-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 17/08/2015 in all areas
-
Quán vắng!
tuấn dương and 4 others liked a post in a topic by vandung689
Thành kính phân ưu, xin thắp nén nhang tưởng nhớ nữ sĩ Ngân Giang - Thân mẫu của Sư phụ Thiên Sứ, nhìn ảnh cụ giống có nét rất giống Sư phụ. Hì! 13 năm ngày mất của nữ sĩ Ngân Giang (17/8/2002-17/8/2015): “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen…” Dân trí Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Cuộc đời bà là chuỗi những thăng trầm: đầy vinh quang, nhưng cũng không ít cay đắng. “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...” Tôi quen bà là khi mới chập chững bước vào nghề báo, còn bà thì đã được nhân gian đúc xong pho “Tượng vàng thi ca”. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tìm đến nhà bà, bà hỏi: “Sao biết đường mà tìm đến đây?”. Tôi đọc hai câu thơ của bà: “Trước cửa vài khóm trúc/ Gió về bay phất phơ”, bà cười lớn: “Cậu này ranh thật!”, Tôi chả hiểu là bà khen hay chê. Căn phòng bà ở ngoài bãi Nghĩa Dũng (ngoài đê Sông Hồng, Hà Nội) chật chội, nhưng bà bảo chả bao giờ vắng khách. Bà kêu cô cháu gái lấy cho bà mấy thanh hương trầm. Bà cho vào chiếc lư đồng, đốt lên. Chờ cho hết khói, hương thơm phảng phất bay. Bà lấy ra cút rượu, rót vào hai cái ly con. Bà đưa cho tôi một ly. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ bà: bà mặc áo lụa vàng-hồng, bên ngoài khoác áo len mỏng màu tím than, cổ khoác chiếc khăn voan mỏng, mặt thoa phấn sáp nhẹ, môi hồng. Điều làm tôi ngạc nhiên là mặt bà hầu như không có nếp nhăn, mặc dù đã ở cái tuổi “cổ lai hy”. Người đời kể lại rằng, ở lứa tuổi trăng tròn bà là niềm mơ ước của rất nhiều tao nhân mặc khách. Gái Hà Nội, tài sắc vẹn toàn, công-dung-ngôn hạnh, lại nổi tiếng khắp kinh kỳ. Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, Về đi, vường ruộng ngát hương say... (Thơ Ngân Giang) So với những tài danh cùng thời của phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Hồ Dzếnh thì nữ sĩ Ngân Giang nổi bật hơn nhiều. 9 tuổi bà đã có thơ đăng báo, 16 tuổi đã cho ra đời cả tập thơ “Giọt lệ xuân” và nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Tuy nhiên điều bất công với bà là ngay cả trong “Thi nhân Việt Nam” (của Hoài Thanh-Hoài Chân) và “Nhà Văn hiện đại” (của Vũ Ngọc Phan) cũng không có lấy một bài giới thiệu về bà. Nhà thơ Thẩm Thệ Hà đã từng than thở: “Điều làm cho ta ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế!”. Có lần tôi đem câu này hỏi bà. Bà cười: “Cậu đi mà hỏi ông Hoài Thanh ấy”. Dạo ấy ông Hoài Thanh đã qua đời, nhưng vẫn còn Hoài Chân. Có lần tôi tới thăm Hoài Chân, lúc ấy ông đã yếu nhiều. Tôi hỏi, ông không trả lời mà nhũng nha nhũng nhẵng ngâm 2 câu Kiều: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Có lẻ Hoài Chân nói đúng! Tài sắc vẹn toàn đến như bà không chỉ đồng loại ganh tỵ với bà mà “trời đất cũng phải ghen tỵ”. Hôm ấy bà đã đọc, rồi bình cho tôi nghe rất nhiều về thơ bà. Tôi ghi chép đầy cả cuốn sổ tay. Giọng vang. Không chút nhầm lẫn. Một trí nhớ tuyệt vời. Sau này, cứ lâu lâu tôi lại ghé thăm bà. Lại vẫn đốt hương trầm, rót rượu mời khách và đọc thơ. Và cũng từ hôm ấy, cứ vào dịp cuối năm tôi lại tới thăm bà. Lần nào cũng vậy, bà vẫn mặc đẹp, thoa chút phấn sáp, lấy thỏi son tô lại làn môi, đeo chuỗi hạt ngọc, đốt chiếc lư trầm, đợi khói bốc lên, rót hai chén rượu và... chuyện thơ, văn. Và rồi cũng chưa bao giờ ngồi lại được với bà lâu. Lại những người khách đến. Không từ chối tiếp ai được: "Khổ một nỗi toàn là khách văn chương". Khách quen đã nhiều mà khách lạ cũng lắm. "Một tài thơ thiên phú!" Nữ sĩ Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình Nho học 5 đời thờ Phật. Truyền thống văn chương của dòng họ ảnh hưởng rất sớm tới nhân cách của Ngân Giang. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ. Ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du. Cha bà theo ông nội học chữ Hán, chơi đàn nguyệt nổi tiếng kinh thành. Tuy nhiên cái nghề sống chính của dòng họ này lại là nghề thêu ren và bốc thuốc bắc. Đỗ Thị Quế lớn lên với “Truyện Kiều”, “Hoàng Trừu”, “Quan Âm Thị Kính”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Nhị Độ Mai”... Chính vì vậy mà năm mới lên 6 tuổi, một lần theo người bà bác ra ga, nhìn những con tàu, Đỗ Thị Quế đã thốt lên: "Tàu về rồi tàu lại đi Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga" "Một tài thơ thiên phú!" - người bác bỗng thốt lên. Từ đấy bà đã dạy cho cô cháu của mình cách làm thơ, phú, dịch Đường thi mà bà ưa thích. Năm 1924, lên 8 tuổi, Đỗ Thị Quế đăng bài thơ đầu tiên "Vịnh Kiều" với bút danh Nguyệt Quyên trên tờ “Đông Pháp”. Sự phát tiết quá sớm của một tài thơ tất khó tránh khỏi khổ lụy. Đọc sách Phật, thấy dạy nhiều điều thiện, bé Quế thấy mình có tội quá nhiều. Thế là vào một chiều khi "hoa lan rụng trắng sân đình", cô bé Đỗ Thị Quế đã gieo mình xuống Hồ Tây. May thay người nhà phát hiện kịp đưa bé về nhà. Năm ấy Đỗ Thị Quế mới tròn 9 tuổi. Quế tiếp tục làm thơ. Từ năm 1929 đến năm 1931 viết cho báo “Trung Bắc Tân Việt” với bút danh Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế. Năm 1932 cho in cuốn "Giọt lệ xuân" tại nhà xuất bản Tân Dân. Danh tiếng Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế bắt đầu được mến mộ. Đến khi nhật báo “Phụ Nữ Thời Đàm” dành hẳn môt trang để giới thiệu “Giọt lệ xuân” với nữ sĩ tí hon Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế thì tiếng tăm của Đỗ Thị Quế đã nổi khắp kinh thành. Năm ấy Đỗ Thị Quế vừa độ tuổi trăng tròn. Tài thơ phú bẩm sinh, sắc đẹp diễm kiều, lại đàn hay, họa giỏi, thêu thùa rất khéo, Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế đã trở thành niềm mơ ước của biết bao tài danh đất Bắc Hà. Nhưng mà như Phạm Quý Thích đã từng nói: "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy". Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế cũng không thoát được cái vòng trầm luân ấy. Dường như bà cũng ý thức được điều ấy. Trong bài “Hoài cảm”, từ thuở ấy, bà đã viết: "Mỗi bước chân đi, mỗi bước sầu, Trăm năm thân thế gửi về đâu". Hiểu rõ con gái mình, ông đồ Nho Đỗ Hữu Tài muốn Quế sớm yên bề gia thất. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình lẩn trốn. Biết khó bề khuyên bảo, ông đồ Nho đuổi đánh, đập nát 3 giàn hoa thiên lý, Đỗ Thị Quế đành phải bò ra cúi lạy cha xin chịu vâng lời. Thế là bóng dáng chàng "hiệp sĩ" cách mạng mặc áo choàng đen mới kịp hiện hữu trong trái tim mẫn cảm của nàng thi sĩ tuổi trăng tròn đã trở thành dang dở. Lên xe hoa về nhà chồng nàng quay đầu về phương trời nơi người ấy ra đi, tạ tội: "Ngày chửa sang thu đã thấy buồn Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn Trời không mưa gió lòng mưa gió Người ở đầu thôn mộng cuối thôn". Nhưng rồi tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của bà. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao liên cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi. Năm 21 tuổi nữ sĩ cho xuất bản cuốn "Duyên văn", rồi vào Sài Gòn viết cho “Điện tín nhật báo” và “Mai” của Đào Trinh Nhất. Một thời gian sau đó, nữ sĩ quay ra Bắc viết cho “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Phổ thông bán nguyệt san”, “Đàn bà”... Năm 1939 "Trưng nữ vương" ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp văn chương của nữ sĩ: tên tuổi của bà đã vang vọng từ Nam ra Bắc và bốn năm sau đó tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân” với bút danh Ngân Giang ra đời đã đưa Ngân Giang lên vị trí những người được yêu thích nhất trên thi đàn Việt Nam. Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ. Ngân Giang bị cuốn theo dòng thác cách mạng. Nữ sĩ hô hào cổ vũ cho cuộc kháng chiến. Để tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc, Hồ Chí Minh, Ngân Giang đã đem hết cái tài thêu thùa được học từ thuở nhỏ, thêu cả một bài thơ "Kính dâng các bậc anh hùng", trong đó có những câu đầy khí phách "Ta say uy võ Trần Hưng Đạo, ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và dâng lên ông Hồ. Cảm động trước bầu nhiệt huyết của nữ sĩ, Hồ Chí Minh khen: "Mấy lời cảm tạ Ngân Giang Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" Ngơ ngác phương trời con én lạc Do đòi hỏi cấp bách và chiến lược lâu dài của cuộc kháng chiến, Bộ chỉ huy của cách mạng Việt Nam dời về Việt Bắc. Ngân Giang cũng hăng hái đeo ba lô, bồng hai con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. "Thân gái bơ vơ giữa dặm trường. Muôn vàn mối đe dọa, cám dỗ" - Ngân Giang nhớ lại. Rồi thì cũng phải tìm chốn nương thân. Trong số những người tìm đến bà chọn con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ. Công bằng mà nói, ở mức độ nào đó, bà có lý. Chẳng thế mà, có lần, với tư cách là con dâu tuần phủ, nữ sĩ vào được tới tận sào huyệt của quân Tưởng cứu được nhiều trinh sát Việt Minh thành. Trong số đó có cả nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Sống trong lòng địch mà lòng nữ sĩ vẫn hướng về Việt Bắc: “Gác xép mơ màng tin quốc sự Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau” Cách mạng thành công, hòa bình lập lại, Ngân Giang bắt đầu bị quên lãng. Tên tuổi và thơ văn của nữ sĩ không được xuất hiện trên sách báo, mặc dù những người yêu thơ từ Nam chí Bắc vẫn truyền tay nhau chép thơ bà. Cái chân cán bộ văn hóa quèn của bà cũng bắt đầu bị lung lay. Và năm 1957, ở tuổi 41, Ngân Giang nữ sĩ nổi tiếng đã buộc phải rời khỏi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. "Ra khỏi biên chế nhà nước thời bấy giờ là chuyện kinh khủng" - Ngân Giang nhớ lại. Đi đâu, làm gì để nuôi sống bản thân và gần chục đứa con đây? Với tâm trạng cô miên nữ sĩ thốt lên: "Ngơ ngác phương trời con én lạc Chập chờn khung cửa cánh hoa nghiêng" Tuyệt vọng, không còn biết bấu víu vào đâu, Ngân Giang cầu cứu Hội Nhà văn, rồi Nhà xuất bản của Hội để may ra kiếm được một công việc gì đấy: biên tập, morat, đóng bìa sách, thậm chí là rửa cốc chén, dọn vệ sinh... miễn là có việc, có lương. Viết đơn, chờ đợi. Lại viết đơn. Đến lần thứ 10, không chờ được nữa bà chạy tới "cạy cục" nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu thương bà lắm, nhưng rồi ông cũng chỉ biết thở dài: "Khổ quá, tôi là thiểu số!", sau khi đã vò đến nát đầu, gãi đến đỏ tai. Tuyệt vọng đến cùng cực, "chết không được đành phải sống". Ngày ngày nữ sĩ ra bãi sông Hồng quét là khô để bán, tối về đi rửa bát, chai lọ thuê. Làm quần quật cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho 10 đứa con sống lay lắt qua ngày. ông Tú Mỡ, thủ quỹ Hội Nhà văn lúc bấy giờ thương tình ứng trước cho bà 20 đồng với điều kiện: "Hết tháng phải trả nợ cả gốc lẫn lãi bằng... thơ". Cụ Tú thương mà làm vậy, chứ thực tình cụ thừa biết suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm cơm, kiếm cháo thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện văn chương. Mà có trả vốn và lãi bằng thơ cho cụ thì đăng ở đâu bây giờ? Cũng không thể ngờ được rằng cuộc sống bằng nghề quét lá ấy kéo dài tới 10 năm, và kết quả là: "Mười năm quét lá bên sông Hình hài để lại cái còng trên lưng" Bạn bè, những người yêu thơ Ngân Giang đến thăm bà, không ai cầm được nước mắt. Nhưng vận may có lúc cũng mỉm cười với nữ sĩ. Nhờ tài thêu ren từ tấm bé, Ngân Giang được nhận vào Hợp tác xã thêu ren Song Hỷ. "Chiếc kim chiếc bút vui ngày tháng Nào có ham gì miếng ngọt ngon" Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng tồn tại chẳng được bao lâu. HTX phát động phong trào "phê bình và tự phê bình". Bà hăm hở hưởng ứng "chống tiêu cực, tố cáo kẻ tham ô" và kết quả là bị đuổi ra khỏi HTX vì "gây rối trật tự công cộng. Bôi xấu cán bộ lãnh đạo". Thế là nữ sĩ lại bơ vơ. Giờ thì không còn đủ sức để quét lá, rửa bát, chai lọ thuê nữa rồi. Bà ra đường mở quán bán nước: "Một quán bên sông cuối phố nghèo Miếng trầu bát nước có bao nhiêu" Khổ một nỗi vốn liếng đã ít, khách thì phần đông lại là bạn văn chương "thừa tình cảm nhưng lại chẳng có tiền". Biết làm sao được. Rồi hy vọng cứ nhạt nhòa theo năm tháng: "Sớm tối dăm ba đồng vốn liếng Tháng ngày dăm bảy khách văn chương Ôi năm cứ hết, xuân không hẹn..." Cuộc sống cứ kéo dài, và nữ sĩ vẫn ngày ngày: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước lệ đầy khăn". Tuy nhiên bất chấp khó khăn níu kéo, bất chấp miệng tiếng thị phi. Nữ sĩ không những tỏ ra có nghị lực mà con đầy phách lực, bà cứ thản nhiên, nhi nhiên sống và chiêm nghiệm: "Sớm khuya ngâm ngợi câu thành bại Dưa muối đôi chiều cũng thấy ngon" Quả thực nếu chỉ quẩn quanh vì chuyện áo cơm và những bất hạnh chồng chất hẳn nữ sĩ không tài nào đứng vững được. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002) có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 4.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ nước nhà (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Ngày tháng rồi sẽ qua đi. Những bất hạnh của cuộc đời sẽ lùi dần vào quá khứ. Nhưng sự nghiệp văn chương của bà sẽ còn được nói đến: "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang Một dòng sông lạnh muôn vàn sao rơi". Mối tình si Theo nữ sĩ Ngân Giang thì bà có khá nhiều người mê, có người si mê. “Bây giờ vẫn còn có người mê đấy”- có lần bà bảo với tôi như vậy. Lúc ấy bà đã 80 tuổi. “Người ta mê nhau là vì cái tài, chứ sắc thì nay hết rồi”- bà bảo. Trong nhân gian người ta hay đồn nhiều về chuyện thi sĩ-nhà giáo Đông Hồ chết trên bục giảng khi đang bình thơ bà. Đó là khi ông bình bài thơ “Trưng nữ Vương”, một trong những bài thơ được coi là hay nhất của Ngân Giang. Người ta coi nó là tuyệt tác là bởi: Từ trước tới nay, hình tượng hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) nói chung và Bà Trưng Trắc nói riêng đã nhiều lần đi vào văn, thơ, nhạc, họa. Song đằng thẳng mà nói, ở thể loại thơ, hiếm có tác phẩm nào thể hiện được hình ảnh Bà Trưng Trắc đẹp một cách quyền quý, đài các như trong "Trưng nữ vương" của Ngân Giang. Có thể với những câu chữ đầy hình ảnh ước lệ, kiểu như: "khóe hạnh", "bóng sao rơi", "chim bằng", "đường kiếm mã", "gót ngọc"…, ta sẽ thấy "không gian thơ hơi ca kịch" (như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét), song thiết nghĩ, chúng ta từng quen với một hình ảnh Bà Trưng Trắc mộc mạc, dân dã trong "Đại Nam quốc sử diễn ca" từng một thời được đưa vào sách giáo khoa (Bà Trưng quê ở Châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân/ Ngàn tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành/ Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta/ Ba thu gánh vác sơn hà/ Một là báo phục, hai là Bá vương…) thì cũng nên biết đến một hình ảnh Bà Trưng Trắc trong phong thái của một vị nữ vương đài các. Thật hiếm có câu thơ nào tả được nỗi cô đơn bi tráng của vị Nữ vương trong khi vừa để tang chồng vừa mưu đền nợ nước đẹp và ấn tượng như mấy câu thơ này “Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi” và: “Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời”. Đặc biệt, hình ảnh xuất hiện ở đoạn kết bài thơ cùng với tiếng than não ruột đã nâng tầm bài thơ lên thành một bản "anh hùng ca" kết hợp với "tình ca". Cái đẹp, cái mới trong tâm hồn một nữ thi sĩ sống ở thế kỷ XX đã nhập vào tâm hồn của một nhân vật lịch sử sống cách đó hai chục thế kỷ, khiến tâm thế nhân vật trở nên sống động, gần gũi hơn với độc giả thời nay. Và đó là một trong những thành công của bài thơ. Không phải ngẫu nhiên mà với khổ thơ kết bài: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi… Người ta kẻ lại rằng, vào ngày 25 tháng 3 năm 1969, trong khi đang bình bài thơ này cho các sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn cùng thưởng thức, đọc đến câu: “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi” và ông mới thốt lên: “Chàng ơi....” thì ngất xỉu ngay trên bục giảng, để rồi sau đó ít giờ, ông vĩnh viễn giã biệt thế gian. Cái chết của thi sĩ - nhà giáo Đông Hồ trong lúc trình diễn bài thơ của nữ sỹ Ngân Giang được xác định là do chấn động tâm lý, dẫn tới cơn tai biến mạch máu não. Đây được xem là một trong những giai thoại văn chương đẹp nhất từ trước tới nay. Sau này tôi có đem câu chuyện này kể lại cho bà nghe, bà ý nhị bảo, bà cũng chỉ nghe người ta đồn thổi thế thôi. Một tuần trước khi bà qua đời, tôi và một nữ đồng nghiệp đến thăm bà. Bà đã rất yếu, người cháu dìu bà ngồi lên xe lăn. Giọng đọc thơ của bà ngắt quảng sau những cơn thở dốc. Khi ra về bà cứ nắm mãi tay chúng tôi như không muốn rời. Khi chúng tôi đã đi ra cuối ngõ, nhìn lại vẫn thấy bà ngồi trên xe lăn trước cửa. Bà đưa tay lên định vẫy nhưng dường như cánh tay đã “không chịu nghe” bà. Ngày 17/8/2002 bà đã trút hơi thở cuối cùng mang theo tất cả những vinh quan và cay đắng mà bà “được” và “phải” gánh chịu trên thế gian này. Lê Thọ Bình5 likes -
Quán vắng!
