-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/04/2015 in Bài viết
-
NHỮNG SAI LẦM CHỦ QUAN CỦA TÁC GIẢ HOÀI CỔ TRONG BÀI VIẾT VỀ CỔ SỬ VIỆT Tạm thời phần này tôi chưa phân tích sai lầm của anh Hoài Cổ trong đoạn này. Vì anh xác định rằng những luận điểm căn bản đã chứng minh trong các bài viết trước. Nên tôi sẽ phân tích sau. Công trình nghiên cứu chữ Khoa Đẩu là chữ của người Việt cổ được chứng minh rất công phu và rất xuất sắc của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Anh chưa hề phản biện được ông ta thì việc phủ nhận này hoàn toàn chủ quan. Tạm thời tôi coi như anh chưa xem hệ thống luận điểm của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, nên đã nhận xét theo suy luận chủ quan của cá nhân. Nhưng tôi đặt vấn đề với anh: Chữ Khoa Đẩu là một thực tế tồn tại khách quan trong lịch sử văn minh Đông phương. Nó được phát hiện trong các di chỉ từ Ân Khư thời Ân Thương 1400 năm TCn; Nó được nhắc tới trong cả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng là Thủy Hử của Thi Nại Am, ghi nhận dấu ấn vào đời nhà Tống. Di sản còn lại về chữ Khoa Đẩu có ở Đài Loan và cả các vùng miền núi Tây Bắc, Thanh Nghệ của Việt Nam. Trong các bản văn cổ sử Việt cũng nhắc tới chữ Khoa Đẩu. Vậy theo anh chữ Khoa Đẩu thuộc về nền văn minh nào? Anh cho rằng kinh Dịch xuất phát từ thời Hùng Vương, nhưng lại chối bỏ quan hệ với Phục Hy. Với luận điểm này anh phải giải thích một sự kiện trong Kinh Dịch là: theo truyền thuyết thì Phục Hy làm ra "Tiên thiên bát quái", khởi đầu cho toàn bộ kinh Dịch, để 4000 năm sau Chu Văn Vương làm ra Hậu thiên Bát quái. Tất nhiên điều này vô lý. Nhưng anh phải giải thích điều này nếu phủ nhận Phục Hy liên quan đến kinh Dịch. Đoạn văn này chỉ có tính khai đề, nên không có gì để bàn. Anh cho rằng quân của Hai Bà Trưng toàn là phụ nữ, là căn cứ vào tư liệu lịch sử nào? Hay anh chỉ căn cứ vào truyền thuyết? Anh và các nhà nghiên cứu lịch sử nên lưu ý rằng: Hai Bà Trưng khởi nghĩa, thế như chẻ tre. Chỉ trong một thời gian ngắn đã thu phục 63 thành trì của người Hán. Tôi cũng lưu ý các nhà nghiên cứu lịch sử rằng: Trong thời thịnh nhất của lịch sử Việt - tính từ thế kỷ thứ X - cũng chưa có đủ 63 thành. Huống chi là lịch sử từ thế kỷ đầu sau Cn. Điều này đã chứng tỏ vùng lãnh thổ mà Hai Bà Trưng giải phóng là rất lớn. Và trong lịch sử nhân loại, có thể có nhiều nữ tướng, có thể có những đội vệ binh toàn nữ / thí dụ như của tổng thống Libya Gadafi. Nhưng chưa bao giờ có một đội quân thu phục được một vùng lãnh thổ rộng lớn đến 63 thành mà toàn nữ cả. Anh đặt vấn đề chế độ Phụ hệ, nên không thể phục tùng Vua Bà, Nhưng đến thời Bà Triệu hơn 200 năm sau thì cái chế độ phụ hệ ấy còn nặng nề hơn, lại được đàn ông ủng hộ thì rất mâu thuẫn. Không thể chấp nhận được. Ngoại trừ ủng hộ lý thuyết của giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu Việt Nam là ông Nguyễn Văn trọng khi phát biểu rằng: "Lý thuyết khoa học hiện đại, không có tính hợp lý". Sự thăng trầm của một dân tộc gồm nhiều yếu tố lịch sử. Đoàn kết chỉ là một yếu tố cần. Anh không thể lấy một yếu tố duy nhất để phủ nhận những giá trị lịch sử thời Hùng Vương kéo dài 2622 năm - một thời đại trị vì lâu nhất trong lịch sử nhân loại - để cho rằng thời Hùng Vương thiếu đoàn kết. Thời đại nào cũng vậy, cũng đều có những kẻ phụng sự cho ngoại bang đô hộ để vinh thân phỉ gia. Gần đây nhất là thời Pháp thuộc, thiếu gì những ông Tây An Nam, chức này chức nọ. Mật thám Tây, ta đủ cả. Còn nhiều hơn cả đám Lý Cầm, Bốc Long....Nhưng điều đó không có nghĩa người Việt không yêu nước và không đau xót cho đất nước bị nô lệ. Anh không thể căn cứ vào đám nô thuộc đó, mà kết luận dân chúng không hết lòng ủng hộ Hai Bà Trưng. Nếu không hết lòng ủng hộ thì làm sao mà chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà thu phục được đến 63 thành trì khắp miền nam sông Dương tử? Chưa hết. Anh xác định "dân chúng vùng đồng bằng sông Hồng không hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến của( hai) bà". Là anh căn cứ vào tư liệu nào để cho rằng chỉ dân chúng vùng đồng bằng sông Hồng? Hay anh cùng quan điểm với những người phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - cũng đồng quan điểm cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc và địa bàn hoạt động chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng"?. Những tư liệu lịch sử đã xác định rằng: Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Nam