí vận động thông qua Cửu Cung tức Hà đồ một cách liên tục 9x9 trường hợp thay đổi, mỗi trường hợp dịch chuyển cho 1 năm. Quy tắc 9x9 cho mỗi năm này đã chứng tỏ có những quy luật tương tác khác nằm ngoài hệ mặt trời tới trái đất theo công thức Huyền không phi tinh. - Chúng ta chưa nói đến bộ môn Thái Ất hay Tử Vi (với thiên bàn lập trên quy luật tương tác dựa trên công thức Địa Chi phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái). Thái Ất với quy luật tương tác chu kỳ 3 năm vào 1 cung, nhưng không vào trung cung, đã chứng tỏ một quy luật tương tác khác nữa từ hệ thiên văn ngoài hệ mặt trời, nhưng lại theo công thức Hậu Thiên Bát Quái 8 cung, sau 24 năm lặp lại. - Chúng ta vẫn chưa nói đến Tiên Thiên Bát Quái. Từ đó, quy tắc lập 64 quẻ của Kinh Dịch là dựa trên Tiên Thiên Bát Quái hay Hậu Thiên Bát Quái? Ghi chú: - Qua đó, chúng ta thấy rất rõ rằng: tại một thời điểm trên trái đất, với chủ thể là Con Người nhận được một số tổ hợp tương tác, đặc trưng nhất là theo 1 năm bởi vì bộ môn Huyền không phi tinh, chưa kể bộ môn Thái Ất, rất là phức tạp chứ không đơn giản. Điều kiện kiên quyết chính là phải thấy được công thức Hà đồ - Lạc thư hàm nghĩa gì! - Con người: có thuộc tính từ Lục thập hoa giáp. Toàn bộ Con Người trong dòng vận động của công thức Hà đồ - Lạc thư dưới quy luật điều khiển của Thiên Can. Con Người đang nhận tượng tác theo quy luật của Thiên Can và Địa Chi trong Hệ mặt trời, đồng thời cũng nhận các quy luật tương tác lớn khác ngoài Hệ mặt trời như Huyền không phi tinh, Thái Ất, Tử Vi... - Chúng ta cần thiết phải giải phóng được nguyên lý của Bát Trạch áp dụng cho mỗi Con người ngay tại thời điểm sinh ra. - Rồi từ đó nhận thức được khái niệm quan trọng "Hóa khí, hóa vật, hóa sinh...", có nghĩa rằng trường khí Thiên (tùy hệ thiên văn) áp đặt lên Con Người - đang ở một trạng thái có thuộc tính nào đấy sẽ bị "Hóa" bắt buộc. Và từ đó, khi triển khai Phong thủy để dùng các phương pháp, chẳng hạn trấn yểm để "Hóa" thành kết quả nào đấy vậy. Ta có thể lấy ví dụ, 1 người tuổi Kỷ Sửu, trong năm Giáp sẽ có tương tác hành Mộc - Giáp tới thuộc tính cá nhân sinh năm Kỷ Sửu -> sẽ có những thay đổi tùy nghi tương ứng... - Khi nhận thức được Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và Con người, động vật, thực vật thì sẽ nhận định tại sao Hậu Thiên Bát Quái với Ly trên Khảm dưới và Tiên Thiên ngược lại, trong sự phối hợp xem xét tổng thể các mối quan hệ giữa các hệ thiên văn khác nhau. - 12 cung Hoàng Đạo của thiên văn Tây Phương thực chất chưa hiểu ở 4 cung Mộ - hành Thổ, do vậy không thể là gốc gác từ đấy được. - Các phân tích ở trên chưa nói đến mối quan hệ với một chủ thể khác trái đất, ví dụ là sao Hỏa chẳng hạn.
