-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 04/09/2015 in all areas
-
Thông Tin Cập Nhật
hoctronho and 4 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Một nhà khoa học tên tuổi của Việt Nam phát biểu thế này: "Nền khoa học Việt Nam đang tuyệt tự". Một trong những nguyên nhân là sự nghiên cứu không đến nơi đến chốn. Cái gì cũng "khoa học giải thích rằng..." và sau đó là sự tự thỏa mãn với lời giải thích đó. Điều này làm tôi liên tưởng đến cách mà các tôn giáo giải thích tất cả mọi hiện tượng tự nhiên chỉ với câu :"Đó là ý muốn của Chúa!". Sau lời giải thích này tất nhiên những người chăn cừu và các bác nông dân vác các bao lúa mỳ đến cối xay gió rất yên tâm với cuộc sống của mình. Cho nên xem bài này, tới đoạn "khoa học giải thích" làm tôi rất chú ý. Nhưng tiếc thay! Cho đến chữ cuối cùng, tôi vẫn chưa thấy "khoa học giải thích" vì sao các loại nấm đó lại tạo ra những vòng tròn. Bởi vậy, thứ kiến thức khoa học nửa mùa, nhưng đang lên ngôi là một nguyên nhân nữa làm cho "nền khoa học Việt Nam tuyệt tự". "Khoa học phải có tự do". Giáo sư Ngô Bảo Châu bảo thế! Ông Khiết trong Địa Lý Lạc Việt. Một hình tượng cho "Con cóc canh giữ vòng tròn" của nền văn hóa truyền thống....Pháp.5 likes -
SAI RỒI! Hôm qua, một người gọi điện thoại đến lão Gàn: - Bác có phải là Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh không ạ? - Vâng! Tôi đây! Anh gọi tôi có việc gì không? - Dạ! Tôi có thắc mắc về vấn đề Tử Vi Lạc Việt. - Vâng! Anh thắc mắc điều gì? - Tôi lấy lá Tử Vi trên trình Tử Vi Lạc Việt từ trang chủ của diễn đàn thì thấy nó sai. - Anh cho biết nó sai ở chỗ nào? Căn cứ vào đâu để anh bảo nó sai? - Tôi so với các trang web khác thì người sinh năm Nhâm Thìn 2012 phải là Trường Lưu Thủy. Nhưng trên Tử Vi Lạc Việt lại là mạng Hỏa? - À! Như vậy không phải là Tử Vi Lạc Việt sai, mà là nó không giống các trang web khác thôi. Anh nói Tử Vi Lạc Việt sai làm tôi tự ái quá! Tại sao anh không hỏi các trang web khác sai so với Tử Vi Lạc Việt? Vì sao các web khác lại ghi là Trường Lưu Thủy mà không phải là Sơn Đầu Hỏa như Tử Vi Lạc Việt...? Thưa quý vị và anh chị em. Như vậy là kể từ khi tôi viết cuốn: "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lạc Thư hoa giáp" (Nxb Thanh Niên 1999) đến nay đã 17 năm, đại đa số người quan tâm đến Tử Vi vẫn không hề hiểu tại sao lại phải đổi Thủy/ Hỏa. Mặc dù tôi đã giải thích như...ve sầu trong 17 năm qua. Thực tế cũng đã chứng tỏ rằng Tử Vi Lạc Việt dự báo chính xác đến từng chi tiết. Điều này đã được cô NPPT tổng kết, so sánh và chứng tỏ trên ngay diễn đàn của chúng ta và những cao thủ Tử Vi như bác Haithienha cũng chỉ dùng Tử Vi Lạc Việt để dự báo giúp mọi người trên diễn đàn, hoàn toàn chính xác. Đấy là xét về mặt chứng nghiệm. Còn cá nhân tôi thì không cần phải chứng nghiệm. Bởi vì - đối với tôi - khoa Tử Vi Lạc Việt thực chất là một mô hình biểu kiến, mang tính lý thuyết, mô tả những quy luật tương tác của vũ trụ với Địa Cầu và ảnh hưởng đến tư duy và hành vi của con người có thể tiên tri. Chính vì mang tính lý thuyết đó, nên nó cần một sự hợp lý lý thuyết trong mọi vấn đề tương quan và được thẩm định theo tiêu chí khoa học, cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Về mặt lý thuyết thì chính Thiệu Vĩ Hoa - ngôi sao Bắc Đẩu Dịch học của Trung Quốc - cũng thừa nhận rằng: "Vì sao có bảng Lục Thập Hoa Giáp thì từ hàng ngàn năm nay, những nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn không thể hiểu được, nó từ đâu mà ra. Và cho đến nay, vẫn là sự huyền bí khó hiểu" (Nguyên văn đã trích dẫn trong sách đã xuất bản). Nhưng thật tiếc thay, những người ăn cơm Việt tưới xì dầu lại cứ như là hiểu sâu sắc lắm và sách Tàu nói thì cứ phải từ đúng trở lên. Tính hợp lý lý thuyết một sự phát triển trong quá trình tiến hóa của vũ trụ và của sinh vật trên trái Đất này. Nó là nền tảng để có sự tiếp tục tiến hóa tới tư duy biện chứng và tư duy tổng hợp (Khoa học hiện đại mô tả là "tư duy phức hợp"). Do đó, tính hợp lý lý thuyết là điều tối thiểu là phải có như một yếu tố cần và chủ chốt trong tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Trở lại vấn đề đổi Thủy/ Hỏa trong bảng Lạc Thư Hoa giáp, chỉnh là sự hiệu chỉnh căn cứ theo tiêu chí khoa học thẩm định tính hợp lý lý thuyết của những di sản huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Xin lỗi! Nó không phải dành cho những khả năng tư duy cỡ giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu Việt Nam Nguyễn Văn Trọng. Nếu muốn tìm hiểu những bí ẩn huyền vĩ của vũ trụ từ nền văn minh Đông phương - có cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử - thì tối thiểu phải xác định những nền tảng kiến thức đúng về căn bản. Không xác định từ nền tảng kiến thức căn bản thì sẽ không thể tiếp tục phát triển về tri thức khoa học. Lúc đó, những ước mơ phát triển khoa học kỹ thuật sẽ chỉ còn là những khẩu hiệu suông mà thôi. Việc một người hỏi tôi hôm qua và cho rằng Tử Vi Lạc Việt "sai" so với các trang web khác, chứng tỏ rằng tri thức nhân danh khoa học của bảng Lạc Thư Hoa Giáp bị giới hạn tính phổ biến. Tất nhiên, đó là nguyên nhân để nền văn minh Đông phương luôn chìm đắm trong sự huyền bí, mặc dù thực tế ứng dụng hiệu quả trải hàng thiên niên kỷ. Đời người may lắm tồn tại được 100 năm, nhưng tri thức của cả một nền văn minh của nhân loại thì lại là sự tích lũy hàng thiên niên kỷ. Bởi vậy, mỗi con người, mỗi nhóm người, thậm chí cả một cộng đồng quốc gia có thể không cần đến kiến thức phù hợp với chân lý vẫn có thể tồn tại, thậm chí sống sung sướng nhờ vào những thành tựu phát minh từ những yếu tố khác. Trái Đất vuông hay tròn, không ảnh hưởng gì cuộc sống của bà ve chai cả. Nhưng trái Đất tròn và quay quanh Mặt trời phải là kiến thức nền tảng và phổ biến thì mới có những thành tựu khoa học như hiện nay.4 likes
-
Bước Ra Từ Huyền Thoại
vandung689 and 2 others liked a post in a topic by Minh Xuân
Phiên bản số hóa của cuốn BƯỚC RA TỪ HUYỀN THOẠI, Lịch sử nước Nam qua truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian đã được phát hành trên kho sách điện tử Alezaa. Sách có thể tải về và xem trên các thiết bị điện thoại thông minh và máy tính bảng. Kính mời bạn đọc: http://alezaa.com/view?id=212083 likes -
Nữ sĩ Ngân Giang phát biểu một câu nổi tiếng - ít nhất với tôi - "Nếu muốn làm giàu, ta không cần đến trí thông minh". Nhưng nếu tôi nhớ không nhầm thì ông George Soros cũng phát biểu: "Những triệu phú không tin vào chiêm tinh. Nhưng những tỷ phú thì rất cần môn chiêm tinh". Sự huyền diệu của Lý học chính là khả năng tiên tri. Đây là cái mà những tỷ phú phải cần đến nó theo lời ông George Soros. Bởi vậy, tôi mở chuyên mục này - Lý học và nguyên tắc làm giàu - để cùng với quý vị và anh chị em chia sẻ. ===================== 10 câu nói 'kinh điển' của nhà đầu tư huyền thoại George Soros (NDH) Giống như Warren Buffett hay Peter Lynch, George Soros được mệnh danh là một trong những nhà đầu tư vĩ đại nhất thế giới. Tin liên quan Warren Buffett đã biến 5 tỷ USD thành 12,2 tỷ USD như thế nào? Bằng tuổi bạn, Warren Buffett đã kiếm được bao nhiêu tiền?(14/08) 10 nguyên tắc của nhà đầu tư thiên tài Peter Lynch(05/08) George Soros: Trong đầu tư, hãy im lặng mà làm(23/06) Nền tảng thành công của 'ông trùm' đầu cơ George Soros(02/01) Nhà đầu tư vĩ đại George Soros George Soros từng được biết đến là người 'phá sập ngân hàng Anh'. Tháng 9 năm 1992, ông đặt 10 tỷ USD vào một vụ đầu tư tiền tệ, bán khống đồng bảng Anh. Kết quả là ông đã đúng, và chỉ trong vòng một ngày thương vụ đó đã đem lại cho ông lợi nhuận 1 tỷ USD. Cuối cùng, ông đã thu về được 2 tỷ USD lợi nhuận trong vụ này. Ông cũng rất nổi tiếng với thành tích điều hành quỹ Quantum Fund với tỷ suất lợi nhuận bình quân lên tới hơn 30% trong thời gian làm lãnh đạo. "Khi mọi người đi đường bên tay phải, ông lặng lẽ tách khỏi mọi người để đi bên tay trái và rồi bất chợt mọi người nhận ra mình đang đi ở nước Anh" (nơi các phương tiện đi bên tay trái mới đúng luật). Đó là cách mà tờ The Wall Street Journal nhận xét về George Soros. Dưới đây là 10 câu nói kinh điển của nhà đầu tư huyền thoại này: 1. "Nếu đầu tư là một hoạt động giải trí, nếu bạn tìm thấy niềm vui, thì có lẽ bạn sẽ không kiếm được tiền. Đầu tư tốt là một công việc buồn tẻ." 2. "Anh đúng hay anh sai, điều đó không quan trọng, cái chính là anh kiếm được bao nhiêu khi anh đúng và mất bao nhiêu khi anh sai." 3. "Tôi giàu có vì tôi biết khi nào mình sai… Tôi tồn tại được nhờ nhận ra các sai lầm của mình." 4. "Tôi là một con người trước khi trở thành doanh nhân."5. "Nếu phải tóm tắt các kỹ năng của mình, tôi sẽ tóm gọn trong một từ: sinh tồn (survival). Và điều hành một quỹ đầu cơ đã tạo cơ hội để tôi vận dụng tối đa kỹ năng này." 6. "Tôi dựa rất nhiều vào bản năng động vật." 7. "Bong bóng thị trường chứng khoán không tự nhiên xuất hiện. Nó có cơ sở trên thực tế, nhưng thực tế bị bóp méo do nhận thức sai lầm." 8. "Một khi chúng ta biết rằng sự hiểu biết không hoàn hảo là một đặc tính của con người, thì không có gì phải xấu hổ khi làm sai, mà chỉ nên xấu hổ khi không thể sửa chữa những sai lầm đó." 9. "Điều khó nhất để đánh giá là mức độ rủi ro như thế nào là an toàn." 10. "Các thị trường liên tục ở trong tình trạng bất ổn và biến động mạnh, chúng ta kiếm lợi nhuận bằng cách chiết khấu những điều chắc chắn và đánh cược vào những điều bất ngờ." Xem thêm:Warren Buffett đã biến 5 tỷ USD thành 12,2 tỷ USD như thế nào? Linh Lam2 likes
