• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 18/08/2015 in Bài viết

  1. Cái này lão Gàn nói lâu rùi! Rằng thì là mà "Có một nền zdăng miêng toàn cầu huyền vĩ đã tồn tại trên trái Đất này và chính họ là chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Thực tế phát hiện được không hề phản bác lại luận điểm của lão Gàn, mà ngày càng chứng tỏ lão cứ từ đúng trở lên. Với lão thì những thứ gọi là di vật khảo cổ, chỉ là bằng chứng cho những thứ tư duy chậm phát triển. Lão chỉ cần phân tích về lý thuyết cũng đủ thấy rất rõ điều này.
    3 likes
  2. 13 năm ngày mất của nữ sĩ Ngân Giang (17/8/2002-17/8/2015): “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen…” Thứ hai, 17/08/2015 - 08:00 Dân trí Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Cuộc đời bà là chuỗi những thăng trầm: đầy vinh quang, nhưng cũng không ít cay đắng. “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...” Tôi quen bà là khi mới chập chững bước vào nghề báo, còn bà thì đã được nhân gian đúc xong pho “Tượng vàng thi ca”. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tìm đến nhà bà, bà hỏi: “Sao biết đường mà tìm đến đây?”. Tôi đọc hai câu thơ của bà: “Trước cửa vài khóm trúc/ Gió về bay phất phơ”, bà cười lớn: “Cậu này ranh thật!”, Tôi chả hiểu là bà khen hay chê. Căn phòng bà ở ngoài bãi Nghĩa Dũng (ngoài đê Sông Hồng, Hà Nội) chật chội, nhưng bà bảo chả bao giờ vắng khách. Bà kêu cô cháu gái lấy cho bà mấy thanh hương trầm. Bà cho vào chiếc lư đồng, đốt lên. Chờ cho hết khói, hương thơm phảng phất bay. Bà lấy ra cút rượu, rót vào hai cái ly con. Bà đưa cho tôi một ly. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ bà: bà mặc áo lụa vàng-hồng, bên ngoài khoác áo len mỏng màu tím than, cổ khoác chiếc khăn voan mỏng, mặt thoa phấn sáp nhẹ, môi hồng. Điều làm tôi ngạc nhiên là mặt bà hầu như không có nếp nhăn, mặc dù đã ở cái tuổi “cổ lai hy”. Người đời kể lại rằng, ở lứa tuổi trăng tròn bà là niềm mơ ước của rất nhiều tao nhân mặc khách. Gái Hà Nội, tài sắc vẹn toàn, công-dung-ngôn hạnh, lại nổi tiếng khắp kinh kỳ. Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, Về đi, vườn ruộng ngát hương say... (Thơ Ngân Giang) So với những tài danh cùng thời của phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Hồ Dzếnh thì nữ sĩ Ngân Giang nổi bật hơn nhiều. 9 tuổi bà đã có thơ đăng báo, 16 tuổi đã cho ra đời cả tập thơ “Giọt lệ xuân” và nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Tuy nhiên điều bất công với bà là ngay cả trong “Thi nhân Việt Nam” (của Hoài Thanh-Hoài Chân) và “Nhà Văn hiện đại” (của Vũ Ngọc Phan) cũng không có lấy một bài giới thiệu về bà. Nhà thơ Thẩm Thệ Hà đã từng than thở: “Điều làm cho ta ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế!”. Có lần tôi đem câu này hỏi bà. Bà cười: “Cậu đi mà hỏi ông Hoài Thanh ấy”. Dạo ấy ông Hoài Thanh đã qua đời, nhưng vẫn còn Hoài Chân. Có lần tôi tới thăm Hoài Chân, lúc ấy ông đã yếu nhiều. Tôi hỏi, ông không trả lời mà nhũng nha nhũng nhẵng ngâm 2 câu Kiều: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Có lẻ Hoài Chân nói đúng! Tài sắc vẹn toàn đến như bà không chỉ đồng loại ganh tỵ với bà mà “trời đất cũng phải ghen tỵ”. Hôm ấy bà đã đọc, rồi bình cho tôi nghe rất nhiều về thơ bà. Tôi ghi chép đầy cả cuốn sổ tay. Giọng vang. Không chút nhầm lẫn. Một trí nhớ tuyệt vời. Sau này, cứ lâu lâu tôi lại ghé thăm bà. Lại vẫn đốt hương trầm, rót rượu mời khách và đọc thơ. Và cũng từ hôm ấy, cứ vào dịp cuối năm tôi lại tới thăm bà. Lần nào cũng vậy, bà vẫn mặc đẹp, thoa chút phấn sáp, lấy thỏi son tô lại làn môi, đeo chuỗi hạt ngọc, đốt chiếc lư trầm, đợi khói bốc lên, rót hai chén rượu và... chuyện thơ, văn. Và rồi cũng chưa bao giờ ngồi lại được với bà lâu. Lại những người khách đến. Không từ chối tiếp ai được: "Khổ một nỗi toàn là khách văn chương". Khách quen đã nhiều mà khách lạ cũng lắm. "Một tài thơ thiên phú!" Nữ sĩ Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình Nho học 5 đời thờ Phật. Truyền thống văn chương của dòng họ ảnh hưởng rất sớm tới nhân cách của Ngân Giang. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ. Ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du. Cha bà theo ông nội học chữ Hán, chơi đàn nguyệt nổi tiếng kinh thành. Tuy nhiên cái nghề sống chính của dòng họ này lại là nghề thêu ren và bốc thuốc bắc. Đỗ Thị Quế lớn lên với “Truyện Kiều”, “Hoàng Trừu”, “Quan Âm Thị Kính”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Nhị Độ Mai”... Chính vì vậy mà năm mới lên 6 tuổi, một lần theo người bà bác ra ga, nhìn những con tàu, Đỗ Thị Quế đã thốt lên: "Tàu về rồi tàu lại đi Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga" "Một tài thơ thiên phú!" - người bác bỗng thốt lên. Từ đấy bà đã dạy cho cô cháu của mình cách làm thơ, phú, dịch Đường thi mà bà ưa thích. Năm 1924, lên 8 tuổi, Đỗ Thị Quế đăng bài thơ đầu tiên "Vịnh Kiều" với bút danh Nguyệt Quyên trên tờ “Đông Pháp”. Sự phát tiết quá sớm của một tài thơ tất khó tránh khỏi khổ lụy. Đọc sách Phật, thấy dạy nhiều điều thiện, bé Quế thấy mình có tội quá nhiều. Thế là vào một chiều khi "hoa lan rụng trắng sân đình", cô bé Đỗ Thị Quế đã gieo mình xuống Hồ Tây. May thay người nhà phát hiện kịp đưa bé về nhà. Năm ấy Đỗ Thị Quế mới tròn 9 tuổi. Quế tiếp tục làm thơ. Từ năm 1929 đến năm 1931 viết cho báo “Trung Bắc Tân Việt” với bút danh Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế. Năm 1932 cho in cuốn "Giọt lệ xuân" tại nhà xuất bản Tân Dân. Danh tiếng Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế bắt đầu được mến mộ. Đến khi nhật báo “Phụ Nữ Thời Đàm” dành hẳn môt trang để giới thiệu “Giọt lệ xuân” với nữ sĩ tí hon Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế thì tiếng tăm của Đỗ Thị Quế đã nổi khắp kinh thành. Năm ấy Đỗ Thị Quế vừa độ tuổi trăng tròn. Tài thơ phú bẩm sinh, sắc đẹp diễm kiều, lại đàn hay, họa giỏi, thêu thùa rất khéo, Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế đã trở thành niềm mơ ước của biết bao tài danh đất Bắc Hà. Nhưng mà như Phạm Quý Thích đã từng nói: "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy". Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế cũng không thoát được cái vòng trầm luân ấy. Dường như bà cũng ý thức được điều ấy. Trong bài “Hoài cảm”, từ thuở ấy, bà đã viết: "Mỗi bước chân đi, mỗi bước sầu, Trăm năm thân thế gửi về đâu". Hiểu rõ con gái mình, ông đồ Nho Đỗ Hữu Tài muốn Quế sớm yên bề gia thất. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình lẩn trốn. Biết khó bề khuyên bảo, ông đồ Nho đuổi đánh, đập nát 3 giàn hoa thiên lý, Đỗ Thị Quế đành phải bò ra cúi lạy cha xin chịu vâng lời. Thế là bóng dáng chàng "hiệp sĩ" cách mạng mặc áo choàng đen mới kịp hiện hữu trong trái tim mẫn cảm của nàng thi sĩ tuổi trăng tròn đã trở thành dang dở. Lên xe hoa về nhà chồng nàng quay đầu về phương trời nơi người ấy ra đi, tạ tội: "Ngày chửa sang thu đã thấy buồn Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn Trời không mưa gió lòng mưa gió Người ở đầu thôn mộng cuối thôn". Nhưng rồi tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của bà. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao liên cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi. Năm 21 tuổi nữ sĩ cho xuất bản cuốn "Duyên văn", rồi vào Sài Gòn viết cho “Điện tín nhật báo” và “Mai” của Đào Trinh Nhất. Một thời gian sau đó, nữ sĩ quay ra Bắc viết cho “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Phổ thông bán nguyệt san”, “Đàn bà”... Năm 1939 "Trưng nữ vương" ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp văn chương của nữ sĩ: tên tuổi của bà đã vang vọng từ Nam ra Bắc và bốn năm sau đó tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân” với bút danh Ngân Giang ra đời đã đưa Ngân Giang lên vị trí những người được yêu thích nhất trên thi đàn Việt Nam. Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ. Ngân Giang bị cuốn theo dòng thác cách mạng. Nữ sĩ hô hào cổ vũ cho cuộc kháng chiến. Để tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc, Hồ Chí Minh, Ngân Giang đã đem hết cái tài thêu thùa được học từ thuở nhỏ, thêu cả một bài thơ "Kính dâng các bậc anh hùng", trong đó có những câu đầy khí phách "Ta say uy võ Trần Hưng Đạo, ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và dâng lên ông Hồ. Cảm động trước bầu nhiệt huyết của nữ sĩ, Hồ Chí Minh khen: "Mấy lời cảm tạ Ngân Giang Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" Ngơ ngác phương trời con én lạc Do đòi hỏi cấp bách và chiến lược lâu dài của cuộc kháng chiến, Bộ chỉ huy của cách mạng Việt Nam dời về Việt Bắc. Ngân Giang cũng hăng hái đeo ba lô, cùng đàn con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. "Thân gái bơ vơ giữa dặm trường". Muôn vàn mối đe dọa, cám dỗ - Ngân Giang nhớ lại. Rồi thì cũng phải tìm chốn nương thân. Trong số những người tìm đến bà chọn con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ. Công bằng mà nói, ở mức độ nào đó, bà có lý. Chẳng thế mà, có lần, với tư cách là con dâu tuần phủ, nữ sĩ vào được tới tận sào huyệt của Quốc Dân Đàng Việt Nam, cứu được nhiều trinh sát Việt Minh thành. Trong số đó có cả nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Sống trong lòng địch mà lòng nữ sĩ vẫn hướng về Việt Bắc: “Gác xép mơ màng tin quốc sự Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau”. Cách mạng thành công, hòa bình lập lại, Ngân Giang bắt đầu bị quên lãng. Tên tuổi và thơ văn của nữ sĩ không được xuất hiện trên sách báo, mặc dù những người yêu thơ từ Nam chí Bắc vẫn truyền tay nhau chép thơ bà. Cái chân cán bộ văn hóa quèn của bà cũng bắt đầu bị lung lay. Và năm 1957, ở tuổi 41, Ngân Giang nữ sĩ nổi tiếng đã buộc phải rời khỏi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. "Ra khỏi biên chế nhà nước thời bấy giờ là chuyện kinh khủng" - Ngân Giang nhớ lại. Đi đâu, làm gì để nuôi sống bản thân và cả đàn con đây? Với tâm trạng cô miên nữ sĩ thốt lên: "Ngơ ngác phương trời con én lạc Chập chờn khung cửa cánh hoa nghiêng" Tuyệt vọng, không còn biết bấu víu vào đâu, Ngân Giang cầu cứu Hội Nhà văn, rồi Nhà xuất bản của Hội để may ra kiếm được một công việc gì đấy: biên tập, morat, đóng bìa sách, thậm chí là rửa cốc chén, dọn vệ sinh... miễn là có việc, có lương. Viết đơn, chờ đợi. Lại viết đơn. Đến lần thứ 10, không chờ được nữa bà chạy tới "cạy cục" nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu thương bà lắm, nhưng rồi ông cũng chỉ biết thở dài: "Khổ quá, tôi là thiểu số!", sau khi đã vò đến nát đầu, gãi đến đỏ tai. Tuyệt vọng đến cùng cực, "chết không được đành phải sống". Ngày ngày nữ sĩ ra bãi sông Hồng quét là khô để bán, tối về đi rửa bát, chai lọ thuê. Làm quần quật cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho 10 đứa con sống lay lắt qua ngày. ông Tú Mỡ, thủ quỹ Hội Nhà văn lúc bấy giờ thương tình ứng trước cho bà 20 đồng với điều kiện: "Hết tháng phải trả nợ cả gốc lẫn lãi bằng... thơ". Cụ Tú thương mà làm vậy, chứ thực tình cụ thừa biết suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm cơm, kiếm cháo thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện văn chương. Mà có trả vốn và lãi bằng thơ cho cụ thì đăng ở đâu bây giờ? Cũng không thể ngờ được rằng cuộc sống bằng nghề quét lá ấy kéo dài tới 10 năm, và kết quả là: "Mười năm quét lá bên sông Hình hài để lại cái còng trên lưng" Bạn bè, những người yêu thơ Ngân Giang đến thăm bà, không ai cầm được nước mắt. Nhưng vận may có lúc cũng mỉm cười với nữ sĩ. Nhờ tài thêu ren từ tấm bé, Ngân Giang được nhận vào Hợp tác xã thêu ren Song Hỷ. "Chiếc kim chiếc bút vui ngày tháng Nào có ham gì miếng ngọt ngon" Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng tồn tại chẳng được bao lâu. HTX phát động phong trào "phê bình và tự phê bình". Bà hăm hở hưởng ứng "chống tiêu cực, tố cáo kẻ tham ô" và kết quả là bị đuổi ra khỏi HTX vì "gây rối trật tự công cộng. Bôi xấu cán bộ lãnh đạo". Thế là nữ sĩ lại bơ vơ. Giờ thì không còn đủ sức để quét lá, rửa bát, chai lọ thuê nữa rồi. Bà ra đường mở quán bán nước: "Một quán bên sông cuối phố nghèo Miếng trầu bát nước có bao nhiêu" Khổ một nỗi vốn liếng đã ít, khách thì phần đông lại là bạn văn chương "thừa tình cảm nhưng lại chẳng có tiền". Biết làm sao được. Rồi hy vọng cứ nhạt nhòa theo năm tháng: "Sớm tối dăm ba đồng vốn liếng Tháng ngày dăm bảy khách văn chương Ôi năm cứ hết, xuân không hẹn..." Cuộc sống cứ kéo dài, và nữ sĩ vẫn ngày ngày: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước lệ đầy khăn". Tuy nhiên bất chấp khó khăn níu kéo, bất chấp miệng tiếng thị phi. Nữ sĩ không những tỏ ra có nghị lực mà con đầy phách lực, bà cứ thản nhiên, nhi nhiên sống và chiêm nghiệm: "Sớm khuya ngâm ngợi câu thành bại Dưa muối đôi chiều cũng thấy ngon" Quả thực nếu chỉ quẩn quanh vì chuyện áo cơm và những bất hạnh chồng chất hẳn nữ sĩ không tài nào đứng vững được. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002) có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 4.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ nước nhà (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Ngày tháng rồi sẽ qua đi. Những bất hạnh của cuộc đời sẽ lùi dần vào quá khứ. Nhưng sự nghiệp văn chương của bà sẽ còn được nói đến: "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang Một dòng sông lạnh muôn vàn sao rơi". Mối tình si Theo nữ sĩ Ngân Giang thì bà có khá nhiều người mê, có người si mê. “Bây giờ vẫn còn có người mê đấy”- có lần bà bảo với tôi như vậy. Lúc ấy bà đã 80 tuổi. “Người ta mê nhau là vì cái tài, chứ sắc thì nay hết rồi”- bà bảo. Trong nhân gian người ta hay đồn nhiều về chuyện thi sĩ-nhà giáo Đông Hồ chết trên bục giảng khi đang bình thơ bà. Đó là khi ông bình bài thơ “Trưng nữ Vương”, một trong những bài thơ được coi là hay nhất của Ngân Giang. Người ta coi nó là tuyệt tác là bởi: Từ trước tới nay, hình tượng hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) nói chung và Bà Trưng Trắc nói riêng đã nhiều lần đi vào văn, thơ, nhạc, họa. Song đằng thẳng mà nói, ở thể loại thơ, hiếm có tác phẩm nào thể hiện được hình ảnh Bà Trưng Trắc đẹp một cách quyền quý, đài các như trong "Trưng nữ vương" của Ngân Giang. Có thể với những câu chữ đầy hình ảnh ước lệ, kiểu như: "khóe hạnh", "bóng sao rơi", "chim bằng", "đường kiếm mã", "gót ngọc"…, ta sẽ thấy "không gian thơ hơi ca kịch" (như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét), song thiết nghĩ, chúng ta từng quen với một hình ảnh Bà Trưng Trắc mộc mạc, dân dã trong "Đại Nam quốc sử diễn ca" từng một thời được đưa vào sách giáo khoa (Bà Trưng quê ở Châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân/ Ngàn tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành/ Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta/ Ba thu gánh vác sơn hà/ Một là báo phục, hai là Bá vương…) thì cũng nên biết đến một hình ảnh Bà Trưng Trắc trong phong thái của một vị nữ vương đài các. Thật hiếm có câu thơ nào tả được nỗi cô đơn bi tráng của vị Nữ vương trong khi vừa để tang chồng vừa mưu đền nợ nước đẹp và ấn tượng như mấy câu thơ này “Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi” và: “Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời”. Đặc biệt, hình ảnh xuất hiện ở đoạn kết bài thơ cùng với tiếng than não ruột đã nâng tầm bài thơ lên thành một bản "anh hùng ca" kết hợp với "tình ca". Cái đẹp, cái mới trong tâm hồn một nữ thi sĩ sống ở thế kỷ XX đã nhập vào tâm hồn của một nhân vật lịch sử sống cách đó hai chục thế kỷ, khiến tâm thế nhân vật trở nên sống động, gần gũi hơn với độc giả thời nay. Và đó là một trong những thành công của bài thơ. Không phải ngẫu nhiên mà với khổ thơ kết bài: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi… Người ta kẻ lại rằng, vào ngày 25 tháng 3 năm 1969, trong khi đang bình bài thơ này cho các sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn cùng thưởng thức, đọc đến câu: “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi” và ông mới thốt lên: “Chàng ơi....” thì ngất xỉu ngay trên bục giảng, để rồi sau đó ít giờ, ông vĩnh viễn giã biệt thế gian. Cái chết của thi sĩ - nhà giáo Đông Hồ trong lúc trình diễn bài thơ của nữ sỹ Ngân Giang được xác định là do chấn động tâm lý, dẫn tới cơn tai biến mạch máu não. Đây được xem là một trong những giai thoại văn chương đẹp nhất từ trước tới nay. Sau này tôi có đem câu chuyện này kể lại cho bà nghe, bà ý nhị bảo, bà cũng chỉ nghe người ta đồn thổi thế thôi. Một tuần trước khi bà qua đời, tôi và một nữ đồng nghiệp đến thăm bà. Bà đã rất yếu, người cháu dìu bà ngồi lên xe lăn. Giọng đọc thơ của bà ngắt quảng sau những cơn thở dốc. Khi ra về bà cứ nắm mãi tay chúng tôi như không muốn rời. Khi chúng tôi đã đi ra cuối ngõ, nhìn lại vẫn thấy bà ngồi trên xe lăn trước cửa. Bà đưa tay lên định vẫy nhưng dường như cánh tay đã “không chịu nghe” bà. Ngày 17/8/2002 bà đã trút hơi thở cuối cùng mang theo tất cả những vinh quang và cay đắng, mà bà “được” và “phải” gánh chịu trên thế gian này. Lê Thọ Bình
    3 likes
  3. "Lạ gì bỉ sắc tư phong... Trời xanh quen thói má hồng... đánh ghen" (Kiều - Nguyễn Du) =========== TRƯNG NỮ VƯƠNG Ngân Giang - Đỗ Thị Quế Thù hận đôi lần chau khoé hạnh Một trời loáng thoáng bóng sao rơi Dồn sương vó ngựa xa non thẳm Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi Ngang dọc non sông đuờng kiếm mã Huy hoàng cung điện nếp cân đai Bốn phương gió bão dồn chân ngựa Tám nẻo mưa ngàn táp đoá mai Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi Lạc tướng quên đâu lời tuyết hận Non hồng quét sạch bụi trần ai Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời... Ải bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi 1939 Nguồn: http://www.thivien.net/Ng%C3%A2n-Giang/Tr%C6%B0ng-N%E1%BB%AF-V%C6%B0%C6%A1ng/poem-HVcWXgMMLfQkhrjp5dm9qA
    3 likes
  4. Thành kính phân ưu, xin thắp nén nhang tưởng nhớ nữ sĩ Ngân Giang - Thân mẫu của Sư phụ Thiên Sứ, nhìn ảnh cụ giống có nét rất giống Sư phụ. Hì! 13 năm ngày mất của nữ sĩ Ngân Giang (17/8/2002-17/8/2015): “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen…” Dân trí Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Cuộc đời bà là chuỗi những thăng trầm: đầy vinh quang, nhưng cũng không ít cay đắng. “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...” Tôi quen bà là khi mới chập chững bước vào nghề báo, còn bà thì đã được nhân gian đúc xong pho “Tượng vàng thi ca”. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tìm đến nhà bà, bà hỏi: “Sao biết đường mà tìm đến đây?”. Tôi đọc hai câu thơ của bà: “Trước cửa vài khóm trúc/ Gió về bay phất phơ”, bà cười lớn: “Cậu này ranh thật!”, Tôi chả hiểu là bà khen hay chê. Căn phòng bà ở ngoài bãi Nghĩa Dũng (ngoài đê Sông Hồng, Hà Nội) chật chội, nhưng bà bảo chả bao giờ vắng khách. Bà kêu cô cháu gái lấy cho bà mấy thanh hương trầm. Bà cho vào chiếc lư đồng, đốt lên. Chờ cho hết khói, hương thơm phảng phất bay. Bà lấy ra cút rượu, rót vào hai cái ly con. Bà đưa cho tôi một ly. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ bà: bà mặc áo lụa vàng-hồng, bên ngoài khoác áo len mỏng màu tím than, cổ khoác chiếc khăn voan mỏng, mặt thoa phấn sáp nhẹ, môi hồng. Điều làm tôi ngạc nhiên là mặt bà hầu như không có nếp nhăn, mặc dù đã ở cái tuổi “cổ lai hy”. Người đời kể lại rằng, ở lứa tuổi trăng tròn bà là niềm mơ ước của rất nhiều tao nhân mặc khách. Gái Hà Nội, tài sắc vẹn toàn, công-dung-ngôn hạnh, lại nổi tiếng khắp kinh kỳ. Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, Về đi, vường ruộng ngát hương say... (Thơ Ngân Giang) So với những tài danh cùng thời của phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Hồ Dzếnh thì nữ sĩ Ngân Giang nổi bật hơn nhiều. 9 tuổi bà đã có thơ đăng báo, 16 tuổi đã cho ra đời cả tập thơ “Giọt lệ xuân” và nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Tuy nhiên điều bất công với bà là ngay cả trong “Thi nhân Việt Nam” (của Hoài Thanh-Hoài Chân) và “Nhà Văn hiện đại” (của Vũ Ngọc Phan) cũng không có lấy một bài giới thiệu về bà. Nhà thơ Thẩm Thệ Hà đã từng than thở: “Điều làm cho ta ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế!”. Có lần tôi đem câu này hỏi bà. Bà cười: “Cậu đi mà hỏi ông Hoài Thanh ấy”. Dạo ấy ông Hoài Thanh đã qua đời, nhưng vẫn còn Hoài Chân. Có lần tôi tới thăm Hoài Chân, lúc ấy ông đã yếu nhiều. Tôi hỏi, ông không trả lời mà nhũng nha nhũng nhẵng ngâm 2 câu Kiều: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Có lẻ Hoài Chân nói đúng! Tài sắc vẹn toàn đến như bà không chỉ đồng loại ganh tỵ với bà mà “trời đất cũng phải ghen tỵ”. Hôm ấy bà đã đọc, rồi bình cho tôi nghe rất nhiều về thơ bà. Tôi ghi chép đầy cả cuốn sổ tay. Giọng vang. Không chút nhầm lẫn. Một trí nhớ tuyệt vời. Sau này, cứ lâu lâu tôi lại ghé thăm bà. Lại vẫn đốt hương trầm, rót rượu mời khách và đọc thơ. Và cũng từ hôm ấy, cứ vào dịp cuối năm tôi lại tới thăm bà. Lần nào cũng vậy, bà vẫn mặc đẹp, thoa chút phấn sáp, lấy thỏi son tô lại làn môi, đeo chuỗi hạt ngọc, đốt chiếc lư trầm, đợi khói bốc lên, rót hai chén rượu và... chuyện thơ, văn. Và rồi cũng chưa bao giờ ngồi lại được với bà lâu. Lại những người khách đến. Không từ chối tiếp ai được: "Khổ một nỗi toàn là khách văn chương". Khách quen đã nhiều mà khách lạ cũng lắm. "Một tài thơ thiên phú!" Nữ sĩ Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình Nho học 5 đời thờ Phật. Truyền thống văn chương của dòng họ ảnh hưởng rất sớm tới nhân cách của Ngân Giang. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ. Ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du. Cha bà theo ông nội học chữ Hán, chơi đàn nguyệt nổi tiếng kinh thành. Tuy nhiên cái nghề sống chính của dòng họ này lại là nghề thêu ren và bốc thuốc bắc. Đỗ Thị Quế lớn lên với “Truyện Kiều”, “Hoàng Trừu”, “Quan Âm Thị Kính”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Nhị Độ Mai”... Chính vì vậy mà năm mới lên 6 tuổi, một lần theo người bà bác ra ga, nhìn những con tàu, Đỗ Thị Quế đã thốt lên: "Tàu về rồi tàu lại đi Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga" "Một tài thơ thiên phú!" - người bác bỗng thốt lên. Từ đấy bà đã dạy cho cô cháu của mình cách làm thơ, phú, dịch Đường thi mà bà ưa thích. Năm 1924, lên 8 tuổi, Đỗ Thị Quế đăng bài thơ đầu tiên "Vịnh Kiều" với bút danh Nguyệt Quyên trên tờ “Đông Pháp”. Sự phát tiết quá sớm của một tài thơ tất khó tránh khỏi khổ lụy. Đọc sách Phật, thấy dạy nhiều điều thiện, bé Quế thấy mình có tội quá nhiều. Thế là vào một chiều khi "hoa lan rụng trắng sân đình", cô bé Đỗ Thị Quế đã gieo mình xuống Hồ Tây. May thay người nhà phát hiện kịp đưa bé về nhà. Năm ấy Đỗ Thị Quế mới tròn 9 tuổi. Quế tiếp tục làm thơ. Từ năm 1929 đến năm 1931 viết cho báo “Trung Bắc Tân Việt” với bút danh Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế. Năm 1932 cho in cuốn "Giọt lệ xuân" tại nhà xuất bản Tân Dân. Danh tiếng Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế bắt đầu được mến mộ. Đến khi nhật báo “Phụ Nữ Thời Đàm” dành hẳn môt trang để giới thiệu “Giọt lệ xuân” với nữ sĩ tí hon Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế thì tiếng tăm của Đỗ Thị Quế đã nổi khắp kinh thành. Năm ấy Đỗ Thị Quế vừa độ tuổi trăng tròn. Tài thơ phú bẩm sinh, sắc đẹp diễm kiều, lại đàn hay, họa giỏi, thêu thùa rất khéo, Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế đã trở thành niềm mơ ước của biết bao tài danh đất Bắc Hà. Nhưng mà như Phạm Quý Thích đã từng nói: "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy". Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế cũng không thoát được cái vòng trầm luân ấy. Dường như bà cũng ý thức được điều ấy. Trong bài “Hoài cảm”, từ thuở ấy, bà đã viết: "Mỗi bước chân đi, mỗi bước sầu, Trăm năm thân thế gửi về đâu". Hiểu rõ con gái mình, ông đồ Nho Đỗ Hữu Tài muốn Quế sớm yên bề gia thất. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình lẩn trốn. Biết khó bề khuyên bảo, ông đồ Nho đuổi đánh, đập nát 3 giàn hoa thiên lý, Đỗ Thị Quế đành phải bò ra cúi lạy cha xin chịu vâng lời. Thế là bóng dáng chàng "hiệp sĩ" cách mạng mặc áo choàng đen mới kịp hiện hữu trong trái tim mẫn cảm của nàng thi sĩ tuổi trăng tròn đã trở thành dang dở. Lên xe hoa về nhà chồng nàng quay đầu về phương trời nơi người ấy ra đi, tạ tội: "Ngày chửa sang thu đã thấy buồn Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn Trời không mưa gió lòng mưa gió Người ở đầu thôn mộng cuối thôn". Nhưng rồi tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của bà. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao liên cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi. Năm 21 tuổi nữ sĩ cho xuất bản cuốn "Duyên văn", rồi vào Sài Gòn viết cho “Điện tín nhật báo” và “Mai” của Đào Trinh Nhất. Một thời gian sau đó, nữ sĩ quay ra Bắc viết cho “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Phổ thông bán nguyệt san”, “Đàn bà”... Năm 1939 "Trưng nữ vương" ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp văn chương của nữ sĩ: tên tuổi của bà đã vang vọng từ Nam ra Bắc và bốn năm sau đó tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân” với bút danh Ngân Giang ra đời đã đưa Ngân Giang lên vị trí những người được yêu thích nhất trên thi đàn Việt Nam. Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ. Ngân Giang bị cuốn theo dòng thác cách mạng. Nữ sĩ hô hào cổ vũ cho cuộc kháng chiến. Để tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc, Hồ Chí Minh, Ngân Giang đã đem hết cái tài thêu thùa được học từ thuở nhỏ, thêu cả một bài thơ "Kính dâng các bậc anh hùng", trong đó có những câu đầy khí phách "Ta say uy võ Trần Hưng Đạo, ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và dâng lên ông Hồ. Cảm động trước bầu nhiệt huyết của nữ sĩ, Hồ Chí Minh khen: "Mấy lời cảm tạ Ngân Giang Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" Ngơ ngác phương trời con én lạc Do đòi hỏi cấp bách và chiến lược lâu dài của cuộc kháng chiến, Bộ chỉ huy của cách mạng Việt Nam dời về Việt Bắc. Ngân Giang cũng hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. "Thân gái bơ vơ giữa dặm trường. Muôn vàn mối đe dọa, cám dỗ" - Ngân Giang nhớ lại. Rồi thì cũng phải tìm chốn nương thân. Trong số những người tìm đến bà chọn con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ. Công bằng mà nói, ở mức độ nào đó, bà có lý. Chẳng thế mà, có lần, với tư cách là con dâu tuần phủ, nữ sĩ vào được tới tận sào huyệt của quân Tưởng cứu được nhiều trinh sát Việt Minh thành. Trong số đó có cả nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Sống trong lòng địch mà lòng nữ sĩ vẫn hướng về Việt Bắc: “Gác xép mơ màng tin quốc sự Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau” Cách mạng thành công, hòa bình lập lại, Ngân Giang bắt đầu bị quên lãng. Tên tuổi và thơ văn của nữ sĩ không được xuất hiện trên sách báo, mặc dù những người yêu thơ từ Nam chí Bắc vẫn truyền tay nhau chép thơ bà. Cái chân cán bộ văn hóa quèn của bà cũng bắt đầu bị lung lay. Và năm 1957, ở tuổi 41, Ngân Giang nữ sĩ nổi tiếng đã buộc phải rời khỏi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. "Ra khỏi biên chế nhà nước thời bấy giờ là chuyện kinh khủng" - Ngân Giang nhớ lại. Đi đâu, làm gì để nuôi sống bản thân và gần chục đứa con đây? Với tâm trạng cô miên nữ sĩ thốt lên: "Ngơ ngác phương trời con én lạc Chập chờn khung cửa cánh hoa nghiêng" Tuyệt vọng, không còn biết bấu víu vào đâu, Ngân Giang cầu cứu Hội Nhà văn, rồi Nhà xuất bản của Hội để may ra kiếm được một công việc gì đấy: biên tập, morat, đóng bìa sách, thậm chí là rửa cốc chén, dọn vệ sinh... miễn là có việc, có lương. Viết đơn, chờ đợi. Lại viết đơn. Đến lần thứ 10, không chờ được nữa bà chạy tới "cạy cục" nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu thương bà lắm, nhưng rồi ông cũng chỉ biết thở dài: "Khổ quá, tôi là thiểu số!", sau khi đã vò đến nát đầu, gãi đến đỏ tai. Tuyệt vọng đến cùng cực, "chết không được đành phải sống". Ngày ngày nữ sĩ ra bãi sông Hồng quét là khô để bán, tối về đi rửa bát, chai lọ thuê. Làm quần quật cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho 10 đứa con sống lay lắt qua ngày. ông Tú Mỡ, thủ quỹ Hội Nhà văn lúc bấy giờ thương tình ứng trước cho bà 20 đồng với điều kiện: "Hết tháng phải trả nợ cả gốc lẫn lãi bằng... thơ". Cụ Tú thương mà làm vậy, chứ thực tình cụ thừa biết suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm cơm, kiếm cháo thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện văn chương. Mà có trả vốn và lãi bằng thơ cho cụ thì đăng ở đâu bây giờ? Cũng không thể ngờ được rằng cuộc sống bằng nghề quét lá ấy kéo dài tới 10 năm, và kết quả là: "Mười năm quét lá bên sông Hình hài để lại cái còng trên lưng" Bạn bè, những người yêu thơ Ngân Giang đến thăm bà, không ai cầm được nước mắt. Nhưng vận may có lúc cũng mỉm cười với nữ sĩ. Nhờ tài thêu ren từ tấm bé, Ngân Giang được nhận vào Hợp tác xã thêu ren Song Hỷ. "Chiếc kim chiếc bút vui ngày tháng Nào có ham gì miếng ngọt ngon" Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng tồn tại chẳng được bao lâu. HTX phát động phong trào "phê bình và tự phê bình". Bà hăm hở hưởng ứng "chống tiêu cực, tố cáo kẻ tham ô" và kết quả là bị đuổi ra khỏi HTX vì "gây rối trật tự công cộng. Bôi xấu cán bộ lãnh đạo". Thế là nữ sĩ lại bơ vơ. Giờ thì không còn đủ sức để quét lá, rửa bát, chai lọ thuê nữa rồi. Bà ra đường mở quán bán nước: "Một quán bên sông cuối phố nghèo Miếng trầu bát nước có bao nhiêu" Khổ một nỗi vốn liếng đã ít, khách thì phần đông lại là bạn văn chương "thừa tình cảm nhưng lại chẳng có tiền". Biết làm sao được. Rồi hy vọng cứ nhạt nhòa theo năm tháng: "Sớm tối dăm ba đồng vốn liếng Tháng ngày dăm bảy khách văn chương Ôi năm cứ hết, xuân không hẹn..." Cuộc sống cứ kéo dài, và nữ sĩ vẫn ngày ngày: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước lệ đầy khăn". Tuy nhiên bất chấp khó khăn níu kéo, bất chấp miệng tiếng thị phi. Nữ sĩ không những tỏ ra có nghị lực mà con đầy phách lực, bà cứ thản nhiên, nhi nhiên sống và chiêm nghiệm: "Sớm khuya ngâm ngợi câu thành bại Dưa muối đôi chiều cũng thấy ngon" Quả thực nếu chỉ quẩn quanh vì chuyện áo cơm và những bất hạnh chồng chất hẳn nữ sĩ không tài nào đứng vững được. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002) có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 4.