• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 10/06/2015 in all areas

  1. Chữ Nôm Ngày nay hiểu khái niệm chữ Nôm đó là chữ Nôm mới, hình thành vào thế kỷ 13, tương truyền do Hàn Thuyên chế ra. Lại có truyền thuyết kể rằng, thủa ấy dưới sông Hồng còn sống rất nhiều thuồng luồng, thường hại dân chài. Hàn Thuyên dùng chữ Nôm viết một tờ sớ ném xuống sông, từ đó giống thuồng luồng bỏ đi đâu mất tăm, không còn ở sông Hồng để hại dân chài nữa. Có lẽ do chúng hãi quá khi đọc phải tờ sớ bằng chữ Nôm, khó gấp năm lần chữ Hán, lại chẳng có một tí sáng tạo nào, hoàn toàn dùng chữ nho cũ và qui tắc lục thư của Hán tự (tức chưa hề có tư tưởng thoát Trung), để chế ra thứ chữ Nôm (mới) nhằm ghi âm từ dân gian Việt, nhưng kí âm cũng chẳng chính xác bằng chữ Việt cổ (chữ Nòng Nọc) vẫn còn tồn tại ở các làng bản miền núi hẻo lánh (mà ngày nay cụ giáo Đỗ Văn Xuyền đã phục hồi lại được). Còn dân gian thì chẳng cần chữ, các chuyện cổ tích, ca dao, tục ngữ và các áng văn nổi tiếng của các đại văn hào vẫn được dân gian thuộc lòng và truyền khẩu ngàn đời. Chữ Nôm (mới) xuất hiện cùng thời với chữ của Đại Hàn và chữ của Nhật Bản, nhưng hai thứ chữ kia, cũng chỉ nhằm mục đích ghi âm chính xác tiếng nói dân gian của dân tộc, nhưng hoàn toàn là sáng tạo (có lẽ do có tư tưởng thoát Trung sớm hơn). Chữ của Đại Hàn là do ông Vua của Đại Hàn chế ra, nó chỉ còn giữ cái “vỏ” của hình thức chữ nho là từng vuông nho nhỏ, trong mỗi vuông đó là những kí tự để ghi âm một từ đa âm tiết của tiếng Hàn. Có chữ riêng rồi nhưng người Hàn vẫn học chữ nho như ngày xửa ngày xưa ông cha họ đã từng dùng (kể từ thời Tề Công truyền chữ nho sang Cao Li), ngày nay học sinh tiểu học vẫn bắt buộc phải học để biết được 1800 chữ nho (để vào đền, chùa hay các di tích lịch sử thì còn đọc hiểu được xưa tổ tiên viết cái gì). Còn chữ Nhật Bản thì do tiếng Nhật cũng là ngôn ngữ chắp dính (từ đa âm tiết) như tiếng Hàn, nhưng lại vì từ đồng âm dị nghĩa quá nhiều do vậy mà phải dùng tới ba loại kí tự: Hiragana là loại kí tự để ghi âm từ dân gian Nhật, Katacana là loại kí tự để ghi phiên âm tiếng du nhập ngoại lai, Kanji tức Hán tự là để dùng cho những từ đồng âm với những từ đã ghi bằng hai loại kí tự kia. Có chữ riêng rồi nhưng người Nhật Bản vẫn học chữ nho, như ông cha họ từ xửa từ xưa đã từng dùng. Học sinh tiểu học bắt buộc phải học biết 2500 chữ nho (Kanji), để vào đền, chùa còn đọc hiểu được người xưa viết gì. Đến thế kỉ 16, tiếp xúc với phương Tây và chữ Latin, người Việt Nam mới tìm đến loại kí tự ghi âm mới là chữ cái Latin. Đến thời Nguyễn, Nguyễn Trường Tộ từng đề nghị lên Vua, đại ý là, nếu tiếp tục dùng chữ nho thì cứ như ngữ pháp tiếng Việt mà viết, không việc gì phải viết theo ngữ pháp Hán. Và một chữ nho thì đọc theo âm của từ dân gian hay đọc