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO ======================= Chủ đề: CHIẾN TRANH TIỀN TỆ DẪN ĐẾN CUỘC SUY THOÁI TOÀN CẦU? Kỳ 1: Có hay không cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn phiên bản Trung Quốc Trương Minh Huy https://www.facebook.com/groups/Chiemtinhtaichinh/?multi_permalinks=486696581489647¬if_t=group_highlights Huy đang có loạt bài đăng trên báo đầu tư tài chính về chủ đề "Chiến Tranh Tiền Tệ!. Tuy nhiên, có vẻ như anh Trần Hải biên tập không rành lắm về vấn đề này nên khi biên tập làm phát sinh nhiều vấn đề. Vì vậy, Huy trích đăng nguyên bản bài gốc gửi cho Tòa Soạn để các bạn đọc và đối chiếu. Cuộc chiến Tranh Tiền tệ lần 3 hiện tại có thể phân ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn 2010-2011 là giai đoạn đồng USD yếu và giai đoạn từ 2011 tới nay là giai đoạn USD mạnh lên. Mỗi một giai đoạn của đồng USD, có một hệ quả riêng. Tuy nhiên, sau khi biên tập thì trộn lẫn với nhau. Hoặc nội dung chính thảo luận về Trung Quốc phá giá tiền tệ không được đưa vào. Link bài trên báo Đầu Tư Tài Chính: http://www.saigondautu.com.vn/Pages/20150826/Ky-1-Cuoc-choi-cua-nuoc-lon.aspx Việc Trung Quốc phá giá hơn 4% đồng nhân dân tệ (NDT) trong 3 ngày 11.8 đến 13.8 đã khiến nhiều người lo ngại về một cuộc chiến tranh tiền tệ sẽ leo thang. Tuy nhiên, đây chỉ là một diễn biến trong cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ 3 nổ ra từ năm 2010. Để có được góc nhìn toàn cảnh về sự kiện này, tôi sẽ phân tích nguồn gốc của chiến tranh tiền tệ lần 3, hướng đi tiếp theo của cuộc chiến tranh tiền tệ và hệ quả của nó. Tam Quốc đại chiến: Góc nhìn toàn cảnh về chiến tranh tiền tệ lần 3. Cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ 3 được xem là bắt đầu từ năm 2010. Bộ Trưởng Tài Chính Brazil, Ông Guido Mantega nói vào tháng 9.2010 rằng: “Chiến Tranh tiền tệ toàn cầu đã bắt đầu”…”Đồng tiền của các ông nhưng vấn đề là của chúng tôi”. Khi Fed in tiền ồ ạt bởi các chương trình nới lỏng định lượng, Brazil đã chịu tổn thất nặng nề khi đồng Real tăng giá gần 40% trong năm 2009-2010. Brazil không có thặng dư thương mại và dự trữ ngoại hối khổng lồ như Trung Quốc nên phải vất vả giữa hai lựa chọn: Lạm phát cao và tăng giá đồng nội tệ. Công ty Nomura Global Economis nói rằng: “Brazil là kẻ thua cuộc lớn nhất trong cuộc chiến tranh tiền tệ”. Tờ Wall Street Journal đăng bài vào tháng 4.2011 nói rằng: “Brazill đang vẫy cờ trắng trong cuộc chiến tranh tiền tệ”. Nhưng Brazil chỉ là vùng ngoại vi trong cuộc chiến tranh tiền tệ. Cuộc chiến thực sự diễn ra giữa ba bên Trung Quốc-Mỹ; Mỹ-EU và EU-Trung Quốc bởi đây là ba khu vực kinh tế chiếm đến 60% GDP của toàn cầu. Tất nhiên, cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 mang tính chất toàn cầu và nổ ra ổ mọi nơi như Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản….nhưng các quốc gia này có thể xem như là vùng ngoại vi bởi quy mô nền kinh tế vẫn thấp hơn so với Mỹ, Trung Quốc, EU. Tâm điểm chiến tranh tiền tệ lần 3 là cuộc chiến giữa Trung Quốc và Mỹ. Mặc dù chính thức thì cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 diễn vào năm 2010 nhưng nguồn gốc của nó đã diễn ra từ những năm 1990, bắt đầu từ sự trỗi dậy của Trung Quốc sau ¼ thế kỷ chìm đắm trong nền kinh tế kế hoạch. Sau sự kiện Thiên An Môn vào năm 1989, mục tiêu của của Trung Quốc là tăng trưởng và việc làm thay vì sự ổn định theo chính sách gọi là “thép, gạo, ăn uống”. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao Trung Quốc không bao giờ từ bỏ việc thao túng tỷ giá, là phương tiện để đạt mục tiêu việc làm. Vào ngày 1.1.1994, Trung Quốc thông báo một hệ thống cải cách trong thị trường ngoại hối và tiến hành phá giá mạnh 38% và ở mức 8.7 NDT đổi 1 USD . Cú sốc này khiến Bộ Tài Chính Mỹ lên án rằng Trung Quốc là “kẻ thao túng”theo Đạo Luật Thương Mại 1998, theo đó cho phép Bộ Tài Chính loại bỏ những quốc gia sử dụng tỷ giá để giành lợi thế không công bằng trong thương mại quốc tế. Mãi cho đến tháng 7. 2005, Trung Quốc mới bỏ neo buộc tỷ giá vào đồng USD và cho phép biến động trong biên độ 2%. Mỹ tất nhiên cũng quan tâm đến vấn đề việc làm. Bong bóng dot.com năm 2000 và nợ dưới chuẩn năm 2008, khiến cho số người thất nghiệp của Mỹ tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp Mỹ tăng từ mức 6% vào cuối năm 2002 lên mức 9.9% vào năm 2009. Nỗi e sợ giảm phát, khiến Fed duy trì mức chính sách lãi suất thấp lâu hơn so với bình thường trong cả hai đợt đổ vỡ. Lãi suất liên bang giảm hơn 4.75% từ tháng 7/2000 đến tháng 7/2002. Cho đến năm 2004, lãi suất liên bang vẫn ở mức thấp 1.76%, tương đương với tháng 7/2002. Hệ quả của 5 năm duy trì lãi suất thấp là một quả bom nợ dưới chuẩn vào năm 2008. Lần này, Fed phải duy trì mức lãi suất 0% trong suốt hơn 7 năm qua. Với 3 vòng nới lỏng định lượng (QE) chưa từng có trong tiền lệ từ 2008-2014, Fed đã bơm ra 4,400 tỷ USD và khiến báo chí Mỹ gọi Bernanke là “máy in tiền”. Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống mức còn 5.9% vào tháng 1.2015. Nỗi ám ảnh giảm phát của người Mỹ và e sợ bất ổn chính trị tại Trung Quốc là lý do cuộc chiến Trung- Mỹ trở nên dai dẳng suốt 3 thập niên qua. Cả hai quốc gia đều cố gắng phá giá tạo lợi thế cạnh tranh nhằm giải quyết nhu cầu việc làm trong nước. Nhưng cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 giống như câu chuyện “Tam Quốc Chiến” giữa ba bên là Trung Quốc- Mỹ-Eurozone. Trong khi Mỹ và Trung Quốc tồn tại mối quan hệ đối kháng, Mỹ và Eurozone nói chung “cùng hội cùng thuyền” vì mối liên quan chặt chẽ trong thị trường tài chính. Việc người Mỹ tung ra gói QE2 vào tháng 11.2010 không chỉ lý do vì do của riêng họ mà còn là sự phối hợp với khu vực Eurozone trong việc duy trì sự an toàn hệ thống tiền tệ toàn cầu. Cuộc khủng hoảng nợ vào năm 2010 khiến nhiều người nghi ngờ về khả năng tan biến của đồng Euro. Sự lo sợ sụp đổ của đồng Euro khiến Eurozone không dám mở QE. Nhưng cả Mỹ và Trung Quốc đều không muốn đồng Euro tan vỡ. Mỹ và Trung Quốc cần đồng Euro tăng giá để giành lấy lợi thế xuất khẩu. Chính vì vậy, Mỹ tung ra QE2 để cứu đồng Euro ngay sau khi cuộc khủng hoảng nợ công 2010 nổ ra vào tháng 5.2010. Vì vậy, có một thực tế là đồng Euro gần như không đổi trong suốt năm 2007-2011, khi giao dịch ở quanh mức 1.3 USD/ EUR. Thậm chí ở giai đoạn 2010-2011, đồng Euro lại còn tăng giá trong bối cảnh nghi ngờ sự tan vỡ của khối Eurozone. Trong khi đó, Trung Quốc tích cực mua lại tài sản tài chính của các quốc gia ngoại vi Châu Âu như là một động thái làm đa dạng hóa kênh đầu tư vốn đã quá tập trung vào trái phiếu Mỹ và hỗ trợ cho Châu Âu. James Rickards nhận thấy giữa Eurozone và Mỹ tồn tại mối quan hệ cộng sinh và hỗ trợ nhau rất lớn bên cạnh sự cạnh tranh vì lợi ích riêng. Khi đồng tiền nào đứng trước nguy cơ mất giá, hoặc thậm chí là mất niềm tin về khả năng tồn tại, bên còn lại sẽ đóng vai trò hỗ trợ. Cuộc chiến giữa ba ông lớn tạo đã tạo ra ảnh hưởng rộng khắp toàn cầu. Năm 2010-2011, sự mất giá của đồng USD bởi QE2 khiến giá hàng hóa tăng vọt. Một số quốc gia như ở Trung Quốc, Việt Nam, Venuzuela bị ảnh hưởng bởi lạm phát cao. Trong khi đó, các nước mới nổi khác như Nga, Brazil bị dòng vốn đổ vào khiến đồng nôi tệ tăng giá rất mạnh, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Động thái của Fed năm 2010, là một dấu mốc quan trọng trong cuộc chiến tranh tiền tệ vì nó khiến cho các quốc gia phát triển khác phải vào cuộc. Vào tháng 10.2010, Chương trình QE của Nhật Bản được mở rộng lên 5,000 tỷ Yên để giảm bớt ảnh hưởng của QE2 của Mỹ. Sau đó mở rộng lên 45,000 tỷ Yên vào tháng 10.2011 và 70,000 tỷ yên vào tháng 4.2013. Đến tháng 10.2014, ngay sau khi Fed kết thúc QE3, Nhật Bản tiếp tục mở rộng lên mức 80,000 tỷ yên (khoảng 724 tỷ USD). Đi kèm với các gói QE là chương trình kích cầu theo Abenomics từ tháng 11.2012. Trong khi đó, Anh Quốc mở rộng gói QE vào tháng 10.2011, nâng tổng tài sản mua vào đạt 275 tỷ USD. Và đến tháng 7.2012, Anh đã mua vào lượng tài sản tổng