Dương tử. Anh đã được xem những tư liệu này chưa? Nếu chưa, tôi gợi ý để anh có thể tham khảo, thí dụ như cuốn An Nam chí lược. Anh lưu ý là Mã Viện với chức danh tổng tư lệnh của quân đội Hán, thân chinh cầm quân tiến đánh Hai Bà Trung thì quân đội dó không thể là một vạn người. Những văn bản sau này chép lại chưa có gì chứng minh cả. Từ thời Chiến Quốc, chỉ riêng nước Triệu đã huy động 40 vạn quân chống Tần. Huống chi cả một đế chế Hán với tổng tư lệnh quân đội thân chinh cầm quân hàng trăm năm sau đó, mà chỉ có hơn một vạn là chuyện khôi hài. Căn cứ vào đấy, anh cho rằng quân Hai Bà phải kém hơn, nên chứng tỏ tỷ lệ ủng hộ Hai Bà rất thấp là một suy luận hoàn toàn chủ quan, từ những tư liệu không có chọn lọc và suy ngẫm. Truyền thuyết mô tả lại thì Hai Bà là hậu duệ của vua Hùng. Anh cho rằng"không có họ Hùng". Điều này có thể như vậy. Vì Hùng Vương là một chức danh. Nhưng rất có khả năng Hai Bà là hậu duệ dòng dõi vua Hùng theo truyền thuyết. Là dòng dõi Hùng Vương thì không nhất thiết phải là họ Hùng. Anh cho rằng Hai Bà là "một hậu duệ của thủ lĩnh chính thống người Âu" là căn cứ trên tư liệu hoặc cơ sở nào? Cách đây hơn 2000 năm đã có quốc hiệu và lãnh thổ Việt Nam để anh xác định một cách chủ quan vậy sao? Anh hoàn toàn mâu thuẫn ngay chính trong lập luận của mình: Đoạn trên anh viết: "Vùng Lĩnh Nam từ thời Triệu Đà, do người Hán trực tiếp cai trị với chính sách hà khắc, bóc lột dã man. Hậu quả của chính sách đó là dân chúng nổi loạn liên miên. Đối phó với tình trạng đó, người Hán ra sức kiểm soát chặc chẽ sinh hoạt của dân chúng, đẩy nhanh tiến trình đồng hóa, và đập tan mọi mầm mống nổi loạn". Nhưng đoạn dưới thì lại viết: "Đó là chính sách mềm dẽo nhằm thu phục và đồng hóa người việc bằng công cụ văn hóa thay cho biện pháp bạo lực đầy rủi ro và tốn kém. Chính sách này được Triệu Đà áp dụng và được nhà Hán kế thừa thành công. Hậu quả của nó làm giảm sút ý chí bất khuất và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Biểu hiện của sự chấp nhận tình trạng lệ thuộc này là trải qua 250 năm(207TCN-40), không nổ ra bất kỳ một cuộc khởi nghĩa nào chống lại người Hán cả! " Vậy rút cục là chính sách cai trị của nhà Hán như thế nào theo ý anh? Theo anh thì Tô Định không tàn ác, mà chỉ là hành vi đối phó có tính tình huống. Từ đó , anh cho rằng đó là nguyên nhân để "bà bị thất bại trước một kẻ thù không quá hùng mạnh với quân số chưa tới hai vạn". Đó chỉ là một suy luận rất chủ quan của anh, dựa trên kiến thức cá nhân. Tôi nhắc lại là nếu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng không được quảng đại quần chúng Bách Việt ủng hộ thì không thể chỉ trong một thời gian ngắn giải phóng 63 thành (Có tư liệu chép là 65 thành), khi quân đội của Hai Bà chỉ là quân khởi nghĩa, chứ không phải là quân chính quy của một quốc gia. Dân Việt nói chung rất dũng cảm. Điều này đã được sử sách ghi nhận. Anh không thể tự xác định một cách chủ quan Hai Bà là người Âu, nên không được người Lạc ủng hộ, khi anh chưa chứng minh được Hai Bà là người Âu theo tính thần học thuật. Nên ý kiến của anh về vấn đề này không có sức thuyết phục. Và dù Hai Bà là người thuộc dân tộc nào trong Bách Việt đi nữa thì truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc Việt vẫn không bao giờ vì không cùng chủng tộc mà không đứng lên chống kẻ thù chung. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này. Một lần nữa anh lại nói đến quân Hai Bà toàn là phụ nữ, đây là một nhận thức phi logic nhất mà tôi thấy trong nghiên cứu lịch sử. Bởi cấu trúc phục vụ chiến tranh của quân đội, hoàn toàn không phù hợp với nữ tính. Có thể có người nữ có thể lấn át chồng, có thể có những bộ phận toàn nữ trong cơ cấu nhỏ trong tổng thể quân đội. Nhưng điều đó hoàn toàn phi logic trong chiến tranh qui mô. Đây là cuộc chiến giữa hai quốc gia với tổng tư lệnh Đế chế Hán là Mã Viện. Chứ không phải là những chiến binh nữ trong thoại thoại Hy Lạp và vùng Amazon. Lại tiếp tục mâu thuẫn và suy luận chủ quan. Anh cho rằng "bà cùng chồng là Thi Sách và em gái là Trưng Nhị, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa". Vậy chồng bà không thu phục được đàn ông hay sao mà để cuối cùng là - theo anh - thì: "Còn bà cùng em dựa vào truyền thống gia đình và tín vật trống đồng, đã hiệu triệu các nữ binh lại tổ chức thành đội ngũ và huấn luyện cho họ kỹ năng chiến đấu". Quá mâu thuẫn từ những suy luận tiểu tiết, không có tính tổng hợp của những thành