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ nước nhà (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Ngày tháng rồi sẽ qua đi. Những bất hạnh của cuộc đời sẽ lùi dần vào quá khứ. Nhưng sự nghiệp văn chương của bà sẽ còn được nói đến: "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang Một dòng sông lạnh muôn vàn sao rơi". Mối tình si Theo nữ sĩ Ngân Giang thì bà có khá nhiều người mê, có người si mê. “Bây giờ vẫn còn có người mê đấy”- có lần bà bảo với tôi như vậy. Lúc ấy bà đã 80 tuổi. “Người ta mê nhau là vì cái tài, chứ sắc thì nay hết rồi”- bà bảo. Trong nhân gian người ta hay đồn nhiều về chuyện thi sĩ-nhà giáo Đông Hồ chết trên bục giảng khi đang bình thơ bà. Đó là khi ông bình bài thơ “Trưng nữ Vương”, một trong những bài thơ được coi là hay nhất của Ngân Giang. Người ta coi nó là tuyệt tác là bởi: Từ trước tới nay, hình tượng hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) nói chung và Bà Trưng Trắc nói riêng đã nhiều lần đi vào văn, thơ, nhạc, họa. Song đằng thẳng mà nói, ở thể loại thơ, hiếm có tác phẩm nào thể hiện được hình ảnh Bà Trưng Trắc đẹp một cách quyền quý, đài các như trong "Trưng nữ vương" của Ngân Giang. Có thể với những câu chữ đầy hình ảnh ước lệ, kiểu như: "khóe hạnh", "bóng sao rơi", "chim bằng", "đường kiếm mã", "gót ngọc"…, ta sẽ thấy "không gian thơ hơi ca kịch" (như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét), song thiết nghĩ, chúng ta từng quen với một hình ảnh Bà Trưng Trắc mộc mạc, dân dã trong "Đại Nam quốc sử diễn ca" từng một thời được đưa vào sách giáo khoa (Bà Trưng quê ở Châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân/ Ngàn tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành/ Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta/ Ba thu gánh vác sơn hà/ Một là báo phục, hai là Bá vương…) thì cũng nên biết đến một hình ảnh Bà Trưng Trắc trong phong thái của một vị nữ vương đài các. Thật hiếm có câu thơ nào tả được nỗi cô đơn bi tráng của vị Nữ vương trong khi vừa để tang chồng vừa mưu đền nợ nước đẹp và ấn tượng như mấy câu thơ này “Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi” và: “Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời”. Đặc biệt, hình ảnh xuất hiện ở đoạn kết bài thơ cùng với tiếng than não ruột đã nâng tầm bài thơ lên thành một bản "anh hùng ca" kết hợp với "tình ca". Cái đẹp, cái mới trong tâm hồn một nữ thi sĩ sống ở thế kỷ XX đã nhập vào tâm hồn của một nhân vật lịch sử sống cách đó hai chục thế kỷ, khiến tâm thế nhân vật trở nên sống động, gần gũi hơn với độc giả thời nay. Và đó là một trong những thành công của bài thơ. Không phải ngẫu nhiên mà với khổ thơ kết bài: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi… Người ta kẻ lại rằng, vào ngày 25 tháng 3 năm 1969, trong khi đang bình bài thơ này cho các sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn cùng thưởng thức, đọc đến câu: “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi” và ông mới thốt lên: “Chàng ơi....” thì ngất xỉu ngay trên bục giảng, để rồi sau đó ít giờ, ông vĩnh viễn giã biệt thế gian. Cái chết của thi sĩ - nhà giáo Đông Hồ trong lúc trình diễn bài thơ của nữ sỹ Ngân Giang được xác định là do chấn động tâm lý, dẫn tới cơn tai biến mạch máu não. Đây được xem là một trong những giai thoại văn chương đẹp nhất từ trước tới nay. Sau này tôi có đem câu chuyện này kể lại cho bà nghe, bà ý nhị bảo, bà cũng chỉ nghe người ta đồn thổi thế thôi. Một tuần trước khi bà qua đời, tôi và một nữ đồng nghiệp đến thăm bà. Bà đã rất yếu, người cháu dìu bà ngồi lên xe lăn. Giọng đọc thơ của bà ngắt quảng sau những cơn thở dốc. Khi ra về bà cứ nắm mãi tay chúng tôi như không muốn rời. Khi chúng tôi đã đi ra cuối ngõ, nhìn lại vẫn thấy bà ngồi trên xe lăn trước cửa. Bà đưa tay lên định vẫy nhưng dường như cánh tay đã “không chịu nghe” bà. Ngày 17/8/2002 bà đã trút hơi thở cuối cùng mang theo tất cả những vinh quan và cay đắng mà bà “được” và “phải” gánh chịu trên thế gian này. Lê Thọ Bình
    3 likes
  5. Chết vì thiếu hiểu biết. Híc. Cũng có thầy theo phoengshui Tàu đến mần rùi đấy chứ. Cũng nước phun loe ngoe. Vưỡn chết.
    2 likes
  6. Sự kiện lịch sử 30.4: Nhìn từ nhiều phía Kỳ 33: Việt Nam sau “ly rượu mừng” giữa Richard Nixon với Mao Trạch Đông Đăng Bởi Một Thế Giới 07:13 21-07-2015 Sau ngày Mao và Nixon bắt tay, Trung Quốc và Mỹ thay nhau gây nên cảnh chết chóc, cửa nát nhà tan ởcả hai miền Nam – Bắc Việt Nam… Tổng thống Thiệu và tổng thống Mỹ Nixon. Rời Bắc Kinh về Washington, tổng thống Mỹ Nixon đưa một lực lượng không quân và hải quân hùng hậu trút hơn 20.000 tấn bom rải thảm Hà Nội – Hải Phòng và nhiều nơi khác ở miền Bắc Việt Nam làm ít nhất 2.000 người chết trong vòng 12 ngày đêm của mùa giáng sinh 1972. Đức Giáo hoàng và các nhà hoạt động nhân văn trên thế giới chỉ trích Nixon mạnh mẽ. Phần Mao Trạch Đông chỉ phản ứng “chiếu lệ” vì Mao đã xem Nixon là “người bạn mới” đang cùng Mao toan tính “thay đổi thế giới” (chữ Nixon dùng lúc nâng cốc trong buổi tiệc từ giã Bắc Kinh đêm 27.2.1972). * ĐÁNH PHÁ MIỀN BẮC – CẮT VIỆN TRỢ MIỀN NAM: Để tiến hành cuộc đánh bom hủy diệt trên, theo Linebacker: Karl J. Eschmann – The Untold Story of the Air Raids Over North Vietnam, Nixon đã huy động: - Gần 50% số máy bay ném bom chiến lược B.52 của toàn bộ không lực nước Mỹ (197 trên tổng số 400 chiếc). Thực tế xuất kích 741 lần/chiếc. - Gần một phần ba (1/3) số máy bay chiến thuật của toàn lực lượng quân sự nước Mỹ (1.077 trên tổng số 3.041 chiếc). Thực tế xuất kích 3.920 lần/chiếc - Một phần tư (1/4) số tàu sân bay (6 trên tổng số 24 chiếc), cùng nhiều tàu chỉ huy – dẫn đường, tàu khu trục, tàu tên lửa, tàu rada, tàu bảo vệ, tàu cấp cứu,… - Các tập đoàn không quân số 7 và số 8 (Seventh air force và Eighth air force): trong đó có các liên đội không quân chiến lược B.52 (Strategic Wing) số 43 và 72 đóng tại căn cứ không quân Andersen trên đảo Guam gồm 143 chiếc B.52G, B.52D và liên đội không quân chiến lược số 307 gồm 54 máy bay B.52D đóng tại căn cứ Utapao (Thái Lan). - 6 liên đội không quân chiến thuật (Tactical Fighter Wing) gồm 455 máy bay đóng trên đất Thái Lan (tại các căn cứ không quân Ubon, Korat và Takhli), 2 liên đội gồm 124 máy bay đóng tại miền Nam Việt Nam (Đà Nẵng)” (Dẫn theo cuốn: “Từ Xuân – Hè năm 1972 đến Điện Biên Phủ trên không qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn” – sđd Kỳ 1 – tr.386) Luật gia Joseph Amter, chủ tịch Quỹ tổ chức nghiên cứu hòa bình (The Peace Research Organisation Fund), đồng chủ tịch Hội nghị nghiên cứu và cộng tác quốc tế của Nhà Trắng, viết: “Thật mỉa mai là khi tổng thống Nixon, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai say mê trong các bữa tiệc thịnh soạn ở Bắc Kinh, thì quân đội Mỹ đang đánh nhau ở Đông Dương, hàng nghìn tấn bom đang phá hủy các làng Nam Việt Nam, cũng như các khu vực Bắc Việt Nam và hàng nghìn các người dân Đông Nam Á tiếp tục chết” (Lời phán quyết về Việt Nam – Nguyễn Tấn Cưu dịch, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội 1985, tr.375). Nếu Mao Trạch Đông “nhắm mắt” để Nixon mở đợt tấn công tàn khốc nhằm đưa Bắc Việt Nam về “thời kỳ đồ đá”, thì chỉ một năm sau đến lượt Nixon đáp lễ “làm ngơ” để Mao xua hải quân và không quân Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (19.1.1974). Mao nói trí trá là “để tự vệ”, nhưng “thực chất là xâm lược”, nhằm khống chế Việt Nam từ các vùng hải đảo, tạo bàn đạp độc chiếm biển Đông: “Hành động xâm lược của họ (Trung Quốc) có tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ Graham Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Và, hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa” để mặc quân Mao tràn vào bắn giết người Việt Nam (trích công bố của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN - Hà Nội 4.10.1979: “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” – Văn kiện dày 108 trang - tr. 25). Cũng năm đó (1974), trên tiến trình “thỏa hiệp và phối hợp hành động” với Mao, Nixon quyết định cắt xén nguồn viện trợ VNCH mạnh tay hơn nữa, tới mức “cạn tàu ráo máng” (chữ TS Hưng dùng) buộc tổng thống Thiệu không được sử dụng tiền do Quỹ đối giá (phát xuất từ viện trợ kinh tế đổi sang tiền Việt) để tài trợ ngân sách quốc phòng, trả lương cho quân đội (gồm 1.200.000 quân nhân) và cảnh sát (với lực lượng 120.000 người): “Lúc đó, nếu biết được đến nông nỗi ấy, thì liệu quân dân miền Nam nghĩ sao? Vì vậy, tin trên (giấu nhẹm) không được phổ biến” (…) Đến nay, ta có thể đặt lại câu hỏi: vậy (nếu tồn tại sau 1975) thì bắt đầu từ năm 1976 trở đi chính phủ VNCH lấy tiền đâu mà trả lương cho quân đội, cảnh sát?”