• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 20/04/2015 in Bài viết

  1. ======================= Cá heo mắc cạn la liệt, Nhật Bản lo siêu động đất 11/04/2015 16:50 (NLĐO) – Hôm 10-4, khoảng 150 con cá heo dạt vào bờ biển phía Đông Bắc Nhật Bản và bị mắc cạn. Chính quyền địa phương nỗ lực giải cứu nhưng chỉ cứu sống được 3 con. Một hiện tượng lạ xảy ra ở bãi biển TP Hokota, Đông Bắc Tokyo, khi 150 con cá heo bị mắc cạn trên bờ cát, nhiều con sức khỏe rất yếu. Chỉ có ba con được cứu sống và thả về biển. Ảnh: EPA, Daily Mail Chuyên gia về động vật biển có vú, ông Tadasu Yamada, đến từ Bảo tàng Khoa học Tự nhiên Quốc gia (NMNS) nói với đài NHK rằng những con cá heo này dường như đã gặp vấn đề về sinh lý hay tâm lý và phải đối mặt với một mối đe dọa nào đó trước khi gặp nạn. Hồi năm 2011, khoảng 50 con cá heo tương tự cũng bị mắc kẹt trên một bãi biển gần đó. Những con vật xuất hiện trước trận động đất gây ra sóng thần và một thảm họa hạt nhân 6 ngày, giết chết ít nhất 19.000 người. Các nhà bình luận trực tuyến đang lo ngại Nhật Bản sẽ hứng chịu một trận động đất giống hồi năm 2011 sau vụ 150 con cá heo mắc cạn dù các bằng chứng khoa học chưa khẳng định được mối liên hệ giữa 2 sự kiện này. Động đất 6,8 độ richter, Đài Loan, Nhật Bản rung chuyển 20/04/2015 09:51 (TNO) Trận động đất 6,8 độ richter xảy ra sáng 20.4 đã khiến nhiều ngôi nhà tại Đài Bắc (Đài Loan) và Okinawa (miền nam Nhật Bản) rung chuyển, theo Reuters. Trận động đất 6,8 độ richter ảnh hưởng đến Đài Loan và Nhật Bản - Ảnh minh họa: AFP Tâm chấn được cho là nằm ở độ sâu 17 km cách thị trấn Tô Áo (huyện Nghi Loan, Đài Loan) khoảng 75 km về hướng đông nam, Cục Khí tượng Trung ương Đài Loan nhận định. Trong khi đó, Trung tâm Khảo sát địa chất Mỹ lại ghi nhận trận động đất có cường độ 6,6 độ richter, tâm chấn nằm ở độ sâu khoảng 1 km, theo Reuters. Cảnh báo sóng thần đã được ban bố cho các đảo Yaeyama và Miyakojima (quần đảo Okinawa, Nhật Bản) sau trận động đất khi nhiều đợt sóng cao đến 1 mét xuất hiện. Quan chức thành phố Miyako thậm chí đã yêu cầu người dân chuẩn bị sơ tán, tránh xa khu vực bờ biển, theo kênh truyền hình NHK. Tuy nhiên, Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương cho rằng nguy cơ nêu trên là không cao. Nhân chứng có mặt tại hiện trường cho biết nhiều cao ốc văn phòng tại Đài Bắc (Đài Loan) đã rung chuyển dữ dội. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có trường hợp thương vong nào liên quan đến vụ động đất được ghi nhận. Hữu Đạt ===================== Tất nhiên làm gì có "bằng chứng pha học" giữa hai sự kiện này. Nhưng xảy ra động đất ở phía Nam/ Đông Nam Nhật Bản cho thấy bằng chứng "lý học Đông phương" nhân danh nền văn hiến Việt. Và không phải chỉ một lần duy nhất lão Gàn dự báo đúng về động đất đâu nhé! Hì.
    2 likes
  2. Thực hư chuyện thầy bói trước năm 1975 Kỳ 2- Thầy bói hay không bằng hên Đăng Bởi MỘT THẾ GIỚI 15:48 19-04-2015 Xem bói vỉa hè Vượt lên trên những thầy bói lăng Ông, khách sạn là thầy bói cao cấp chuyên phục vụ cho chính khách và nguyên thủ quốc gia thời đó. Đây là những ông thầy bói có thương hiệu, nhờ uy tín và tên tuổi do tự quảng cáo trên báo chí và biết cách lăng xê mình. Có thầy tự phong mình là “giáo sư thần học”, “chiêm tinh gia”, “quỷ cốc đại sư”, maitre”, “nhà tướng số”… nhờ ăn may một vài vụ nên tên tuổi nổi như cồn, được nhiều người trọng vọng, chính khách, nguyên thủ quốc gia đón rước long trọng tất nhiên tài lộc cũng vô như nước. Lúc này lời phán của thầy cũng được nhiều người tin sái cổ. Thầy bói phục vụ chính khách Ví vụ, đầu năm Nhâm Tý 1972 nhằm củng cố lòng tin của người dân Tổng Thống Nguyễn Văn thiệu đã chỉ đạo cho đại tá Trần Văn Lâm, Giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xã mời 3 ông thầy bói nổi tiếng bấy giờ là Huỳnh Liên, Minh Nguyệt, Khánh Sơn lên đài truyền hình dự đoán về vận mệnh quốc gia, tức nhiên là nói tốt cho chế độ Thiệu mở ra một tương lai sáng sủa hơn để trấn an dư luận trước những thất bại thê thảm trên chiến trường mà thời đó gọi là “Mùa hè đỏ lửa”. Một tay bốc sư cũng khá nổi tiếng tên Vũ Hùng hành nghề trên đường Nguyễn Trãi, không biết đã đoán vận mệnh chính trị cho ông Nguyễn Bá Lương, Chủ tịch Hạ Nghị Viện lúc bấy giờ ra sao mà được ông này tin sái cổ, liền đặt làm một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp để tặng cho nhà “tướng số” tài ba bày tỏ sự trọng vọng, có khắc dòng chữ rất trang trọng: “Ông Nguyễn Bá Lương, Chủ tịch Hạ Nghị Viện kính tặng nhà tướng số Vũ Hùng”. Được bức tranh quý hơn vàng này, nhà “ tướng số” Vũ Hùng liền treo ngay trong phòng làm việc để lòe thiên hạ và mặc sức đánh bóng tên tuổi, quảng cáo, tiếp thị rùm beng cho tài đoán vận mệnh chính khách của mình. Dạo đó có một giai thoại khá lý thú về ông thầy Chiêm, nổi tiếng ở Đà Lạt và cao nguyên về tài xem tử vi và nhìn tướng mạo rồi phán vanh vách về vận mệnh của các chính khách. Ông thầy Chiêm tuổi còn khá trẻ, không vận áo dài khăn đóng như các thầy bói cao niên mà mặc quần Tây, áo sơ mi đóng thùng rất sành điệu lại khoái đeo cặp “kiếng mát” nên lúc nào trông ông này cũng bảnh chọe, tác phong rất Tây. Đây là ông thầy bói theo trường phái “tân thời” nên mỗi khi ông rời văn phòng ra ngoài, bát phố chẳng ai biết ông ta làm nghề bói toán mà cứ nghĩ là một ông công chức hay “giáo sư” dạy cấp II. Tuy tác phong rất Tây nhưng cách ứng xử lại rất Tàu, mỗi lần gặp các nhân vật mới nổi lên trên chính trường, phỏng đoán người này có thể sẽ còn phất lên nữa, như sẽ ra ứng cử Tổng Thống chẳng hạn, thầy Chiêm liền sụp xuống lạy và cung kính phán: “ Ngài quả là có chân mạng đế vương”. Sự khéo nịnh của thầy Chiêm khiến cho các chính khách đang nổi tiếng hay sắp nổi tiếng trên chính trường Sài Gòn đều rất ái mộ nên thường xuyên tới nhờ thầy xem tử vi, nhìn sắc diện để đoán vận mệnh có lẽ trước hết là để được nghe thầy Chiêm nịnh kiểu: “Ngài quả có chân mạng đế vương” còn lời nịnh bợ này có trở thành hiện thực hay không thì hậu xét. Nhờ ăn may trở nên nổi tiếng như cồn Nhưng thầy Chiêm cũng ăn may được một vố, và nhờ thế tên tuổi càng nổi như cồn, đó là lần bẩu cử Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, năm đó chẳng hiểu sao lại có tới 11 vị chính khách ra ứng cử, trong đó có một vài nhân vật mà thầy Chiêm đã quỳ lạy và xưng tụng: “Ngài quả là có chân mạng đế vương”. Sau cú ăn may này thầy Chiêm tiếp đón thân chủ mệt xỉu và tất nhiên tài lộc cũng ào vào nhà thầy như nước. Sau ngày Tổng Thổng Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính trường Sài Gòn luôn trong tình thế hỗn loạn, sinh mệnh chính trị của một chính khách đang chểm chệ trên ghế cao của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ mỏng manh như chỉ mành treo chuông, có thể lộn nhào sau một đêm đảo chánh, khi phe này lên thay thế phe kia. Chuyện “lên voi xuống chó” của chính khách kể cả các tướng lĩnh nắm quân đội tham gia chính trị cũng tùy thuộc vào cơn lốc xoáy thời cuộc đảo điên. Do đó ngay cả những nhân vật đầy thế lực này cũng không còn mấy tin vào chính mình mà hướng tới “thần quyền” vô hình nào đó để tiên liệu số phận hoặc tiến hành âm mưu, thủ đoạn, những bước “tiến thoái lưỡng nan” của mình và phe cánh. Lúc bấy giờ là thời của những chiêm tinh gia, những thầy tướng số và họ là trung gian giữa “thần quyền” và các nhân vật chính trị để phán những việc kiết hung, tạo niềm tin và là chỗ dựa tinh thần cho các chính khách Sài Gòn. Hầu như mỗi chính khách Sài Gòn thời đó đều chọn cho mình một ông thầy bói nổi tiếng làm “quân sư quạt mo” để vấn kế, mách nước trong mọi hoạt động mang tính đại sự. Do đó những ông thầy bói có tầm ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của các chính khách. Có vị chính khách nghe thầy bói mà để râu, sửa lại gương mặt như tướng “râu dê” Nguyễn Khánh. Có nhân vật nghe lời “quân sư” là chiêm tinh gia nên theo phe này mà không theo phe kia, có người phải mặc sơ mi trắng quanh năm, thắt cà vạt hồng kẻ sọc rất dỏm dáng mà không dám thay đổi vì theo lời thầy bói phán mặc như thế mới có tương lai sáng sủa. Hay như sự kiện chấn động Sài Gòn và cả miền Nam lúc bấy giờ là các tướng lĩnh nắm quân đội kết hợp với các thế lực chính trị lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm thay vì theo kế hoạch tiến hành sớm hơn, nhưng theo lời “quân sư” là mấy ông thầy bói đã phải dời lại vào đúng 3 giờ chiều ngày 1-11-1963 mới bắt đầu nổ súng tấn công vào Dinh Độc Lập. (còn tiếp) Hồ An ====================== Khi bản chất khoa học của Lý học Đông phương, mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về Việt tộc, chưa được sáng tỏ, thì những nhà khoa học, hoặc những người hùa theo tri thức khoa học hiện đại với mớ kiến thức đủ "chém gió" trên bàn nhậu, thường thể hiện bằng cách chê bai những giá trị của Lý học Đông phương, nhằm gây sự chú ý của cộng đồng, kiếm chút danh vọng. Vào dịp Tết năm 1974 (Hoặc 1975), trong một bài diễn văn của ngài Xi Ha Núc đọc tại Hanoi cùng với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng - đăng trên báo Nhân Dân - có đoạn viết - Đại ý: "Các chiêm tinh gia ở Nông Pêng cho rằng: chế độ Sài Gòn tồn tại không quá 5, hoặc 6 năm nữa. Nhưng các chiêm tinh gia ở Sài Gòn , là bậc thầy của các chiêm tinh gia ở Nông Pêng, cho rằng: chế độ Sài Gòn tồn tại không quá một năm nữa". Các thày bói Saigon trước 1975, họ đoán cũng đúng và sự thật khách quan đã xảy ra như kết quả dự báo. Qua đó thấy rằng: Việc bói toán là những di sản của nền văn minh nhân loại từ hàng ngàn năm trước, phổ biến trên khắp các châu lục về cả không gian, lẫn thời gian lịch sử và là một sự tồn tại khách quan. Nó có hiệu quả của việc tiên tri nên đã tồn tại đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Một tư duy khoa học nghiêm túc cần phải khám phá và tìm ra bản chất của vấn đề tồn tại khách quan trong lịch sử văn minh nhân loại. Và điều này nhân danh nền văn hiến Việt với pháp nhân TTNC LHDP thuộc Hội khoa học Đông Nam Á đã xác định: Bói toán chính là sự mô phỏng những quy luật vũ trụ tương tác tới Địa cầu có thể tiên tri.