cộng 375 tỷ USD. Sự mở rộng gói QE của Nhật và Anh vào năm 2011 đã làm chặn lại đà giảm của đồng USD. Giá hàng hóa toàn cầu sụt giảm với việc giá vàng lập đỉnh 1,923 USD/oz vào tháng 9.2011. Chính sách QE của các quốc gia như Mỹ, Anh và Nhật làm thay đổi xu hướng của dòng vốn quốc tế. Sự trồi sụt của thị trường chứng khoán các quốc gia mới nổi và cận biên đang tùy thuộc rất lớn vào dòng vốn này. Theo ước tính của NN Investment Partner, khoảng 22,000 tỷ USD đã chảy vào 15 quốc gia mới nổi từ tháng 7.2009 đến tháng 6.2015, đẩy thị trường chứng khoán các quốc gia này tăng giá. Trong đó, xu hướng nhận thấy, phần lớn dòng vốn chảy vào các thị trường mới nổi vào năm 2010-2011. Tuy nhiên, từ năm 2012-2013, một số quốc gia cận biên đón được làn sóng vốn di chuyển từ các quốc gia mới nổi như Việt Nam và các quốc gia vùng vịnh do hoạt động Carry Trade vì chênh lệch lãi suất cao để lại từ thời lạm phát cao 2011. Sau 3 năm đứng ngoài chiến tranh tiền tệ, ngày 22.1.2015, Eurozone bất ngờ thông báo trở lại với chính sách QE với việc mua vào 60 tỷ Euro mỗi tháng trái phiếu chính phủ các quốc gia Eurozone. Chương trình này được bắt đầu vào tháng 3.2015 và dự kiến đến tháng 9.2016, với tổng mức mua vào trị giá khoảng 1,100 tỷ Euro. Nhưng trước khi Eurozone tham chiến, “động thái đi trước” của Thụy Sĩ khiến thị trường tiền tệ thế giới chao đảo. Thụy Sĩ trở thành nơi trú ẩn của dòng vốn quốc tế từ năm 2011 khi các quốc gia Nhật, Anh, Mỹ liên tục nới lỏng tiền tệ trong khi đồng Euro đứng trước nguy cơ tan vỡ. Sự mạnh lên của đồng Franc Thụy Sĩ khiến quốc gia này phải can thiệp tiền tệ nhằm giảm bớt ảnh hưởng đến xuất khẩu. Lo ngại bị ảnh hưởng của việc Eurozone nới lỏng tiền tệ, Thụy Sĩ đã đón trước bằng việc bỏ mức sàn tỷ giá EUR/CHF ở mức 1.2 vốn duy trì trong suốt 3 năm qua. Sự kiện khiến đồng CHF mất giá 40% so với EUR chỉ trong 1 ngày. Các định chế tài chính như Barclay, Ngân hàng Citigroup và Deutsche Bank đã mất hơn 150 triệu USD trong bối cảnh hỗn loạn của thị trường. Các sàn giao dịch Forex bị đứng trước nguy cơ bị xóa sổ. Đồng Euro thậm chí có lúc đưa vào danh sách hạn chế giao dịch. Sự thực đằng sau việc phá giá tiền tệ của Trung Quốc? Việc Fed, người khởi xướng chiến tranh tiền tệ lần 3, kết thúc QE vào tháng 10.2014 không đồng nghĩa là cuộc chiến kết thúc, mà lại mở ra màn kịch mới. Chiến Tranh tiền tệ, không phải là cuộc chơi của những quốc gia nhỏ, luôn phải chật vật đối phó với những thay đổi chính sách của FED và các nước lớn. Cần phải hiểu rằng, bị bán phá giá đồng tiền do nguy cơ đảo ngược dòng vốn và chủ động phá giá để tạo lợi thế cạnh tranh là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Kể từ đáy giữa năm 2011, đồng USD đã mạnh lên khoảng hơn 30% so với các cặp tiền tệ chủ chốt và còn lớn hơn so với nhiều đồng tiền của các quốc gia mới nổi. Một thảm họa mới lại xuất hiện: Nguy cơ đảo ngược dòng vốn ở các quốc gia mới nổi và dòng tiền trở lại về Mỹ. Việc Fed duy trì lãi suất thấp kỷ lục trong suốt 7 năm qua đã khiến cho quả bom nợ toàn cầu tăng lên. Theo báo cáo của Mc Kinsey Global Institute vào tháng 2.2015, tổng nợ toàn cầu đã tăng lên 40% so với năm 2007 lên mức 199 nghìn tỷ USD. Tỷ lệ nợ/GDP toàn cầu năm 2014 là 286% so với 269% vào thời điểm năm 2007 do tăng trưởng GDP không theo kịp tăng trưởng nợ. Đồng USD rẻ đã khiến cho đòn bẩy tài chính của các quốc gia, doanh nghiệp bị tăng lên và họ thấm đòn khi đồng USD mạnh trở lại. Brazil một lần nữa là một ví dụ điển hình. Đồng Real đã mất giá tới hơn 40% so với đồng USD từ tháng 9.2014 đến tháng 7.2015 khi xếp hạng tín nhiệm của quốc gia này bị hạ. Chưa đầy 1 năm, giá trị các khoản nợ của Brazil đã tăng thêm 1/3 bởi đồng nội tệ mất giá. Các công ty mía đường, ngành xuất khẩu mũi nhọn của Brazil bị tổn thương nghiêm trọng khi đồng USD mạnh. Nhiều doanh nghiệp đường bị phá sản kéo theo giá đường thế giới giảm mạnh. Brazil không phải là câu chuyện duy nhất. Đồng nội tệ của hàng loạt các quốc gia ở Châu Á như Malaysia, Ấn Độ, Hàn Quốc... sụt giảm mạnh khi dòng vốn rút đi. Dòng vốn rút khỏi 15 nền kinh tế mới nổi là khoảng 600 tỷ USD trong quý 1.2015 theo ước tính của NN Invest Patners. Thậm chí ngay cả Trung Quốc cũng đứng trước thực tế đảo ngược dòng vốn. Tờ Telegraph cho biết, trước khi Trung Quốc diễn ra đổ vỡ chứng khoán vào tháng 6.2015, lượng vốn tháo chạy khỏi Trung Quốc là 800 tỷ USD trong vòng 1 năm trước đó. Một con số thực sự lớn cho dù Trung Quốc có đến 4,000 tỷ USD dự trữ ngoại hối. Hình 1: Lượng vốn tháo chạy khỏi Trung Quốc Trung Quốc có thể đang trên đường hạ cánh cứng. Từ năm 2012, sau khi nền kinh tế lao đao bởi lạm phát do Mỹ gây ra vào năm 2011, Trung Quốc phải tung ra các gói kích cầu nhỏ hơn như 157 tỷ USD để vực dậy nền kinh tế. Vào tháng 9.2014, Trung Quốc có một gói nhỏ hơn 81 tỷ USD. Đồng thời, Trung Quốc đã mở rộng cung tiền và tín dụng quá mức để hỗ trợ cho nền kinh tế. Hơn 21,800 tỷ USD lượng tiền M2 (gấp 5 lần dự trữ ngoại hối) đã bơm ra nền kinh tế cho đến tháng 8.2015, tức đã tăng hơn 2.3 lần so với thời điểm cuối năm 2009. Tăng trưởng tín dụng/GDP đạt mức 282%, cao hơn so với Mỹ và mức chuẩn thông thường của các thị trường mới nổi khác (chỉ khoảng 187%). Tuy nhiên, bơm nhiều tiền vào hệ thống nhưng lại mất khả năng kiểm soát khiến cho dòng tiền hoàn toàn có thể chảy sai mục đích. Theo McKinsey Global Institute, hệ thống ngân hàng ngầm (Shadow Banking), thực sự mới là yếu tố kiểm soát tín dụng của Trung Quốc. Lượng vốn cho vay bởi hệ thống ngân hàng ngầm còn lớn hơn cả lượng vốn cho vay chính thức. Đặc biệt là chất lượng thực sự của các công cụ như “Trust Product[1]” hoặc “Wealth Management Products- (WMP), là công cụ để cung cấp tín dụng của ngân hàng ngầm và một hình thức đầu tư đang thịnh hành ở Trung Quốc, đang bị nghi ngờ kém chất lượng. WMP là các tài sản ngoại bảng cân đối kế toán của ngân hàng và không hề bị kiểm soát bởi ngân hàng trung ương trong vấn đề tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay các tiêu chí đánh giá rủi ro. Rất có thể các WMP chứa đựng các khoản nợ dưới chuẩn giống như các CDO của Mỹ vào năm 2007. [Xem thêm về Curreycy wars tại buổi hội thảo cho VFA tổ chức vào ngày 4.4.2015] Việc Trung Quốc tung ra chương trình gọi là “QE phiên bản Trung Quốc” trước đó thực chất là các gói tín dụng nhỏ dành cho các đối tượng cho vay có rủi ro cao hoặc khó tiếp cận vốn ngân hàng. Đây thường là các nông dân, các hộ kinh doanh nhỏ, những người vì thế đã có nguồn tiền dồi dào và háo hức tham gia vào cơn sốt chứng khoán từ cuối năm 2014 đến tháng 6.2015. Cho vay nhiều cộng với mất kiểm soát, có thể là lý do để tạo ra cái bong bóng chứng khoán khổng lồ vào đầu năm 2015. Sự sụp đổ của TTCK Trung Quốc là điềm báo cho sự tháo chạy của dòng vốn khi nơi đầu tư cuối cùng của nền kinh tế Trung Quốc không còn sinh lợi nữa. Do đó, việc Trung Quốc phá giá tiền tệ hơn 4% trong giữa tháng 8 chưa hẳn là quốc gia này chủ động nhằm đối phó với làn sóng giảm giá đồng nội tệ, hay cố gắng giành lợi thế cạnh tranh như trước đây. Mặc dù nhìn bề ngoài có thể là hợp lý khi xuất khẩu của Trung Quốc sụt giảm 8% trước khi tiến hành phá giá NDT nhưng thực tế hành động vừa qua đang cho thấy nguy cơ khủng hoảng nợ dưới chuẩn có thế xuất hiện tại Trung Quốc. Dòng vốn đã tháo chạy, và việc Trung Quốc phá giá tiền tệ có thể chỉ là cái cớ để che đậy. Nếu điều này là thực tế, Trung Quốc đơn giản chỉ là nạn nhân tiếp theo trong cuộc chiến tranh tiền tệ mà Mỹ tạo ra bằng sách lược: Đồng USD mạnh lên. Trương Minh Huy ======================= Như vậy thì ngay từ 2010 ngài Bộ Trưởng Tài Chính Brazil, Guido Mantega đã xác định rằng: “Chiến Tranh tiền tệ toàn cầu đã bắt đầu”…Lão Gàn xác định điều này muộn hơn ngài Guido Mantega, nhưng bằng một hệ quy chiếu khác và hoàn toàn không có nguồn gốc từ ngài Guido Mantega. Tuy nhiên, với bài viết của chuyên gia Trương Minh Huy, cho thấy ông còn chưa khẳng định nội dung thật của vấn đề, mà chỉ là đặt vấn đề với những từ nghi vấn, như: "nếu"; "chưa hẳn"; "có thể"....Nhưng về nội dung của cuộc chiến lần này, lão xác định rằng: "Quyết liệt và kịch tính". Đây sẽ là một cuộc chiến "ra môn, ra khoai" và không có nhân nhượng. Lão vẫn hy vọng rằng: Một cuộc chiến quyết liệt và dứt điểm về kinh tế sẽ thay thế cho cuộc chiến tranh nóng, trong việc xác định ngôi vị bá chủ thế giới. Cuối năm nay, sang năm tới thì: "Bên trong còn lắm điều hay". Ấy là cụ Nguyễn Du bảo thế! Làm thế nào để các quốc gia mới nổi không bị ảnh hưởng của cuộc chiến tiền tệ và tiếp tục phát triển? Cái này thì chỉ có Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt biết được. Tuy nhiên, "Thiên cơ khả dĩ lộ từ từ...". Quyết định cuối cùng thuộc về Thượng Đế! B)2 likes
-
Quán vắng!