    1 like
  9. SỰ THÀNH CÔNG CỦA TỔNG CTY DTT Tất nhiên, chúng ta cần thừa nhận tài năng của người lãnh đạo Cty và sự cố gắng của toàn thể cán bộ Tổng Cty DTT. Nhưng kèm theo đó là sự tự hào của Địa Lý Lạc Việt với một sự tự tin vững chắc khi công bố ứng dụng của Phong thủy Lạc Việt , ngay từ đầu xây dựng trụ sở Cty này. ===================== Doanh nhân Nguyễn Thế Trung: Thương vụ triệu đô và niềm tin vào phụ huynh 21/11/2015 08:38 Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc CTCP công nghệ DTT, ông Nguyễn Thế Trung quan niệm, nếu triển khai giáo dục đào tạo và trải nghiệm (STEM) sớm từ bây giờ, thì 20 năm sau sẽ có được kết quả, tương tự như cách đây 20 năm, ở thế hệ 7x, ai đầu tư cho tiếng Anh thì hiện tại, họ đang là người nắm cơ hội và thành công hơn. Bớt một bữa bia sẽ tạo cơ hội cho con mình trải nghiệm STEM Khoảng 1 tháng rưỡi nữa, vào đầu năm 2016, Khu đào tạo và trải nghiệm STEM tại Dolphin Plaza (Mỹ Đình, Hà Nội) của DTT sẽ bắt đầu đón lứa học viên đầu tiên cho các khóa đào tạo. Sau đó, vào tháng 3, Khu vực trải nghiệm với các công nghệ mới nhất trên thế giới hiện nay như đo sóng não, thế giới ảo, robot, Internet của vạn vật (IOT) sẽ được mở cửa. “Trên diện tích hơn 700 m2, Khu đào tạo và trải nghiệm STEM gồm nhiều hoạt động được xây dựng theo theo chủ đề nhất quán như Giai điệu vũ trụ, Khám phá đại dương, Bí mật sự sống, Thế giới hóa học, Bảo tồn sinh thái, Thành phố thông minh, Nông nghiệp thông minh... Các chủ đề được cập nhật nhiều lần trong năm. Với ứng dụng IOT, học sinh sẽ không chỉ trải nghiệm tại trung tâm mà còn tiếp tục được trải nghiệm tại nhà trên Internet và các thiết bị di động”, ông Nguyễn Thế Trung nói về STEM với đầy đam mê. Trong kế hoạch của ông, địa chỉ tiếp theo sẽ là TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Cần Thơ, Hải Phòng... Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc CTCP công nghệ DTT, ông Nguyễn Thế Trung “Tôi tin là các bậc phụ huynh sẵn sàng tiết kiệm một món đồ thời trang hay một bữa bia để cho con cái mình có thể trải nghiệm chương trình tốt nhất về STEM trên thế giới”, ông Trung hào hứng. Ông Trung có lý do để tin vậy. Giáo dục STEM, về bản chất được hiểu là trang bị cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Các kiến thức và kỹ năng này (gọi là kỹ năng STEM) phải được tích hợp, lồng ghép và bổ trợ cho nhau giúp học sinh không chỉ hiểu biết về nguyên lý, mà còn có thể áp dụng để thực hành và tạo ra được những sản phẩm trong cuộc sống hằng ngày.Quan trọng hơn, giáo dục STEM chú trọng phương pháp “học qua hành”, hình thành khả năng tư duy sáng tạo để có đủ năng lực làm việc “tức thì”; tư duy máy tính là khả năng lặp đi lặp lại nhiều vòng thu thập dữ liệu, xử lý dữ liệu để điều chỉnh quyết định cũng như khả năng làm việc nhóm. Đây là lý do mà nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, EU đang coi giáo dục STEM là ưu tiên hàng đầu. Ở châu Á, Singapore, Malaysia đang đi đầu... Ở Việt Nam, STEM không mới với nhiều bậc phụ huynh thời facebook, nhưng không có nghĩa là họ sẽ sẵn sàng đầu tư. “Chúng tôi biết điều đó. Để có giáo trình tốt nhất về STEM, chúng tôi phải mua của Đại học Carnegie Mellon (trường đại học số 1 thế giới về kỹ nghệ phần mềm - PV) nhiều chục triệu USD cho thị trường Đông Nam Á, nếu tính riêng Việt Nam cũng nhiều triệu USD. Để dạy được, chúng tôi phải đầu tư các bộ robot và máy tính khoảng 1.500 USD cho nhóm 3 học sinh. Hiện nay, ngành giáo dục chỉ cho chúng tôi