• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 01/07/2015 in Bài viết

  1. Ông Trần Quang Cơ: Việc cần làm với Mỹ 'chậm cả 10 năm' Bản lĩnh Trần Quang Cơ từ trong sâu thẳm luôn chủ trương xây dựng một nền ngoại giao vì lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo vệ đến cùng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Năm 2015 kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ cũng là thời điểm đánh dấu quan hệ hai nước đã và đang phát triển vượt bậc. Nhất là trong bối cảnh lần đầu tiên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng chuẩn bị thăm chính thức Hoa Kỳ vào đầu tháng 7 này. Nền ngoại giao “Đổi mới” với phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” đã được khởi động vào thời điểm then chốt năm 1991 (Đại hội 7 Đảng Cộng Sản). Chính cái “nhân” gieo thuở ấy đã mang lại mùa gặt hứa hẹn hôm nay. Tại một hội thảo gần đây về quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, nguyên Đại sứ đầu tiên của nước ta tại Mỹ Lê Bàng đã đề nghị việc ghi nhận công lao của của một số cá nhân trong việc thúc đẩy, đàm phán bình thường hoá quan hệ với Mỹ mà trước nay chưa được nhắc đến nhiều trong đó có Thứ trưởng Trần Quang Cơ, Thứ trưởng Lê Mai...[1] Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ cùng đoàn Việt Nam đến Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Paris (Pháp) để đàm phán về việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ (1977) - Ảnh: Sách ảnh 65 năm ngoại giao Việt Nam (1945-2010)/ Báo Thanh Niên Cái nhìn tỉnh táo từ rất sớm Nhiều năm sau “thời điểm then chốt” khi nhìn lại, cựu Ủy viên TƯ Đảng, Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ vẫn cảm thấy có phần tiếc nuối. Theo ông, những việc cần thiết làm với Mỹ, trên thực tế chúng ta đã tiến hành, nhưng “chậm trễ tới cả mười năm”[2]. Bởi như ông thẳng thắn chỉ ra khi được hỏi nếu nghĩ lại, ông có thấy trước đây những cơ hội nào bị bỏ lỡ, những điều gì Việt Nam có thể làm khác không: “Một nước nhỏ hay trung bình như Việt Nam thì càng nhiều bạn càng tốt. Tôi thấy điều có thể làm khác là phải đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế sớm hơn. Trước Đại hội Đổi mới (năm 1986), Việt Nam đã quá phụ thuộc vào ý thức hệ mà không đa phương hóa được quan hệ”. Giờ thì đã quá muộn để có thể hỏi trực tiếp cựu Thứ trưởng Thứ nhất Trần Quang Cơ về cách ông tính như thế nào để đưa ra chỉ dấu cho thấy, chúng ta triển khai một kế sách về an ninh quốc gia quan trọng dường ấy mà để muộn mất cả chục năm. Chúng ta rất muốn hỏi ông nguyên nhân tại sao. Không phải để quy trách nhiệm, mà cái chính là để rút bài học cho hiện tại và cho tương lai. Quả thật, ngay từ rất sớm, ông Trần Quang Cơ đã có cái nhìn tất tỉnh táo khi cho rằng, một nước Việt Nam đổi mới, độc lập với các nước lớn, cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu vực. Ông Cơ cũng đã phân tích các mối tương tác tạo nên vị thế của Việt Nam trong quan hệ với Mỹ. Ông cho rằng, tuy không có một vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không tính đến trong chiến lược của Washington ở Châu Á–TBD và Đông Nam Á. Hơn nữa, về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nguyên liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ đi mạnh vào thị trường Việt Nam. Trăn trở về quyền lợi đất nước, tinh thần độc lập, tự chủ Là chuyên gia loại một, ngay từ những ngày đầu, ông Trần Quang Cơ đã giữ cương vị nòng cốt trong hầu hết các giai đoạn quan trọng nhất của ngành ngoại giao giai đoạn 1960 - 1980. Với tư cách một chuyên viên cao cấp về Mỹ, ông đã tham gia với vai trò là một trong những cán bộ lãnh đạo các đơn vị chuyên trách, tham mưu về giải pháp phục vụ cho cuộc hòa đàm Paris, sau đó trực tiếp tham gia đoàn đàm phán cả công khai lẫn bí mật (kết thúc vào tháng 1/1973). Mấy năm về sau, trong chiều hướng đi tìm những đối thoại thẳng thắn giữa các cựu thù, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara đã đề nghị các học giả và các nhà lãnh đạo cuộc “chiến tranh Việt Nam” (theo cách nói của người Mỹ), cùng ngồi xuống duyệt lại những quyết định trong chính sách để hiểu rõ hơn, nhưng đặc biệt là để rút ra những kinh nghiệm lịch sử cho toàn cầu thông qua “bài học Việt Nam”. Sáu hội nghị như thế đã diễn ra tại Hà Nội từ tháng 11/1995 đến tháng 2/1998. Hội nghị thứ 7 diễn ra tại Viện Rockefeller ở Bellagio, Italy. Ông Trần Quang Cơ, ông Nguyễn Cơ Thạch và một số học giả, tướng lĩnh và cựu lãnh đạo CHXHCN Việt Nam đã tham dự chuỗi hội nghị ma-ra-tông này, mà quan trọng nhất là hai hội nghị chính vào tháng 6/1997 và tháng 2/1998. Cả ông Cơ lẫn ông Thạch đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình hàn gắn quan hệ Việt – Mỹ. Nhưng có lẽ liên quan đến các diễn tiến phức tạp hơn trong quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác là giai đoạn đầy năng động và sáng tạo của ngoại giao Việt Nam vào cuối những năm 1980, đầu những năm 1990. Ông Trần Quang Cơ lúc ấy đã là thành viên ban lãnh đạo của Bộ Ngoại giao, cùng với tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Thứ trưởng Trần Quang Cơ luôn chủ động đề xuất các ý kiến dựa trên những đánh giá tỉnh táo, những trăn trở về quyền lợi của đất nước, thấm nhuần tinh thần độc lập, tự chủ trong tư duy cũng như trong tác phong lãnh đạo. Liên quan đến công tác nghiên cứu chiến lược cũng như các hành vi mang tính động thái, ông Trần Quang Cơ luôn có cách nhìn “cân bằng và đối trọng”. Trong quan hệ với Mỹ, ông chủ trương phải tăng cường hợp tác trên nhiều mặt nhưng vẫn cần đấu tranh khi nẩy sinh vấn đề trái với lợi ích của ta (ví dụ như vấn đề chất độc da cam chẳng hạn). Với Trung Quốc cũng vậy, ông thường nhắc không thể quá nặng về hợp tác và nhân nhượng để bị đánh giá là ta thúc thủ, coi nhẹ mặt đấu tranh. Viết những dòng này nhân ngày tiễn ông Trần Quang Cơ đi xa, lớp hậu sinh chúng ta hẳn không quên một trong những dòng tâm sự cuối cùng của ông, được lưu lại trong một bài viết ghi dưới là “tháng Chạp năm 2010” mà ông chuyển cho anh Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế (nay là báo Thế Giới và Việt Nam): “Rút cục chỉ có chính nhân dân ta mới thực sự cứu được nước ta thôi. Nhưng trên dưới phải một lòng, như thời Hội nghị Diên Hồng ngày xưa. Đảng phải dựa vào Dân, Dân vững lòng tin cậy vào Đảng thì dân tộc ta mới thực sự có sức mạnh để bảo vệ đất nước”. Đinh Hoàng Thắng Hà Nội ngày 1/7/2015, viết nhân Tang lễ cựu Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ ------------- [1] Cố Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ: Một lòng vì Tổ quốc, Thanh niên, 29/06/2015.[2] Câu chuyện về ngoại giao nhân dân, Dân trí, 10/10/2011 ================= Chà! Chào bác Đinh Hoàng Thắng. Lâu quá mới gặp bác...trên báo mạng. Chúc bác sức khỏe. Vì chỗ quen biết, nên cũng mạnh dạn xin có vài lời gọi là bình luận về quan hệ Việt Nam và thế giới, nhìn từ góc độ Lý học. Tôi bắt đầu từ việc xác định tâm trong phong thủy. Một ngành ứng dụng rất quan trọng của Lý học Đông phương, vì tính tổng hợp mọi kiến thức Lý học trong ngành học này. Trong phong thủy, tôi tự hào rằng là người đầu tiên, từ hàng ngàn năm qua, xác định phương pháp định tâm trong các ứng dụng của phong thủy, nhân danh nền văn hiến Việt. Đây là điều mà cổ thư chữ Hán hoàn toàn không hề nói tới. Tôi định nghĩa: Một điểm xác định là tâm trong một đối tượng để ứng dụng các phương pháp phong thủy, phải là điểm cân bằng tĩnh khi một mô hình có tỷ lệ biểu kiến của nó được treo bởi điểm gọi là tâm của mô hình đó. Hay nói theo cách khác: Nó chính là điểm cân bằng giữa các lực tương tác trong một đối tượng ứng dụng phương pháp phong thủy. Ứng dụng vào mọi vấn đề từ quan hệ xã hội và cả việc ngoại giao của một quốc gia với tương tác đa chiều - đặc biệt trong thế giới hội nhập với những tương tác xung đột - thì được đặt vào vị trí trung tâm đều sẽ có lợi thế. Từ người đẹp nhất dạ hội, cho đến quốc gia ở vị trí trung tâm đều có lợi thế cho cá nhân hoặc quốc gia. Cộng với nền tảng tri thức đích thực của nền văn minh Đông phương, cộng với một quan hệ đa chiều thì Việt Nam sẽ trở thành vị trí trung tâm trong hoàn cảnh hiện này để cân bằng các lực tương tác. Hiện nay Việt Nam đang ở vị trí này một cách tự nhiên. Định nghĩa về tâm trong phong thủy của Địa Lý Lạc Việt là cân bằng. Mọi sự nghiêng lệch đều không tốt trong lúc này. Cảm ơn bác Thắng nếu chú ý đến bài viết này của tôi. .