hoctronho and 3 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Khoảng 6 năm trước. Híc! Mới bốn năm trước Còn đây là bi wờ - Hàng quá đát, chờ thanh lý!4 likes -
Cách cúng cô hồn ai cũng nên biết Y.Dương | 15/08/2015 22:57 Dân gian quan niệm, chỉ cúng cô hồn bằng các món ăn chay, không cúng đồ ăn mặn. Ảnh: sweetwiskies.blogspot.com Theo dân gian, tục cúng cô hồn rằm tháng 7 Âm lịch là cứu giúp những linh hồn lang thang, đói khổ, hoặc để khỏi bị các oan hồn quấy phá... Thời gian cúng có thể từ mùng 1 - ngày 15 tháng 7 Âm lịch. Lễ cúng cô hồn thường gồm: Tiền vàng từ 15 lễ trở lên, quần áo chúng sinh từ 20 đến 50 bộ. Tiền chúng sinh (tiền trinh), hoa, quả 5 loại 5 mầu (ngũ sắc). Bỏng ngô, khoai lang luộc, ngô luộc, sắn luộc. Kẹo bánh. Tiền mặt (tiền thật, các loại mệnh giá). Cháo và mâm gạo muối (5 bát, 5 đôi đũa hoặc thìa). Cháo loãng được coi là món không thể thiếu trong lễ cúng. Người ta tin rằng, món này dành cho những linh hồn bị đày đọa phải mang một thực quản nhỏ hẹp không thể nuốt được thức ăn thông thường. Một lưu ý quan trọng của lễ cúng cô hồn là không cúng xôi, gà, heo. Chỉ cúng cô hồn bằng các món ăn chay, không cúng đồ mặn vì sẽ khơi dậy tham, sân, si. Khi rải tiền vàng ra mâm cúng phải để 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi hướng từ 3-5-7 cây hương. Bày lễ và cúng ngoài trời hoặc trước cửa chính ngôi nhà. Kết thúc lễ cô hồn, gạo, muối được vãi ra sân, đường, sau đó là đốt vàng mã. Ảnh: Infonet Ở một số nơi, người ta cho phép trẻ con cướp cỗ cô hồn (giật cô hồn) khi việc cúng đã xong. Tuy nhiên, hiện nay đối tượng cướp cỗ có thể là bất kỳ ai, từ trẻ em đến những tay anh chị quậy phá, được xem là “cô hồn sống". Người ta tin rằng, nếu người sống giành giật càng đông là họ đã mua chuộc được cô hồn không đến quấy phá gia đình. Trước khi dọn đồ ra cúng, nếu gia chủ chưa kịp thắp nhang khấn vái mà có những người tranh nhau giật đồ cúng từ trên tay thì ngay lập tức nên buông thả đồ cúng ra khỏi tay. Bởi theo dân gian, nếu giật lại, hậu quả nhận được là điều tệ hại. Nếu khi chưa làm lễ cúng mà đã có người chầu chực giật có nghĩa là tín hiệu tốt. Văn khấn cô hồn: Có thể đọc bài văn khấn dưới đây hoặc tụng nghi thức cúng thí thực cô hồn (cúng chúng sinh) trong Kinh Nhật tụng. Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương. Con lạy Đức Phật Di Đà. Con lạy Bồ Tát Quan Âm. Con lạy Táo Phủ Thần quân Phúc đức chính thần. Tiết tháng 7 sắp thu phân Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà Âm cung mở cửa ngục ra Vong linh không cửa không nhà Đại Thánh Khảo giáo A Nan Đà Tôn giả Tiếp chúng sinh không mả, không mồ bốn phương Gốc cây xó chợ đầu đường Không nơi nương tựa đêm ngày lang thang Quanh năm đói rét cơ hàn Không manh áo mỏng, che làn heo may Cô hồn nam bắc đông tây Trẻ già trai gái về đây họp đoàn Dù rằng: chết uổng, chết oan Chết vì nghiện hút chết tham làm giàu Chết tai nạn, chết ốm đâu Chết đâm chết chém chết đánh nhau tiền tình Chết bom đạn, chết đao binh Chết vì chó dại, chết đuối, chết vì sinh sản giống nòi Chết vì sét đánh giữa trời Nay nghe tín chủ thỉnh mời Lai lâm nhận hưởng mọi lời trước sau Cơm canh cháo nẻ trầu cau Tiền vàng quần áo đủ màu đỏ xanh Gạo muối quả thực hoa đăng Mang theo một chút để dành ngày mai Phù hộ tín chủ lộc tài An khang thịnh vượng hoà hài gia trung Nhớ ngày xá tội vong nhân Lại về tín chủ thành tâm thỉnh mời Bây giờ nhận hưởng xong rồi Dắt nhau già trẻ về nơi âm phần Tín chủ thiêu hoá kim ngân Cùng với quần áo đã được phân chia Kính cáo Tôn thần Chứng minh công đức Cho tín chủ con Tên là:.................................. Vợ/Chồng:............................ Con trai:............................... Con gái:................................ Ngụ tại:................................ Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật Nam mô A Di Đà Phật (Tổng hợp) ================== Xem xong bài này, người viết thấy những quan niệm về cúng cô hồn rất là "sân si". Bởi vì, họ coi (chấp) vào việc cô hồn tồn tại trên thực tế theo cách hiểu của họ. Lão Gàn sẽ cúng cô hồn theo kiểu của lão, có thể chay, có thể mặn. Miễn là thành tâm hướng đến những chúng sinh khốn khổ. Lời khuyên của lão Gàn là nên phóng sinh và hồi hướng tới sự giải thoát cho những năng lượng Âm trì trệ trên thế gian. PS: Lão Gàn được dự một buổi lễ phóng sinh của mấy vị sư và các cư sĩ. Các vị đặt mấy cái thùng chật ních những con cá và tụng kinh, làm phép rất lâu. Khốn nạn cho mấy con cá chết ngạt trước khi các thày chùa tụng kinh xong. Bởi vậy, lão cũng tán thành việc phóng sinh và có sinh vật phóng sinh là phóng liền, không có tụng kinh trì chú gì cả. Nhưng lão hiểu phóng sinh không phải cầu phước gì. Nó chỉ đơn giản là các sinh vật bị nhốt hãm, nay được tự do, chúng sẽ tạo một sự thỏa mãn rất mạnh vì được kích hoạt đột biến bởi hoàn cảnh. Đó là một tương tác tốt với cuộc sống của con người. Đồng thời, nó là một hình tượng tốt cho sự nhận thức lòng nhân đạo. Việc phóng sinh đã có từ rất lâu trước khi Phật giáo ra đời. Quý vị có thể tham khảo sự tích: "Mở lưới Thành Thang".4 likes
-
LÝ HỌC VIỆT VÀ NGUỒN GỐC THÁNG CÔ HỒN Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Hôm nay đã là ngày mùng 2/ 7 Việt lịch. Trong dân gian quen gọi là tháng "Cô hồn". Rất nhiều truyền thuyết minh họa cho nguyên nhân của Tháng Cô Hồn này. Trong đó có cả truyền thuyết liên quan đến Phật Giáo - mà các bạn có thể xem ngay trong bài báo này dưới đây. Có thể nói, hầu hết người Đông phương và những nhà nghiên cứu trên thế giới, đều mặc định nguyên nhân của tháng Cô Hồn mang mầu sắc tín ngưỡng, tôn giáo, bởi chính những truyền thuyết liên quan đến nó từ thời xa xưa, mà bài báo dưới đây chỉ là một ví dụ. Nhưng thực chất có phải như vậy không? Người viết tiểu luận này trình bày với quý vị và anh chị em quan tâm một nguyên nhân được giải thích từ Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. Trước khi trình bày luận điểm của mình, người viết giới thiệu với quý vị và anh chị em bài báo dưới đây, như là một tư liệu tham khảo làm ví dụ cho những cách giải thích về "Tháng Cô hồn" liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo từ trước đến nay. ============================ "Tháng cô hồn" và những điều kiêng kỵ được lan truyền Y. Dương (Tổng hợp) | 14/08/2015 07:40 Tháng 7 Âm lịch được còn được gọi là "tháng cô hồn" hay tháng "mở cửa mả". Hình minh họa 19 điều nên làm trong "tháng cô hồn" theo dân gian Đốt nhiều vàng mã tháng cô hồn, người cõi âm sẽ phải chịu tội? Trong dân gian người ta quan niệm, đây là tháng của ma quỷ, đặc biệt ngày rằm trong tháng này là ngày xá tội vong nhân - ngày Quỷ Môn Quan mở để ma quỷ được tự do về dương thế, đó cũng là ngày "âm khí xung thiên". Ở Việt Nam, thời gian này kéo dài nguyên một tháng. Theo đó, ngoài việc sắm lễ cúng, người ta còn truyền tai nhau rất nhiều điều nên kiêng kỵ trong "tháng cô hồn" này. 18 điều cấm kỵ được lan truyền 1. Không treo chuông gió ở đầu giường vì tiếng chuông sẽ thu hút sự chú ý của ma quỷ, khi ngủ sẽ dễ bị chúng xâm nhập quấy phá. 2. Người yếu bóng vía không nên đi chơi đêm vào tháng này, nếu không sẽ dễ gặp điều không may. 3. Không được nhổ lông chân vào ngày này, vì dân gian cho rằng “một sợi lông chân quản ba con quỷ”, người càng có nhiều lông chân thì ma quỷ càng ít dám đến gần. 4. Không tùy tiện đốt giấy, vàng mã vì như vậy sẽ khiến ma quỷ bu đến. 5. Không ăn vụng đồ cúng, vì đó là đồ dành cho ma quỷ, nếu chưa cúng và cầu xin mà lấy ăn sẽ rước tai hoạ vào mình. 6. Không phơi quần áo vào ban đêm, vì ma quỷ trông thấy sẽ “mượn” và để lại “quỷ khí” trong các quần áo ấy. 7. Những người khi đi chơi đêm không được réo gọi tên nhau, nếu không ma quỷ sẽ ghi nhớ tên người được gọi, đó là điềm xấu. 8. Không nên bơi lội, vì ma quỷ sẽ cùng đùa với bạn, nếu không cẩn thận, bạn sẽ bị chúng làm trẹo chân. 9. Không hù doạ người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc”, dễ bị ma quỷ xâm nhập. 10. Cây đa trước nhà là nơi hội tụ âm khí, ma quỷ rất thích những chỗ như vậy, cho nên kỵ đứng, ngồi, nằm, trốn… ở đó. 11. Không nên thức quá khuya, vì như vậy tinh thần sẽ hao tổn suy nhược, dễ nhiễm “quỷ khí”. 