-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 30/08/2015 in all areas
-
Quán vắng!
Thiên Đồng and 3 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Ông chủ lớp 7, nhân viên toàn cử nhân Thứ bảy, 29/08/2015, 02:00 (GMT+7) (Văn hóa) - Ông chủ văn hóa lớp 7 nhưng nhân viên toàn… đại học. Số người có bằng đại học được sử dụng ở đó không chỉ một vài người mà tính tổng công các điểm đã lên tới vài chục người! >> Sống chết vào trường Đại học, chưa cần biết ra làm gì? >> Ngừng thành lập mới các trường đại học liên kết với nước ngoài >> Thí sinh được 24,25 điểm đốt giấy chứng nhận kết quả ĐH >> Ra đường xin việc có gì là "nhục nhã"? >> Luật kinh tế: Ngành không thể thiếu trong nền kinh tế hiện đại Lâu nay ông luôn là người bận rộn và không bao giờ để ai đó phải băn khoăn điều gì to nhỏ. Khi đương chức cũng như nghỉ hưu, hễ có tín hiệu điện thoại là ngay lập tức trả lời, hoặc alo khe khẽ “Xin lỗi, tôi đang bận, xin gọi lại sau”. Vậy nhưng gần đây, ông than thở: “Nhìn số lạ là không dám nghe, khi cứ chắc mẩm đầu dây chủ yếu gọi nhờ… xin việc !” Bởi là người luôn quan tâm, chia sẻ, tiếng nói lại có “trọng lượng” nên ông thường được người quen nhờ vả, bấu víu. Thực tế ông từng tạo điều kiện cho nhiều người chuyển công tác, hợp lý hóa gia đình, con em tốt nghiệp đại học vào làm việc ở những nơi chốn mà nhiều người mơ suốt đời cũng không thể làm được, có tiền “chạy” cũng không có “cửa”. Thế nhưng dạo này mọi việc đâm ra vô cùng khó khăn, xoay kiểu gì cũng tắc. Ông kể, có một người đàn anh từng công tác với nhau thời trẻ, cả đời liêm khiết, không hề phiền lụy gì đến ai, vậy mà bỗng gọi điện thoại cho ông. Phải khó khăn lắm, có vẻ như gãi đầu gãi tai lâu lắm mới thốt lên được rằng, cháu trai đích tôn tốt nghiệp đại học 3 năm nay, chạy hết đông sang tây, nam ra bắc mà vẫn chưa xin được việc làm. Nay chỉ còn đường nhờ nói giúp một tiếng, quả thực đấy là bước cùng, uốn lưỡi cả chục lần mới dám nói… Ông không hứa như trước, chỉ biết nói rằng, sẽ cố thử xem. Và lại đánh tiếng với một người đàn em đương chức, hy vọng vì nể tình, vì này nọ để bố trí, sắp xếp hợp lý. Người kia cũng hứa là sẽ cố gắng, sẽ giao ngay cho một cấp dưới khác xử lý nhanh nhất có thể. Thế rồi đằng đẵng ngày đêm chờ đợi và đợi chờ. Sau đó là những câu trả lời khó nói, đầy chia sẻ rằng, không có biên chế, không có công việc phù hợp, không có kinh phí trả lương, chờ nay mai lập bộ phận nọ, bộ phận kia may gì còn chỗ. Tóm lại, chỉ có cách duy nhất là… chờ đợi; hoặc nộp đơn nơi khác. Kết lại, điện thoại số lạ thì… không nên nghe. Nếu lỡ nghe mà ai đó nhờ xin việc phải kiên quyết ngay: không thể được, không làm được! Tôi đang bận, đến giờ đi đón cháu rồi – ông làm bộ khoát tay, dập điện thoại bàn như thật. Nhiều cử nhân sau khi cầm tấm bằng không tìm được việc làm. Ảnh minh họa *** Mỗi lần về quê, ông ngại nhất là gặp người đàn anh về hưu nhờ xin việc cho cháu nói trên. Thời buổi của khôn, người khó, nói mấy cũng không thể sẻ chia hết, nếu gặp người hay để ý, nhớ lâu thì còn mệt mỏi sang tận đời con, đời cháu chứ chẳng chơi. Nhưng không, câu chuyện bỗng chuyển hướng một cách vui vẻ lạ. Người đàn anh kia có lần ra Hà Nội chơi đã tìm gặp ông cho bằng được. Ông cứ cười hề hề, nói chuyện vần vè tục ngữ, thành ngữ cũ mới, rằng, “đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”, ta không lo được thì chúng phải lo, làm “đầy tớ thằng khôn hơn làm thầy thằng dại”, có khi chúng nó còn giỏi hơn cái đám “bèo hoa dâu sống lâu lên lão làng” như chúng mình chứ lị… Chuyện thế này: xóm quê ông có người học chưa hết lớp 7, bỏ quê đi làm thuê tận trong nam biệt tích mấy năm, rồi đùng đùng trở về mở nhà hàng. Ban đầu chả ma nào ngó ngàng, lỗ chổng vó nhưng vẫn kiên quyết tìm hiểu, thay đổi và nay đã thành công đáng kể. Hàng không chỉ bán tại chỗ mà còn được đưa vào phục vụ trong thành phố cách xa dăm bảy chục cây số. Cứ ai có yêu cầu là phục vụ đến nơi đến chốn. Tiếng lành đồn xa. Nay không chỉ mở thêm nhà hàng tại Vinh, Cửa Lò mà còn vào tận Nha Trang cơ đấy. Ông có biết không, nó có thương hiệu hẳn hoi, ai cũng biết, chỉ có ông ít về quê, ít thưởng thức cái món thịt dê quê ta là không biết. Nó là “Dê Vườn Xoài” Nghi Lâm chứ xa xôi gì đâu! Nhà hàng ấy, ông chủ văn hóa lớp 7 nhưng nhân viên toàn… đại học! Ban đầu vào đứa nào cũng ngại làng xóm cười chê, có đứa vào làm thử chờ đợi phân công công tác hay chờ xin việc, nhưng làm lâu thì quen, làm càng tốt càng hăng. Thu nhập tốt thì không ai dại gì bỏ việc, cứ thế kéo đến ùn ùn. Kế toán, thủ quỹ cần người trung thực, am tường, chạy hàng trong nam ngoài bắc cũng cần người biết tính toán, lo lót. Việc làm không hết, cần nhiều nhân lực thì càng cần người biết tổ chức, phân công, kiểm tra, kiểm soát. Tóm lại là tốt nghiệp đại học mới có thể đáp ứng được phần lớn công việc của cái nhà hàng càng ngày càng to ra, mạnh lên này. Thì ra, người cháu đích tôn không xin được việc ngày ấy, bây giờ đã yên chí làm việc cho… ông chủ lớp 7 đầy thành đạt ở ngay quê mình. Và số người có bằng đại học được sử dụng ở đó không chỉ một vài người mà tính tổng công các điểm đã lên tới vài chục người! Sao, tôi nói ông chưa tin hả? Thế thì hôm nào về quê, “nháy” máy cho tôi, tôi đưa ông lên thưởng thức, tất nhiên là có thằng cháu tôi tiếp đón và nói chuyện. Nhưng mà tôi có gọi thì nhớ nhấc máy đấy nhé, vui vẻ thôi, chả nhờ vả gì ông đâu, “đời cua cua máy, đời cáy cáy đào”, kệ chúng nó. Ta bây giờ yên chí nghỉ, thỉnh thoảng ngồi với nhau, nhẹ bụng thì cơm vừng lạc, hứng chí thì ới nhau làm vài chén, hề hề… (Theo Vietnamnet) ================ Lão Gàn học xong chương trình Văn Khoa, điểm các học phần cao ngất ngưởng, mặc dù chẳng bao giờ đến lớp học cả. Bởi vì lão thì ở Bến Tre, trường thì ở Sài Gòn, mần răng mà đi học hàng ngày được. Chỉ khi nào đến những kỳ thi học phần, ba tháng một lần, mới vác cái mặt đến đóng tiền để thi. Người ta thì phải học miệt mài, ngày nào cũng cắp sách đến trường. Còn lão thì ngày mai thi môn nào, lão mượn sách xem lướt qua. Nhưng điểm thì đứng thứ nhì lớp, tệ lắm là thứ ba. Lão không hề chém gió chuyện này. Không tin đi hỏi Thượng Tọa Thích Tấn Tuệ, bạn đồng môn với lão trong những ngày ở Đại học Văn khoa. Nhưng đúng vào lúc thi tốt nghiệp, lão không có tiền để đóng, thế là lão bỏ. Lão kể câu chuyện này không phải để khoe. Mà là lão ngạc nhiên là tại sao người ta học xong cứ phải đi "xin" việc làm? Tại sao không tự mình làm lấy công việc của mình có sướng hơn không? Lão rất ủng hộ việc học - mà lão coi là một phương tiện tiếp thu kiến thức phổ biến và tập trung - Cho nên, khi tư vấn cho các thân chủ, nếu họ hỏi tôi: "Thưa thày. Em có nên học...." - Là lão nói ngay: "Học thì không cần phải coi có nên hay không. Có điều kiện thì cứ học, để có kiến thức và lúc ấy ta sẽ có những suy nghĩ gần với sự thật hơn là thất học". Tất nhiên, không thiếu kẻ bằng cấp lùng bùng mà vẫn thể hiện sự dốt nát. Nhưng nếu cũng con người đó mà lại thất học nữa thì sẽ ra làm sao? Do đó, học xong bằng tiến sĩ, có sống bằng nghề chăn bò cũng chẳng sao. Trong cùng một điều kiện, con bò được nuôi với sự hiểu biết của một tiến sĩ sẽ hơn hẳn con bò được nuôi với trình độ chăn bò phổ biến. Có lẽ đây là lý do để ngài Lý Hiển Long khuyên công dân Singapore không cần học đại học. Những lão thì lại không đồng ý quan điểm của ngài Lý Tiểu Long. Với lão thì toàn dân có bằng tiến sĩ càng tốt. Nhưng đừng vì có bằng tiến sĩ mà ngần ngại làm culi xe. Ông cha ta ngày xưa rất khuyến khích sự học. Bức tranh "Chăn trâu đọc sách" và truyền thống hiếu học của người Việt đã nói lên điều này. Sự kiện "ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau" chính là một hình thức khuyến học, trong một hoàn cảnh xã hội lệ thuộc vào nền nông nghiệp cổ xưa, chứ không phải là mục đích của sự học, mà ông cha ta quan niệm. Tiếc thay! Nền văn hiến huyền vĩ Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương tử, chỉ còn lại những mảnh vụn của nó sau hơn 2000 năm. Cho nên sự khuyến học bị biến thái trở thành mục đích của việc học. Nền văn hiến Việt có cả một triết lý giáo dục xác định mục đích việc học, tức mục đích của giáo dục. Nó sẽ sáng tỏ, nếu cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến được sáng tỏ vì tính chân lý của nó. PS: trong một quốc gia có quá ít cử nhân, tiến sĩ, mà để tiến sĩ đi chăn bò thì lãng phí tài nguyên quốc gia. Ok! Cái này lão đồng ý. Nhưng khi cử nhân, tiến sĩ đông như quân Nguyên thì các vị không chăn bò lấy ai chăn bò để bán phở 800. 000/ 1 tô với thịt bò Kobe? Ngày xưa có người được vua Thuấn (*) mời ra làm vua, xuống sông rửa tai. Một gã chăn trâu thấy vậy bèn đem trâu lên phía thượng nguồn để trâu khỏi phải uống nước rửa tai. Họ đuợc coi là những cao sĩ - Tức đẳng cấp tiến sĩ - của xã hội đương thời. Qua đó đủ thấy mục đích sự học của người xưa không phải để "xin" việc làm - dù là làm vua. Ngắm kỹ bức tranh "chăn trâu đọc sách", tôi thấy tất cả những minh triết sâu sắc của tổ tiên ta trong Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến về sự học. ================ * Theo quan điểm của tôi thì thời đại Nghiêu Thuấn là của Việt sử. Có rất nhiều dấu ấn liên quan chứng tỏ điều này.4 likes -
Tiếng Việt
vandung689 and one other liked a post in a topic by Lãn Miên
Thằng Bờm có cái quạt mo… Nhiều học giả đã phân tích ý nghĩa của câu ca dao: “Thằng Bờm có cái quạt mo…”, trong số những bài phân tích đó tôi thích nhất là bài của học giả Đỗ Minh Tuấn (báo Văn nghệ trẻ). Cũng có học giả cho rằng bài phân tích của Đỗ Minh Tuấn ấy là suy diễn từ tư duy của con người ngày nay, tác giả bài ca dao là người xưa không nghĩ được như vậy khi tạo dựng nên câu chuyện ngộ nghĩnh “Thằng Bờm”. Điều này không đúng. Ví dụ, người ngày nay đã mấy ai hiểu đúng được thuyết Âm Dương Ngũ Hành mà khinh thường tư duy của người xưa? Minh triết Việt thể hiện ở chỗ là những cái nhỏ bé lại dẫn được cho người ta thấy và hiểu được triết lý sâu sắc, mà nếu có viết bình thì một cuốn sách cũng viết chưa hết được, ví dụ cặp bánh chưng bánh dầy, tượng đá, tranh lợn dân gian Đông Hồ, chùa một cột v.v.. Còn đi vào Bảo tàng Hà Nội hoành tráng ngày nay người ta chưa thấy được triết lý gì và hiểu hồn văn hóa dân tộc nó nằm ở đâu? Câu chuyện “Thằng Bờm” đúng là một truyện ngụ ngôn, tác giả “Thằng Bờm” đã đưa cả cái hồn của ngôn từ Việt và chữ Việt (chữ nho) vào trong đó. Mỗi vuông là “con Chữ Nho nhỏ” ấy người Việt gọi vo (QT Vo) là Chữ Nho, nó có một giá trị thông tin. Vuông 囗viết cách điệu thành chữ Văn文 (theo <Thuyết Văn Giải Tự>), tiếng Quảng Đông đọc chữ Văn文 là “Mảnh” (đi học để có cái “văn bằng” cũng là “mảnh bằng”), tiếng Triều Châu đọc chữ Văn 文là “Vuông”. Vuông = Vựa = Chứa = Chữ = Trữ貯. Vuông 囗cũng là hình cái lỗ giữa tượng Đất của tiền hình tròn tượng Trời. Tiền ấy dù mệnh giá lớn nhỏ đều chứa một giá trị nhất định, người Việt gọi là “Trự Tiền”, tư duy hời hợt thì người Việt cho là “chưa đáng một Trự tiền”, Trự là “Trị của một Chữ” = Trự (QT Lướt). Như vậy trong nội hàm từ Trự là câu “Trị của một Chữ” đã có mệnh giá nhất định (từ Trị) và con số chỉ mệnh giá đó (từ Chữ, là cái chữ số viết ra). Tiền phải xoay vòng mới ra lời, xoay vòng của một Trự tiền là cái ước vọng của chính nó muốn thành ra “Chữ Nhiều” = Chiều, Chiều chính là cái động lực quay của tiền, động lực càng mạnh thì tiền quay (xoay vòng) càng nhanh, lời càng nhiều. Do vậy định Chiều mới là cái quan trọng, nó là cái nội lực, cái vốn có, còn định Hướng là cái ở ngoài, có thể thay đổi, hướng sang Tây hay hướng sang Bắc, tùy chọn. Chiều (nội lực quay) của tiền, theo