tố tương tác trong tổng thể quan hệ xã hội. Đến đây có lẽ tôi phải nói rằng: Anh không thể đưa ra một chuỗi suy luận chủ quan để kết luận một sự kiện lịch sử. Tô Định giết Thi Sách, đã được chính sử công nhận. Nay anh suy ra là Tô Định chỉ bắt và Thi Sách tự sát. Nghiên cứu lịch sử không phải là viết tiểu thuyết để hư cấu. Anh có quyền suy luận với giả thiết của mình, nhưng chí ít nó phải có một cấu trúc hợp lý trong cái tổng thể. Ở đây, anh chỉ mô tả một sự kiện là Thi Sách chết do tự sát, chứ không phải do Tô Định giết. Vậy theo anh Tô Định không đủ nhẫn tâm để giết Thi sách chăng? Nếu anh tự thấy mình đúng với suy luận chủ quan của mình thì anh phải chứng minh bằng di sản còn lại liên quan. Suy luận của anh rất không hợp lý, chỉ ngay trong một đoạn ngắn. Anh cho rằng:"Tô Định đã thành công ngay từ đầu với mục đích tiêu diệt Hai Bà Trưng, khi hầu hết người Lạc không ủng hộ cuộc khởi nghĩa của hai bà". Nhưng đoạn trên thì lại do kế hoạch bại lộ nên Thi Sách bị Tô Định bắt và theo anh là phải tự sát. Tức là chính Tô Định cũng bị động khi phát hiện kế hoạch khởi nghĩa của Hai Bà. Chứ không phải Tô Đinh có chủ mưu khuấy động cuộc khởi nghĩa non. Chỉ một đoạn rất ngắn, tính mâu thuẫn trong lập luận của anh đã bộc lộ. Và trong nhiều đọan, anh cũng thể hiện điều này, mà tôi đã chỉ ra ở trên. Anh cho rằng: Người đời sau làm nhẹ nỗi oan của Bà Trưng "bằng cách đưa việc thù nhà xuống sau nợ nước". Vậy với cách diễn đạt của anh thì vấn để đặt ra là: nếu không làm nhẹ nỗi oan thì bản chất sự việc là thế nào? Khi anh đề nghi tôi post bài giúp anh, tôi từ chối. Vì như vậy tôi phải chịu trách nhiệm với nội dung tôi đăng tải. Chúng ta đã gặp nhau và tôi đã đồng ý để anh đăng bài lên diễn đàn học thuật nghiên cứu cổ sử Việt và Lý học Đông phương, với điều kiện vinh danh Việt sử dù ý kiến trái chiều. Tôi cũng nói rõ với anh những khó khăn của việc vinh danh Việt sử và khẳng định rằng: Tất cả những bài gây hiểu lầm về cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến của các thành viên diễn đàn đều không được chấp nhận ở đây. Ngoài trừ chép từ web khác để phản biện. Bởi vì, duy nhất chỉ có diễn đàn Lý học chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến một cách cẩn trọng nhất, khi không ít những phương tiện thông tin, kể cả quốc tế phủ nhận điều này. Bởi vậy, anh Hoài Cổ nên xem xét lại cách diễn đạt của mình, hoặc là anh có thể tìm một web khác để bày tỏ luận điểm của mình. Nếu sau này, anh có bài nào được dư luận ủng hộ, anh có thể giới thiệu, tôi sẽ chép vào đây phản biện, hoặc công nhận anh là đúng. Thưa quý vị và anh chị em. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một trang sử hào hùng , sáng chói trong lịch sử Việt tộc trải gần 5000 năm văn hiến. Hai Bà đã làm rạng rỡ cội nguồn Việt sử, dù cuộc giành độc lập dân tộc rất ngắn ngủi. Chính vì cuộc khởi nghĩa của Hai Bà khiến cho tất cả những âm mưu xóa sổ cội nguồn Việt sử phải lúng túng trong việc mô tả và xuyên tạc cội nguồn Việt sử. Bởi vậy, cá nhân tôi nghĩ rằng: Khi nghiên cứu về thời đại phục quốc dù ngắn ngủi của Hai Bà Trưng cần rất khách quan, khoa học và không cảm tính. Phải có sự thẩm định tư liệu lịch sử với tính hợp lý, một cách có hệ thống, nhất quán, hoàn chính, có tính quy luật tính khách quan và khả năng tiên tri.1 like
-
Lò lửa xung đột Mỹ - Trung bắt đầu nóng Đăng Bởi Một Thế Giới 07:11 20-04-2015 Hãy quên đi một Trung Đông nhỏ hẹp liên tục xảy ra xung đột chỉ vì những vấn đề về tín ngưỡng và sắc tộc, chính châu Á Thái Bình Dương rộng lớn và giàu có mới là lò lửa lớn nhất thế giới trong thế kỷ 21. Bộ trưởng hải quân Mỹ Ray Mabus duyệt hải quân Trung Quốc Thế giới năm 2015 đang chứng kiến một trong những bước ngoặt lớn nhất về địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21, khi mà đây được xem là năm bản lề cho sự kiện đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến trong suốt nhiều năm qua: sự trỗi dậy của châu Á. Không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng châu Á sẽ là động lực tăng trưởng trong tương lai của toàn thế giới, và nó buộc những cường quốc hàng đầu thế giới phải quan tâm đến châu lục phương Đông nhiều hơn bao giờ hết. Năm 2015 cũng được cho là năm mà Mỹ sẽ giải quyết những vấn đề tồn đọng của mình để tập trung hoàn toàn vào khu vực châu Á. Hãy quên đi một Trung Đông nhỏ hẹp liên tục xảy ra xung đột chỉ vì những vấn đề về tín ngưỡng và sắc tộc, chính châu Á Thái Bình Dương rộng