12. Nơi góc tường xó tối là những chỗ ma quỷ thường tụ tập nghỉ ngơi, không nên đến gần những chỗ ấy. 13. Không nhặt tiền bạc rơi vãi trên đường, vì có thể đó là tiền người ta cúng mua chuộc bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa, nếu người nào phạm kỵ, sẽ gặp tai hoạ không chừng. 14. Khi đi đến qua những nơi vắng vẻ, không ngoái cổ quay đầu nhìn lại phía sau, dù có cảm giác hình như có người đang đi theo mình hoặc gọi tên mình. Vì đó có thể do ma quỷ trêu chọc. 15. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn. 16. Không cắm đũa đứng giữa bát cơm, vì đó là hình thức cúng tế, cũng giống như kiểu thắp hương, dễ dẫn dụ ma quỷ vào nhà ăn chung. 17. Không nên ở một mình trong thời gian này, nếu không sẽ dễ bị ma quỷ dẫn dắt hoặc quấy phá. 18. Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt. Những điều không nên khác - Thề thốt nói bậy bất cứ trong giây phút nào trong ngày tháng cô hồn. Nguy hiểm nhất thề thốt nói bậy ngay giờ trưa từ 11 giờ đến 12 giờ 45 phút hoặc từ 18 giờ chiều cho đến rạng sáng. - Không được núp mưa dưới gốc cây. - Không mặc quần áo có in hình thù quỷ quái ghê sợ. - Không đi về quá đêm khuya. - Không tụ tập lượn lách đua xe. - Không mài dao kéo trong tháng này. - Không chở đồ cồng kềnh và chở nhiều người trên một chiếc xe. - Không nên động thổ, nhập trạch trong tháng cô hồn. - Không nên và hạn chế mua xe trong tháng này. Nếu bất đắc dĩ vì một lý do nào đó mà cần phải mua xe thì nên tham khảo quý thầy chùa, sư, thầy phong thủy. - Không nên mua xe những ngày sát chủ, ngày kỵ thiên can - địa chi tương khắc. - Hạn chế ký kết hợp đồng, nếu cần cho việc đại sự thì nên xem ngày cho kỹ. - Không nên tự ý chặt cây có gốc to. - Không nên may quần áo trắng trong tháng này. - Không nên thả tiền thật. - Nếu nằm trong phòng bệnh viện khi ngủ không được tắt đèn. - Tuyệt đối không được cúng những đồ ăn mặn. Nếu cúng mặn có nghĩa là khơi dậy “tham, sân, si” có thể làm cho âm phần dữ tợn hơn nữa. (Sưu tầm từ nhiều nguồn) ============================ Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Qua bài báo trên, quý vị và anh chị em cũng nhận thấy rằng: quan niệm về tháng cô hồn hoàn toàn có nguồn gốc từ tín ngưỡng và tôn giáo. Về tôn giáo thì nguồn gốc Tháng Cô hồn được coi là có xuất xứ từ Phật giáo. Và nó hoàn toàn được giải thích một cách phi khoa học. Trong khi đó, việc coi tháng Bảy Việt lịch là "Tháng Cô hồn" là một quan niệm ảnh hưởng đến hầu hết các nước thuộc nền văn minh Đông phương, tức là không chỉ riêng ở Việt Nam. Do đó, vấn đề được đặt ra sẽ là: nếu nó xuất phát từ một tín ngưỡng, thì đó phải là một tín ngưỡng phổ biến rộng rãi thuộc về nền văn minh này. Từ đó, nó mới có thể phổ biến thành truyền thống về tháng Cô Hồn trong di sản của nền văn minh Đông phương, gồm nhiều quôc gia. Cũng trong bài báo trên thì một cách giải thích khác về nguồn gốc của tháng Cô Hồn có nguyên nhân từ Phật giáo, qua các sự tích về Lễ Vu Lan, báo hiếu của ngài Mục Kiều Liên xuống Địa Ngục cứu mẹ, và sự tích về ngài Anan mà bài báo đã nêu. Xét về tính phổ biến thì Phật Giáo là một tôn giáo xuất phát từ Đông phương hơn 2500 năm trước và phổ biến trên toàn thế giới. Cho nên giải thích nguyên nhân từ Phật giáo với tính phổ biến của Phật giáo và tính phổ biến của tín ngưỡng liên quan đến "Tháng Cô Hồn" là khả thi. Nhưng vấn đề được tiếp tục đặt ra là: Những điều kiêng cữ - như mô tả trong bài báo trên và từ nhiều tư liệu khác - lại hoàn toàn không thuộc về hệ thống Phật pháp. Hơn nữa, không phải bất cứ một quốc gia có ảnh hưởng lớn từ Phật giáo đều coi Lễ Vu Lan là tháng cô hồn. Bởi vậy, truyền thuyết về ngài Mục Kiều Liên xuống Địa Ngục cứu mẹ, hoặc ngài Anan gặp ngã quỷ - để giải thích cho nguyên nhân của quan niệm về "Tháng Cô hồn", chỉ có thể được hình thành rất lâu sau khi Phật pháp trở thành phổ biến trong xã hội Đông phương. Nó không hề có trong kinh điển chính thống của Phật giáo. Bởi vậy, tôi đi tìm nguyên nhân của quan niệm "Tháng Cô hồn" từ một cách giải thích khác. Những dấu ấn còn lại của quan niệm về tháng cô hồn, cho thấy nó liên quan đến Lý học Đông phương. Một trong những dấu ấn đó chính là từ "Quỷ Môn quan" - được coi là nơi xuất phát của ma quỷ lên trần gian vào tháng Bảy này. "Quỷ môn quan", hay còn gọi là "Quỷ Môn" chính là một khái niệm trong Phong Thủy mô tả trục Đông Bắc/ Tây Nam và Đông/ Tây trong Phong thủy Đông phương nói chung. Trong lịch sử nền văn minh Đông phương, cũng đã ghi nhận một tôn giáo phổ biến ở Nam Dương tử, đó chính là Đạo Giáo. Tôn giáo này có thời điểm xuất xứ tương đương sự xuất hiện của Phật giáo - từ 2500 năm cách ngày nay. Tôn giáo này đã bị mai một cùng với sự sụp đổ của nền văn hiến Việt, từ 300 năm BC. Nó chỉ còn lại những dấu ấn qua những truyền thuyết về tiên thánh trong tính ngưỡng dân gian, ở cả Việt Nam và Trung quốc. Riêng ở Việt Nam thì di sản của Đạo Giáo còn trong tục thờ Mẫu, Ngũ phủ công đồng, các vị thánh...vv... Trong Đạo Giáo, hầu hết mọi phương tiện hành pháp đều liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành. Điều này tôi đã chứng minh qua sách đã xuất bản và các bài viết liên quan trên web này. Từ đó, tôi nhận thấy rằng: Hoàn toàn có cơ sở xem xét cội nguồn của "Tháng Cô Hồn" từ Lý học Đông phương. Bây giờ, chúng ta trở lại với mô hình Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt. Quý vị và anh chị em xem hình dưới đây: Hà đồ & Hậu thiên Lạc Việt phối thập Thiên Can Quý vị và anh chị em quan tâm thân mến. Chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng: Trong mô hình Hà Đồ (và cả Lạc Thư) đều có 9 ô. Các ô trên Hà Đồ đều phối với Thiên Can thích hợp với độ số của nó, gồm: Giáp 1, Ất 2, Bính 3, Đinh 4, Mậu 5 (Mậu thuộc Thổ) , Kỷ 6, Canh 7, Tân 8, Nhâm 9, Quý 10 (Quý thuộc Thủy). Riêng ô giữa - Trung cung của Hà Đồ có hai thiên can phối là "Mậu/ Quý" với độ số 5/ 10, phù hợp với độ số Trung cung của Hà Đồ. Và điều này liên quan gì đến "Tháng Cô Hồn" với tháng Bảy Việt lịch hàng năm? Quý vị và anh chị em quan tâm thân mến. Quý vị và anh chị em cũng biết rằng: Trong truyền thống văn hóa Việt, ông cha ta thường gọi tháng 11 Việt lịch là tháng Một; Tháng 12 là tháng Chạp; tháng 1 là tháng Giêng...sau đó mới thuận tự theo số đếm phổ thông. Do đó, tháng thứ 5 tính từ tháng Một - theo cách gọi dân gian Việt - tức cũng là tháng Ba Việt lịch. Đây cũng chính là tháng kỷ niệm giỗ Tổ Hùng Vương 10/ 3 Việt lịch. Hay nói cụ thể và rõ hơn là: ngày giỗ Tổ Hùng Vương của Việt tộc vào ngày mùng 10, tháng thứ 5 Việt lịch, tính từ tháng Một (11). Đây chính là con số của Trung cung Hà Đồ, thuộc Mậu/ Dương Thổ. Vậy tháng cô hồn liên quan gì đến mô hình Hà Đồ này? Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Đây chính là tháng thứ chín, tính từ tháng Một (11) Việt lịch. Cho nên theo chu kỳ Cửu cung, tháng này nhập trung cung Hà Đồ, tương ứng với độ số 10 của Thiên Can Quý thuộc thủy. Tháng này vì do Thiên Can Âm Thủy là Quý quản trung cung, nên Âm khí - theo Lý học Việt rất vượng. Cho nên nó thể hiện bằng thời tiết phổ biến trên trái Đất là mưa gió sụt sùi (Mưa Ngâu), hoặc bão tố, lũ lụt...vv.....