mutin liked a post in a topic by Thiên Sứ
Bí quyết người giàu và những điều người nghèo không làm 03/09/2015 14:03 (TNO) Trong cuốn sách Bí mật trí tuệ triệu phú, tác giả Harv Eker đã nêu ra những quan điểm sống mà hầu hết những người thành công, giàu có hướng đến, và mỗi người trong chúng ta nên tích cực học hỏi, theo Business Insider. Cuộc sống của người giàu có - Ảnh minh hoạ Shutterstock 1. Điều khiển sự thành công Người giàu có suy nghĩ “Tôi tạo ra sự thành công”, trong khi người bình thường sẽ nghĩ “Cuộc sống xảy đến cho tôi như vậy”. Bạn chính là người tạo ra vận mệnh của mình. Trở thành con người tầm thường hay thành công, đó là vấn đề ở bản thân bạn. 2. Nghĩ lớn, làm lớn Người giàu có dám nghĩ lớn và làm lớn để kiếm tiền, trong khi người bình thường sẽ “làm nhỏ” vì e sợ thất bại. Hơn nữa, người bình thường “làm nhỏ” vì họ nghĩ mình nhỏ bé, không có giá trị, không đủ tự tin để làm nên những điều khác biệt trong cuộc sống. 3. Cam kết phải giàu có Hơn “muốn giàu có”, người giàu “cam kết phải giàu có”. Họ đặt mục tiêu rõ ràng, tập trung 100% công sức và không bao giờ bỏ cuộc. Nếu bạn không toàn tâm toàn ý cam kết để đạt được giàu có, những cơ hội sẽ ít xảy ra. 4. Hướng tới cơ hội Không chú tâm vào những trở ngại, người giàu có biết tận dụng những cơ hội. Họ nhìn thấy sự phát triển tiềm năng, trong khi người bình thường chỉ thấy những nguy cơ tiềm tàng. Người thành công nghĩ “chơi là phải thắng” - Ảnh minh hoạ Shutterstock 5. Chơi là phải thắng Trong khi người bình thường nghĩ “chơi để không thua”, người giàu có nghĩ “chơi là phải thắng”. Nếu mục tiêu của bạn chỉ là sự thoải mái, có đủ tiền trang trải cuộc sống, thì bạn sẽ chính là con người như vậy: có đủ tiền chi trả các hóa đơn hằng tháng, không hơn không kém. 6. Không né tránh khó khăn Bí mật của những người thành công là không né tránh, không lùi bước trước khó khăn. Họ đương đầu và bắt bản thân mình phải mạnh mẽ hơn trước bất kỳ khó khăn nào. Con đường đến thành công có rất nhiều thách thức, khó khăn và cạm bẫy. Đó chính là điều mà nhiều người hay bỏ cuộc. Chúng ta sợ tranh cãi, sợ những trọng trách, chúng ta không muốn rắc rối. 7. Đo sự giàu có bằng giá trị tài sản ròng Cách tính độ giàu có thực sự là ở giá trị tài sản ròng, không phải là thu nhập cá nhân. Giá trị tài sản ròng được tính bằng cách lấy tổng tài sản trừ đi tổng nợ, còn được gọi là vốn chủ sở hữu hay giá trị sổ sách. 8. Quản lý tiền bạc Người giàu chưa hẳn đã thông minh hơn người bình thường, nhưng họ khác biệt ở thói quen chi tiêu. Nếu bạn muốn thống lĩnh tiền bạc, thì phải biết cách quản lý tiền bạc. Nhiều người nghĩ rằng họ không cần quản lý tiền bạc vì họ không có nhiều tiền. Thực ra, chỉ đến khi bạn biết cách quản lý tài chính, bạn mới có thể kiếm thêm tiền. Quản lý tiền bạc quan trọng hơn số tiền mà bạn kiếm được. 9. Học hỏi và trưởng thành Mỗi nhân tài trước kia đều từng là một thảm hoạ. Không ai tự nhiên trở thành một doanh nhân xuất sắc. Những người giàu có luôn học hỏi bất kể họ đang đứng trên đỉnh cao. Có thể nói, thành công là một kỹ năng có thể học được. Huỳnh Mai ================= Từ ngày kinh tế hôi nhớp - í lộn - Hội nhập. Bao nhiêu là sách, lớp học dạy mần giàu nhan nhản xuất hiện. Và sách thì bán chạy như tôm tươi, lớp học thì đông như kiến. Ai cũng cứ tưởng làm theo đúng sách và lời thày là làm giàu đến nơi. Trong khi đó, thử đếm xem thiên hạ có bao nhiêu tỷ phú, đại gia so với sách đã xuất bản? Rồi bao nhiêu kẻ đang ngất ngưởng trên đỉnh cao - như Nguyễn Văn Mười Hai ở bài trên làm ví dụ - sụp đổ xuống đáy bùn, làm sinh động thêm bức tranh vân cẩu của cuộc đời?! Lý học Đông phương đã nói rồi: "Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần". Nghĩa là: chăm chỉ, chuyên cần, có ý chí thì sẽ khá giả. Còn giàu có lớn phải do số phận. Nhưng tiếc thay! Vì thiếu hiểu biết về Lý học, nên những đại gia chưa gặp hạn, như Nguyễn Văn Mười Hai, Bầu Kiên...cứ tưởng mình giàu là do sáng suốt và tài ba...nên có lòng tốt chia sẻ kinh nghiệm làm giàu cho thế gian bắt chước. "Vai mang túi bạc kè kè. Nói quấy, nói quá, người nghe ầm ầm". Sách bán chạy như tôm, lớp học đông như kiến. Nhưng thực tế thì nó chẳng phải như vậy. Nó cũng giống như các cửa hàng bán vật phẩm phoengshui, quảng cáo ầm ĩ về tác dụng làm giàu, cải số từ tỳ hưu, Rồng rắn...vv...và ...vv...Nhưng tiếc thay! Chính các cửa hàng đó sang tiệm ầm ầm và buôn bán ngày càng ...ế ẩm. Nếu các vật phẩm đó làm giàu được thì Hoàng Anh Gia Lai, Phạm Nhật Vượng chắc khóc tiếng Hin Du vì nghèo khó. Nhưng thiên hạ cứ tin như sấm. Đã vậy, lại còn cụ Cóc ngậm đồng tiền, sáng quay ra, tối quay vào nữa chứ. Hic! Điếu mựa! Khi phoengshui đã dở hơi thì dù có ngay cả cặp Tỳ hưu bằng ngọc của chính Hòa Thân Đại thần nhiếp chính đời Khang Hy cũng khóc tiếng Ấn Độ thôi. Tương tự như vậy, làm quái gì có đi học làm giàu và trở nên giàu có được. Có đại gia nào tốt nghiệp lớp học làm giàu ra và trở nên giàu có đâu?! Thí dụ như tướng Tàu Từ Tài Hậu, chắc chắn không qua lớp học làm giàu nào cả. "Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần". Cứ chăm chỉ làm ăn, chịu khó và có ý chí thì trước mắt là khá giả đã. Trời cho - do Thiên - thì làm giàu là chuyện tính sau. Thế gian này nhiều tương tác phức tạp cho chỉ một sự kiện dù rất nhỏ - Cụ Trịnh Xuân Thuận đã nói "Để giải thích một việc dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn đến toàn bộ lịch sử vũ trụ". Bởi vậy, nói không thể hết được toàn bộ lịch sử vũ trụ chỉ để giải thích vì sao tỷ phú Warren Buffett trở nên giàu có. Tất nhiên, ông ta chắc cũng chưa qua lớp học làm giàu. Qua đó mới thấy rằng: Lý học Đông phương có cội nguồn văn hiến Việt sâu sắc và huyền vĩ như thế nào, khi chỉ qua mô hình tử vi, có thể biết trước tương lai của những người như Warren Buffett , hoặc kẻ ăn mày. Bởi vậy! Khuyên các cụ chém gió cũng vừa phải thôi.1 like -
Ts Trần Công Trục: Chuyện "đi đêm" trên Biển Đông Ts Trần Công Trục 31/08/15 07:14 Thảo luận (16) (GDVN) - Nói Việt Nam "đi đêm" với Trung Quốc hay với Mỹ, Nhật, Nga hoặc bất cứ quốc gia nào khác trong vấn đề Biển Đông là không chính xác trong khi lại chính là ... LTS: Ngày 27/8 báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng bài "Ts Trần Công Trục: Liệu có khả năng Trung Quốc và Mỹ "đi đêm" ở Biển Đông?" đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của độc giả, có những ý kiền đồng tình và cũng có những băn khoăn, câu hỏi đặt ra xung quanh chủ đề này. Tiến sĩ Trần Công Trục đã gửi tiếp cho báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài phân tích của ông về chuyện "đi đêm" ở Biển Đông để trả lời câu hỏi có hay không chuyện Việt Nam "đi đêm" với Trung Quốc trên Biển Đông, xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả. Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ. Trước tình hình Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp khó lường vì các hành vi leo thang bất chấp thủ đoạn từ phía Trung Quốc xâm phạm, đe dọa trực tiếp chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam cũng như khu vực, quốc tế ở Biển Đông thì việc dư luận quan tâm theo dõi, đặt câu hỏi nhiều chiều nhằm tìm ra sự thật là việc đương nhiên, đáng tôn trọng. Cá nhân tôi rất vui và tâm đắc khi có độc giả lật ngược vấn đề trong bài báo ngày 27/8 xung quanh ý kiến của tôi về khả năng Mỹ, Trung Quốc "đi đêm" với nhau trên Biển Đông và Việt Nam cần cảnh giác. Độc giả Nguyễn Hoàng và những người khác có cùng suy nghĩ nêu vấn đề, liệu có chuyện Việt Nam và Trung Quốc "đi đêm" với nhau trên Biển Đông hay không, vì ông/bà cho rằng Biển Đông trước tiên là vấn đề cốt tử đối với Việt Nam chứ không phải Mỹ. Điều này chứng tỏ dư luận đang rất quan tâm và có những nhận thức khác nhau về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là bản chất các tranh chấp ở vùng biển này, trong khi Biển Đông lại đang trở thành địa bàn cạnh tranh địa chính trị, địa chiến lược của các cường quốc hàng đầu thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Những ý kiến đó theo tôi cần được làm rõ trên tinh thần khách quan, cầu thị, hợp pháp, hợp lý, làm