nguyên tắc là phải từ dưới lên trên (tức từ nhỏ thành lớn, từ ít thành nhiều), đây chính là sự lớn của con Nòng hay con Nọc trong đồ hình âm dương, đi từ góc Xu = Xíu lớn lên đến góc Tù = To. Bởi vậy mệnh giá đầu tiên của tiền thì người Việt gọi là Xu. Xác định Chiều (nôi lực quay) rồi là bắt đầu từ Xu. Mệnh giá Xu là tiền đề để quay theo hướng đi lên, tiến tới Hào. Mệnh giá trên Xu là Hào. Hào trong một quẻ Dịch bắt đầu dịch xoay vòng theo hướng từ dưới lên trên, đến khi thành Hào trên cùng là Hào thứ sáu (Sáu = Sâu = Lâu = Lão – QT Tơi-Rỡi) là đến “Đáo Trống” = Đồng. Như vậy mỗi quẻ Dịch có giá trị là một Đồng, bởi vậy Trự tiền cũng gọi là Đồng tiền, dù tiền từ cổ chí kim có làm bằng vật liệu vỏ Bối hay Kẽm, Đồng, Bạc, Vàng, Hợp kim, Giấy đều gọi bằng đơn vị “Đồng”, nay là VNĐ. Ngôn từ Việt không chỉ để lại nhan nhản trong Hán ngữ mà còn để lại cũng nhan nhản trong Nhật ngữ. Thiết “Nhiều Lắm” = Nhặn, từ Nhặn viết bằng chữ Nhiên 然. Nhặn nở ra từ dính Nhan-Nhản. Vũ trụ là Âm+Dương tức Khôn+Càn,là Đất+Trời = Tất+Càn = Tất+Cả = "Tạo Hóa" = Ta. Ta là Người, là "Càn khô Vón" = Con, Con Người là một tiểu vũ trụ. Nhấn “Tạo hóa Chứ!” = Tự. Tự Nhiên 自 然 là viết theo cú pháp Việt, có nghĩa là “Tạo hóa sinh ra nhiều Thứ” = Tự + Lắm = Tự Nhiên. Ví dụ, cụm từ “Nhật Bản Gọi” thì tiếng Nhật là “Ni Hôn Gô 日 本 語 ” (tức Nhật Bản ngữ 日 本 語). Ví dụ, nôi khái niệm “đẹp” là: Đẹp = (nhấn) “Đẹp Chi 之!” = Đĩ (vẻ đẹp ngồ ngộ) = “Quá Đĩ” = Kĩ 妓 (vẻ đẹp sexy) = Ý 懿 = Ki-Rei-Y ( tiếng Nhật))= “Mặt đẹp Chi 之!” = Mĩ 美 = (nhấn) “Mĩ Đấy!” = Mei 美 (tiếng Hán) = “Lắm đẹp Hề 兮!” = Lệ 麗 = (nhấn) “Lệ Chi 之!” = Li 麗 (tiếng Hán). Từ đôi Mĩ Lệ 美 麗 được Hán ngữ dùng chỉ cái đẹp gọi là “Mei Li 美 麗”. Đẹp khi nhìn gọi là “Đẹp Nom” = Đỏm. Đẹp nhiều gọi là “Đẹp Nhiều” = Điệu 窕, “Đẹp Dáng” = “Đỏm Dáng” = Đàng, thành từ đôi Điệu Đàng. Đẹp của phái yếu gọi là Yểu Điệu 窈 窕. Bổn chữ là Ấu 幼 Đào 咷 (trẻ con Gào khóc, lúc đó dáng nó dễ thương). Mẹ nó là Âu Cơ thì đương nhiên con là “Âu Giống” = Ấu (QT Lướt lủn), Ấu chỉ đứa con nít, Ấu Con 幼 子 = Oắt Con = Wa-Kai (tiếng Nhật gọi đứa con nít là “wa-kai”).Công nhận có QT Lướt thì thấy rõ đã lướt “Wa Kai” = Oải = Ải 矮 = Ấu 幼 = Út = Chút ,là một nôi khái niệm của tiếng Việt chỉ cái nhỏ bé thấp lùn. Oải là thấp nhỏ, nên sức khỏe chỉ còn ở mức thấp nhỏ gọi là Uể -Oải;Ải là thấp nên cày lật đất thành những luống thấp gọi là cày đổ ải;Út là nhỏ nhất; Chút là nhỏ xíu, còn nhấn “Chút Chi!” = Chí, thành tên con vật nhỏ xíu ký sinh trong tóc là con Chí, nhấn “Chí Đấy!” = Chấy, thành tên con Chí hay con Chấy. Hán ngữ dùng từ Ải 矮 với nghĩa là lùn thấp nhỏ. Nhật ngữ đã dùng ba chữ Kĩ 妓 (Ki) , Lệ 麗 (Rei), Ý 懿 (Y) để ghép thành tính từ tiếng Nhật là Ki-Rei-Y nghĩa là đẹp. “Đẹp” tiếng Nhật là ki-rei-y, còn “đẹp đấy nhé!” là ki-rei-y đex né! Chữ Ý 懿 có nghĩa là đẹp, dù Hán ngữ hiện đại không dùng, dù Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ VN xb 1991 cũng không đưa nó vào gọi là “tố gốc Hán”, vậy nó là thuộc “cổ Hán ngữ” tức là của tiếng Việt vậy. (Nhắc lại: một người TQ đi với tôi vào hiệu sách nhân dân phố Tràng Tiền HN, nhìn cuốn Từ điển Hán-Việt đồ sộ - 60 000 chữ, đã nói: “Trông mà hãi, thực tế từ của Hán chỉ khoảng một nghìn từ thôi, còn lại là của các tộc phi Hán”). Ví dụ, người thợ làm đầu nói: “Tôi sửa tóc như vầy vừa Đẹp chưa?” ( “Tôi sửa tóc như vầy vừa Ý chưa?”). Khách trả lời: “ Vừa Ý!” ( “Vừa Đẹp!”, “Coi là vừa Đi!” hay cộc lốc “Được!” – Hán ngữ dùng câu cộc lốc “Hành!” phát âm lơ lớ là “Xíng!”). Ví dụ: “Trong mấy cái áo này con thích cái nào?”, trả lời: “Con thích cái Ý cơ!” (“Con thích cái Đẹp cơ!). Ví dụ: “ Hết Ý!” (“Đẹp hết xảy!). Nhân xưng ngôi một tiếng Việt là Ta. Ta=Ngã=Người. Xưng “Ta” có nghĩa là xưng “Người”, đương nhiên ngôi thứ hai sẽ là “Người Hai” = Ngươi (do QT Lướt lủn). Cùng logic, xưng ngôi một xưng là Mình, đương nhiên ngôi hai sẽ là “Mình Hai” = Mày (do QT Lướt lủn), nhấn “Mày Chi!” = Mi, hay “Mày Chứ!” = Mừ (Mừ là nhân xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái). Tiếng Nhật xưng ngôi một là wa-Ta-xi, ngôi hai là a-na-Ta, cũng đều có “Ta” cả, mà Ta nghĩa là “người-Ta”, tiếng Nhật là “hi-To”, đều do từ nôi khái niệm của tiếng Việt mà ra cả. Chẳng phải ngẫu nhiên mà mọi ngôn từ đều sinh ra do một NÔI khái niệm. Nôi ấy có nửa N là âm (Negative) và nửa I là dương(Innegative) để có được một Ổ các khái niệm. NÔI nếu đọc từ phải sang trái là I ỒN (có nghĩa là Đẹp Lời, I là đẹp, Ồn là Lời tức “Lưỡi Nói” = Lời). Cổ đại, cùng thời của nước Đại Việt và nước Đại Hòa thì người Việt và người Hòa đều có chung từ mang nghĩa nói là từ “Ồn”, từ Ồn viết bằng chữ Âm 音, tiếng của người Hòa (nước Đại Hòa tức nước Nhật Bản) thì tiếng Nhật gọi là Hòa Ồn 和 音 (“Wa on”) tức Hòa nói, tiếng của người Ngô thì Nhật Bản gọi là Ngô Ồn 吴 音 (“Go on”) tức Ngô nói. Người nói tức “Người Ồn” = Ngôn 言 (do QT Lướt), “Đông người Ồn” = Đồn, là tin đồn, tức tin đồn của đại chúng nên còn gọi là Đồn Đại, “nghe đồn đại rằng…”. Ồn = Ỏm = Âm 音 (QT Tơi-Rỡi) nên từ Ồn viết bằng chữ Âm 音chỉ tiếng nói, mà “Tiếng Nói” = Tỏi (do QT Lướt) nên còn có từ đôi Ỏm Tỏi chỉ sự cãi vã to tiếng. Ồn còn do QT Nở mà tạo ra các từ dính Ồn-Ào = Ầm-Ĩ = Í-Ới = Inh-Ỏi. Inh-Ỏi tách riêng ra thì Inh = Ỏi = Nói. Con chim thì dùng “Mỏ nó Inh” = Minh 鳴 mỗi khi nó hứng lên, là “Minh Hứng” = Mừng. Chữ Minh 鳴 chỉ động tác hót của chim, hót là khi nó mừng nên thành từ đôi Hót Mừng. Tiếng Nhật thì từ “Người Ta” là “Hi-Tô”, bởi vậy mới có lướt “Hi-to Nói” = Hỏi, cho nên người Nhật nói thì người Việt phải Hỏi lại mới hiểu được chứ chưa hiểu ngay được. Thời các nước Ngô, Sở, Việt thì dân ba xứ đó đều là dân Việt cả. Ba nước ấy cũng từng wuýnh nhau tưng bừng, nhưng đó là chiện của giới thống trị từng nước, còn lính tráng thì mỗi lúc tạm dừng trận, họ lại chẳng kể bên nào, ngồi chung đàn đúm hát hò với nhau (theo Hán thư). Người Nhật chỉ ưa nhất là “người -Ta NÓ cần- mẫn”, câu này ở tiếng Nhật theo cú pháp thuyết trước đề sau là “kin-ben NÔ hi-Tô”. Cho nên chỉ vài chục năm sau chiến tranh, nước Nhật đã thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Chỉ cần người-Ta (hi-Tô) cần 勤 (kin勤) cù lao động và mẫn 敏 (ben 敏) cảm với thời cuộc thì làm được tất cả, bởi chưa biết làm sẽ có người cùng làm mà thạo hơn bày vẽ cho. Chứ chưa cần anh phải “dân trí cao” tới cỡ nào. Có mần thì mới biết mẫn, bởi mần nhiều thì là “Mần Mần” = Mẫn, 1+1=0, không mần thì làm sao biết mẫn cảm với biến đổi khí hậu hay mẫn cảm với biến động của thị trường, không mần thì lấy đâu mà biết “thức thời mẫn thế” để mà đón được “thiên cơ vận hội”. Mà công việc “mần dâu trăm họ” trong xã hội thì phải biết “một sự nhịn chín sự lành”. Nín = Nhịn = Nhẫn 忍, người Nhật lại gọi chữ Nhẫn 忍 là “Nin 忍”. Nhịn là Nhịn Người tức “Nín Ngài” = Nại 耐, tức Nại Người. Người = Ngã = Ta. Nhịn Người tức Nại Người thì tiếng Nhật lại đọc ngược là “Ta Nại” = “Tai 耐”. Câu tục ngữ “Một sự nhịn chín sự lành” thì Việt nho viết thành câu đối là: Nhất cần thiên hạ vô nan sự. Bá nhẫn gia trung hữu thái hòa (壹勤天下無難事。百忍家中有泰和). QT Lướt (thiết) và QT Tơi-Rỡi là có tồn tại trong tiếng Việt, không chối cãi được, Chối = Thối 退 = Thoái 退 = Thoán 竄, Cãi = Cải 改, từ Chối Cãi viết bằng chữ Thoán Cải 竄 改. Dùng các QT trên sẽ giúp tìm được gốc các tên làng cổ. Ví dụ đền Lí bát đế thờ các Vua triều Lí ở làng Đình Bảng, làng ấy cổ xưa trước thời Lí đã có tên là Kẻ Báng vì đã có đền Báng, tức đền “Bái Sang” = “Bái Vãng” = Báng, là đền bái vọng thủy tổ xưa, không phải là gốc ở đất ấy. Sang = Vãng = Vọng, khách đi sang đi lại gọi là khách vãng lai. Mẫn 敏 = “Biết Mẫn” = Bân 斌 = Bén (Nhật đọc chữ Mẫn 敏 là “Ben”) = Bẩy (biết chọn lọc, tức “Biết Lẩy” = Bẩy, Lẩy là do lướt lủn “Lấy Tuyển” = Lẩy) = Nhậy = =Nhanh = (từ đôi) Nhanh Nhậy, Nhậy Bén. Chữ Bân 斌là chữ đặt gồm Văn 文và Võ武, có nghĩa là “văn võ kiêm toàn”, nhưng đọc đúng luật từ phải sang trái là “Võ Văn” = Vân. Vân 云 nghĩa là nói, đây chính là sức mạnh ngoại giao. Thành ngữ “Mạnh vì Gạo, bạo vì Tiền”. Ở khái niệm cụ thể thì Gạo và Tiền chỉ là chỉ hai vật chất cụ thể, rời rạc. Ở khái niệm trừu tượng thì như là ám ngữ: “Gạo Tiền” = Ghiền = Nghiên, là nghiên cứu. “Tiền Gạo” = Tạo, là sáng tạo. Có được sức mạnh nghiên cứu sáng tạo (“kinh tế tri thức”) thì sẽ được Bái (tâm phục khẩu phục), Bái có dấu 1, chỉ tác động ngoài, mang nghĩa tích cực. Ngược lại thì là Bại, Bại có dấu 0, mang nghĩa tiêu cực, ám chỉ thua từ trong (thành ngữ “Tiên trách kỉ hậu trách nhân”, lỗi do mình chứ không phải do khách quan nào cả). Đây chính là giải nghĩa tại sao đặt chữ Bân 斌 (bổn chữ ám nghĩa là Văn 文Võ 武 kiêm toàn) mà chữ lại mang dấu 0, ám chỉ cái tiềm năng vô hạn bên trong của con người, tiềm năng ấy là cái Tàng, Tàng phiên thiết Tạo Sáng, Tạo Sáng là cái Cống Hiến của con người. Bân 斌thể hiện cái trí tuệ: Văn 文phiên thiết Viết + Ngăn (biết Nói – Viết 曰và biết Không Nói – Ngăn, do lướt lủn “Ngôn Chặn” = =Ngăn). Võ 武phiên thiết Việt + Co (biết Tiến – Việt 越 = Vượt và biết Dừng – Co, Co = Họ, lệnh con trâu “Hãm Đó!” = Họ!). Ngược với Bân dấu 0 có ba từ dấu 1 là Bần (hành xử nghèo về trí tuệ), là Bấn (hành xử bí về phương pháp), là Bẩn (hành xử chơi bẩn về chiến lược hay chiến thuật) đều dẫn đến Bại (Bại phiên thiết Bị Hại, do chính mình “vác đá chọi bàn chân”), mà không được Bái (thiên hạ tâm phục khẩu phục). Vậy mà Bân chỉ đơn giản là “Biết Mần” = Bân: biết hiểu đúng qui luật của vũ trụ, thuyết ÂDNH, để mà “Mình vì Dân” = Mần. Trong diễn xướng dân gian thì diễn viên được gọi bằng hai cái tên là Kép (nếu là người trai) và Đào (nếu là người gái), trong hát Xoan Phú Thọ gọi diễn viên là Ké và Đà. Gốc thật của từ là Cái = “Cái Nè!” = Ké = Kép; Đực = “Đực Ạ!” = Đà = =Đào (còn có từ “số Đào hoa” chỉ người đàn ông có tính Đực mạnh). Như vậy ở người thật thì đàn ông mới chính là Đào, còn đàn bà mới chính là Kép. Nhưng khi làm diễn viên, bản thân từ Diễn đã có nghĩa là “Diễn Ạ!” = Giả, nghệ sĩ phải “giả” đóng vai nọ kia để mà “diễn”, bởi vậy diễn viên phải mang cái tên giả: bản thân người thật là trai nhưng phải chịu mang cái tên giả là Kép, anh Kép (từ Kép thuộc Cái); bản thân người thật là gái nhưng phải chịu mang cái tên giả là Đào, cô Đào (từ Đào thuộc Đực). Khi khen thì khán giả khen người thật là “nghệ sĩ ưu tú” chứ không có “diễn viên ưu tú”, bởi khi “diễn” thì đó chỉ là “giả”. Hết nghiệp diễn thì chỉ gọi họ là nghệ sĩ chứ không còn gọi họ bằng cái tên giả là Kép hay Đào nữa. Đào Kép hay diễn viên hoặc nghệ sĩ thì tiếng Nga đều gọi là “Artist”, nhưng ngôn ngữ dân gian Nga cũng dùng từ “Artist” chuyển nghĩa thành từ bóng để chỉ người giảo hoạt hay chỉ đứa trẻ con lém lỉnh “nói dối như cuội” là “Artist”. Để chứng minh gốc thật của từ Kép là do từ Cái và gốc thật của từ Đào là do từ Đực thì lấy ví dụ ở cây thị cổ thụ nghìn tuổi huyền bí tại đền Phủ Cống, Trường Yên, Ninh Bình, nơi thờ bảy vị tướng của Đinh Tiên Hoàng. Cây thị sum suê này cứ đến mùa là sây quả, nhưng trên cây có hai loại quả, quả Tròn có hột và quả Dẹp không có hột, mà nếu đem trồng nơi khác sẽ không có kết quả như vậy. Theo giới tính thì Dẹp là con Nòi = Nái = Nàng; Tròn = Trai là con Giống = Chồng = Chàng, phù hợp các cặp từ đối tương ứng Â/D là Nòi/Giống = Nái/Trai = Nàng/Chàng= Thị/Tộc. Quả có hột là “Quả Chắc” = Cặc = Cậu = Đậu = Đào. Quả không hột là “Quả Lép” = Kép = Dẹp. Đực phải tên là Đào mới đẹp, gọi là có số Đào hoa. Cái phải tên là Kép là Dẹp mới có Diễm lệ, Duyên dáng. Dương sinh ra Âm, nên lấy hột của quả Tròn đem trồng xuống Vuông đất thì sẽ mọc ra cây thị con, đó là câu “Mẹ Tròn con Vuông”. Chữ Bân 斌khi tra <TVGT> trên mạng : [Shuowenjiezi zaixianchaxun Cidianwang] thì nhận được câu trả lời: 抱歉,没有收录汉字“斌” (Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự “Bân”). Như vậy chữ Bân 斌 là chữ do Việt nho đặt ra, chỉ người “Biết Mần” = Bân 斌, người biết mần phải là người như chữ Bân 斌 hàm nội dung là Văn 文 Võ 武 song toàn, mà đọc từ phải sang trái là Võ 武 Văn 文 thiết Vân 云, Vân 云 nghĩa là nói, nói ở đây là sức mạnh ngoại giao, vì trong nội hàm có Văn 文 (Văn phiên thiết Viết+Ngăn, Viết 曰 là biết nói: lướt lủn “Việt 越 Nói” = Viết 曰, Ngăn là biết không nói: lướt “Ngôn 言 Chặn” = Ngăn) và có Võ 武 (Võ phiên thiết Việt+Co, Việt là biết tiến: Việt 越 = Vượt, Co là biết dừng: Co = “Hãm Đó!” = Họ!, con trâu nghe quát “Họ!” còn biết dừng lại). Chữ Bân 斌của người Việt chính là nhân vật Bờm trong bài ca dao “Thằng Bờm có cái quạt mo…”. Nó là người “Biết giữ cái Thơm” = Bờm, để mà giữ đạo lí lối sống của người Việt (“Đói cho sạch rách cho thơm”, “Ai biết sông Lam răng là trong là đục. Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh”…), như bài phân tích của tác giả Đỗ Minh Tuấn (báo Văn nghệ trẻ). Lướt “Biết Mần” = Bân斌, người biết mần phải là người Văn 文 Võ 武 song toàn, Chữ Bân 斌 này Hán ngữ hiện đại không dùng, nhưng người TQ vẫn có người đặt tên là Bân 斌 bằng chữ Bân 斌 này (cũng giống như chữ Ý 懿 nghĩa là đẹp, Hán ngữ hiện đại không dùng, nhưng vẫn có người TQ đặt tên là Ý 懿 bằng chữ Ý 懿 này). Hán ngữ dùng chữ Bân 彬 này với nghĩa là nho nhã, từ nho nhã nghĩa là phong cách “nho” (tức nhỏ nhẹ, nhũn nhặn, nhịn nhường) của người nước Nhã cổ đại, tức đất Việt phương Nam, mà Khổng Tử từng gọi văn chữ nho là Nhã ngữ, Khổng Tử từng nói: “Chúng ta phải học cái văn minh của người phương Nam”. Bản thân chữ Bân 彬 (nho nhã) có biểu ý đọc từ phải sang trái là Phức Tạp 彡 Lắm 林 (bộ thủ Sam 彡 nghĩa là sồm-soàm tức phức tạp, từ Lắm tá âm bằng chữ Lâm 林), chứng tỏ để làm được người nho nhã không phải dễ, chí ít cũng phải có văn võ song toàn. Vậy mà Bờm, là người “Biết giữ Thơm” = Bờm làm được, lại còn cười chê những kẻ giàu mà ngu. Ngược với “Biết Mần” = Bân 斌(dấu 0, Âm, chỉ trí tuệ, như Nguyệt là vầng sáng của Trăng) là Bấn (dấu 1, Dương, ý là võ biền, dương dương tự đắc) nghĩa là bí, bế tắc, về phương pháp ( bấn loạn), nho đã tạo chữ Bấn bằng từ đôi “Tắc Bấn” = Tân 繽, chữ Tân 繽 này mang nghĩa là rối rắm, như câu thành ngữ “rối như tơ vò”, chữ Tân 繽 có bộ Tơ 糸. Mần thì phải Vận lực và tuệ từ trong bản thân, mà khi Vận thì phải chăm chú vào một vấn đề đang làm, do vậy mà có nôi khái niệm: Mần = Vận = “Vận Chú!” = Vụ 務 = “Vụ Chiếc” = Việc = (từ đôi) “Mần Vụ” = Mu = “Mu Ạ!” = Mùa. Người Nhật đã dùng từ “Mu 務” để đọc chữ Vụ務, với nghĩa là việc làm hay nhiệm vụ. Nhưng từ Nhiệm Vụ là nói cái việc được giao cho mình làm chứ không phải việc của mình tự Mần, nó ở cái nôi khái niệm khác: Mần = Nhận 認 = Nhậm 任 = =Nhiệm任. Từ đôi Mùa Vụ hay Vụ Mùa là dùng nói riêng về công việc đồng áng. Tác giả chuyện ngụ ngôn “Thằng Bờm” đã dựng chuyện bằng chơi từ và chữ của tiếng Việt, tạo nên cốt truyện ngắn gọn, lời văn giản dị, hình thức ngộ nghĩnh nên người lớn trẻ con đọc đều thích và dễ thuộc. Nhưng ý tứ của từ và chữ thì quả là sâu sắc. Tại sao không chọn cho Bờm có cái gì khác, cũng nghèo nàn sơ sài, như rế rách hay chổi cùn chẳng hạn, mà lại chọn từ Quạt Mo. Bởi theo QT Tơi-Rỡi thì Quạt Mo = Qúi Mỏ, phản thiết thì là “Mỏ Qúi” = Mị 魅. Bờm có cái mỏ quí cực kì hấp dẫn, mị lực lớn, mới gợi lòng tham của phú ông, làm cho phú ông phải tìm mọi cách để đổi cho bằng được, mà vẫn bị Bờm “cười” (không đời nào!), Cái Mị 魅 lực 力 đó chính là cái Giá Trị Văn Hóa, như học giả Đỗ Minh Tuấn đã phân tích. Còn nếu nói tác giả “Thằng Bờm” có vận dùng từ và chữ của tiếng Việt để chọn tên nhân vật, tên vật dụng như LM nêu chỉ là sự “suy diễn” , thì cũng đúng vậy. Bởi ngôn từ và qui tắc của tiếng Việt nó đã bày sẵn ra đó để cho mà suy diễn ạ, tức nó là cái của Tự Nhiên, nói cách khác là của Trời sinh ra thế. Cái NÔI khái niệm của tiếng Việt nó cũng lại là Nuôi 喂 (N) dưỡng một Ổ 于 (Ô) những cái Đẹp 懿 ( Í ) , giống như mẹ Âu Cơ có bầu trăm trứng để nở ra Bách Việt cùng một Nòi vậy. NÔI khái niệm cũng là Nôi ru con để con biết Nói, cũng là Nôi sáng tạo , Nôi cách mạng, không phải gọi là “làn lắc cách mạng 革命摇篮” . Đây là nguyên văn cụm từ mà tiếng TQ dùng: nôi cách mạng là “cách mạng dao làn 革命摇篮” (cái nôi ru con tiếng TQ gọi là cái làn lắc – dao làn “yáo lán 摇 篮”). Còn ở tiếng Việt khi dùng cụm từ “nôi cách mạng” thì từ “nôi” ở đây ai cũng hiểu không phải là cái nôi ru con, mà là “Nơi nuôi dưỡng (N)” một “Ổ (Ô)” những cái “Đẹp (Í)” để mà Nở = “Nở Rộng” = Nống ra những nơi khác, gói gọn trong một chữ NÔI là cái đề, từ cách mạng là cái thuyết trong cụm từ đó, theo cú pháp Đề trước, Thuyết sau. Nếu cứ theo nguyên tắc cú pháp “Đề trước, Thuyết sau” như khẩu ngữ nói năng hàng ngày của người Việt (mà GS Cao Xuân Hạo đã phát hiện và nêu ra từ mấy chục năm trước) thì ngữ pháp tiếng Việt thấy rõ ràng là đơn giản dễ học nhất thế giới, chẳng có gì là “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam” cả, như nhiều giáo viên vẫn nói. Người Việt đã gọi xứ sở mình bằng cặp từ có cấu trúc dương âm cân bằng là Đất Nước, đó là bên Đất (đất liền) và bên Ao (biển Đông) là “Đất 凸 Ao 凹” = Đào, hay “Địa 地 Dương 洋” = Đường, hay bên Thụt xuống của mặt trời trong ngày và bên Giương lên của mặt trời trong ngày là “Thục 屬 Giương 揚” = Thường, là xứ Việt Thường 越 僮. Chữ Thường 僮 viết biểu ý là Người 亻Đứng 立 Trong 里, tức người Giao Chỉ, ở vị trí giữa là Nhân 仁(biểu ý là kẻ người “亻” giữa kẻ trời “ – “ và kẻ đất “ – ”)của cái bánh chưng hình Vuông 囗 tượng đất gọi là “thiên hạ” (nằm dưới cái bánh dầy tượng trời). Khái niệm đối lập Dương / Âm đã chia ra tương ứng Dương thế / Âm thế = Tồn tại / Mất = Sống/Chết, như cặp từ Đất Nước còn hàm ý là sự song song tồn tại thế giới thực tại và thế giới tâm linh. Những khái niệm ấy đều do từ NÔI khái niệm mà ra: NÔI = Nắng = Nóng = Nổi (núi lửa phun trào) = Đồi = Đất = Đột 凸 = Sốt (có nhiết độ) = SỐNG (bên dương Innegative của chữ NÔI) NÔI = Nước = Nuốt (khai thác thủy lợi) = Tuột (cạn dần) = Tốt 卒(chữ hết) = Hốt (vơ vét nguồn nước ngầm) = Hết = CHẾT (bên âm Negative của chữ NÔI) Như vậy rõ ràng cấu tạo của ngôn từ Việt đã chỉ ra rằng: Nguy cơ mất cân bằng âm dương là Nước sẽ cạn kiệt (âm suy, như đang diễn ra ngày càng khốc liệt ngày nay trên toàn địa cầu), khi đó Đất vẫn còn nhưng toàn bộ sẽ là hoang mạc không có sự sống. Cấu tạo ngôn từ kiểu này của tiếng Việt cùng các Qui Tắc tạo từ của nó vốn có, là “suy diễn” chăng? hay là “Trời sinh ra thế”. Chữ Văn 文 phiên thiết “Viết + Ngăn” = Văn. Viết là do QT Lướt lủn “Việt 越 Nói” = Viết 曰, Viết 曰 là từ của tiếng Việt cổ, nghĩa là nói. Về sau từ Viết chuyển nghĩa chỉ sự nói bằng văn bản, biến thành động từ Viết và danh từ cây Viết là một dụng cụ văn phòng phẩm. Viết có nghĩa là “biết nói”, chữ Viết 曰 tượng hình là cái miệng có lằn môi ngang. Ngăn là “Ngôn 言 Chặn” = Ngăn, có nghĩa là “biết không nói”. Như vậy nghĩa của chữ Văn 文 là: Văn = biết Nói + biết Không Nói. (Con người nhìn vào cái Văn thì hiểu và nói ra cái hiểu đó gọi là đọc. Con cọp con nhìn vào cái Vằn trên lông mẹ nó, nó hiểu đó là mẹ nó, không giống các mẹ cọp khác, có điều nó không nói ra). Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng Viện ngôn ngữ học 1991 coi chữ Văn 文 là tố gốc Hán (tr. 469) với các ý nghĩa: 1chữ viết, 2 hình thức ngôn ngữ trau chuốt, 3 trạng thái phát triển xã hội, 4 phi quân sự đối với võ, 5 tri thức về một lĩnh vực. (Những nghĩa này chỉ là ứng dụng những phái diễn của từ Văn). Để phân tích cái âm tiết của từ Văn và chữ nho Văn 文 nó là gốc Việt thì nhìn vào các QT tạo từ của tiếng Việt sẽ thấy rõ ngay (phát âm của Hán ngữ đọc chữ nho đó sẽ viết trong ngoặc vuông […] kèm bên cạnh). Cổ đại người Việt ghi thông tin bằng cách Vẽ những Vệt kí hiệu như những cái Vằn và cố gom thành một ô vuông, làm thành một bức thông điệp, đó là một Vựa thông tin nhỏ, gọi là “vuông Chữ Nho nhỏ” chính là cái “Vuông Vằn” = “Vuông Vắn” = Văn (QT Lướt). < TVGT> giải thích chữ Văn 文 là bốn nét viết lệch đi của chữ Vuông 囗. Vậy Vuông 囗 [ fang方] = (QT Nở) Vuông-Vắn = Văn文 [ wén文] = (QT Nở) = =Vanh-Vách = Vuông 文 (tiếng Triều Châu) = (QT Nở) Vành-Vạnh = Mảnh 文 (tiếng Quảng Đông), thấy rõ là trong Hán ngữ từ [fang方] và từ [wén文] không có quan hệ gì là cùng một nôi khái niệm cả. Ở nôi khái niệm khác: Vuông 囗 [ fang方] = (Ven+Ven = Vèn, 0+0=1, Ven + Ven = Vèn, 0+0=1, Vèn +Vèn = Vẹn, 1+1=0) = Vẹn = Vườn = Viên 園 [ yuán園], thấy rõ là trong Hán ngữ từ [fang方] và từ [yuán園] không có quan hệ gì là cùng nôi khái niệm cả. <TVGT>: “nét vẽ giao nhau gọi là văn, như màu xanh lẫn màu đỏ vị chi văn” .Thì đó chính là cái Vằn. Hướng dẫn đọc: “Vô Phân thiết 無分切” là “Vô 無 Phân 分” = Vân, thiết như vầy không logic, Vô 無 nghĩa là Không, Phân 分 nghĩa là Chia, vậy “không chia” mà lại thành cái “nét vẽ giao nhau” thì vô lý. Chỉ có là của tiếng Việt, trong QT Lướt: “Vuông Vằn” = =Văn thì mới đúng logic, nó là một vuông những cái vằn kí hiệu chứa thông tin, thì gọi bằng thiết “Vuông Vằn” = =Văn,Văn có giá trị thông tin, nên Văn còn chuyển nghĩa đại diện cho sự nói, nhưng mà là nói rất hiểu biết, như từ dính Vanh-Vách (Văn 文 thì cho ra “nói ra Vanh-Vách”, “vẽ ra Vành-Vạnh” đều là rất rõ ràng, những từ dính này trong Hán ngữ không có à nghe, còn Mảnh 文 thì cho ra “nói ra Mạch Lạc”). Cũng có khi Văn chuyển nghĩa đại diện cho một đồng tiền, ví dụ hỏi “đáng mấy trự?” hay “đáng mấy văn?”. Thông tin trong một Văn sẽ bày vẽ cho người ta hiểu, chỉ cho người ta làm, tức “Bày vẽ cho người ta Mừn” = Bun, nên người Nhật đọc chữ Văn 文 là “Bun 文” Chữ Võ 武 “Đọ sức Nhau” = Đấu 鬥; “Việt đọ sức nhau trên sân Đất” = Vật. Đấu Vật là một trò chơi thể thao của người Việt, nhấn “Vật Đó!” = Võ 武. Từ đó sinh ra nhiều môn Võ khác nhau. Nhấn “Võ Chú!” = Vũ 武, từ Võ viết bằng chữ Vũ 武, võ thuật cũng gọi là vũ thuật, họ Võ 武 cũng là họ Vũ 武, nhưng còn một họ Vũ 禹 khác từ thời Nghiêu, Thuấn, Vũ禹. Võ phiên thiết thành “Việt+Họ” = Võ. Việt = Vượt, nghĩa là Tiến. Họ là “Hãm Đó!” = Họ, nghĩa là dừng (lệnh cho trâu, bò: “Họ!” thì chúng dừng lại ngay). Như vậy chữ Võ là thể hiện hai thế cơ bản của võ thuật là Tiến và Dừng. Tôi phán liều Võ là phiên thiết “Việt+Họ” = Võ tức Tiến+Dừng. Rồi vài bữa sau đó có thời gian tôi mới tra mạng [shuowen jiezi zaixian chaxun] xem <TVGT> giải thích thế nào về chữ Võ thì thấy đúng y chang như tôi đã phán liều, <TVGT> không giải thích gì mà chỉ nêu mỗi một câu: < 楚莊王曰:“夫武,定功戢兵。故止戈爲武。”文甫切 (Sở Trang Vương viết: “Phu võ, định công trấp binh. Cố chỉ qua vi võ”. Văn Phó thiết >. Dịch nghĩa là: Sở Trang Vương nói: “Võ là tiến quân và thu quân. Ghép chữ Chỉ 止 với chữ Qua 戈thành chữ Võ 武”. Thiết “Văn 文 Phó 甫” = Võ). Chỉ 止nghĩa là “Chân Nghỉ” = Chỉ 止, nghĩa là Dừng (nếu là “Chỗ Nghỉ” = Chỉ 址 thì chữ có thêm bộ thủ Thổ 土 để thành cái địa chỉ). Qua 戈 là cái rìu làm vũ khí giương ra phía trước, đại diện cho ý nghĩa là Tiến. Còn đọc đúng âm như Hứa Thận hướng dẫn thiết thì đúng âm là “võ”, nhưng không logic ý nghĩa, chỉ là mượn âm chữ Văn 文 và chữ Phó 甫mà thôi. Đúng logic ý nghĩa và đúng âm đọc là lướt “Việt! + Họ!” = Võ (Việt 越 = Qua 戈 = Tiến, Họ! = Chỉ 止 = Dừng). Như vậy chữ Võ 武 là chữ nho gốc Việt. Thời nước Kinh Sở thì dân ở đó là người Kinh, đã đọc chữ Võ 武 là Võ, cũng như đọc chữ Nữ 女 là thiết “Nô 奴 Giải 解” = Nái, và lướt “Con Nái” = Cái để chỉ giống Cái, đối nghịch với “Điền 田 Lực 力” = Đực 男 để chỉ giống Đực, mà Đực 男 là kẻ “Nàm Trai” = Nam 男 (lướt lủn). Đỗ Thành đã dịch đúng bài “Việt nhân ca” thời nước Sở và bài “Duy giáp lệnh” của Việt vương Câu Tiễn bằng tiếng Kinh (tiếng Việt). Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ VN 1991 cho rằng chữ Võ 武 (tr. 477) là tố gốc Hán.2 likes -