dạy vài giờ trong tuần với số lượng học sinh rất ít. Nếu tính bài toán đầu tư, thì hoàn toàn không có lãi vì chúng tôi không thể thu phí quá cao. Nhưng giống như những làn sóng tiến bộ khác, xã hội và đặc biệt các phụ huynh học sinh sẽ là những người quyết định sự thành công của chúng tôi. Họ sẽ hành động”, ông Trung chia sẻ. Ông Trung không nhắc lại, nhưng DTT đã từng thất bại một lần trong thương vụ triệu đô để nhập khẩu giáo trình của Đại học Carnegie Mellon vào năm 2008. Khi đó, mục tiêu của DTT là triển khai đào tạo cho cấp đại học và người đi làm. Chương trình không thành công vì khủng hoảng kinh tế xảy ra sau đó. “Thương vụ không thành này lại mở cho chúng tôi 2 cơ hội. Một là, hiểu hơn về căn nguyên của nguồn nhân lực công nghệ cao trong thời đại mới là sự cần thiết của nền tảng tri thức liên ngành và tư duy máy tính. Hai là, được tiếp cận với một đại học hàng đầu và biết cách họ mang giáo dục công nghệ cao đến với xã hội ngay từ học sinh phổ thông. Đây là lý do mà năm 2010, chúng tôi quyết định một lần nữa bắt tay làm giáo dục. Lần này đi thẳng vào điểm cốt lõi là giáo dục STEM ở cấp phổ thông”, ông Trung không ngần ngại nói về bài học kinh nghiệm trong đầu tư vào giáo dục của DTT. Lần này, bước đi của DTT có vẻ vững chắc và khả quan hơn khi chọn đúng môn vừa đại diện cho giáo dục STEM, vừa mang lại hứng thú cho học sinh là STEM Robotics. Tính đến nay, đã có nhiều ngàn lượt học sinh được tiếp cận phương pháp học này ngay từ lớp 2. Hiện nay, chương trình đang được mở rộng sang nhiều môn học STEM - khoa học máy tính; STEM - công nghệ phục vụ giải trí; STEM - Internet của vạn vật... “Chúng tôi đang hướng đến một chương trình đầy đủ toàn diện từ lớp 1 đến lớp 12. Nếu triển khai giáo dục STEM sớm từ bây giờ, 20 năm sau chúng ta nhìn lại và sẽ có được những kết quả. Giống như cách đây 20 năm, ở thế hệ 7x, ai đầu tư cho tiếng Anh thì hiện tại, họ đang là người nắm cơ hội và thành công hơn”, ông Trung nói. Trách nhiệm của những người trẻ Nguyễn Thế Trung là thế hệ 7x đang nắm trong tay cơ hội đó. Trung vốn là dân chuyên toán Đại học Tổng hợp Hà Nội, từng giành giải nhì Toán quốc tế năm 1995 tại Canada. Năm 1996, Trung sang Australia học công nghệ thông tin tại Đại học Công nghệ Sydney, theo học bổng toàn phần của Chính phủ Australia. Tại đây, năm thứ 4, mặc dù chưa tốt nghiệp, Trung đã làm giám đốc kinh doanh cho một công ty của Australia với mức lương 70.000 AUD/năm, quản lý nhiều nhân viên có bằng thạc sĩ, tiến sĩ... Nguyễn Thế Trung hiện đang điều hành công ty với 200 nhân viên, với các chi nhánh và liên doanh toàn cầu tại Mỹ, Singapore và Đan Mạch... Bởi vậy, Trung nhận thức rõ ảnh hưởng của chất lượng giáo dục tới nguồn nhân lực. “Giáo dục STEM là một trụ cột quan trọng bậc nhất của DTT, nhưng thực ra nó nên là trụ cột quan trọng bậc nhất của cả ngành giáo dục Việt Nam vì tác động của nó tới từng học sinh, tới từng gia đình, tới đội ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý giáo dục. Một ví dụ đơn giản, một học sinh 8 tuổi nếu “học qua hành”, áp dụng khoa học công nghệ và tư duy máy tính vào hoạt động hàng ngày, nó sẽ tạo ra môi trường thực học, thực làm, thực sáng tạo không chỉ trong nhà trường mà trong cả xã hội. Chính học sinh 8 tuổi này sẽ đòi hỏi những người lớn xung quanh cũng phải nhanh chóng nói thực, làm thực và sáng tạo thực”, ông Trung làm rõ. Nhưng ở góc độ kinh doanh, đây không phải là khoản đầu tư hấp dẫn, thậm chí là khó sống trong bối cảnh