sao để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Thế nào là "đi đêm"? Để trả lời câu hỏi của độc giả Nguyễn Hoàng cũng như những người có cùng băn khoăn, đầu tiên cần thống nhất với nhau về nhận thức thế nào là hành vi "đi đêm" trong quan hệ quốc tế. Cá nhân tôi cho rằng, đi đêm là những hành vi thỏa thuận ngầm, trao đổi ngầm giữa hai bên để cùng kiếm lợi trong vấn đề/lợi ích liên quan đến một hay nhiều bên thứ ba khác. Nếu không có một bên thứ 3 nào đó bị tổn thất lợi ích vì hành vi "đi đêm" của 2 bên kia thì khó có thể gọi đó là hành vi "đi đêm". Với nguyên tắc lợi ích chi phối các mối quan hệ, "đi đêm" giữa các nước, đặc biệt là các nước lớn là chuyện khó tránh trong quan hệ quốc tế xưa cũng như nay. Chúng ta cũng không nên gắn cho nó một hàm ý đạo đức nào, quan trọng nhất là phải tỉnh táo để thấy được ai đang đi đêm trên lưng mình, đổi chác lợi ích của mình để có cách ứng phó phù hợp. Ở Biển Đông, ví dụ "đi đêm" điển hình là Tuyên bố Thượng Hải năm 1972 giữa Richard Nixon với Mao Trạch Đông. Sau cú bắt tay xuyên Thái Bình Dương này, cục diện Chiến tranh Việt Nam chuyển biến mạnh và khi công cuộc thống nhất nước nhà của Việt Nam đang vào hồi nước rút thì năm 1974 Trung Quốc cất quân xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa trước sự ngoảnh mặt làm ngơ của Hạm đội 7 Hoa Kỳ. Cần lưu ý là Hoàng Sa và Trường Sa lúc này đang do Việt Nam Cộng hòa đại diện cho dân tộc Việt Nam quản lý thực thi chủ quyền theo Hiệp định Geneva 1954 chờ ngày thống nhất đất nước. Và thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa đang là đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ ở châu Á. Sớm hơn nữa, khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II, Hiệp ước Hòa bình San Francisco được ký ngày 8/9/1951 trong đó quy định Nhật Bản từ bỏ tất cả quyền, về danh nghĩa cũng như yêu sách đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không nói rõ lực lượng nào sẽ tiếp nhận, điều đó đã gây ra những ngộ nhận pháp lý sau này và Trung Quốc đang tìm mọi cách khai thác triệt để. Nhưng ngay từ ngày 7/9/1951, ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam tham dự hội nghị theo lời mời của chính phủ Hoa Kỳ đã trịnh trọng tuyên bố: "Để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa". Tuyên bố xác nhận chủ quyền này của Việt Nam không vấp phải bất kỳ phản đối hoặc yêu sách nào khác từ 51 quốc gia tham dự hội nghị. Tuy nhiên ngày 5/9/1951, Ngoại trưởng Liên Xô Andrei A. Gromyko đã đưa ra đề nghị "nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam" ở Biển Đông, Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Đề xuất này của Liên Xô thời điểm đó rõ ràng mang màu sắc "đồng minh chính trị" với Bắc Kinh và khó có thể gạt yếu tố "đi đêm" trong đề xuất "xí phần" này. Đặng Tiểu BÌnh và Jimmy Carter trong cuộc họp báo chung ngày 31/1/1979, 17 ngày sau đó Đặng xua quân ồ ạt tấn công xâm lược toàn tuyến biên giới Việt Nam. Ảnh: BBC. Trong trục quan hệ Mỹ - Việt - Trung, chúng ta hẳn còn nhớ ngày 31/1/1979 Đặng Tiểu Bình thăm Hoa Kỳ và họp báo với Tổng thống Jimmy Carter thì ngày 17/2/1979 Đặng ồ ạt xua đại quân xâm lược toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam gây ra cuộc chiến tranh đẫm máu. Trước đó Đặng Tiểu Bình công khai tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học" và người ta không thể không đặt dấu hỏi về một thỏa thuận ngầm, một cái bắt tay "đi đêm" giữa Đặng Tiểu Bình và Jimmy Carter. Qua một vài ví dụ cho thấy "đi đêm" đã trở thành chuyện bình thường trong chính trị quốc tế, đặc biệt là giữa các cường quốc. Chỉ tính từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II đến nay, quốc tế đã chứng kiến những thay đổi liên tục trong quan hệ Mỹ - Trung - Nga (trước đây là Liên Xô). Cứ khi nào thấy cần là 2 nước có thể thỏa thuận ngầm với nhau để chống lại bên thứ 3. Đầu tiên là Trung - Xô chống Mỹ, rồi sau 1972 là Trung - Mỹ chống Liên Xô, cho đến bây giờ dư luận quốc tế đang chứng kiến một "liên minh" giữa Moscow và Bắc Kinh chống lại Washington, tất cả đều do quan hệ lợi ích chi phối. Một đặc điểm nữa của "đi đêm" cần lưu ý ở đây là, thông thường do các nước lớn dùng nước nhỏ làm quân cờ để mặc cả lợi ích với nhau, "đi đêm" trên lưng nước nhỏ. Bản chất các tranh chấp ở Biển Đông và câu chuyện "đi đêm" Để hiểu rõ hơn ai "đi đêm" với ai ở Biển Đông, cần phải nắm rõ các loại tranh chấp và lợi ích của các bên ở Biển Đông hiện nay là gì mới có thể xác định cái gì được đem ra đổi chác, và đổi chác để được cái gì? Biển Đông là tên gọi chính thức của Việt Nam đối với một biển rìa lục địa, một phần của Thái Bình Dương, trải rộng từ Singapore đến eo biển Đài Loan với diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông. Biển Đông là vùng biển lớn thứ 4 thế giới. Trong Biển Đông, Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được xác lập một cách hòa bình, hợp pháp và thực thi liên tục chí ít là từ đầu thế kỷ 17 đến nay. Ngoài ra Việt Nam có chủ quyền đối với lãnh hải, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các lợi ích hợp pháp khác trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Ở Biển Đông hiện nay có 3 loại tranh chấp. Thứ nhất là tranh chấp chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Riêng Hoàng Sa của Việt Nam bị Trung Quốc xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp từ các năm 1956, 1974 đến nay là đối tượng tranh chấp giữa 2 nước và Đài Loan cũng đưa ra yêu sách. Nhìn từ góc độ Việt Nam chúng ta, quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam hiện là đối tượng 4 nước 5 bên khác nhảy vào tranh chấp, gồm: Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei và Đài Loan. Cuộc gặp Tập Cận Bình - Obama trong tháng 9 này, Biển Đông là một trong những nội dung quan trọng. Ảnh: Uscnpm.org Tranh chấp thứ hai là các vùng biển chồng lấn do áp dụng, giải thích Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 trên Biển Đông. Tranh chấp thứ 3 là việc áp dụng giải thích sai UNCLOS xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác trên Biển Đông cũng là thành viên Công ước. Vụ kiện của Philippines là nhằm vào loại tranh chấp thứ 3. Vụ Trung Quốc bồi lấp, xây dựng và quân sự hóa bất hợp pháp trên 7 bãi đá ở Trường Sa vừa xâm phạm chủ quyền Việt Nam, vừa vi phạm UNCLOS về hiệu lực pháp lý của các thực thể (cấm tàu thuyền, máy bay các nước khác đi qua vùng biển, vùng trời quốc tế phạm trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo nhân tạo trên các bãi ngầm, rặng san hô vốn chỉ có tối đa 500 mét bán kính vùng an toàn), vừa hủy diệt môi trường biển, vừa đe dọa an ninh an toàn hàng không hàng hải ở Biển Đông. Như vậy có thể thấy trong vấn đề Biển Đông, giữa Việt Nam và Trung Quốc tồn tại cả 3 loại tranh chấp và trong 3 loại tranh chấp này, Việt Nam và Trung Quốc đều ở hai đầu chiến tuyến. Trong khi Trung Quốc liên tục bành trướng sức mạnh quân sự, ỷ lớn hiếp nhỏ và Việt Nam đang là một trong những nạn nhân của sự bành trướng ấy, chẳng có lý do hay lợi lộc gì để có thể "đi đêm" với Trung Quốc. Điều này càng rõ nét hơn nếu xét trong trục quan hệ Mỹ - Việt - Trung bởi Mỹ là bên thứ 3 không có yêu sách ở Biển Đông. Tại sao lại đặt ra vấn đề "đi đêm" và làm thế nào để hạn chế tác động ảnh hưởng từ việc "đi đêm" của các nước lớn trên Biển Đông? Sở dĩ cá nhân tôi nêu ra vấn đề này vì nó đã từng xảy ra và ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Thứ hai, trước chiến lược xoay trục sang châu Á của Hoa Kỳ và sự cải thiện đáng kể của quan hệ Việt - Mỹ đã khiến không ít người cảm thấy lạc quan thái quá vào việc "dựa vào Hoa Kỳ để ngăn Trung Quốc bành trướng Biển Đông". Chính người Mỹ đã công khai khẳng định, họ không thể điều Hạm đội 7 can thiệp một khi nổ ra xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông nên hơn bao giờ hết, chúng ta cần nhận thức rõ điều đó để chủ động trong vấn đề của chính mình. Ngày nay không có quốc gia nào đem sinh mạng binh sĩ và tài sản, vũ khí của mình ra chiến đấu chống lại một đối thủ khác chỉ vì để bảo vệ một nước thứ 3, mà đặc biệt nước thứ 3 đó