    2 likes
  3. NHỮNG SAI LẦM CHỦ QUAN CỦA TÁC GIẢ HOÀI CỔ TRONG BÀI VIẾT VỀ CỔ SỬ VIỆT Tạm thời phần này tôi chưa phân tích sai lầm của anh Hoài Cổ trong đoạn này. Vì anh xác định rằng những luận điểm căn bản đã chứng minh trong các bài viết trước. Nên tôi sẽ phân tích sau. Công trình nghiên cứu chữ Khoa Đẩu là chữ của người Việt cổ được chứng minh rất công phu và rất xuất sắc của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Anh chưa hề phản biện được ông ta thì việc phủ nhận này hoàn toàn chủ quan. Tạm thời tôi coi như anh chưa xem hệ thống luận điểm của nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền, nên đã nhận xét theo suy luận chủ quan của cá nhân. Nhưng tôi đặt vấn đề với anh: Chữ Khoa Đẩu là một thực tế tồn tại khách quan trong lịch sử văn minh Đông phương. Nó được phát hiện trong các di chỉ từ Ân Khư thời Ân Thương 1400 năm TCn; Nó được nhắc tới trong cả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng là Thủy Hử của Thi Nại Am, ghi nhận dấu ấn vào đời nhà Tống. Di sản còn lại về chữ Khoa Đẩu có ở Đài Loan và cả các vùng miền núi Tây Bắc, Thanh Nghệ của Việt Nam. Trong các bản văn cổ sử Việt cũng nhắc tới chữ Khoa Đẩu. Vậy theo anh chữ Khoa Đẩu thuộc về nền văn minh nào? Anh cho rằng kinh Dịch xuất phát từ thời Hùng Vương, nhưng lại chối bỏ quan hệ với Phục Hy. Với luận điểm này anh phải giải thích một sự kiện trong Kinh Dịch là: theo truyền thuyết thì Phục Hy làm ra "Tiên thiên bát quái", khởi đầu cho toàn bộ kinh Dịch, để 4000 năm sau Chu Văn Vương làm ra Hậu thiên Bát quái. Tất nhiên điều này vô lý. Nhưng anh phải giải thích điều này nếu phủ nhận Phục Hy liên quan đến kinh Dịch. Đoạn văn này chỉ có tính khai đề, nên không có gì để bàn. Anh cho rằng quân của Hai Bà Trưng toàn là phụ nữ, là căn cứ vào tư liệu lịch sử nào? Hay anh chỉ căn cứ vào truyền thuyết? Anh và các nhà nghiên cứu lịch sử nên lưu ý rằng: Hai Bà Trưng khởi nghĩa, thế như chẻ tre. Chỉ trong một thời gian ngắn đã thu phục 63 thành trì của người Hán. Tôi cũng lưu ý các nhà nghiên cứu lịch sử rằng: Trong thời thịnh nhất của lịch sử Việt - tính từ thế kỷ thứ X - cũng chưa có đủ 63 thành. Huống chi là lịch sử từ thế kỷ đầu sau Cn. Điều này đã chứng tỏ vùng lãnh thổ mà Hai Bà Trưng giải phóng là rất lớn. Và trong lịch sử nhân loại, có thể có nhiều nữ tướng, có thể có những đội vệ binh toàn nữ / thí dụ như của tổng thống Libya Gadafi. Nhưng chưa bao giờ có một đội quân thu phục được một vùng lãnh thổ rộng lớn đến 63 thành mà toàn nữ cả. Anh đặt vấn đề chế độ Phụ hệ, nên không thể phục tùng Vua Bà, Nhưng đến thời Bà Triệu hơn 200 năm sau thì cái chế độ phụ hệ ấy còn nặng nề hơn, lại được đàn ông ủng hộ thì rất mâu thuẫn. Không thể chấp nhận được. Ngoại trừ ủng hộ lý thuyết của giáo sư vật lý lý thuyết hàng đầu Việt Nam là ông Nguyễn Văn trọng khi phát biểu rằng: "Lý thuyết khoa học hiện đại, không có tính hợp lý". Sự thăng trầm của một dân tộc gồm nhiều yếu tố lịch sử. Đoàn kết chỉ là một yếu tố cần. Anh không thể lấy một yếu tố duy nhất để phủ nhận những giá trị lịch sử thời Hùng Vương kéo dài 2622 năm - một thời đại trị vì lâu nhất trong lịch sử nhân loại - để cho rằng thời Hùng Vương thiếu đoàn kết. Thời đại nào cũng vậy, cũng đều có những kẻ phụng sự cho ngoại bang đô hộ để vinh thân phỉ gia. Gần đây nhất là thời Pháp thuộc, thiếu gì những ông Tây An Nam, chức này chức nọ. Mật thám Tây, ta đủ cả. Còn nhiều hơn cả đám Lý Cầm, Bốc Long....Nhưng điều đó không có nghĩa người Việt không yêu nước và không đau xót cho đất nước bị nô lệ. Anh không thể căn cứ vào đám nô thuộc đó, mà kết luận dân chúng không hết lòng ủng hộ Hai Bà Trưng. Nếu không hết lòng ủng hộ thì làm sao mà chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà thu phục được đến 63 thành trì khắp miền nam sông Dương tử? Chưa hết. Anh xác định "dân chúng vùng đồng bằng sông Hồng không hết lòng ủng hộ cuộc kháng chiến của( hai) bà". Là anh căn cứ vào tư liệu nào để cho rằng chỉ dân chúng vùng đồng bằng sông Hồng? Hay anh cùng quan điểm với những người phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt - cũng đồng quan điểm cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc và địa bàn hoạt động chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng"?. Những tư liệu lịch sử đã xác định rằng: Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Nam Dương tử. Anh đã được xem những tư liệu này chưa? Nếu chưa, tôi gợi ý để anh có thể tham khảo, thí dụ như cuốn An Nam chí lược. Anh lưu ý là Mã Viện với chức danh tổng tư lệnh của quân đội Hán, thân chinh cầm quân tiến đánh Hai Bà Trung thì quân đội dó không thể là một vạn người. Những văn bản sau này chép lại chưa có gì chứng minh cả. Từ thời Chiến Quốc, chỉ riêng nước Triệu đã huy động 40 vạn quân chống Tần. Huống chi cả một đế chế Hán với tổng tư lệnh quân đội thân chinh cầm quân hàng trăm năm sau đó, mà chỉ có hơn một vạn là chuyện khôi hài. Căn cứ vào đấy, anh cho rằng quân Hai Bà phải kém hơn, nên chứng tỏ tỷ lệ ủng hộ Hai Bà rất thấp là một suy luận hoàn toàn chủ quan, từ những tư liệu không có chọn lọc và suy ngẫm. Truyền thuyết mô tả lại thì Hai Bà là hậu duệ của vua Hùng. Anh cho rằng"không có họ Hùng". Điều này có thể như vậy. Vì Hùng Vương là một chức danh. Nhưng rất có khả năng Hai Bà là hậu duệ dòng dõi vua Hùng theo truyền thuyết. Là dòng dõi Hùng Vương thì không nhất thiết phải là họ Hùng. Anh cho rằng Hai Bà là "một hậu duệ của thủ lĩnh chính thống người Âu" là căn cứ trên tư liệu hoặc cơ sở nào? Cách đây hơn 2000 năm đã có quốc hiệu và lãnh thổ Việt Nam để anh xác định một cách chủ quan vậy sao? Anh hoàn toàn mâu thuẫn ngay chính trong lập luận của mình: Đoạn trên anh viết: "Vùng Lĩnh Nam từ thời Triệu Đà, do người Hán trực tiếp cai trị với chính sách hà khắc, bóc lột dã man. Hậu quả của chính sách đó là dân chúng nổi loạn liên miên. Đối phó với tình trạng đó, người Hán ra sức kiểm soát chặc chẽ sinh hoạt của dân chúng, đẩy nhanh tiến trình đồng hóa, và đập tan mọi mầm mống nổi loạn". Nhưng đoạn dưới thì lại viết: "Đó là chính sách mềm dẽo nhằm thu phục và đồng hóa người việc bằng công cụ văn hóa thay cho biện pháp bạo lực đầy rủi ro và tốn kém. Chính sách này được Triệu Đà áp dụng và được nhà Hán kế thừa thành công. Hậu quả của nó làm giảm sút ý chí bất khuất và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Biểu hiện của sự chấp nhận tình trạng lệ thuộc này là trải qua 250 năm(207TCN-40), không nổ ra bất kỳ một cuộc khởi nghĩa nào chống lại người Hán cả! " Vậy rút cục là chính sách cai trị của nhà Hán như thế nào theo ý anh? Theo anh thì Tô Định không tàn ác, mà chỉ là hành vi đối phó có tính tình huống. Từ đó , anh cho rằng đó là nguyên nhân để "bà bị thất bại trước một kẻ thù không quá hùng mạnh với quân số chưa tới hai vạn". Đó chỉ là một suy luận rất chủ quan của anh, dựa trên kiến thức cá nhân. Tôi nhắc lại là nếu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng không được quảng đại quần chúng Bách Việt ủng hộ thì không thể chỉ trong một thời gian ngắn giải phóng 63 thành (Có tư liệu chép là 65 thành), khi quân đội của Hai Bà chỉ là quân khởi nghĩa, chứ không phải là quân chính quy của một quốc gia. Dân Việt nói chung rất dũng cảm. Điều này đã được sử sách ghi nhận. Anh không thể tự xác định một cách chủ quan Hai Bà là người Âu, nên không được người Lạc ủng hộ, khi anh chưa chứng minh được Hai Bà là người Âu theo tính thần học thuật. Nên ý kiến của anh về vấn đề này không có sức thuyết phục. Và dù Hai Bà là người thuộc dân tộc nào trong Bách Việt đi nữa thì truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc Việt vẫn không bao giờ vì không cùng chủng tộc mà không đứng lên chống kẻ thù chung. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này. Một lần nữa anh lại nói đến quân Hai Bà toàn là phụ nữ, đây là một nhận thức phi logic nhất mà tôi thấy trong nghiên cứu lịch sử. Bởi cấu trúc phục vụ chiến tranh của quân đội, hoàn toàn không phù hợp với nữ tính. Có thể có người nữ có thể lấn át chồng, có thể có những bộ phận toàn nữ trong cơ cấu nhỏ trong tổng thể quân đội. Nhưng điều đó hoàn toàn phi logic trong chiến tranh qui mô. Đây là cuộc chiến giữa hai quốc gia với tổng tư lệnh Đế chế Hán là Mã Viện. Chứ không phải là những chiến binh nữ trong thoại thoại Hy Lạp và vùng Amazon. Lại tiếp tục mâu thuẫn và suy luận chủ quan. Anh cho rằng "bà cùng chồng là Thi Sách và em gái là Trưng Nhị, xây dựng kế hoạch khởi nghĩa". Vậy chồng bà không thu phục được đàn ông hay sao mà để cuối cùng là - theo anh - thì: "Còn bà cùng em dựa vào truyền thống gia đình và tín vật trống đồng, đã hiệu triệu các nữ binh lại tổ chức thành đội ngũ và huấn luyện cho họ kỹ năng chiến đấu". Quá mâu thuẫn từ những suy luận tiểu tiết, không có tính tổng hợp của những thành tố tương tác trong tổng thể quan hệ xã hội. Đến đây có lẽ tôi phải nói rằng: Anh không thể đưa ra một chuỗi suy luận chủ quan để kết luận một sự kiện lịch sử. Tô Định giết Thi Sách, đã được chính sử công nhận. Nay anh suy ra là Tô Định chỉ bắt và Thi Sách tự sát. Nghiên cứu lịch sử không phải là viết tiểu thuyết để hư cấu. Anh có quyền suy luận với giả thiết của mình, nhưng chí ít nó phải có một cấu trúc hợp lý trong cái tổng thể. Ở đây, anh chỉ mô tả một sự kiện là Thi Sách chết do tự sát, chứ không phải do Tô Định giết. Vậy theo anh Tô Định không đủ nhẫn tâm để giết Thi sách chăng? Nếu anh tự thấy mình đúng với suy luận chủ quan của mình thì anh phải chứng minh bằng di sản còn lại liên quan. Suy luận của anh rất không hợp lý, chỉ ngay trong một đoạn ngắn. Anh cho rằng:"Tô Định đã thành công ngay từ đầu với mục đích tiêu diệt Hai Bà Trưng, khi hầu hết người Lạc không ủng hộ cuộc khởi nghĩa của hai bà". Nhưng đoạn trên thì lại do kế hoạch bại lộ nên Thi Sách bị Tô Định bắt và theo anh là phải tự sát. Tức là chính Tô Định cũng bị động khi phát hiện kế hoạch khởi nghĩa của Hai Bà. Chứ không phải Tô Đinh có chủ mưu khuấy động cuộc khởi nghĩa non. Chỉ một đoạn rất ngắn, tính mâu thuẫn trong lập luận của anh đã bộc lộ. Và trong nhiều đọan, anh cũng thể hiện điều này, mà tôi đã chỉ ra ở trên. Anh cho rằng: Người đời sau làm nhẹ nỗi oan của Bà Trưng "bằng cách đưa việc thù nhà xuống sau nợ nước". Vậy với cách diễn đạt của anh thì vấn để đặt ra là: nếu không làm nhẹ nỗi oan thì bản chất sự việc là thế nào? Khi anh đề nghi tôi post bài giúp anh, tôi từ chối. Vì như vậy tôi phải chịu trách nhiệm với nội dung tôi đăng tải. Chúng ta đã gặp nhau và tôi đã đồng ý để anh đăng bài lên diễn đàn học thuật nghiên cứu cổ sử Việt và Lý học Đông phương, với điều kiện vinh danh Việt sử dù ý kiến trái chiều. Tôi cũng nói rõ với anh những khó khăn của việc vinh danh Việt sử và khẳng định rằng: Tất cả những bài gây hiểu lầm về cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến của các thành viên diễn đàn đều không được chấp nhận ở đây. Ngoài trừ chép từ web khác để phản biện. Bởi vì, duy nhất chỉ có diễn đàn Lý học chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến một cách cẩn trọng nhất, khi không ít những phương tiện thông tin, kể cả quốc tế phủ nhận điều này. Bởi vậy, anh Hoài Cổ nên xem xét lại cách diễn đạt của mình, hoặc là anh có thể tìm một web khác để bày tỏ luận điểm của mình. Nếu sau này, anh có bài nào được dư luận ủng hộ, anh có thể giới thiệu, tôi sẽ chép vào đây phản biện, hoặc công nhận anh là đúng. Thưa quý vị và anh chị em. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là một trang sử hào hùng , sáng chói trong lịch sử Việt tộc trải gần 5000 năm văn hiến. Hai Bà đã làm rạng rỡ cội nguồn Việt sử, dù cuộc giành độc lập dân tộc rất ngắn ngủi. Chính vì cuộc khởi nghĩa của Hai Bà khiến cho tất cả những âm mưu xóa sổ cội nguồn Việt sử phải lúng túng trong việc mô tả và xuyên tạc cội nguồn Việt sử. Bởi vậy, cá nhân tôi nghĩ rằng: Khi nghiên cứu về thời đại phục quốc dù ngắn ngủi của Hai Bà Trưng cần rất khách quan, khoa học và không cảm tính. Phải có sự thẩm định tư liệu lịch sử với tính hợp lý, một cách có hệ thống, nhất quán, hoàn chính, có tính quy luật tính khách quan và khả năng tiên tri.