Ở những vị trí địa hình khác nhau thì Âm khí cũng thể hiện khác nhau, tùy từng vị trí trên Địa Cầu. Nhưng xét tổng quát là Âm khí vượng. Chính vì tính thể hiện Âm Khí thổ vượng, nên nó được mô tả bằng "Địa Ngục" ("Địa" là Đất/ Thổ; "Ngục" là hình tượng mô tả khí chất dưới đất) và nâng cấp thành những truyền thuyết liên quan đến "Tháng Cô Hồn" với những ma quỷ từ Địa Ngục chui lên, hoành hành trên thế gian. Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Cũng chính vì sự tương tác của Âm khí vượng và kết thúc một chu kỳ Thiên Can, nên nền văn hiến Việt đã mô tả một số điều kiêng cữ để hạn chế những tương tác xấu này. Nhưng do sự thất truyền của cả một nền văn minh, cho nên sự kiêng cữ trở thành thái quá và nhiều cái rất không cần thiết. Chưa nói đến nhiều kiêng cữ do biến tướng vì thiếu hiểu biết trở nên buồn cười. Vấn đề này tôi sẽ viết rõ hơn ở bài tiếp theo. Nhưng qua sự phân tích của tôi ở bài trên, thì quý vị và anh chị em cũng thấy rõ rằng: nguyên nhân của tháng cô hồn, hoàn toàn có xuất xứ từ nền văn hiến Việt, cội nguồn đích thực của văn minh Đông phương - với nguyên lý "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt". Và cũng từ sự giải thích nguyên nhân này, cho thấy tính hệ thống, nhất quán hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt trong hầu hết mọi lĩnh vực liến quan đến nó. Đồng thời nó cũng chứng minh rõ hơn cho một tiêu chí để thẩm định một lý thuyết thống nhất, bổ sung cho những luận cứ mà người viết đã chứng minh trong tiểu luận: "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương", là: "Một lý thuyết thống nhất phải có khả năng giải thích những vấn đề tôn giáo và tâm linh". "Những quan niệm về "Tháng Cô Hồn" chính là một dấu ấn về tôn giáo và tâm linh, đã được giải thích bằng nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt. Đó chính là "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt". Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. Còn tiếp .3 likes
-
LÝ HỌC VIỆT VÀ NGUỒN GỐC THÁNG CÔ HỒN Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tiếp theo Thưa quý vị và anh chị em quan tâm Trong cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" người viết đã chứng minh rằng: Âm Dương là một cặp phạm trù minh triết, mô tả tất cả các trạng thái tồn tại có tính phân biệt với những nguyên lý của nó, trong thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt. Bởi vậy, khái niệm "Âm" không hàm nghĩa xấu. Nó chỉ mô tả một dạng tồn tại so với "Dương". Do đó, khái niệm "Âm khí" trong tập hợp - mà Lý học quen gọi là - do "Thiên Can Quý thủy" quản, không mang hàm nghĩa xấu. Nhưng "Âm Khí" trong tháng Bảy mô tả một trạng thái tồn tại mà Lý học gọi là "Khí" đặc thù của tháng này, được hình thành từ những tương tác của vũ trụ với Địa cầu. Nhưng để dễ hiểu và lưu truyền trong dân gian, nó được hình tượng bằng ma quỷ từ cửa Địa Ngục là "Quỷ Môn" lên trái Đất, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Trong văn minh Đông phương, không phải duy nhất dùng hình tượng ma quỷ, để mô tả Âm Khí. Trong văn hóa truyền thống Việt, cũng nói tới "ma xó" tồn tại ở những góc nhà và quấy phá những con người trong ngôi gia. Nhưng thực chất, đó là do Âm Khí tụ lâu ngày ở các góc nhà, gầm cầu thang.... và nó đã được mô tả trong Phong thủy Lạc Việt với các biện pháp khắc phục. Trên cơ sở nhận thức này, từ Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - thì những điều kiêng cữ chỉ cần sao cho có sự cân bằng Âm Dương trong tháng Âm khí Thổ vượng quen gọi là "Tháng Cô Hồn" này. - Kiêng mặc áo đen (Chứ không phải áo trắng, như điều kiêng cữ trong bài báo trên) - Bởi vì, màu đen là thuần Âm và cũng là cực Âm. Nên khi mặc áo đen vào thời điểm âm khí vượng, sẽ dễ hấp thụ Âm khí nhiều hơn và dễ phát sinh bệnh tật, hoặc có những quyết định thiếu sáng suốt. Đặc biệt kiêng cữ với phụ nữ. Vì khí chất của họ đã thuộc Âm tính. Trong Địa Lý Lạc Việt cũng rất kỵ màu đen. Nên mặc những áo màu sáng. - Cần dùng thảo dược xông nhà, nhất là những nhà có cấu trúc ít ánh sáng. Cần thông thoáng trong nhà cửa, để không khí và ánh sáng chiếu vào nhà nhiều hơn trong "Tháng Cô hồn", nhằm trung hòa Âm khí. Nếu không có điều kiện xông nhà thì nên đốt thảo dược, như: trầm, lá sả....Hoặc dùng đèn xông hương. Đèn xông hương tinh dầu thảo dược, có tác dụng trung hòa Âm khí. - Trường hợp nhà thiếu sáng, nên tăng cường ánh sáng điện, cũng với mục đích trung hòa Âm khí. Đèn trang trí trên tường, tăng cường ánh sáng (Thuộc Dương) trung hòa Âm khí. - Không động thổ cất nhà, hoặc nhập trạch trong tháng này. Vì tính chất của Âm khí Thổ vượng, nên động thổ, hoặc nhập trạch vào tháng "Cô hồn" này, dễ bị cách "Dương xâm phạm vào Âm", bất lợi cho gia chủ về sức khỏe, tài lộc. Nhưng với những ngôi gia đang xây dựng từ trước, vẫn tiếp tục xây cất bình thường, không có vấn đề gì. Với những ngôi gia xây cất xong trong tháng Bẩy, cần xông nhà trước khi nhập trạch để trung hòa Âm khí. - Tránh tổ chức đám cưới trong tháng này - cho dù có những tuổi người nữ (Mão/ Dậu) được Đại lợi, nếu cưới vào tháng Bảy - cũng nên chọn tháng Đại lợi khác (Trong một năm có hai tháng Đại lợi cho người nữ xuất giá). - Việc đốt vàng mã, gọi là "cúng cô hồn" thực chất là trung hòa Âm khí bằng lửa. Bởi vậy, không có vấn đề gì khi đốt vàng mã vào tháng này. Nhưng nên kiêng đốt bừa bãi vì dễ....gây hỏa hoạn. Cần phải có đồ đốt vàng mã cho mỗi ngôi gia, như thùng tôn, lò đốt vàng....hoặc ở đền chùa cần đốt vào đúng nơi quy định. - Các góc nhà nếu không kê các vật dụng khác, cần đặt bình tròn, để tránh Âm khí tụ Bình tròn đặt ở góc nhà tránh Âm khí tụ. - Gầm cầu thang do kiến trúc đặc thù, nên Âm khí tụ ở đây. Sự tác động của Âm khí tụ dưới gầm cầu thang, thường gây cảm giác rờn rợn cho các thành viên trong gia đình đi qua vào ban đêm. Vào tháng Bẩy, Âm khí cực vương, nên những nơi như gầm cầu thang tương tác của Âm khí nơi đây sẽ rất mạnh. Nếu có điều kiện thì các bạn có thể xây một bể cá dưới gầm cầu thang với nước chu chuyển (Gầm cầu thang không lùi quá về nửa phía sau nhà, mới xây bể cá được). Trong trường hợp không xây bể cá được thì các bạn có thể dùng: phong thủy luân có đèn đặt tại đây, hoặc để một bình vôi. Đơn giản nhất là bạn mua một hũ gốm/ sứ có nắp, rang khoảng 1kg muối hột, cho vào túi vải đỏ, đặt vào hũ muối, để dưới gầm cầu thang. Vôi và muối là những chất Dương khí rất mạnh, thường dùng để trung hòa Âm khí. Bể cá dưới gầm cầu thang, trung hòa Âm khí, kích tài và trợ lực cho trí tuệ. Quý vị và anh chị em thân mến. Ngoài những điều cần lưu ý ở trên - từ những nguyên nhân được giải thích dưới góc độ Lý học Việt - thì mọi việc trong cuộc sống của chúng ta vẫn cứ tiến hành bình thường. Từ góc nhìn Lý học thì thời tiết tháng Bảy cũng là một trong những quy luật khách quan của tự nhiên. Nó cũng như trời mưa, trời nắng vậy thôi. Chúng ta thấy mưa, nắng thì dùng ô/ dù che chắn, sẽ không sao cả. Và mọi sinh hoạt vẫn bình thường, không có gì phải lo lắng. Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. ===================== PS: Định nghĩa về "Khí" xin xem trong topic Hội thảo Phong thủy là một ngành khoa học. Bài về khí của Nguyễn Vũ Tuấn Anh.3 likes
-