chưa hoặc không mang lại cho họ lợi lộc gì lớn hơn con số tổn thất ấy. Đó là cái theo tôi người Việt cần ghi nhớ nằm lòng, dù lúc nào cũng phải tranh thủ tối đa những gì có lợi nhất cho công cuộc đấu tranh bảo vệ, đòi lại chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước một đối thủ không cân sức và thừa thâm hiểm như Trung Quốc. Tự lực cánh sinh, tăng cường sức mạnh nội lực mới là giải pháp lâu dài, kết hợp và tranh thủ ủng hộ của dư luận quốc tế cũng như các xu thế, trào lưu quốc tế có lợi cho Việt Nam là điều các nhà chiến lược cần làm lúc này. Việc độc giả đặt ra vấn đề này cũng cho thấy nhận thức về vấn đề chủ quyền cũng như thực trạng tranh chấp ở Biển Đông, quan điểm chủ trương của Việt Nam vẫn chưa được tuyên truyền một cách hiệu quả. Nói Việt Nam "đi đêm" với Trung Quốc hay với Mỹ, Nhật, Nga hoặc bất cứ quốc gia nào khác trong vấn đề Biển Đông là không chính xác trong khi lại chính là những gì truyền thông nhà nước Trung Quốc đang ra rả tuyên truyền, cũng chính là những gì Trung Nam Hải đang muốn dư luận quốc tế phải nghe. Ngay từ khi ông Lý Khắc Cường thăm Việt Nam năm 2013, Trung Quốc họ đã tung ra luận điệu này để cố tình khiến dư luận hiểu nhầm rằng có sự "đi đêm" nào đó giữa hai nước, mà tôi đã phân tích trên báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, bài "Ts Trần Công Trục: Không có chuyện Việt Nam "đi đêm" với Trung Quốc", mời quý độc giả quan tâm theo dõi. Ts Trần Công Trục =================== Chủ đề này khá hấp dẫn. Bàn về vấn đề này cũng là một đề tài câu khách hấp dẫn, không kém hoa hậu sộ hàng B) . Tuy nhiên nó sẽ rất mất thời gian, nếu phân tích cho "ra môn, ra khoai", nên lão chỉ phán thế này: Ngoại trừ Hoa Kỳ chấp nhận nhường ngôi bá chủ thế giới cho Trung Quốc và xin Trung Quốc ban cho một cuộc sống bình yên để về chăn bò ở Texa, thì không bao giờ có chuyện "đi đêm" giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong lúc này.1 like
-
Ngỡ ngàng với những phát hiện khảo cổ "không giải thích nổi" Oakley, Lê Giang | 24/08/2015 19:00 Đó đều là những di chỉ khảo cổ gây nhiều kinh ngạc cho lịch sử nhân loại bởi cho tới nay, giới khoa học vẫn đang "vò đầu bứt tai" đi tìm lời giải đáp về sự xuất hiện của chúng. Những bí ẩn khảo cổ khiến giới khoa học "điên đầu nổ não" Hẳn chúng ta không còn xa lạ gì với Ai Cập cổ đại cùng những Kim tự tháp và các Pharaoh từ hàng ngàn năm trước. Cho tới nay, công nghệ hiện đại vẫn chưa có lời giải thích đáng về việc xây dựng Kim tự tháp Giza của người Ai Cập. Phải chăng tác giả của những kim tự tháp ấy không phải con người? Thế nhưng vẫn còn vô số những phát hiện di chỉ khảo cổ khác đang để lại một dấu hỏi lớn cho khoa học hiện đại. Dưới đây là 5 phát hiện khảo cổ gây nhiều kinh ngạc cho lịch sử nhân loại. 1. L’Anse aux Meadows, Canada Được phát hiện vào năm 1960, L’Anse aux Meadows là một địa điểm khảo cổ nằm ở mũi phía Bắc của đảo Newfoundland (Canada). Qua nghiên cứu, các chuyên gia phát hiện công trình cổ xưa này được xây dựng bởi những người Viking và là di chỉ lớn nhất của người Bắc Âu ngoài Greenland. Điểm thú vị là công trình này được xây dựng ở khu vực Bắc Mỹ 500 năm trước khi Columbus “phát hiện” ra châu lục mới. Vì thế nhiều giả thuyết cho rằng, chính những người Viking đã tìm ra châu Mỹ chứ không phải nhà thám hiểm Columbus. Họ thậm chí còn tìm được những vết tích cho thấy người Viking đã từng rèn kim loại ở đây và trao đổi với những người thổ dân địa phương. Bằng chứng là những vật dụng trong lều của thổ dân bản địa hay những sợi chão được bện lại từ những sợi lông thú ngắn đều được tạo ra bởi những người Viking ở Greenland. Lý do là bởi người bản địa chỉ khâu áo bằng lông thú và không hề biết dệt vải. Tuy nhiên như thế vẫn chưa đủ để quyết định ai là người đã tìm ra châu Mỹ trước và vấn đề này vẫn còn gây nhiều tranh luận. Dẫu vậy, L’Anse aux Meadows được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới vào năm 1978. Di chỉ khảo cổ L'Anse aux Meadows là bằng chứng sớm nhất về người châu Âu trong thế giới mới. Bên cạnh đó, di sản này còn có giá trị đặc biệt bởi đó là bằng chứng về sự di cư của con người trong lịch sử phát triển. 2. Saksaywaman, Peru Saksaywaman được xây dựng như một pháo đài hay một khu liên hợp bao phủ khu vực rộng lớn ở vùng ngoại ô phía Bắc thành phố Cusco (Peru). Tuy vậy tàn tích còn sót lại ngày nay chỉ chiếm 1/4 khu liên hợp ban đầu - nơi mà có thể chứa hơn 10.000 người. Tàn tích là các bức tường lớn được xây dựng một cách kiên cố. Mặc dù những tảng đá này có hình dạng không đồng đều nhưng khi đặt chúng xếp chồng lên nhau lại cực vừa vặn đến mức ngay cả một tờ giấy cũng không thể lọt qua được các khe hở. Ở phía bên trên các bức tường đá là nền móng tròn tọa lạc ba ngọn tháp sừng sững. Người ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng nền móng này thấp hơn khi đứng cạnh những bức tường đá. Tảng đá lớn nhất được đặt làm nền có chiều cao 8,5m. Một trong ba bức tường dài nhất có chiều dài là khoảng 400m và cao nhất là 6m. Một tảng đá đơn thuần được dùng để xây tường có trọng lượng ước tính từ 120 - 200 tấn. Qua khảo sát, các chuyên gia nhận thấy, nền văn hóa Killke (văn hóa Killke chiếm đóng ở Nam Mỹ) đã dày công xây dựng công trình này vào thế kỷ XII. Sau đó đế chế Inca đã chiếm đóng và mở rộng công trình. Dù tìm hiểu kỹ nhưng các chuyên gia vẫn chưa hiểu, công trình này được dựng xây với mục đích gì. Một vài nhà khảo cổ học tin rằng, tàn tích Saksaywaman có thể là một ngôi đền được dựng lên để dành cho việc thờ phụng Mặt trời. Vào năm 1983, khu tàn tích Saksaywaman và thành phố Cusco đều được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. 3. Mohenjo-daro, Pakistan Mohenjo-daro - Ngọn núi của cái Chết - là một di chỉ khảo cổ nằm ở tỉnh Sindh, Pakistan. Đây là một trong những khu định cư lớn nhất của nền văn minh Indus và chỉ được phát hiện vào năm 1922. Mohenjo-daro được xây dựng vào khoảng năm 2600 TCN, cùng lúc với sự hình thành của nền văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Lưỡng Hà. Do nằm ở gần các con sông, đồng bằng màu mỡ nên Mohenjo-daro phần nào được tạo điều kiện để phát triển về mặt nông nghiệp. Các công trình trong thành phố được xây bằng đất nung, khác hẳn với những thành phố cùng thời đại khác được xây dựng bằng đá và đất. Điều này chứng tỏ trình độ kiến trúc cao của nền văn minh Indus. Vào thời kỳ thịnh vượng nhất, thành phố có khoảng 35.000 cư dân, trở thành thành phố lớn nhất của nền văn minh Indus. Điểm đáng chú ý hơn nữa là Mohenjo-daro được xây dựng theo mô hình thành phố hiện đại ngày nay với đường xá, hệ thống thoát nước ngầm... chỉ khác là thành phố này đã được xây dựng cách đây hơn 4.000 năm. Nhưng không biết vì lý do gì mà Mohenjo-daro đã chìm dần vào quên lãng. Hiện, giới khảo cổ vẫn miệt mài nghiên cứu, khai quật những con dấu có chữ tượng hình cổ để khám phá nguyên nhân vì sao thành phố đột nhiên biến mất một cách bí ẩn như vậy. Mohenjo-daro được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1980. 