    1 like
  4. Lò lửa xung đột Mỹ - Trung bắt đầu nóng Đăng Bởi Một Thế Giới 07:11 20-04-2015 Hãy quên đi một Trung Đông nhỏ hẹp liên tục xảy ra xung đột chỉ vì những vấn đề về tín ngưỡng và sắc tộc, chính châu Á Thái Bình Dương rộng lớn và giàu có mới là lò lửa lớn nhất thế giới trong thế kỷ 21. Bộ trưởng hải quân Mỹ Ray Mabus duyệt hải quân Trung Quốc Thế giới năm 2015 đang chứng kiến một trong những bước ngoặt lớn nhất về địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21, khi mà đây được xem là năm bản lề cho sự kiện đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến trong suốt nhiều năm qua: sự trỗi dậy của châu Á. Không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng châu Á sẽ là động lực tăng trưởng trong tương lai của toàn thế giới, và nó buộc những cường quốc hàng đầu thế giới phải quan tâm đến châu lục phương Đông nhiều hơn bao giờ hết. Năm 2015 cũng được cho là năm mà Mỹ sẽ giải quyết những vấn đề tồn đọng của mình để tập trung hoàn toàn vào khu vực châu Á. Hãy quên đi một Trung Đông nhỏ hẹp liên tục xảy ra xung đột chỉ vì những vấn đề về tín ngưỡng và sắc tộc, chính châu Á Thái Bình Dương rộng lớn và giàu có mới là lò lửa lớn nhất thế giới trong thế kỷ 21. Những người thức thời nhất trong thế kỷ 20, tiêu biểu như cố vấn của tổng thống Mỹ Carter – Brezinsky, đều thống nhất với nhau về một điểm chung sẽ chi phối thế giới trong thế kỷ 21, đó là sự trỗi dậy của châu Á. Xét về diện tích, quy mô, tiềm lực và dân số, thì châu Á và đặc biệt là châu Á Thái Bình Dương mới là khu vực đứng đầu trên thế giới về những thuận lợi tăng trưởng kinh tế. Phần còn lại của thế kỷ 20 kể từ khi những dấu vết cuối cùng của chủ nghĩa thực dân phương Tây biến mất khỏi khu vực này, là khoảng thời gian cần thiết để các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương hàn gắn những vết thương và hồi phục trở lại, trước khi chính thức tung cánh trong thế kỷ 21. Chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Mỹ Bill Clinton vào năm 2000 được xem như sự kiện biểu tượng đánh dấu chấm hết cho sự hiện diện cuối cùng của việc phương Tây can thiệp quân sự vào khu vực này, để mở ra một giai đoạn mới, trong đó châu Á - Thái Bình Dương tăng tốc trong cuộc đua phát triển kinh tế. Sự quan tâm đến châu Á - Thái Bình Dương của phương Tây, mà tiêu biểu là Mỹ, bị xao nhãng đi đôi chút khi vụ tấn công tòa tháp đôi 11/9/2001 đã dẫn đến hai cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Trong suốt gần 15 năm kể từ sau sự kiện thảm khốc đó, nước Mỹ bị lún vào vũng lầy mang tên Trung Đông và thậm chí có vẻ như là Washington sẽ không bao giờ có thể rút chân ra khỏi đó. Nhưng một số người thì không thật tin điều đó. Xét về quy mô và các tác nhân có thể gây ra xung đột, cùng hậu quả khi cuộc xung đột nổ ra, thì Trung Đông không bao giờ có thể bì nổi với châu Á - Thái Bình Dương. Những cuộc xung đột ở Trung Đông gói gọn trong hai nguyên nhân chính là sự khác biệt về tôn giáo và sắc tộc, quy mô kinh tế và tiềm lực của các quốc gia Trung Đông cũng không quá lớn và kém xa về mọi mặt so với một châu Á - Thái Bình Dương khổng lồ. Trung Đông chưa bao giờ trở thành một mối đe dọa toàn cầu, trong khi chỉ với việc Nhật Bản có thể chiếm đóng cả châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến thứ hai đã khiến cả phương Tây phải toát mồ hôi. Một khi sự cố xảy ra, thì khu vực đáng lo ngại nhất phải là châu Á Thái Bình Dương, chứ không phải Trung Đông. Và thực tế cũng đã chứng minh, những vấn đề ở châu Á Thái Bình Dương hiện tại rộng lớn và phức tạp hơn Trung Đông rất nhiều. Ba trong số bốn cường quốc kinh tế lớn nhất châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nằm ở châu Á - Thái Bình Dương cùng hàng loạt các nền kinh tế hùng mạnh khác. Những vấn đề chủ chốt ở khu vực này cũng không đơn thuần là xung đột về tín ngưỡng và sắc tộc một cách tầm thường như ở Trung Đông, mà là một cuộc chiến phức tạp về kinh tế, chính trị và quân sự. Sự trỗi dậy của cường quốc lớn nhất khu vực là Trung Quốc đang kéo theo một chuỗi dài những nguy cơ biến khu vực này trở thành điểm nóng trên toàn cầu. Chuyện sẽ có một Nhật Bản thứ hai tìm cách thâu tóm cả khu vực bằng vũ lực như trong thế kỷ 20 là điều khó có thể xảy ra, nhưng khả năng một cuộc xung đột trên diện rộng có thể đưa cả khu vực năng động nhất của kinh tế thế giới vào lò lửa là điều có thể xảy ra. Và những cường quốc như Mỹ cần ngăn chặn khả năng ấy. Không cần nhìn đâu xa để có thể hình dung ra những nguy cơ tiềm ẩn ở châu Á - Thái Bình Dương, nó thể hiện ở ngay trong lĩnh vực chi tiêu quân sự. Trong năm 2014, mức chi tiêu quân sự trên toàn cầu đã giảm 0,4% so với năm 2013, nhưng riêng châu Á mức chi tiêu này lại tăng đến hơn 5%. Cùng với châu Đại Dương, châu Á đã đạt mức chi tiêu quốc phòng kỷ lục là 439 tỷ USD, trong đó chỉ riêng Trung Quốc đã gia tăng hơn 9,7%. Các nước đang có nguy cơ bị cuốn vào cuộc xung đột về lãnh thổ với Trung Quốc trong khu vực như Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng gia tăng ở mức trung bình xấp xỉ 2%. Dễ dàng nhận ra hầu hết các nước tăng cường chi tiêu quốc phòng mạnh mẽ nhất ở châu Á - Thái Bình Dương đều là những nước có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, và buộc phải trang bị như một cách đối phó với sự trỗi dậy của cường quốc lớn nhất khu vực này. Việc các quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương tăng cường chi tiêu quốc phòng đang khiến khu vực này trở thành một trong những nơi được vũ trang nhất trên toàn cầu, và những nguy cơ xung đột thì không hề có dấu hiệu giảm đi mà còn đang tăng lên chóng mặt. Tình hình căng thẳng đến mức chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng có thể thổi bùng lên ngọn lửa xung đột trên toàn khu vực. Và điều này có thể đẩy cả thế giới và nền kinh tế toàn cầu vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng nhất. Và một khi xung đột trên diện rộng đã xảy ra, thì không ai có thể dám chắc việc một cường quốc nào đó – chẳng hạn như Trung Quốc – lại không đi theo hướng đi mà Nhật Bản đã chọn trước thế chiến thứ hai. Trung Đông chưa bao giờ có thể là nguyên nhân châm ngòi cho một cuộc thế chiến, còn châu Á - Thái Bình Dương thì có thể. Nhàn Đàm (theo The Diplomat) ========================= Đương nhiên rùi! Bây giờ thì ai wan tâm đều nhận thấy vấn đề này. Nhưng lão Gàn thì nói lâu rùi. Hì! "Canh bạc cuối cùng" mà. Bởi vậy, cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ tới đây, xu hướng cứng rắn về chiến lược toàn cầu sẽ làm ứng cử viên nào đó thắng thế. Để thắng "Canh bạc cuối cùng" cần phải có một kiến thức tổng hợp cả kinh tế, ngoại giao và sức mạnh quân sự. Vị tổng thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ tới phải là một người rất xuất sắc. Nước Nga không có tham vọng bá chủ thế giới. Họ chỉ bảo vệ quyền lợi của mình. Nếu tạo được niềm tin chiến lược thì nước Nga và Hoa Kỳ có thể là đồng minh đáng tin cậy. Nhật Bản không đủ năng lực tổng hợp để làm bá chủ thế giới. Khối Châu Âu thì không có vấn đề gì. Vậy chỉ còn lại Trung Quốc và Hoa Kỳ. Híc! Nhưng tiếc thay! Trung Quốc thể hiện mình quá sớm. Lão Gàn chỉ hy vọng "Canh bạc cuối cùng" không kết thúc bằng chiến tranh.
    1 like
  5. Thực hư về nghề thầy bói trước năm 1975 Kỳ 1- Thầy bói đủ dạng, đủ tầm kiểu trăm hoa đua nở Đăng Bởi MỘT THẾ GIỚI 13:28 18-04-2015 Sách tử vi bói toán bán nhan nhãn ngoài đường Cứ tạm gọi bói toán là một nghề thì trước năm 1975 đội ngũ thầy bói hành nghề này rất đông đảo. Từ thầy bói gốc me, góc chợ, lăng, miếu, đình, chùa, khách sạn… cho tới thầy bói cao cấp được sự tín nhiệm của chính khách, nguyên thủ quốc gia lúc bấy giờ mà lời phán ra có tầm ảnh hưởng rất lớn. Có những thầy bói rất nổi tiếng không chỉ ảnh hưởng đến chính trường mà còn phụ trách những mục “tử vi”, “đoán điềm giải mộng”, “nhân tướng học”… thậm chí bàn cả “thai đề” trên nhiều tờ báo. Sơ nét về nghề thầy bói Rõ ràng đây là mê tín dị đoan nhưng tại sao những cái tên như: Tư Nên, Vi Kính Trang, Huỳnh Liên, Khánh Sơn, Minh Nguyệt, Gia Cát Hồng, Nguyệt Hồ, Nguyễn Văn Canh, Ba La… lại nổi tiếng như cồn và trở nên giàu có nhờ hành nghề “tâm linh” này đến độ có những “ông thầy” đã trở thành huyền thoại. Vậy thực hư của nghề “bói toán” liên quan đến những “ông, bà thầy” này ra sao? Những "ông thầy, bà thầy" là tên gọi ám chỉ những thầy bói bình dân, hàng nghề ở vỉa hè, góc đường, góc chợ, lăng, miếu, đình, chùa và cả trong các khách sạn lớn. Họ hành nghề rất đơn giản, một manh chiếu con trải ra chiếm chỗ thuận tiện, trên đặt một cái mu rùa, mấy đồng tiền xu gieo quẻ, một bộ bài Tây 52 lá, xâu chân gà luộc phơi khô, mấy quyển sách tử vi, bói toán úa vàng, nhàu nát. Phục trang của thầy bói gần giống nhau, áo dài khăn đóng, kính đen do mù thật hoặc mù giả có trời mới biết. Một vài thầy chơi xì-ting mặc bộ đồ bà ba trắng tóc búi củ tỏi hay cắt tóc ngắn đội nón nĩ cho nó lạ. Lại có thầy ra vẻ hiện đại, lịch sự mặc áo bỏ thùng, thắt cà-vạt, hoặc quái hơn mặc com-lê tông chõi chơi cặp kính trắng gọng vàng ra vẻ thầy bói trí thức với cái cặp táp da đen cáu bẩn đựng sách bói toán căng phồng lúc nào cũng kè kè bên cạnh. Nơi nổi tiếng để thầy bói dạng này hành nghề là Lăng Ông-Bà Chiểu Gia Định (Giờ là quận Bình Thạnh). Lăng Ông tức là lăng thờ đức Tả Quân Lê Văn Duyệt một vị tướng thời vua Gia Long triều Nguyễn. Do huyền thoại đồn đại đức Tả Quân Lê Văn Duyệt rất linh thiêng nên lăng thờ ngày thường đã đông khách thập phương đến viếng, lễ bái, cầu xin mọi chuyện trên đời. Vào các ngày rằm, lễ, Tết khách càng đông, đủ mọi thành phần xã hội. Sau khi vào lăng Ông lễ bái, xin xăm người nào cũng ra nhờ thầy bói giải xăm và luôn tiện nhờ bói cho một quẻ hung kiết, tình duyên, gia đạo, làm ăn, tiền hậu vận. Thanh niên nam nữ thì ngoài tình duyên là chuyện học hành, thi cử. Ngày đó những thầy bói hành nghề trong chu vi lăng phải đóng thuế môn bài, có chỗ ngồi nhất định, được kê bàn làm việc, trong phạm vi chỗ ngồi có che bạt phòng lúc mưa nắng hẳn hoi. Bên hông lăng là con đường nhỏ mang tên Trịnh Hoài Đức, rợp mát bóng me, đây là chỗ hành nghề của trên 20 thầy bói không đóng thuế môn bài, có nghĩa là hoạt động không hợp pháp nên cũng tùy thuộc sự vui buồn của lực lượng cảnh sát giữ trật tự. Vui thì để mấy thầy hoạt động, buồn thì đi hốt nên thầy nào cũng rất cơ động, chỉ trải manh chiếu con, có thầy manh chiếu cũng không được lành lặn… mỗi khi nghe có tiếng hô “cảnh sát”, lập tức mấy thầy cuốn chiếu, ôm đồ nghề tan hàng, chạy nháo nhác. Khi xe cảnh sát chạy qua mấy thầy tập trung trở lại, chỗ ai nấy ngồi, gốc me ai nấy giữ, xem như không có chuyện gì xảy ra. Thầy bói hành nghề cơ động, lấy tiền xủ quẻ, giải xăm, “đóan điềm, giải mộng” cho thân chủ cũng lấy giá bình dân. Nhưng tích tiểu thành đại, chủ yếu là lượng khách nhiều nên cuộc sống các thầy cũng khá sung túc. Thầy bói khách sạn Ở vùng Chợ Lớn tập trung nhiều người Hoa sinh sống có một số khách sạn lớn cũng mang tên rất Trung Hoa như Đồng Khách, Phượng Hoàng, Bát Đạt, Thiên Hồng…lại có đội ngũ thầy bói người Tàu hành nghề, chủ yếu phục vụ cho khách vãn lai là những “xì thẩu” từ khắp nơi tới trú ngụ để làm ăn với thương nhân Chợ Lớn, trong đó có thương nhân người Việt. Những thầy bói Tàu này không nói sỏi được tiếng Việt nên phải có phiên dịch để diễn giải lời thầy phán cho thân chủ người Việt. Nhiều thầy bói Tàu nổi tiếng đóng trụ sở hành nghề tại các khách sạn sang trọng vùng Chợ Lớn thời bấy giờ cũng có những cái tên rất Tàu và đầy vẻ kiếm hiệp của Kim Dung như: Sơn Đầu Bạch Vân Đại Sư, Hà Thiết Ngôn Đại Sư, Đại Lục Tiên, Sơn Đầu Bạch Mã Long, Mã Cơ Sanh…Những ông thầy bói Tàu này thường tự xưng là “Đại bốc sư” đến từ Hồng Kông và từ dung nhan cho đến cách ăn mặc đều rất…tiên phong đạo cốt, mang vẻ huyền bí. Đặc biệt có ông khi rời “văn phòng” xuất hành đi thăm thú đâu đó, hoặc có thân chủ mời tời tận nhà xem bói thì ăn mặc giống y như trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung, có hai hàng đệ tử theo hầu coppy rặt phong của lão quái Đinh Xuân Thu. Điểm đặc biệt của những ông “Đại bốc sư” này là xem từng món mà dân trong nghề gọi là “xào, chẻ” chứ không xem hết một lèo mọi thứ như thầy bói ta. Ví dụ như xem chỉ tay hoặc tài lộc trong thời hạn 2 năm, không xem xa hơn và lấy giá 5 ngàn. Xem ngày tốt, xấu xuất hành, khai trương, làm ăn buôn bán lấy giá 10 ngàn, xem tử vi giá 30 ngàn…(tiền trước năm 1975). Chính điều này lại tạo thêm cho mấy ông thầy tác phong huyền bí, hấp dẫn nên khách hiếu kỳ luôn tìm đến nhờ đoán vận hạn, tài lộc, số mạng, hùn hạp làm ăn… Nhờ có nhiều thân chủ giới thiệu nhau nên lượng khách ruột và khách tiềm năng tìm đến thầy rất nhiều, có lúc phải lấy số thứ tự trước và chờ đợi tới lượt cũng khá mỏi mòn. Nhưng đã mê tín rồi thì thời gian chờ đợi để được thầy xủ quẻ, đoán vận hạn mỏi mòn cỡ nào cũng phải ráng. Thế là các thầy đua nhau hốt bạc, làm giàu, ăn xài thả cửa ở khác sạn sang trọng và lâu lâu chơi trò ú tim, giả vờ có khách quen rước qua Singapore, Malaysia, Thái Lan cả tuần lễ hoặc cả tháng khiến nhiều thân chủ đợi dài cổ. Trò bịp này các thầy chỉ bịp được khách Việt hoặc khách Tàu mới sang chứ người Chợ Lớn biết tõng mánh lới của các thầy đồng hương và cũng chả tin vào tài bói toán của các thầy nên khó bịp được họ. (còn tiếp) Hồ An ========================= Cách đây hơn 30 năm, tôi có được xem một lá tử vi trọn đời của ông Đại Lục Tiên coi cho một bà hàng xóm, đồng thời là nhạc phụ của một người bạn tôi ở Bến Tre. Trong đó ông Đại Lục Tiên có ghi rõ bà này chết vào năm 61 tuổi. Lúc bà cho tôi xem lá Tử Vi của bà do ông Địa Lục Tiên chấm thì mới có 58 tuổi. Quả nhiên, đúng năm 61 tuổi bà này mất. Ngày xưa có nhiều thày Tử Vi xem giỏi lắm. Bài viết này có vài chi tiết không chính xác, thí dụ: Trước năm 1975, theo tôi được biết chỉ có vài triệu tiền Việt Nam Cộng Hòa là có thể mua hàng trăm cây vàng. Giá 5000 cho một quẻ bói là không tưởng. Khái niệm "mê tín dị đoan" dùng trong bài báo này là không chính xác. Mà phải nói rằng: tri thức khoa học hiện đại - cho đến lúc khi tôi đang gõ hàng chữ này - không đủ tầm để hiểu được khả năng tiên tri của hành vi "bói toán" - vốn bị gọi là "mê tín dị đoan" này.