theo âm nho của từ hàn lâm là tùy theo ngữ cảnh trong câu viết đó. Hoặc không thì bỏ hẳn không dùng chữ nho nữa, mà dùng chữ kí âm Latin (chữ quốc ngữ) cho thuận tiện hơn. Đến thế kỉ 20, chữ quốc ngữ hoàn toàn thắng thế, đúng là đại hồng phúc cho dân tộc. Chữ Nôm (mới, từ TK 13) do bắt chước y nguyên lục thư, dùng chữ nho cận âm để tá âm (không thể ghi âm chính xác được), lại đồng thời làm hỏng biểu ý của con chữ nho nguyên thủy. Ví dụ: 1/ Chữ Trai: chữ nho Nam 男 nguyên thủy viết biểu ý đúng cách đọc từ trên xuống dưới là “Điền 田 Lực 力” = (thiết) Đực 男. Đực nghĩa là Trai, con Trai là sức Nàm ruộng chủ yếu, nên người đàn ông nông dân còn gọi là người Lực 力 Điền 田, là người Nàm ruộng, mà lướt lủn “Nàm Trai” = Nam, gọi là Nam 男, chữ Nam 男 thành từ hàn lâm, còn “Điền 田 Lực 力” = Đực 男 là từ dân gian. Nếu theo phương án của Nguyễn Trường Tộ thì một chữ nho Nam 男 ấy cứ việc đọc, khi thì là Đực 男, khi thì là Trai 男, khi thì là Nam 男, tùy câu ờ ngữ cảnh phù hợp nào, dù đọc bằng từ gì thì biểu ý của chữ vẫn giữ nguyên là “cái sức làm ruộng ấy là con đực”, thì có lẽ chẳng phải “cải cách” gì, như ông Hàn Thuyên ở TK 13, để cho thuồng luồng nó còn phải khiếp, ông ấy đặt chữ nôm Trai là: Nam 男 + Lai 来 (tá âm “Lai 来” để đọc là “Trai”) thành con chữ nôm Trai 来男 (nhìn biểu ý chữ thì thấy ngớ ngẩn, nếu coi là ghi âm thì lấy gì mà chính xác? Giả sử thiết đúng cách đọc từ phải sang trái thì là “Nam 男 Lai 来” = Nái, lại hóa ra là “Con Nái” = Cái chứ không thể thành Đực là Trai). Chữ nôm Trai 来男 này rõ ràng phức tạp hơn chữ nho Nam 男 (Đực, Trai) nguyên thủy. 2/ Chữ Lòng: Lộng 弄 +Tâm 心. Tá âm “Lộng 弄” (nghĩa là làm) để đọc là Lòng, kèm chữ Tâm 心 nghĩa là Lòng. Rõ ngớ ngẩn vì không ra khỏi cái rọ lục thư của Hán. Chữ Tâm 心 của nho vẫn có thể đọc là Tấm 心 = Tỏng = Trong = Lòng = Lõi = ‘Lõi Chi 之!” = Lí 里, tùy câu ở ngữ cảnh nào thì đọc theo từ phù hợp cho ngữ cảnh đó. Nhiều thư tịch người ta còn mượn chữ Long 龍 để ghi âm từ Lòng, ví dụ câu “Long hận gian phu dâm phụ 龍 恨 奸 夫 淫 婦” trong bài “Quan Thánh đế giáng bút chân kinh”, có nghĩa là “lòng hận gian phu dâm phụ” chứ không phải Long 龍 đây là Rồng. Chữ Tâm Long 心 龍 để ghi âm từ Tấm Lòng. Chữ nôm Lòng viết bằng Lộng 弄 (đặt trên) + Tâm 心 (đặt dưới), đã phức tạp hơn chữ Tâm 心, lại nếu cứ vào biểu ý đọc từ trên xuống dưới thì có nghĩa là “làm lòng” như khi làm thịt heo, đọc thiết đúng cách trên xuống dưới thì là “Lộng 弄 Tâm 心” = Lâm thì “Lâm” lại nghĩa khác xa với Lòng. 3/ Chữ Trong: Đòng 童 + Trung 中. Tá âm “Đòng 童” để đọc là “Trong” kèm chữ Trung 中 nghĩa là ở giữa. Bản thân chữ nho Trung 中 đã là Trong rồi. Tùy ngữ cảnh, chữ Trung 中 có thể đọc là Trung 中, là Trong 中, là Giữa 中, là “Trong Giữa” = Trũng 中 (lướt lủn). Chữ nôm Trong 童中 này phức tạp hơn chữ nho Trung 中 (trong) nhiều, đọc thì đúng