LÝ HỌC VIỆT VÀ NGUỒN GỐC THÁNG CÔ HỒN Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh Tiếp theo Trong bài trên, người viết đã trình bày với quý vị và anh chị em rằng: Trên cơ sở này, chúng ta cùng quán xét những điều kiêng cữ được mô tả ngay trong bài báo , mà người viết đã giới thiệu ở trên. Nếu tiếng chuông gió thu hút sự chú ý của ma quý, thì ti vi, dàn âm thanh....còn gây chú ý lớn hơn. Híc! Người yếu bóng vía, là người Dương khí - (các trạng thái tâm lý, tinh thần...) - suy. Nên dễ bị Âm khí của tháng 7 chi phối. Bởi vậy, chỉ không nên đi khuya ở những nơi vắng vẻ và có Âm khí vượng như: nhà hoang, bãi tha ma thôi. Đi vào những nơi như vậy, cần có đèn pin, đuốc là Dương khí để hạn chế tương tác xấu của Âm khí. Những nơi Dương khí vượng, như nơi vui chơi giải trí đông người, phố đông người qua lại, cơ sở sản xuất...vẫn đi được. Nếu cứ theo điều kiêng này thì công nhân đi làm ca đêm phải nghỉ chăng? Đây là quan niệm phổ biến ở bên Tàu. Nó nhằm mô tả một trạng thái khác, không liên quan đến "Tháng Cô hồn". Văn hóa dân gian Việt không có điều này. Nếu "một sợi lông quan ba con quỷ" thì chắc người nào cũng đầy quỷ bám trên người. Và những người lông chân, lông tay...ít, chắc bị ma nhập hết cả. Tuy nhiên, vì tháng Âm Khí vượng, lỗ chân lông là một trong những nơi hấp thụ khí. Bởi vậy, không nên ăn mặc hở hang trong tháng này thôi. Đốt vàng mã, thực chất là dùng lửa để xua đuổi Âm khí. Bởi vậy trong tháng cô hồn, người ta thường đốt vàng mã cúng cô hồn là vậy. Tất nhiên phải đốt vàng mã đúng chỗ, và có phương pháp, như: cho vào thùng tôn, hoặc những nơi quy định đốt vàng mã trong đền chùa....Không đốt tùy tiện với bất cứ địa điểm nào, để....chống hỏa hoạn thôi. Cái này thì nên để khuyên tụi trẻ con. Người lớn câu này thừa. Đồ cúng không ai ăn trước cả. Và không cứ tháng cô hồn. Điều này thì tháng nào cũng nên kiêng, không cứ gì tháng cô hồn. Riêng tháng cô hồn cần đặc biệt kiêng cữ. Nhưng điều này chỉ đúng với việc phơi quần áo ngoài trời. Híc! Chưa bít con ma thuộc dân tộc nào? Nếu gọi tên bằng tiếng Anh, con ma dốt ngoại ngữ chắc chẳng biết đằng nào mà bắt. Nguy hiểm quá! Thế này thì nên đề nghị Liên Hiệp Quốc cấm tất cả các cuộc thi bơi lội trên Địa cầu vào tháng này. Cái này thì tháng nào cũng nên kiêng. Điều này thì chắc những ai thích chặt cây, trồng lại sẽ rất hoan nghênh. Họ sẽ trhay tất cả những cây đa bằng cây mỡ. Chưa hết! Thạch Sanh ngày xưa chắc bị "ma nhập" lâu rùi. Vì anh ấy ở dưới gốc cây đa. Hì. Chắc chỉ trong tháng cô hồn mới không được thức khuya. Còn các tháng khác thì được thức thoải mái chăng? Vậy ngoài tháng Cô hồn ra, các tháng khác được chui vào xó tối chơi chăng? Còn các tháng khác thì lượm thoái mái chăng? Chỉ trong tháng Bảy này thôi hay sao? Người nằm chềnh ềnh ra đấy, ma không nhìn thấy sao, mà phải căn cứ vào mũi giày, dép? Cái này thì tháng nào cũng kiêng, không cứ tháng Bảy. Điều kiêng cữ này, ý muốn nói nên ..đi khách sạn ngủ hai mình đây. Hì. Vậy ai muốn chứng minh có ma, nên tranh thủ chụp ảnh vào tháng cô hồn. Chắc sẽ thấy đầy ma để chứng minh có "cơ sở khoa học" về ma. Hì. Hì. Vậy ai mà tỏ tình trong tháng này, mà người yêu nó bắt thề, nếu kiêng mà không thề thì nó xù đấy! Đợi đến tháng Tám mới tỏ tình thì nhỡ nó yêu người khác mất?! Mưa mà không núp dưới gốc cây thì núp ở đâu? Nếu chung quanh không có chỗ núp nào khác? Chỉ không nên núp dưới gốc cây to , mọc riêng lẻ trong mưa to, đề phòng sét đánh thôi.Tất nhiên cũng không phải chỉ trong tháng Bẩy. Cái này thì cũng còn tùy. Cá nhân tôi không thích những hình quỷ quái ghê sợ, ở bất cứ tháng nào. Với các bà xã trên khắp thế gian này thì đây phải là điều kiêng cữ trong năm. Cái này thì nên kiêng vì cảnh sát giao thông sẽ bắt trong bất cứ tháng nào. Hả?! Vậy các cửa hàng bán thịt, gà lợn, trâu bò....họ chặt thái suốt ngày, nếu không cho mài dao thì họ lấy tay xé à? Ngày xưa các cụ không có Honda, chắc tác giả ý muốn nói là xe ngựa. Không động thổ, nhập trạch thì OK. Nhưng cần giải thích rõ vì sao. Wow! Các cụ ngày xưa đâu có khái niệm xe hơi, xe Honda đâu nhỉ? Chắc tác giả mún nói xe ngựa, hoặc xe cút kít. Ý muốn nói là trong tháng Bẩy phải xem ngày cho kỹ. Còn các tháng khác thì cứ làm vung lên sao? Ui! Thế thì tháng này kinh tế thế giới bị đình trệ vì các hợp đồng phải để tháng sau mất. Để tháng sau chặt? Thảo nào! Vừa rồi Hanoi chặt cho cả đống cây từ mấy tháng trước. Hì. Ủa! Vậy áo đen may thoải mái sao? Cái này thì Ok. Để đỡ tốn tiền. Và vì vậy thì tháng nào cũng nên kiêng. Bệnh viện thì lúc nào đèn đóm chẳng sáng choang. Tất nhiên trừ lúc mất điện. Đâu cứ cô hồn, các đẳng mới "tham , sân si". Con người còn tham sân si hơn. Vậy nên ăn chay luôn cả cái thế giới này cho nó gọn. Quý vị và anh chị em thân mến. Qua những phân tích trên với những vấn đề đặt ra cho từng điều kiêng cữ, cho thấy những điều kiêng cữ đó hầu hết rất ư là ...ngớ ngẩn và không có "cơ sở Lý học". Đây là hậu quả của một nền văn minh bị sụp đổ ở miền nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước, khiến nó sai lệch và bị thất truyền. Bởi vậy, từ cơ sở Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - quán xét bản chất của thực tế môi trường với Âm khí vượng trong tháng Bảy thì mối quan hệ tương tác này liên quan như thế nào đối với con người? Còn tiếp2 likes
-
13 năm ngày mất của nữ sĩ Ngân Giang (17/8/2002-17/8/2015): “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen…” Thứ hai, 17/08/2015 - 08:00 Dân trí Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Cuộc đời bà là chuỗi những thăng trầm: đầy vinh quang, nhưng cũng không ít cay đắng. “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen...” Tôi quen bà là khi mới chập chững bước vào nghề báo, còn bà thì đã được nhân gian đúc xong pho “Tượng vàng thi ca”. Tôi còn nhớ lần đầu tiên tìm đến nhà bà, bà hỏi: “Sao biết đường mà tìm đến đây?”. Tôi đọc hai câu thơ của bà: “Trước cửa vài khóm trúc/ Gió về bay phất phơ”, bà cười lớn: “Cậu này ranh thật!”, Tôi chả hiểu là bà khen hay chê. Căn phòng bà ở ngoài bãi Nghĩa Dũng (ngoài đê Sông Hồng, Hà Nội) chật chội, nhưng bà bảo chả bao giờ vắng khách. Bà kêu cô cháu gái lấy cho bà mấy thanh hương trầm. Bà cho vào chiếc lư đồng, đốt lên. Chờ cho hết khói, hương thơm phảng phất bay. Bà lấy ra cút rượu, rót vào hai cái ly con. Bà đưa cho tôi một ly. Lúc bấy giờ tôi mới có dịp ngắm kỹ bà: bà mặc áo lụa vàng-hồng, bên ngoài khoác áo len mỏng màu tím than, cổ khoác chiếc khăn voan mỏng, mặt thoa phấn sáp nhẹ, môi hồng. Điều làm tôi ngạc nhiên là mặt bà hầu như không có nếp nhăn, mặc dù đã ở cái tuổi “cổ lai hy”. Người đời kể lại rằng, ở lứa tuổi trăng tròn bà là niềm mơ ước của rất nhiều tao nhân mặc khách. Gái Hà Nội, tài sắc vẹn toàn, công-dung-ngôn hạnh, lại nổi tiếng khắp kinh kỳ. Giờ này trăng chửa qua rèm lụa, Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa, Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây. Tưởng ai thức trắng đêm dài viết, Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn, Về đi, vườn ruộng ngát hương say... (Thơ Ngân Giang) So với những tài danh cùng thời của phong trào Thơ Mới: Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Hồ Dzếnh thì nữ sĩ Ngân Giang nổi bật hơn nhiều. 9 tuổi bà đã có thơ đăng báo, 16 tuổi đã cho ra đời cả tập thơ “Giọt lệ xuân” và nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc. Tuy nhiên điều bất công với bà là ngay cả trong “Thi nhân Việt Nam” (của Hoài Thanh-Hoài Chân) và “Nhà Văn hiện đại” (của Vũ Ngọc Phan) cũng không có lấy một bài giới thiệu về bà. Nhà thơ Thẩm Thệ Hà đã từng than thở: “Điều làm cho ta ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên một nữ sĩ tài hoa đến thế!”