    1 like
  6. Trung Quốc: gã khổng lồ cô độc Đăng Bởi Một Thế Giới 06:18 19-04-2015 Trung Quốc vừa có những bước đi xa nhất trong nhiều năm qua khi sự thách thức đã lan sang tận Ấn Độ với việc triển khai tàu ngầm hạt nhân đến Ấn Độ Dương. Nhưng, tất cả những sự hung hăng ấy đang chứng tỏ một thực tế nghiệt ngã rằng: Trung Quốc hiện không có lấy một đồng minh. Có thể bạn quan tâm >> Chuyện tình không thể tin nổi của hai người khiếm thị giữa Sài Gòn >> Kỳ 4: Giang hồ hội diện >> Bài 2: Điệp khúc chờ Trung Quốc ‘ăn’ Một trong những tiêu chí chủ chốt nhất để chứng tỏ sức mạnh của một quốc gia trên thế giới là có bao nhiêu đồng minh. Nói cách khác, sẽ có bao nhiêu nước sẽ ủng hộ quốc gia đó trong những cuộc tranh chấp và xung đột trên thế giới. Tiêu chí này đang đúng với cường quốc mạnh nhất thế giới ở thời điểm hiện tại là Mỹ, với số lượng đồng minh chính trị và quân sự đông đảo nhất toàn cầu. Bằng cách sử dụng hệ thống đồng minh dày đặc, Washington có thể dễ dàng sắp đặt trật tự thế giới và giải quyết những xung đột ở các khu vực mà đôi khi không cần phải nhúng tay. Đã qua rồi cái thời kỳ sức mạnh của một quốc gia được đong đếm dựa trên tiềm lực kinh tế và quân sự, sức mạnh của một quốc gia giờ đây phụ thuộc vào số lượng và sức mạnh các đồng minh của nó. Và xét theo khía cạnh này, thì Trung Quốc có lẽ sẽ phải mất rất lâu nữa mới có thể ngang bằng với Mỹ về sức mạnh kinh tế và quân sự. Việc Trung Quốc không có lấy một đồng minh ở thời điểm hiện tại được giải thích là bởi, bối cảnh thế giới hiện nay không thích hợp để thực hiện điều đó. Xu thế chủ đạo trên thế giới hiện nay vẫn là hợp tác và hòa bình, trừ những khối liên minh quân sự cũ như NATO và các liên minh song phương được thiết lập trong quá khứ, thì rất khó để thành lập một liên minh mới. Bất cứ nỗ lực thành lập liên minh chính trị và quân sự nào hiện nay cũng sẽ bị coi là việc gia tăng căng thẳng và sẽ phải đối mặt với nhiều hậu quả nghiêm trọng. Đây được xem là một bất lợi nghiêm trọng với Trung Quốc, khi giai đoạn nước này mở cửa phát triển kinh tế và trở nên hùng mạnh – tức là giai đoạn phù hợp nhất để thiết lập các liên minh – thì lại trùng khớp với giai đoạn thế giới đặt xu thế hòa bình và ổn định lên hàng đầu. Ngoại trừ trường hợp Triều Tiên, thì Trung Quốc gần như không thể có một đồng minh ở thời điểm hiện tại. Những động thái mới nhất trên bàn cờ châu Á Thái Bình Dương lại càng chứng tỏ điều đó. Những ngày qua, người ta thấy một Trung Quốc hung hăng khi liên tục thách thức thế cân bằng trong khu vực, từ việc xây dựng phi pháp các đảo san hô trên biển Đông cho đến công khai thách thức Ấn Độ bằng việc cử tàu ngầm hạt nhân đến Ấn Độ Dương. Nhưng đó cũng lại là một Trung Quốc cô độc. Gần như không có một sự ủng hộ nào, dù là ủng hộ ngầm, đối với những nỗ lực đơn phương của Trung Quốc. Các nhà phân tích thừa nhận rằng, những ngày vừa qua là khoảng thời gian thích hợp nhất để Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động của mình khi mà Mỹ đang vướng bận vào vấn đề thỏa thuận hạt nhân Iran, nhưng cũng chưa khi nào thế giới lại thấy một Trung Quốc cô độc đến thế. Trái ngược lại với Trung Quốc, cái lưới mà Mỹ giăng ra ở châu Á Thái Bình Dương thì ngày càng rộng dần về quy mô. Ngoài những đồng minh cũ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippins hay Thái Lan, thì cái lưới mà Mỹ giăng ra với Trung Quốc lại vừa có thêm một sự hỗ trợ khác là Ấn Độ. Không hẳn là đồng minh của Mỹ, nhưng Ấn Độ cũng cảm nhận được sự đe dọa từ sự trỗi dậy của Trung Quốc, và New Delhi chấp nhận bắt tay với Mỹ và gia nhập vào mạng lưới mà Washington đang giăng ra ở châu Á Thái Bình Dương. Việc Trung Quốc điều tàu ngầm hạt nhân đến Ấn Độ Dương được xem như một sự cảnh cáo rằng Ấn Độ không nên can thiệp vào tranh chấp ở biển Đông, khi mà Mỹ tuyên bố bán cho Ấn Độ những thiết bị tối tân nhất có thể giúp các tàu sân bay của Ấn Độ di chuyển đến biển Đông bất cứ lúc nào. Nhưng Trung Quốc muốn cảnh cáo thì cứ việc, còn việc Ấn Độ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong thế cân bằng ở biển Đông đã là điều không thể ngăn cản. Thậm chí, cách mà Mỹ đang sử dụng để đáp trả những động thái hung hăng của Trung Quốc cũng đang cho thấy ưu thế tuyệt đối của Mỹ ở khu vực. Thay vì có những động thái can thiệp trực tiếp như cử hạm đội đến biển Đông như vẫn thường xảy ra, Mỹ lại đáp trả bằng việc tổ chức một hội nghị tay ba giữa Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc tại Washington. Mục tiêu của hội nghị này là giải quyết sự bất đồng giữa Nhật Bản và Hàn Quốc, chủ yếu do những bất đồng trong quá khứ, và nối lại đàm phán an ninh song phương “Hai cộng hai”, trong đó Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ tham gia tích cực hơn vào mạng lưới vành đai đang bao quanh Trung Quốc mà Mỹ sắp đặt. Vành đai phong tỏa xung quanh Trung Quốc vẫn đang nguyên vẹn, và việc mà Mỹ cần làm hiện nay chỉ là làm cho nó vững chắc hơn mà thôi. Châu Á - Thái Bình Dương vì thế đang là cuộc đọ sức giữa một Trung Quốc cô độc và một mạng lưới những quốc gia trong một hệ thống do Mỹ sắp đặt. Với tiềm lực của mình, Trung Quốc sẽ dễ dàng chiếm ưu thế trong bất cứ cuộc xung đột tay đôi nào về chính trị cũng như quân sự, nhưng với cả một hệ thống các nước đang tạo thành một vành đai thì không. Người Trung Quốc vì thế đang có lý do để vội vã hơn là người Mỹ ở thời điểm hiện tại. Một khi vấn đề Trung Đông đã được giải quyết và Mỹ tập trung hoàn toàn vào khu vực châu Á Thái Bình Dương, thì cũng là lúc cái lưới xung quanh con cá bự Trung Quốc sẽ siết chặt nhất. Đó là kết quả tất yếu của một thực tế, là Trung Quốc không có đồng minh. Nhàn Đàm (theo The Diplomat) ========================= Thực trạng cô độc này của Tàu trong hiện tại là điều mà lão Gán đã phán từ lâu, ngay trong những trang đầu tiên của topic này. Sai lầm của nước Tàu ngay trong sách lược quốc gia của họ. Sai lầm đến nỗi, lão Gàn cứ tưởng nước Tàu đã bị cài gián điệp chiến lược ở cấp cao nhất. Can tội hù dọa lão Gàn trong những vấn đề liên quan đến việc mình chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, nên đương nhiên lão chẳng thể cảm tình với Tàu - (Nhưng lão cũng chẳng nghiêng về phe nào. Với lão Việt sử trải 5000 năm văn hiến là mục đích tối thượng). Từ lâu, lão cũng đã phán rằng: Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Cớ sao tìm lối đoạn trường mà đi. Sai lầm lớn nhất của Tàu chính là đụng đến Việt Nam và biển Đông. Nếu chỉ tranh giành ở Hoa Đông và Đài Loan thì lại không đến nỗi như vậy, vì tính chính danh của vấn đề. Nhưng cụ thể tại sao lại như vậy? Lão Gàn không bao wờ phát biểu cả. Em phải tự chịu trách nhiệm với nghiệp chướng mà em gây ra ! Em ạ! Người Mỹ có thể hy sinh những tiểu tiết để đạt mục đích chiến lược của họ. Một thí dụ như tống cổ cô em Đài Loan ra khỏi Liên hiệp Quốc, để đưa ngay chính em Tàu Đại Lục vào - Nhằm mục đích chiến thắng cuối cùng của họ trong cuộc chiến tranh Lạnh. Nhưng em Tàu thì không. Em "vơ bèo, vạt tép" ngay cả vài km đất và mấy bãi đá chìm ở biển Đông. Cái thứ tư duy "vườn rau, ao cá" của em làm sao mà thành công, dù chỉ là bá chủ khu vực. Bây giờ em lập cái AIIB, để tập hợp một số nước còi làm bạn em chăng? Muộn rồi em ạ. Ngay bây giờ, nếu cuộc hòa đàm Iran thất bại, chiến tranh xảy ra thì em cũng không còn cửa để xoay chuyển tình thế. Em chắc không thể hiểu được vì sao lão Gàn chờ đến 10/ 3 Quý Tỵ để kết luận vấn đề không? Hôm nay lão phát biểu nhá: Đó chính là lão chờ xem quyết sách chiến lược của ban lãnh đạo mới của em đấy. Nó không thay đổi. Híc! "Canh bạc cuối cùng" sẽ xảy ra! Bây giờ chỉ còn cầu xin Thượng Đế rủ lòng lành cho nó kết thúc trong hòa bình.
    1 like
  7. Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố sẵn sàng hợp tác với Mỹ (Vietnam+) lúc : 18/04/15 19:39 Tổng thống Nga Vladimir Putin. (Nguồn: AFP/TTXVN) Theo Reuters, ngày 18/4, Tổng thống Nga Vladimir Putin khẳng định Nga có những lợi ích quan trọng chung với Mỹ và Moskva cần phối hợp với Washington trong một chương trình nghị sự chung. Trong những bình luận trên kênh truyền hình nhà nước Rossiya, Tổng thống Putin cho biết: "Chúng ta đã bất đồng về một số vấn đề trong chương trình nghị sự quốc tế, nhưng đồng thời lại có một số yếu tố đoàn kết chúng ta lại, khiến chúng ta phải hợp tác với nhau. Ý tôi đó là những nỗ lực chung hướng tới mục tiêu làm cho nền kinh tế thế giới trở nên dân chủ hơn, nhịp nhàng và cân bằng hơn, để cho trật tự thế giới dân chủ hơn. Chúng ta có một chương trình nghị sự chung." Hôm 16/4, trong cuộc giao lưu trực tuyến với người dân, Tổng thống Putin đã cáo buộc Mỹ tìm cách chi phối các vấn đề thế giới, tuyên bố cái mà Washington muốn “không phải là đồng minh mà là chư hầu”./. ===================== Ngài Putin đã chọn một hướng đi đúng khi cho rằng cần hợp tác với Hoa Kỳ. Suy cho cùng, nước Nga chẳng có mâu thuẫn cơ bản với lợi ích của Hoa Kỳ.