4. Đền Göbekli Tepe, Thổ Nhĩ Kỳ Được xây dựng cách đây 12.000 năm, ngôi đền Göbekli Tepe nằm trên đỉnh của một ngọn núi ở phía Đông Nam vùng Anatolia, Thổ Nhĩ Kỳ, cách mực nước biển 760m. Khi được phát hiện, ngôi đền này dường như bị cố tình chôn vùi trong cát để không bị ai phát hiện. Tuy vậy, các nhà khảo cổ Đức đã đến đây và khai phá nhiều bí ẩn về ngôi đền cổ này. Tại đây, giới khảo cổ tìm thấy nhiều tháp có hình dáng chữ T, với hình điêu khắc những loài động vật nguy hiểm chết người, như bọ cạp, sư tử, lợn rừng... nhưng lại không tìm được bất kì dụng cụ nông nghiệp nào. Vậy bằng cách nào người xưa có thể tạo ra những chiếc cột cao gần 6m, điêu khắc bức hình hoàn hảo có niên đại từ 11.000 đến 12.000 năm trước mà không sử dụng bất kì loại dụng cụ nào? Hơn thế, vì sao họ lại có thể xây dựng một công trình bằng đá khi có những viên đá nặng từ 100-300 tấn và mục đích xây dựng ngôi đền này của họ là gì? Tại sao lại phải chôn vùi ngôi đền dưới cát? Theo giới khoa học, di chỉ khảo cổ này có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta về xã hội loài người cổ đại. Bởi công trình này được xây dựng vào khoảng năm 10.000 - 9.000 TCN, trước cả sự ra đời của nông nghiệp. Điều này chứng tỏ rằng niềm tin vào các vị thần mới thực sự là sự khởi đầu của một nền văn minh. 5. Động Long Du, Trung Quốc Động Long Du là một loạt các hang động nhân tạo lớn nằm ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Được phát hiện vào năm 1992, 36 hang động này ngày nay đã trở thành địa điểm lớn thu hút khách du lịch. Các hang động được chạm khắc bằng bột kết, được cho là hình thành trước thời nhà Tần năm 212 TCN. Tất cả 36 hang động này đều được tạo nên riêng rẽ trong một khu vực vỏn vẹn 1km vuông. Nhưng điều lạ là không có bằng chứng khảo cổ nào về việc số lượng đá khổng lồ - 1 triệu mét khối đá đó đến và đi bằng cách nào. Đồng thời cũng không có tài liệu lịch sử nào ghi chép về lịch sử ra đời của những hang động này. Mỗi bức tường trong từng hang đều được khắc các đường thẳng song song với độ chính xác tuyệt đối. Theo ông Jia Gang - giáo sư tại trường Đại học Tongji chuyên về xây dựng dân dụng cho biết: “Muốn vào hang cần phải có đèn vì cửa hang động rất nhỏ, ánh sáng Mặt trời chỉ có thể chiếu sáng ở một vùng nhất định của hang động, vào thời gian nhất định. Nếu một người đi sâu hơn vào trong động, ánh sáng sẽ nhạt dần. Tại đáy động - ở độ sâu hàng chục mét so với cửa động, người ta khó mà có thể nhìn thấy gì”. Tuy nhiên, người ta không tìm thấy vật dụng gì dùng để chiếu sáng trong ít nhất là hai ngàn năm trước đây. Vậy làm thế nào mà người cổ đại có thể làm một công việc đòi hỏi sự chính xác trong môi trường tối đen như mực? Hơn nữa, nhờ sự trợ giúp của các thiết bị tối tân, người ta đo được những hang động này có sự tương đồng gần như tuyệt đối, giữa độ dày bức tường, góc cạnh, các đường thẳng chạm khắc... Vậy phương pháp xây dựng của họ là gì để đạt được độ chính xác này? Có một số nhà khoa học cho rằng, các hang động này là nơi quân đội đóng quân và hoàng đế trong một thời kỳ quá khứ muốn che giấu binh lính khỏi tầm nhìn để giữ bí mật, chuẩn bị chiến tranh. Tuy nhiên, những động này không phải chỉ được xây dựng trong một thời gian ngắn. Họ đã mất rất nhiều năm để xây dựng do vậy dường như là không phải để dùng cho mục đích chuẩn bị chiến tranh, vốn đòi hỏi mọi việc phải được làm nhanh gọn. Hơn nữa, cũng không có dấu hiệu nào về việc con người đã ở trong các động này. Bởi vậy, với giới chuyên gia, đây vẫn là một bí ẩn chưa được giải mã. Nguồn: Wisance ======================== Với thứ tư duy "ở trần đóng khố", bất cứ cái gì hay đều là của Trung Quốc, và cội nguồn Việt sử chỉ là một "nhà nước sơ khai", gồm "liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố", thì cái lũ ngu ngục ấy không bao giờ có thể giải mã được bí ẩn của động Long Du vốn thuộc về nền văn minh Việt.1 like
-
Bí ẩn tượng gỗ 11 vạn năm không mục nát Minh Hạnh 19:13 ngày 28 tháng 08 năm 2015 TPO - Shigir Idol - một bức tượng gỗ còn khá nguyên vẹn được kéo lên từ một đầm lầy ở Nga cách đây 125 năm đã khiến không ít nhà khoa học đau đầu vì tìm tuổi thật. Mới đây, nhớ một công nghệ mới hiện đại, bức tượng này đã được xác định có độ tuổi khoảng… 11 vạn năm. Cách đây 125 năm, một bức tượng gỗ còn khá nguyên vẹn đã được kéo lên từ một đầm lầy ở Nga. Bức tượng này được đặt tên là Shigir Idol và là bức tượng gỗ lâu đời nhất trên thế giới tính đến thời điểm hiện tại. Nỗ lực dự đoán tuổi của Shigir Idol đã được thực hiện 107 năm sau khi bức tượng được phát hiện, vào năm 1997. Các phân tích đồng vị carbon phóng xạ đầu tiên cho thấy bức tượng đã ra đời cách đây 9.500 năm. Thế nhưng mới đây, nhờ máy móc hiện đại, tuổi của bức tượng này đã một lần nữa được xác định lại, là lên tới khoảng 11.000 năm. Như vậy, Shigir Idol có tuổi gần gấp 3 danh thắng Stonehenge và gấp đôi Kim tự tháp Ai Cập. Bức tượng này được làm từ gỗ của cây lạc diệp tùng 157 năm tuổi. Do nằm trong than bùn dưới đầm lầy lâu ngày, được than bùn bảo vệ khỏi sự tấn công của vi khuẩn nên bức tượng vẫn còn nguyên vẹn, chưa mục nát. Bức tượng này hiện cao 2,8 mét. Chiều cao ban đầu của bức tượng lên tới 5,3 mét – bằng một ngôi nhà hai tầng. Thế nhưng, một phần bức tượng đã bị lấy cắp trong những cuộc chiến tranh và cách mạng ở thế kỷ 20. Xung quanh bức tượng Shigir vẫn còn rất nhiều bí ẩn chưa được giải đáp. Các nhà khoa học vẫn chưa thể hoàn toàn giải thích thông điệp của những hình chạm khắc trên thân tượng. Một giả thuyết cho rằng khuôn mặt của bức tượng mang thông tin mã hóa của con người thuộc thời đại Đồ đá giữa. Đây cũng là cách để người xưa truyền lại nhận thức sơ khai về nguồn gốc con người và thế giới cho hậu thế. Giữa các mảnh gỗ tạo nên bức tượng còn có 7 khuôn mặt bí ẩn (khoanh tròn đỏ) mà những nhà nghiên cứu vẫn đang đau đầu tìm lời giải. Tuy nhiên, ta có thể khẳng định chắc chắn: những hình ảnh này phản ánh sự sáng tạo và trình độ phát triển của xã hội con người, rằng khi bức tượng này ra đời, con người đã có sự phát triển trí tuệ tiên tiến và thế giới tâm linh phức tạp. Theo Dailymail, Siberian Times ========================== Từ lâu tôi đã xác định rằng: Đã có một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ tồn tại trên trái Đất. Đây là kết quả của sự tìm hiểu về cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Những phát hiện khảo cổ ngày càng chứng minh tính chân lý của luận điểm này. Nhưng đối với cá nhân tôi thì đây là kết quả của sự hợp lý lý thuyết liên quan đến một học thuyết cổ xưa là thuyết Âm Dương Ngũ hành.1 like
-
Khi nào con người đi xuyên được thời gian? Quentin Cooper 5 tháng 8 2015 Đã có hơn 100 phim nói về đề tài du hành thời gian kể từ khi ‘Terminator’ và ‘Back to the Future’ ra mắt hơn 30 năm trước đây. Tất cả đều là phim khoa học viễn tưởng và không có liên quan gì đến khoa học. Trong bộ phim mới ra, ‘Predestination’, Ethan Hawke đóng vai một điệp viên thời gian xẹt về quá khứ để ngăn chặn tội ác trước khi nó xảy ra. Hình: Thinkstock Phi lý Mọi thứ rất nhanh chóng trở nên rối trí. Hãy thử nghĩ về điều này: nếu ai đó sáng tạo ra cỗ máy thời gian thì điều gì sẽ ngăn chặn họ quay ngược lại một phút trước và đập vỡ nó trước khi nó được sử dụng? Điều này có nghĩa là chưa có ai từng sử dụng nó – vậy thì làm sao mà nó bị đập vỡ được? Điều ngăn chặn một loạt những chuyện ngược đời do đi ngược cỗ máy thời gian tìm về quá khứ tạo ra – trở thành ông của chính bạn, giết chết Hitler trước khi ông ta phát động Đệ nhị Thế chiến – chính là việc cỗ máy thời gian này đã đi ngược lại quy luật vật lý. Vũ trụ mà chúng ta biết thì đều tuân theo các quy luật. Một trong những nguyên lý cơ bản không chỉ của vật lý mà còn của bất cứ phương diện nào của vật chất là luật nhân quả. Quy luật này luôn phải theo đúng trật tự nguyên nhân – kết quả. Nếu thay đổi quá khứ thì cũng có nghĩa là quy luật này bị vi phạm: hành động của bạn sẽ tác động đến điều đã khiến bạn phải quay trở lại quá khứ ngay từ đầu. Do đó, nếu bạn có thể đã giết được Hitler thì Hitler đã không thể làm được điều đã khiến bạn phải quay ngược lại thời gian và giết ông ta. Nhưng điều đó chẳng ngăn được các nhà làm phim khai thác các khía cạnh về các câu chuyện có thể xảy ra nếu bằng cách nào đó bạn quay trở về lịch sử. Đối với Hollywood thì việc du hành ngược thời gian tạo cho họ vô số cơ hội để phát huy trí tưởng tượng và tận dụng các hình ảnh được tạo ra trên máy tính. Không giống như các thể loại phim khoa học viễn tưởng khác như người máy có trí khôn hơn con người, du hành xuyên hành tinh hay gặp người ngoài hành tinh – tất cả những chủ đề đều ít nhiều có khả năng xảy ra về mặt lý thuyết – du hành ngược thời gian trở lại quá khứ sẽ mãi mãi chỉ là khoa học viễn tưởng. Lỗ mọt Nhưng có một lỗ hổng. Một lỗ hổng rất nhỏ gọi là lỗ mọt. Stephen Hawking là một trong số những nhà khoa học đáng kính giờ đây tin rằng toàn bộ vũ trụ của chúng ta có đầy những lỗ mọt này – đó là những lối tắt xuyên thời gian và không gian. Một mặt, nó hoàn toàn phù hợp với thuyết tương đối của Einstein và hầu hết những ý tưởng lớn đương thời khác về bản chất hiện thực. Mặt khác, nó mở ra cơ hội không chỉ du