Bán đảo Triều Tiên thoát "bờ vực" chiến tranh trong gang tấc Chủ nhật, 30/08/2015 - 00:02 Nhà phân tích John Grisafi chuyên nghiên cứu vấn đề Đông Á của trường Đại học Pennsylvania (Mỹ) nhận định việc Triều Tiên đưa ra lời cảnh báo 48 tiếng đồng hồ sau cuộc đấu pháo ngày 20/8 cho thấy Bình Nhưỡng chỉ muốn đe dọa thay vì thực sự muốn châm ngòi cho một cuộc chiến quy mô lớn. >> Lý do bán đảo Triều Tiên suýt thành chảo lửa >> Vì sao bán đảo Triều Tiên thoát khỏi miệng hố chiến tranh? Căng thẳng quân sự trên Bán đảo Triều Tiên có chiều hướng leo thang sau khi quân đội hai nước Triều Tiên và Hàn Quốc tiến hành đấu pháo qua biên giới chiều 20/8, đẩy hai nước đứng trước "miệng hố" của một cuộc chiến liên Triều. Tuy nhiên, may thay cả hai nước đã kịp lùi lại một bước trước khi cùng kéo nhau rơi xuống “miệng hố” bằng một thỏa thuận đạt được sau ba ngày đàm phán cấp cao thâu đêm suốt sáng. "Sóng ngầm" chợt lắng Sau cuộc đối thoại suốt đêm diễn ra chiều 22/8 không đạt được kết quả, các quan chức cấp cao đại diện cho chính phủ Hàn Quốc và Triều Tiên đã có cuộc đàm phán “nước rút” thứ hai kéo dài suốt từ chiều 23/8 đến rạng sáng ngày 25/8 (giờ địa phương) với nỗ lực thu hẹp những bất đồng cũng như tìm giải pháp ngăn cản một kịch bản chiến tranh xảy ra. Thành quả cho nỗ lực không mệt mỏi của các đại diện hai nước là một thỏa thuận có thể nói là tốt hơn mong đợi. Cố vấn an ninh quốc gia Hàn Quốc Kim Kwan-jin (phải) và Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội Triều Tiên Hwang Pyong-so sau khi kết thúc đàm phán. (Ảnh: Yonhap/ TTXVN) Cụ thể, Triều Tiên bày tỏ lấy làm tiếc trước vụ nổ mìn ngày 4/8 khiến hai binh sĩ Hàn Quốc trọng thương. Còn Hàn Quốc đồng ý tắt hệ thống loa phát thanh tuyên truyền chống Triều Tiên vừa khởi động dọc biên giới sau vụ nổ mìn. Từ 10 giờ ngày 25/8 (giờ Việt Nam), tiếng loa phát thanh bật với âm lượng “khủng” không còn vang lên. Cũng tại thời điểm đó, Triều Tiên chính thức dỡ bỏ “tình trạng bán chiến tranh” mà lãnh đạo Kim Jong-un tuyên bố từ tuần trước. Ngoài ra, hai bên cũng nhất trí hợp tác để tổ chức đoàn tụ cho các gia đình ly tán do chiến tranh vào tháng tới, đồng thời sẽ quyết định ngày tháng tổ chức đàm phán cấp chuyên viên hoặc ở Seoul, hoặc ở Bình Nhưỡng. Các cuộc đàm phán diễn ra theo sau một loạt vụ việc khiến căng thẳng leo thang trên Bán đảo Triều Tiên. Tình hình tại đây bắt đầu "tăng nhiệt" từ vài tuần trước sau khi Hàn Quốc cáo buộc Triều Tiên đặt mìn ở khu phi quân sự (DMZ) phân chia biên giới hai miền khiến 2 binh sĩ tuần tra nước này bị thương nặng hôm 4/8. Hàn Quốc tuyên bố đây là hành động vi phạm thỏa thuận đình chiến và hiệp ước không tấn công lẫn nhau. Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un trong một chuyến thị sát trên tàu ngầm hồi tháng 6/2014. Con tàu này do Liên Xô chế tạo từ thập niên 1950. (Ảnh: KNS) Tuy nhiên, Bình Nhưỡng tuyên bố cáo buộc trên là "vô căn cứ" và từ chối xin lỗi. Để trả đũa, Seoul đã cho nối lại các chương trình tuyên truyền bằng loa phóng thanh chống Bình Nhưỡng dọc biên giới hai nước. Như "đổ thêm dầu vào lửa", ngày 17/8, Hàn Quốc và Mỹ đã khởi động cuộc tập trận chung thường niên mang tên "Người bảo vệ Tự do Ulchi" trong hai tuần bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Triều Tiên khi cho rằng đây là "một hành động tuyên chiến". "Sóng ngầm" căng thẳng giữa hai miền thực sự cuộn trào khi Hàn Quốc ngày 20/8 đã bắn trả một loạt đạn pháo về phía Triều Tiên sau khi Bình Nhưỡng nã pháo sang khu vực biên giới để phản đối chương trình tuyên truyền chống Bình Nhưỡng của Seoul. Chỉ vài giờ sau vụ đấu pháo, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un đã ra lệnh cho các lực lượng hỗn hợp ở tiền tuyến bước vào tình trạng sẵn sàng chiến tranh, đồng thời gửi tối hậu thư cảnh báo Seoul rằng nước này sẽ trả đũa quân sự nếu Hàn Quốc không ngừng các buổi phát thanh chống Bình Nhưỡng và dẹp bỏ mọi thiết bị trong vòng 48 giờ kể từ 17 giờ địa phương. Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye đã khước từ yêu cầu trên và ra lệnh quân đội "phản ứng cứng rắn" trước bất kỳ hành động khiêu khích nào từ phía Bình Nhưỡng. Hàn Quốc và Mỹ cũng đã nâng mức báo động giám sát quân sự chung, đồng thời huy động thêm các thiết bị theo dõi chặt chẽ biến động của quân đội Triều Tiên ở biên giới. Ngay trước thời hạn chót mà Triều Tiên đặt ra để Hàn Quốc chấm dứt hoạt động phát loa tuyên truyền chống Bình Nhưỡng qua biên giới là 17 giờ ngày 22/8, các quan chức cấp cao hai miền đã nhất trí gặp nhau tại làng đình chiến Panmunjom nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra một cuộc chiến quy mô lớn. Tuy nhiên, bất chấp đàm phán diễn ra, Seoul đã cáo buộc Bình Nhưỡng làm xói mòn tiến trình này khi tiếp tục các hoạt động triển khai trên biển và trên bộ. Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho hay Triều Tiên đã tăng gấp đôi các đơn vị pháo binh tại khu vực biên giới và triển khai 50 tàu ngầm ở bên ngoài các căn cứ của họ. Một quan chức Hàn Quốc đã chỉ trích “Triều Tiên đang áp dụng lập trường hai mặt với cuộc đàm phán đang diễn ra". Vẫn còn kịch bản chiến tranh Trên thực tế, Triều Tiên và Hàn Quốc vẫn đang trong tình trạng chiến tranh từ 65 năm nay bởi cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) mới chỉ được đánh dấu bằng một thỏa thuận đình chiến, và chưa bao giờ một hiệp định hòa bình được chính thức ký kết. Do vậy, các vụ nã pháo ở khu vực biên giới được xem là điều cực kỳ hiếm khi xảy ra bởi hai bên đều nhận thấy rõ nguy cơ từ việc căng thẳng leo thang bất ngờ giữa hai quốc gia láng giềng trên thực tế vẫn đang trong tình trạng chiến tranh này. Tuy nhiên, dù hai nước vẫn đang đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao, hầu hết các nhà phân tích đều có chung quan điểm khả năng xảy ra một cuộc giao tranh trên diện rộng giữa hai miền Triều Tiên khó có thể xảy ra ngay trong thời điểm này cho dù các cuộc đàm phán thất bại. Giới quan sát cho rằng việc Triều Tiên nã pháo vào Hàn Quốc thực chất là một động thái mang tính khiêu khích, răn đe nhằm truyền đạt một thông điệp cụ thể, thay vì thực sự muốn châm ngòi cho một cuộc chiến thực sự. Nhà phân tích John Grisafi chuyên nghiên cứu vấn đề Đông Á của trường Đại học Pennsylvania (Mỹ) nhận định việc Triều Tiên đưa ra lời cảnh báo 48 tiếng đồng hồ sau cuộc đấu pháo ngày 20/8 cho thấy Bình Nhưỡng chỉ muốn đe dọa thay vì thực sự muốn châm ngòi cho một cuộc chiến quy mô lớn. Ông cũng cho rằng việc đạn pháo cả hai bên không gây tổn thất về nhân mạng và tài sản là một dấu hiệu cho thấy những phát pháo chỉ là hành động cảnh cáo và hai nước đều không muốn xung đột vũ trang. Đồng quan điểm, nhà phân tích Philip Yun, Giám đốc Quỹ Ploughshares của Mỹ, cho rằng Triều Tiên không có khả năng đẩy căng thẳng hiện tại đến mức xung đột quân sự. Bình Nhưỡng có khả năng huy động một số lượng lớn binh sĩ áp sát biên giới, sau đó rút lui, và tất cả chỉ là hành vi khiêu khích. Chuyên gia Daniel Pinkston thuộc Nhóm nghiên cứu khủng hoảng quốc tế của Bỉ lại khẳng định việc Bình Nhưỡng gây chiến vào thời điểm này sẽ gặp nhiều bất lợi, trong bối cảnh hiện Mỹ có tới gần 30.000 quân nhân đồn trú tại Hàn Quốc để phục vụ cho cuộc tập trận song phương. Trong khi đó, phía Hàn Quốc cũng sẽ không mong muốn một cuộc chiến tranh thực sự bởi điều này sẽ ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vốn đang đối mặt những yếu tố tiêu cực như xuất khẩu trì trệ, sức mua giảm sút và đồng won yếu đi. Nhận định về cuộc đàm phán liên Triều, Giáo sư Yang Moo-jin thuộc Đại học nghiên cứu vấn đề Triều Tiên ở Seoul nói rằng "việc hai bên đồng ý đàm phán là tin tốt lành, đặc biệt khi các quan chức đều thảo luận không chỉ về cách thức thoát khỏi các cuộc khủng hoảng hiện tại mà còn hướng đi để phát triển mối quan hệ liên Triều trong tương lai”. Không phải ngẫu nhiên khi Triều Tiên cử hai quan chức gồm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội Hwang Pyong-so và quan chức hàng đầu phụ trách các vấn đề Hàn Quốc Kim Yang-gon, tham gia đàm phán bởi cả hai đã từng có chuyến thăm bất ngờ đến Hàn Quốc hồi tháng 10 năm ngoái để tham gia lễ bế mạc Asean Games, nơi họ gặp ông Kim Kwan-jin - cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Park Geun-hye và cũng là một trong những quan chức tham gia đàm phán về phía Hàn Quốc lần này. Theo giáo sư Yang Moo-jin, "thực tế các quan chức quyền lực trên tham gia đối thoại đồng nghĩa đây là thời gian thuận lợi để biến cuộc khủng hoảng thành cơ hội, và đây là một bước đột phá". Hàn Quốc ngừng chương trình phát thanh dọc biên giới liên Triều. Mặc dù trong suốt những năm qua, Triều Tiên thường có hành động khiêu khích quân sự và Hàn Quốc sẵn sàng đáp trả, tuy nhiên cả hai bên đều tránh đẩy các cuộc xung đột thành chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên vì lợi ích của hai bên. Tuy vậy, nguy cơ bùng phát một cuộc chiến tranh trong tương lai thực sự vẫn còn tiềm ẩn. Việc chặn đứng một cuộc giao tranh trên diện rộng có thành công hay không còn tùy thuộc vào chính sách của hai nước, khả năng kiểm soát của từng quốc gia cũng như thiện chí của hai bên trong việc sẵn sàng đối thoại để thu hẹp những bất đồng. Theo Phương Oanh/baotintuc.vn ======================= Mặc dù không có bằng chứng cụ thể, nhưng với sự hợp lý toàn diện tổng hợp tất cả các sự kiện liên quan, lão Gàn có thể chắc chắn rằng: Một chiến lược thoát Trung đã hình thành từ thời ngài Kim Chính Nhật cầm quyền. Và ngài Kim Chính Ấn được lựa chọn để tiếp tục thực hiện sách lược của ngài Kim Chính Nhật. Vấn đề còn lại với Bắc Triều Tiên là "Thoát Trung để đi về đâu?". Tất nhiên, ngài Kim Chính Nhật cũng phải đã tính đến điều này và ủy thác cho ngài Kim Chính Ấn. Một trong những điều kiện tiên quyết sau thoát Trung phải là thống nhất đất nước Cao Ly và tất nhiên, nó không thể bằng phương pháp chiến tranh - Khi mà cục diện thế giới đã thay đổi và Bắc Triều Tiên đã không cần đến chỗ dựa là Trung Quốc thì họ cũng hiểu rằng sức mạnh của họ không thể chiến thắng Nam Hàn và Đồng minh. Do đó, mục tiêu thống nhất sẽ phải thực hiện trong hòa bình với sự bảo đảm rằng: những quyền lợi của người Bắc Triều Tiên phải được dung hòa với người Nam Hàn trong một quốc gia Cao Ly thống nhất. Bởi vậy, vấn đề là các bạn Cao Ly phải tìm ra một giải pháp dung hòa quyền lợi của hai bên thì sẽ giúp các bạn thống nhất đất nước một cách nhanh chóng. Thời gian cho phép các bạn kéo dài đến gần hết năm Bính Thân Việt lịch. Sau thời điểm này, cục diện thế giới chưa hẳn đã thuận lợi cho công cuộc thống nhất đất nước các bạn. Vài lời gọi là góp ý với mong muốn an bình trện đất nước các bạn. PS: Lão Gàn cũng quảng cáo dịch vụ tư vấn theo Lạc Việt độn toán và các phương pháp tiên tri liên quan đến tri thức của nền văn hiến Việt. Dịch vụ từ vấn bao trùm tất cả mọi lĩnh vực: từ tình duyên, gia đạo, lợi danh...đến các sự kiện quốc tế. Mỗi quẻ giá thấp nhất là 300. 000 VND đến hàng triệu Dollar. Riêng những việc tầm cỡ quốc tế, không xong xin trả lại tiền. Với những việc wan trọng tầm cỡ quốc tế, lão cần phải cộng tác với các cao thủ để cùng tham gia . Hì! .2 likes
-