    1 like
  8. Triệu Đà- Triệu Vũ Đế Trong bài Thục Phán là ai? , đã có đôi nét phác họa về Triệu Đà. Qua có thể thấy được những điểm nổi bật của nhân vật gây nhiều tranh cải nầy. Bài viết này bổ sung thêm những luận cứ làm cơ sở đánh giá và xác định vị trí của Triệu Đà bên dòng lịch sử của dân tộc. Đến nay vẫn tồn tại hai quan điểm đối lập về Triệu Đà: (1) Triệu Đà là người Hán, xâm lăng và tiêu diệt An Dương Vương-vua nước Âu Lạc của người Việt, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của dân tộc. (2) Quan điểm đối nghịch lại cho rằng Triệu Đà là một người Hán ly khai, đã Việt hóa, có công giúp dân Việt chống lại chiến tranh xâm lược của người Hán. Vì vậy, triều đại Triệu Đà hay Triệu Vũ Vương được xem là chính thống, và nước Nam Việt là quốc gia độc lập của người Việt. Sau khi nhà Hán diệt nhàTriệu, kết thúc thời kỳ độc lập của nước Việt, khởi đầu giai đoạn Bắc thuộc. Hai quan điểm trên đều đưa ra những luận cứ của mình, và phần lớn dựa trên các tài liệu của người Hán.Vấn đề ở đây là không thể kiểm chứng được độ chính xác và tính khách quan của những tài liệu này. Vì vậy hầu hết những luận cứ đưa ra đều mang tính chất giả định và không thuyết phục. Sử liệu trong giai đoạn nầy rất hiếm hoi, rời rạc và chứa nhiều mâu thuẩn. Ngay cả sử gia Tư mã Thiên khi ghi nhận thời điểm Triệu Đà diệt Âu Lạc xảy ra sau khi Lã Hậu mất (năm 180TCN) là không chính xác, không phù hợp với logic lịch sử. Vì nhà Tần bị diệt vào năm 206TCN, như vậy trong gần 30 năm, làm sao một người mới ly khai, lực lượng còn yếu, phải liên tục đương đầu với các cuộc nổi dậy của dân Bách Việt...lại có thể tồn tại được giữa gọng kiềm của hai thế lực mạnh hơn gấp bội?. Nếu trong thời gian đó mà Triệu Đà cứ đánh nhau giằng dai với Thục Phán thì đã tạo không biết bao nhiêu cơ hội cho Lưu Bang tiêu diệt nước Nam Việt, đồng thời diệt luôn Âu Lạc. Cần gì phải sai Lục Giả sang chiêu phục. Trong cuộc tranh luận này, cả hai phe đều có người không tránh khỏi bẫy lý luận nhị giá sơ đẳng, và tâm lý dựa bóng những cây cổ thụ trong chuyên môn, hoặc những người nổi tiếng hơn là đưa ra kiến giải của bản thân. Vì lý do này nên những luận điểm không mới, phương pháp luận đơn giản, và kết luận hoàn toàn có thể đoán trước. Trên nền tảng của lý luận nhị giá, Triệu Đà nếu không phải kẻ thù thì là bạn. Hoặc bạn của kẻ thù là kẻ thù, ngược lại kẻ thù của kẻ thù là bạn. Những người phản đối căn cứ nguồn gốc của Triệu Đà là người Hán, dù đã ly khai nhưng vẫn là người Hán. Vì vậy ông là bạn của kẻ thù, nên ông chính là kẻ thù của người Việt, hơn nữa ông là người cướp đất Âu Lạc. Ngược lại, những người ủng hộ, không xét nguồn gốc của Triệu Đà, mà chỉ xem hành động chống lại nhà Hán-kẻ thù của người Việt, chứng tỏ ông là kẻ thù của kẻ thù. Vậy ông là bạn, hơn nữa cũng không có bằng chứng gì cho thấy ông đàn áp dân Âu Lạc. Để đánh giá Triệu Đà chính xác hơn không thể chỉ dựa vào những thông tin có tính mơ hồ, chủ quan, hay những lập luận đơn giản, mà phải đặt nhân vật này vào đúng vị trí trong bối cảnh lịch sử, và xu hướng vận động của dòng chảy lịch sử ở thời kỳ đó để xem xét đánh giá. Triệu Đà là người nước Triệu nên không có quan hệ quyền lực với triều đại nhà Tần. Ông tham gia trong đội quân nam chinh năm 218TCN, lúc đó ở tuổi 20, và chưa có công trạng gì. Như vậy có thể khẳng định ông khởi đầu binh nghiệp ở vị trí của người lính cấp thấp. Thế nhưng chỉ chưa đầy 8 năm sau, ông được đề thăng lên làm huyện lệnh Long Xuyên, dưới quyền Nhâm Ngao. Điều này cho thấy Triệu Đà là một người có chí tiến thủ, nhiều mưu mô, rất khôn khéo và biết lấy lòng cấp trên. ( Tần thủy Hoàng sai Nhâm Ngao và Triệu Đà đến cai quản vùng Lĩnh Nam, trong đó có huyện Long Xuyên. Việc này xảy ra trước khi Tần thủy Hoàng chết năm 210TCN) Đồ Thư bị chết trong trận công thành Cổ Loa vào khoảng đầu năm 210TCN, còn Tần thủy Hoàng chết cuối năm. Nếu Tần thủy Hoàng chết sớm hơn khoảng một năm, thì Đồ Thư đã không chết vì nổ lực hạ thành Cổ Loa, và cũng không có dăm ba tháng để Nhâm Ngao với Triệu Đà kéo quân sang Âu Lạc khiêu chiến lấy lệ cùng Thục Phán. Diễn tiến lịch sử cho thấy đầu năm 210TCN(sau khi Đồ Thư chết) thì binh lực và quyền hành ở Hoa nam đều tập trung trong tay Nhâm Ngao, còn Triệu Đà chỉ là một thuộc cấp. Năm 208TCN, Nhâm Ngao bệnh chết, trước khi chết có khuyên Triệu Đà ly khai và dựng nghiệp ở vùng Nam Hải. Thông tin về nguyên nhân cái chết và lời khuyên của Nhâm Ngao đều không thể kiểm chứng, và nó xuất phát từ Triệu Đà. Nhưng từ thông tin này có thể thấy được hai vấn đề: (1) Sau khi Tần thủy Hoàng chết, nước Tần rối ren vì nội loạn mà bản thân Tần nhị thế không làm chủ được. Trong tình huống đó, chắc chắn triều đình có hạ lệnh cho Nhâm Ngao đem quân về dẹp loạn. Nhâm Ngao đã không vâng mệnh, chứng tỏ ý đồ ly khai đã có khá lâu trước khi Nhâm Ngao chết. Kế hoạch này có thể do Triệu Đà dựng nên và xúi bẩy Nhâm Ngao. Nếu điều nghi ngờ này là sự thật, thì những lời Nhâm Ngao nói với Triệu Đà là sản phẩm do Triệu Đà chế tác. Vì lời nói đó tương đương lời cam kết chuyển giao quyền lực cho Triệu Đà. Thể hiện quyết định chọn người kế tục của Nhâm Ngao để cho Triệu Đà tính chính danh loại bỏ các đối thủ. (2) Chính sách hòa tập Bách Việt do Triệu Đà đề xuất đã thuyết phục được Tần thủy Hoàng nên ông cho phép thực hiện, đồng thời đánh giá cao lòng trung thành của Triệu Đà, nhờ đó giúp ông thăng tiến rất nhanh. Trên thực tế Triệu Đà không hề trung thành với nhà Tần. Bỡi sau khi Tần thủy Hoàng chết, ông không hề quan tâm gì đến đế nghiệp của nhà Tần. Như vậy chính sách hòa tập Bách Việt thực ra là kế hoạch xây dựng lực lượng hậu bị của Triệu Đà. Cho thấy mưu đồ làm phản hoặc ly khai đã manh nha ngay từ lúc ông tham gia nam chinh. Một con người còn trẻ nhưng rất bản lĩnh, mưu mô thâm hiểm đến Tần thủy Hoàng còn bị mắc bẩy. Do đó những người Việt thật thà chất phác thời ấy bị lừa phỉnh, nên tôn thờ Triệu Đà như một ân nhân, che chở họ trước mối đe dọa của nhà Hán là điều dễ hiểu. Lợi dụng nhận thức của dân chúng còn rất thấp, ý thức về quốc gia dân tộc còn mơ hồ, lòng trung thành khá mong manh, Triệu Đà đã dễ dàng che dấu những tội ác tày đình, mà ông cùng đoàn quân nam chinh đã gây ra, khi tàn sát không biết bao nhiêu người dân Bách Việt vô tội. Riêng bản thân Triệu Đà đã tìm mọi cách diệt An Dương Vương là một vi vua chính thống, một anh hùng dân tộc của một nước độc lập, để cưỡng chiếm đất đai và nô dịch dân chúng. Nhưng cuối cùng trong con mắt người dân thuở đó, ông vẫn mang hình ảnh của một ân nhân che chở bảo vệ họ khỏi họa xâm lăng của người Hán. Chứng tỏ ông là một chính trị gia đại tài, một ngụy quân tử điển hình! Trong suốt 100 năm(207-111TCN), Triệu Đà và những người kế tục đã dùng chính sách cai trị mềm dẽo, xử dụng người Việt trị người Việt. Nhà Triệu đã thành công trong việc thu phục dân Âu Lạc, nên trong suốt thời gian đó không có cuộc nổi loạn nào của dân Âu Lạc. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược với dân Bách Việt ở Hoa nam. Chính sách này tiếp tục được nhà Hán áp dụng sau khi nhà Triệu bị diệt, và nó bị phá sản vào năm 40 bỡi cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng. Như vậy chính sách tùy thời mang tính mị dân của Triệu Đà đã gây ngộ nhận cho người dân Âu Lạc, tức là người Việt ở miền bắc Việt Nam. Thái độ quan tâm chăm lo người Việt của Triệu Đà nhằm mục đích tạo một lực lượng trung thành hậu thuẩn ông chống lại nhà Hán. Đồng thời khiến ông yên tâm và rảnh tay tiêu diệt các cuộc nổi loạn của người Bách Việt ở Hoa nam. Vì mục tiêu còn đeo đuổi của Triệu Đà, mà dân Âu Lạc nhận được sự bao dung ngẫu nhiên, chứ không xuất phát từ lòng tốt của ông ta. Sự thành công của Triệu Đà bao gồm nguyên nhân cộng hưởng từ những yếu kém về mọi mặt của người Việt. Trong đó tri thức lịch sử dân tộc hoàn toàn khiếm khuyết. Dân chúng truyền tụng với nhau nguồn gốc Rồng Tiên, nhưng nhận thức của họ về trăm trứng không vượt qua những lũy tre làng. Nếu có xa hơn nữa cũng chỉ giới hạn trong những làng bên cạnh. Những nơi mà họ có thể đến được bằng đôi chân trần của mình. Với tầm nhận thức hạn hẹp đó, họ hoàn toàn không có ý niệm gì về nguồn gốc Bách Việt, về những người anh em đồng tộc ở vùng Hoa nam xa xôi - nơi mà cả đời họ cũng không thể đến được! Hơn nữa ngoài những thông tin mơ hồ trong truyền thuyết, họ không có vật chứng hay vật làm tin cho mối quan hệ đó. Tín vật của Hùng Vương để lại cho con cháu nhận diện nhau đó chính là trống đồng. như vậy họ không có trống đồng(nguyên nhân đã được giải thích trong bài trước) nên không nhận ra nguồn gốc Bách Việt của mình. Do đo họ thờ ơ trước thảm trạng(nếu biết được) của dân Bách Việt dưới bàn tay tàn bạo của Triệu Đà. Bản thân Thục Phán cũng không ngoại lệ, ông không phải thủ lĩnh chính thống được truyền thừa, cũng không có tín vật trống đồng. Do đó ông không nhận thức được nguồn gốc Bách Việt của mình. Vì vậy ông đã thản nhiên bỏ qua cơ hội hợp tác với những người anh em Bách Việt để đánh đuổi Triệu Đà, khi Triệu Đà còn chưa đứng vững trên đất Hoa nam, để cứu dân tộc. Thái độ hòa hoãn của Thục Phán với Triệu Đà vô tình nuôi dưỡng kẻ thù của dân tộc lớn mạnh thêm, và nó trở thành nhát gươm đâm vào lưng Bách Việt. Tình hình ở Hoa nam của dân Bách Việt cũng không khá hơn mặc dầu nhận thức cao hơn. Họ có tín vật trống đồng, biết rõ nguồn cội, sống ổn định lâu dài qua nhiều thế hệ trên mảnh đất của tổ tiên. Nhưng tính đố kỵ, ích kỷ cá nhân đã phân hóa họ nên ý thức cộng đồng và tinh thần đoàn kết dân tộc của họ cũng không vượt qua ranh giới làng xã. Thực trạng này thể hiện qua hình ảnh hàng ngàn làng bản ở rải rác khắp vùng Hoa nam (ngoại trừ vùng lãnh thổ thuộc Hán ở phương nam) như những ốc đảo. Những làng bản nầy không liên kết được với nhau. Tuy ở cạnh nhau nhưng chỉ như những chiếc đũa rời rạc, nên đội quân xâm lăng của Đồ Thư dễ dàng bẻ gãy từng chiếc một. Đó là lý do chính tạo thuận lợi cho Đồ Thư tiêu diệt Bách Việt và làm chủ vùng Hoa nam trong thời gian kỷ lục. Thời gian chưa đầy 8 năm để chinh phục một lãnh thổ rộng lớn vùng Hoa nam có địa hình đa dạng, phức tạp, môi trường khí hậu thay đổi với biên độ lớn, và dân cư đông đảo là một kỷ lục. Nhưng kỷ lục này không chứng minh được quân Tần quá mạnh, mà cho thấy sức đề kháng của Bách Việt quá yếu do thiếu đoàn kết và tinh thần dân tộc chưa cao. Sau khi diệt được An Dương Vương năm 208TCN, Triệu Đà tuyên bố sáp nhập lãnh thổ Âu Lạc vào nước Nam Việt của ông. Đây là một việc làm bình thường và hợp lý, nó thể hiện tham vọng bành trướng của kẻ xâm lăng. Nhưng những người ủng hộ Triệu Đà cho rằng việc này thể hiện ý muốn bảo vệ người Âu Lạc trước sự đe dọa của người Hán. Đây là một sự ngộ nhận do thủ thuật gây nhiễu của Triệu Đà tạo ra. Việc sáp nhập ẩn chứa một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Triệu Đà, mà cần phải đật mình vào bối cảnh lịch sử lúc đó mới hiểu đúng được. Nhắc lại, nội dung của bài viết về Thục Phán đã khẳng định quân chủ lực và tinh nhuệ của ông gồm phần lớn là người Bách Việt chạy về từ Hoa nam. Hầu