lớn và giàu có mới là lò lửa lớn nhất thế giới trong thế kỷ 21. Những người thức thời nhất trong thế kỷ 20, tiêu biểu như cố vấn của tổng thống Mỹ Carter – Brezinsky, đều thống nhất với nhau về một điểm chung sẽ chi phối thế giới trong thế kỷ 21, đó là sự trỗi dậy của châu Á. Xét về diện tích, quy mô, tiềm lực và dân số, thì châu Á và đặc biệt là châu Á Thái Bình Dương mới là khu vực đứng đầu trên thế giới về những thuận lợi tăng trưởng kinh tế. Phần còn lại của thế kỷ 20 kể từ khi những dấu vết cuối cùng của chủ nghĩa thực dân phương Tây biến mất khỏi khu vực này, là khoảng thời gian cần thiết để các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương hàn gắn những vết thương và hồi phục trở lại, trước khi chính thức tung cánh trong thế kỷ 21. Chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Mỹ Bill Clinton vào năm 2000 được xem như sự kiện biểu tượng đánh dấu chấm hết cho sự hiện diện cuối cùng của việc phương Tây can thiệp quân sự vào khu vực này, để mở ra một giai đoạn mới, trong đó châu Á - Thái Bình Dương tăng tốc trong cuộc đua phát triển kinh tế. Sự quan tâm đến châu Á - Thái Bình Dương của phương Tây, mà tiêu biểu là Mỹ, bị xao nhãng đi đôi chút khi vụ tấn công tòa tháp đôi 11/9/2001 đã dẫn đến hai cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Trong suốt gần 15 năm kể từ sau sự kiện thảm khốc đó, nước Mỹ bị lún vào vũng lầy mang tên Trung Đông và thậm chí có vẻ như là Washington sẽ không bao giờ có thể rút chân ra khỏi đó. Nhưng một số người thì không thật tin điều đó. Xét về quy mô và các tác nhân có thể gây ra xung đột, cùng hậu quả khi cuộc xung đột nổ ra, thì Trung Đông không bao giờ có thể bì nổi với châu Á - Thái Bình Dương. Những cuộc xung đột ở Trung Đông gói gọn trong hai nguyên nhân chính là sự khác biệt về tôn giáo và sắc tộc, quy mô kinh tế và tiềm lực của các quốc gia Trung Đông cũng không quá lớn và kém xa về mọi mặt so với một châu Á - Thái Bình Dương khổng lồ. Trung Đông chưa bao giờ trở thành một mối đe dọa toàn cầu, trong khi chỉ với việc Nhật Bản có thể chiếm đóng cả châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến thứ hai đã khiến cả phương Tây phải toát mồ hôi. Một khi sự cố xảy ra, thì khu vực đáng lo ngại nhất phải là châu Á Thái Bình Dương, chứ không phải Trung Đông. Và thực tế cũng đã chứng minh, những vấn đề ở châu Á Thái Bình Dương hiện tại rộng lớn và phức tạp hơn Trung Đông rất nhiều. Ba trong số bốn cường quốc kinh tế lớn nhất châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nằm ở châu Á - Thái Bình Dương cùng hàng loạt các nền kinh tế hùng mạnh khác. Những vấn đề chủ chốt ở khu vực này cũng không đơn thuần là xung đột về tín ngưỡng và sắc tộc một cách tầm thường như ở Trung Đông, mà là một cuộc chiến phức tạp về kinh tế, chính trị và quân sự. Sự trỗi dậy của cường quốc lớn nhất khu vực là Trung Quốc đang kéo theo một chuỗi dài những nguy cơ biến khu vực này trở thành điểm nóng trên toàn cầu. Chuyện sẽ có một Nhật Bản thứ hai tìm cách thâu tóm cả khu vực bằng vũ lực như trong thế kỷ 20 là điều khó có thể xảy ra, nhưng khả năng một cuộc xung đột trên diện rộng có thể đưa cả khu vực năng động nhất của kinh tế thế giới vào lò lửa là điều có thể xảy ra. Và những cường quốc như Mỹ cần ngăn chặn khả năng ấy. Không cần nhìn đâu xa để có thể hình dung ra những nguy cơ tiềm ẩn ở châu Á - Thái Bình Dương, nó thể hiện ở ngay trong lĩnh vực chi tiêu quân sự. Trong năm 2014, mức chi tiêu quân sự trên toàn cầu đã giảm 0,4% so với năm 2013, nhưng riêng châu Á mức chi tiêu này lại tăng đến hơn 5%. Cùng với châu Đại Dương, châu Á đã đạt mức chi tiêu quốc phòng kỷ lục là 439 tỷ USD, trong đó chỉ riêng Trung Quốc đã gia tăng hơn 9,7%. Các nước đang có nguy cơ bị cuốn vào cuộc xung đột về lãnh thổ với Trung Quốc trong khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng gia tăng ở mức trung bình xấp xỉ 2%. Dễ dàng nhận ra hầu hết các nước tăng cường chi tiêu quốc phòng mạnh mẽ nhất ở châu Á - Thái Bình Dương đều là những nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, và buộc phải trang bị như một cách đối phó với sự trỗi dậy của cường quốc lớn nhất khu vực này. Việc các quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương tăng cường chi tiêu quốc phòng đang khiến khu vực này trở thành một trong những nơi được vũ trang nhất trên toàn cầu, và những nguy cơ xung đột thì không hề có dấu hiệu giảm đi mà còn đang tăng lên chóng mặt. Tình hình