cách từ phải sang trái là “Trung 中 Đòng 童” = Trong 童中. Bản thân chữ nho Đòng 童 (chỉ cái Đòng Đòng, đứng trong bụng cây lúa) là gồm chữ “Đứng 立 Trong 里” = (thiết) Đòng 童, còn đọc là Đồng 童 để chỉ đứa bé là nhi đồng. Đứng = Sững = Lững = Lập 立. Trong = Lòng = Lõi = “Lõi Chi!” = Lí 里 4/ Chữ Chồng: Trọng 重 + Phu 夫. Tá âm “Trọng 重” để đọc thành “Chồng” kèm chữ Phu 夫 nghĩa là chồng. Thành ra chữ nôm (mới) Chồng 重夫 phức tạp hơn rất nhiều so với chữ nho nguyên thủy là chữ Trượng 丈 có thể đọc là Trượng 丈 = Tráng = Chàng = Chồng tùy ngữ cảnh phù hợp cụ thể. Còn chữ Phu 夫 mang nghĩa là chồng thì nó đâu phải là từ Chồng, nó chỉ là từ chỉ cái chức năng của chồng là “Phải Đụ” = Phu 夫. Cho nên nho gọi bằng cụm từ Trượng Phu 丈 夫 (Trượng 丈 chỉ người trai, Phu 夫 chỉ chức năng làm chồng, không có cái chức năng ấy thì chẳng làm nổi chồng). Còn chức năng của vợ là “Phải làm U” = Phụ 婦, nên nho gọi vợ bằng cụm từ Nữ 女 Phụ 婦 (Nữ 女chỉ người nái, Phụ 婦 chỉ chức năng làm mẹ là “Phải làm U” = Phụ 婦). Nữ Phụ chỉ người và chức năng, Hán ngữ dùng ngược là Phụ Nữ 婦 女. 5/ Chữ Đất: Thổ 土 + Đán 旦. Tá âm “Đán 旦” để đọc là “Đất” kèm chữ Thổ 土 nghĩa là đất. Thành chữ nho Đất 土旦 mà nếu đọc biểu ý thì là “buối sáng thổ”, hay đọc phải sang trái là “Đán 旦 Thổ 土” = Đổ, nói chung đều rắc rối và chẳng logic tí nào. Trong khi cổ đại nho đã viết từ Đất bằng chữ Địa 地, với biểu ý trên mặt chữ là nhấn mạnh “Thổ 土 Dã 也!” = “Thổ Ạ!” = Thà, nên mới có câu thành ngữ “Thật Thà như Đất”. Tất (tiếng Mường) = Đất (tiếng Kinh) = Đỉn (tiếng Thái) = Địa 地 (chữ nho), nhưng mà “Đỉn Tất” = Đất (tức Thái+ Mường= =Kinh, Thái và Mường là hai nhành của Kinh). Có phân tich cả ngàn chữ nôm thì đại loại đều như vây cả. Ở Hà Nội góc đường Láng giáp đường Láng Hạ có một con hẻm nhỏ, chắc xưa là đường vào làng, đầu hẻm có dựng tảng đá trên đề ba chữ sơn đỏ Đình Ứng Thiên. Đi theo hẻm đến cổng đình mới thấy cổng đề ba chữ nho đọc từ phải sang trái là Thiên Ứng Đình 天 應 亭. Vậy chính xác tên đình là đình Thiên Ứng, ý là ở đây mà cầu đảo gì thì sẽ được Thiên đáp Ứng ngay. Trong sân đình có bảng dựng to ghi chữ quốc ngữ, nói rõ: Đình đã được Bộ văn hóa xếp hạng, sự tích đình này là được xây từ đời Lý, tương truyền khi vua Lý đi đánh Chiêm Thành, thuyền gặp sóng lớn không đi tiếp được, nghỉ lại, Vua nằm mộng thấy một người con gái hiện lên xưng là thần cai quản vùng đất này, vẫn mong gặp Vua nay mới gặp được. Tỉnh dậy, Vua làm lễ cầu đảo xin cho sóng yên biển lặng, quả nhiên ứng nghiệm. Đến đời Trần có năm gặp thời tiết đại hạn hán, Vua cầu đảo ở đình Thiên Ứng này cũng quả nhiên ứng nghiệm được mưa móc tràn trề cứu được mùa màng. Tương truyền đình rất thiêng. Triều Nguyễn đình được phong sắc “Thượng Đẳng Thần”. Trên điện của đình có hai bức hoành phi là “Trợ Lý bình Chiêm” và “Phù