• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 13/04/2015 in all areas

  1. Phát hiện đơn vị đo khối lượng của người Việt Cập nhật lúc: 10:00 11/04/2015 (GMT+7) (Kiến Thức) - Khi tìm hiểu về chuông Thanh Mai, nhiều nhà khoa học không khỏi bất ngờ vì trên thân chuông có đoạn ghi trọng lượng quả chuông... Cân Nam chính là đơn vị tính khối lượng cách đây hơn 1.000 năm của người Việt, được các nhà khoa học phát hiện ra trong quá trình nghiên cứu chuông Thanh Mai – Bảo vật Quốc gia hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hà Nội. Đơn vị tính khối lượng cách đây 1.000 năm của người Việt Khi tìm hiểu về chuông Thanh Mai, nhiều nhà khoa học không khỏi bất ngờ vì trên thân chuông có đoạn ghi trọng lượng quả chuông: “Chuông nặng 90 cân Nam”. Từ đây, giới nghiên cứu văn hóa cho rằng, cân Nam chính là đơn vị đo khối lượng của người Việt cách đây hơn 1.000 năm. Đây là vấn đề thú vị nhưng không dễ nghiên cứu. Bởi từ trước đến nay, giới khảo cổ học và nghiên cứu văn hóa chưa tìm thấy một chiếc cân nào có tên là cân Nam như bài minh khắc trên chuông Thanh Mai, vì thế, hình dáng của cân Nam như thế nào? Dài ngắn làm sao?... vẫn còn bí ẩn. Bà Nguyễn Thị Ngọc Hòa, Phó phòng Kiểm kê - Bảo quản, Bảo tàng Hà Nội thừa nhận: “Hiện trong giới nghiên cứu văn hóa và khảo cổ học không nhiều người giải mã được thông tin về đơn vị cân Nam in trên thân chuông. Một vài người có tìm hiểu vấn đề ở dạng suy đoán vì không có bất cứ bằng chứng, phát hiện khảo cổ học nào về đơn vị đo khối lượng từng được phát hiện trước đó. Điều này làm cho công việc tìm hiểu về chiếc cân Nam gần như lúc lâm vào bế tắc. Tuy nhiên, vượt qua những bí ẩn mang tính lịch sử, thời đại. Thông tin in trên thân chuông Thanh Mai vẫn là nguồn tư liệu vô cùng quý giá cho các nhà nghiên cứu khoa học. Nó chứng minh được rằng, người Việt Nam chúng ta cũng có cách đo khối lượng của vật cách đây hơn 1.000 năm. Có nghĩa là trình độ, năng lực về tư duy, kỹ thuật của chúng ta không thua kém những nền văn hóa khác”. Chuông Cân Nam được lưu giữ cẩn thận trong lồng kính tại Bảo tàng Hà Nội. Nhà nghiên cứu văn hóa Đặng Kim Ngọc trước đây khi nghiên cứu chuông Thanh Mai cũng đã khẳng định rằng: Chuông Thanh Mai là sản phẩm đúc đồng của người Việt Nam. Bài minh văn trên thân chuông có hai lần ghi trọng lượng của quả chuông là “Nam xứng cửu thập cân”, tức là 90 cân Nam. Như vậy, có thể thấy trọng lượng chuông được tính theo đơn vị đo khối lượng của người Nam, độc lập với đơn vị đo khối lượng của người phương Bắc (tức là không phải Trung Quốc). Cân được tìm thấy trong lòng đất, ven sông đáy, xung quanh không có dấu hiệu về sự chôn cất hay mai táng, chứng tỏ chuông bị nước cuốn trôi và bị phù sa vùi lấp. Sau khi phát hiện ra đơn vị đo khối lượng của người Việt Nam, một số nhà nghiên cứu đã tính toán, quy đổi trọng lượng cân Nam so với đơn vị tính trọng lượng (kg) hiện tại. Cụ thể, chuông Thanh Mai nặng 36kg mà trên thân chuông ghi là 90 cân Nam, suy ra 1 cân Nam bằng 0,4kg. 2,5 cân Nam bằng 1kg hiện nay, tương đương 90 cân Nam bằng 36kg. Chuông Thanh Mai có niên