căng thẳng đến mức chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng có thể thổi bùng lên ngọn lửa xung đột trên toàn khu vực. Và điều này có thể đẩy cả thế giới và nền kinh tế toàn cầu vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất. Và một khi xung đột trên diện rộng đã xảy ra, thì không ai có thể dám chắc việc một cường quốc nào đó – chẳng hạn như Trung Quốc – lại không đi theo hướng đi mà Nhật Bản đã chọn trước thế chiến thứ hai. Trung Đông chưa bao giờ có thể là nguyên nhân châm ngòi cho một cuộc thế chiến, còn châu Á - Thái Bình Dương thì có thể. Nhàn Đàm (theo The Diplomat) ========================= Đương nhiên rùi! Bây giờ thì ai wan tâm đều nhận thấy vấn đề này. Nhưng lão Gàn thì nói lâu rùi. Hì! "Canh bạc cuối cùng" mà. Bởi vậy, cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ tới đây, xu hướng cứng rắn về chiến lược toàn cầu sẽ làm ứng cử viên nào đó thắng thế. Để thắng "Canh bạc cuối cùng" cần phải có một kiến thức tổng hợp cả kinh tế, ngoại giao và sức mạnh quân sự. Vị tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ tới phải là một người rất xuất sắc. Nước Nga không có tham vọng bá chủ thế giới. Họ chỉ bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu tạo được niềm tin chiến lược thì nước Nga và Hoa Kỳ có thể là đồng minh đáng tin cậy. Nhật Bản không đủ năng lực tổng hợp để làm bá chủ thế giới. Khối Châu Âu thì không có vấn đề gì. Vậy chỉ còn lại Trung Quốc và Hoa Kỳ. Híc! Nhưng tiếc thay! Trung Quốc thể hiện mình quá sớm. Lão Gàn chỉ hy vọng "Canh bạc cuối cùng" không kết thúc bằng chiến tranh.1 like
-
Quán vắng!
hoctronho liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thực hư chuyện thầy bói trước năm 1975 Kỳ 2- Thầy bói hay không bằng hên Đăng Bởi MỘT THẾ GIỚI 15:48 19-04-2015 Xem bói vỉa hè Vượt lên trên những thầy bói lăng Ông, khách sạn là thầy bói cao cấp chuyên phục vụ cho chính khách và nguyên thủ quốc gia thời đó. Đây là những ông thầy bói có thương hiệu, nhờ uy tín và tên tuổi do tự quảng cáo trên báo chí và biết cách lăng xê mình. Có thầy tự phong mình là “giáo sư thần học”, “chiêm tinh gia”, “quỷ cốc đại sư”, maitre”, “nhà tướng số”… nhờ ăn may một vài vụ nên tên tuổi nổi như cồn, được nhiều người trọng vọng, chính khách, nguyên thủ quốc gia đón rước long trọng tất nhiên tài lộc cũng vô như nước. Lúc này lời phán của thầy cũng được nhiều người tin sái cổ. Thầy bói phục vụ chính khách Ví vụ, đầu năm Nhâm Tý 1972 nhằm củng cố lòng tin của người dân Tổng Thống Nguyễn Văn thiệu đã chỉ đạo cho đại tá Trần Văn Lâm, Giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xã mời 3 ông thầy bói nổi tiếng bấy giờ là Huỳnh Liên, Minh Nguyệt, Khánh Sơn lên đài truyền hình dự đoán về vận mệnh quốc gia, tức nhiên là nói tốt cho chế độ Thiệu mở ra một tương lai sáng sủa hơn để trấn an dư luận trước những thất bại thê thảm trên chiến trường mà thời đó gọi là “Mùa hè đỏ lửa”. Một tay bốc sư cũng khá nổi tiếng tên Vũ Hùng hành nghề trên đường Nguyễn Trãi, không biết đã đoán vận mệnh chính trị cho ông Nguyễn Bá Lương, Chủ tịch Hạ Nghị Viện lúc bấy giờ ra sao mà được ông này tin sái cổ, liền đặt làm một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp để tặng cho nhà “tướng số” tài ba bày tỏ sự trọng vọng, có khắc dòng chữ rất trang trọng: “Ông Nguyễn Bá Lương, Chủ tịch Hạ Nghị Viện kính tặng nhà tướng số Vũ Hùng”. Được bức tranh quý hơn vàng này, nhà “ tướng số” Vũ Hùng liền treo ngay trong phòng làm việc để lòe thiên hạ và mặc sức đánh bóng tên tuổi, quảng cáo, tiếp thị rùm beng cho tài đoán vận mệnh chính khách của mình. Dạo đó có một giai thoại khá lý thú về ông thầy Chiêm, nổi tiếng ở Đà Lạt và cao nguyên về tài xem tử vi và nhìn tướng mạo rồi phán vanh vách về vận mệnh của các chính khách. Ông thầy Chiêm tuổi còn khá trẻ, không vận áo dài khăn đóng như các thầy bói cao niên mà mặc quần Tây, áo sơ mi đóng thùng rất sành điệu lại khoái đeo cặp “kiếng mát” nên lúc nào trông ông này cũng bảnh chọe, tác phong rất Tây. Đây là ông thầy bói theo trường phái “tân thời” nên mỗi khi ông rời văn phòng ra ngoài, bát phố chẳng ai biết ông ta làm nghề bói toán mà cứ nghĩ là một ông công chức hay “giáo sư” dạy cấp II. Tuy tác phong rất Tây nhưng cách ứng xử lại rất Tàu, mỗi lần gặp các nhân vật mới nổi lên trên chính trường, phỏng đoán người này có thể sẽ còn phất lên nữa, như sẽ ra ứng cử Tổng Thống chẳng hạn, thầy Chiêm liền sụp xuống lạy và cung kính phán: “ Ngài