NHÀN ĐÀM Canh bạc Châu á Thái Bình Dương đã bắt đầu. Ngay từ lúc chia bài "khựa" đã muốn làm chủ cuộc chơi cậy mình có chút kinh tế mấy năm nay thổi bong bóng xà phòng, khoe khoang nay khựa đã định ra luật chơi. Đòi các ông láng giềng phải dốc vét vốn liếng mới có thể tham gia canh bạc. Xem ra canh bạc này không phải là ván bài mạt chược, hay xì tố mà nó thực sự là sòng "Xóc đĩa", chiếu bạc Biển đông hay Hoa Đông? Ai trường vốn và có kinh nghiệm sẽ là "nhà cái". khựa ban đầu muốn dùng đòn phủ đầu đè bẹp Nhật bủn cướp Senkaku lập khu nhận diện phòng không biển Hoa Đông nhưng vấp phải cái đầu lạnh của Sinzo Abe cùng lúc Triều tiên có hàng loạt động thái thoát khựa (điển hình Kim D Ấn trảm Giang Thành Triết). và cam kết bảo vệ đồng minh của Huê Kỳ , chiến lược của khựa lập tức thay đổi. khựa tràn xuống biển đông ép Phi Luật Tân cướp trắng trợn bãi cỏ rong, và tuyên bố đường 9 đoạn (mặc dù không có bằng cớ) . Tiếp theo khựa bồi lấp đảo đá của Việt Nam và thăm dò ngầm Ấn Độ Dương . khựa đã đã vô tình hay cố ý lôi kéo các bên vào chiếu bạc, gây chia rẽ cộng đồng Asian bằng cách chơi với Thái nịnh Cam nhử Malaixia và o ép Việt. - Xét về cục diện chiếu bạc hiện nay tạm chia bên lẻ bên chẵn (Âm , Dương hay sấp ngửa) và có cả bên cò rỉa là lúc âm lúc dương. Dĩ nhiên là khựa đang tạm làm minh chủ ở bên âm (bóng tối, tham vọng, âm thầm, âm mưu..và âm ...một số thứ) theo đóm ăn ăn tàn khựa hiện đang có một số thằng .. - Bên Dương (Ánh sáng, phơi sáng, quang minh, chính đại chính nghĩa...và dương...một số thứ) đương nhiên là nhiều hơn (tạm thời coi Mỹ làm minh chủ - nhưng chưa chắc chắn ...) gồm các bên có lợi ích chính đáng về tự do hàng hải, quyền tài phán, và chủ quyền quốc gia. - Các bên nửa âm nửa dương tạm thời có Nga, Hàn ... và một số quốc gia khác. Vào chiếu khựa đã muốn chơi gian muốn cướp hết của hàng xóm lân cận định loại khỏi cuộc chơi các thành phần nhỏ. Khựa đã thò cái lưỡi tham lam sang Hoa Đông lập tức Nhật rút súng nổ cái "đòm" khựa vội vã ngoảnh sang trái đập thẳng vào Phi Luật Tân và tiện tay dắt dê vơ luôn của Việt Nam ta 5 cọc tiền (5 đảo đá) Cú chộp giựt này của khựa làm các bên le ve bừng tỉnh. Lập tức Mã lai Anh đô triển khai găm dao kiếm theo sau. Triều tự hiểu là mình đang bên cạnh thằng ăn cướp, nên vụ khuấy động mấy ngày qua là lời cảnh tỉnh cho khựa là ông đem tiền đi đánh bạc mà quên là thằng em ăn thèm vác nặng đang bị bỏ đói bao nhiêu năm ( Chứ trình độ của Triều và và Hàn nã pháo lên đầu nhau mà ko gây thương vong - chuyện lạ , chẳng qua là anh em nhà đó mang phèng phèng ra gõ ). Vụ nã pháo của anh em Hàn Triều cũng là thông điệp của Kim Chính Ân nói với Phác Cận Huệ là bà chớ có nửa nạc nửa mỡ chuyện trong nhà không lo lại lo chuyện thằng hàng xóm... - Khựa đang có âm mưu định bắt tay với Mỹ thỏa thuận canh ty chia chác. Liệu kịch bản bán đấu giá trên lưng có xảy ra như khi VNCH bị mắc khi để mất Hoàng Sa về tay khựa?? theo ngu ý lão say chắc là không. Bởi nếu Mỹ bán rẻ mình cho khựa tất nhiên Nhật bản và Ấn độ sẽ nổi giận như vậy Mỹ mất nhiều hơn được . Vì vậy chuyến thăm Mỹ tới của Tập Cẩu Bình chắc chắn sẽ có ko được như ý khựa. Vậy lễ duyệt binh mùng 3-9 tới đây thì ???? khựa sẽ rêu rao là thành công tốt đẹp.. câu hỏi đặt ra là Nga , Hàn sẽ dự như thế nào?? - Nga tất nhiên đang cần khựa về kinh tế tất nhiên sẽ ra vẻ ủng hộ - Hàn thì sao? Phác Cận Huệ hứa sẽ sang tham dự nhưng đó vẫn chỉ là lời hứa khi mà cả Mỹ và Triều đều phản đối vậy chưa chắc PCH sẽ sang đúng lịch có thể kịch bản như của bà Markel khi đến Nga sẽ lặp lại. - Lúc này kinh tế khựa đang đau bụng khi mà chỉ số chứng khoán lao dốc. khựa phải dốc vét cả quỹ lương hưu để cứu dòng vốn đầu tư và bất ổn trong 2 vụ nổ có dính dáng đến chính trị của phe lợi ích nhóm đang làm khựa đau đầu. Câu hỏi đặt ra là nếu đau bụng tức ngực như thế liệu khựa có còn khuấy động chiếu bạc nữa không??? có rất nhiều người nói rằng khi đau bụng đi tả thì khựa sẽ giảm căng thẳng bên ngoài nhưng với thiển ý của tôi càng đau bụng khựa càng khát nước trên chiếu bạc cũng giônngs như Tào Tháo và Lưu Bang khi xưa trúng tiễn chỗ hiểm nhưng vẫn cố úy lạo quân sỹ. Vậy tình hình chiếu bạc tới đây còn nhiều diễn biến phức tạp chúng ta hãy chờ xem.1 like
-
70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9: Việt Nam xử lý thế nào với "tam giác" Mỹ-Nga-Trung? Thứ bảy, 29/08/2015 - 08:00 “Bây giờ ta phải xử lý quan hệ với Mỹ và Trung Quốc khi hai nước này đang cạnh tranh chiến lược gay gắt ở châu Á-Thái Bình Dương. Ta phải phát huy các đòn bẩy chính trị, an ninh, ngoại giao sao cho tối ưu hóa lợi ích quốc gia…. Vẫn cần thúc đẩy để Nga phát huy vai trò tích cực ở Đông Nam Á và với ASEAN, hạn chế việc Trung Quốc lôi kéo Nga ủng hộ các việc làm ở Biển Đông”. >> Bài học từ việc Việt Nam "chọn bạn" cực đoan LTS: Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng 8, Quốc khánh 2/9 và cũng là bảy thập kỷ ngoại giao Việt Nam, Tuần Việt Nam phỏng vấn Đại sứ Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường, hiện là Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế xung quanh những vấn đề ngoại giao của Việt Nam. Xin giới thiệu phần 2 bài viết. Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường Từ “ý thức hệ” chuyến sang “lợi ích” Trong bối cảnh bị bao vấy cấm vận những năm 1980-90, đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam được hình thành và triển khai như thế nào? Những chủ trương lớn về đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam bắt đầu hình thành từ Đại hội VI (1986), và Nghị quyết 13 (1988) của Bộ Chính trị là cơ sở để phát triển và nâng cao đường lối đối ngoại của ta thành đường lối độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ như ngày nay. Trên cơ sở những thành tựu đổi mới, Đại hội VII của Đảng (1991) đã tiến thêm một bước là "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". Sự hoàn thiện đường lối ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa thể hiện trong nghị quyết của Đại hội X (2006). Vừa rồi với việc ta ký kết FTA với EU và căn bản hoàn thành thương lượng TPP với Mỹ, chủ trương đối ngoại đã vượt lên một tầm cao mới. Từ sau năm 1990, Việt Nam trong chính sách ngoại giao mới đã bắt đầu chơi với các đối thủ hoặc cựu thù như ASEAN và Mỹ. Việt Nam cũng bình thường hóa quan hệ với nước vừa là bạn vừa là kẻ thù với mình là Trung Quốc. Tức là ngoại giao Việt Nam dường như đã thoát khỏi ý thức hệ. Ông có thể giải thích cụ thế hơn về thay đổi này được không? Gia nhập ASEAN, là thành viên tích cực của đại gia đình Đông Nam Á, là một bước tiến vượt bậc của ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Nó mở ra một trang mới để Việt Nam thiết kế một nền hòa bình ổn định và tăng tư thế Việt Nam trên trường quốc tế và trong quan hệ với các nước lớn. Lord Palmerston, Thủ tướng nước Anh cuối thế kỷ 19, từng nói: Không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có những lợi ích vĩnh viễn. Năm 1986, ông Goocbachev phát biểu tại Nghị viện Anh, nhắc lại câu nói đó. Lúc đó tôi làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô, rất ngạc nhiên, và thực tế cho thấy, chính sách đối ngoại của Liên Xô đã bắt đầu quá trình phi ý thức hệ. Nước nào cũng lấy lợi ích quốc gia làm trọng. Nhưng nhiều khi các nước lớn dùng ý thức hệ như một thủ đoạn chính trị và ngọn cờ tập hợp lực lượng mà thôi. Ngoại giao ta theo phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh “Làm bạn với các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”. Giai đoạn đặc thù Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam vừa có hòa bình, nhưng vừa có nguy cơ xung đột ở biển đảo. Ngoại giao Việt Nam phải làm những gì? Đây là một giai đoạn tương đối đặc thù. Phải nói rằng vấn đề Biển Đông không phải là toàn bộ chính sách đối ngoại của Việt Nam, mà là một phần quan trọng liên quan đến việc giữ vững và bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tính theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, cũng như Luật Biển của Việt Nam, nước ta có 1 triệu km2, và Việt Nam phải thâm canh trên từng km2 ấy, vì vậy phải bảo vệ chủ quyền và quyền lợi biển của mình trên Biển Đông. Trong quan hệ với Trung Quốc, phương châm của ta là vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Biển Đông là câu chuyện lâu dài. Ta cần xử lý nó một cách bình tĩnh, kiên trì và có nguyên tắc. Không để đối phương dùng vấn đề Biển Đông làm rối loạn chiến lược phát triển và bàn cờ ngoại giao của ta. Trong chuyện Biển Đông liệu Việt Nam có thể huy động sự ủng hộ của quốc tế giống như trong kháng chiến chống Mỹ được không? Vấn đề Biển Đông đã quốc tế hóa. Đây là vấn đề vừa liên quan đến các bên trong khu vực Biển Đông, vừa liên quan đến các nước ngoài khu vực. Vừa là vấn đề đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta, vừa liên quan đến tự do hàng hải, an ninh và an toàn các con đường biển quốc tế. Vừa liên quan chủ quyền quốc gia của các nước như Việt Nam, Philippines, Malaysia, vừa liên quan đến luật pháp quốc tế, trước hết là Công ước Luật biển 1982. Cơ sở để tập hợp lực lượng quốc tế, tranh thủ dư luận quốc tế hiện nay là nêu cao ngọn cờ tôn trọng luật pháp quốc tế. Mâu thuẫn chủ yếu hiện nay trong vấn đề Biển Đông là giữa một bên là Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông với các bên khác giữ nguyên trạng và ổn định tình hình Biển Đông. Mỹ và Nhật Bản hiện tại đã xác định tự do hàng hải, an ninh và an toàn của các con đường biển ngang qua Biển Đông thuộc “lợi ích quốc gia” của các nước này. Liên minh châu Âu (EU) chẳng hạn, họ ủng hộ việc giải quyết vấn đề Biển Đông về mặt nguyên tắc, tức là bảo đảm tự do hàng hải và tôn trọng luật pháp quốc tế, giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình… Đối với Nhật Bản, Hoa Đông và Biển Đông liên quan đến nhau, vì qua Biển Đông có con đường hàng hải đến Hoa Đông tới Nhật Bản. Còn đối với Mỹ, nếu để Trung Quốc kiểm soát Biển Đông thì Mỹ sẽ bị đẩy ra khỏi Biển Đông và Tây Thái Bình Dương. "Vấn đề Biển Đông đã quốc tế hóa. Đây là vấn đề vừa liên quan đến các bên trong khu vực Biển Đông, vừa liên quan đến các nước ngoài khu vực". (Ảnh: Lê Anh Dũng) Câu chuyện Nga, Trung và Mỹ trước những năm 1990 và bây giờ khác nhau như thế nào đối với Việt Nam? Trước đây khi còn Liên Xô, nước Mỹ nghiêng về phía Trung Quốc, chơi con bài Trung Quốc để chống chọi với Liên Xô. Trung Quốc cũng dùng Mỹ để đối trọng và kiềm chế Liên Xô và qua đó tranh thủ sự hỗ trợ của phương Tây triển khai bốn hiện đại hóa. Nhật Bản đổ nhiều tiền của ODA vào Trung Quốc. Từ năm 1972 đến 1975 thì “tam giác” này có liên quan trực tiếp Việt Nam. Sau này chỉ liên quan gián tiếp. Khi Liên Xô tan rã vào cuối năm 1991, nước Nga không còn đóng vai trò đáng kể cả. Cuộc chơi hiện nay là cuộc chơi giữa Mỹ và Trung Quốc, Nga đóng vai trò là đối tác chiến lược với Trung Quốc. Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam, có thể nói Mỹ - Trung - Nga, nhưng bây giờ chỉ có thể nói Mỹ - Trung, và nếu cần có thể thêm Nhật Bản nữa. Đối với Việt Nam, Nga không có quyền lợi sát sườn ở khu vực này. Và sự quan tâm của Nga với khu vực này cũng yếu đi. Bây giờ ta phải xử lý quan hệ với Mỹ và Trung Quốc khi hai nước này đang cạnh tranh chiến lược gay gắt ở châu Á-Thái Bình Dương. Ta phải phát huy các đòn bẩy chính trị, an ninh, ngoại giao sao cho tối ưu hóa lợi ích quốc gia. Nga vẫn là đối tác chiến lược của ta về kinh tế; vẫn cần thúc đẩy để Nga phát huy vai trò tích cực ở Đông Nam Á và với ASEAN, hạn chế việc Trung Quốc lôi kéo Nga ủng hộ các việc làm ở Biển Đông dù dưới hình thức cùng Trung Quốc kiềm chế Mỹ ở khu vực này. "Dĩ bất biến ứng vạn biến" Trong ngoại giao người ta hay nhắc đến câu nói của Hồ Chí Minh dặn dò cụ Huỳnh Thúc Kháng trước khi sang Pháp là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Nguyên tắc đó còn có giá trị trong ngoại giao hiện nay nữa hay không? Câu nói đó là một phương châm xử thế thuộc triết lý phương Đông, các nhà Nho học Việt Nam rất hiểu điều này. Ở thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp năm 1946, để cụ Huỳnh Thúc Kháng làm quyền Chủ tịch nước, tính bất biến là giữ vững độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng – đó là nguyên tắc tối cao, từ đó mà linh hoạt về sách lược, thiên biến vạn hóa trong xử lý các mối quan hệ đối ngoại. Ngày nay nó vẫn là một trong các phương châm xử thế quan trọng đối với hoạt động đối ngoại nhưng với các nội hàm mới. Ai là người có ảnh hưởng lớn nhất đến ngoại giao Việt Nam? Hồ Chí Minh! Ngoại giao Việt Nam trong 70 năm qua là ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh. Bên cạnh, ngoại giao hiện đại của Việt Nam còn có rất nhiều nhân vật xuất sắc: Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Thị Bình và một số vị khác. Một nhà ngoại giao có tài mà tôi đặc biệt muốn nhắc tới là ông Nguyễn Cơ Thạch. Ông có đóng góp nổi bật trên hai lĩnh vực: Thúc đẩy nghiên cứu chiến lược và xây dựng ngành ngoại giao. Ông nghĩ gì về ngoại giao Việt Nam giai đoạn tiếp theo? Điều gì đáng lưu ý nhất? Tôi thấy có ba điểm đáng lưu ý: Một là, ngoại giao của nước ta đang vận hành thuận theo xu hướng thời đại và phù hợp với lợi ích quốc gia. Nền ngoại giao Việt Nam đã trưởng thành, phát triển toàn diện, chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa. Nhiều nhà quan sát ngoại giao đều thừa nhận và khâm phục bản lĩnh của ngoại giao Việt Nam. Hai là, các nhà ngoại giao ta hiện nay được đào tạo tốt, mạnh về chuyên môn, nhưng còn yếu về tư duy chiến lược. Một nhà ngoại giao giỏi là có trình độ chuyên môn cao, thành thạo về nghiệp vụ, nhưng còn cần có tư duy chiến lược. Ba là, nước Việt Nam ta có vị trí địa-chiến lược rất độc đáo, vì vậy mà 70 năm qua, đất nước ta chịu nhiều chiến tranh, xung đột và cọ xát chiến lược giữa các nước lớn. Nếu nói ngắn gọn về một nhu cầu bức thiết nhất của ngoại giao Việt Nam giai đoạn tới, thì gọn mấy chữ: nâng cao năng lực nghiên cứu chiến lược và dự báo chiến lược! Xin cảm ơn ông. Theo Hoàng Ngọc Vietnamnet ==================== Theo lão Gàn thì bản chất hiện nay là: Việt Nam đang đứng ở vị trí Trung Tâm của các lực tương tác. Có đủ vị thế để xoa đầu khen giỏi ngay cả những siêu cường. Còn về hình tướng thì Việt Nam cần có một chính sách mềm dẻo và khiếm tốn.Cái này lão Gàn nói lâu rùi.1 like
-
Bí ẩn tượng gỗ 11 vạn năm không mục nát Minh Hạnh 19:13 ngày 28 tháng 08 năm 2015 TPO - Shigir Idol - một bức tượng gỗ còn khá nguyên vẹn được kéo lên từ một đầm lầy ở Nga cách đây 125 năm đã khiến không ít nhà khoa học đau đầu vì tìm tuổi thật. Mới đây, nhớ một công nghệ mới hiện đại, bức tượng này đã được xác định có độ tuổi khoảng… 11 vạn năm. Cách đây 125 năm, một bức tượng gỗ còn khá nguyên vẹn đã được kéo lên từ một đầm lầy ở Nga. Bức tượng này được đặt tên là Shigir Idol và là bức tượng gỗ lâu đời nhất trên thế giới tính đến thời điểm hiện tại. Nỗ lực dự đoán tuổi của Shigir Idol đã được thực hiện 107 năm sau khi bức tượng được phát hiện, vào năm 1997. Các phân tích đồng vị carbon phóng xạ đầu tiên cho thấy bức tượng đã ra đời cách đây 9.500 năm. Thế nhưng mới đây, nhờ máy móc hiện đại, tuổi của bức tượng này đã một lần nữa được xác định lại, là lên tới khoảng 11.000 năm. Như vậy, Shigir Idol có tuổi gần gấp 3 danh thắng Stonehenge và gấp đôi Kim tự tháp Ai Cập. Bức tượng này được làm từ gỗ của cây lạc diệp tùng 157 năm tuổi. Do nằm trong than bùn dưới đầm lầy lâu ngày, được than bùn bảo vệ khỏi sự tấn công của vi khuẩn nên bức tượng vẫn còn nguyên vẹn, chưa mục nát. Bức tượng này hiện cao 2,8 mét. Chiều cao ban đầu của bức tượng lên tới 5,3 mét – bằng một ngôi nhà hai tầng. Thế nhưng, một phần bức tượng đã bị lấy cắp trong những cuộc chiến tranh và cách mạng ở thế kỷ 20. Xung quanh bức tượng Shigir vẫn còn rất nhiều bí ẩn chưa được giải đáp. Các nhà khoa học vẫn chưa thể hoàn toàn giải thích thông điệp của những hình chạm khắc trên thân tượng. Một giả thuyết cho rằng khuôn mặt của bức tượng mang thông tin mã hóa của con người thuộc thời đại Đồ đá giữa. Đây cũng là cách để người xưa truyền lại nhận thức sơ khai về nguồn gốc con người và thế giới cho hậu thế. Giữa các mảnh gỗ tạo nên bức tượng còn có 7 khuôn mặt bí ẩn (khoanh tròn đỏ) mà những nhà nghiên cứu vẫn đang đau đầu tìm lời giải. Tuy nhiên, ta có thể khẳng định chắc chắn: những hình ảnh này phản ánh sự sáng tạo và trình độ phát triển của xã hội con người, rằng khi bức tượng này ra đời, con người đã có sự phát triển trí tuệ tiên tiến và thế giới tâm linh phức tạp. Theo Dailymail, Siberian Times ========================== Từ lâu tôi đã xác định rằng: Đã có một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ tồn tại trên trái Đất. Đây là kết quả của sự tìm hiểu về cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Những phát hiện khảo cổ ngày càng chứng minh tính chân lý của luận điểm này. Nhưng đối với cá nhân tôi thì đây là kết quả của sự hợp lý lý thuyết liên quan đến một học thuyết cổ xưa là thuyết Âm Dương Ngũ hành.1 like
-
Trúc mọc bên đình Họ Dương 楊 là một họ cổ xưa của người Việt, của văn minh nông nghiệp, nên chữ Dương 楊 gồm bộ Mặt trời (Dương 陽) và bộ Mọc (Mộc 木), nghĩa của chữ Dương 楊 là “Mặt trời mọc”. Khi người Việt cổ từ đồng bằng sông Hồng đi thuyền Dong buồm (Giương buồm) đi lên khai phá đất đai phía bắc đến vùng thuộc Giang Tô – Thượng Hải ngày nay, thì những người đó xưng là họ Giương 揚, chữ có bộ Tay 扌chèo, họ lập nên vùng Dương Châu 揚 州, họ Dương 揚 ở TQ là chữ Dương 揚 này, có bộ Tay 扌. Một họ Dương 羊 nữa ở TQ là họ của dân chăn Dê 羊, là họ Dương 羊 này. Chữ lót Đình, nếu là lấy chữ Triều Đình 朝 廷thì chữ Đình 廷ấy hơi giống chữ Diên Trường 延 长 nghĩa là Dãn 延 Dài 长. Còn chữ cái Đình 亭 hoặc gia Đình 庭 là những chữ Đình khác, thường không lấy làm tên lót, vì nó không hợp nghĩa. Vì họ Dương 楊 là họ nông nghiệp, nghĩa chữ lại là “Mặt 陽 trời Mọc 木), đó là lúc bình minh, lúc sáng đẹp nhất trong ngày. Nên chữ Đình 婷 làm tên lót của họ Dương 楊 không phải là chữ Đình 廷 của Triều Đình 朝 廷, mà là chữ Đình 婷 mang ý nghĩa “Đẹp Xinh” = Đình 婷 (Đẹp Xinh thiết Đình 婷), chữ Đình 婷 này mang ý nghĩa là tươi đẹp, và chỉ dùng cho sách, tức chỉ có trong “tự điển” của các cụ Tiên Chỉ ở làng dùng để đặt tên, chứ không phải là từ dùng trong nói năng. Chữ Đình 婷 này cũng thường gắn với chữ họ Dương 楊 như là một họ kép gọi là họ Dương Đình 楊 婷 (bởi “Mặt trời Mọc” thì phải tươi đẹp, tức là “Đẹp Xinh” = Đình 婷, chữ Đình 婷 này gồm bộ Nữ 女 và cái Đình 亭 là tá âm, nhưng chính vì các cụ Việt nho đặt ra chữ Đình 婷 này, mà mới có câu ca dao: “ Trúc xinh trúc mọc bên Đình 亭. Em 女 xinh Em 女 đứng một mình cũng xinh”, câu này khác gì vịnh chữ “Đẹp Xinh thiết Đình 婷”, là chữ Đình 婷 mang nghĩa tươi đẹp). Dương Đình Nghệ, truy nguyên phải là chữ này: Dương Đình Nghệ 楊 婷 藝. Có thể vì sau ông có làm quan ở triều đình, nên người viết phả đã dùng chữ Đình 廷 của Triều Đình 朝 廷 viết thành tên lót của ông là Dương Đình Nghệ 楊 廷 藝. Ngôn từ Việt không chỉ để lại nhan nhản trong Hán ngữ mà còn để lại cũng nhan nhản trong Nhật ngữ. Thiết “Nhiều Lắm” = Nhặn, từ Nhặn viết bằng chữ Nhiên 然. Nhặn nở ra từ dính Nhan-Nhản. Vũ trụ là Đất + Trời = Tất+Càn = Tất+Cả = Tạo Hóa. Nhấn “Tạo hóa Chứ!” = Tự. Tự Nhiên 自 然 là viết theo cú pháp Việt, có nghĩa là “tạo hóa sinh ra nhiều thứ lắm”. Ví dụ, cụm từ “Nhật Bản Gọi” thì tiếng Nhật là “Ni Hôn Gô 日 本 語 ” (tức Nhật Bản ngữ 日 本 語). Ví dụ, nôi khái niệm “đẹp” là: Đẹp = (nhấn) “Đẹp Chi 之!” = Đĩ (vẻ đẹp ngồ ngộ) = “Quá Đĩ” = Kĩ 妓 (vẻ đẹp sexy) = Ý 懿 = Ki-Rei-Y ( tiếng Nhật))= “Mặt đẹp Chi 之!” = Mĩ 美 = (nhấn) “Mĩ Đấy!” = Mei 美 (tiếng Hán) = “Làm đẹp Hề兮!” = Lệ 麗 = (nhấn) “Lệ Chi 之!” = Li 麗 (tiếng Hán). Từ đôi Mĩ Lệ 美 麗 được Hán ngữ dùng chỉ cái đẹp gọi là “Mei Li 美 麗”. Đẹp khi nhìn gọi là “Đẹp Nom” = Đỏm. Đẹp nhiều gọi là “Đẹp Nhiều” = Điệu 窕, “Đẹp Dáng” = “Đỏm Dáng” = Đàng, thành từ đôi Điệu Đàng. Đẹp của phái yếu gọi là Yểu Điệu 窈 窕. Bổn chữ là Ấu 幼 Đào 咷 (trẻ con Gào khóc, lúc đó dáng nó dễ thương). Mẹ nó là Âu Cơ thì đương nhiên con là “Âu Giống” = Ấu (lướt lủn), Ấu chỉ đứa con nít, Ấu Con 幼 子 = Oắt Con = Wa-Kai (tiếng Nhật chỉ đứa con nít). Nhật ngữ đã dùng ba chữ Kĩ 妓, Lệ 麗(Rei), Ý 懿 để ghép thành tính từ tiếng Nhật là Ki-Rei-Y nghĩa là đẹp. “Đẹp” tiếng Nhật là ki-rei-y, còn “đẹp đấy nhé!” là ki-rei-y đex né! Chữ Ý 懿 có nghĩa là đẹp, dù Hán ngữ hiện đại không dùng, dù Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ VN xb 1991 cũng không đưa nó vào gọi là “tố gốc Hán”, vậy nó là thuộc “cổ Hán ngữ” tức là của tiếng Việt vậy. Ví dụ, người thợ làm đầu nói: “ Tôi sửa tóc như vầy vừa Đẹp chưa?” ( “Tôi sửa tóc như vầy vừa Ý chưa?”). Khách trả lời: “ Vừa Ý!” ( “Vừa Đẹp!”, “Coi là vừa Đi!” hay cộc lốc “Được!” – Hán ngữ dùng câu cộc lốc “Hành!”). Ví dụ: “Trong mấy cái áo này con thích cái nào?”, trả lời: “Con thích cái Ý cơ!” (“Con thích cái Đẹp cơ!). Ví dụ: “ Hết Ý!” (“Đẹp hết xảy!). Nhân xưng ngôi một tiếng Việt là Ta. Ta=Ngã=Người. Xưng “Ta” có nghĩa là xưng “Người”, đương nhiên ngôi thứ hai sẽ là “Người Hai” = Ngươi (do lướt lủn). Cùng logic, xưng ngôi một xưng là Mình, đương nhiên ngôi hai sẽ là “Mình Hai” = Mày, nhấn “Mày Chi!” = Mi, hay “Mày Chứ!” = Mừ (Mừ là nhân xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái). Tiếng Nhật xưng ngôi một là wa-Ta-xi, ngôi hai là a-na-Ta, cũng đều có “Ta” cả, mà Ta nghĩa là người, là “hi-To”, đều do từ nôi khái niệm của tiếng Việt mà ra cả. Người Nhật chỉ ưa nhất là “ người -Ta NÓ cần- mẫn”, câu này ở tiếng Nhật theo cú pháp thuyết trước đề sau là “kin-ben NÔ hi-Tô”. Cho nên chỉ vài chục năm sau chiến tranh, nước Nhật đã thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Chỉ cần người-Ta (hi-Tô) cần 勤 (kin勤) cù lao động và mẫn 敏 (ben敏) cảm với thời cuộc thì làm được tất cả, bởi chưa biết làm sẽ có người cùng làm mà thạo hơn bày vẽ cho. Chứ chưa cần anh phải “dân trí cao” tới cỡ nào. Có mần thì mới biết mẫn, bởi mần nhiều thì là “Mần Mần” = Mẫn, 1+1=0, không mần thì làm sao biết mẫn cảm với biến đổi khí hậu hay mẫn cảm với biến động của thị trường, không mần thì lấy đâu mà biết “thức thời mẫn thế” để mà đón được “thiên cơ vận hội”. Mà công việc “mần dâu trăm họ” trong xã hội thì phải biết “một sự nhịn chín sự lành”. Nín = Nhịn = Nhẫn 忍, người Nhật lại gọi chữ Nhẫn 忍 là “Nin 忍”. Nhịn là Nhịn Người tức “Nín Ngài” = Nại 耐, tức Nại Người. Người = Ngã = Ta. Nhịn Người tức Nại Người thì tiếng Nhật lại đọc ngược là “Ta Nại” = “Tai 耐”. Câu tục ngữ “Một sự nhịn chín sự lành” thì Việt nho viết thành câu đối là: Nhất cần thiên hạ vô nan sự. Bá nhẫn gia trung hữu thái hòa (壹勤天下無難事。