. Có lẽ họ sẽ phải “cố gắng tan hàng” thôi (TS. Nguyễn Tiến Hưng – Khi đồng minh tháo chạy, sđd Kỳ 2, tr. 457). * VÌ SAO MỸ DỨT KHOÁT BỎ RƠI VIỆT NAM CỘNG HÒA? Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH, nhận định: “một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6.1975 nếu không nhận được quân viện phụ trội”, chưa kể “thực phẩm, quần áo, thuốc men, băng cứu thương cho quân đội, cũng như nhu cầu sinh sống của gia đình họ (lấy đâu ra)?” (TS. Nguyễn Tiến Hưng, sđd như trên). Nguyên do nào khiến Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH? Theo TS. Nguyễn Tiến Hưng(1) vì: “Quyền lợi của Mỹ ở Việt Nam đã không còn nữa”. Ông dẫn chứng về hai trường hợp giống nhau cùng được Mỹ ủng hộ, viện trợ (Israel và Nam Việt Nam) nhưng đã và đang đón nhận hai số phận khác nhau: 1. Sau Thế chiến thứ hai (1945), Mỹ giúp thành lập quốc gia Israel (Do Thái) với tuyên bố độc lập ngày 14.5.1947. Lập tức quân đội của 5 nước Ả Rập (Ai Cập, Syria, Jordan, Lebanon và Iraq) hợp lực tấn công muốn xóa sổ Israel ngay. Mỹ nhảy vào can thiệp, yểm trợ và chính thức công nhận Israel là quốc gia độc lập, có chủ quyền. 2. Ngày 26.10.1955: “nước VNCH được thành lập, Hà Nội nhất quyết đòi hỏi phải tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc (tháng 7.1956) để đi tới thống nhất, theo như quy định của Hiệp định Genève. Tổng thống Diệm, với sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ, tiếp tục bác bỏ. Tổng thống Eisenhower tuyên bố ông có thể “trỏ tay vào quốc gia Việt Nam tự do với niềm hãnh diện”. Nghị sĩ John F. Kennedy (sau này kế vị Eisenhower) còn bình thêm: “Tự do chính trị ở miền Nam (Việt Nam) là một nguồn cảm hứng”. Tính ra, VNCH mai một đã 40 năm rồi (1975 - 2015), nhưng Israel vẫn còn trường tồn, là vì: “Mỹ vẫn còn cần đến Do Thái (Israel) làm tiền đồn để trấn giữ túi dầu ở Trung Đông (cho Mỹ)” nên dù phải gánh chịu những chi phí nặng nề, kể cả một số phản ứng bất lợi ở quốc nội và trên trường quốc tế, Mỹ vẫn chấp nhận, chịu đựng. Thực ra “nếu Do Thái không có Mỹ yểm trợ thì với chỉ vỏn vẹn chưa tới 6 triệu dân, quân đội Do Thái dù có tài giỏi, lãnh đạo dù có sáng suốt, trong sạch, dân chủ gấp mấy lần miền Nam (Việt Nam) đi nữa, thì chắc cũng đã bị toàn khối Ả Rập áp đảo rồi. Ta cứ chờ đến khi nào thế giới không còn cần nhiều đến dầu lửa nữa vì có được những nguồn năng lượng quan trọng khác như ánh sáng mặt trời hay kỹ nghệ nguyên tử lực, thì lúc đó mới biết Do Thái có còn trường tồn được hay không?” (TS. Nguyễn Tiến Hưng, sđd như trên). Nếu hiện nay “tiền đồn dầu lửa” ở Trung Đông (Israel) còn cần thiết, thì “tiền đồn của thế giới Tự do” ở châu Á (Nam Việt Nam - VNCH) lại không cần đến nữa, vì kể từ ngày TT Nixon bắt tay được với Mao Trạch Đông (1972), thì “giá trị của miền Nam (Việt Nam) trong vai trò “ngăn chặn làn sóng đỏ” đã không còn là bao nhiêu trong những tính toán của Mỹ về hơn thiệt (combenefits). Và như vậy, vấn đề còn lại đối với Mỹ chỉ là làm sao rút ra được cho êm thắm, ít bị tổn hại về uy tín là được rồi”. Song bất hạnh ở chỗ con đường triệt thoái của Mỹ sớm “bắt đầu rải đầy xác chết” không bao lâu sau lúc “ly rượu mừng” uống với Mao vừa cạn – Theo The Daily Telegraph 24.3.1975 – Font PTTg, hồ sơ số 3810 – nguồn dẫn từ Kỳ 1: Đọc hồ sơ mật của chính quyền Sài Gòn (còn nữa) Giao Hưởng ================= Cũng sau "ly rượu mừng" này, vấn đề cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến bị một phong trào rầm rộ đòi xét lại để phủ nhận . Và 20 năm sau, khi Liên Xô sụp đổ, quan điểm này chính thức lên ngôi (1992). Hừm! :ph34r:
    1 like
  7. Hơn 300 email cá nhân của Hillary Clinton chứa thông tin tuyệt mật Thứ ba, 18/08/2015 - 13:41 Dân trí Khoảng 305 thư điện tử được lấy từ hòm thư cá nhân của cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, ứng cử viên nặng ký của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2016, có thể đã chứa những thông tin tuyệt mật. Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết. >> FBI điều tra bà Hillary Clinton sử dụng email cá nhân trong công việc Bê bối liên quan đến việc dùng email cá nhân giải quyết việc công đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của bà Clinton (Ảnh: Rightwingnews) Bộ Ngoại giao Mỹ cho biết thông tin trên sau khi lọc được 305 thư từ khoảng 20% số thư điện tử của bà Hillary Clinton thuộc diện cần kiểm tra. Trong số các thư được lọc ra, Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ xem xét kỹ nội dung của từng thư để quyết định xem những bức nào có thể được công khai trước công chúng. “Không nhất thiết toàn bộ hơn 300 bức thư trên đều sẽ phải đánh dấu tuyệt mật. Nhiều khả năng chỉ một số ít trong đó sẽ được xếp vào diện không công khai”, người phát ngôn Bộ Ngoại giao John Kirby nói tại cuộc họp báo. Bà Clinton, gương mặt sáng giá nhất của đảng Dân chủ trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm sau, bị cáo buộc sử dụng địa chỉ thư điện tử cá nhân để giải quyết việc công trong suốt 4 năm giữ chức Ngoại trưởng Mỹ, trong khi đáng lý bà phải dùng địa chỉ chính thức do chính phủ cấp. Bà khẳng định không làm điều gì sai trái trong suốt thời gian đảm đương cương vị Ngoại trưởng Mỹ từ năm 2009- 2013, và việc dùng tài khoản email cá nhân chỉ do “thuận tiện”. Trước đó, vào tháng 12 năm ngoái, bà Clinton đã phải giao 30.000 thư điện tử trong hòm thư cá nhân của bà cho Bộ Ngoại giao Mỹ sau khi một nhân viên giám sát chính phủ tiết lộ đã phát hiện ít nhất 4 bức thư trong tổng số 40 email của bà Clinton có chứa các thông tin mật, trong đó 2 bức chứa dữ liệu "tuyệt mật". Trước sức ép ngày càng tăng, tuần trước, bà Clinton cũng đã nộp server máy chủ cho FBI để phục vụ công tác điều tra. Tòa án Mỹ đã yêu cầu Bộ Ngoại giao phải rà soát toàn bộ thư điện tử của bà Clinton và công việc này phải hoàn tất trước ngày 29/1/2016. Hiện mới chỉ 20% trong số thư được xem xét. Theo quy định, sau khi được lọc ra, những thư điện tử bị nghi ngờ sẽ được chuyển cho Cơ quan Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) để xác định xem có chứa các dữ liệu liên bang và thông tin mật hay không. Chính phủ Mỹ cấm các thành viên gửi thông tin mật ra ngoài hệ thống vì có thể làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia nếu bị tin tặc tấn công. Vũ Anh =============== Lão chẳng bít bà cựu ngoại trưởng Raice thuộc đảng nào? Dân chủ hay Cộng Hòa? Wên rùi! Nhưng lão tin rằng bà Raice ra ứng cử Tống Thống Hoa Kỳ thì thắng cái chắc.