quả là có chân mạng đế vương”. Sự khéo nịnh của thầy Chiêm khiến cho các chính khách đang nổi tiếng hay sắp nổi tiếng trên chính trường Sài Gòn đều rất ái mộ nên thường xuyên tới nhờ thầy xem tử vi, nhìn sắc diện để đoán vận mệnh có lẽ trước hết là để được nghe thầy Chiêm nịnh kiểu: “Ngài quả có chân mạng đế vương” còn lời nịnh bợ này có trở thành hiện thực hay không thì hậu xét. Nhờ ăn may trở nên nổi tiếng như cồn Nhưng thầy Chiêm cũng ăn may được một vố, và nhờ thế tên tuổi càng nổi như cồn, đó là lần bẩu cử Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, năm đó chẳng hiểu sao lại có tới 11 vị chính khách ra ứng cử, trong đó có một vài nhân vật mà thầy Chiêm đã quỳ lạy và xưng tụng: “Ngài quả là có chân mạng đế vương”. Sau cú ăn may này thầy Chiêm tiếp đón thân chủ mệt xỉu và tất nhiên tài lộc cũng ào vào nhà thầy như nước. Sau ngày Tổng Thổng Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính trường Sài Gòn luôn trong tình thế hỗn loạn, sinh mệnh chính trị của một chính khách đang chểm chệ trên ghế cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mỏng manh như chỉ mành treo chuông, có thể lộn nhào sau một đêm đảo chánh, khi phe này lên thay thế phe kia. Chuyện “lên voi xuống chó” của chính khách kể cả các tướng lĩnh nắm quân đội tham gia chính trị cũng tùy thuộc vào cơn lốc xoáy thời cuộc đảo điên. Do đó ngay cả những nhân vật đầy thế lực này cũng không còn mấy tin vào chính mình mà hướng tới “thần quyền” vô hình nào đó để tiên liệu số phận hoặc tiến hành âm mưu, thủ đoạn, những bước “tiến thoái lưỡng nan” của mình và phe cánh. Lúc bấy giờ là thời của những chiêm tinh gia, những thầy tướng số và họ là trung gian giữa “thần quyền” và các nhân vật chính trị để phán những việc kiết hung, tạo niềm tin và là chỗ dựa tinh thần cho các chính khách Sài Gòn. Hầu như mỗi chính khách Sài Gòn thời đó đều chọn cho mình một ông thầy bói nổi tiếng làm “quân sư quạt mo” để vấn kế, mách nước trong mọi hoạt động mang tính đại sự. Do đó những ông thầy bói có tầm ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của các chính khách. Có vị chính khách nghe thầy bói mà để râu, sửa lại gương mặt như tướng “râu dê” Nguyễn Khánh. Có nhân vật nghe lời “quân sư” là chiêm tinh gia nên theo phe này mà không theo phe kia, có người phải mặc sơ mi trắng quanh năm, thắt cà vạt hồng kẻ sọc rất dỏm dáng mà không dám thay đổi vì theo lời thầy bói phán mặc như thế mới có tương lai sáng sủa. Hay như sự kiện chấn động Sài Gòn và cả miền Nam lúc bấy giờ là các tướng lĩnh nắm quân đội kết hợp với các thế lực chính trị lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thay vì theo kế hoạch tiến hành sớm hơn, nhưng theo lời “quân sư” là mấy ông thầy bói đã phải dời lại vào đúng 3 giờ chiều ngày 1-11-1963 mới bắt đầu nổ súng tấn công vào Dinh Độc Lập. (còn tiếp) Hồ An ====================== Khi bản chất khoa học của Lý học Đông phương, mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc, chưa được sáng tỏ, thì những nhà khoa học, hoặc những người hùa theo tri thức khoa học hiện đại với mớ kiến thức đủ "chém gió" trên bàn nhậu, thường thể hiện bằng cách chê bai những giá trị của Lý học Đông phương, nhằm gây sự chú ý của cộng đồng, kiếm chút danh vọng. Vào dịp Tết năm 1974 (Hoặc 1975), trong một bài diễn văn của ngài Xi Ha Núc đọc tại Hanoi cùng với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng - đăng trên báo Nhân Dân - có đoạn viết - Đại ý: "Các chiêm tinh gia ở Nông Pêng cho rằng: chế độ Sài Gòn tồn tại không quá 5, hoặc 6 năm nữa. Nhưng các chiêm tinh gia ở Sài Gòn , là bậc thầy của các chiêm tinh gia ở Nông Pêng, cho rằng: chế độ Sài Gòn tồn tại không quá một năm nữa". Các thày bói Saigon trước 1975, họ đoán cũng đúng và sự thật khách quan đã xảy ra như kết quả dự báo. Qua đó thấy rằng: Việc bói toán là những di sản của nền văn minh nhân loại từ hàng ngàn năm trước, phổ biến trên khắp các châu lục về cả không gian, lẫn thời gian lịch sử và là một sự tồn tại khách quan. Nó có hiệu quả của việc tiên tri nên đã tồn tại đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Một tư duy khoa học nghiêm túc cần phải khám phá và tìm ra bản chất của vấn đề tồn tại khách quan trong lịch sử văn minh nhân loại. Và điều này nhân danh nền văn hiến Việt với pháp nhân TTNC LHDP thuộc Hội khoa học Đông Nam Á đã xác định: Bói toán chính là sự mô phỏng những quy luật vũ trụ tương tác tới Địa cầu có thể tiên tri.1 like -
Quán vắng!