百忍家中有泰和)QT Lướt (thiết) và QT Tơi-Rỡi là có tồn tại trong tiếng Việt, không chối cãi được, Chối = Thối 退 = Thoái 退 = Thoán 竄, Cãi = Cải 改, từ Chối Cãi viết bằng chữ Thoán Cải 竄 改. Dùng các QT trên sẽ giúp tìm được gốc các tên làng cổ. Ví dụ đền Lí bát đế thờ các Vua triều Lí ở làng Đình Bảng, làng ấy cổ xưa trước thời Lí đã có tên là Kẻ Báng vì đã có đền Báng, tức đền “Bái Sang” = “Bái Vãng” = Báng, là đền bái vọng thủy tổ xưa, không phải là gốc ở đất ấy. Sang = Vãng = Vọng, khách đi sang đi lại gọi là khách vãng lai. Mẫn 敏 = “Biết Mẫn” = Bân 斌 = Bén (Nhật đọc chữ Mẫn 敏 là “Ben”) = Bẩy (biết chọn lọc, tức “Biết Lẩy” = Bẩy) = Nhậy = Nhanh = (từ đôi) Nhanh Nhậy, Nhậy Bén. Chữ Bân 斌 là chữ đặt gồm Văn 文 và Võ 武, có nghĩa là “văn võ kiêm toàn”, nhưng đọc đúng luật từ phải sang trái là “Võ Văn” = Vân. Vân 云 nghĩa là nói, đây chính là sức mạnh ngoại giao. Thành ngữ “Mạnh vì Gạo, bạo vì Tiền”. Ở khái niệm cụ thể thì Gạo và Tiền chỉ là chỉ hai vật chất cụ thể, rời rạc. Ở khái niệm trừu tượng thì như là ám ngữ: “Gạo Tiền” = Ghiền = Nghiên, là nghiên cứu. “Tiền Gạo” = Tạo, là sáng tạo. Có được sức mạnh nghiên cứu sáng tạo (“kinh tế tri thức”) thì sẽ được Bái (tâm phục khẩu phục), Bái có dấu 1, chỉ tác động ngoài, mang nghĩa tích cực. Ngược lại thì là Bại, Bại có dấu 0, mang nghĩa tiêu cực, ám chỉ thua từ trong (thành ngữ “Tiên trách kỉ hậu trách nhân”, lỗi do mình chứ không phải do khách quan nào cả). Đây chính là giải nghĩa tại sao đặt chữ Bân 斌 (bổn chữ ám nghĩa là Văn 文 Võ 武 kiêm toàn) mà chữ lại mang dấu 0, ám chỉ cái tiềm năng vô hạn bên trong của con người, tiềm năng ấy là cái Tàng, Tàng phiên thiết Tạo Sáng, Tạo Sáng là cái Cống Hiến của con người. Bân 斌 thể hiện cái trí tuệ: Văn 文 phiên thiết Viết + Ngăn (biết Nói – Viết 曰 và biết Không Nói – Ngăn). Võ 武 phiên thiết Việt + Co (biết Tiến – Việt 越 và biết Dừng – Co, Co = Họ, lệnh con trâu “Hãm Đó!” = Họ!). Ngược với Bân dấu 0 có ba từ dấu 1 là Bần (hành xử nghèo về trí tuệ), là Bấn (hành xử bí về phương pháp), là Bẩn (hành xử chơi bẩn về chiến lược hay chiến thuật) đều dẫn đến Bại (Bại phiên thiết Bị Hại, do chính mình “vác đá chọi bàn chân”), mà không được Bái (thiên hạ tâm phục khẩu phục). Vậy mà Bân chỉ đơn giản là “Biết Mần” = Bân: biết hiểu đúng qui luật của vũ trụ, thuyết ÂDNH, để mà “Mình vì Dân” = Mần. Trong diễn xướng dân gian thì diễn viên được gọi bằng hai cái tên là Kép (nếu là người trai) và Đào (nếu là người gái), trong hát Xoan Phú Thọ gọi diễn viên là Ké và Đà. Gốc thật của từ là Cái = “Cái Nè!” = Ké = Kép; Đực = “Đực Ạ!” = Đà = Đào (còn có từ “số Đào hoa” chỉ người đàn ông có tính Đực mạnh). Như vậy ở người thật thì đàn ông mới chính là Đào, còn đàn bà mới chính là Kép. Nhưng khi làm diễn viên, bản thân từ Diễn đã có nghĩa là “Diễn Ạ!” = Giả, nghệ sĩ phải “giả” đóng vai nọ kia để mà “diễn”, bởi vậy diễn viên phải mang cái tên giả: bản thân người thật là trai nhưng phải chịu mang cái tên giả là Kép, anh Kép (từ Kép thuộc Cái); bản thân người thật là gái nhưng phải chịu mang cái tên giả là Đào, cô Đào (từ Đào thuộc Đực). Khi khen thì khán giả khen người thật là “nghệ sĩ ưu tú” chứ không có “diễn viên ưu tú”, bởi khi “diễn” thì đó chỉ là “giả”. Hết nghiệp diễn thì chỉ gọi họ là nghệ sĩ chứ không còn gọi họ bằng cái tên giả là Kép hay Đào nữa.Đào Kép hay diễn viên hoặc nghệ sĩ thì tiếng Nga đều gọi là “Artist”, nhưng ngôn ngữ dân gian Nga cũng dùng từ “Artist” chuyển nghĩa thành từ bóng để chỉ người giảo hoạt hay chỉ đứa trẻ con lém lỉnh “nói dối như cuội” là “Artist”. Để chứng minh gốc thật của từ Kép là do từ Cái và gốc thật của từ Đào là do từ Đực thì lấy ví dụ ở cây thị cổ thụ nghìn tuổi huyền bí tại đền Phủ Cống, Trường Yên, Ninh Bình, nơi thờ bảy vị tướng của Đinh Tiên Hoàng. Cây thị sum suê này cứ đến mùa là sây quả, nhưng trên cây có hai loại quả, quả Tròn có hột và quả Dẹp không có hột, mà nếu đem trồng nơi khác sẽ không có kết quả như vậy. Theo giới tính thì Dẹp là con Nòi = Nái = Nàng; Tròn = Trai là con Giống = Chồng = Chàng, phù hợp các cặp từ đối tương ứng Â/D là Nòi/Giống = Nái/Trai = Nàng/Chàng = Thị/Tộc. Quả có hột là “Quả Chắc” = Cặc = Cậu = Đậu = Đào. Quả không hột là “Quả Lép” = Kép = Dẹp. Đực phải tên là Đào mới đẹp, gọi là có số Đào hoa. Cái phải tên là Kép là Dẹp mới có Diễm lệ, Duyên dáng. Dương sinh ra Âm, nên lấy hột của quả Tròn đem trồng xuống Vuông đất thì sẽ mọc ra cây thị con, đó là câu “Mẹ Tròn con Vuông”. Chữ Bân 斌 khi tra <TVGT> trên mạng : [Shuowenjiezi zaixianchaxun Cidianwang] thì nhận được câu trả lời: 抱歉,没有收录汉字“斌” (Xin lỗi, không có thâu lục Hán tự “Bân”). Như vậy chữ Bân 斌 là chữ do Việt nho đặt ra, chỉ người “Biết Mần” = Bân 斌, người biết mần phải là người như chữ Bân 斌 hàm nội dung là Văn 文 Võ 武 song toàn, mà đọc từ phải sang trái là Võ 武 Văn 文 thiết Vân 云, Vân 云 nghĩa là nói, nói ở đây là sức mạnh ngoại giao, vì trong nội hàm có Văn 文 (Văn phiên thiết Viết + Ngăn, Viết 曰 là biết nói: “Việt 越 Nói” = Viết 曰, Ngăn là biết không nói: “Ngôn 言 Chặn” = Ngăn) và có Võ 武 (Võ phiên thiết Việt+Co, Việt là biết tiến: Việt 越 = Vượt, Co là biết dừng: Co = “Hãm Đó!” = Họ!, con trâu nghe quát “Họ!” còn biết dừng lại). Chữ Bân 斌 của người Việt chính là nhân vật Bờm trong bài ca dao “Thằng Bờm có cái quạt mo…”. Nó là người “Biết giữ cái Thơm” = Bờm, để mà giữ đạo lí lối sống của người Việt (“Đói cho sạch rách cho thơm”, “Ai biết sông Lam răng là trong là đục. Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh”…), như bài phân tích của tác giả Đỗ Minh Tuấn (báo Văn nghệ trẻ). Lướt “Biết Mần” = Bân 斌, người biết mần phải là người Văn 文 Võ 武 song toàn, Chữ Bân 斌 này Hán ngữ hiện đại không dùng, nhưng người TQ vẫn có người đặt tên là Bân 斌 bằng chữ Bân 斌 này (cũng giống như chữ Ý 懿 nghĩa là đẹp, Hán ngữ hiện đại không dùng, nhưng vẫn có người TQ đặt tên là Ý 懿 bằng chữ Ý 懿 này). Hán ngữ dùng chữ Bân 彬 này với nghĩa là nho nhã, từ nho nhã nghĩa là phong cách “nho” của người nước Nhã cổ đại, tức đất Việt phương Nam, mà Khổng Tử từng gọi văn chữ nho là Nhã ngữ, Khổng Tử từng nói: “Chúng ta phải học cái văn minh của người phương Nam”. Bản thân chữ Bân 彬 (nho nhã) có biểu ý đọc từ phải sang trái là Phức Tạp 彡 Lắm 林 (bộ thủ Sam 彡 nghĩa là Sồm-Soàm tức phức tạp,từ Lắm tá âm bằng chữ Lâm 林), chứng tỏ để làm được người nho nhã không phải dễ, chí ít cũng phải có văn võ song toàn. Vậy mà Bờm, là người “Biết giữ Thơm” = Bờm làm được, lại còn cười chê những kẻ giàu mà ngu. Ngược với “Biết Mần” = Bân (dấu 0, Âm, chỉ trí tuệ, như Nguyệt là vầng sáng của Trăng) là Bấn (dấu 1, Dương, ý là võ biền, dương dương tự đắc) nghĩa là bí, bế tắc, về phương pháp ( bấn loạn), nho đã tạo chữ Bấn bằng từ đôi “Tắc Bấn” = Tân 繽, chữ Tân 繽 này mang nghĩa là rối rắm, như câu thành ngữ “rối như tơ vò”, chữ Tân 繽 có bộ Tơ 糸. Mần thì phải Vận lực và tuệ từ trong bản thân, mà khi Vận thì phải chăm chú vào một vấn đề đang làm, do vậy mà có nôi khái niệm: Mần = Vận = “Vận Chú!” = Vụ 務 = “Vụ Chiếc” = Việc = (từ đôi) “Mần Vụ” = Mu = “Mu Ạ!” = Mùa. Người Nhật đã dùng từ “Mu 務” để đọc chữ Vụ 務, với nghĩa là việc làm hay nhiệm vụ. Nhưng từ Nhiệm Vụ là nói cái việc được giao cho mình làm chứ không phải việc của mình tự Mần, nó ở cái nôi khái niệm khác: Mần = Nhận 認 = Nhậm 任 = Nhiệm 任. Từ đôi Mùa Vụ hay Vụ Mùa là dùng nói riêng về công việc đồng áng.1 like
-
QT Nháu QT Nháu là “Nhấn với phụ từ khẳng định đứng Sau” = Nháu (tương tự như “Nhấn mạnh ý Này” = Nháy, khi kí Nháy vào một đoạn nào đó của văn bản). QT Nháu đã tạo ra rất nhiều từ mới trong tiếng Việt, như: “Làm Chi!” = Lí 理. Chữ Lí 理 này nghĩa là Làm, Làm Sạch viết bằng chũ Lí Thanh 理 清, Hán ngữ gọi ngược là Thanh Lí 清 理. “Lẽ Chi!” = Lý 理, chữ Lý 理 này nghĩa là Lý Lẽ, Lý Thuyết. “Lõi Chi!” = Lí 里, chữ Lí 里 này nghĩa là cái Lõi = Lòng = Trong, Bên Trong viết bằng chữ Biên Lí 边 里, Hán ngữ gọi ngược là Lí Biên 里 边. Các từ nhấn đứng sau thường dùng: Ôi! = Ủa! = Rứa! = Của! = Có! = Nó! = Nô! (Nhật) = Co! 的 (Quảng Đông) = Cơ! = =Tơ! 的(Hán) = Chớ! = Chứ! = Chi! 之= Thị是! = Đi!= Đó! = Đấy! = Đêx! (Nhật) = Thế! = Hề! 兮 = Nê! (Nhật) = Nè! = Nư! (Thái) = Này! = Nầy! = Hầy! 是 (Nghệ An, Quảng Đông) = Hay! (Nhật) = Thay! = Phải! = Phải lắm Thay! = Không Chi! = Không Hề! =Không hề Chi! = Không sao Chứ! = Sư! 是 (Hán) = Trư! 之 (Hán) = =Ừ! = Ạ! = Là! = Wa! (Nhật) = Dạ! = Ze! 是 (Nhật) = Dồ! = Dã! 也 = Đã! = Được! = Đắc! = Đích! 的 = Đích Thị! 的 是. Đủ thấy các từ nhấn trong Hán ngữ và Nhật ngữ cũng chỉ nằm trong Nôi khái niệm của tiếng Việt mà thôi. Hán ngữ còn có từ nhấn đứng sau là Hành! 行 (“Xíng! 行”) mang nghĩa là đồng ý Được! hay Đi! tương đương trong tiếng Việt, đây là do đã dịch nghĩa từ Đi để dùng như từ nhấn đứng sau.Hành được dùng trong Hán ngữ như đi ở từ ghép Hành Tẩu行 走, nghĩa là bước đi, đúng như <TVGT> : “hành là bước”. Nhưng tiếng Hành là của tiếng Việt: “Háng Banh” = =Hành, nghĩa là cất bước chứ không còn đứng nghiêm khép háng nữa. Do chữ Hành 行có gốc gác từ cái Háng, nên chữ Hành 行còn chuyển nghĩa thành Hàng 行 (như từ ghép Ngân Hàng银 行) hoặc Hãng 行 (như từ ghép Hãng Xưởng). Từ nhấn như vậy mang ý là thuộc chủ thể đứng trước nó, có nghĩa là Của chủ thể đứng trước nó. Ví dụ nói: “Cái bàn gãy một chân rồi” , “cái bàn” là đề, “gãy một chân rồi” là thuyết. Nhưng để nhấn đề là “cái bàn”, người ta lại nói: “Cái bàn Nó gãy một chân rồi”. Tiếng Nhật thì cú pháp ngược, thuyết trước đề sau, nên câu trên ở tiếng Nhật sẽ sắp xếp là: “Gãy một chân rồi Nó cái bàn”, từ Nó này đã biến thành từ Nô trong tiếng Nhật mang nghĩa là Của, là Thuộc. Ví dụ: “Kô-đô-mô Nô Zu-ki Na-mei” , nghĩa là: cái tên (na-mei) Zu-ki là của (Nô) con trai ( kô-đô-mô), câu này ở tiếng Việt sẽ có sắp xếp là: Cái tên Zu-ki Nó (là của) con trai. Chữ Danh 名tiếng Nhật đọc là Mei名, vì Tên = Đền = Nền = =Mện =Mei = Míng = Mảnh = Danh. Cái Đền tiếng Nhật gọi là “Tên”, Tên con người chính là cái Đền hay cái tượng đài của người đó.Na-mei tiếng Nhật nghĩa là tên, thành từ “Name” của tiếng Anh. Từ Nái chỉ đàn bà, viết bằng chữ “Nái Chứ!” = Nữ. Bà tên Oa viết theo cú pháp Việt là Nái Oa = Nữ Oa (viết theo cú pháp Hán thì phải là Oa Nữ, nhưng Hán vẫn gọi theo “cổ Hán ngữ” là Nữ Oa, tức “cổ Hán ngữ” chính là Việt ngữ). Nữ Oa chính là nữ thần mặt trời (“Con cóc là cậu ông trời”). Oa nở ra từ dính Ẩm-Ương (nghĩa trừu tượng), nở tách hẳn ra thì Ẩm = Âm, Ương = Dương, nên có từ Âm/Dương. Oa còn chỉ loài Cóc, Oa nở ra từ dính Ễnh-Ương (nghĩa cụ thể), là loài sống lưỡng cư, dựa vào Đất/Nước. Con Ễnh là con Nái = Nòng (đàn bà ễnh bụng), con Ương là con Nọc (đàn ông trướng bụng). Con của Ễnh-Ương khi đang ở dưới nước cũng gọi là Nòng-Nọc. Từ dính là từ mang nghĩa nửa âm nửa dương, đang còn Lấp-Lửng, Dan-Díu, Dùng-Dằng, Ràng-Rọ với nhau. Như Ba cục đất sét làm bếp là vô hình trung “Ràng buộc với Nhau” = Rau, gọi là Ba ông đầu Rau, mà gọi chung cả ba là “Tam Rau” = Táo, nên gọi chung là ông Táo, từ Táo dùng chỉ cái “Ba đầu rau Xếp” = Bếp. Nên thời Hán phong kiến chia đẳng cấp mới có từ Đại Táo chỉ chế độ ăn mức của đại chúng dân đen, Trung Táo chỉ chế độ ăn mức của trung lưu, Tiểu Táo chỉ chế độ ăn mức của vua chúa. “Ngày Ông Công Ông Táo” là ngày thượng đế là “Càn Ông” = Công, kêu Táo (cả ba ông đầu rau cưỡi một con thuyền là cá chép – thuyền ấy là dân, là kẻ chuyên "chép" lệnh của thượng đế để nhắc nhở ba ông đầu rau) lên báo cáo tình hình trong năm đã thi hành quản lí đúng như kiểu Ba đầu rau xếp hay không, hay là vẫn quản lí theo kiểu ôm hết vào Một. Có “Ba trong Một” = Bột, mới "Gây Tốt" = Gột nên “Hổ Thành” = Hồ (lướt lủn), đó là ám ngữ của câu thành ngữ “Có bột mới gột nên hồ”. Ba đầu rau xếp chính là tam quyền phân lập, nhưng ràng buộc nhau ở một cái “Chắc Cùng” = Chung, là cái hiến pháp (Chắc=1,Lép=0). Vẽ ra thì đó là chữ Tâm 心 gồm ba chấm như ba đầu rau, cùng chung một cái vòng kiềng . Cụ thể thì đó chính là “Ba đầu rau Xếp” = Bếp. Ám chỉ thì đó chính là chữ Tâm 心, là bốn nét cách điệu của bốn nét tạo hình quẻ Li, tượng Lửa, ám chỉ dân của đế Viêm, tức dân của đế Thần Nông, gọi là dân“Kẻ Lả” = Cả, tức “Kinh Ta” = Cả (Kinh 京 = Cần = Dân 民 = Nhân 人 = Nhà = Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Người), vốn là “Dân Nguồn” = Duôn = Yue = Duyệt = Việt 越,粤 (“Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra”). Bốn nét của chữ Tâm 心 cũng tạo thành bốn nét của chữ Vương 王. Tâm còn ám chỉ là qui luật của vũ trụ tức qui luật của thượng đế, là cái bất biến, là “Ta Cầm” = Tâm. Làm việc gì mà có tâm (tức không phạm luật trời) thì quá ổn. Mà Ta lại chính là “Cái Vón” = Con của vũ trụ, vũ trụ tức Đất+Trời = Đất+Tròn = Tất+Càn = Tất+Cả (universal) = “Tạo Hóa” = Ta = Ngã = Người = Ngài = Ai = I ( “Ai” tiếng Anh).1 like