    1 like
  8. Ngân Giang thơ đẹp, người đẹp của muôn người Năm 1978 nhìn nhà thơ Ngân Giang của chúng ta vẫn rất đẹp, vẻ đẹp sang mà quý phái. Sinh ra và lớn lên ở Hà Đông nhưng lại sống nhiều ở Hà Nội, gia đình khá giả, chị theo cách mạng rất sớm. Khi 16 tuổi chị đã được một đồng chí giác ngộ theo cách mạng, cuộc hẹn hò của họ thường ở miếu Ba Cô tại Nghi Tàm (Hà Nội), đó cũng là mối tình đầu chị yêu thầm nhớ trộm một con người “của cách mạng”. Cũng vì thương nhớ người bạn cách mạng, chị đã giấu giữ tài liệu, vào hôm lên xe hoa, chị mang theo cả mớ tài liệu ấy về nhà chồng. Ngày hôm sau “mật thám” đã đến khám, gia đình phải chạy vạy nên chị không bị bắt. Ngay từ năm 1935, chị đã tham gia cách mạng từ đó. Năm 1944 là Trưởng đoàn phụ nữ thành Hoàng Diệu, góp phần xây dựng “Tuần lễ vàng”. Với một dáng vẻ sang trọng, quý phái, chị đã vào giải cứu một số đồng chí trinh sát thành bộ bị bắt giam tại Ôn Như Hầu (trong đó có nhạc sĩ Đỗ Nhuận). Những tháng năm sau chị được phân công chuẩn bị lương thực cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Tôi nhớ rất nhiều lần chị kể với tôi gia đình chị quyên góp bằng vàng. Số vàng ấy quy ra gạo cũng chất hàng toa xe lửa (ngày ấy ai ai cũng tính ra gạo để quyên góp cho cách mạng, đó là lòng yêu nước của tầng lớp thương gia). Trong giai đoạn sau của cuộc kháng chiến chống Pháp, chị công tác tại Sở Tuyên truyền khu vực I (Thái Nguyên). Cuối 1949, chị biệt phái về thủ đô cho tới ngày hòa bình. Lần gặp gỡ sau này giữa tôi và chị, khi tôi hỏi sao lúc đó chị không làm việc ở một cơ quan nào đó cho đời sống ổn định hơn khi mà chị rất đông con, chị trả lời: “Thời ấy đón đoàn quân về Hà Nội là mừng đến chảy nước mắt và thế là thành người dân xứ “Độc lập”. Ta mừng ta hát, ta làm ta ăn là sung sướng. Có biết đâu sau này lại có một lớp cán bộ nhà nước được sống khá hơn”. Lời nói của nhà thơ Ngân Giang rất đúng như bài thơ chị đã làm năm đó: Năm cửa ô cùng lên tiếng hát Đón muôn nhịp bước chín thu ròng Đã khơi nguồn sống trong dân tộc Đẹp cỏ hoa và đẹp núi sông. ... Hà Nội tưng bừng hồn Tổ quốc Thét lên thành nhạc, nói thành thơ ... Lắng bước anh hùng trong tiếng nhạc Nghe hồn thiêng dân tộc dẫn đường về…(Chín mùa trông đợi) Một lần đi họp ở Hội Văn nghệ Hà Nội, tôi mời chị ăn phở ở Lý Quốc Sư, hai chị em nói chuyện say sưa quá đà, chị lại đứng lên đọc lại bài Trưng Nữ Vương: Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa, Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai! Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi Lạc tướng quên đâu lời huyết hận Non Hồng quét sạch bụi trần ai Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời. Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi…(Trưng Nữ Vương, 1934) Chị càng đọc, đôi mắt càng sáng, người và lời thơ như bay lên giữa Hà Nội. Tôi hình dung 1934 khi bài thơ Trưng Nữ Vương ra đời như một quả bom tấn nổ giữa trời Hà Nội. Một lần nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói ở lớp học chúng tôi: “Khi bài thơ của Ngân Giang ra đời, chúng tôi tìm đọc và càng muốn tìm đọc vì đó là bài thơ đầy khí tiết của một nữ sĩ được ra đời giữa Hà Nội”. Nhà thơ Ngân Giang, người đứng thứ ba từ trái sang phải, chụp cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhâ Đại hội Hội Nhà văn lần thứ V . Nếu ngồi nói chuyện với chị, đến thơ ca, chị như người lên đồng cứ lúng liếng, đọc hết bài thơ này sang bài thơ khác. Chị ít kể về thời hoạt động của mình, chỉ một lần duy nhất chị nói: “Chị đã được gặp Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch”, nói xong chị ca ngợi Chủ tịch đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Những năm đó tôi còn làm ở tổ thơ của báo Văn Nghệ, chị cho con mang đến cả một xấp thơ chị viết trên giấy trắng, những bài thơ hầu như ít được đăng, nên tôi hay tìm để trả về cho chị (thời đó chưa có phô-tô, nên thơ viết ra rất dễ bị mất). Khi được gặp nhà thơ Anh Thơ, câu chuyện của tôi và chị Anh Thơ hay xoay quanh chủ đề về Ngân Giang: “Khi mình còn nhỏ được đến nhà của chị Ngân Giang ở Hà Đông, chị đẹp, sống sang trọng trong một ngôi nhà giàu có với đầy đủ sập gụ tủ chè”. Với Ngân Giang, Anh Thơ phục về tài và sắc. Trong suốt cuộc đời vất vả của Ngân Giang, Anh Thơ luôn luôn ở bên giúp đỡ. Khi căn nhà được cấp ở Bách Khoa (do anh em báo chí, báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn đấu tranh cho chị được phân ở) chị bán nhà được phân, mua đất ở ngoài bãi Yên Dũng (Hà Nội) dựng nhà. Sau này chị cũng được Hội Nhà văn trợ cấp khó khăn, trợ cấp sáng tác, nhưng cũng chỉ là đỡ dăm bảy bữa cho bớt một phần nhỏ khó khăn. Căn nhà số 48 (trước là nhà số 3) ở Nghĩa Dũng có hai khóm trúc Phật Bà trồng trước cửa, một thời chị cũng bán trà chén sống qua ngày: Còm cõi bên sông tóc úa dần Tay nâng chén nước lệ đầy khăn Bữa cơm rau muống chia từng ngọn Giấc ngủ giường tre đêm khắc lần.(Quán mưa bãi vắng, 1976) Cuộc sống sau này của nhà thơ càng vất vả khi tuổi ngày càng cao. Cuộc đời làm thơ của chị đã cho ra đời các tác phẩm:Những người sống mãi (thơ in chung, 1931), Giọt lệ Xuân (thơ, 1931), Tiếng vọng sông Ngân (thơ, 1944), Thơ Ngân Giang(1990, 1994), Tuyển tập thơ Ngân Giang (1996). Trong đó có: Thơ Ngân Giang in 1996 do một giám đốc bao bì là Hồ Ngọc Chương in cho chị 3000 quyển không lấy tiền. Chị Lý Thị Trung có nhờ các anh Đàm Quang Trung, sau đó là Mạc Văn Trọng (Giám đốc Thư viện Quân Đội mua hộ 1000 quyển phân cho bộ đội có thơ Ngân Giang đọc). Còn lại chị bán lắt lay mãi sau này. (Ban Nhà văn nữ thường họp ở nhà chị Phan Thị Thanh Nhàn, khi họp xong chúng tôi thường nhắc tới việc thăm chị Ngân Giang. Chị Cẩm Lai và chị Lý Thị Trung thường nhắc chúng tôi tới thăm thì nên mua gạo chở đến cho chị để có cái ăn dài dài (đó là những năm 1997, 1998, 1999, 2000, mà chị vẫn còn thiếu