hoctronho liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thực hư về nghề thầy bói trước năm 1975 Kỳ 1- Thầy bói đủ dạng, đủ tầm kiểu trăm hoa đua nở Đăng Bởi MỘT THẾ GIỚI 13:28 18-04-2015 Sách tử vi bói toán bán nhan nhãn ngoài đường Cứ tạm gọi bói toán là một nghề thì trước năm 1975 đội ngũ thầy bói hành nghề này rất đông đảo. Từ thầy bói gốc me, góc chợ, lăng, miếu, đình, chùa, khách sạn… cho tới thầy bói cao cấp được sự tín nhiệm của chính khách, nguyên thủ quốc gia lúc bấy giờ mà lời phán ra có tầm ảnh hưởng rất lớn. Có những thầy bói rất nổi tiếng không chỉ ảnh hưởng đến chính trường mà còn phụ trách những mục “tử vi”, “đoán điềm giải mộng”, “nhân tướng học”… thậm chí bàn cả “thai đề” trên nhiều tờ báo. Sơ nét về nghề thầy bói Rõ ràng đây là mê tín dị đoan nhưng tại sao những cái tên như: Tư Nên, Vi Kính Trang, Huỳnh Liên, Khánh Sơn, Minh Nguyệt, Gia Cát Hồng, Nguyệt Hồ, Nguyễn Văn Canh, Ba La… lại nổi tiếng như cồn và trở nên giàu có nhờ hành nghề “tâm linh” này đến độ có những “ông thầy” đã trở thành huyền thoại. Vậy thực hư của nghề “bói toán” liên quan đến những “ông, bà thầy” này ra sao? Những "ông thầy, bà thầy" là tên gọi ám chỉ những thầy bói bình dân, hàng nghề ở vỉa hè, góc đường, góc chợ, lăng, miếu, đình, chùa và cả trong các khách sạn lớn. Họ hành nghề rất đơn giản, một manh chiếu con trải ra chiếm chỗ thuận tiện, trên đặt một cái mu rùa, mấy đồng tiền xu gieo quẻ, một bộ bài Tây 52 lá, xâu chân gà luộc phơi khô, mấy quyển sách tử vi, bói toán úa vàng, nhàu nát. Phục trang của thầy bói gần giống nhau, áo dài khăn đóng, kính đen do mù thật hoặc mù giả có trời mới biết. Một vài thầy chơi xì-ting mặc bộ đồ bà ba trắng tóc búi củ tỏi hay cắt tóc ngắn đội nón nĩ cho nó lạ. Lại có thầy ra vẻ hiện đại, lịch sự mặc áo bỏ thùng, thắt cà-vạt, hoặc quái hơn mặc com-lê tông chõi chơi cặp kính trắng gọng vàng ra vẻ thầy bói trí thức với cái cặp táp da đen cáu bẩn đựng sách bói toán căng phồng lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Nơi nổi tiếng để thầy bói dạng này hành nghề là Lăng Ông-Bà Chiểu Gia Định (Giờ là quận Bình Thạnh). Lăng Ông tức là lăng thờ đức Tả Quân Lê Văn Duyệt một vị tướng thời vua Gia Long triều Nguyễn. Do huyền thoại đồn đại đức Tả Quân Lê Văn Duyệt rất linh thiêng nên lăng thờ ngày thường đã đông khách thập phương đến viếng, lễ bái, cầu xin mọi chuyện trên đời. Vào các ngày rằm, lễ, Tết khách càng đông, đủ mọi thành phần xã hội. Sau khi vào lăng Ông lễ bái, xin xăm người nào cũng ra nhờ thầy bói giải xăm và luôn tiện nhờ bói cho một quẻ hung kiết, tình duyên, gia đạo, làm ăn, tiền hậu vận. Thanh niên nam nữ thì ngoài tình duyên là chuyện học hành, thi cử. Ngày đó những thầy bói hành nghề trong chu vi lăng phải đóng thuế môn bài, có chỗ ngồi nhất định, được kê bàn làm việc, trong phạm vi chỗ ngồi có che bạt phòng lúc mưa nắng hẳn hoi. Bên hông lăng là con đường nhỏ mang tên Trịnh Hoài Đức, rợp mát bóng me, đây là chỗ hành nghề của trên 20 thầy bói không đóng thuế môn bài, có nghĩa là hoạt động không hợp pháp nên cũng tùy thuộc sự vui buồn của lực lượng cảnh sát giữ trật tự. Vui thì để mấy thầy hoạt động, buồn thì đi hốt nên thầy nào cũng rất cơ động, chỉ trải manh chiếu con, có thầy manh chiếu cũng không được lành lặn… mỗi khi nghe có tiếng hô “cảnh sát”, lập tức mấy thầy cuốn chiếu, ôm đồ nghề tan hàng, chạy nháo nhác. Khi xe cảnh sát chạy qua mấy thầy tập trung trở lại, chỗ ai nấy ngồi, gốc me ai nấy giữ, xem như không có chuyện gì xảy ra. Thầy bói hành nghề cơ động, lấy