hết nhừng người này là thủ lĩnh đương thời, và hậu duệ của các thủ lĩnh chính thống thời Hùng Vương. Trống đồng tìm thấy ở Việt Nam, tuyệt đại đa số được những người này mang về chôn dấu tại đây. Những người này, giúp Thục Phán chiến thắng Đồ Thư, lập nước Âu Lạc và lên ngôi. Nhưng sau đó,vì bất mãn, họ đã rời bỏ Thục Phán và quay về lại Hoa nam để tổ chức kháng chiến mà không có trợ giúp từ Âu Lạc. Trống đồng của họ thì vẫn để lại. Có thể khẳng định nhóm người này là nhân tố quyết định trong chiến thắng của Thục Phán qua các biểu hiện: (1) Trận đánh thành Cổ Loa là trận đánh cuối cùng để kết thúc cuộc nam chinh của quân Tần sau 8 năm liên tục. Vì lý do này nên Đồ Thư phải dốc toàn lực để giành chiến thắng trước khi bị Tần thủy Hoàng khiển trách. Lực lượng ban đầu của Đồ Thư gồm 50 vạn quân. Có thể sau 8 năm, một phần binh sĩ bị chết trận, bị bệnh hoặc bị thương tật...một số khác đồn trú tại các vùng chiếm đóng. Từ đó có thể ước đoán tổng lực lượng của Đồ Thư dùng để công thành không dưới 30 vạn quân. Một quân số đối kháng tương ứng như vậy, chắc chắn không thể tìm đủ trong địa bàn đồng bằng sông Hồng của Thục Phán vào thời điểm đó, nếu không có nguồn bổ sung từ Hoa nam. (2) Chiến thắng quân Tần và giết chết Đồ Thư là một chiến công vang dội, thêm vào đó là nhiều lần đánh bại Nhâm Ngao và Triệu Đà, chứng tỏ sức mạnh quân sự của Thục Phán vượt xa Triệu Đà. Thế nhưng chưa đầy hai năm sau, cũng là một Triệu Đà đó, nhưng lại dễ dàng tiêu diệt Thục Phán. Điều này chỉ có thể giải thích sức mạnh vô địch trong quá khứ của Thục Phán không có nguồn gốc nội tại, mà đến từ bên ngoài. Vì thế khi lực lượng đó rút đi thì sức mạnh kia cũng tan rã. Bản năng sinh tồn mách bảo cho loài vật nơi an toàn để trốn tránh kẻ thù. Với con người thì tự bảo vệ mạng sống không còn là bản năng nữa. Đó là một hành động có ý thức và trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp nó mang mục đích thiêng liêng cao cả là bảo tồn nòi giống. Vì vậy, trong thời gian xảy ra cuộc chiến xâm lược của quân Tần, một số không ít người dân Bách Việt đã bỏ xứ đi tìm đường lánh nạn. Họ chạy trốn về phương nam, và nơi đến không đâu khác hơn là miền bắc Việt Nam. Vì lúc đó lãnh thổ này vẫn còn của người Việt. Hiện tượng này duy trì cho đến lúc nước Âu Lạc bị diệt vong. Động thái nầy không qua mắt được Triệu Đà và làm cho ông ta lo lắng. Dòng người di cư về phương nam của người Bách Việt sẽ làm cho tiềm lực của ông suy yếu, ngược lại sẽ làm choThục Phán mạnh thêm. Triệu Đà không có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu vì đường biên giới quá dài. Theo đó có thể đoán được việc câu hòa với Thục Phán mang nhiều mục đích: đề phòng Thục Phán tấn công bất ngờ, dùng liên minh với Thục Phán để làm đối trọng trong thương lượng với nhà Hán, ngoài ra còn có thể nhờ Thục Phán ngăn chặn làn sóng di cư này. Nếu suy đoán này đúng thì mục đích sáp nhập đât Âu Lạc vào Nam Việt mang một ý nghĩa khác với cách nghĩ thông thường. Có nghĩa là việc sáp nhập cũng là lời tuyên cáo của Triệu Đà cho dân Bách Việt biết là họ không còn nơi nào tốt hơn để về. Còn đối với các thủ lĩnh kháng chiến, họ không còn hy vọng một sự trợ giúp nào từ bên ngoài, và cũng chẳng còn chỗ an toàn để nương náu. Con đường duy nhất dành cho họ là phải quy thuận Triệu Đà! Trong tất cả những kẻ xâm lược, có lẽ Triệu Đà là người thâm hiểm và tàn độc nhất với chính sách đồng hóa dân Bách Việt. Trong cuộc chiến xâm lược Bách Việt của Tần thủy Hoàng mà hậu quả của nó là dân Bách việt bị diệt vong, biến mất giống như chưa hề tồn tại, công lao lớn nhất là của Triệu Đà.Triệu Đà đã làm được việc này với một kế hoạch chu đáo đáng kinh ngạc. Thử tưởng tượng, trên cánh đồng lúa xanh tươi của Hoa nam vừa bị cổ máy hủy diệt Đồ Thư cày nát, xới tung. Triệu Đà không để cho những cây bật gốc kịp hồi sinh, ngoài những cây đã chết. Ông ta đã dọn sạch cánh đồng và gieo trên đó một loại giống mới. Nếu có cây lúa nào may mắn hồi sinh, cũng sẽ bị giống mới này chèn ép tiêu diệt. Triệu Đà tính toán sau một vài chu kỳ phát triển, trên cánh đồng đó ông sẽ thu hoạch được những vụ mùa ưng ý, với những cây giống ông đã ươm trồng. Còn cây bản địa sẽ hoàn toàn biến mất! Trên thực tế kế hoạch được tiến hành không đơn giản và trơn tru như lý thuyết. Bằng chứng là vài trăm năm sau khi ông chết, giống cây bản địa vẫn hồi sinh và tồn tại. Thể hiện qua việc dân Bách Việt ở Hoa nam đã nổi lên hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng năm 40. Tuy vậy nó cũng chỉ là đợt bùng lên của ngọn đèn dầu sắp tắt! Kết quả chung cuộc thì kế hoạch của Triệu Đà đã thành công. Chứng tỏ ông là một nhà chiến lược, một chính trị gia đại tài của thời đó. Không phải cuộc xâm lăng quân sự, mà do chính sách hòa tập Bách Việt của Triệu Đà đã làm thay đổi sâu sắc cơ cấu dân số, chủng tộc, lãnh thổ, văn hóa, xã hội, lịch sử... cuả khu vực. Nó định hình cho số mệnh dân tộc trở thành nô lệ nhà Hán.Và mặc dù người Hán không thừa nhận, nhưng công sức của Triệu Đà bỏ ra để có được vụ mùa bội thu thì nhà Hán hưởng trọn. Công bằng mà nói Triệu Đà sẽ không thành công nêu không có công sức của Đồ Thư. Năm mươi vạn dân di cư người Hán trong một lãnh thổ rộng lớn của Hoa nam có dân số đông gấp bội, sẽ bị hòa tan vào cộng đồng Bách Việt nếu không có biện pháp bảo vệ. Suy ra cổ máy giết người của Đồ Thư phải hoạt động hết công suất để tận diệt lực lượng kháng chiến của dân Bách Việt, mà những người đó chủ yếu là những người đàn ông, thanh niên trai trẻ người Lạc. Công việc này trong kế hoạch của Triệu Đà cũng giống như dọn cỏ. Và rồi những mảnh đất màu mỡ sẵn sàng cho việc gieo giống cũng được bàn giao. Từ gieo giống ở đây được hiểu theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Biểu hiện thực tế của chính sách này là chế độ đa thê và hôn nhân ngoại tộc dành cho người Hán dưới thời Triệu Đà được khuyến khích và phát triển. Triệu Đà cũng làm gương cho dân Hán noi theo bằng cách lấy vợ Việt. Mưu đồ nhằm tạo ra một lớp người Hán(lai Việt) trung thành với mình của Triệu Đà bộc lộ rõ qua việc hòa huyết theo một chiều với gene Hán làm chủ. Di chứng về sau của chính sách này là người Hoa cưới vợ Việt, nhưng không gả con cho người Việt. Thành công của chính sách này làm cho thành phần dân số người Hán ở Hoa nam tăng đột biến theo lũy tiến. Trong lúc đó, dân số Bách Việt, đặc biệt là người Lạc, suy biến và tiếp cận diệt vong. Tóm lại, qua Triệu Đà có thể nhìn thấy điển hình một mẫu người đôc ác, mưu mô quỷ quyệt, thủ đoạn khó lường, và tài ngụy trang siêu đẳng. Tổng hợp các tính chất này, ông đã gây ra ngộ nhận cho người khác, đặc biệt là đối với nạn nhân của ông-người Việt. Sự ngộ nhận của một số người Việt bắt nguồn từ những suy nghĩ giản đơn, không phù hợp với một đối tượng vô cùng phức tạp như Triệu Đà. Có thể lấy ví dụ cho lối suy nghĩ giản đơn này: từ việc đặt quốc hiệu đến lấy vợ Việt, hay như việc bày tỏ lập trường đối với Lưu Bang thì một số người đã vội kết luận Triệu Đà là một người Hán đã Việt hóa mang tâm hồn Việt! Chuyện lấy vợ Việt của Triệu Đà đã nói qua. Tại thời điểm đó, lấy vợ Việt(Bách Việt) không phải chỉ mình ông. Ngoài ông còn có hàng chục vạn binh lính và di dân người Hán lấy vợ Việt theo chính sách đồng hóa Bách Việt của chính ông. Ngày nay rất nhiều công dân trên khắp thế giới lấy vợ người Việt cũng đâu có trở thành người Việt hay có tâm hồn Việt. Còn việc đặt quốc hiệu Nam Việt lại mang ý nghĩa khác. Nguồn gốc và ý nghĩa của từ này đã được đề cập trong những bài trước thuộc loạt bài nói vể cổ sử Việt. Triệu Đà dùng chữ Nam Việt theo nghĩa đó để làm quốc hiệu nhằm đồng hóa nguồn gốc di dân của người Hán với dân Bách Việt bản địa. Triệu Đà khuyến dụ 50 vạn nông dân nghèo khó ở Hoa bắc xuống phương nam lập nghiệp. Thực chất của cuộc di dân này là theo chân đoàn quân xâm lược để chiếm đoạt tài sản, ruộng vườn nhà cửa...của những người Bách Việt bị Đồ Thư giết hại. Những di dân này trở thành chủ nhân mới trên đất Bách Việt. Họ cũng có quyền bắt vợ con của những nạn nhân trong chiến tranh xâm lược làm thê thiếp hoặc nô lệ. Vì những ân sũng này nên những người di cư và con cháu họ có nghĩa vụ trung thành với Triệu Đà. Đó là mục đích của chính sách đồng hóa Bách Việt. Để xóa dấu nguồn gốc tài sản bất chính, và tạo chính danh cho di dân, Triệu Đà đánh cắp ý nghĩa cùa danh xưng Nam Việt gán cho người Hán di cư. Và vì thế quốc hiệu Nam Việt được hiểu là đất nước của những người nam việt tức là những người đi khai phá vùng đất phương nam không phân biệt Âu Lạc hay Hoa Hạ. Việc gian lận ngữ nghĩa của Triệu Đà nhằm xóa bỏ nguồn gốc Bách Việt và lãnh thổ của Hùng Vương. Vì từ nam việt chỉ hành trình phát triển về phương nam của dân Bách Việt, là con cháu Hùng Vương đi khai hoang để phát triển sản xuất và xây dựng đất nước trên chính lãnh thổ của tổ tiên để lại. Như vậy chữ nam việt không được dùng cho người Hán là những người đi xuống phương nam chiếm cứ đất đai của tổ tiên Bách Việt. Lập trường chống lại nhà Hán của Triệu Đà là điều tự nhiên và dễ hiểu. Và việc Lưu Bang muốn thu hồi đất Nam Việt cũng chẳng có gì khó hiểu. Nhưng hai việc trên đều chẳng quan hệ gì đến người Việt. Lưu Bang cho rằng lãnh thổ Nam Việt có nguồn gốc từ nhà Tần do Triệu Đà chiếm dụng, nên khi ông diệt được nhà Tần ông muốn thu hồi trở lại, có nghĩa là muốn Triệu Đà quy phục. Còn Triệu Đà không quy thuận Lưu Bang vì ông muốn giữ cho mình cái cơ nghiệp mà ông tốn bao nhiêu tâm huyết và thời gian mới giành được. Khi ông muốn giữ đất Nam Việt, thì đất Âu Lạc càng muốn giữ vì đó là hoàn toàn do công sức của ông, chưa kể đó là hậu phương chiến lược, chứ không phải ông thương yêu gì người Việt. Trong cuộc tranh giành này, người Việt chỉ là một món hàng mà cả hai đều muốn. Món hàng mà cả hai bên giành giật đúng là có nguồn gốc từ ý tưởng kinh doanh của Tần thủy Hoàng. Tần thủy Hoàng đầu tư cho thuộc hạ đi buôn, trong số đó có Triệu Đà. Triệu Đà là người giỏi giang nhất trong số đó, đã thành công mang lại lợi nhuận vô cùng to lớn, nếu mang về giao nộp cho Tần thủy Hoàng chắc chắn sẽ được trọng thưởng. Thế nhưng việc chưa xong thì Tần thủy Hoàng chết. Lẽ ra Triệu Đà phải giao nộp lại cho gia đình của Tần thủy Hoàng, nhưng do tính phản trắc, lòng tham, và cũng để bảo vệ mạng sống của mình, ông đã chiếm hữu luôn tài sản đó. Trong những lý do trên không có cái nào dành cho người Việt-những viên gạch xây nên đế chế của ông ta! Vì lòng tham, Lưu Bang muốn chiếm đoạt lại tài sản do Tần thủy Hoàng cướp được nhưng Triệu Đà chiếm giữ. Nhưng ông có nghĩ tới điều nếu Tần thủy Hoàng còn sống, thì làm sao Triệu Đà có bản lĩnh chiếm đoạt tài sản đó. Ngay cả bản thân ông cũng không dám mơ đến ngai vàng của Tần thủy Hoàng nếu ông ta còn sống. Rõ ràng “lý của kẻ mạnh” Trong lịch sử có những việc mà có thể đem hình ảnh cây cung và mũi tên để so sánh. Khi mũi tên được bắn ra rồi thì liên hệ của nó với cây cung xem như chấm dứt. Nhưng hậu quả nó gây ra thì trách nhiệm thuộc về chủ nhân cây cung. Triệu Đà là mũi tên được bắn ra từ cây cung Tần thủy Hoàng.