-
Tiếng Việt
Kinh Nước Việt liked a post in a topic by hoangnt
Đế Minh còn gọi là Kinh Dương Vương. Nghĩa đen của Kinh Dương Vương là Người (chữ Kinh) đàn ông (chữ Dương), làm “Vua Việt Thường” = Vương (chữ Vương). Có lẽ ý này chưa rõ, bởi Đế Minh là cha của Kinh Dương Vương. Ở đây phải chăng khác ở chữ "Đế" và "Vương", và cũng có thể liên quan đến chữ "Hoàng" nữa. Kính, 1/ Chữ Vương 王theo <TVGT>: 清代段玉裁 Thanh đại Đoạn Ngọc Tái chú giải <TVGT>:董仲舒曰。古之造文者。三畫而連其中謂之王。三者,天地人也。而參通之者,王也 Đổng Trọng Thư viết: tam thư nhi liên kì trung vị chi Vương. Tam giả, Thiên Địa Nhân dã. Nhi tham thông chi giả, Vương dã. Nếu theo giải thích nầy thì Vương là lớn nhất, thống soái cả Thiên Địa Nhân. Chữ Vương 王 của cổ văn thì Khổng Tử còn nói như <TVGT> dẫn: “Khổng Tử viết: nhất quán tam vi Vương” - ”孔子曰:“一貫三爲王”. Nhưng chữ Vương của giáp cốt văn là cái hình tam giác chĩa mũi nhọn về phía mặt trời xích đạo, thì đó là cái bản đồ vùng địa lý nam Dương Tử. 2/ Chữ Đế 帝 là chữ của cổ văn thời Xuân Thu, theo <TVGT>: 帝,諦也。王天下之號也。朿聲。Đế 帝, đế 諦 dã. Vương thiên hạ chi hiệu dã. Thích 朿 thanh. Như giải thích nầy thì chữ Đế 帝 có nghĩa như chữ Đế 諦 của Phật giáo (nghĩa là chân lí như từ Diệu Đế), mà âm đọc lại là âm của chữ 朿 là “Thích” hay “Thư”. Điều này logic vì nhấn đi nhấn lại “Thích Chứ!” = Thư, “Thư Đích 的!” = Thích, cũng tương tự như nhấn với từ khẳng định đứng sau là từ Nè! “Nè Chứ!” = Nư (là từ nhấn đứng sau của tiếng Thái), “Nư Hề 兮!” = Nê (là từ nhấn đứng sau của tiếng Nhật). Vậy Đế cũng là Đế Thích. 3/Chữ Hoàng 皇 theo <TVGT>: Hoàng có nghĩa là Đại, trên có chữ Tự “自” nhưng đọc giống như Tí có nghĩa là đầu tiên, do nhấn "Tiên Chi!" = Tí (Tí là tên đầu của thập can), mà lướt "Thành Tí" = Thủy nghĩa là khởi thủy, viễn cổ gọi là Thủy Hoàng 远 古 始 皇, đó là các vị Toại Nhân, Phục Hi, Thần Nông.Tần Thủy Hoàng tên Chính, dám ngạo mạn đặt hiệu Tần Thủy Hoàng, yểu mệnh (hay do quả báo) truyền được 24 năm, mất cả triều Tần từng truyền hơn chín trăm năm.1 like -
Chữ Nê 泥 Chữ Nê còn đọc là Nệ, mang nghĩa là nặng, <TVGT>: Nê là Nước, Nô Đê thiết 奴 低 切 Nê (đúng logic thì là lướt “Nước Hề 兮!” = Nê, hay “Nước Chi 之!” = Ni, nhưng từ Nước là tiếng Việt, Hán ngữ là “Shui”). Nước = Nặm = =Nặng = Nậm = Thấm, nặng hơn đất nên nước thấm xuống dưới đất, do nhấn “Nặng Hề 兮!” = Nệ. Quá nặng tức “Nệ Nhiều” = Nề (do lướt lủn), cũng là do lướt từ lặp “Nệ Nệ” = Nề, 0+0=1. Do vậy quá nặng thì dùng từ đôi Nặng Nề, no quá tức no nặng thì dùng từ đôi No Nê, cũng cùng logic với nhấn “No Hề 兮!” = Nê. Các từ hai âm tiết No Nê, Nặng Nề là từ đôi chứ không phải là từ láy. Chữ Nệ là nhấn mạnh của từ Nặng, bởi vậy có các từ ghép Câu Nệ nghĩa là coi nặng, Nệ Cổ nghĩa là coi nặng cái cổ xưa, Chấp Nệ nghĩa là nặng về tranh chấp. Chữ Nê 泥 viết có bộ nước 氵và tá âm chữ Ni 尼 (trong từ Ni Cô 尼 姑 nghĩa là vị sư nữ, do lướt “Nữ 女 Chi 之!” = 尼). Chữ Nữ 女 xưa đọc là Nái, < TVGT>: “thời các nước Ngô, Sở, Việt, người Kinh Sở đọc chữ Nữ là thiết ”Nô 奴 Giải 解” = Nái” (sau nhấn “Nái Chứ!” = Nữ 女. Còn lướt lủn “Nàm Trai” = Nam 男, do Sức = Lực= Lộng 弄 = Lụng = Làm = Nàm = =“Nụng弄” , chữ Nam 男 viết kiểu hội ý, đọc từ trên xuống dưới là “Điền 田 Lực 力” = Đực), tiếng Việt còn dùng từ đôi Làm Lụng để nhấn mạnh ý làm nhiều, từ đôi Lộng Hành để diễn đạt ý làm quá chức trách, lướt lủn “Làm Nặng” = Lạm để diễn đạt ý làm quá sự cho phép, từ láy Làm Lung ý khinh làm không nghiêm chỉnh, từ láy Làm Liếc ý khinh làm không nên hồn. Hán ngữ thiết theo <TVGT> thì là “Nu 奴 Jie 解” = Nie, trật, không thành “Nủy 女”, cũng như đọc đúng luật từ trên xuống dưới là “Tian 田 Li 力” = Ti, trật, không thành “Nán 男”. Như vậy chữ Nữ 女 (Nái), Nam 男 (Đực) cũng như chữ Lộng 弄 (Làm), chữ Nê 泥 (Nặng) là những chữ nho phát âm như Việt là từ gốc Việt chứ không phải là “từ Hán-Việt” hay “tố gôc Hán” như Từ Điển VN giải thích. Chữ “Nặng Hề!” = Nê 泥 viết có bộ thủy 氵, biểu ý vật gì mà thấm nước thì cũng nặng hơn chính nó, như đất ngậm nước thì thành “Nê Hầy 是!” = Nầy = Lầy, nghĩa là bùn, “Nát như Bùn” = Nũn. Hán ngữ dùng chữ Nê Thổ 泥 土 nghĩa là đất bùn, dùng chữ Thủy Nê 水 泥 để chỉ xi măng. Chữ Nê 泥 còn được dùng mượn âm ghi từ khác không có chữ nho, ví dụ chữ Đan Nê 丹 泥 kí âm cho từ Đồi Núi (Đan Nê đọc phản thiết “Nê Đan” = =Non), chữ Phiếm Nê 泛 泥 kí âm cho từ Niêm (Phiếm Nê đọc phản thiết “Nê Phiếm” = Niêm, chỉ con Niêm là cái dấu “Nằm Nghiêm” = Niêm, không ai được tự ý làm mất dấu, trong từ Niêm Phong 封)1 like
-
Lão Tử Trong các ngôi chùa VN từ xưa hoặc mới xây ngày nay đều thờ Tam giáo đồng nguyên, tức tất cả gồm Phật – Nho – Đạo, là Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo. Đồng thời với ban thờ này còn có một ban thờ riêng nữa là thờ Đạo Mẫu, tín ngưỡng cổ xưa nhất của người Việt. Đạo giáo còn gọi là đạo Lão, tương truyền do Lão Tử gây dựng. Đời sau sách sử còn viết Lão Tử có họ tên thật, quê quán rõ ràng, ví dụ ở TQ thì đó là một ông người họ Trang, nên thường gọi là Trang Tử. Nhưng cái tên mà Hán nho dùng gọi là Lão Tử thì phổ biến hơn cả. Nghĩa tiếng Việt thì Lão Tử là Tử Lão. Tử Lão = Tu Lão = Cụ Lâu = Cả Lục. Chỉ mỗi một chữ nho Tí 子 (tên đầu tiên, tức là thời điểm sớm nhất, trong mười hai con giáp dùng đếm thời gian) mà đại diện cho cả một nôi khái niệm: Con = Kô = Cu = Cả = Cụ = Tu = Tủa = Tử = Dử. Chi tiết: Con 子 = Kô 子 (tiếng Nhật, Ko-do-mo nghĩa là con trai) = Cu 子 (Cu nghĩa là con trai, tiếng Việt) = Cả = Cụ (nhấn “Cụ Chi 之!” = =Kì, Kì Lão 耆 老 nghĩa là Cụ Lão, Hán ngữ hiện đại cũng vẫn dùng chữ Kì Lão 耆 老 như “cổ Hán ngữ” đã dùng như ngữ pháp tiếng Việt, chứ không gọi là Lão Kì 老 耆 theo ngữ pháp của Hán ngữ hiện đại, nghĩa là Cụ Già nếu đổi ngược lại sang ngữ pháp tiếng Việt) = Tu 子 (tiếng Tày) = Tủa 子 (tiếng Hmông) = Tí 子 = Tử 子 = Dử 子 (Hán ngữ “Zi 子”). Diễn biến âm thêm nữa thành tên gọi các nhân vật viết bằng các chữ nho khác: Con = Cán 干 = Quan 官 = Quân 軍 = =Quân 君 = Quản 管 = Cả. Quân 君 Vương là người Quản lý cả một nước, như lướt lủn “Quan Cả” = “Quan Tổng” = Quản 管, mà người Cán 干 bộ có trách nhiệm “Coi Toàn” = Quan 官, lớn hơn thì là “Quan Tổng” = Quản. Còn Quân 軍 chỉ là người lính coi sóc (coi sóc cũng gọi là quán xuyến) một việc cụ thể, tức lướt lủn “Quan nhỏ là Lính” = Quán, nên có từ quán xuyến đồng nghĩa coi sóc. Tranh vẽ và tượng Lão Tử dáng thong thả cưỡi con trâu thì có nhiều từ xửa từ xưa. Chứng tỏ Đạo giáo có xuất xứ từ nền văn minh lúa nước cổ đại. Cuốn <Đạo đức kinh> có nội dung chủ yếu là sống thuận thiên, thích nghi với tự nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái (chứ không phải là “chinh phục vũ trụ”) Lão Tử 老子 là cách viết của Hán nho, có sau. Cổ xưa viết Kì Lão 耆 老 là Cụ Lâu tức cụ già. Mà nói lướt thì “Cụ Lâu” = Cậu. Từ Cậu này đồng âm với từ Cậu 舅 chỉ cụ thể thì là “em trai của mẹ”, chỉ chung thì là “người trai” đối nghịch với Cô 姑 chỉ cụ thể là “em gái của cha”, chỉ chung thì là “người gái” trong cặp đối nguyên thủy tương đương Â/D = Cô故 / Cậu舅. Cặp Âm/Dương là cặp đối nguyên thủy điển hình, có cùng tơi là “vắng tơi”, thậm chí cùng rỡi là Âm = Ương, trong từ dính Ẩm-Ương, là từ “bóng”, chưa tách rõ hẳn giới tính là Âm hay là Dương, từ dính Ẩm-Ương chuyển nghĩa chỉ sự Dùng-Dằng, chưa Dứt hẳn sang phía nào. Cô 姑 là gái nhưng trong Cô có gen “ô” là tơi của Ông là của Ông bố. Cậu 舅 là trai nhưng trong Cậu có gen “âu” là rỡi của Âu là của “Mẹ Âu” = Mẫu = U. Cặp đối của tiếng Việt là Cô 姑 / Cậu 舅 (cùng tơi C) tương ứng trong Hán ngữ là cặp đối Gu 姑 / Jiu 舅 (cùng rỡi U). Vũ trụ hình thành do tố Dương sinh ra tố Âm (nhất nguyên sinh nhị nguyên) rồi mới hình thành Vũ Trụ. Tương ứng: cặp từ đối Cô 姑 / Cậu 舅 cùng Tơi (= Tía) chung, phải là sinh ra trước cặp đối Gu 姑 / Jiu 舅 cùng Rỡi (=U=Má) chung, dù cặp từ ấy cùng dùng chung chữ nho để diễn đạt, hoặc về sau cùng dùng chữ Latin để phiên âm). “Cậu ông Trời” phải là người sống cùng thời ông Trời ra đời. Ông Trời là Vũ Trụ ( “Vòm Ủ” = Vũ 宇 là không gian, “Trời Du” = Trụ 宙 là thời gian; Từ Điển: vũ trụ là không gian và thời gian). Vậy “Cậu ông Trời” cũng phải sinh ra từ thời vũ trụ sinh ra, nhưng “Cậu” ấy không phải là con của ông Trời, mà là em trai của mẹ ông Trời, nhưng có khi còn kém tuổi ông Trời, vì đàn bà Việt đẻ nhiều con (mẹ Âu Cơ còn sinh một lần cả trăm con), có khi mẹ sinh con út còn muộn hơn con gái của mẹ sinh con đầu lòng, “con đẻ, mẹ cũng đẻ” là bình thường trong xã hội Việt xưa. Khen “người Việt có sức sống mãnh liệt” thì có mà khen cả ngày, dòng giống cha Rồng mẹ Tiên là “Con rắn không chưn đi nổi năm rừng bảy rú. Con gà không vú nuôi nổi chín mười con”. Tí là con giáp đầu tiên, Tí = Tiên. Dù Tí là đầu tiên nhưng trước nó vẫn có vũ trụ, “Trước Tí” = =Trí. Làm bất cứ việc gì cũng cần có cái đầu tiên là có Trí 智 (suy nghĩ kĩ rồi mới làm), cũng chính là có cái từ vũ trụ cho, gọi là trời phú, cũng hiểu là làm việc gì cũng phải đầu tiên là thuận thiên (Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa). Trí 智 = Sĩ 士 = Sư 師 = Thư 書 = (nhấn) "Thư 書 Hầy是!" = Thầy (có sách là Thư thì mới đào tạo ra Thầy, Thầy là cuốn sách, cuốn sách chính là Thầy). Tức làm “dự án” gì cũng phải suy nghĩ kĩ (Trí), hỏi ý kiến các sĩ phu (Sĩ), hỏi ý kiến các sư phụ (Sư), tham khảo các sách (Thư), hỏi ý kiến các tôn giáo (Thầy). Tất cả các nhân tố đó, thời xưa chỉ gọi chung là giới có học, mà lướt thì “Có Học” = Cóc. Nên mới có câu “con Cóc là Cậu ông Trời”. Trên trống đồng có tượng Cóc là vậy, và có tranh dân gian thầy đồ Cóc là vậy. Còn cổ xưa, con cóc sinh ra nòng - nọc (từ dính thể hiện dương - âm, vì nó ở dưới nước thuộc thế giới âm nên Nòng là âm mà mang dấu ngược là “huyền” = 1, Nọc là dương mà mang dấu ngược là “nặng” = 0. Lên cạn thuộc thế giới dương thì tất cả nòng nọc đều thành Cóc, dấu “sắc” = 1). Nhưng gốc của từ dính nòng-nọc lại chính là cái tế bào Noa (là con vật đẻ ra ở Nước, có tên là Oa). Con Noa nở ra từ dính Nòng-Nọc, còn con Oa 蛙 nở ra từ dính Ễnh - Ương (= Âm – Dương, đàn bà to bụng gọi là “Ễnh bụng”, đàn ông to bụng gọi là “Trướng bụng”). Con “Có Học” = Cóc, (do nó đã từng dày công “Ham làm việc bằng Óc” = Học 學) là Thầy đồ, tức là Sư, nó lại còn là “Cụ Lâu” = Cậu của ông Trời. Như vậy cái “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, nó là cái khách quan, có sẵn từ khi hình thành vũ trụ. Thầy (là Cóc), tức là Sư phụ, là người biết Thư (nhấn "Thầy Chứ 之!" = Thư書 , Thư 書 là cuốn sách, là Thầy của người đọc,đương nhiên cũng có nhấn "Thư 書 Hầy 是!" = Thầy ), nên từ Thầy đã phiên thiết thành hai chữ Thiềm Thừ 蟾 蜍. (Chữ Thiềm Thừ viết bằng cách "biểu ý + tá âm": biểu ý bằng bộ Trùng 虫 tức họ Con Trùn viết bằng chữ Côn Trùng 昆 虫, tá âm bằng chữ Nghiêm 檐 cho từ Thiềm 蟾 và bằng chữ Dư 余cho từ Thừ 蜍). Chính là tế bào Thầy nở ra từ dính Thiềm 蟾 -Thừ 蜍, thiết lại thì “Thiềm 蟾 Thừ 蜍” = Thư書(con Thiềm - Thừ là con Cóc, là thầy đồ thì mới biết viết sách là Thư). Hán ngữ mà thiết thì là “Chán 蟾 Chú 蜍” = Chu, trật, không thành “Shu 書”. Thư có nghĩa là sách, sách ở đây là sách trời tức Thiên Thư, hay còn gọi là “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”. Học được lý thuyết ấy thì biết sống thuận thiên, giữ được sinh thái.1 like