tiền xủ quẻ, giải xăm, “đóan điềm, giải mộng” cho thân chủ cũng lấy giá bình dân. Nhưng tích tiểu thành đại, chủ yếu là lượng khách nhiều nên cuộc sống các thầy cũng khá sung túc. Thầy bói khách sạn Ở vùng Chợ Lớn tập trung nhiều người Hoa sinh sống có một số khách sạn lớn cũng mang tên rất Trung Hoa như Đồng Khách, Phượng Hoàng, Bát Đạt, Thiên Hồng…lại có đội ngũ thầy bói người Tàu hành nghề, chủ yếu phục vụ cho khách vãn lai là những “xì thẩu” từ khắp nơi tới trú ngụ để làm ăn với thương nhân Chợ Lớn, trong đó có thương nhân người Việt. Những thầy bói Tàu này không nói sỏi được tiếng Việt nên phải có phiên dịch để diễn giải lời thầy phán cho thân chủ người Việt. Nhiều thầy bói Tàu nổi tiếng đóng trụ sở hành nghề tại các khách sạn sang trọng vùng Chợ Lớn thời bấy giờ cũng có những cái tên rất Tàu và đầy vẻ kiếm hiệp của Kim Dung như: Sơn Đầu Bạch Vân Đại Sư, Hà Thiết Ngôn Đại Sư, Đại Lục Tiên, Sơn Đầu Bạch Mã Long, Mã Cơ Sanh…Những ông thầy bói Tàu này thường tự xưng là “Đại bốc sư” đến từ Hồng Kông và từ dung nhan cho đến cách ăn mặc đều rất…tiên phong đạo cốt, mang vẻ huyền bí. Đặc biệt có ông khi rời “văn phòng” xuất hành đi thăm thú đâu đó, hoặc có thân chủ mời tời tận nhà xem bói thì ăn mặc giống y như trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, có hai hàng đệ tử theo hầu coppy rặt phong của lão quái Đinh Xuân Thu. Điểm đặc biệt của những ông “Đại bốc sư” này là xem từng món mà dân trong nghề gọi là “xào, chẻ” chứ không xem hết một lèo mọi thứ như thầy bói ta. Ví dụ như xem chỉ tay hoặc tài lộc trong thời hạn 2 năm, không xem xa hơn và lấy giá 5 ngàn. Xem ngày tốt, xấu xuất hành, khai trương, làm ăn buôn bán lấy giá 10 ngàn, xem tử vi giá 30 ngàn…(tiền trước năm 1975). Chính điều này lại tạo thêm cho mấy ông thầy tác phong huyền bí, hấp dẫn nên khách hiếu kỳ luôn tìm đến nhờ đoán vận hạn, tài lộc, số mạng, hùn hạp làm ăn… Nhờ có nhiều thân chủ giới thiệu nhau nên lượng khách ruột và khách tiềm năng tìm đến thầy rất nhiều, có lúc phải lấy số thứ tự trước và chờ đợi tới lượt cũng khá mỏi mòn. Nhưng đã mê tín rồi thì thời gian chờ đợi để được thầy xủ quẻ, đoán vận hạn mỏi mòn cỡ nào cũng phải ráng. Thế là các thầy đua nhau hốt bạc, làm giàu, ăn xài thả cửa ở khác sạn sang trọng và lâu lâu chơi trò ú tim, giả vờ có khách quen rước qua Singapore, Malaysia, Thái Lan cả tuần lễ hoặc cả tháng khiến nhiều thân chủ đợi dài cổ. Trò bịp này các thầy chỉ bịp được khách Việt hoặc khách Tàu mới sang chứ người Chợ Lớn biết tõng mánh lới của các thầy đồng hương và cũng chả tin vào tài bói toán của các thầy nên khó bịp được họ. (còn tiếp) Hồ An ========================= Cách đây hơn 30 năm, tôi có được xem một lá tử vi trọn đời của ông Đại Lục Tiên coi cho một bà hàng xóm, đồng thời là nhạc phụ của một người bạn tôi ở Bến Tre. Trong đó ông Đại Lục Tiên có ghi rõ bà này chết vào năm 61 tuổi. Lúc bà cho tôi xem lá Tử Vi của bà do ông Địa Lục Tiên chấm thì mới có 58 tuổi. Quả nhiên, đúng năm 61 tuổi bà này mất. Ngày xưa có nhiều thày Tử Vi xem giỏi lắm. Bài viết này có vài chi tiết không chính xác, thí dụ: Trước năm 1975, theo tôi được biết chỉ có vài triệu tiền Việt Nam Cộng Hòa là có thể mua hàng trăm cây vàng. Giá 5000 cho một quẻ bói là không tưởng. Khái niệm "mê tín dị đoan" dùng trong bài báo này là không chính xác. Mà phải nói rằng: tri thức khoa học hiện đại - cho đến lúc khi tôi đang gõ hàng chữ này - không đủ tầm để hiểu được khả năng tiên tri của hành vi "bói toán" - vốn bị gọi là "mê tín dị đoan" này.1 like