quản lý giáo dục vẫn theo mô hình tập trung chưa phát huy sáng tạo cùng sự tham gia của xã hội. Có thể điều này cũng lý giải một phần đầu tư của khu vực tư nhân vào giáo dục còn rất thấp. “Chúng tôi coi việc giáo dục STEM vừa là định hướng chiến lược trong kinh doanh, vừa là trách nhiệm xã hội. Nói ví dụ, trồng cây macca thì 6-7 năm mới có lãi, trồng sâm Ngọc Linh cũng phải 5 năm, trong kinh doanh người ta coi thế là dài. Nhưng trong giáo dục, không thể nhìn vào thời gian để quyết định đầu tư”, ông Trung nói và kể về những người bạn của mình. Đó là Nguyễn Quang Thạch phải mất 18 năm triển khai chương trình Sách hóa nông thôn – để trẻ em nông thôn có sách đọc. Đó là Đỗ Hoàng Sơn cũng mất tới 7 năm với dự án sách khoa học có Index, hiệu sách có biển sách khoa học - những điều căn bản như cần phải uống nước đun sôi - mà vẫn chưa đâu vào đâu... Hay như việc kết hợp với bà Nguyễn Thị Hồng Minh, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc CTCP TID trong dự án Khu đào tạo và trải nghiệm STEM tại Dolphin Plaza, theo ông Trung, cũng dựa trên những điều cốt lõi như vậy bởi xã hội đang rất cần, nhưng lại chưa phổ biến, chưa được ngành giáo dục tạo điều kiện cho dạy học sinh trong giờ, nên chắc sẽ còn nhiều khó khăn. “Chúng tôi vẫn làm vì tin tưởng rằng, sự phát triển đi lên của Việt Nam cần một nền giáo dục hiện đại, hội nhập. Một em bé lớp 2 sẽ mất hàng chục năm để bắt đầu sử dụng các sản phẩm khác của DTT, nhưng với giáo dục STEM, em bé đó sẽ góp phần tạo nên sự tăng tốc của sức sáng tạo của xã hội. Em bé đó có thể là doanh nhân làm ra của cải vật chất, giá trị cho xã hội một cách thực sự. Đó mới là điều mà chúng tôi muốn hướng tới”, ông Trung nói. Có lẽ cũng phải nhắc lại một triết lý kinh doanh đơn giản của Nguyễn Thế Trung, đó là cách triết tự về từ “kinh doanh”: kinh là lớn, doanh là bao lại. Doanh nhân là người biết cách bao lại (phạm vi hóa) các việc lớn để biến nó thành sự thực. “Đó cũng chính là động lực của tôi. Việc càng lớn thì thử thách càng nhiều, đó là lúc ta phải cố gắng phạm vi hóa nó lại để giải quyết nhưng nhất quyết không được bỏ cuộc mà vẫn phải thực hiện bằng được việc lớn kia”, ông tâm sự. Khánh An
    1 like
  10. Để giả quyết các vấn đề đã nêu ví dụ Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái, cũng cần quay trở lại cấu trúc của hệ mặt trời. Hệ mặt trời theo quy ước Âm Dương Ngũ Hành Căn cứ vào sao Kim ở vành đai trong hệ mặt trời có thuộc tính quy ước là dương kim, do vậy tồn tại sao Diêm Vương thuộc tính quy ước âm kim, vấn đề này cũng giống như địa cầu - dương mộc và sao Mộc - âm mộc vậy. Cho nên, chắn chắn phải tồn tại trên thực tế sao Diêm Vương nhằm đảm bảo tính đầy đủ của một hệ Âm Dương Ngũ Hành - tức Hệ mặt trời sẽ có 10 hành tinh. Từ đó, chúng ta rút ra một số vấn đề: - Nguyên lý: "Dương trong Âm ngoài". "Dương tịnh Âm động": Mặt trời là tịnh tương đối so với các hành tinh quay chung quanh nó. "Âm thuận tùng Dương". - Mặt trời: dương thổ. - Địa cầu: dương mộc, chu kỳ 1 năm quanh chung quanh mặt trời - dương thổ (nhấn mạnh ở đây: chỉ có hành dương mộc mới sinh ra sự sống). Mặt trăng là một vệ tinh riêng của Địa cầu, ảnh hưởng tới quy luật lên xuống của thủy triều, chu kỳ sinh sản... - Sao Mộc (Thái Tuế): âm mộc, chu kỳ 12 năm. Bộ đôi sao Mộc và Địa cầu hành mộc có chu kỳ chung 12 năm, tạo nên cấu trúc Địa chi, kết hợp quy tắc "sinh - vượng - mộ" (chú ý dựa trên sự tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái) của vạn