    1 like
  9. Cách Mỹ diệt gọn hệ thống S-300/400 của Nga (Video) - Sau khi Nga nối lại thương vụ S-300 với Iran, Tướng Martin Dempsey (Mỹ) cho biết hệ thống phòng không S-300 không ảnh hưởng đến khả năng tấn công Iran của Mỹ. Bán S-300, Nga đang định làm gì với Iran? Israel tự tin hạ gục S-300 không kích Iran Tuyên bố được Tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đưa ra hôm 16/4 tại một cuộc họp báo, theo đó Washington đã đoán trước khả năng Nga cung cấp tên lửa S-300 cho Iran từ nhiều năm qua và tất cả đều gói gọn trong kế hoạch của Mỹ. Tướng Dempsey khẳng định giải pháp quân sự của Mỹ tại Iran sẽ không bị suy yếu dù Nga có cung cấp S-300 cho nước cộng hòa Hồi giáo này hay không. Theo đó, Washington tiếp tục theo đuổi giải pháp quân sự nếu các chính sách ngoại giao với Tehran thất bại. Theo Reuters, cơ sở để tướng Dempsey tự tin như vậy là dựa vào bộ ba tên lửa HARM, JSOW và tên lửa MALD. Vậy các tên lửa này có thể hạ hệ thống phòng không S-300 bằng cách nào? Theo những thông tin được Không quân Mỹ công khai, AGM-88 HARM là loại tên lửa được thiết kế để chống radar. Để tăng độ chính xác khi diệt mục tiêu, AGM-88 được tích hợp hệ thống kiểm soát mục tiêu HCSM của Không quân Mỹ, nhằm nâng cao khả năng chính xác và giảm thiệt hại phụ trong quá trình sử dụng. HCSM được trang bị hệ thống định vị vệ tinh GPS cùng thiết bị đo quán tính IMU giúp nó có khả năng tấn công chính xác mục tiêu, dù bị tác động bởi mọi hình thức gây nhiễu nào đi nữa. Tên lửa chống radar cao tốc AGM-88 là một trong những vũ khí quan trọng của Không quân Mỹ trên chiến trường, nó giúp tiêu diệt hệ thống radar cảnh giới của đối phương, bảo vệ an toàn cho các đợt không kích của Quân đội Mỹ trước hệ thống phòng không của kẻ địch. Tên lửa AGM-88 HARM AGM-88 sử dụng hệ dẫn quán tính ở pha giữa và đầu tự dẫn radar chủ động pha cuối. Nguyên lý chung của loại vũ khí này là, bám theo cánh sóng radar để đánh vào đài anten máy phát. Đạn AGM-88 nặng khoảng 355kg, dài 4,1m, lắp đầu nổ phá mảnh nặng 66kg, trang bị động cơ rocket cho tầm bắn 150km, tốc độ bay 2.280km/h. Với tốc độ cực cao, kích thước nhỏ, AGM-88 là “bài toán khó” đối với hệ thống đánh chặn đối phương. Trong chiến đấu, AGM-88 sẽ phá hủy trạm radar trên bộ (hoặc tàu chiến), qua đó khống chế hệ thống phòng không đối phương. Tiếp đó, đơn vị bạn sẽ vượt qua được lưới phòng không tầm xa, áp sát tiêu diệt mục tiêu bằng vũ khí thông thường hoặc vũ khí chính xác cao, tiêu diệt các hệ thống radar giám sát của kẻ thù. Để khống chế và tiêu diệt các hệ thống phòng không S-300/400 do Nga sản xuất, ngoài AGM-88, Mỹ còn sử dụng tên lửa MALD. Tên lửa có chiều dài 2,7 m, nặng khoảng 136 kg với nhiệm vụ tái tạo những tín hiệu giả của máy bay Mỹ và đồng minh. MALD có thể phát tín hiệu phát xạ gây nhiễu làm lẫn lộn các mục tiêu trên không đối với các đài radar phòng không của đối phương và tái tạo chính xác các tín hiệu gây nhiễu từ một máy bay tàng hình. Bằng cách đó, nó làm cho các hệ thống phòng không đối phương không phân biệt được các mục tiêu thật/giả. MALD được triển khai từ một máy bay. Trong suốt hành trình bay trên không phận của kẻ thù, nó di chuyển theo một đường bay được lập trình từ trước (có thể tái lập trình) và tạo ra khoảng 100 mục tiêu giả khác nhau trong phạm vi tác chiến. Khi đó, các hệ thống phòng không đối phương không thể phân biệt được một số lượng quá lớn mục tiêu, bị quá tải và bị gây nhiễu chủ động. Ngoài ra, MALD cũng tái tạo lại tín hiệu giả của các pháo đài bay như B-52H hay máy bay tàng hình như B-2 Spirit. Theo đánh giá của một số chuyên gia quân sự Mỹ, MALD có thể thách thức hệ thống tên lửa phòng không hiện đại nhất hiện nay của Nga như S-300 và S-400. Tên lửa AGM-154 JSOW khai hỏa Ngoài những loại vũ khí, trong nhiệm vụ tiêu diệt hệ thống phòng không của đối phương, Không quân Mỹ còn sở hữu tên lửa AGM-154 JSOW. Tên lửa AGM-154 JSOW được thiết kế không có động cơ tên lửa, loại đạn này chủ yếu sử dụng các cánh ổn định và cánh ngang (được bung ra sau khi đạn rời bệ phóng) để bay lượn theo quán tính có được sau khi rời bệ phóng từ máy bay trước khi tiếp cận mục tiêu. AGM-154 JSOW có thể đạt cự ly lượn 28km ở chế độ bay thấp và lên đến 74km ở chế độ bay cao, biến thể nâng cấp gần đây đạt tầm bắn lên đến 110km ở chế độ bay cao. AGM-154 JSOW cho phép tiêm kích F-35, cũng như tiêm kích khác được trang bị có thể tung ra những đòn tấn công tiêu diệt các căn cứ của đối phương bên ngoài tầm bắn của hầu hết các hệ thống phòng không hiện nay. Theo nhà sản xuất Raytheon, AGM-154 JSOW có khả năng tấn công nhiều loại mục tiêu khác nhau với sai số trượt mục tiêu CEP chỉ có 3 m, có thể mang nhiều loại đầu đạn và tấn công cả các mục tiêu kiên cố bên trong các hầm ngầm. Hiện tại, AGM-154 JSOW là vũ khí tiêu chuẩn cho các loại máy bay như F-16 block 52, F-15E, F/A-18, B-1B, B-52 và B-2 Spirit. Clip tên lửa Mỹ diệt gọn hệ thống S-300/400 http://baodatviet.vn/video/cach-my-diet-gon-he-thong-s-300400-cua-nga-3243437/ Tuấn Vũ ======================= Bởi vậy, việc Trung Quốc được trang bị S400 chẳng là cái đinh gì. Một chuyên gia quân sự cao cấp của Nga đã từng phát biểu - đăng trên báo chính thống Việt - rằng: Trung Quốc chiến tranh với Hoa Kỳ là tự sát. Những gì trong bài báo trên - lão Gàn nhắc lại - chỉ là vũ khí hạng hai, dùng trong giai đoạn hai của cuộc chiến tranh. Cho nên nó mới được "tiết lộ bí mật" công khai như vậy.
    1 like
  10. Nga và Trung Quốc “khuynh đảo” nội bộ Phương Tây Minh Anh 17:15 15/04/2015 BizLIVE - Một nước cờ cao tay đối với Trung Quốc, nhưng lại là một sự khám phá tàn nhẫn cho Phương Tây: Họ không có chiến lược nào khác để đối mặt với "Giấc mơ Trung Hoa" lẫn "Thế giới của Nga". Lính thủy Nga trong lễ kỷ niệm một năm sáp nhập Crimea, ngày 18/03/2015 - REUTERS/Maxim Shemetov Nga áp đặt luật chơi trong cuộc khủng hoảng Ukraine, Trung Quốc gây đảo lộn trật tự tài chính thế giới với Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng AIIB. Mỗi bên theo cách riêng của mình đang thách thức trật tự thế giới đã được hình thành sau Đệ nhị Thế chiến, RFI bình luận. Tờ Le Monde của Pháp số ra ngày Chủ nhật 12 và thứ Hai 13/4/2015 có bài bình luận đề tựa: "Náo loạn trong sân chơi của các ông lớn". Tác giả bài viết Sylvie Kauffmann ví không gian địa chính trị của chúng ta như sau: Trong không gian bé nhỏ đó, có hai cường quốc mà người ta tạm cho là những quốc gia mới trỗi dậy. Đây là cấp độ trung gian giữa sân chơi cho trẻ nhỏ và sân chơi người lớn. Lối vào sân chơi người lớn sẽ được tiến hành theo một quy định bất thành văn do một nhóm nhỏ những "ông lớn" trong sân áp đặt: đó là "tuyển chọn". Sân "ông lớn" chính là câu lạc bộ phương Tây, mà đứng đầu là một cường quốc có sức mạnh trội hơn hoặc chí ít cũng xấp xỉ với một số khác: đó là Hoa Kỳ. Xung quanh "ông anh cả" này sẽ bao gồm nhiều quốc gia có cùng chung quyền lợi. Dĩ nhiên trong sân lớn đó cũng có những nhóm nhỏ hơn và đôi khi còn làm đối trọng với "anh cả" chẳng hạn như là "Liên hiệp Châu Âu". Nhìn chung bầu không khí khá ôn hòa, dù thỉnh thoảng cũng có chút xung khắc nhưng rồi cũng vượt qua. Nhưng giờ đây hai cường quốc mới trỗi dậy đó lại không chấp nhận luật chơi này. Trung Quốc và Nga, mỗi bên có cách riêng của mình, đang tìm cách thách thức và thay đổi trật tự trên, rũ bỏ vị thế "mới trỗi dậy" để có thể hội nhập vào sân các "ông lớn". "Thế giới Nga" Nước Nga của ông Vladimir Putin đang tìm cách lấy lại vai trò cường quốc trong khu vực. Một vai trò mà Moscow đã bị tước đi sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Nga phải rút quân khỏi các quốc gia Đông Âu vào năm 1989, nước Đức hợp nhất Đông - Tây, và Liên Bang Xô Viết sụp đổ vào năm 1991. Một trật tự mới được hình thành, Phương Tây tỏ ra hài lòng về điều đó. Nhưng nước Nga thì không. Hai thập niên sau, ông Vladimir Putin khi lên cầm quyền đã bắt đầu có những phản ứng mạnh mà điển hình nhất vụ khủng hoảng tại Ukraine gần đây. Ông Putin không chấp nhận Kiev gia nhập phe phương Tây. Đối với ông, Ukraine phải thuộc về "thế giới Nga". Để chứng minh rằng ông không hề đùa, Nga đã cho sáp nhập một phần lãnh thổ của Ukraine. Rõ ràng là "nước Nga đã cắt đứt với hệ thống của hậu chiến tranh lạnh" theo như nhận định của ông Dmitri Trenin, chuyên gia thuộc viện nghiên cứu Carnegie vào năm 2014. Nga phản đối Châu Âu mở rộng liên minh và sự phản đối đó được thực hiện bằng sức mạnh, bằng cách thay đổi đường biên giới và áp đặt sự hình thành Liên hiệp Á - Âu với các nước láng giềng như Belarus và Kazakhstan. "Giấc mơ Trung Hoa" Nếu như Nga sử dụng chiến thuật "địa chính trị", lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình nghĩ đến cái gọi là "địa kinh tế" để khẳng định ưu thế của mình trên chính trường quốc tế. Ngay từ đầu, Phương Tây không hề mảy may nghi ngờ, cứ nghĩ rằng đó chỉ là cách Bắc Kinh muốn gia nhập sân chơi. Nhưng một khi đã gia nhập rồi, Trung Quốc lại yêu sách về vai trò kinh tế của mình, vốn dĩ không ngừng gia tăng. Đương nhiên đó là một lý lẽ không thể chối cãi được. Càng giàu, càng mạnh, thì người ta càng muốn được nhìn nhận một cách tương xứng. Đòi hỏi của ông Tập Cận Bình cũng rất đơn giản, chỉ cần thực hiện được "Giấc mơ Trung Hoa". Khác với nước Nga của ông Putin, Trung Quốc của ông Tập Cận Bình còn là một đối trọng kinh tế không thể nào so sánh được của Hoa Kỳ hay Châu Âu. Khẩu hiệu "Giấc mơ Trung Hoa" đó còn phải được đi kèm với hệ thống điều hành không minh bạch, xây dựng một đạo quân hùng cường và làm nổi sóng trên vùng Biển Đông, gây hốt hoảng cho các nước trong khu vực. Do đó, trong sân chơi các "ông lớn", ai cũng phải dè chừng kẻ mới đến, tuy túi đầy tiền nhưng vẫn che giấu mọi ý đồ, tờ báo Pháp viết. Bị nghi ngờ và không được giao chìa khóa sân chơi, Trung Quốc quyết định phản kháng theo cách riêng. Không những Bắc Kinh chỉ trích trật tự được hình thành hậu chiến tranh lạnh mà còn phê phán cả trật tự kinh tế được hình thành sau Thế chiến thứ hai, thông qua các thỏa thuận Bretton Woods ký kết năm 1994. Vì không được giao một vị trí tương xứng với sức mạnh kinh tế trong các định chế tài chính quốc tế, như Ngân hàng Thế giới hay Ngân hàng Phát triển Á Châu, Bắc Kinh tuyên bố thành lập một định chế riêng của mình là Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng. Phản ứng trái chiều của phương Tây Điều lạ là từ hai sự việc trên phương Tây lại có những phản ứng trái ngược nhau. Trước sự thách thức của Nga, bất chấp những bất đồng trong khối, nhưng vào thời điểm quan trọng, phương Tây vẫn tỏ ra đoàn kết. Trong khi đó, đối với thách thức của Trung Quốc, Tây phương lại trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Chống lại ý kiến của Washington, và những cảnh báo về công tác quản lý của ngân hàng tương lai, lần lượt từng quốc gia kéo nhau tham gia vào định chế tài chính của Bắc Kinh. Châu Âu cũng như một số đồng minh của Hoa Kỳ tại Châu Á, tất cả đều bị triển vọng phát triển kinh tế tại Châu Á làm cho mê hoặc. Cuối cùng bài viết của Le Monde kết luận, thui thủi một góc, Hoa Kỳ giờ ngồi nghiền ngẫm lại cú tát đau điếng. Một nước cờ cao tay đối với Trung Quốc, nhưng lại là một sự khám phá tàn nhẫn cho Phương Tây: Họ không có chiến lược nào khác để đối mặt với "Giấc mơ Trung Hoa" lẫn "Thế giới của Nga". MINH ANH ======================= Vui nhỉ! Thế giới này cũng khá nhộn nhịp với nhiều gam màu. Cứ y như cái chợ. Nhưng giới hạn hình tượng chỉ ở sự đa dạng vậy thôi. Chứ nói vậy thì oan cho cái chợ quá! Cái chợ nào cũng có ban quản lý chợ , còn cái thế giới này chỉ có mỗi một siêu cường mạnh nhất thế giới, đang chi phối thế giới bởi sức mạnh của nó. Gọi là: Bá chủ trên thực tế. Nhưng nay cứ theo bài báo này thì cái địa vị bá chủ trên thực tế đang bị lung lay: Có vẻ như Hoa Kỳ và phương Tây sắp chết với các siêu cường mới nổi như Trung Quốc và một quốc gia mới phục hồi sức khỏe sau cơn bệnh tưởng viện tịch là nước Nga. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ nghiễm nhiên là bá chủ thế giới trên thực tế. Đáng nhẽ ra đất nước này phải có một sách lược phát triển kinh tế toàn cầu và định hướng được sự phát triển của thế giới theo một hướng duy nhất do Hoa Kỳ chỉ huy. Hay nói một cách khác: Phải có phương án quản trị thế giới hội nhập.Tiếc thay! Cuộc hội nhập chưa đủ chín. Mà chỉ là kết thúc sự đối đầu giữa hai siêu cường mạnh nhất thế giời là Liên Xô và Hoa Kỳ, để tiếp tục một quy luật của vũ trụ là sự hội nhập toàn cầu. Đấy chưa phải là "Canh bạc cuối cùng". Bởi vậy, hoàn cảnh lịch sử chưa thể ra đời một ý niệm về quản trị thế giới hội nhập. Thế giới tiếp tục phát triển trong quá trình tiến tới hội nhập, khiến nước Nga phục hồi và Trung Quốc nổi lên, như một quy luật tất yếu. Việc xuất hiện "Thế giới của Nga" và "Giấc mơ Trung Hoa" đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử này.Tất nhiên, đây mới là "canh bạc cuối cùng" và chấm dứt tất cả mọi cuộc ganh đua. Nhưng khái niệm "Thế giới của Nga" và "Giấc mơ Trung Hoa" chỉ là dự kiện đầu vào cho "canh bạc cuối cùng" thực hiện sứ mệnh lịch sử của nó. Với lão Gàn chẳng có gì là lạ. Vấn đề cuối cùng vưỡn cứ là :" Ai sẽ mần cái bá chửi thế giới?". Muốn mần Tổng thống thì phải có chương trình khuyến mãi - Í lộn - chương trình tranh cử. Muốn mần cái bá chửi cũng phải có chương trình quản trị toàn cầu. Chưa một siêu cường nào có chương trình này. Bởi vậy, Hoa Kỳ tuy là ứng cử viên sáng giá - vì có bảng hiệu - nhưng chưa phải là quyết định cuối cùng của Thượng Đế. Lão Gàn sẽ bỏ một phiếu ủng hộ siêu cường nào xác định tính chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ Nam sông Dương tử. Nhưng mà này, sau ngày 10/ 3 Việt lịch Ất Mùi (Tức chỉ còn chưa tới nửa tháng nữa), chương trình khuyến mãi chức danh bá chủ thế giới của lão Gàn hết hiệu lực.