đại sớm nhất so với hệ thống chuông chùa hiện nay ở Việt Nam. Bảo vật quý giá Trước khi phát hiện chuông Thanh Mai, nhiều người tin rằng, chiếc chuông có niên đại sớm nhất của nước ta là chuông chùa Vân Bản (niên đại thế kỷ XIII – XIV), vì thế, khi phát hiện ra chuông Thanh Mai, giới nghiên cứu như không tin vào mắt mình, bởi niên đại của chiếc chuông này sớm hơn chuông chùa Vân Bản đến 5 thế kỷ. Thời gian đầu, khi mới phát hiện chuông tại xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Nội, nhiều người đã nghi ngờ đây là một quả chuông giả, làm lại từ một phiên bản chuông khác. Tuy nhiên sau đó, giới nghiên cứu nhận định, chuông chính xác được làm từ năm 798, trên thân chuông có trên 1.500 chữ, tất cả những chữ này được khắc cùng thời điểm đúc chuông vì trên thân không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy có chữ khắc thêm vào giai đoạn sau. Ngoài ra, kích thước của chuông cũng thuộc loại nhỏ. Giới nghiên cứu nhận định, ở giai đoạn sớm, kích thước của chuông thường nhỏ, số núm gõ ít, càng về sau thì kích thước lớn hơn, số núm gõ tăng lên, kỹ thuật tinh xảo hơn... Chuông Thanh Mai đã được Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia tháng 1/2015. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã dịch thông tin minh văn trên thân chuông, đối chiếu với lịch sử các triều đại và thời kỳ lịch sử thì thấy cho sự trùng khớp. Bà Nguyễn Thị Giang, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hà Tây (cũ) tóm tắt nội dung bài minh văn: “Duy Trinh Nguyên thập tứ niên tuế thứ, Mậu Dần tam nguyệt, Tân Tỵ sóc tráp nhật Canh Tuất, tùy hỉ xã ngũ thập tam nhân công tạo minh chung nhất khẩu, dung đồng cửu thập cân lưu thông cúng dường. Dịch nghĩa: “Vào ngày 20/3 năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên (niên hiệu vua Đức Tông của nhà Đường, trị vì từ năm 785 - 810) thứ 14 (tức năm 798 dương lịch), 53 người trong hội tùy hỷ (một tổ chức phật giáo đương thời) cùng đúc một quả chuông đồng hết 90 cân lưu truyền cúng lễ”. Phần lớn bài minh tập trung vào việc liệt kê danh sách và chức tước của những người tham gia đúc chuông hoặc công đức vào việc đúc này. Có tất cả 212 người được khắc chuông trên bia thanh mai theo thứ tự lần lượt từ 4 ô trên cho đến 4 ô dưới gồm 78 vị quan chức, còn lại là những thiện tín nhà Phật”. Bạch Thu Tâm
    3 likes
  2. Chuyện Hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ từ Hàn Quốc trở về Theo Báo Bắc Ninh Cuối năm 1225, nhà Trần đoạt ngôi nhà Lý từ tay Lý Chiêu Hoàng mới 8 tuổi. Thái sư Trần Thủ Độ lấy cớ tổ nhà Trần là Trần Lý (sinh ra Trần Tự Khánh và Trần Thừa là bố của Trần Thái Tông), vậy nên họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn. Thực chất, việc phải đổi ra họ Nguyễn vì Trần Thủ Độ muốn dân chúng quên họ Lý đi. Trần Thủ Độ còn lập mưu giết hàng loạt tôn thất nhà Lý để trừ hậu họa. Từ đó nhà Lý vắng bóng trên vũ đài chính trị. Thế nhưng nhân dân Kinh Bắc lại truyền nhau câu ca rằng: “Bao giờ rừng Báng hết cây/Tào khê hết nước, Lý nay lại về”. Câu ca tưởng như một lời than vô vọng, vì biết bao giờ rừng