    1 like
  2. Lương y Võ Hoàng Yên và phương pháp bấm huyệt chữa bại liệt, câm điếc thần kỳ: 80% bệnh nhân câm điếc bẩm sinh là do tiêm kháng sinh quá liều Đăng Bởi Một Thế Giới - 07:21 01-07-2015 LY Võ Hoàng Yên bấm huyệt đạo, phục hồi chức năng cho bệnh nhân Thuốc kháng sinh được chỉ định liều dùng theo tuổi và cân nặng. Nhưng cơ địa của mỗi đứa trẻ lại rất khác nhau. Bác sĩ tiêm đúng liều cho phép, nhưng nếu thần kinh của bé chưa hoàn chỉnh hoặc còn non yếu sẽ có thể dẫn đến bại não và hậu quả là câm điếc bẩm sinh, bại liệt. 7 giờ sáng ngày 21/6/2015, tôi có mặt tại Trung tâm Võ Hoàng Yên, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Còn đúng 1 giờ nữa, các thấy thuốc của Trung tâm mới khám và chữa bệnh, nhưng bệnh nhân và người nhà của họ đã tập trung rất đông. Xe ô tô đổ san sát. Khoảng gần 1000 người đang rồng rắn xếp hàng, chờ được gọi tên, trong khi mỗi ngày Trung tâm chỉ khám và chữa bệnh cho được khoảng 270 người. Thư ký của thầy Võ Hoàng Yên cho tôi biết, từ ngày 2/6 đến ngày 19/6/2015, có gần 90.000 cuộc gọi đến tổng đài tự động của Trung tâm, số máy là 01234.777.222, để đăng ký chữa bệnh. Như thế là quá tải khủng khiếp. Mỗi tháng Trung tâm chi hoạt động 10 ngày, trong đó có 2 ngày nghỉ (23 và 27 hàng tháng) và khám chữa được cho 2400 người, nghĩa là phải 4 tháng liền Trung tâm mới giải quyết hết số người đăng ký của tháng 6. Trung tâm xếp theo thứ tự trước sau, ai đăng ký trước sẽ được chữa trước. Hàng ngày phòng Hành chính niêm yết công khai danh sách bệnh nhân được xếp chữa trong ngày. Nhưng có rất nhiều người không kịp đăng ký hoặc không biết thủ tục đăng ký, cứ liều đưa bệnh nhân tới và kiên trì chờ đợi. Thầy Yên vốn rất thương người, thấy bệnh nhân ăn chực nằm chờ thì lại bảo phòng Hành chính làm thủ tục đăng ký bổ sung. Mỗi ngày có 40 suất đăng ký bổ sung. Theo lịch, đến 17 giờ, các thầy sẽ nghỉ nhưng ngày nào họ cũng phải làm việc tới tận 20 giờ. Vì thầy Yên rất bận nên có hẹn phóng viên Người Giữ Lửa vào tận 20 giờ 30 tối. Tranh thủ thời gian chờ đợi, tôi đã có mặt tại phòng khám của sư Tôn để quan sát thấy chữa bệnh. Sư Tôn chữa rất giỏi và nhanh, khoảng 3 phút một ca bệnh. Bệnh nhân của sư Tôn trong buổi sáng ngày 21 /6 chủ yếu là câm điếc bẩm sinh, chỉ có 2 ca điếc đột ngột của người già. Sư Tôn cho biết: "80% trường hợp câm điếc bẩm sinh là do lỗi của bác sĩ mà chủ yếu là tiêm kháng sinh quá liều. Anh Phạm Văn Khánh ở Ninh Kiều, TP. Cần Thơ, 3 tuổi bị viêm cầu thận, bác sĩ tiêm kháng sinh và bị câm điếc từ đó đến nay. Bây giờ anh Khánh đã 33 tuổi. Vợ anh Khánh là chị Trần Thị Vinh, 30 tuổi, bị sốt xuất huyết năm lên 4 tuổi, bác sĩ tiêm kháng sinh và cũng bị câm điếc. Tôi đã chữa bệnh ở Mỹ 2 đợt, mỗi đợt 15 ngày, tuyệt nhiên không thấy bệnh nhân câm điếc bẩm sinh, chủ yếu là điếc đột ngột. Các bác sĩ Mỹ rất thận trọng khi quyết định dùng kháng sinh cho trẻ em. Một liều kháng sinh có thể không cao với bé này, nhưng lại rất cao với bé khác, vì thể trạng, cân nặng, thần kinh của mỗi bé khác nhau. Vì thế trước khi quyết định dùng kháng sinh cho trẻ em, các bác sĩ phải thử đi thử lại rất cẩn thận, ở Mỹ, nếu bác sĩ điều trị gây ra tai biến như vậy thì phải bồi thường. Một bé gái 19 ngày tuổi ở CH Liên bang Đức bị sốt, bác sĩ tiêm kháng sinh quá liều, dẫn đến bệnh nhân bị câm điếc và bại liệt. Gia đình đưa đơn kiện và bệnh viện phải bồi thường. Họ phải cử một y tá đến tận nhà chăm sóc bệnh nhân suốt 20 năm. Năm 2013, qua mạng, cô y tá này mới biết tới Trung tâm Võ Hoàng Yên và quyết định đưa người bệnh của mình sang Việt Nam chữa. Cô y tá thuê khách sạn, ở Việt Nam 6 tháng và tháng nào cũng đưa bệnh nhân đến Trung tâm chúng tôi chữa 3 lần. Rất may là bệnh nhân đã khỏi. Chứng bại liệt do thầy Yên chữa, còn chứng câm điếc do tôi điều trị". Trở lại cặp vợ chồng Phạm Văn Khánh, ngay trong lần bấm huyệt đầu tiên, anh Khánh đã nghe được tiếng vỗ tay của sư Tôn và đếm chính xác nhịp vỗ tay của thầy, nhưng nói thì vẫn chưa rõ lắm. Sư Tôn nói với người nhà bệnh nhân: "Cứ ngày 20 hàng tháng thì đưa bệnh nhân đến đây chữa. Trường hợp này chắc chắn sẽ khỏi hẳn, nhưng thời gian phải tính bằng năm chứ không phải tính bằng tháng. Ba phút bấm huyệt mà bệnh nhân khỏi hẳn được thì không có". Còn với chị Trần Thị Vinh, vợ anh Khánh, thì sư Tôn chịu thua. Sau khi nén hơi vào ống tai và rút lưỡi, bấm huyệt ở cuống họng, sư Tôn giơ ngón tay lên và đếm "Một" nhưng chị Vinh đếm "Ba". Thầy giơ cả bàn tay, chị Vinh cũng đếm "Ba" Sư Tôn nói: 'Trường hợp như thế này thì tôi chịu thua. Kháng sinh đã làm bại não của bệnh nhân rồi. Bệnh nhân này như cây đàn ghi ta có 6 dây nhưng 5 dây đã bị đứt rồi. Tai vẫn tiếp nhận được âm thanh, nhưng bộ não không phân tích được tín hiệu âm thanh nên chỉ nói được một từ mà ba má đã dạy cho từ bé. Như thế thì tôi chịu thua, 10 ca chịu thua cả 10. Chữa bệnh câm điếc bẩm sinh phải bắt đầu từ việc chữa nghe. Có nghe được mới nói được. Nếu không nghe được thì như đứa bé bị bỏ rơi trong rừng. Có rất nhiều trường hợp trẻ sơ sinh trên thế giới được chó sói nuôi, khi phát hiện, các bé chỉ biết sủa chứ không biết nói tiếng người. Nghĩa là nếu kiên trì dạy dỗ thì các bé này vẫn có thể nói được. Vì thế, bệnh nhân bị câm điếc bẩm sinh, sau khi được chữa khỏi ở Trung tâm thì về nhà người thân vẫn phải dạy nhiều". Trường hợp bé Nguyễn Văn Đăng Khoa, 3 tuổi ở Hải Dương, tuy không bị cái họa kháng sinh, nhưng lỗi vẫn thuộc về bác sĩ. Vì trong quá trình đỡ đẻ, bác sĩ không cẩn thận nên bé bị ngạt do bị thiếu oxy trầm trọng khi vừa mới lọt lòng nên não của bé bị tổn thương nặng nề và cháu không nghe được tứ chi không động đậy. Đọc báo biết tới Trung tâm Võ Hoàng Yên, bố mẹ Khoa đã đưa con đến đây. Trường hợp này, thầy Yên phải trực tiếp chữa. Đây là bệnh nhân rất quen thuộc của Trung tâm Võ Hoàng Yên. Tháng 6/2015 là đợt chữa thứ 13 của Khoa. Cứ đến ngày 20 hàng tháng là bố mẹ đưa Khoa đến Trung tâm, thuê phòng trọ, ăn cơm chay miễn phí và mỗi đợt thầy Yên chữa cho Khoa 3 lần. Sáng 21/6, khi gặp cháu, tôi hỏi:"Khoa có thích được thầy Yên chữa không?". Cháu trả lời khá rõ:"Không. Đau lắm!Thầy Yên giơ tay về phía cháu:"Đến thầy Yên bế Khoa một chút nào" Khoa chạy đến với thầy Yên rất nhanh. Mọi người vỗ tay hoan hô cháu. Thầy Yên nói: "Tiến bộ vượt bậc rồi, nhưng vẫn phải chữa tiếp ít nhất 6 tháng nữa. Cách đây 12 tháng, lần đầu bấm huyệt cho cháu, tôi thấy có dấu hiệu chuyển biến, tứ chi bắt đầu có phản xạ, tai biết tiếp nhận âm thanh. Tôi nói với gia đình rằng cháu sẽ khỏi, nhưng phải kiên trì, vì việc này khó hơn đường lên trời. Và nhờ bố mẹ quyết tâm cao mà đã cứu được con. Chữa thêm 6 đợt nữa, cháu sẽ bình thường và có thể đi học như mọi đứa trẻ khác" Đến giờ hẹn với thầy Yên, khi phóng viên có mặt, thầy mới vừa dùng xong bữa cơm chay và chưa kịp tắm. Tuy vậy, thầy vẫn dành nhiều thời gian trò chuyện với phóng viên về chuyến đi chữa bệnh ở Singapore mới đây và quan trọng hơn là thầy đã nhận lời làm chuyên gia tư vấn về phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc trên Người Giữ Lửa và Tamsugiadinh.vn. 22 giờ ngày 21 /6, tôi mới rời Trung tâm Võ Hoàng Yên. Đọng lại trong tôi là cái lưng áo đầm đìa mồ hôi của thầy Yên và sư Tôn. Họ đã dốc sức làm việc như khổ sai mà không màng danh lợi. Theo thống kê của Trung tâm thì mỗi năm có hàng nghìn người bại liệt đã khỏi bệnh, đi lại được và hàng nghìn bệnh nhân câm điếc có thể nghe nói. Nói như vậy để thấy mỗi ngày sống và làm việc của các thầy có ý nghĩa lớn lao biết bao nhiêu. Ngọc Tuệ / Người giữ lửa
    1 like
  3. Con đầu hay bệnh vặt do mạng Hỏa khắc mẹ Kim, còn nhỏ yếu nên ko khắc được lại bị mạng bố Thủy khắc Hỏa nên hay bệnh. Âm ko dưỡng được Dương nên công việc cũng vất vả hơn trước. Muốn hóa giải thì năm 2017 Đinh Dậu sinh thêm 1 bé nữa nhé. Thân mến.
    1 like
  4. LỜI TIÊN TRI ẤT MÙI 2015 Đại ý: Kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái. Nó giống như một nồi lẩu thập cẩm mà chất lượng nước dùng kém hơn mọi năm. Nền kinh tế Hoa Kỳ dù có phát triển, cũng không thể kéo đoàn tàu kinh tế thế giới đằng sau nó.... ============================ Đồng AUD rơi xuống mức thấp nhất trong vòng 6 năm qua Minh-Hằng (TTXVN/Vietnam+) lúc : 11/03/15 16:00 (Nguồn: audnews.com.au) Trong phiên sáng ngày 11/3, đồng AUD của Australia đã có lúc được giao dịch ở mức 0,7619 USD/AUD, so với mức 0,7647 USD/AUD trong phiên ngày 10/3. Đây là mức thấp nhất kể từ tháng 5/2009. Đồng AUD đã mất gần 20% giá trị so với mức đỉnh đạt được hồi giữa năm 2013. Nguyên nhân chủ yếu được cho là do thị trường lao động tại Mỹ được cải thiện đã giúp giá đồng USD tăng cao. Báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho biết trong tháng Hai, nền kinh tế Mỹ đã tạo được 295.000 việc làm. Các nhà phân tích ngày càng nghiêng về dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed, ngân hàng trung ương nước này) sẽ sớm tăng lãi suất. Một nguyên nhân khác khiến đồng AUD giảm giá là do thị trường hàng tiêu dùng yếu kém, giá dầu mỏ sụt giảm và giá quặng sắt ở mức thấp kỷ lục. Ngoài ra, các nhà đầu tư giảm hoạt động kinh doanh cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc đồng AUD tụt giá mạnh. Christopher Kent, một quan chức của Ngân hàng Dự trữ Australia (RBA) cho hay đồng AUD giảm đang giúp nền kinh tế nước này đối phó với xu hướng thoái trào trong ngành khai mỏ. Bên cạnh đó, lĩnh vực du lịch và giáo dục trở nên cạnh tranh hơn nhờ đồng AUD sụt giảm. Số liệu công bố mới nhất cho thấy GDP trong quý 3/2014 của Australia chỉ tăng 0,3% so với quý trước đó, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở gần mức cao nhất trong 10 năm qua là 6,1%./.