vật hữu tình. - Tương tự, sự kết hợp giữa Mặt trời - dương thổ và sao Thổ - âm thổ tạo nên cấu trúc độ số 5, 10 của hành thổ trung tâm Hà đồ. Điều này không có nghĩa là Mặt trời - độ số 5 và sao Thổ - độ số 10, mà ở đây thể hiện bản chất tương sinh của thuộc tính sự vật, hiện tượng và tính quy luật các con số tương ứng được khám phá ra. Đây là vấn đề mà khi nhìn vào Hà đồ hành thổ trung tâm độ số 5, 10 dễ "nhầm" cho rằng Mặt trời là hành thổ nhưng không phân ra âm/ dương. Như ở trên, Mặt trời có thuộc tính quy ước là dương thổ. - Vành đai hành tinh bên trong: Dương. - Vành đai hành tinh bên ngoài: Âm. - Vành đai thiên thạch: vùng đệm phân cách Âm Dương (hiệu chỉnh và tự cân bằng cho Âm / Dương). - Bội số chung chu kỳ cho Vành đai hành tinh bên trong, dương và Vành đai hành tinh ngoài gồm sao Mộc, Thổ: 60 năm - Lục thập hoa giáp: tích hợp giữa Thiên can (Lý tương sinh của Hệ mặt trời) và Địa chi (Lý tương tác theo dòng tương sinh mang tính quy luật tới Địa cầu và sao Mộc, trong đó Địa cầu có vạn vật hữu tình được lấy làm chủ thể nhận tương tác đó, thậm chí ngay cả một bộ phận hoặc cả Địa cầu cũng được lấy làm chủ thể). - Nguyên lý: "Dương trước Âm sau". - nguyên lý: "sinh - vượng - mộ" được xem xét đối với vạn vật hữu tình. - Lịch pháp: Âm lịch và Dương lịch. Đây là những kết luận để có thể hiểu sâu hơn về các quy ước, khái niệm liên quan như Hà đồ, Lạc thư, Lục thập hoa giáp, Thiên can, Địa chi, Ngũ vận lục khí... chẳng hạn, có quý vị hỏi: Hà đồ và Lạc thư là cái gì? Đây là một câu hỏi đã quá xưa cũ nhưng cực khó đấy! THI Hảo Nam-bang! Hảo Nam-bang! Tiểu quốc tảo khai Hội Niết-Bàn. Hạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-Đạo, Hảo phùng Ngọc-Đế ngự trần-gian. Thi ân tế chúng thiên-tai tận, Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an. Chí bửu nhơn-sanh vô giá định. Năng tri giác thế sắc cao ban. Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái! "Ngũ vận lục khí"!
    1 like
  11. Xin cảm ơn anh chị em đã giành những lời chúc lành cho tôi. Chúc anh chị em vạn sự an lành và ngày càng tinh tấn trên con đường nghiên cứu bản chất huyền vĩ của Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Cũng nhân dịp này, tôi chia sẻ với anh chị em hy vọng của tôi, rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương là một chân lý sẽ phải được sáng tỏ, không quá ba năm nữa.
    1 like
  12. Ai trả lời cho người dân Việt câu hỏi đắng cay này? 17/11/2015 09:46 GMT+7 TT - Chúng ta đã đánh mất nhiều thứ và giờ định đánh mất luôn môn sử trong nhà trường nữa hay sao? Vì đâu nên nỗi, ai trả lời cho người dân Việt câu hỏi đắng cay này? Tượng đài Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn tại đảo Song Tử Tây - Trường Sa - Ảnh tư liệu. Đầu tiên phải nói qua một chút về môn văn trước đã. Vì sao? Vì văn - sử có liên quan mật thiết với nhau, một đằng là tiếng - tiếng Việt, một đằng là sử - sử Việt. Nói hơi hình tượng, hai môn học ấy giống như đôi chân của một cơ thể, chúng khiến con người vững vàng cất bước với tâm hồn và trái tim yêu thương ở bên trong. Môn văn đã bị chán từ lâu rồi, từ khi giáo khoa thư bị gò vào một định hướng hẹp và khi học sinh thực hành bằng văn mẫu nữa thì chao ơi, sự phản văn đã rành rành. Trong khi môn văn bị đối tượng tiếp nhận nó lắc đầu thì môn sử cũng cùng chung số phận. Chúng ta đã đưa cho học sinh thứ sử gì vậy? Vì sao có tình trạng học sinh ngấy sử và không chọn nó làm môn thi bắt buộc? Nguyên do rất nhiều, nhưng tựu trung