hết cây, sông hết nước. Thật không ngờ thời gian dâu bể, lại có ngày rừng Báng hết cây, biến thành ruộng lúa. Không những sông Tào Khê hết nước mà cả sông Tiêu Tương chảy qua làng Cổ pháp, nơi sản sinh ra câu chuyện tình buồn giữa anh Trương Chi và cô Mỵ Nương con quan Thừa tướng, cũng biến thành một dãy ao tù. Năm 1994, có một vị khách từ Hàn Quốc (Cao Ly quốc ngày xưa) đã tìm về đền Đô, giới thiệu mình là Lý Xương Căn, hậu duệ đời thứ 26 của Hoàng thúc Lý Long Tường, và là đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ về bái yết tổ tiên. Thế là sau 768 năm, người Kinh Bắc đã giải được câu sấm truyền. Sáu tháng sau, Lý Xương Căn về đền Đô lần thứ hai cùng đoàn đại biểu của Hội hữu nghị văn hóa Hàn-Việt đến tưởng niệm Hoàng tử Lý Long Tường. Đến tháng 3-1995, Lý Xương Căn về đền Đô lần thứ 3, chuẩn bị trước cho đoàn hậu duệ nhà Lý ở Hàn Quốc về dự hội đền Đô vào ngày rằm tháng 3 âm lịch. Trong dòng người trẩy hội đền Đô năm ấy đã có mặt 48 vị hậu duệ nhà Lý ở Hàn Quốc. Ông Lý Tượng Hiệp, trưởng tộc họ Lý ở Hoa Sơn đã dâng bộ gia phả đã ghi chép cẩn thận từ cụ tổ Lý Long Tường đến nay. Trong trang đầu bộ gia phả ghi trang trọng dòng chữ: “Sinh tại Hàn, hồn tại Việt”. Hoàng tử Lý Long Tường là con trai thứ bảy của vua Lý Anh Tông và bà hiền phi Lê Mỹ Nga. Ông là một vị đô đốc hải quân có tài thao lược. Sau khi nhà Lý mất ngôi, biết không thể tránh khỏi những cuộc tàn sát, năm 1226, ông đã đem gia quyến và các đồ thờ cúng, áo long bào, vương miện và thương phương bảo kiếm từ đời vua Lý Thái Tổ, cùng với sáu ngàn quân, xuất phát từ cảng Vân Đồn đi tị nạn. Đoàn thuyền vượt biển tránh bão, ghé vào đảo Đài Loan. Con trai ông là Lý Đăng Hiền bị ốm vì say sóng không đi tiếp được, ông để con trai cùng 200 tùy tùng ở lại đảo rồi tiếp tục đi. Đoàn thuyền đã dạt vào bờ biển phía tây nước Cao Ly (gần Pusan ngày nay), được nhà vua và nhân dân Cao Ly hết sức giúp đỡ. Truyền thuyết còn kể rằng đêm hôm trước vua Cao Ly nằm mơ thấy một con chim Phượng hoàng bay đến đậu ở bờ biển phía tây, hôm sau thì được tin Hoàng tử nước Đại Việt tên là Lý Long Tường xin tỵ nạn. Vua Cao Ly cấp cho ông và tùy tùng một vùng đất lớn, lập Lý Hoa thôn, hay còn gọi là Lý Hoa trang. Tại đây ông cho xây một ngôi đình làng y như kiểu đình làng ở quê hương. Hàng năm vào dịp tết và hội, người Lý Hoa thôn dù đi làm ăn xa khắp lãnh thổ Cao Ly cũng trở về làng ăn tết, cũng có “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh” như phong tục Đại Việt. Khi dân làng cúng lễ dâng hương tại đình thì vị tiên chỉ mở Quốc phả ra đọc cho con cháu nghe về nguồn gốc của người Lý Hoa thôn. Ba hồi chuông, trống âm vang trong không khí thiêng liêng. Sau khi dâng hương, người dân Lý Hoa thôn khấn vái, đầu phủ phục trước đình, hướng về phương Nam cố quốc. Phong tục ấy được nối tiếp đời đời qua nhiều thế hệ. Năm 1232 quân Mông Cổ xâm lược Cao Ly, Lý Long Tường đã lãnh đạo tướng sỹ gia thuộc và nhân dân địa phương đẩy lùi quân Mông Cổ do đại hãn Oa Khoát Đài chỉ huy. Sử còn ghi rằng ông thường cưỡi ngựa trắng xông pha chiến trận nên quân dân gọi ông là