    1 like
  5. Bàn về Tướng pháp Phụ Nữ Lời Tựa Cuộc sống của nam tử được phân làm 4 giai đoạn chính sau: 1 - Định học 2 - Định tình 3 - Định nghiệp 4 - Định tử Từ 10 đến 20 nên tìm Thầy mà học. Từ 20 đến 30 nên tìm vợ cho yên bề tình cảm. Từ 30 đến 40 nên sắp xếp cho con đường sự nghiệp. Từ 60 đến ... nên nghĩ về cái chết của mình sao cho xứng đáng. Định tình là lấy vợ. Định tình mà sai đôi khi có thể làm hỏng hết cuộc đời. Người đàn ông không thể không thận trọng. Muốn thận trọng hãy suy ngẫm câu phương ngôn lâu đời của các cụ xưa: Trông mặt mà bắt hình dong, Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon. I/ CÁI ĐẸP CỦA MẮT TỤC VÀ CÁI ĐẸP CỦA THẦY TƯỚNG Cái đẹp tục nhãn thường thấy qua miệng các nhà văn như Lý Bạch từng ca tụng Dương Quí Phi bằng những câu thơ Xuân tưởng nghê thường hoa tưởng dung... Nhất chi nùng diệm lộ ngưng hương ... Hoặc trong bộ kinh ái tình của Ấn Độ tán tụng: Nàng uyển chuyển như con thiên nga, khoan thai yểu điệu. Nàng đẹp tựa như một nụ sen. Phụ nữ hoàn toàn đẹp phải hội tụ đủ 30 điều kiện: Ba thứ trắng: da, răng và đôi bàn tay. Ba thứ đen: Mắt, đôi mi và đôi mày. Ba thứ đỏ: môi, má và móng tay. Ba thứ dài: thân, tóc và tay. Ba thứ ngắn: răng, tai và đôi bàn chân. Ba thứ nở: ngực, trán và mi mắt. Ba thứ hẹp: miệng, eo và gót chân. Ba thứ bụ bẫm: cánh tay, đùi và bắp chân. Ba thứ nhỏ: núm vú, mũi và đầu. Tướng lý đã chẳng khác chi một gáo nước lạnh dội vào văn chương cho văn chương tỉnh mộng nhìn vào thực tế tàn nhẫn. Sách tướng đưa ra quy luật: Mỹ nhân thường tác kỹ. Nếu ta đi vào các nhà nhảy, các nhà hát cô đầu hoặc những chốn ăn chơi tất không ai phủ nhận rằng nơi ấy có nhiều người đàn bà đẹp theo con mắt tục hơn là vào một dạ hội gồm các bà lớn tụ hội. Nếu ta lại quây riêng mười kỹ nữ ra, ta sẽ dễ dàng tìm thấy từ 4 đến 8 người đẹp (tục nhãn), còn nếu nhìn các bà vợ của cả một nội các thì phải khó khăn lắm mới thấy vài ba mỹ nhân! Tướng nhãn và tục nhãn khác biệt hẳn nhau ở điểm này. Nhưng chính tướng nhãn và tục nhãn lại gặp nhau trên một điểm khác đó là vẻ đẹp hoàng hậu, vẻ đẹp công chúa. Tuy nhiên vẻ đẹp ấy cực hiếm không phải lúc nào cũng có. Vẻ đẹp ấy là vừa đẹp người vừa đẹp tướng. Sách tướng giảng rằng: Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sũ. Cực xấu ấy mệnh danh chuyên môn là "phá tướng". Tỷ dụ như diện mạo rất đẹp nhưng tiếng nói rè rè như lệnh vỡ; thể thái mảnh mai mà bước đi nặng nề như đàn ông; môi má trắng sạch mà thân thể lại ô cấu, hôi hám, hoặc tóc không cứng, hoặc tay mềm nhũn như không có xương. Rõ hơn nữa, đàn bà làm tỳ thiếp kỹ nữ phần lớn đều có tướng trán rất xấu: thấp quá, hẹp quá, lệch lạc, không bằng phẳng, hoặc khoảng chân tóc không đều đặn, thiên sương (bộ phận từ góc trán thái dương) hãm hay óp, ấn đường (khoảng trên sống mũi giữa hai đầu chân mày) quá hẹp, lõm sâu. Trán là thuộc vận hành từ 16 đến 21 tuổi, cũng là khoảng tuổi dễ bước chân vào nghề kỹ nữ. Về phá tướng có một chuyện điển hình là chuyện nàng ca kỹ Hạnh Xuân tại xóm ăn chơi Bát Đaih Hồ Đồng, Bắc Kinh đời vua Quang Tự nhà Thanh. Nhìn Hạnh Xuân từ diện mạo đến thể thái không ai không nghĩ nàng là một quý phu nhân, vừa đẹp vừa đoan trang bất luận đi đứng, ăn nói, nằm ngồi nhất nhất đều đều không bợn một cử chỉ thô tục, không lộ một vẻ dâm tiện. Thế mà Hạnh Xuân lại là một kỹ nữ. Có điều nàng rất nổi tiếng, những người đến với nàng hầu hết là đại quan quí nhân, giang hồ khí phách, phong lưu văn sĩ hay đại phú thương.Thường thường một danh kỹ tiếng tăm như thế không bao giờ hành nghề quá một năm là đã theo về các hào tộc phú gia để làm thiếp hầu. Lạ lùng thay Hạnh Xuân ở Bát Đại Hồ ĐỒng có tới ba năm trường.Một hôm, trong đám người yêu Hạnh Xuân cuồng nhiệt có vị phú thương ở Sơn Tây họ Hạ, muốn cưới Hạnh Xuân về làm thiếp. Giá cả chuộc Hạnh Xuân tuy rất cao nhưng đối với ông ta chẳng thành vấn đề. Hệ trọng nhất đối với phú thương họ Hạ trái ngược với thường tình lấy thiếp mong con, ông ta không muốn Hạnh Xuân có con bởi vợ cả và người thiếp đã sản xuất cho gia đình nhà ông tám chín mạng rồi. Ông say mê vẻ đẹp mê hồn của Hạnh Xuân mà người đàn bà sinh đẻ sắc đẹp dễ tàn phai, làm thế nào biết chắc Hạnh Xuân không sinh hài tử? Số Bát tự của nàng vì sớm lưu lạc từ ấu thơ nên chẳng ai biết. Chỉ còn cách xem tướng. Họ Hạ bèn mở tiệc mời một vị túc nho rành tướng số đến xem cho Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh (tên vị túc nho) uống vài chung rượu do Hạnh Xuân tiếp rót, ông định thần ngắm nghía nàng hồi lâu rồi ghé tai nói nhỏ với Hạ phú thương rằng: "Tôi khuyên ông không nên lấy Hạnh Xuân, tuy đẹp nhưng tướng cách nàng nhất định không thể sinh con đẻ cái được.". Lời nói của Mạc tiên sinh làm cho phú thương họ Hạ rất vui mừng nên hỏi thêm Hạnh Xuân còn tướng xấu nào khác nữa? Mạc tiên sinh đáp: "Thật quái! Tướng mạo biểu diện của Hạnh Xuân đúng là một quý phu nhân ít nhất cũng từ tam phẩm trở lên mà sao lại luân lạc chốn lầu xanh. Tôi chưa tìm ra nguyên do. Lẽ ra bây giờ nàng đã lấy chồng bậc quí nhân chứ không phải lấy ông chồng là phú thương.". Họ Hạ tự tay rót rượu mời Mạc tiên sinh và xoắn suýt xin Mạc tiên sinh cố tìm kiếm lý lẽ ba đào của Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh lại ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu nói: "Không thấy. Chắc Hạnh Xuân có một điểm phá tướng ẩn kín đâu đó!". Nhân dịp Mạc tiên sinh lưu lại Bát Đại Hồ Đồng cùng Hạ phú thương mươi bữa, ông có dịp cùng Hạnh Xuân đàm đạo mới đem chuyện tướng ra nói. Mạc tiên sinh bảo Hạnh Xuân: - "Cứ xem tướng mạo của cô thì phải ở ngôi tam phẩm phu nhân mới phải, thế mà chẳng hiểu có điểm phá tướng nào đã khiến cho cô lâm vào chốn giang hồ!" Lần khác Mạc tiên sinh cùng Hạnh Xuân nói chuyện lâu hơn và lần này cuối đường hầm đã có tia sáng. Ông già hơn năm mươi tuổi suốt buổi không hề đi tiểu tiện mà cô gái mới 19 xuân xanh chốc chốc lại phải cáo lỗi! Lúc đó đương vào hạ tiết, đa hạn thiểu thuỷ (nhiều mồ hôi, ít tiểu tiện) mới phải, đúng rồi đây gọi là ám trung tiết khí sách tướng ghi rành rành. (Ám trung tiết khí này có nhiều loại, đây chỉ là 1 trong số!) Sách tướng viết: "Sũ nữ gia quý phu, sũ trung hữu đại mỹ" nghĩa là gái xấu lấy chồng sang, trong cái xấu có cái cực đẹp. Trên tướng thuật nhìn cái đẹp theo nhãn tuy có điểm tương đồng nhưng ở mặt khác lại có điểm tương phản, cho nên quan điểm và quan niệm về Đẹp của tướng nhãn thường thường xung đột với quan điểm và quan niệm của tục nhãn. Tỉ dụ như vẻ đẹp của mỹ nhân là da thịt mềm mại êm như bông hay thiên kiều bách mị. Thế nhưng tướng lý cho như vậy là dâm tiện. Nếu cứ theo tục nhãn để định thì cuộc đời tất có ngày hố to! Dĩ nhiên những vẻ đoan trang , thuỳ mị, nhàn tĩnh, hoa quý, trong sáng thì tướng nhãn và tục nhãn đều cùng một quan niệm và quan điểm. Tuy vậy qua kinh nghiệm và thực tế đầy rẫy ngoài đời thì người đang bà ở vị nguyên phối (vợ lớn) ít người đẹp theo tục nhãn mà người đàn bà ở địa vị trắc thất (vợ bé) thì nhiều người đẹp theo quan điểm tục nhãn. Các cụ cổ khôn lắm nên đặt lệ: Thủ thê thủ đức (lấy vợ lấy đức) Thủ thiếp thủ sắc (lấy thiếp lấy sắc) Cũng lạ là hồng nhan bạc mệnh hay phong lưu khuyết đức phần lớn ứng vào thân phận thiếp mọn. Chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng. Ấy vậy mà kẻ đắp chăn bông thường không đẹp bằng kẻ chịu lạnh, kẻ chịu lạnh đa số có sắc, tướng, mỹ. Đã có sắc, tướng, mỹ thì cũng đa số vướng vào cảnh hoa tường liễu ngõ nên mới gặp kẻ tìm hoa hỏi liễu để trở thành thân lẽ mọn. Cho nên, về tướng lý, chỉ đẹp sắc không phải là quý tướng. Chẳng phải ngàn xưa mới thế, ngày nay cũng vậy. Các minh tinh màn bạc chưa lấy chồng đã nổi tiếng nhiều chồng. Và khi lấy chồng các minh tinh gần như chẳng bao giờ ở địa vị nguyên phối. Hồng nhan, phong lưu, khuyết đức, bạc mệnh theo tướng lý vẫn hằng liên hệ với nhau. Trái lại, những người đàn bà ở ngôi vị nguyên phối không phải là người có sắc tướng mỹ mà là người có tướng cách mỹ (đẹp tướng). Bởi tại tướng cách mỹ ít người nhìn ra nếu không biết tướng thuật nên phê phán qua tục nhãn bằng hai chữ "xấu xí". Hồi Ngô Bội Phu còn làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc (thời mạt Thanh sắp xảy ra cách mạng Tân Hợi), có mở bữa yến tiệc lớn mời khắp mặt vai vế đương thời. Trong số đó có nàh coi tướng họ Đàm. Theo những biên chép của vị tiên sinh coi tướng ghi lại thấy bữa tiệc ấy như sau: "Nhờ bữa tiệc này tôi thể nghiệm rõ ràng nguyên tắc tướng pháp về lẽ xấu đẹp của người đời. Tôi thấy ở đây, ngoại sảnh để tiếp loại thiếp hầu thì ai ai cũng mặn mà quyến rũ nhưng nhìn kỹ chẳng một người là con nhà phiệt duyệt hay khuê các. Phảng phất chỉ có sắc thái xuất tường hồng hạnh hoặc tỳ bà biệt diệu mà thôi. Khi vào tới nội sảnh, nơi dành cho phu nhân Ngô Bội Phu tiếp các bà nguyên phối khác thì tuyệt nhiên không thấy một vết tích truỵ lạc, phong trần. Hơn 24 vị thái thái, quá nửa không có sắc tướng mỹ thì thật là mãn thiên tinh đẩu (đầy trời sao sáng). Có người lưng lạc đà, có người cục mịch như thôn phụ, nhưng không người nào không có một tướng cách rất đẹp! Người thì một cái mũi đầy đặn giữa đôi mắt đôi mi phi