hành thời gian – đi vào một đầu của lỗ mọt và đi ra vào những ngày, những năm hoặc hàng trăm năm trước đó – mà còn kết nối những nơi xa tít của vũ trụ. Hình: Stage 6 Films Điều này có nghĩa là nó cho phép chúng ta di chuyển nhanh hơn ánh sáng. Cho nên không có gì ngạc nhiên khi ý tưởng lỗ mọt thường được vận dụng trong nhiều bộ phim khoa học viễn tưởng như Star Trek, Stargate, the Avengers và Interstellar. Chỉ có một từ cảnh báo cho những ai muốn chế tàu vũ trụ và lái vào lỗ mọt gần nhất: chúng có thể có thật, chúng có thể có nhiều, chúng có thể là cầu nối không gian và thời gian. Thế nhưng có lỗ mọt là một chuyện, mà sử dụng được nó hay không lại là chuyện khác. Ngay cả Stephen Hawking cũng chỉ ra rằng lỗ mọt được cho rằng chỉ tồn tại dưới kích thước thậm chí còn nhỏ hơn cả phân tử. Nó quá nhỏ để mà chúng ta đưa tàu không gian vào. Tuy nhiên, cũng có người lập luận rằng với công nghệ phát triển và cùng với thời gian thì cuối cùng nhân loại sẽ tìm ra cách bẫy những lỗ mọt tí ti này và sau đó biến chúng lớn thêm gấp hàng tỷ lần để chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu và bất cứ nơi nào chúng ta muốn. Tất cả chỉ là sự phỏng đoán vào lúc này, nhưng thử hình dung một ngày nào đó một lỗ mọt như thế sẽ mở ra cho con người di chuyển và con người sẽ phải hết sức cẩn thận để tránh tất cả những can thiệp cố ý vào quá khứ thì chúng ta vẫn có thể đâm vào một tình huống cấm. Hình: Paramount Pictures Hậu quả khôn lường Trong truyện ngắn cổ điển ‘A Sound of Thunder’ của tác giả Ray Bradbury vào đầu thập niên 1950, những nhà du hành thời gian đi đến thời tiền sử của Trái Đất đang phải bay lên trên cao để hạn chế tối đa việc va chạm với quá khứ. Ai đó té ngã và vô tình đè nát một con bướm. Thế mà khi họ trở về hiện tại rất nhiều thứ, từ chính tả từ ngữ cho đến kết quả bầu cử đều khác biệt và họ phải tạo ra một hiện thực thay thế. Câu chuyện của Bradbury là sự khắc họa đầu tiên ‘Hiệu ứng con bướm’ thường được nhắc đến trong các lý thuyết về sự hỗn loạn: chỉ cần một thay đổi nhỏ nhoi trong quá khứ cũng có thể dẫn đến những thay đổi to lớn khôn lường sau này. Và đó là trở ngại thật sự của việc du hành xuyên thời gian. Nếu ai đó có thể vượt qua thách thức vô cùng to lớn là làm thế nào đi xuyên thời gian được thì họ cũng phải đối mặt với thách thức cũng to lớn không kém là làm thế nào đi xuyên thời gian mà không ảnh hưởng gì đến quá khứ dù chỉ là một mảy may. Chỉ cần thay đổi một chút thôi thì có khả năng sẽ thay đổi tất cả mọi thứ và cuối cùng là viết lại hiện thực. Hình: Nasa Du hành vào tương lai Du hành vào tương lai không phải là không làm được. Trên thực tế, có những người đã làm được điều này. Đứng đầu trong số này là Sergei Krikalev, một nhà du hành không gian đã ở trên không gian quá lâu đến mức người ta tính toán rằng ông đã đi đến tương lai của chính mình với tỷ lệ 1/200 của một giây. Không nhiều lắm, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ làm cho bạn phải nhức đầu suy nghĩ. Tất cả đều xuất phát từ sự co giãn thời gian, điều mà thuyết tương đối của Einstein đã chỉ ra và chúng ta có thể đo lường được. Theo đó, khi con người ta di chuyển nhanh hơn thì kim đồng hồ của họ sẽ chạy chậm hơn so với bình thường trên mặt đất. Sergei đã mất hai năm trên quỹ đạo trên trạm Mir và ISS di chuyển với tốc độ 17.000 dặm một giờ. Điều này lại càng phức tạp hơn khi tính đến yếu tố trọng lực. Tuy nhiên, Sergei đã già ít hơn so với nếu ông không đi vào không gian. Hãy thử quay nhanh tốc độ thì chúng ta sẽ thấy kết quả rõ ràng hơn: nếu Sergei mất hai năm trong không gian di chuyển với tốc độ thấp hơn tốc độ ánh sáng một chút, tức là nhanh hơn 40.000 lần tốc độ mà hiện ông đang đi quanh quỹ đạo, thì khi trở về ông sẽ thấy Trái Đất đã trải qua hai trăm năm. Đó mới đúng là du hành thời gian. Dĩ nhiên đạt đến tốc độ như thế là không khả thi và chuyến đi như thế chỉ có thể là một chiều. Nhưng khác với việc trở về quá khứ thì ít nhất chúng ta biết được du hành về tương lai là có cơ sở. Do đó nếu như những phim đi ngược về quá khứ hoàn toàn là viễn tưởng thì du hành vào tương lai có một chút khoa học trong đó. ========================= Cá nhân tôi rất kính trọng ngài S. W Hawking. Nhờ ngài - với trước tác nổi tiếng "Lược sử thời gian", đã cho tôi những dữ kiện đầu tiên để so sánh Lý học Đông phương với những tri thức căn bản của nền khoa học hiện đại. Sau đó là sự tiếp tục với các hệ thống kiến thức khoa học hiện đại khác: "Thuyết Vonfram"; "Nghịch lý toán học Cantor".... Nhưng gần đây, có vẻ như ngài SW Hawking có những sai lầm. Đó là những nhận định của ngài về "sự sống ngoài vũ trụ"; về sự "hủy diệt của một xã hội robot hóa"....Và bây giờ là lý thuyết về lỗ mọi trong không gian liên quan đến thời gian. Không chỉ ngài SW Hawking, mà có lẽ ngay cả với những nhà khoa học ưu tú của nền văn minh cũng tỏ ra lúng túng với thuyết "Hạt của Chúa", mà nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã chứng minh là sai lầm. Thực tế đã xác định như vậy. Tất cả những điều này, đã chứng tỏ rằng: Lý thuyết khoa học hiện đại đã bế tắc trên mọi phương diện. Nó đã đặt ra những ý tưởng không thể chứng nghiệm. Tất cả những quan điểm của lý thuyết khoa học hiện đại nhất, như: "Hạt của Chúa"; "Sự sống ngoài Địa cầu"...Đều đã được Lý học Việt phân tích và mổ sẻ. Bây giờ là vấn đề: "Du hành vào thời gian". Lý thuyết khoa học hiện đại xác định rằng: Về hiện tượng này, Lý học Việt đã nói từ lâu rồi - với vận tốc khác nhau thì sự vận động của thời gian sẽ khác nhau. Lý học Việt mô tả là các "cõi" (Tôi đã có bài nói về điều này ngay trong topic này) . Và nó được mô tả trong câu truyện cổ tích nổi tiếng "Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai". Câu chuyện thần thoại của nền văn hiến Việt đã nhắc nhở con cháu rằng: Nếu lạc vào một "cõi" khác - cõi Thiên Thai - thì như Lý học Việt đã trình bày ngay trong topic này:Tùy theo tốc độ của sự vận động, chúng sẽ có những hệ quy chiếu khác nhau về mặt khái niệm thời gian. Những hệ quy chiếu khác nhau này, tổ tiên người Việt mô tả bằng danh từ "cõi", mà những nhà khoa học nửa mùa, coi là "mê tín dị đoan". Bởi vậy, khi Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai trong "cõi Tiên", thì một năm sau trở về nới trần thế, đã ba trăm năm trôi qua. Và điều này, chính tri thức khoa học hiện đại đã xác nhận rằng: Sự xác định của tri thức khoa học hiện đại, đã thừa nhận một sự thật rằng: Trong những hệ quy chiếu có vận tốc khác nhau thì khái niệm thời gian thay đổi. Và điều này đã được mô tả trong truyền thuyết "Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai" của nền văn hiến Việt. Hay nói cách khác: Thời gian là một khái niệm quy ước. Nó là sản phẩm của tư duy nhận thức thực tại vận động của vũ trụ. Khái niệm thời gian phụ thuộc vào vận tốc của vật chất trong tương quan với vận động cơ lý nội tại của sinh vật trong môi trường sống của nó. Do đó, thực tế vận động của vật chất tạo ra khái niệm thời gian. Nói rõ hơn là thời gian vốn không có thật trong sự vận động và tiến hóa vũ trụ. Từ sự xác định này, vấn đề được đặt ra là: có thể quay về quá khứ, hay "nhập vào tương lai" của con người được hay không? - sẽ được giải quyết từ cái nhìn của Lý học Việt. Tôi có thể chắc chắn - nhân danh những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, có cội nguồn văn hiến Việt, rằng: Bản chất của vũ trụ này không có thời gian. Do đó chúng ta không thể đi về qúa khứ, hoặc tương lai. Con người sẽ nhận thức được qúa khứ, tương lai và cả hiện tại. Nhưng không phải bằng những phương tiện kỹ thuật. Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Tôi sẽ chứng minh điều này ngay trong topic này, nếu tôi rảnh. PS: bài viết này không dành cho giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu Việt Nam Nguyễn Văn Trọng. BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH1 like
-
"Đồng hồ Tây thì không bao giờ sai". Giáo sư SW Hawking nói thì cứ phải từ đúng trở lên sao? Một triệu Dollar, lão Gàn sẽ bác bỏ tất cả luận cứ của các nhà khoa học thế giới về việc họ cho rằng có sự sống ngoài trái đất.1 like