sử trong giáo khoa thư cho cấp II và cấp III cũng với nguy cơ phản sử. Sử mà các em phải học đậm nhất từ sau nước Việt Nam đánh đổ phong kiến và giành độc lập, rồi cứ thế là liên hồi chiến công, hết chiến dịch này đến trận đánh khác. Các em phải thuộc những thắng lợi luôn luôn là vẻ vang ấy và không chỉ có vậy, còn phải thuộc những liệt kê trong đó mà chúng tôi gọi là cách học sử đếm xác và đếm súng. Tai hại rõ ràng, môn sử bị chính đối tượng tiếp nhận đẩy ra như một thứ bánh đã bị áp đặt vào khẩu phần ăn mỗi ngày cho những người đang lớn lên. Ai mà không ngấy, và khi đã ngấy rồi thì sẽ chán lẫn sợ. Nhưng nỗi chán và ngán môn sử của học sinh có đủ là lý do để chúng ta khước từ nó? Chúng ta - cụ thể là các nhà hoạch định, nhà sư phạm, nhà làm sách giáo khoa - đã làm gì với môn sử, với lịch sử của chính dân tộc mình? Lịch sử là môn xã hội bắt buộc trong giáo dục phổ thông của mọi quốc gia. Địa chính trị của Việt Nam nói riêng, môn lịch sử thiết nghĩ càng phải thấu đáo, khoa học, sâu sắc và dậy hương nữa mới phải. Nói như một danh nhân của nước Việt: “Học sử để làm gì? Học sử để sống với người đã chết”. Người Việt ta phải thấm sử để mài gươm, để khôn ngoan lên, rốt cùng là để tự tin với máu xương ngàn đời của ông cha đã dựng nên non sông đất nước này. Vậy mà người ta còn định thủ tiêu môn sử, ngụy biện rằng sử sẽ tan vào an ninh quốc phòng và giáo dục công dân... Mới nghe qua mà ai ai đều thấy rùng mình, thấy sử Việt bị tổn thương, bị xé vụn! Môn văn và môn sử chừng như đang bị “làm thịt”. Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn, một danh nhân khác nữa đã nói đại ý như vậy đó. Chúng ta đã đi qua biển dâu với hình ảnh “Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”, ấy vậy mà giờ đây có không ít học sinh phổ thông không biết Nguyễn Du là ai, Trần Hưng Đạo oai phong lẫm liệt thế nào. Chúng ta đã đánh mất nhiều thứ và giờ định đánh mất luôn môn sử trong nhà trường nữa hay sao? Vì đâu nên nỗi, ai trả lời cho người dân Việt câu hỏi đắng cay này? Lịch sử là lịch sử, xin thưa, dù nó có thể biến tướng hoặc biến mất trong giáo dục. Nhưng dân tộc này đã chứng minh bằng hàng ngàn năm dựng và giữ nước của mình, rằng lịch sử Việt Nam nằm trong máu thịt và tâm thức của người Việt, niềm kiêu hãnh của dân mình sẽ làm nó sáng lên dù có lúc nó phải sáng lên trong bóng tối. Và lịch sử cũng là thời gian, thời gian sẽ đặt mọi thứ vào đúng chỗ. Tôi tin môn văn rồi sẽ hấp dẫn như bản thân tiếng Việt và văn học. Song song đó, môn sử cũng được hồi sinh bằng mùi hương của ký ức và sức sống của một môn học xác thực có khái niệm quốc tế chung là khoa học lịch sử. DẠ NGÂN (nhà văn) ========================= Bài này trên báo Tuổi Trẻ và tôi đã comment như sau: Đại ý: Tôi không biết comment của tôi các vị có đăng hay không? Vì môn Sử thực tế đã bị xóa sổ từ lâu rồi. Khi người ta phủ nhận cội nguồn văn hóa sử truyền thống Việt tộc gần 5000 năm văn hiến (2879 TCN/ 2015). Tôi không tin họ sẽ đăng điều này. Cũng như tất cả những công trình nghiên cứu Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, không hề có một bài được đăng báo, thậm chí một số đầu sách liên quan còn không được in. Còn những quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống của Việt tộc thì thậm chí được in đến cả Nxb Kim Đồng, là một Nxb chuyên dành cho thiếu nhi. Thí dụ như cuốn "Lược sử Việt Nam bằng tranh", do ông Dương Trung Quốc chủ biên. Ai trả lời cho người dân Việt câu hỏi đắng cay này?
    1 like