thường thanh tú; Người thì tam đình (mặt chia ra làm 3 phần gọi là tam đình: từ trán xuống đến giữa hai mắt (ấn đường) là thượng đình, từ giữa hai mắt đầu sống mũi (sơn căn) xuống đến đầu mũi (chuẩn đầu) là trung đình, từ đầu mũi xuống cằm là hạ đình); Ngưòi thì ngũ quan tương phối, đoan chính minh lượng. Như vậy, theo pháp quy nạp thì ưu điểm cửu tướng cục khả dĩ chia làm ba loại: 1 - Trong xấu có điểm cực tốt (sũ trung hữu đại mỹ) 2 - Cái tốt bên trong(nội tại mỹ) là tính kiên trinh, ôn nhu. 3 - Thái độ bao dung. Vô luận nam hay nữ, nội tại mỹ bao giờ cũng hơn cái đẹp bề ngoài. Nhất là con gái lẳng lơ càng đẹp càng hạ cách. II - TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ QUAN TRỌNG BẬC NHẤT Tướng gia Tề Đông Giã kể rằng thuở thiếu niên ông theo người cậu ruột đi yến tại một nhà ở đường Tây Trực tại thủ phủ Bắc Kinh. Người cậu vốn là công chức cao cấp chính phủ đương thời, giao du rộng lớn, lại rất am tường tướng thuật. Biết tướng thuật cũng là một tài năng cần thiết để giao thiệp trong chính giới lúc bấy giờ. Bữa yến hôm ấy vấn đề tưóng số được đem ra bàn cãi sôi nổi. Đề tài đưa ra là tướng về âm thanh, nhiều người không tin rằng âm thanh có thể ảnh hưởng đến vận mạng con người như cậu tôi nghị luận (lời Tề Đông Giã). Cuối cùng chủ nhân bầy cuộc thử tài. Buồng bên trong có một bàn các bà đánh bài mạt chược, tấm màn che kín. Chủ nhân yêu cầu cậu tôi lắng nghe tiếng nói của 5 bà trong đó để đóan vận mạng. Mọi người ngồi im nghe. Vào lúc bên buồng có ván bài ù muỗi, các bà huyên náo cả lên Ông cậu tôi bỗng nói: - Nữ đới nam thanh (người đàn bà nói âm thanh đàn ông). Ai có tiếng nói ấy tất dã khắc phu. Chủ nhân chịu ngay và nói cho mọi người biết bà ta là goá phụ của họ Tiều trong Bộ giáo dục. Cậu tôi vẫn lắng nghe và nói tiếp: - Cô nhạn thất thần chi thanh tất thị ly phu! (tiếng nói nức nở cắt đoạn chẳng khác chi con chim nhạn lạc đàn tất phải xa lìa chồng con.) Chủ nhân hân hoan ra mặt: - Tiên sinh đoán không sai, đó là tiếng nói của bà vợ ông Tổng lý bưu điện đã bị bọn quyền phỉ bắt đi mất tích từ 5 năm nay chẳng biết sống chết thế nào. Cậu tôi hầu như chẳng để ý đến lời tán tụng, lắng nghe tiếp rồi nói luôn: - Cuồng thuyền vãn tháo sát nhị phu (ồ ạt như tiếng ve sầu buổi chiều, sát hai chồng). Đến đây thì chủ nhân hoàn toàn bái phục, ông vỗ tay khen lấy khen để rồi giục cử toạ đồng thanh yêu cầu cậu tôi giải thích. Cậu tôi chậm rãi giảng giải: - "Nữ đới nam thanh" là một loại phá tướng của phụ nữ, nhưng không nhất định phải khắc phu vì cuối tiếng có âm thanh sắc nhọn làm chói tai (thích nhĩ). Bà ta lấy chồng không quá 2 năm thì chôn chồng. Nói thanh âm chói tai làm người ta nhớ lại bà Trần Lệ Xuân trong những bài diễn văn bà đọc năm 1963 hay trước đấy. Còn về "Cô nhạn thất quần chi thanh" muốn đoán cần phải rõ nó đã trở thành tiếng kêu thương chưa. Nếu chuyển rồi mà tiếng kêu thường thanh trường thì chồng chết, thanh đoản may ra người xa còn sống, đến như "Cuồng thuyền vãn tháo" tiếng đầu tiếng cuối đồng âm vốn là tướng bần tiện chứ không khắc phu. Tướng ấy chỉ khắc phu khi nào tiếng đầu tiếng cuối như có khoảng nghẹn ngào cắt đứt. Chủ nhân chen vào nói: - Chúng tôi bội phục tiên sinh đoán tướng 3 bà goá phụ, bây giờ đến lượt 2 người đàn bà mà tiên sinh chưa nói tới. Trong số thực khách cũng có vài ba vị nghiên cứu tướng học nên cậu tôi quay lại thỉnh họ cho ý kiến. Thế là mấy vị kia nghe theo lời chủ nhân cùng lắng tai nghe. Một lát, ông họ Kha nói: - Tiếng nhẹ nhưng có lực, vượng phu ích tử. Ông họ Đặng nói theo: - Thanh âm có vận điệu, trường thọ chi tướng. Và cuối cùng ông họ Ngũ: - Nhỏ nhẹ như tiếng suối reo, nữ nhân tài đức kiêm toàn. Cậu tôi nghe tất cả mọi người phát biểu xong rồi mới nói: - Các vị đoán trên đại thể rất đúng nhưng đi vào chi tiết có điều sai. Thanh âm người đàn bà này tuy hữu lực giống tiếng nước suối reo, khốn nỗi vì thanh hơi cụt cho nên dù thừa tài năng nhưng không thể thọ. Bà ấy năm này chừng ngoài bốn mươi, tôi chắc không thể sống lâu quá năm mươi. Chủ nhân lại hỏi đến bà thứ 5 thì các vị kia đi sau khi nghe tiếng nói của bà ta không ai đoán định được một điểm nào đặc biệt. Riêng cậu tôi đã làm cho mọi người sửng sốt khi ông nói giọng chắc như đinh đóng cột: - Người này trước ở thanh lâu, nay làm thân vợ bé. Lẽ ra, tướng kỹ nữ thì phải trông sắc diện mới thấy, nghe tiếng nói mà đoán ra thì thật hoang đường! Tôi không nhớ cậu tôi giảng ra sao, sau này đi học tướng thuật tôi thấy sách có ghi: "Đàn bà tiếng nói lớn mà tán mạn, tức là Kim thanh phạt mộc chi tượng thường ở thanh lâu hoặc hành nghề chứa gái". Coi tướng phụ nữ trước hết phải nghe tiếng nói rồi mới đến sắc mặt, rồi đến hình thể, rồi mới đến tâm tư. Tiếng nói đặc biệt liên hệ với tính mạng, hạnh phúc lứa đôi. Thanh âm phá thì các bộ vị khác dù tốt đẹp cũng khó lòng cứu vãn khỏi mệnh số sinh ly tử biệt với chồng con. Tiếng nói nam tử lấy âm thanh hồng lượng làm chủ tốt, còn tiếng nói nữ tử chủ nhu hoà cần nhỏ nhẹ, có âm điệu mới hay. Tối kỵ là tiếng nói sắc nhọn chói tai nghe khó chịu. Đàn bà nói ra thích nhĩ (chói tai) thì chẳng chôn chồng cũng khóc con, đàn ông nói ra thích nhĩ suốt đời phá bại. Thanh âm thích nhĩ có hai loại: một loại thuộc kim, một loại thuộc mộc. Khắc phu vào loại mộc thì người chồng chết bình thường, còn nếu khắc về loại kim thì người chết bất đắc kỳ tử. Thu có hạn sầu dài không hạn, Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi. Đoạn trường biết mấy tao nôi, Khóc rồi lại khóc hờn thôi lại hờn. Khúc duyên dạo dây đờn ai dứt. Dao sầu kia cắt đứt lồng son. Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn, Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan. (Tương Phố) Những câu thơ thê thảm trên phải chăng chỉ là tiếng kêu thương của định số? Khắc sát phu ngoài thanh âm ra còn có tướng nào khác nữa? Tướng khắc phu nặng nhất là tiếng nói! Sau mới đến các tướng khác được phân biệt như sau: Lưỡng quyền quá cao lộ cốt; trán khuyết hãm, quá thô không tương xứng với mặt; lưỡng quyền lệch cao thấp không đều; "quyền phản" nghĩa là không chầu vào mũi . Tuy nhiên phải nhìn cho tinh tường đừng nhầm quyền rộng, đầy đặn với quyền cao. Lưỡng quyền đầy đặn là tính lan ra từ sát làn ranh của tai, vòng xương hàm xuống đến lằn ranh của miệng làm thành một khoảng to lớn sáng đẹp thì lại là tướng quý phu nhân nếu cộng thêm với cái mũi tốt. Trán dài, trán vẹo, trán khuyết hãm, trán có ba vết răn bị tạp văn phá, trán có xoáy tóc như trôn ốc. Mắt lộ tứ bạch (bốn phía trắng), mắt đỏ, mắt vàng, mắt lồi, lông mày mỏng tản mạn, giao nhau. Tóc xoăn (khô xoăn chứ không phải ra tiệm uốn quăn đâu nha), tóc dầy nặng, chân tóc vượt quá về đằng sau trán, tóc cứng. Môi cuốn, răng lộ, miệng chụm như thổi lửa (khẩu suy như hoả), miệng lệch. Xương cốt to thô, vai so. Mặt gầy sác lộ gân, mặt nhiều lông, mặt trì lệ như sáp. III - LUẬN VỀ TƯỚNG HỒNG NHAN BẠC MỆNH Mở đầu tập Chinh phụ ngâm ông Đặng Trần Côn viết: Thiên địa phong trần Hồng nhan đa truân Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân Bà Đoàn Thị Điểm dịch: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này. Hồng nhan bạc mệnh đã thành thiên cổ tục ngữ.Hồng nhan đa truân là lẽ thường tình trong vấn đề nhân sinh.Bạc mệnh là chết sớm, chết non, phận mỏng, lao đao. Đa truân nghĩa là phiêu bồng, lãng đãng. Hồng nhan là những người đàn bà trời ban cho một sắc đẹp cực kỳ diễm lệ. Hồng nhan cũng là những người đàn bà trời ban cho một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút nam phái. Thiên địa phong trần là cơ duyên để tạo thành những cảnh thảm sầu bạc mệnh và đa truân.Về tướng thuật trước hết hồng nhan có liên hệ phần nào đến tướng khắc sát chồng. Tại Trung Quốc có lưu truyền từ lâu đời một truyện thơ ngụ ngôn kể rằng: Có ba vị lão nhân ngồi uống rượu, đánh cờ bên dòng suối vẻ mặt ai nấy đều thanh thản, vui sướng. Có người đến chắp tay hỏi ba cụ về cái thuật trường thọ. Thì thấy ở trong thơ ghi câu: "Thất trung lão ẩu xũ" nghĩa là (Trong nhà vợ già xấu). Cả ba cụ nói: - Nhà ngươi có biết câu tục ngữ "Hồng nhan bạc mệnh" không? Các lão đây sở dĩ thọ là bởi tại vợ các lão đây không thuộc loại hồng nhan. Người kia ngạc nhiên hỏi: - Trường thọ với lão bà có chi quan hệ? Lấy vợ đẹp chẳng phải một đại hạnh trên đời sao? Cả ba cụ đều lắc đầu quầy quậy: - Không đâu, không phải là đại hạnh đâu. "Hồng nhan bạc mệnh yêu khắc phu" . Hai chữ bạc mệnh ở đây là phận mỏng trên phương diện khắc phu. Sách tướng nói: "Tất cả những gì thái quá cũng không tốt! Sắc đẹp quá hay xấu quá đều thuộc tướng sát phu nếu chính bản thân người đó không yểu!" Bạc mệnh không chỉ đơn thuần là non yểu như người ta vẫn quan niệm đã thành thói quen từ lâu nay. Đa truân vốn là nghiệp dĩ của hồng nhan, nếu người đàn bà hồng nhan có nhiều tiện tướng hay dâm tướng (sẽ giải thích ở sau). Có thể nói khác đi cái đẹp là nguyên nhân của đa truân, còn ai đa truân bằng những danh kỹ và nếu không đẹp thì làm sao trở thành danh kỹ? "Nhất song ngọc tí thiêm nhân trẩm Bán điểm chu thần vạn khách thường. " Dịch: "Đôi cánh tay ngọc cho vạn người gối Nửa vành môi đỏ để vạn nguời hôn." Không lẽ bọn