Bạch mã tướng quân. Đến năm 1252 Mông Cổ lại sang xâm lược lần thứ hai. Lúc này Mông Cổ rất mạnh do họ đã chiếm được miền bắc Trung Quốc, triều đình Cao Ly không đương nổi sức mạnh của giặc phải lánh ra đảo Giang Hoa. Lý Long Tường lại lãnh đạo quân dân địa phương kiên trì chiến đấu, ông sử dụng binh pháp Đại Việt, đánh cho quân giặc nhiều trận thua đau. Quân Mông Cổ bày mưu ám sát ông, chúng giả vờ giảng hòa, tặng ông năm hòm vàng bạc châu báu lớn để làm lễ vật, nhưng chúng cho thích khách núp ở bên trong để khi mở hòm ra là ám sát. Đoán biết âm mưu của giặc, ông cho người khoét lỗ hòm rồi đổ nước sôi vào, cả năm tên thích khách bị “luộc” chín, sau đó ông cho xe trả quân giặc. Quân Mông Cổ vì thế phải xin được rút về nước và lập đàn thề không xâm lược Cao Ly. Nơi quân Mông Cổ đầu hàng được gọi là Thụ hàng môn, vua Cao Ly cho dựng bia tại đây để ghi nhớ công tích của Lý Long Tường. Vua cũng phong ông là Hoa Sơn tướng quân, dòng họ của ông vì thế gọi là họ Lý Hoa Sơn. Gia phả còn ghi rằng, ông thường lên đỉnh núi trông về cố quốc phương Nam mà khóc, nơi ấy vì thế gọi là “Vọng quốc đàn”. Hậu duệ của Lý Long Tường là một danh gia vọng tộc ở Hàn Quốc, từng nhiều đời làm quan to trong triều, được ca ngợi là những người trung nghĩa. Khi triều đại ở Cao Ly thay đổi, trong họ có hai vị hiền sĩ về quê quy ẩn, không ra làm quan với triều đại mới, giữ lòng trung với vua cũ, được sử sách Cao Ly ngợi khen là tiết liệt. Đặc biệt trong dòng họ có Tổng thống Lý Thừa Văn-vị Tổng thống đầu tiên của Đại Hàn Dân Quốc. Trong chuyến viếng thăm Sài Gòn ngày 6-11-1958 ông đã nói: “Tổ tiên tôi là người Việt Nam đấy”. Câu nói này hồi đó được báo chí Sài Gòn đăng tải rầm rộ trên trang nhất. Ông là cháu đời thứ 25 của Lý Long Tường. Năm 2000, ông Lý Xương Căn đã đưa cả gia đình gồm: cụ thân sinh (Lý Khánh Huân), vợ và 3 con về Hà Nội sinh sống. Cậu con trai út ông đặt tên là Lý Quốc Việt, cái tên rất có ý nghĩa. Năm 2003, Chủ tịch tập đoàn tài chính Golden Bridge (tức Cầu Vàng) Lý Tường Tuấn, một hậu duệ của Lý Long Tường sang Việt Nam, về đền Đô bái yết tổ tiên. Năm 2006, ông thành lập văn phòng đại diện ở Hà Nội. Năm 2008 ông được vinh danh là một trong những nhà tài trợ lớn nhất châu á. Con cháu họ Lý Hoa Sơn ở Hàn Quốc hiện có tới 4.000 người. Mới đây các nhà sử học Hàn Quốc còn phát hiện một dòng họ Lý khác, đó là dòng Lý Dương Côn, cũng là một hoàng tử nhà Lý, vượt biển đến Hàn Quốc trước Lý Long Tường 76 năm. Đời thứ 6 của dòng họ này có Lý Nghĩa Mẫn, từng làm thừa tướng Cao Ly suốt 14 năm. Kỳ diệu thay, sức sống ngàn năm của dòng họ Lý, cũng là sức sống trường tồn của dòng giống tiên rồng Đại Việt. Người Việt Nam ta có câu: “Phúc đức tại mẫu” phải chăng chính sự nhân nghĩa, bao dung, sáng láng, sự “khoan, giảm, an, lạc” trong cai trị, vương triều Lý đã để lại phúc đức cho cháu chắt đến tận bây giờ.
    2 likes
  3. Ngay trong kinh Phật cũng ca ngợi 32 tướng tốt của Đức Phật. Nhưng vấn đề căn bản là: Với trí huệ của bậc Vô thượng chánh đẳng giác, sẽ không bao giờ phủ nhận những thành tựu tri thức, văn hóa của nhân loại.