    1 like
  11. Hillary Clinton đắc cử tổng thống Mỹ sẽ ảnh hưởng gì đến châu Á? 15/04/2015 14:00 (TNO) Tạp chí chuyên về châu Á - Thái Bình Dương The Diplomat, có trụ sở tại Tokyo (Nhật), vừa đăng tải bài xã luận phân tích đường lối ngoại giao đối với khu vực châu Á của bà Hillary Clinton, ứng viên hàng đầu của đảng Dân chủ ra tranh cử chức tổng thống Mỹ trong năm 2016. Cựu ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, ứng viên tổng thống Mỹ hàng đầu của đảng Dân chủ - Ảnh: Reuters Trong nhiệm kỳ làm ngoại trưởng Mỹ từ năm 2009 đến năm 2013, Hillary Clinton được đánh giá là ngoại trưởng giàu kinh nghiệm nhất trong các chính sách đối ngoại, đặc biệt là ở châu Á. Ông Michael Fullilove, giám đốc điều hành Viện chính sách quốc tế danh tiếng Lowy (Úc), nhận xét: “Chính sách tái cân bằng chính là thành tựu ngoại giao nổi bật của bà Clinton trong thời gian làm ngoại trưởng...”. Trong một bài phân tích lớn đăng trên tạp chí quốc phòng Foreign Policy (Mỹ) hồi năm 2011, chính bà Hillary Clinton đã vạch ra chính sách ban đầu được biết đến như chiến lược “xoay trục” về châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ (sau này được gọi là “chiến lược tái cân bằng”). Trước đó, bà Hillary Clinton cũng đã sử dụng thuật ngữ “xoay trục” và thực tế là cựu ngoại trưởng cùng Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có nhiều chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương trước đó 2 năm, triển khai cái mà trong năm 2010 bà gọi là chính sách ngoại giao “tiên phong”. “Châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành nơi lèo lái chủ chốt cho nền chính trị toàn cầu” và “cam kết của Mỹ tại đó cực kỳ quan trọng và cần thiết”, bà Clinton viết trong bài phân tích trên Foreign Policy. Nữ cựu ngoại trưởng Mỹ cũng đã từng phân chiến lược tái cân bằng tại châu Á của Mỹ thành 3 thành phần chính: “Chúng ta đang thực hiện chính sách can thiệp mạnh mẽ vào châu Á - Thái Bình Dương, chúng ta đang tiến hành xây dựng lòng tin giữa Trung Quốc và Mỹ, và chúng ta cam kết mở rộng hợp tác kinh tế, chính trị và an ninh ở bất kỳ đâu mà ta có thể”. Bà Hillary Clinton nhận định Mỹ và Trung Quốc “là 2 quốc gia phức tạp và có lịch sử rất khác biệt, với hệ thống chính trị và tầm nhìn khác nhau sâu đậm” và trong khi điều này không nhất thiết gây cản trở cho hợp tác giữa 2 nước, sự hợp tác của 2 bên cũng không cần thiết phải cản trở sự cạnh tranh giữa 2 quốc gia. Mặc dù có một số lượng đáng kể người Mỹ dường như chẳng biết gì về các tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Trung Quốc và các nước láng giềng (một cuộc khảo sát tiến hành hồi tháng 4 của Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ) cho thấy 39% người Mỹ được hỏi hoàn toàn không biết gì về những tranh chấp này), bà Clinton hiểu rất rõ về chúng, cũng như về những xung đột khác tại châu Á, theo The Diplomat. Đây cũng là mảng để cho thành phần thứ nhất và thứ 3 trong "chính sách tái cân bằng" mà bà đã vạch ra lúc đầu phát huy tác dụng, đó là can thiệp sâu vào trong khu vực và tăng cường hợp tác để giải quyết các thách thức mang tính toàn cầu về kinh tế, chính trị và an ninh, The Diplomat bình luận. Trong phát biểu hồi năm 2010, được đưa ra sau cuộc gặp với các bộ trưởng ASEAN, bà Hillary Clinton đã thể hiện quan điểm của Mỹ về các vấn đề tại biển Đông khi tuyên bố “Mỹ, cũng giống như mọi quốc gia khác, có quyền lợi về tự do hàng hải và tôn trọng luật pháp quốc tế tại biển Đông”. “Mỹ ủng hộ đường lối hợp tác ngoại giao để giải quyết các tranh chấp chủ quyền không bằng dọa nạt của tất cả các bên liên quan. Chúng tôi phản đối việc đe dọa bằng vũ lực. Mặc dù Mỹ không đứng về phía nào trong các tranh chấp chủ quyền tại biển Đông, nhưng chúng tôi cho rằng các bên liên quan nên theo đuổi các tuyên bố chủ quyền của mình và tôn trọng các quyền hàng hải đi kèm theo Công ước biển của Liên Hiệp Quốc”, bà nói thêm. Bà Hillary Clinton ký kết một thỏa thuận hợp tác với các ngoại trưởng khối ASEAN tại một sự kiện ở Hà Nội hồi tháng 7.2010 - Ảnh: Reuters Hồi đầu năm 2009, bà Clinton đã có chuyến công du nước ngoài đầu tiên trong vai trò là ngoại trưởng Mỹ. Trong chuyến công du này, bà đã gặp gỡ Tổng thư ký ASEAN thời bấy giờ là tiến sĩ Surin Pitsuwan, người đánh giá chuyến thăm của bà “cho thấy chính quyền Mỹ thực sự muốn chấm dứt sự vắng mặt về ngoại giao của mình trong khu vực”. Còn trong bài phát biểu nhân chuyến thăm châu Á, bà Hillary Clinton thừa nhận có biết về sự hoài nghi của các nước trong khu vực đối với cam kết của Mỹ. “Chúng tôi đã lắng nghe tâm tư của bạn bè ASEAN. Họ bày tỏ quan ngại rằng Mỹ đã không có hoàn toàn can thiệp vào khu vực tại thời điểm mà chúng tôi nên mở rộng các quan hệ đối tác để giải quyết các thách thức, từ an ninh khu vực đến khủng hoảng kinh tế, thay đổi khí hậu và nhân quyền”, nữ ngoại trưởng Mỹ khi đó tuyên bố. The Diplomat bình luận rằng các đối tác của Mỹ trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương vẫn đang hoài nghi về các cam kết của cường quốc này, còn Trung Quốc vẫn tiếp tục cho rằng chiến lược “tái cân bằng” chẳng qua là để kiềm chế họ. Vị tổng thống Mỹ được bầu ra sắp tới sẽ phải quyết định nên làm gì với chính sách "tái cân bằng", đang bị đánh giá là "dang dở giữa chừng" trong bối cảnh Mỹ đang bận rộn đối phó với tổ chức cực đoan Nhà nước Hồi giáo (IS), đàm phán hạt nhân Iran và cuộc khủng hoảng tại Ukraine, The Diplomat nhận định. “Vấn đề gây tranh cãi không phải là việc châu Á đang trở thành khu vực quan trọng, mà là tổng thống mới của Mỹ nên có chính sách gì với việc đó”, The Diplomat bình luận. “Liệu bà Hillary Clinton có tiếp tục theo đuổi chiến lược tái cân bằng hay không là một câu hỏi đáng được đặt ra trong lúc bà đang chạy đua vào Nhà Trắng”, The Diplomat kết luận. Hoàng Uy ================= Cái tình hình thế giới hiện nay là rất tình hình. Nó loạn cào cào một cách rất có "cơ sở khoa học" theo cách hiểu "Lý thuyết khoa học hiện đại không có tính hợp lý". Hì! Bởi vậy, bất cứ chính khứa nào muốn tranh cử Tổng thống, đều phải chứng tỏ ta đây wan tâm đến tình hình thế giới và phải cam kết bảo vệ vị thế Hoa Kỳ với tư cách là một nước dẫn đầu thế giới. Model căn bản là nó phải vậy. Muốn bảo vệ vị thế Mỹ thì vấn đề tiếp theo là phải "xoay trục sang Châu Á". Đây là cái model tiếp theo. Vấn đề còn lại là phương pháp xoay trục như thế nào? Cứng rắn, dứt điểm, tới luôn bác tài; hay mềm mỏng, từ từ...đấy sẽ là nội dung tranh cử. Nhưng xu thế cứng rắn sẽ thắng thế. Đối tượng của Hoa Kỳ không phải là cô gái để vuốt ve và nói nhỏ nhẹ. Cứ từ từ rồi khoai sẽ nhừ.
    1 like
  12. Cái này lão Gàn nói lâu rùi! Dù sao năm nay vẫn chưa uýnh nhau. Híc! Nhưng năm tới trở đi thì mọi chuyện rất phức tạp, thế giới muốn loạn cào cào. Cầu mong nước Việt yên bình. Lão Gàn đã nói những việc tưởng như không tưởng. Nên nhiều người không tin. Khổ một nỗi là từ một chuyện nhỏ như con thỏ - thí dụ như cặp hoành phi câu đối trên một tàu Hải giám của Tàu, để phăng ra cả một chuyện đại sự Trung Quốc / Đài loan, phải phân tích rất dài dòng văn tự. Lão đâu có thời gian mỗi chuyện, mỗi giải thích. Giá như Việt sử 5000 năm văn hiến được xác định tính chân lý từ năm ngoái thì chắc không đến nỗi. Nhưng tiếc thay! Giả sử lão Gàn có phân tích rất hay về sự liên quan giữa cội nguồn Việt sử với các vấn đề liên quan - dù hay đến đâu chăng nữa, thì cũng không thể thuyết phục được những nhận xét cực đoan phủ nhận. Và họ sẽ cho rằng: Lão Gàn phân tích theo chiều hướng có lợi cho mình. Chuyện sờ sờ ra đấy: "Không có Hạt của Chúa", người ta vẫn phản biện: "Lão Gàn gặp may". Và sau đó rất lâu, tại cafe Trung Nguyên, người ta vẫn đặt câu hỏi "có mục đích gì?' và "Lý thuyết khoa học hiện đại không có tính hợp lý!". Âu cũng là cái số!
    1 like
  13. hehe mã đầu đới kiếm bất đắc kỳ tử , nhưng chết sớm hay muộn thì còn phải xét , cứ bình tĩnh duơng nam > mệnh ngọ (dương) > ngày 15 (không rõ là ngày này chi là gì) thôi cứ tạm coi là dương > giờ tý (dương) , ồ âm dương thuận lý thế này chết sớm sao được ??? phúc đức không đến nỗi nào, chỉ e bạn bè toàn tướng cướp hoặc phá gia chi tử cũng hay lôi kéo đương số chơi bời . Vợ Tử tướng gặp triệt thì có 2 ý nghĩa : 1 là vợ là nguời có học xinh đẹp nhưng hơi hung hăng với chồng , lời nói đanh thép , 2 là phải bỏ vợ đầu - có thể giải bằng cách lấy vợ muộn (thường là ngoài 30 trở ra) . Vài lời góp ý cho bạn yên tâm , chờ các cao nhân lên giúp kỹ hơn nhé
    1 like
  14. Vài dòng về nước Nam Việt trong sử Tàu . Sách Sử Trung quốc đang lưu hành là sự trộn lẫn sử ‘thật’ và sử ‘đểu’, dấu chỉ giúp nhận biết cũng đơn giản thôi , ở đâu có sự miệt thị khinh khi dân Bách Việt nhất là Lạc Việt thì đấy chắc chắn là đoạn sử ‘đểu’, nắm rõ tánh khí của người tạo ra nó thì rất dể dàng tìm ra những phần này . Chương Nước Nam Việt của Triệu Đà là chương đểu cáng nhất trong Hán sử . chỉ cần lướt qua vài dòng là thấy ngay sự bịa đặt kinh tởm của đám ‘sử nô’ viết theo đơn đặt hàng , dù viết về kẻ thù những sử gia chân chính cũng không bao giờ có giọng điệu như thế . Sử ký của Tư Mã Thiên ( đã cạo sửa ? ), quyển 113, mục Nam Việt Liệt Truyện và Hán Thư của Ban Cố, quyển 95, mục Liệt truyện. Sử Ký, phần Bản Kỷ, quyển 6 chép : “Năm [Tần Thủy Hoàng] thứ 33 [-214] dùng dân bỏ trốn, dân ở rể, dân buôn cho làm lính ; đánh chiếm đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm , Nam Hải, Tượng Quận .” Đánh chiếm đất nước của người ta mà không phải dùng ...đội quân cho ra quân , chỉ cần đám bất lương ô hợp cũng xong ...., (đám bất lương này sau đó cho ở lại ‘sống chung’ với người Việt ) ; Những dòng này ngoài ý miệt thị đời cha còn hàm ý khinh bỉ mãi mãi ....đám con cháu Nam Việt ....chúng mày chỉ là kết qủa của sự ‘giao phối’ giữa mọi rợ và lưu manh . .. Những nhà ... viết sử gốc chăn ngựa viết tiếp : “ Man di Ðại trưởng lão thần [Triệu] Ðà liều chết tái bái, dâng thư Hoàng đế Bệ hạ : Từ khi Cao Hậu lâm triều dụng sự, gần kẻ sĩ nhỏ nhen, tín lời sàm tấu, phân biệt đối xử với man di, ra lệnh rằng : “Không [bán] cho dân Việt man di bên ngoài khí dụng kim loại làm ruộng ; ngựa, trâu, dê thì [bán] cho con đực, không bán con cái. Lão phu ở nơi hoang tịch, ngựa, trâu, dê răng dài đã già, nên không có để dùng vào việc tế tự, thật đáng tội chết” ; Đoạn này cụ thể hoá trình độ văn minh dân Nam hải : - mới chỉ biết dùng gia súc chứ chưa biết chăn nuôi .?.?. ‘nhập khẩu’ được con nào thì ‘xài’ con ấy ....tương tự như người ‘tiền sử’ đang trong tình trạng săn bắt hái lượm vậy . .., bắt được con nào thì chỉ biết con đó chưa biết chăn nuôi nhân giống là gì .... - trong lãnh vực trồng trọt ...thì ...đã bước qua thời công cụ đá đang tiến sang... thời ...‘kim khí.... nhập khẩu’ ..???.. Trên con đường từ man dã đến văn minh con người không hề trải qua giai đoạn ‘nửa người nửa ngợm’ như thế . Thật chỉ những bộ óc ‘cám lợn’ mới có thể nghĩ ra được những điều kỳ quái này . . Nam hải đã là vậy Dân chung quanh còn khủng khiếp hơn bội phần : “.....Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui , chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ ?” ... “Phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người”...như thế Mân Việt cũng chỉ trong giai đoạn bộ lạc là cùng... Đặc biệt...Kinh khủng nhất là dân Âu Lạc...còn trong tình trạng trần truồng ,có bản dịch là bán khai...; chưa biết đến áo quần thì chẳng hơn loài thú bao nhiêu ? Lướt qua vài hàng Sử sách chính thống Tàu ; Không cần nói nhiều chỉ với những di vật đồng –sắt và xương trâu tìm được trong lòng đất Việt có tuổi đáng cố tổ của Nhâm ngao đã là cái tát trời giáng vào mặt những kẻ vô sỉ ...; cả với những ai đọc mà cho những dòng sử này là thật , đáng tin .... thì cũng xứng đáng nhận cái tát như thế .
    1 like