gạo). Riêng chị Cẩm Lai mỗi lần đến thăm là đưa gạo, chị Lý Thị Trung thì chuẩn bị thức ăn. Tình thương của các chị nó gắn rất chặt với đời sống thực tế và cũng là thương nhau lắm lắm, mặc dù tuổi cao mà luôn nhớ thương nhau. Còn sự giúp đỡ của các cơ quan quanh Hội Nhà văn, Tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, bạn bè cũng chỉ vơi đi một chút khó khăn thường nhật. Những năm đó chúng ta chưa đưa vấn đề nghèo khó của văn nghệ sĩ ra cho toàn xã hội cùng tham gia góp sức giúp đỡ. Giá chị sống đến bây giờ thì sẽ có nhiều bàn tay giúp đỡ chị hơn khi mà vấn đề người nghèo và sức khỏe của người khó khăn được toàn xã hội quan tâm đến. Chị sống ở Hà Nội nhưng cũng đổi nhiều chỗ ở như gác 3, số 175 Bà Triệu, Bách Khoa, nhà 48 Nghĩa Dũng. Chị mất năm 2002 vào mùa mưa ở bãi Nghĩa Dũng, căn nhà có hai khóm trúc trước nhà ngập cùng bãi sông Hồng, bà con phường Nghĩa Dũng và gia đình đẩy chị trên một chiếc trõng tre đưa lên bờ đê sông Hồng rồi mới chuyển vào nhà tang lễ Phùng Hưng. Chị ra đi trong khi nước sông Hồng tràn vào nhà, bà con nâng chị trên tay cùng sông nước, những cảnh đó ít người biết đến. Nhưng ngày truy điệu thì đông vô cùng, dân chúng mến mộ thơ chị đến đặt vòng hoa tưởng niệm. Chị không làm ở một cơ quan nào khác, nhưng người yêu thơ chị tự bỏ tiền túi mua hoa viếng một nữ sĩ tài hoa, một nữ sĩ đẹp người, đẹp cả tâm hồn. Hình ảnh một nhà thơ lên ngâm thơ, chị múa cùng thơ, chân tay đeo rất nhiều vòng, cổ đeo chuỗi hạt lấp lánh mà công chúng thủ đô đã được xem trên ti-vi, trên bục thơ còn đọng lại trong lòng họ. Không mấy ai biết chị sống cơ cực ra sao, nhưng mỗi chúng ta đều ngầm hiểu chị đã suốt đời say thơ, cống hiến cho độc giả những vần thơ hay nhất của mình. Ngược lại công chúng yêu thơ luôn luôn yêu chị về những bài thơ mà Ngân Giang đã “làm thức tỉnh mọi người, thức tỉnh cả Hà nội, nhờ bài thơ Trưng Nữ Vương của Ngân Giang” (lời của Nguyễn Tuân). Chị đã đi xa chúng ta 8 năm, nhưng suy nghĩ về văn chị đã viết: “Tuổi cầm bút của tôi gần bằng tuổi đời. Những truân chuyên điêu đứng của tôi lại hơn cả tuổi đời và tuổi cầm bút. Tôi chỉ có một chủ trương: Phục vụ dân tộc, xã hội; sẵn sàng quật khởi chống lại bạo lực, giai cấp bóc lột, thống trị, tha thiết hy sinh cho xã hội, dân tộc, nhân loại, hòa bình. Trong tôi, luôn là một tình cảm, một tâm hồn xa với quyền và lợi. Tôi yêu quê hương, yêu xã hội vô cùng. Cho nên, dù những năm tháng qua tôi sống rất khó khăn nhưng cuối cùng tôi tồn tại… Tôi luôn biết hy vọng ở tương lai”. Đây cũng là tâm huyết của một cây bút đã bảy mươi năm làm thơ yêu nước, đọc xong chúng ta ngẫm nghĩ được rất nhiều điều trong đó. Theo: http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/2582-ngan-giang-tho-dep-nguoi-dep-cua-muon-nguoi-.aspx ============================================================================ Nhân dịp kỷ niệm 13 năm (17/8/2002 -17/8/2015) ngày mất của Thi Sĩ Ngân Giang, cũng là Mẹ của Sư Phụ Thiên Sứ, con mới có dịp xem các bài báo viết về Bà, đọc các bài thơ mà Bà đã viết. Một nhà thơ tài năng, sao mà khổ quá: Trích: " Còm cõi bên sông tóc úa dần Tay nâng chén nước lệ đầy khăn Bữa cơm rau muống chia từng ngọn Giấc ngủ giường tre đêm khắc lần". (Quán mưa bãi vắng, 1976)
    1 like
  9. Rúp Nga lại lao đao vì giá dầu 18/08/2015 07:26 (TNO) Rúp Nga vừa chạm đáy nửa năm, xuống còn 65,7 RUB đổi 1 USD, trong bối cảnh Moscow tiếp tục gặp khó vì giá dầu hạ thấp và các lệnh trừng phạt không thuyên giảm. Tổng thống Nga Vladimir Putin - Ảnh: AFP Theo CNN, bản tệ nước Nga giảm 1,3% xuống còn 65,7 RUB ngang giá 1 USD hôm 17.8. Sau đó, đồng tiền này có phục hồi một chút lên mức 65,5 RUB đổi được 1 USD. Đây là mức giá thấp nhất trong vòng 6 tháng qua của rúp Nga. Ngân hàng trung ương Nga đã ngừng mua dự trữ ngoại hối trong tháng 7 với hy vọng ngăn chặn đồng rúp không tuột giá sâu hơn nữa. Song động thái này không mang lại kết quả: RUB vẫn giảm 44,8% giá trị so với USD trong năm ngoái và 12% giá trị trong tháng qua. Nội tệ Nga bị tác động mạnh bởi giá dầu lao dốc. Một nửa nguồn thu của chính phủ đến từ ngành công nghiệp dầu khí. Ngân sách nước này dựa trên giả định giá dầu ở mức 50 USD/thùng hoặc cao hơn. Giờ đây, dầu đang được giao dịch ở mức 42 USD/thùng, tròn một năm sau khi đạt đến giá 115 USD/thùng mùa hè năm ngoái. Ngoài giá dầu giảm mạnh, Nga cũng đang đối mặt với các lệnh trừng phạt từ phương Tây áp đặt lên nước này vì căng thẳng ở Ukraine. Hai yếu tố trên tạo nên tác động kép, đẩy nền kinh tế Nga vào suy thoái sâu lần đầu tiên kể từ năm 2009. Kinh tế Nga sụt giảm 4,6% trong quý 2/2015, mức giảm mạnh nhất kể từ thời khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo GDP của Nga sẽ sụt giảm 3,4% trong năm nay và hơn 1% trong năm sau vì tiền lương đi xuống, chi phí đi vay cao hơn và nhu cầu nội địa bị tác động bởi niềm tin suy giảm. Lệnh cấm vận thực phẩm mà Moscow dùng để trả đũa phương Tây góp phần tạo nên lạm phát cao ở nước này, đạt đến 16% trong tháng 7. Cùng ngày, giá dầu WTI giao tháng 9 kết phiên giao dịch đầu tuần ở mức 41,87 USD.thùng, giảm so với ngày 14.8. Tại London, dầu Brent giao tháng 10 dừng với 48,74 USD/thùng, theo Reuters. Thu Thảo ================== Sự sụt gía đồng tiền của Nga vì hoàn cảnh khách quan, cũng chẳng khác gì sự sụt giá tự nguyện của đồng Nguyên Trung Quốc. Chiến tranh kinh tế đã bắt đầu từ lâu rùi và lão Gàn cũng nói từ lâu rùi, ngay từ khí giá dầu còn cao ngất ngưởng. Tuy nhiên, lão Gàn duyệt kịch bản này như là một biện pháp nhân đạo trong "canh bạc cuối cùng", thay thế cho một cuộc chiến tranh nóng. Tuy nhiên, lão xác định lại rằng: Quyết định cuối cùng vẫn thuộc về Thượng Đế.
    1 like
  10. Bài viết rất hay, hôm nay cháu mới biết chú thiên sứ có một người mẹ tài hoa như thế, xin được một lần cúi đầu trước cụ
    1 like