    1 like
  4. Hôm nay, Mục Đồng xin phép mở mục Lý Học Đông Phương và những vấn đề lý luận cơ bản của Đông y. Hiện nay, Đông y đang mất dần vị thế và trở thành ngành y học bổ sung, Mục Đồng xin chép lại bài dưới đây từ trang Tuổi trẻ online để minh họa: Rất mong Sư Phụ và các Sư huynh giảng thêm cho Mục Đồng về các khái niệm và ứng dụng của Lý Học Đông Phương, nhân danh nền văn hiến Việt vào môn Đông y này. Mục Đồng xin phép Sư Phụ chép bài của sư phụ giải thích về Lục khí trong Đông y vào đây để mở đầu ạ: MINH TRIẾT VIỆT MÔ TẢ BÍ ẨN LỤC KHÍ TRONG ĐÔNG Y. Thưa qui vị quan tâm. Đã rất nhiều lần trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn và ngay trong cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương", tôi đã xác định chuẩn mực thẩm định cho một giả thuyết, hoặc một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng, phải có khả năng giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó, một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Những giá trị minh triết Việt trong văn hóa truyền thống Việt đã chỉ thẳng đến đồ hình căn bản của Lý học Đông phương chính là Hà Đồ và mô hình biểu kiến Hậu Thiên Lạc Việt. Sự phối hợp hai đồ hình này chính là nguyên lý căn để của mọi phương pháp ứng dụng trong mọi lĩnh vực của Lý học Đông phương, mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt. Đương nhiên theo chuẩn mực là tiêu chí khoa học mà tôi đã trình bày thì nó phải giải thích một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống hầu hết những vấn đề liên quan đến nó. Trong cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" - được trình bày và bổ sung trong chủ đề này - tôi đã giải thích theo đúng tiêu chí khoa học cho nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" nhân danh nền văn hiến Việt cho tất cả mọi lĩnh vực liên quan đến nó. Nhưng do một nhân duyên từ các học viên lớp Phong thủy Lạc Việt cao cấp là Mục Đồng và Á Châu, đang theo học lớp Đông y, đến gặp tôi và thắc mắc về một bí ẩn trong hệ thống phương pháp luận của Đông y là: Khái niệm vận động của Lục Khí. Khái niệm này được mô tả qua những thuật ngữ sau đây: Lục khí tam Âm gồm có: Thái Âm thấp Thổ; Thiếu Âm quân Hỏa và Quyết Âm phong Mộc . Lục khí tam Dương gồm có: Thái Dương hàn thủy; Thiếu Dương tướng hỏa và Dương minh táo Kim. Cũng từ hàng thiên niên kỷ trôi qua - kể từ khi nền văn hiến Lạc Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương tử - khái niệm lục khí ứng dụng trong Đông Y vẫn là một bí ẩn không thể giải thích trong tất cả các cổ thư chữ Hán liên quan. Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Không chỉ khái niệm "lục khí", mà có thể nói hầu hết những khái niệm trong hệ thống phương pháp luận căn bản trong Đông y đều hết sức mơ hồ và chính những nhà nghiên cứu Trung Hoa phải lên tiếng bác bỏ Đông Y, vì tính mơ hồ không thể giải thích được từ hàng ngàn năm qua (Đã mô tả trong topic này và trong sách "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương". Nxb Tri Thức). Những khái niệm mơ hồ, như :" Giáp hợp Kỷ hóa thổ"....chúng tôi đã giải thích trên cơ sở "Hà đồ phối hậu Thiên Lạc Việt", Nhưng với khái niệm lục khí, chúng tôi chưa bàn đến. Bởi vậy, tuân thủ theo chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và chứng tỏ tính hợp lý lý thuyết bao trùm lên mọi lĩnh vực liên quan, cho nên ở đây, tôi xin được tiếp tục chứng tỏ khả năng giải thích một cách hợp lý của nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" với khái niệm lục khí trong Đông Y. Thưa quý vị. Một lần nữa xin quý vị xem lại đồ hình "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" - nguyên lý căn để của mọi phương