Trần bái vũ”… Nhưng sự thật khi vào trong đình, nhìn lên điện thì thấy ba bức hoành phi cổ ghi bằng chữ nho, nhưng chẳng thấy chữ “bình Chiêm” nào cả. Bức hoành phi ở giữa điện (đọc từ phải sangh trái) là hai chữ: Hộ Quốc 護 國 (nghĩa là hộ vệ - giữ gìn đất nước), bức bên phải là bốn chữ: Trợ Lý Thiệp Ba 助 李 帖 波(nghĩa là giúp nhà Lý bằng cách đối thoại giao thiệp mà làm cho lặng sóng), bức bên trái là bốn chữ: Phù Trần Bái Vũ 扶 陳 沛 雨 (nghĩa là phù hộ nhà Trần mà làm cho tràn trề mưa móc). Chữ Ba 波 trong câu “Trợ Lý Thiệp Ba 助 李 帖 波” là chữ Ba 波 có nghĩa là sóng chứ không phải là chữ Ba 巴 trong kí âm từ Cham Pa bằng hai chữ nho Chiêm Ba 占 巴; không có chữ “bình 平” nào, cũng không có chữ “Chiêm 占” nào; chữ Thiệp 帖 có nghĩa là cái giấy mời, dùng trong từ giao thiệp tức đối thoại, bởi gốc của nó là do lướt câu “Thắng bằng giao Hiệp” = Thiệp 帖 (ở đây ý nói Vua Lý đã khấn – giao thiệp, hiệp thương với Thần sở tại) nên đã “cầu được ước thấy”, được sóng lặng mà đi dẹp bọn cướp biển đang quấy phá bờ cõi đất nước ở phía nam.
    2 likes
  2. Chó lao đầu chặn xe buýt cứu chủ bị mù 10/06/2015 11:47 (TNO) Một chú chó săn đã dũng cảm lao đầu chặn xe buýt để cứu người chủ bị mù khi băng qua đường. Chó là loài vật được xem là rất trung thành - Ảnh minh họa: AFP Chú chó Figo, thuộc giống chó săn mồi, cùng cô chủ khiếm thị Audrey Stone đã gặp phải tai nạn xe buýt khi băng qua đường. Nhanh nhạy và cũng cực kỳ dũng cảm, chú chó đã lao ra phía trước chiếc xe để bảo vệ người chủ. Tuy nhiên, cả hai đã bị chấn thương, theo NBC New York ngày 9.6. Cả cô chủ và chú chó đã va chạm với chiếc xe buýt của một trường học tại quận Putnam, New York (Mỹ). Cảnh sát cho biết chú chó đã va chạm với bánh trước của chiếc xe. Người tài xế nói rằng anh không hề thấy cả hai đang băng qua đường. Trong vụ tai nạn này, chỉ có một mình Figo là nhận biết được mọi chuyện. Mặc dù bị thương nhưng Figo vẫn không rời người chủ. Chú chó vẫn luôn đứng bên cạnh bảo vệ cô Stone. Cô chủ của nó cũng bị chấn thương, hốt hoảng và liên tục gọi tên Figo. Những người xung quanh sơ cứu cho Figo đã kể lại: “Nó không sủa hay rên rỉ mà luôn muốn chạy đến bên người chủ”. Chú chó bị nẹp một chân và đang được các nhân viên thú y chăm sóc. Cô Stone đã được đưa đến bệnh viện ngay sau đó. Cô bị chấn thương mắt cá, khuỷu tay và xương sườn, hiện vẫn còn ở bệnh viện để chữa trị vết thương. Huỳnh Mai
    1 like
  3. Tử Vi có khả năng tiên tri, còn thuyết nghiệp quả chỉ có thể giải thích. Nhưng vì nó không thể giải thích được vì sao kiếp hiện hữu nhiều kẻ làm ác lại vinh hoa phú quý, kẻ làm thiện lại - đôi lúc - lầm than. Nên nó giải thích là do kiếp trước. Anh Thiên Luân - một trong những học viên nghiên cứu Địa Lý Lạc Việt cao cấp - đã trao đổi với đôi vợ chồng Phật tử - cũng có quan điểm không cần phong thủy và suốt ngày tụng kinh cầu Phật. Nhưng đến khi quán cafe ế ẩm, hỏi Thiên Luân thì anh ta trả lời: Có lẽ cô chú tụng kinh chưa đủ. Đức Phật cũng không cần những người "mê tín dị đoan" theo Phật. Ngài nói: "Các ngươi chớ vội tin lời ta nói, mà hãy suy nghĩ cho kỹ". Bởi vậy, mới có 8 điều bát chính. Trong đó có "Chánh tư duy".