phong lưu hoa công tử đổ xô đi gối tay người hôi nách xấu xí, để thưởng thức cái môi sứt hay sao? Thiên nhân trẩm và vạn khách thường xưa nay vẫn là nghịch cảnh vạn cổ sầu của hồng nhan vậy. Sách tướng nói Người đàn bà cần có vẻ đẹp đoan trang, quý phái và rất kỵ vẻ đẹp yêu mỵ tiện cách. Nếu đẹp yêu mỵ tiện cách thì đó chính là đẹp hồng nhan bạc mệnh. Nói đa truân, nói bạc mệnh không phải chỉ ở địa vị tầm thường như ca kỹ hay bần gia nữ mới phải gánh chịu. Một khi đã phạm tướng hồng nhan bạc mệnh rồi thì dù ở địa vị tột đỉnh cũng chẳng tài nào tránh khỏi! Như cuộc đời nàng Lục Châu vợ của phú gia địch quốc Thạch Sùng. Quê Lục Châu ở Hợp Phố nơi sản xuất những ngọc quý, nàng họ Lương. Lịch sử ghi chép nàng là một mỹ nhân nổi tiếng đời Tấn. Các tay buôn ngọc đồng ý với nhau lấy tên Lục Châu là một loại ngọc quý nhất, đắt nhất mà đặt tên nàng. Đương thời có một triệu phú danh tiếng giàu có thành điển cổ của Trung quốc tên là Thạch Sùng nhân lần viếng thăm nước Giao Chỉ, lúc về qua Hợp Phố (thuộc tỉnh Quảng Tây) đã gặp nàng Lục Châu. Thạch Sùng cậy người mai mối với sính lễ ba đấu ngọc lớn đắt vô kể. Cha mẹ nàng thuận gả cho Thạch Sùng làm ái thiếp. Thạch Sùng đem nàng về đất Lạc Dương ở tỉnh Hà Nam, ở đây Thạch Sùng có một dinh cơ cực kỳ mỹ lệ là Kim Cốc Viên nơi mà nhiều danh hoạ đã từng lấy làm đề tài cho hoạ phẩm. Trong Kim Cốc Viên mỹ nhân nhiều như mây tụ, nhưng từ khi có Lục Châu đến thì sắc đẹp của mọi người lu mờ ảm đạm hết, Thạch Sùng giao du quảng bác, từ khi được Lục Châu quán xuyến công việc giao thiệp thì Kim Cốc Viên càng nổi danh. Trong đám bạn bè lai vãng của Thạch Sùng có tên Tôn Tú là người thân tín của Triệu vương Tư Mã Luân. Tôn Tú mê Lục Châu đã nhiều lần chọc ghẹo Lục Châu bị nàng cự tuyệt, Thạch Sùng nổi giận cấm cửa Tôn Tú, Tôn Tú oán giận. Nhân cơ hội Thạch Sùng không ủng hộ Triệu vương trong sí đồ thoán nghịch, Tôn Tú sui Triệu vương mang quân đánh Kim Cốc Viên bắt giết Thạch Sùng, nàng Lục Châu chạy lên lầu cao nhảy xuống tự vẫn. Cái chết của Lục Châu trở thành một kịch phẩm hay của Văn học Trung Quốc, đó là vở kịch Trụy Lâu. Một chuyện khác nữa là chuyện Mai Phi: Mai Phi là một phi tần rất được sủng ái của Đường Minh Hoàng. Nhưng từ khi Dương Thái Chân tức Dương Quý Phi vào cung thì Mai Phi bị thất sủng. Nàng sinh ra đời ở Mai Hoa thôn tên thực là Giang Thái Tần do Cao Lực Sĩ tuyển về Trường An. Đường Minh Hoàng vừa trông thấy là mê luyến ngay. Nhân vì nàng yêu hoa mai nên Đường Minh Hoàng gọi nàng là Mai Phi. Mai Phi có sắc dáng mảnh dẻ và hai mắt sáng như viên ngọc. Về sau Đường Minh Hoàng đổi tính yêu người bụ bẫm (!) là Dương Quý Phi nên xa lánh nàng. Vì Dương Quý Phi có tính ghen ghê gớm, bởi vậy Đường Minh Hoàng đôi lúc nhớ đến sủng phi cũ thì cũng không dám bén mảng đến Thượng Dương cung nơi nàng ở. Một lẫn, có sứ thần dâng vua đôi trân châu, Đường Minh Hoàng tưởng nhớ Mai Phi, lén gọi người thân tín đem lại tặng nàng. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ như sau: Liễu diệp song mi cửu bất miêu Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu Trường môn tự thị vô sơ tẩy Hà tất trân châu uỷ tịch liêu. Dịch: "Lâu rồi không vẽ chân mày lá liễu Quần áo xưa đã hoen ố lệ buồn Cửa ngõ căn phòng không còn lau rửa Thì cần gì châu ngọc để vỗ về nỗi cô đơn." Về sau, An Lộc Chân khởi loạn, Đường Minh Hoàng phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi. Mai Phi ở lại bị giết trong cơn binh lửa. Lịch sử tướng thuật chép: Mai Phi và Lục Châu đều có đôi mắt "Nhãn lệ uông uông", lúc nào cũng ướt như đầy nước mắt. Đó là một phạm kỵ vì theo tướng thuật người đàn bà đẹp cần có nét tươi nếu "Diện đới sầu dung" là sẽ bị "Bất đắc thiện chung". Nói đến hồng nhan bạc mệnh người ta không thể quên cái chết của ngôi sao chiếu bóng Lâm Đại. Khi báo chí loan tin Lâm Đại tự tử, các nhà tướng số tại Hương Cảng đã thi nhau giảng luận về tướng và mệnh của nàng. Số mệnh học của Trung Quốc thường căn cứ vào tướng và số, nếu nhìn tướng có điều không giải đáp được thì phải xem số; Nếu xem số có sự gì quá khó khăn không khám phá được hoặc không dám xác quyết thì lại phải xem thêm tướng. Điểm đáng chú ý trên gương mặt của Lâm Đại là đôi mắt nàng có hung quang lại cộng thêm vào đấy tính tình của nàng rất nóng nẩy, bạo tháo. Tướng diện và tướng tâm khắng khít với nhau tạo ra một thứ đaỏn mệnh tướng cho nàng. Theo sách tướng thì mắt lộ hung quang chẳng những đoản mệnh mà còn dễ bị bạo tử hoành nghĩa là chết không toàn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Ai đã xem phim Lâm Đại đóng tất không thể không lưu ý diện mạo nàng có ba đặc điểm: 1 - Quang lộ 2 - Quyền cao 3 - Nhãn hung Quang lộ tức tài lộ, lộ tài thường chiêu oán! Quyền cao thường chiêu kỵ (nghi kỵ, ganh ghét)! Nhãn hung tức tính hung, tính hung ắt chiêu hung! Đàn ông mà quang lộ, quyền cao, tính hung chính là tướng du đãng giết người và bị giết, nếu không là tướng tự tử. Gia Cát Lượng khi xưa cũng mắt lộ, quyền cao nhưng vì không có tính hung nên được thiện chung. Tướng Lâm Đại là tướng trọng hậu rất tốt, mặt nàng ít vẻ hồng nhan bạc mệnh nhưng vì tính hung đi đôi với quyền cao nhãn lộ nên kết cuộc tính mệnh bất đắc thiện chung vậy. Bởi vậy, sách tướng thuật mới nói: Tướng do tâm sinh, tướng do tâm cải. Tâm tướng ảnh hưởng rất nhiều đến hình tướng. Tuy nhiên cái chết của Lâm Đại vẫn còn gây nhiều tranh luận trong giới tướng số. Họ lập luận mặc dù tính tình Lâm Đại bạo tháo nhưng nàng có vẻ đẹp trung hậu, mặc dù đôi mắt Lâm Đại chứa đầy chất hung quang nhưng nàn lại có vẻ đẹp đường mật dịu dàng. Thêm nữa nếu bảo nàng chết vì nhãn tướng thì vận mắt là 37, 38 tuổi - tất không thể chết vào vận 30 tuổi. Đó là một câu vặn hỏi có lý, cho nên nhà đoán tướng phải mượn thuật số để giải đáp. Người Trung Quốc là cha đẻ ra Tử Vi nhưng họ không (thích) xem Tử Vi mà họ xem số Bát tự . Lâm Đại sinh năm 1934 (Giáp Tuất), ngày 26 tháng 12 giờ Ngọ. Chuyển thành bát tự là: Giáp Tuất Đinh Sửu Bính Ngọ Giáp Ngọ Toàn số Hoả Mộc chiếm tám phần mười. Mộc trợ Hoả thái quá làm cho người mang số đó trở thành ngoạn ngạnh tư ý tạo thành kiếp khổ sinh hay hung thủ. Cho nên khi Lâm Đại chết vào đúng lúc giữa hoả viêm thổ táo, tháng 6 ngày Đinh Mão giờ Ngọ. Hành vận 28 tuổi của Lâm Đại là Giáp Tuất, lưu niên của hành vận Giáp Tuất năm 30 tuổi là Giáp Thìn cộng mệnh số thành ra 3 Hoả 4 Mộc đốt - thế là đen thui! Hồng nhan với hào kiệt chung một kiếp. Hồng nhan bạc mệnh. Hào kiệt thán phiêu linh. Nhưng nếu nói theo triết lý nhân sinh thì hồng nhan mà không bạc mệnh thì thật là vô duyên mà bạc mệnh nhưng không hồng nhan thì cũng chả có gì đáng để nói! Cũng như hào kiệt anh hùng mà không phiêu linh thì cũng chỉ là những hào kiệt anh hùng "hàng mã"! IV - NÓI VỀ ĐẶC BIỆT DỊ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ Tướng học rất bí ảo huyền diệu nên môn học này được quan niệm là môn dễ học khó tinh. Nếu thiếu kinh nghiệm hoặc có kinh nghiệm mà kém linh cảm thì cũng khó lòng đoán biết lẽ cùng thông. Tỷ dụ có người trông bề ngoài đường đường tướng mạo mà đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, vận mạng nổi chìm ưu uất bất đắc chí. Tất nhiên người ấy phải có một bộ vị tứóng sinh hoại, sách tướng gọi là "Thanh trung hữu trọc" (Trong cái thanh quý có cái ô trọc). Ngược lại có những người trông bề ngoài hình dong sủ lậu mà cuộc sống nhất phàm phong thuận (con buồm thuận gió). Tất nhiên nguời ấy phải có một dị tướng. Cho nên khi xem tướng trước hết phải phân biệt rõ ràng thanh trọc để làm căn bản cho sự phán đoán quý tiện sang hèn. Xem tướng đàn bà con gái vấn đề thanh quý và ô trọc lại càng quan trọng lắm! Rồi xem đến diện hình mắt, mũi, miệng. Ba thứ đó cần biết đoan chính hay khuyết hãm để dịnh cách quý tiện vượng phu hại phu. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý để tìm biết người đàn bà con gái nào có mang một dị tướng đặc biệt nào không? Có điều lạ là đàn bà sinh quý tử, cực vượng phu hưng gia thường mang dị tướng, tỷ dụ: nhũ đầu như chu sa, lỗ rốn đỏ hồng, hay sâu rộng hình tròn hoặc nốt ruồi son ở khoảng từ bụng xuống tới gần đầu gối . Một khi đã mang dị tướng thì người đàn bà bất kể diện mạo đoan trang hay thô lậu đều có thể Vượng phu ích tử! Tướng đẹp bề ngoài của phụ nữ thì sách tướng ghi như sau: Nga mi (mày ngài), Phượng nhãn (mắt phượng), huyền đởm tị (mũi như trái mật treo), anh đào khẩu (miệng như trái anh đào hồng nhỏ), chu sa trưởng (bàn tay hồng hào mịn màng). Những ai có tướng kể trên đều được liệt vào hàng phu nhân tướng. Ngoài ra, dị tướng còn phải kể đến tướng thanh âm vì thanh âm rất quan hệ đến sự phân định quý tiện. Phàm nữ tử thanh âm xuất tự đan điền hữu lực, thanh âm như phượng kêu oanh rót nghe êm tai, dịu hiền trong sạch, âm điệu trầm bổng đều được hưởng hạnh phúc gia đình. Nhược bằng thanh âm vẩn đục, thô lỗ rầu rĩ tất là tiện tướng phá gia ly tổ, phu tử bạc duyên. Đời Mạt Thanh bên Trung Quốc, mẹ một danh thần cực phẩm là Lý Hồng Chương tướng mạo rất sũ lậu nhưng bà có một tiếng nói tuyệt hay, ai nghe bà nói cũng cảm mến! Nhờ tiếng nói đó mà người ta quên hết các nét xấu của diện mạo. Sách tướng gọi là "Nhất quý yểm tam sũ" (một cái quý chôn vùi ba cái tiện). Hồi bà còn là con gái, tiếng bà xấu bay ra ngoài chẳng ai dám hỏi. Về sau bố của Lý Hồng Chương đi qua quê bà và ghé lại tá túc ở nhà tổ phụ của bà. Lúc gặp, họ Lý thấy bà sũ lậu chẳng hề để ý. Vài ngày sau, cứ mỗi sáng họ Lý thấy bà ra sân cho gà vịt ăn thì con nào con nấy mỗi khi bà cất tiéng gọi là chạy tới quấn quýt nom thật vui mắt, cứ mỗi tối tiếng bà gọi vang lên là con nào con nấy ngoan ngoãn vào chuồng. Họ Lý vốn rành tướng thuật biết người con gái này là một loại sử nữ quý cách nên kết duyên với bà. Một trường hợp khác là bà mẹ của Đới Hồng Từ, vị thượng thư danh tiếng văn vũ toàn tài của Trung Quốc. Không chỉ riêng ông mà cả ba anh em đều rất hiển đạt. Theo truyền thuyết thì anh em họ Đới nhờ được ảnh hưởng dị tướng của bà mẹ. Tổ phụ Đới Công vốn là người đọc sách am hiểu tướng số, chỉ vì mệnh lận đận nên ông từ bỏ ý định làm quan đi buôn, ngoài ba mươi tuổi chưa lập gia đình, ông tin rằng vận mệnh chưa tới cưỡng làm chi. Một hôm, có một nữ tử đến mua hàng tuy tướng mạo chẳng đặc sắc lắm nhưng cô ta mũi cao, sống mũi vươn thẳng tới ấn đường, ngũ quan đoan chính, nhãn thần trừng triệt, lúc nói thanh âm trong êm, tiếng nói thoát ra tự đan điền. Đới Công đang mải ngắm nghía tướng mạo cô gái thì con hầu sấp ngửa vào tìm. Đới Công quyết nhiên cô ta là con nhà gia thế. Đới Công bấy giờ mới biết cô ta còn dị tướng khác nữa mới cho tiền nữ tì hỏi dò, nữ tì cho hay cô ta trông xấu xí nhưng rốn cô tròn to, sâu, đầu vú đỏ như tô son. Theo sách tướng những dấu vết ấy là quý cách không những đa phúc lại sinh quý tử. Đới Công bèn nhờ người đến hỏi, bên gái tuy nhà danh gia quý tộc nhưng thấy con gái mình xấu xí vả chăng đã quá lứa nên cũng dễ bằng lòng. Kể từ ngày Đới Công kết hôn với người con gái xấu xí đó thì công việc buôn bán tiến triển không ngừng, phụ sướng phụ tuỳ gia đạo êm ấm. Đới Công sinh ba người con trai là Đới Hồng Từ, Đới Hồng Hiến và Đới Hồng Tuệ, cả ba cùng làm đến bậc nhất phẩm! Sách tướng viết: Nữ tử chu sa nhũ tất định sinh quý tử! Thật nghiệm vậy! Trong sách Liễu trang tướng pháp, thiên Vĩnh lạc bách vấn có ghi một dị tướng khác có thể sinh quý tử là tướng mồ hôi như sau: Vua hỏi: "Tuyển cung phi cho mặc áo gấm dầy rồi cho đi bộ đến mướt mồ hôi để làm gì?" Đáp: "Nếu không làm sao biết được hương của thân thể. Phàm con gái mồ hôi ướt đằm mà thân thể vẫn thơm tho tất đại cát, trái lại là hạ tiện. Văn chương nói sắc nước hương trời là đã đi vào khoa tướng mà không biết đó thôi." Vua hỏi: "Trong cung có nhiều cung nữ không đẻ con là tại sao?" Đáp: "Cổ nhân có câu: Mỹ nữ vô kiên (gái đẹp không vai), tướng quân vô hạng (võ tướng không cổ). Vai suôi quá mà thân hình lại yếu ớt, eo nhỏ quá mà thân hình nhẹ bẫng. Phạm bốn điều ấy khó lòng hưởng phúc nói gì đến con cái." V - NAM NHỜ TINH THẦN PHÚ QUÝ, NỮ NHỜ HUYẾT KHÍ VINH HOA Đó là căn bản tướng lý phân biệt nam nữ. Con trai thì Tinh sinh Thần, con gái thì Huyết nuôi Mạng. Con trai mà Tinh khô tất chết. Con gái Huyết khô mạng vong. Tinh làm chủ xem tướng ở đâu? Trên trời mặt trăng, mặt trời là tinh hoa, dưới đất con người có hai mắt là tinh thần. Thần là mầm của Tinh. Tinh khoẻ nên Thần sáng. Thần sáng thì mắt thanh tú. Cho nên trai cần đôc mắt có hắc quang sạ nhân (như bắn vào người). Sách viết: Nhãn như điểm tất chung thân gia nghiệp vinh hoa. Thần túc khí túc bạch thủ sáng thành gia nghiệp. Dịch nghia: Mắt đen nhu điểm sơn, suốt đời vinh hoa Thần vượng khí vượng tay trắng dựng cơ đồ Bởi thế con trai mới lấy tinh thần làm chủ. Con gái lấy huyết làm chủ thì chứng nghiệm ở đâu? Huyết ở trong da, sắc ở ngoài da. Trong da nếu huyết đủ thì ngoài da sáng đẹp. Huyết nội, sắc ngoại là một là rễ, một là cây non. Có rễ, có cây, rễ tốt tất cây tốt. Có huyết mới có sắc. Huyết bầng lên để thành khí tạo sắc. Cho nên phải đủ khí huyết mới hay. Nhược bằng huyết tốt mà sắc không nhuận là có rễ mà không cây hoặc sắc sáng đẹp mà trong vô huyết gọi là "Hữu niên vô căn chủ" là Dâm tướng! Nếu huyết nhuận mà bất hoa (nghia là không có những lốm đốm hồng hồng mờ mờ) thì yểu. Sắc sạm, môi khô là yểu hoặc khó sinh sản. Tóc là chất dư của huyết, nếu tóc thưa, mỏng, vàng, ngắn thì không tốt. Tóc xanh chủ quý, tóc dài chủ hiền! Tóc xoăn trôn ốc, vàng ngắn, khô cứng là tiện tướng hại chồng hại con. Con trai mắt sáng con gái tóc dầy đều tốt. Ca dao ta có câu: "Đàn bà tóc tốt thì sang" là vậy. Sách tướng viết: Bì bạch vô quang sắc bất hoa Quyền cao ngách tước mục viên tà Chuỷ tiêm điến kiêu kiêm hung lộ Tam thập niên lai giá thất gia. Dịch nghia: Da trắng không có quang ánh, huyết bất hoa Quyền cao, trán bạt, mắt tròn hay tà thị Miệng dẩu, mông cong, ngực ưỡn Ba mươi tuổi lấy mười chồng. Sách tướng viết: Bối hãm thành khang phụ bất nghi Hung đuờng cao khởi hiếu vi nghi Tinh hoàng diện xích thần hân lộ Bất hiếu bất hiền phá bại thê. Dịch nghia: Lưng có đường rãnh theo xương sống rất kỵ Ngực nhô cao thích làm việc bậy bạ Tròng mắt vàng, mặt đỏ, môi cuốn lộ sỉ Là loại bất hiếu, bất hiền, là loại vợ phá bại. Sách tướng viết: Phụ nữ tinh trường bất lộ quang Bì hương nhục nhuận hảo hiền lương Sắc huỳnh hoà trạc bích tản diện Sinh tử tu đuong bái thánh vuong Dịch nghia: Đàn bà mắt dài không lộ quang Da thơm, thịt nhuận là hiền lương Sắc trạch hoà dịu hơi ẩn xanh như lòng trắng trứng luộc Đẻ con tất làm nên sự nghiệp (sinh quý tử). Sách tướng viết: Trạch phụ hà tu trạch mỹ dung Kiên viên bối hậu thọ như tùng Tị long phượng mục mi câu ngách Dưỡng tử tu đuong bái thánh quân. Dịch nghia: Chọn vợ cần gì chọn mắt đẹp Vai tròn, lưng dầy tất không non yểu Mui rồng, mắt phượng, lông mày như lưỡi câu Nuôi con cao quý gần thánh vương. Sách tướng viết: Trợ phu tế hưng gia chỉ vị thanh hoà khí túc. Phụ nhân nữ khí thô nãi hạ tiện chi bối. Dịch nghia: Giúp chồng dựng nghiệp chỉ vì tiếng nói hoà thần khí đủ. Đàn bà khí thô (hơi thở, tiếng nói) là loại hạ tiện. VII - MẮT MỊ VÀ MẮT TÚ. Theo tục nhãn mị hay tú đều đẹp. Theo tướng nhãn đẹp mị đẹp tú khác hẳn nhau. Qua phân biệt của tướng thuật thì mị là chiều chuộng, vuốt ve, nũng nịu, lẳng lơ; tú là đoan trang, trong sáng, hiền hoà, dịu dàng. Đàn ông con trai đôi mắt phải thần quang cường phát. Đàn bà con gái đôi mắt phải hoà huệ, thuần tĩnh. Đôi mắt ví như một khúc nhạc hay, người thưởng thưc không biết chán. Người đàn bà nào nhãn lộ hung quang khiến cho người đối diện hãi sợ thì nhất sinh ra tai hoạ, suốt đời cô độc, khắc sát. Người nào nhãn quang lưu đãng, ướt át, đong đưa, làm kẻ đối diện nảy sinh thị tâm thì dễ truỵ lạc, phong trần khó thoát. Người nào nhãn quang đục, thô, quái đản khiến cho kẻ đối diện chán ghét thì suốt đời bần tiện, lao đao. Người nào nhãn quang nhu nhược, như nhát sợ khiến cho người đối diện vừa thương hại vừa yêu chuộng thì chẳng tránh khỏi bị đàn ông dụ dỗ hoặc rồi phụ bạc. Chỉ có đôi mắt hiền hoà trinh thục nên mới gọi là mắt đẹp theo tướng nhãn. Vì hoà thục nên mới hậu trọng, vì hậu trọng nên mới uy nghi. Nhờ uy nghi nên người mới biết kính trọng, vị nể. Hoà thục, hậu trọng, uy nghi cộng lại với nhau gọi là tú. VIII - TÁM KỴ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ; TÁM QUYẾT TỰ CHO ĐÀN BÀ. Hình tướng đàn bà chia ra nào bát bại tướng, cửu sũ tướng và thập tiện tướng. A/ Dưới đây nói về bát bại tướng (tám điểm kỵ tướng) của đàn bà: 1 - Kỵ hùng thanh, đàn bà nói tiếng đàn ông nhất sinh cô khổ. 2 - Kỵ sinh tu, đàn bà có ria mép (không phải là râu ria rậm rạp hẳn kiểu đàn ông nhé! mà là lông tơ mọc rấm đen) đa dâm 3 - Kỵ sà hành, đàn bà đi trườn mình như con rắn thì trọng nhục dục, thích hư danh, không bao giờ là người chung thuỷ, trung thành! 4 - Kỵ tước dược, đàn bà đi như chim sẻ nhảy, dáng đi khinh phù không cẩn trọng là người hay cuồng vọng, dễ bị cô độc, bi thương. 5 - Kỵ đào hoa diện, mặt đẹp ưa nhìn thèm muốn tươi tắn một cách mời chào, thì tính tình sàm mị thì hay bỏ chồng thay chồng. 6 - Kỵ yêu tước điến, cao lưng, mông cong, lưng nhô thì luân lạc cao khổ, dễ bị dụ hoặc. Có số làm nô tì. 7 - Kỵ lộ sỉ, đàn bà lộ sỉ, răng nhọn xám ngoét thì sinh sản khó khăn hoặc khắc tử. 8 - Kỵ quyền cao đâm ngang, đàn bà có tướng quyền này thường hung ác, dã man, khắc phu bại gia. B/ SAU ĐÂY LÀ TÁM QUYẾT TỰ: 1 - Nhất kiến khả kính, quý thọ nhi đa nam - "Mới trông đã kính tất sang và thọ, nhiều con trai." 2 - Nhất kiến khả trọng, trinh khiết nhi phúc trạch - "Mới nhìn đã trọng thì nhiều phúc và trinh khiết." 