pháp ứng dụng trong Lý học Đông phương, mà nền tảng chính là thuyết Âm Dương ngũ hành. Trên cơ sở nguyên lý căn để này trong đó có Hậu Thiên Lạc Việt, được mô tả qua mô hình sau đây: Người viết xin lưu ý quý vị rằng: Chỉ có "Hậu Thiên Lạc Việt" mới có thể kết hợp cặp Đoài Tốn và Cấn Chấn - là bốn quái Điên đảo Dịch - thành cặp quái Bất dịch và tạo thành đồ hình tam Âm, Tam Dương như trên. Đồ hình Tam Âm được mô tả như sau - Đứng đầu là quái Khôn/ Âm Hỏa đới Thổ: Đồ hình Tam Dương được mô tả như sau; đứng đầu là quái Càn/ Dương Kim đới Thủy. A/ Trên cơ sở này, chúng ta so sánh, bắt đầu từ đồ hình Tam Âm với ba vận khí Âm mô tả trong Đông y là: 1/ Khôn/ Âm Hỏa đới Thổ, là quẻ thuần Âm, nằm ở phương vị Đông Nam trên Hà Đồ, tương ứng với "Thái Âm thấp Thổ". 2/ Cặp Đoài/ Tốn tương ứng với "Quyết Âm phong Mộc", trong đó có những thuộc tính phân loại của quái Tốn theo kinh Dịch chính là "Phong"/ Gió và "Mộc". 3/ Khảm/ Thủy, nằm ở phương chính Bắc của Hà đồ, tương ứng với "Thiếu Âm Quân Hỏa". Tại sao Khảm/ Thủy lại được coi là "Thiếu Âm Quân Hỏa"? Bởi vì những ai nghiên cứu về Lý học dù chỉ ở trạng thái sơ khai ban đầu đều biết rằng" Thiên nhất sinh Thủy; Địa nhị sinh Hỏa". Như vậy Khảm Thủy là cái có trước Hỏa, nên là vua của Hỏa. B/ Trên cơ sở này, chúng ta so sánh, bắt đầu từ đồ hình Tam Dương với ba vận khí Dương mô tả trong Đông y là: 1/ Càn/ Dương Kim đới Thủy, là quẻ thuần Dương, nằm ở phương vị Tây Bắc trên Hà Đồ, có độ số 6 của hành Thủy, nên tương ứng với "Thái Dương hàn Thủy". 2/ Cặp Cấn/ Chấn tương ứng với "Dương minh táo Kim". Tại sao lại gọi là "Dương Minh", bởi vì quái Chấn phương Đông chính là phương mặt trời mọc, nên gọi là "Dương Minh". Đông Tây (Kim) tuyệt nhau, nên gọi là "táo Kim". 3/ Quái Ly/ Hỏa nằm ở phương chính Nam của Hà Đồ thuộc Hỏa, nên là "Thiếu Dương tướng Hỏa". Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Như vậy, nguyên lý căn để "Hà Đồ phối Hậu thiên Lạc Việt" - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử - giải thích có tính hệ thống, nhất quán và hoàn chỉnh và hợp lý tất cả mọi vấn đề liên quan đến nó. Ngay cả những khái niệm vô cùng bí ẩn trong Đông y từ hơn 2000 năm qua. Không chỉ dừng lại ở những bí ẩn huyền vĩ của lý học Đông phương, mà nhân danh một lý thuyết thống nhất - niềm mơ ước của cả trí thức nhân loại hiện đại - Lý học Đông phương giải thích luôn cả những ý tưởng mới nhất của nền khoa học hiện đại với khả năng tiên tri. Tính hợp lý của lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt thể hiện bao trùm trên mọi lĩnh vực từ thiên nhiên, xã hội, cuộc sống ...cho đến từng hành vi của con người với khả năng tiên tri. Nếu như không phải là một lý thuyết mô tả một chân lý bao trùm thì không thể thực hiện được tính hợp lý trên tất cả mọi lĩnh vực. Xin cảm ơn quý vị và anh chị em quan tâm. PS: Thưa quý vị quan tâm. Ứng dụng của khái niệm lục khí trong Đông Y nhân danh nền văn hiến Việt, được sử dụng để mô tả bản chất của hành khí theo sự phân loại của Ngũ hành trong thời gian tương tác của vũ trụ liên quan đến sức khỏe, bệnh tật có thể phát sinh của con người.
    1 like
  5. 1 like
  6. Hoangnt cho rằng thuyêt ADNh không mô tả bản chất của Thái cực. Đúng là như vậy. Nhưng đấy là sách Tàu. Tóm lại hoangnt chẳng hiểu gì về thuyết ADNh cả, nên nói theo cách hiểu của mình. Xem hết cả các bài viết, tôi thấy hoangnt chưa hề chứng minh được giới hạn của thuyết ADNh. Nếu học thuyết này có giới hạn - dù bất cứ ở phương diện nào thì nó không phải lý thuyết thống nhất. Nhưng tôi đã chứng minh rằng: Đây là lý thuyết thống nhất. Hoangnt có thể không công nhận. Nhưng phải chỉ ra cái giới hạn của nó.
    1 like