. Có lần tôi đem câu này hỏi bà. Bà cười: “Cậu đi mà hỏi ông Hoài Thanh ấy”. Dạo ấy ông Hoài Thanh đã qua đời, nhưng vẫn còn Hoài Chân. Có lần tôi tới thăm Hoài Chân, lúc ấy ông đã yếu nhiều. Tôi hỏi, ông không trả lời mà nhũng nha nhũng nhẵng ngâm 2 câu Kiều: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Có lẻ Hoài Chân nói đúng! Tài sắc vẹn toàn đến như bà không chỉ đồng loại ganh tỵ với bà mà “trời đất cũng phải ghen tỵ”. Hôm ấy bà đã đọc, rồi bình cho tôi nghe rất nhiều về thơ bà. Tôi ghi chép đầy cả cuốn sổ tay. Giọng vang. Không chút nhầm lẫn. Một trí nhớ tuyệt vời. Sau này, cứ lâu lâu tôi lại ghé thăm bà. Lại vẫn đốt hương trầm, rót rượu mời khách và đọc thơ. Và cũng từ hôm ấy, cứ vào dịp cuối năm tôi lại tới thăm bà. Lần nào cũng vậy, bà vẫn mặc đẹp, thoa chút phấn sáp, lấy thỏi son tô lại làn môi, đeo chuỗi hạt ngọc, đốt chiếc lư trầm, đợi khói bốc lên, rót hai chén rượu và... chuyện thơ, văn. Và rồi cũng chưa bao giờ ngồi lại được với bà lâu. Lại những người khách đến. Không từ chối tiếp ai được: "Khổ một nỗi toàn là khách văn chương". Khách quen đã nhiều mà khách lạ cũng lắm. "Một tài thơ thiên phú!" Nữ sĩ Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế, sinh năm 1916 tại Hà Nội, trong một gia đình Nho học 5 đời thờ Phật. Truyền thống văn chương của dòng họ ảnh hưởng rất sớm tới nhân cách của Ngân Giang. Ông ngoại của bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm hay chữ. Ông nội là một nho sĩ nổi tiếng đất Bắc Hà, bạn thân của đại thi hào Nguyễn Du. Cha bà theo ông nội học chữ Hán, chơi đàn nguyệt nổi tiếng kinh thành. Tuy nhiên cái nghề sống chính của dòng họ này lại là nghề thêu ren và bốc thuốc bắc. Đỗ Thị Quế lớn lên với “Truyện Kiều”, “Hoàng Trừu”, “Quan Âm Thị Kính”, “Phạm Công - Cúc Hoa”, “Nhị Độ Mai”... Chính vì vậy mà năm mới lên 6 tuổi, một lần theo người bà bác ra ga, nhìn những con tàu, Đỗ Thị Quế đã thốt lên: "Tàu về rồi tàu lại đi Khối vô tình ấy nhớ gì sân ga" "Một tài thơ thiên phú!" - người bác bỗng thốt lên. Từ đấy bà đã dạy cho cô cháu của mình cách làm thơ, phú, dịch Đường thi mà bà ưa thích. Năm 1924, lên 8 tuổi, Đỗ Thị Quế đăng bài thơ đầu tiên "Vịnh Kiều" với bút danh Nguyệt Quyên trên tờ “Đông Pháp”. Sự phát tiết quá sớm của một tài thơ tất khó tránh khỏi khổ lụy. Đọc sách Phật, thấy dạy nhiều điều thiện, bé Quế thấy mình có tội quá nhiều. Thế là vào một chiều khi "hoa lan rụng trắng sân đình", cô bé Đỗ Thị Quế đã gieo mình xuống Hồ Tây. May thay người nhà phát hiện kịp đưa bé về nhà. Năm ấy Đỗ Thị Quế mới tròn 9 tuổi. Quế tiếp tục làm thơ. Từ năm 1929 đến năm 1931 viết cho báo “Trung Bắc Tân Việt” với bút danh Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế. Năm 1932 cho in cuốn "Giọt lệ xuân" tại nhà xuất bản Tân Dân. Danh tiếng Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế bắt đầu được mến mộ. Đến khi nhật báo “Phụ Nữ Thời Đàm” dành hẳn môt trang để giới thiệu “Giọt lệ xuân” với nữ sĩ tí hon Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế thì tiếng tăm của Đỗ Thị Quế đã nổi khắp kinh thành. Năm ấy Đỗ Thị Quế vừa độ tuổi trăng tròn. Tài thơ phú bẩm sinh, sắc đẹp diễm kiều, lại đàn hay, họa giỏi, thêu thùa rất khéo, Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế đã trở thành niềm mơ ước của biết bao tài danh đất Bắc Hà. Nhưng mà như Phạm Quý Thích đã từng nói: "Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy". Hạnh Liên - Đỗ Thị Quế cũng không thoát được cái vòng trầm luân ấy. Dường như bà cũng ý thức được điều ấy. Trong bài “Hoài cảm”, từ thuở ấy, bà đã viết: "Mỗi bước chân đi, mỗi bước sầu, Trăm năm thân thế gửi về đâu". Hiểu rõ con gái mình, ông đồ Nho Đỗ Hữu Tài muốn Quế sớm yên bề gia thất. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình lẩn trốn. Biết khó bề khuyên bảo, ông đồ Nho đuổi đánh, đập nát 3 giàn hoa thiên lý, Đỗ Thị Quế đành phải bò ra cúi lạy cha xin chịu vâng lời. Thế là bóng dáng chàng "hiệp sĩ" cách mạng mặc áo choàng đen mới kịp hiện hữu trong trái tim mẫn cảm của nàng thi sĩ tuổi trăng tròn đã trở thành dang dở. Lên xe hoa về nhà chồng nàng quay đầu về phương trời nơi người ấy ra đi, tạ tội: "Ngày chửa sang thu đã thấy buồn Tình chưa ngời sáng đã hoàng hôn Trời không mưa gió lòng mưa gió Người ở đầu thôn mộng cuối thôn". Nhưng rồi tổ ấm gia đình cũng không thể giữ nổi con tim sôi nổi, ưa hoạt động của bà. Nhà thơ tìm đến với phong trào cách mạng - Đó là vào năm 1935 - Bắt đầu bằng việc làm giao liên cho Đoàn Thanh niên cộng sản. Cũng từ thời gian này, bút lực của nữ sĩ càng thêm sung sức hơn. Vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì "cô Hạnh Liên đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo họa cho cả dòng họ". Một đêm mưa gió bão bùng, bụng mang dạ chửa, Hạnh Liên lại gieo mình xuống Hồ Tây. "Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân" - sau này nữ sĩ nhớ lại. Rồi bà bảo: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp". Vì là nghiệp chướng nên cái nợ văn chương cứ đeo đuổi mãi. Năm 21 tuổi nữ sĩ cho xuất bản cuốn "Duyên văn", rồi vào Sài Gòn viết cho “Điện tín nhật báo” và “Mai” của Đào Trinh Nhất. Một thời gian sau đó, nữ sĩ quay ra Bắc viết cho “Tiểu thuyết thứ bảy”, “Phổ thông bán nguyệt san”, “Đàn bà”... Năm 1939 "Trưng nữ vương" ra đời đã đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp văn chương của nữ sĩ: tên tuổi của bà đã vang vọng từ Nam ra Bắc và bốn năm sau đó tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân” với bút danh Ngân Giang ra đời đã đưa Ngân Giang lên vị trí những người được yêu thích nhất trên thi đàn Việt Nam. Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ. Ngân Giang bị cuốn theo dòng thác cách mạng. Nữ sĩ hô hào cổ vũ cho cuộc kháng chiến. Để tỏ lòng tôn kính các vị anh hùng dân tộc, Hồ Chí Minh, Ngân Giang đã đem hết cái tài thêu thùa được học từ thuở nhỏ, thêu cả một bài thơ "Kính dâng các bậc anh hùng", trong đó có những câu đầy khí phách "Ta say uy võ Trần Hưng Đạo, ta say sự nghiệp Hồ Chí Minh" và dâng lên ông Hồ. Cảm động trước bầu nhiệt huyết của nữ sĩ, Hồ Chí Minh khen: "Mấy lời cảm tạ Ngân Giang Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" Ngơ ngác phương trời con én lạc Do đòi hỏi cấp bách và chiến lược lâu dài của cuộc kháng chiến, Bộ chỉ huy của cách mạng Việt Nam dời về Việt Bắc. Ngân Giang cũng hăng hái đeo ba lô, cùng đàn con nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc để rồi hai năm sau đó phải quay trở lại nội thành. "Thân gái bơ vơ giữa dặm trường". Muôn vàn mối đe dọa, cám dỗ - Ngân Giang nhớ lại. Rồi thì cũng phải tìm chốn nương thân. Trong số những người tìm đến bà chọn con trai tuần phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ. Công bằng mà nói, ở mức độ nào đó, bà có lý. Chẳng thế mà, có lần, với tư cách là con dâu tuần phủ, nữ sĩ vào được tới tận sào huyệt của Quốc Dân Đàng Việt Nam, cứu được nhiều trinh sát Việt Minh thành. Trong số đó có cả nhạc sĩ Đỗ Nhuận. Sống trong lòng địch mà lòng nữ sĩ vẫn hướng về Việt Bắc: “Gác xép mơ màng tin quốc sự Ngày về mãi mãi nhớ lời nhau”. Cách mạng thành công, hòa bình lập lại, Ngân Giang bắt đầu bị quên lãng. Tên tuổi và thơ văn của nữ sĩ không được xuất hiện trên sách báo, mặc dù những người yêu thơ từ Nam chí Bắc vẫn truyền tay nhau chép thơ bà. Cái chân cán bộ văn hóa quèn của bà cũng bắt đầu bị lung lay. Và năm 1957, ở tuổi 41, Ngân Giang nữ sĩ nổi tiếng đã buộc phải rời khỏi Sở Văn hóa thông tin Hà Nội. "Ra khỏi biên chế nhà nước thời bấy giờ là chuyện kinh khủng" - Ngân Giang nhớ lại. Đi đâu, làm gì để nuôi sống bản thân và cả đàn con đây? Với tâm trạng cô miên nữ sĩ thốt lên: "Ngơ ngác phương trời con én lạc Chập chờn khung cửa cánh hoa nghiêng" Tuyệt vọng, không còn biết bấu víu vào đâu, Ngân Giang cầu cứu Hội Nhà văn, rồi Nhà xuất bản của Hội để may ra kiếm được một công việc gì đấy: biên tập, morat, đóng bìa sách, thậm chí là rửa cốc chén, dọn vệ sinh... miễn là có việc, có lương. Viết đơn, chờ đợi. Lại viết đơn. Đến lần thứ 10, không chờ được nữa bà chạy tới "cạy cục" nhà thơ Xuân Diệu. Xuân Diệu thương bà lắm, nhưng rồi ông cũng chỉ biết thở dài: "Khổ quá, tôi là thiểu số!", sau khi đã vò đến nát đầu, gãi đến đỏ tai. Tuyệt vọng đến cùng cực, "chết không được đành phải sống". Ngày ngày nữ sĩ ra bãi sông