3 - Nhất kiến khả khinh, bần bạc nhi tiện yểu - "Vừa nhìn đã thấy khinh thì tất nghèo hèn." 4 - Nhất kiến khả hỉ, tà đảng nhi dị dụ - "Vừa nhìn đã thấy thích thì dâm đãng dễ dụ hoặc." 5 - Nhất kiến khả uý, cương cường nhi khi tâm - "Vừa nhìn đã sợ thì người ngang ngược ưa dối trá, nịnh bợ." - Tướng này gồm có: "thanh sát diện hoành" (tiếng lát sát, quyền đâm ngang). Trán rộng quyền cao, chương tướng bộ sà tinh đặc biệt thường có phong thái đàn ông. 6 - Nhất kiến khả khủng, hình khắc nhi tâm ác - "Vừa nom đã thấy ớn, tất hình khắc và thường có ác tâm." 7 - Nhất kiến khả ố, sũ lậu nhi sú ngạnh - "Vừa thấy đã cảm thấy ghét thì người xấu và hôi hám." 8 - Nhất kiến khả hãi, loa văn cổ dốc - MỘT NÉT CỰC QUÝ : BẤT ĐỚI LAN CHI NHI TỰ HƯƠNG. Sách tướng viết: "Bất đới lan chi nhi tự hương" nghĩa là không giắt hoa lan hoa hồng mà thân thể tự thơm tho. Hôi hám thân thể hoặc hôi hám riêng bất cứ bộ vị nào đều là tiện tướng như tóc hôi, miệng hôi, nách hôi, âm sú. Trong tướng lục ác thì âm sú là nặng nhất! Ca dao ta có câu: Thối tai hôi nách dình dình Chẳng ai hỏi đến cậy mình chính chuyên. để chỉ một loại tiện tướng. Đời vua Càn Long nhà Thanh ở vùng Tân Cương có một bộ tộc Hồi giáo do thủ lãnh Hoắc Tập Chiêm cai quản, vợ Hoắc Tập Chiêm là Hương Phi. Thân thể nàng ra sao không ai biết nhưng ai cũng biết tiếng rằng toàn bộ thân thể nàng tiết ra thứ hương thơm dị kỳ cao quý và ngây ngất, nhan sắc nàng lại mỹ lệ vô song. Vua Càn Long say mê người kỳ nữ liền sai đại tướng là Điêu Huệ phó tướng là Lưu Bái xuất lĩnh đại quân tấn công bộ tộc đó. Vua Càn Long ra lệnh tránh mọi sát hại cướp phá và điều quan trọng nhất là phải bắt sống Hương Phi. Quân Thanh tiến tới biên thành, Hoắc Tập Chiêm kháng cự bị bộ hạ làm phản bắn chết. Điêu Huệ bắt được Hương Phi về dâng Càn Long. Hương Phi chưa biết chồng đã bị giết nên vẫn mong đợi để gặp mặt chồng. Càn Long sủng ái như hạt ngọc quý, hy vọng một ngày khia nàng sẽ nguôi và ông vui lòng chờ cơ hội. Hương Phi muốn gì lập tức chiều ngay. Nhưng đã sáu tháng trường Càn Long vẫn tuyệt nhiên không làm thế nào để gần gũi Hương Phi dù chỉ là chuyện nắm đôi tay. Say mê vẻ đẹp quyến rũ , Càn Long thường lừa lúc Hương Phi không để ý ông đứng ngẩn ngơ ngắm nhìn nàng không biết chán. Một bữa, Hương Phi vừa tắm xong, hương thơm kỳ lạ từ người nàng bốc ra ôi tuyệt diệu khiến cho ông vua đa tình cầm lòng chẳng được xông vào ngoạ thất của nàng và bị Hương Phi cự tuyệt tàn nhẫn. Càn Long đành lủi thủi đi ra và nói cho nàng biết rằng đừng chờ Hoắc Tập Chiêm nữa, hắn đã bị bắn chết rồi. Hương phi từ khi biết tin chồng chết khóc lóc ngày đêm, Càn Long thấy nàng ủ rũ tìm cách chiều chuộng, rút cục vẫn chẳng lay chuyển được nàng. Chuyện đến tai Hoàng Thái Hậu, bà cho người ám hại giết Hương Phi. Càn Long nghe tin than tiếc mãi. Người mang tướng "bất đới lan chi nhi tự hương" bao giờ cũng là người cao quý, tao nhã, kiên trinh, đoan trang, đoan chính. Trong Cung oán ngâm khúc, Ôn Như Hầu viết: Hoa xuân nọ òn phong môn nhị Nguyệt thu kia chưa hé hàm quang. Hồng lâu còn khoá then sương. Thân khuê còn rấm mùi hương khuynh thành. Thật đúng vậy, đẹp và thơm không thể tách rời nhau. Tục cũng như tướng trên điểm này hoàn toàn đồng ý. Từ ngàn xưa con người bằng đủ mọi cách đi tìm chút hương thơm nhân tạo nhưng cho đến bây giờ vẫn không chiến thắng - dù chỉ là mảy may - hương thơm trời cho nghĩa là hương thơm của tướng cách. X - CHÍN XẤU MỘT TỐT CÒN HƠN CHÍN TỐT MỘT XẤU Sách tướng viết: Nhất quý để cửu tiện Nhất tiện phá cửu quý (Nhất quý xoá chín tiện Nhất tiện phá chín quý) Đó là định luật đặc biệt của tướng thuật và cũng là căn bản cho việc coi tướng, đoán tướng. Tướng con người ta đại thể chia ra làm các loại hay gọi theo chữ là cách cục. Cách cục bao giờ cũng luận theo lý tương đối chia ra như sau: - Dầy mỏng (hậu bạc) - Thiện ác. Thọ yểu. - Quý tiện. Tướng ác bên ngoài lấy dầy mỏng làm chủ. Tâm tướng thì lấy thiện ác làm chủ. Một quý xoá chín tiện, một tiện phá chín quý ý nói tướng người ta trong nhiều tướng tiện mà có một tướng quý thì tướng quý khả dĩ xoá bỏ những tiện tướng kia đi. Ngược lại người ta trong nhiều tướng quý mà có một tướng tiện thì những tướng quý bị phá. Ta thường nghe nói phá tướng chính là nghĩa ấy. Các nhà tướng học Trung Quốc rất hứng thú với việc đi khám phá những điều mới lạ của định luật này. Tại Bắc Kinh đế đô của nhiều triều đại nơi tụ tập của các quan quý nhân tứ xứ cùng các vị phu nhân. Trên tổng số rất ít người về tướng cách được thập toàn thập mỹ thì còn lại những tướng "nhất quý" thì rất nhiều. Tướng thập toàn thập mỹ thường dễ nhận mà tướng nhất quý hay nhất tiện rất khó xem. Quý nhân ai cũng có những đồ phụ tùng như kiệu, người hầu. Tiện nhân trái lại thật là giản dị mắt thường cũng nhìn thấy. Khó là ở nơi tìm ra cái hoạ sắp tới của kẻ tiền hô hậu ủng và cái phúc đang chờ của kẻ cơm ăn còn đang bữa đói bữa no! Nghiên cứu về tiện tướng ở Bắc Kinh các nhà xem tướng thường đến kỹ viện Bát Đại hồ đồng. Ở đây người ta có thể nom tận mắt những người đẹp xứng đáng là "hoa quốc tổng thống". Ở đây người ta cũng thấy tận mắt những bộ mặt dâm ô, tiện nữ, thô tục. Mỹ nhân theo tục nhãn là đẹp, kỹ nữ theo tướng lý là hạ tiện. Ở đây trong đầu óc người ta nổi lên hàng trăm dấu hỏi tại sao có những phu nhân đẹp tuyệt vời cũng lại có những vị nhất phẩm phu nhân xấu ơi là xấu, xấu như con gấu? Tại sao cũng một vẻ đẹp "khờ người" lại luân lạc vào chốn thanh lâu khốn khổ này mà một con người hình thù quái dị kia lại võng điều lọng tía? Tất cả đều nằm trong định luật nhất quý nhất tiện của tướng pháp vậy. Trịnh tiên sinh thông hiểu tướng lý thường cùng bạn bè đến Bát đại hồ đồng. Theo Trịnh tiên sinh thì tướng đàn bà con gái thường hiển lộ, còn tướng đàn ông con trai thường ẩn tàng. Cho nên nét quý tiện của đàn bà dễ nhận thấy hơn. Tại Bát đại hồ đồng, Trịnh tiên sinh đã phát hiện ra một ít tướng cách không tầm thường đáng tôn đến bậc quý phu nhân. Đương thời có một danh kỹ tên là Thái Phượng quê ở Tô Châu cũng là nơi sản sinh ra nhiều mỹ nữ. Đã nổi tiếng tất phải diễm lệ. Diễm lệ mà làm kỹ nữ tức là một cảnh "hồng nhan bạc mệnh" rồi! Đợi lúc xuân tàn sắc kém mới lấy chồng là bạc mệnh. Được cao quan quý nhân kết duyên giữa lúc sắc nước hương trời, nhưng phải chịu làm phận thiếp, làm vợ bé thì cũng vẫn cứ là bạc mệnh. Kỹ nữ đa số vẫn bị cái nghiệp báo vô tử không có con đó cũng vốn là một thứ bạc mệnh! Lấy chồng dù được làm kế thất nhưng tuổi chồng, tuổi vợ chênh lệch quá xa. Cái cảnh cây lê hoa trắng ôm ấp đoá hoa hải đường cũng chẳng phải là một cảnh bạc mệnh đó sao? Riêng về trường hợp của Thái Phượng, Trinh tiên sinh vẫn còn nghi hoặc vì chưa tìm ra một bạc tướng nào. Lẽ ra Thái Phượng phải lấy chồng rồi mới đúng chứ? Tuy rằng không được làm vợ một quý nhân thì cũng là chính thất của một phú nhân mới phải. Hơn nữa, đào hoa vận đến đã từ hai năm nay rồi! Dò hỏi kỹ càng mới biết năm kia nàng 17 tuổi bị "phá thân" bởi một phú thương ở Thiên Tân (!) với giá mười ngàn nguyên. Theo tướng lý "phá thân" cũng ứng vào đào hoa vận, có khác chăng là không phải đi lấy chồng cũng không phải được làm vợ. Tuy nhiên, cũng theo tướng lý thì con gái xuất giá là sự việc tốt do phúc khí tạo nên; còn con gái phá thân bằng lối mua chuộc (hoặc một số lối khác) thì lại là sự việc xấu coi như một tai hoạ. "Sai một ly đi một dặm". Vậy cái sai một ly ấy ở chỗ nào nhỉ? Trịnh tiên sinh rất phục tài xem tướng của Thái đẩu Điếu Kim Ngao nổi danh đương thời. Vừa lúc Điếu Kim Ngao du lịch miền nam đi về Bắc Kinh, họ Trịnh có ý muốn nhờ Thái đẩu giảng cho mình điểm nghi hoặc: Một hôm vào buổi trưa Trịnh tiên sinh biết tin Thái Phượng đi ăn cơm với mấy bà thương gia tại một tiệm lớn. Sở dĩ có bữa cơm này là vì trong số các bà có người có con trai đang muốn lấy Thái Phượng. Trinh tiên sinh liền cùng vài bạn đến Thái đẩu Điếu Kim Ngao mời đến chỗ đó ăn cơm, cốt để Thái đẩu đoán tướng của Thái Phượng. Thái đẩu Điếu Kim Ngao không hề biết Thái Phượng là kỹ nữ. Hôm nay Thái Phượng đi ăn với các bà nọ cũng trang điểm rất đơn sơ đạm bạc thật đúng phong cách lương gia nữ. Họ Quách hỏi Thái đẩu: "Tiên sinh đi vùng Giang Nam lần này với chủ ý: Dục cùng thiên lý mục cánh thượng nhất tầng lâu, nay thu góp chắc được nhiều điều mới lạ, xin tiên sinh cho biết người Bắc kẻ Nam trên phương diện tướng ra sao?" . Điếu Kim Ngao đáp: "Thưa vâng. Đi vạn dặm đọc vạn quyển sách. Chẳng những tôi tìm thấy nhiều điểm khác lạ về ngưòi Nam người Bắc mà còn học thêm những yếu tố địa lý nhân tố nhàn sư ảnh hưởng đến tướng thuật". Quách tiên sinh tiện dịp bàn bên chợt huyên náo liền đưa mắt nhìn sang rồi chỉ tay hỏi: "Tướng Nam, tướng Bắc như mấy bà bên đây có dễ dàng nhận ra ai là Nam, ai là Bắc không?" . Điếu Kim Ngao gật đầu: "Dễ lắm" - Thái đẩu cũng quay sang luôn hướng đó. Vừa lúc có một bà nhận ra Điếu Kim Ngao liền gật đầu chào rồi vội chạy sang nói: "Tiên sinh có nhận ra tôi không? Tôi là vợ ông Hạ đây nè. Tháng trước tôi dẫn vợ chồng ông họ Trương đến xem tướng, tiên sinh bảo ông ta tháng ấy dịch mã động. Đúng quá, ông ấy vừa có việc đã đi xuống phương Nam mấy bữa nay rồi. Điếu Kim Ngao đáp lời: "À thì ra bà Hạ, ông nhà biến đâu cả năm nay tôi không gặp?" Bà họ Hạ ghé tai Điếu Kim Ngao nói nhỏ: "Gặp tiên sinh hôm nay thực là may, xin mời tiên sinh sang bên bàn tôi uống vài ly rượu nhân thể gia phúc xem hộ cho một cô nương bên ấy. Theo chúng tôi thì cô ta đẹp lắm, dáng người đầy đặn nhưng chẳng biết cô ấy ra sao, có thực là vượng phu ích tử hay không, năm nay có hỷ tình chăng? Hôn phối có mỹ mãn không?" Nghe bà họ Hạ nhỏ to, họ Trịnh cùng các bạn như hạn hán gặp mưa hối hả giục Thái đẩu nhận lời. Bà Hạ giới thiệu Thái đẩu là Trương Tam Gia và giới thiệu Thái Phượng là Lý tiểu thư. Điếu Kim Ngao chừng vài mươi phút vừa uống