    1 like
  4. THIÊN LÝ NHÃN Vừa rồi trong Album "Tuyệt chiêu Địa lý Lạc Việt", anh Trần Minh Nhật có hỏi: "Hi, con cũng chưa hiểu chiêu "Thiên Lý Nhãn" lắm. Con phải qua xin sư phụ học thêm". Vậy Thiên Lý Nhãn là gì? Phòng họp của Tổng Cty DTT được thiết kế theo hình Thiên Lý Nhãn Anh chị em Phong thủy Lạc Việt thân mến.- nếu anh chị em vào đây và đọc được bài này. Tôi thường nhắc nhở anh chị em rằng: Phong thủy Lạc Việt là một hệ thống tri thức chặt chẽ, nhất quán, hoàn chỉnh, mộ tả những quy luật tương tác khách quan và giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề và sự kiện trong phạm trù của nó có khả năng tiên tri. Nhưng, khi nền văn minh Lạc Việt sụp đổ ở bờ nam sông Dương tử thì ngành học này đã thất truyền. Nền văn minh Hán tiếp thu một cách không hoàn chỉnh, sai lệch và chỉ gồm những mảnh vụn rời rạc lưu truyền trong dân gian. Cái gọi là 4 trường phái phong thủy trong văn minh Hán, thực chất chỉ là bốn yếu tố tương tác trong một hệ luận nhất quán của Địa Lý Lạc Việt. Điều này giống như "Cửu Âm chân kinh" bị xé lẻ thành các võ phái Trung Hoa trong tiểu thuyết "Cô gái Đồ Long" của Kim Dung vậy. Cả một nền văn minh sụp đổ và bị đô hộ hơn 1000 năm - đây không phải con số vô cảm được đọc trong một giây - nên vẫn còn rất nhiều tri thức Địa Lý Lạc Việt rải rác trong dân gian và không....nằm trong cái gọi là trường phái nào của Tàu. Trong đó có những chiêu thức ứng dụng. Đó là lý do tôi thường khuyên anh chị em phải luôn sưu tầm tiếp thu các kiến thức Địa Lý Lạc Việt còn lưu truyền trong dân gian là vậy. Quay trở lại câu hỏi của Trần Minh Nhật - liên quan đến chiêu thức ứng dụng - Trong lớp Địa Lý Lạc Việt cao cấp tôi có mô tả một yếu tố tương tác thứ V, ngoài 4 yếu tố tương tác tự nhiên mà người Tàu gọi là Trường phái - thì đây là yếu tố tương tác do con người mô phỏng thiên nhiên tác động lên chính cuộc sống của mình. Bởi vậy, những chiêu thức trong phong thủy hầu hết đều nằm trong yếu tố tương tác thứ 5 này, trong đó có "Thiên Lý Nhãn". Vấn đề là tại sao con người mô phỏng tự nhiên - một trong những nguyên lý của yếu tố tương tác thứ V - lại có thể thành chiêu thức trong Địa Lý Lạc Việt? Đó chính là sự vận dụng nguyên lý "Hình nào khí đó" trong Lý học Đông phương. Song cửa sổ nhà Thiên Sứ được thiết kế theo hình "Thiên Lý Nhãn". Hình ảnh cũ. Song cửa sổ nhà Thiên Sứ được thiết kế theo hình "Thiên Lý Nhãn". Biểu tượng của con mắt thứ ba. Hình ảnh