Hồng quét là khô để bán, tối về đi rửa bát, chai lọ thuê. Làm quần quật cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho 10 đứa con sống lay lắt qua ngày. ông Tú Mỡ, thủ quỹ Hội Nhà văn lúc bấy giờ thương tình ứng trước cho bà 20 đồng với điều kiện: "Hết tháng phải trả nợ cả gốc lẫn lãi bằng... thơ". Cụ Tú thương mà làm vậy, chứ thực tình cụ thừa biết suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm cơm, kiếm cháo thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện văn chương. Mà có trả vốn và lãi bằng thơ cho cụ thì đăng ở đâu bây giờ? Cũng không thể ngờ được rằng cuộc sống bằng nghề quét lá ấy kéo dài tới 10 năm, và kết quả là: "Mười năm quét lá bên sông Hình hài để lại cái còng trên lưng" Bạn bè, những người yêu thơ Ngân Giang đến thăm bà, không ai cầm được nước mắt. Nhưng vận may có lúc cũng mỉm cười với nữ sĩ. Nhờ tài thêu ren từ tấm bé, Ngân Giang được nhận vào Hợp tác xã thêu ren Song Hỷ. "Chiếc kim chiếc bút vui ngày tháng Nào có ham gì miếng ngọt ngon" Nhưng cái hạnh phúc nhỏ nhoi ấy cũng tồn tại chẳng được bao lâu. HTX phát động phong trào "phê bình và tự phê bình". Bà hăm hở hưởng ứng "chống tiêu cực, tố cáo kẻ tham ô" và kết quả là bị đuổi ra khỏi HTX vì "gây rối trật tự công cộng. Bôi xấu cán bộ lãnh đạo". Thế là nữ sĩ lại bơ vơ. Giờ thì không còn đủ sức để quét lá, rửa bát, chai lọ thuê nữa rồi. Bà ra đường mở quán bán nước: "Một quán bên sông cuối phố nghèo Miếng trầu bát nước có bao nhiêu" Khổ một nỗi vốn liếng đã ít, khách thì phần đông lại là bạn văn chương "thừa tình cảm nhưng lại chẳng có tiền". Biết làm sao được. Rồi hy vọng cứ nhạt nhòa theo năm tháng: "Sớm tối dăm ba đồng vốn liếng Tháng ngày dăm bảy khách văn chương Ôi năm cứ hết, xuân không hẹn..." Cuộc sống cứ kéo dài, và nữ sĩ vẫn ngày ngày: "Còm cõi bên sông tóc úa dần/ Tay nâng chén nước lệ đầy khăn". Tuy nhiên bất chấp khó khăn níu kéo, bất chấp miệng tiếng thị phi. Nữ sĩ không những tỏ ra có nghị lực mà con đầy phách lực, bà cứ thản nhiên, nhi nhiên sống và chiêm nghiệm: "Sớm khuya ngâm ngợi câu thành bại Dưa muối đôi chiều cũng thấy ngon" Quả thực nếu chỉ quẩn quanh vì chuyện áo cơm và những bất hạnh chồng chất hẳn nữ sĩ không tài nào đứng vững được. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Ngân Giang là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: bà là người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002) có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 4.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng và được coi là hay trong áng văn thơ nước nhà (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...) Ngày tháng rồi sẽ qua đi. Những bất hạnh của cuộc đời sẽ lùi dần vào quá khứ. Nhưng sự nghiệp văn chương của bà sẽ còn được nói đến: "Rằng ngày xưa ấy Ngân Giang Một dòng sông lạnh muôn vàn sao rơi". Mối tình si Theo nữ sĩ Ngân Giang thì bà có khá nhiều người mê, có người si mê. “Bây giờ vẫn còn có người mê đấy”- có lần bà bảo với tôi như vậy. Lúc ấy bà đã 80 tuổi. “Người ta mê nhau là vì cái tài, chứ sắc thì nay hết rồi”- bà bảo. Trong nhân gian người ta hay đồn nhiều về chuyện thi sĩ-nhà giáo Đông Hồ chết trên bục giảng khi đang bình thơ bà. Đó là khi ông bình bài thơ “Trưng nữ Vương”, một trong những bài thơ được coi là hay nhất của Ngân Giang. Người ta coi nó là tuyệt tác là bởi: Từ trước tới nay, hình tượng hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trưng Nhị) nói chung và Bà Trưng Trắc nói riêng đã nhiều lần đi vào văn, thơ, nhạc, họa. Song đằng thẳng mà nói, ở thể loại thơ, hiếm có tác phẩm nào thể hiện được hình ảnh Bà Trưng Trắc đẹp một cách quyền quý, đài các như trong "Trưng nữ vương" của Ngân Giang. Có thể với những câu chữ đầy hình ảnh ước lệ, kiểu như: "khóe hạnh", "bóng sao rơi", "chim bằng", "đường kiếm mã", "gót ngọc"…, ta sẽ thấy "không gian thơ hơi ca kịch" (như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét), song thiết nghĩ, chúng ta từng quen với một hình ảnh Bà Trưng Trắc mộc mạc, dân dã trong "Đại Nam quốc sử diễn ca" từng một thời được đưa vào sách giáo khoa (Bà Trưng quê ở Châu Phong/ Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên/ Chị em nặng một lời nguyền/ Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân/ Ngàn tây nổi áng phong trần/ Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên/ Hồng quần nhẹ bước chinh yên/ Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành/ Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta/ Ba thu gánh vác sơn hà/ Một là báo phục, hai là Bá vương…) thì cũng nên biết đến một hình ảnh Bà Trưng Trắc trong phong thái của một vị nữ vương đài các. Thật hiếm có câu thơ nào tả được nỗi cô đơn bi tráng của vị Nữ vương trong khi vừa để tang chồng vừa mưu đền nợ nước đẹp và ấn tượng như mấy câu thơ này “Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi” và: “Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời”. Đặc biệt, hình ảnh xuất hiện ở đoạn kết bài thơ cùng với tiếng than não ruột đã nâng tầm bài thơ lên thành một bản "anh hùng ca" kết hợp với "tình ca". Cái đẹp, cái mới trong tâm hồn một nữ thi sĩ sống ở thế kỷ XX đã nhập vào tâm hồn của một nhân vật lịch sử sống cách đó hai chục thế kỷ, khiến tâm thế nhân vật trở nên sống động, gần gũi hơn với độc giả thời nay. Và đó là một trong những thành công của bài thơ. Không phải ngẫu nhiên mà với khổ thơ kết bài: Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi… Người ta kẻ lại rằng, vào ngày 25 tháng 3 năm 1969, trong khi đang bình bài thơ này cho các sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn cùng thưởng thức, đọc đến câu: “Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa/ Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi” và ông mới thốt lên: “Chàng ơi....” thì ngất xỉu ngay trên bục giảng, để rồi sau đó ít giờ, ông vĩnh viễn giã biệt thế gian. Cái chết của thi sĩ - nhà giáo Đông Hồ trong lúc trình diễn bài thơ của nữ sỹ Ngân Giang được xác định là do chấn động tâm lý, dẫn tới cơn tai biến mạch máu não. Đây được xem là một trong những giai thoại văn chương đẹp nhất từ trước tới nay. Sau này tôi có đem câu chuyện này kể lại cho bà nghe, bà ý nhị bảo, bà cũng chỉ nghe người ta đồn thổi thế thôi. Một tuần trước khi bà qua đời, tôi và một nữ đồng nghiệp đến thăm bà. Bà đã rất yếu, người cháu dìu bà ngồi lên xe lăn. Giọng đọc thơ của bà ngắt quảng sau những cơn thở dốc. Khi ra về bà cứ nắm mãi tay chúng tôi như không muốn rời. Khi chúng tôi đã đi ra cuối ngõ, nhìn lại vẫn thấy bà ngồi trên xe lăn trước cửa. Bà đưa tay lên định vẫy nhưng dường như cánh tay đã “không chịu nghe” bà. Ngày 17/8/2002 bà đã trút hơi thở cuối cùng mang theo tất cả những vinh quang và cay đắng, mà bà “được” và “phải” gánh chịu trên thế gian này. Lê Thọ Bình1 like
-
Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Tôi đưa nội dung liên quan đến một dự báo về khả năng động đất ở Tây Ninh - từ những topic khác, nhằm xác định rõ hơn về tính vượt trội của Lý học Đông phương , nhân danh nền văn hiến Việt với tri thức nền tảng của khoa học hiện đại, về vấn đề liên quan là dự báo động đất với mục đích tham khảo. Đây cũng không phải là những dự báo duy nhất đúng của Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - về động đất ở Việt Nam và toàn thế giới. Ngay trong diễn đàn này, chúng tôi đã có cả một topic chứng nghiệm về những dự báo của Lý học Việt về động đất với một sự chính xác rất cao, so với kiến thức của khoa học hiện đại. Và ngay cả trước khi trang web này xuất hiện vào 2008, chúng tôi - nhân danh nền văn hiến Việt - đã có những dự báo về động đất chính xác. Cụ thể là trận sóng thần Indo- Phi luật Tân 2004, nguyên văn như sau:1 like