rượu vừa đàm đạo với Lý tiểu thư rồi quay về bàn cũ ngồi không nói điều chi với các bà hết. Quách tiên sinh lên tiếng khiêu khích mà rằng: "Cô nương bên ấy là thiếu phụ đâu còn là khuê nữ mà sao các bà ấy đặt vấn đề cầu thân một cách long trọng thế không biết!" (Thực tình, họ Quách muốn thử xem phản ứng của Thái đẩu như thế nào) Thái đẩu Điếu Kim Ngao cười khà khà: "Chắc là Quách tiên sinh nhìn đã đoán được có kẻ phá thân cô ấy rồi thì phải?" - Cả bọn cùng cười. Trịnh tiên sinh nói: "Lúc tiên sinh đi Giang Nam bọn này như bầy trâu không có người chăn dắt, lắm lúc bí xị nhiều điểm không trông ra. Như trường hợp Thái Phượng - Lý tiểu thư đây chẳng hạn, chúng tôi chỉ mang máng nó thuộc diện nhất tiện phá cửu quý nhưng tiện tướng nào thì tìm hoài không có thấy! Chúng tôi đã thấy rằng đáng lẽ phải 2 năm trước cô ta đáng ra đã lấy chồng giàu, thế mà dọ hỏi thì lại không phải vậy." Thái đẩu nói: "Đó là vì các vị không xét nó trên căn bản vấn đề vậy. Nếu hình thái ấy mà không phân tích qua định luật chân quý và giả quý thì dễ nhầm lẫn lắm. Đúng là cô ấy thuộc cách nhất tiện phá cửu quý, mà cách này cũng có thể tìm ra ở trong chân quý nữa nhưng mà rất hiếm. Ta không nên hồ đồ. Cách nhất tiện phá cửu quý thì sự khám phá ra minh tiện (tướng tiện lồ lộ) không khó khăn gì, nhưng khám phá ra ám tiện thì chả dễ dàng tẹo nào đâu. Chân quý hay giả quý thuộc chính cách, còn nhất quý thuộc kỳ cách và nhất tiện phá cửu quý thuộc phá cách. Hình tượng mỗi người hỗn tạp bất thuần. Như Lý tiểu thư đây là tướng cục giả quý đeo thêm phá cách.". Trịnh tiên sinh nói: "Đồng ý, về chân giả chúng tôi tự nhận đã không đặt ra để đặt hướng cho đúng. Nhưng xin hỏi tiên sinh tướng pháp có dậy cách phát hiện ra ám phá cách không?" Điếu Kim Ngao cười: "Tướng ám phá trên đại thể có thể nhìn qua mũi, mắt, môi và âm thanh được. Tuy nhiên được như thế chẳng những phải đầy kinh nghiệm mà còn phải thêm nhất điểm thiên tài nữa mới xong. Phải có điểm thiên tài ấy mới tiến tới bậc nhìn thần khí mà nhận ra ám tướng.". Trịnh tiên sinh nói: "Vọng khí đi ra ngoài khả năng của chúng tôi, chỉ xin tiên sinh chỉ giáo những điểm dễ dãi hơn, như Lý tiểu thư đây, nhìn qua mắt, mũi, môi và âm thanh có thể nhận ra ám tướng chăng?". Điếu Kim Ngao đáp: Trước hết, tôi hãy nói với các vị về nguyên lý đã. Coi mũi chủ yếu phải tìm ra vết tích nhỏ như sợi tơ. Với đàn ông mũi là thê, với đàn bà mũi là phu. Vết ấy hiện lên là phu hoặc thê cung khuyết hãm. Coi mắt phải hiểu ánh mắt, khuyết điểm là đào hoa nhãn ám tàng dâm quang - đấy là 1 phá tướng. Coi môi chủ yếu là nhan sắc, qua sắc môi tìm ra âm sú (hôi hám của sinh thực khí) đó là ám phá cực hại. Coi thanh tướng phải nghe được âm sắc; tiếng nói biểu thị một sự khuyết hãm của khuê phòng chẳng những chứng tỏ là dâm phụ mà còn là loại vợ bị ruồng bỏ nữa. Cô Thái Phượng ám tướng hiện ở trên môi.". Nói đến đây thì bàn bên kia đã rã đám. Bà họ Hạ dẫn một bà sang bàn bên này nói với Thái đẩu Điếu Kim Ngao rằng: "Đây là bà bạn thân họ Cừu của tôi. Bà ấy có cậu con năm nay 30 tuổi, lấy vợ đã ba năm mà vẫn hiếm hoi, thầy số bảo rằng chính phòng tử tức bất vượng nên có ý muốn chọn thiếp cho cậu ấy. Vậy lấy Lý tiểu thư làm thiếp có được chăng?". Thái đẩu đáp: "Người ta thường lấy thiếp để hưởng sắc, thì lấy kỹ nữ cũng không sao. Như bà đây muốn chóng có cháu thì hà tất phải cần Lý tiểu thư. Tôi muốn nói thẳng ra xin hai bà thứ lỗi, thế cậu nhà vẫn là khách hàng quen thuộc của Lý Thái Phượng ư? Hay là có ai giới thiệu với cậu ấy?". Hai bà đỏ mặt và đám họ Trịnh, họ Quách... cũng ngỡ ngàng. Giây lâu bà họ Cừu nói: "Cháu hiện ở Thiên Tân và không quan Thái Phượng mà do bạn bè giới thiệu, họ cũng cho biết cô ấy là một kỹ nữ nổi tiếng nhưng tài sắc tướng mạo kể vào loại khá đáng là viên ngọc bích của một tiểu gia. Thêm nữa con dâu cả của tôi kể cũng hơi đứng tuổi, cho nên khi cháu nó thấy nơi Thái Phượng như thế thì vui lòng ưng ngay!". Mr Điếu Kim Ngao nói: "Nếu cậu ấy đã quyết định rồi thì tôi nói thêm vào làm gì! Nếu tin tướng số đó là một vấn đề, bằng như không tin thì nói mấy cũng là thừa!". Bà họ Cừu vội nói luôn: "Thưa tiên sinh, cháu nó nhà tôi tin vào tướng số lắm ạ. Sở dĩ còn trù trừ đến nay chưa quyết cũng chính là vì tại nó muốn coi xem số mạng Lý tiểu thư cho rõ ràng đấy ạ.". Điếu Kim Ngao nói: "Theo tôi thì việc hôn sự không thành đâu. Thứ nhất tướng mạo Thái Phượng tuy rất đẹp nhưng cô ta không thể lấy chồng trước 25 tuổi, và cô ta nhất định phải lấy người hơn mình ít nhất là 24 tuổi. Thứ hai Thái Phượng tuy có tướng vượng phu nhưng về đường tử tức hoàn toàn hỏng bét! Cho nên, cái mục đích thứ thiếp sinh nhi tử của cậu nhà không thể thực hiện được. Thứ ba, Thái Phượng tuy nghi dung mỹ lệ nhưng có ám phá tướng, lấy chồng rồi cũng khó lòng làm vừa lòng chồng.". Chàng họ Cừu vẫn còn tiếc rẻ chưa tin hẳn lời Thái đẩu, nhờ bạn đi điều tra thêm nữa thì mới bít rằng ám phá tướng của Thái Phượng là âm sú rất nặng không một anh chàng nào có mũi mà chịu nổi! Về sau, Thái phượng đúng lúc nàng 26 tuổi gặp và lấy một ông lái muối giàu có họ Vương. Ông ta năm ấy vừa tròn 50 cái xuân xanh! Vì khứu giác bị hỏng nên đối với ám phá tướng của Thái Phượng ông tuyệt đối chẳng hay biết, mà nếu có biết ông cũng chả thèm quan tâm. Mũi có ngửi thấy gì đâu mà sợ! Kể từ đấy, Thái Phượng thoát hẳn khỏi cái kiếp lầu xanh. Thế mới hay, thứ thịt lợn thiu đã có ông thành hoàng nghẹ mũi, ông trời xếp lớp việc đời quả là tuyệt diệu. Tướng tiện thật lạ kỳ. Người đàn bà có đẹp như sao băng nếu phạm phải cũng đành cam phận mà thui. Mùi tục luỵ nhường kia cay đắng, Vai chi mà đeo đẳng trần duyên. XI - DẦY VÀ MỎNG ĐỐI VỚI THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ Những người thắt đáy lưng ong Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con Nhưng người béo trục béo tròn Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày. Chẳng hiểu sao người xưa đặt ra câu phong dao trên đây theo ý nghĩa nào? Xin thưa, mời đọc phần tiếp theo này nhé: Khéo chiều chồng chỉ đúng theo nghĩa yêu đương! Và khéo nuôi con chắc chắn hkông thể đúng theo cách nhìn của tướng thuật về nghĩa vượng phu ích tử được! Còn béo tròn thì lại cần phải xét cho kỹ; Nếu cái béo núng nính, thịt mỡ quá nhiều so với xương cốt thì đúng thật là thứ đàn bà ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày thật rồi! Chẳng những thế, tướng cách "nhục bất xứng cốt" chưa chắc đã có thể có con để mà đánh mắng. Theo tướng thư đàn bà thắt đáy lưng ong thuộc loại mình mỏng không trọng hậu, là tướng cách phong trần đa truân mặc dù, đó cũng là tướng cách phong lưu. Về phụ nữ, tướng thuật lấy hậu trọng mình đầy đặn làm thượng cách cho phú cũng như quý. Người ta có thể kiểm chứng định luật này rất dễ dàng bằng cách trông tướng phu nhân của các vị nguyên thứ kể từ nữ hoàng Elizabeth, hoàng hậu Sirikit, Farah Dibah... không ai là không có cái cách "yêu viên bối hậu" (lưng dầy eo tròn) ngoại trừ Jacqueline Kenedy. Đàn bà khác với đàn ông ở tướng dầy mỏng này. Đàn ông điển hình, mộc hình gầy cao thanh tú là quý! Nhưng đàn bà tướng thân như phong liễu không bao giờ là tốt cả. Đọc trong Hồng Lâu Mộng tác giả Tào Tuyết Cần tả các mỹ nhân nào là Tiết Bảo Cầm eo như con thuỷ xà, thân như trái đào non; nào là Sử Sương Vân lưng ong tay dài, trông đẹp tựa như con thiên nga; nào là Vương Hi Phượng với hai câu "Phấn diện hàm xuân uy bất lộ, đan thần vị khải tiếu tiên khai". Hết thẩy đều có vẻ đẹp thân như phong liễu cho nên Hồng Lâu Mộng mới là cuốn tiểu thuyết diễm tình đầy nước mắt. Nói đến tướng hậu trọng cần phải lưu ý những điểm căn bản sau đây: Hậu trọng là dầy và nặng theo nghĩa đen. Tuy nhiên nếu người dầy và nặng thì bước đi phải nhẹ nhàng, sách tướng gọi là "Thân trọng bộ khinh" (mình nặng mà bước nhẹ) - thế mới quý. Trái lại mình dầy nặng mà đi như huỳnh huỵch như lăn cối đá, ầm ầm như xe tăng lên dốc là không đúng cách. Thêm nữa, những người mình nhẹ mà bước nặng là có tướng làm nô tỳ. (hoặc cái gì đó tệ tương đương như thế) Tuy nhiên, hậu trọng không phải là béo múp béo míp, mỗi khi cử động hay cười nói là thịt lại rung lên, núng nính! Sách tướng dạy: Nhục đa cốt thiểu (thịt nhiều xương ít) là tướng tú bà, tướng không con. Xương với thịt phải cân xứng tuyệt đối. Hậu trọng thì cần da dẻ mịn màng, không bóng lên như bôi dầu. Da bóng nhễ, mình dầy là dâm tiện chi tướng. Hậu trọng còn cần "nhục tàng" (thịt ẩn) nghĩa là chắc gọn, không sồ sề, lôi thôi. Sồ sề là tướng tham ăn tục uống hết cả phần chồng phần con. Hậu trọng nhưng cốt cách phải phong thái không được thô lỗ. Sưu khảo
    1 like
  6. "Nhất thanh, nhì sắc, tam hình" Đó mới là đánh giá sơ qua khi diện kiến theo Nhân tướng học, để đánh giá chính xác hơn nữa phải xét đến yếu tố mùi hương cơ thể. Thanh, sắc, hình đều tốt cả nhưng trán hôi, nách hôi, miệng hôi, nách hôi, mồ hôi hắc nồng thì chỉ là hạng hạ tiện, còn nếu gặp trường hợp âm xú thì khắc phu nặng nề, hình tử. Nhưng để biết được mùi hương cơ thể không chỉ tiếp xúc sơ giao mà đoán được, nhất là trong điều kiện hiện nay khi hóa mỹ phẩm khử mùi được sử dụng rất phổ biến ở cả hai giới.
    1 like