cũ. Nguyên lý này thì ai tìm hiểu về Lý học chuyên sâu đều biết. Và đều có thể sổ Nho chém gió trên các bàn nhậu để dọa những người kém hiểu biết. Nhưng vấn đề là tại sao lại "hình nào khí đó"? Đến đây thì chỉ dành cho những người có khả năng tư duy thực sự và cập nhật kiến thức khoa học hiện đại nhất - đó là lý thuyết vật lý lượng tử. Những thực nghiệm của vật lý Lượng tử đã xác định rằng: Cho hai hạt cơ bản đồng tính chất cách nhau với một khoảng cách tính bằng năm ánh sáng. Nếu một hạt đảo chiều thì hạt kia ngay lập tức cũng quay theo cùng chiều với hạt ban đầu. Nói rộng ra ngoài lề một chút thì phải có một trường tương tác tức thời trong vũ trụ để tác động lên hạt thứ hai và tốc độ tương tác của trường này phải là tuyệt đối, hoặc gần như tuyệt đối. Từ đó chúng ta sẽ có một suy luận hợp lý rằng: Mọi cấu trúc vật chất có hình thể giống nhau sẽ có cùng một tính chất như nhau về cấu trúc vật chất được tạo thành từ những hạt cơ bản. Thí dụ: Một cục gang nằm lăn lóc trong đống phế liệu, cũng có cấu trúc vật chất giống một chiếc bánh trớn (Bánh đà) đúc bằng gang đang họat động trong một cái máy nổ. Một hòn non bộ nhỏ làm tiểu cảnh trong nhà cũng sẽ có cấu trúc như núi đá vôi trong cả một dãy núi. Và dù là đá vôi, hay gang, thép thì chúng cũng có cấu trúc từ những hạt cơ bản. Những hạt cơ bản này sẽ thông qua trường tương tác có sự vận động cùng tính chất với các hạt tương tự trong cấu trúc hình thể giống nhau. Và nó phải tạo ra trong không gian xung quanh những hình thể giống nhau này, một trường tương tác tương ứng để có thể "nhận ra" tính chất của nhau , mà những thí nghiệm khoa học đã thể nghiệm ở trên. Lý học mô tả trường tương tác tương ứng này là "khí chất". Đó chính là nguyên lý của "Hình nào khí đó" trong Lý học Việt. Từ nguyên lý và bản chất của vấn đề mà tôi mô tả ở trên, đã hình thành yếu tố cấu trúc Hình Lý Khí trong Địa Lý Lạc Việt và tạo ra những chiêu thức trấn yểm trong yếu tố tương tác thứ V trong Địa lý Lạc Việt. Nói rộng hơn và ngoài lề một chút thì đây chính là nguyên nhân để tôi xác định rằng: Ngay cả các lý thuyết vật lý hiện đại nhất của nền văn minh hiện nay, dù phát triển thêm 50 năm nữa thì vẫn còn thua xa những nền tảng tri thức của nền văn minh Đông phương. Vì nền văn minh này đã hiểu rõ và sâu sắc hơn nhiều khi đã ứng dụng một cách rất cụ thể, chi tiết trong đời sống con người. Bởi vậy, anh chị em Địa Lý Lạc Việt phải hiểu được bản chất của nguyên lý lý thuyết này thì mới có thể hiểu một cách rõ ràng những chiêu thức ứng dụng của Địa Lý Lạc Việt. Một lý thuyết nhân danh khoa học thì phải phản ánh những thực tại khách quan mà nó mô tả. Nguyên lý "Hình nào khí đó" trong Lý học Đông phương phản ánh một thực tại khách quan liên hệ với những tri thức khoa học đã mô tả bắt đầu từ những thực nghiệm của vật lý lượng tử. Tất nhiên nó chỉ bí ẩn và "mê tín dị đoan" với những người không chịu tư duy. Trở lại với chiêu thức "Thiên Lý nhãn". Trước hết chiêu thức này có hình thức của một con mắt. Tính đến ngày hôm nay, tôi đã ứng dụng "Thiên Lý nhãn" trong 5 ca phong thủy. Trong đó có một ca chính là căn nhà của tôi thể hiện qua các khung cửa sổ (Khung cửa số nhà tôi thiết kế theo hình Thiên Lý nhãn"). Nhưng có thể nói ca ứng dụng hoàn hảo nhất là ở Tổng Cty DTT. Các bạn có thể xem sự ứng dụng chiêu thức này trong topic "Phong thủy Lạc Việt ứng dụng, trong phần nói về Tổng Cty này. Vậy "Thiên Lý nhãn" có tác dụng gì? Trước hết, theo nguyên lý "hình nào khí đó" thì con mắt là biểu tượng của sự nhận thức, sự quán xét và là dữ kiện ban đầu của sự phát xét. Tất nhiên, theo nguyên lý "Hình nào khí đó" - đã chứng minh ở trên - thì khi ứng dụng hình thể nào nó sẽ tạo ra một trường khí tương tự và tác động đến những con người trong hình thể kiến trúc thuộc sở hữu của người đó. Tất nhiên, với trường khí tương tác của "Thiên lý nhãn" sẽ có tác dụng làm cho con người sống trong trường khí của nó lựa chọn và tập hợp được những đối tác tốt trong kinh doanh với những quyết định đúng đắn hơn. Như vậy, anh chị em Địa Lý Lạc Việt - đặc biệt anh chị em nghiên cứu Địa Lý Lạc Việt cao cấp - cần phải hiểu nguyên lý lý thuyết và bản chất thực tế của những phương pháp ứng dụng trong những chiêu thức trong Địa Lý Lạc Việt, mà tôi đã trình bày trong lớp. Như vậy, chúng ta có thể biến hóa thành rất nhiều chiêu thức để ứng dụng và trấn yểm. Nếu chỉ học phương pháp thì chỉ là sự ứng dụng thuần túy và thành thợ Phong Thủy. Cho dù là thợ cao cấp. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân để Lý học Đông phương nói chung bị coi là huyền bí trong con mắt tha nhân hơn 2000 năm nay, khi nền văn hiến Lạc Việt bị sụp đổ ở miền nam sông Dương tử. Thực chất tất cả các ngành chuyên môn của Lý học Đông phương, từ bói toán, phong thủy, Đông y...hoàn toàn rất khoa học. ============================= PS: Viết thêm trong topic của web này: Tuy nhiên, để minh chứng cả một nền văn minh phương Đông huyền vĩ đến kỳ vĩ, nếu sự kiện cách đây chỉ 50 năm thôi - lúc ấy thuyết Lượng Tử chưa phát triển - có lẽ sẽ không được coi là có "cơ sở khoa học". Còn ngay bây giờ, có lẽ cũng chỉ vài người ở trình độ và khả năng tư duy rất cao cấp , cũng chỉ có thể lờ mờ hiểu được, vì cảm nhận được tính hợp lý lý thuyết. Sở dĩ như vậy, là do sự phát triển của nền văn minh hiện đại có xu hướng thực chứng, thực nghiệm này cũng chưa đủ chín để có những phương tiện kỹ thuật kiểm chứng những thực tế ứng dụng của Địa Lý Lạc Việt. Hay nói cách khác là do khoảng cách chênh lệch trình độ giữa hai nền văn minh. Cho nên chỉ có thể mô tả trên tính hợp lý lý thuyết.
    1 like