• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 14/11/2014 in Bài viết

  1. Bàn Cổ - Nữ Oa - Thần Nông Dịch giả: Lý Nhĩ Chân BÀN CỔ 盤古 藝文類聚 Nghệ văn loại tụ 唐 歐陽詢  Đường - Âu Dương Tuân soạn 天部 Thiên bộ "Tam ngũ lịch kỉ" của Từ Chỉnh [thời Tam quốc] chép: Trời đất hỗn độn như quả trứng gà, Bàn Cổ sinh ra ở trong đó, sống đến một vạn tám nghìn tuổi thì trời đất mở mang, khí dương trong suốt thì tạo thành trời, khí âm đục nặng thì tạo thành đất. Bàn Cổ ở trong ấy, mỗi ngày biến chín lần, thông với trời, liền với đất. Trời mỗi ngày cao thêm một trượng, đất mỗi ngày dày thêm một trượng, Bàn Cổ mỗi ngày lớn thêm một trượng. Như thế một vạn tám nghìn năm thì trời đã rất cao, đất đã rất sâu, Bàn Cổ đã rất lớn. Sau đó có Tam Hoàng, số bắt đầu từ số một, lập ở số ba, thành từ năm, thịnh ở số bảy, cuối ở số chín. Do đó trời cách đất chín vạn dặm. Từ Chỉnh Tam ngũ lịch kỉ viết: Thiên địa hỗn độn như kê tử, Bàn Cổ sinh kì trung, vạn bát thiên tuế, thiên địa khai tịch, dương thanh vi thiên, âm trọc vi địa. Bàn Cổ tại kì trung, nhất nhật cửu biến, thần ư thiên, thánh ư địa. Thiên nhật cao nhất trượng, địa nhật hậu nhất địa, Bàn Cổ nhật trương nhất trượng. Như thử vạn bát thiên tuế, thiên số cực cao, địa số cực thâm, Bàn Cổ cực trương. Hậu nãi hữu Tam Hoàng, số khởi ư nhất, lập ư tam, thành ư ngũ, thịnh ư thất, xứ ư cửu. Cố thiên khứ địa cửu vạn lí. 徐整三五曆紀曰天地混沌如雞子盤古生其中萬八千歲天地開闢陽清為天陰濁為地盤古在其中一日九變神於天聖於地天日高一丈地日厚一丈盤古日長一丈如此萬八千歲天數極高地數極深盤古極長後乃有三皇數起於一立於三成於五盛於七處於九故天去地九萬里 [zh.wikisource.org] 图画见闻志 Đồ họa kiến văn chí 北宋 郭若虚 Bắc Tống - Quách Nhược Hư soạn 《Ích Châu học quán kí》 chép: Năm Hưng Bình thứ nhất thời Hiến Đế [nhà Đông Hán], người quận Trần Lưu là Cao Trẫm làm Ích Châu Thái thú, sửa lại nhà đá gian ngọc ở Thành Đô. Dựng riêng một nhà đá ở phía đông, tự làm nhà lễ của Chu Công. Trên vách nhà vẽ tranh các vị thần Lí Lão [tức Lão Tử], Bàn Cổ thời xa xưa và các vị Đế Vương qua các đời. Trên cột nhà lại vẽ hình bảy mươi hai học trò của Trọng Ni [tức Khổng Tử], các vị danh thần từ thời Tam Hoàng về sai. Người già cả nói rằng: "Là do Ích Châu Thứ sử Trương Thu vẽ vào giữa năm Thái Khang thời Tây Tấn". 《Ích Châu học quán kí》 vân: Hiến Đế Hưng Bình nguyên niên, Trần Lưu Cao Trẫm vi Ích Châu Thái thú, canh tập Thành Đô ngọc đường thạch thất. Đông biệt sáng nhất thạch thất, tự vi Chu Công lễ điện. Kì bích thượng đồ họa thượng cổ Bàn Cổ, Lí Lão đẳng thần, cập lịch đại Đế Vương chi tượng. Lương thượng hựu họa Trọng Ni thất thập nhị đệ tử, Tam Hoàng dĩ lai danh thần. Kì lão vân: "Tây Tấn Thái Khang trung, Ích Châu Thứ sử Trương Thu bút".  《益州学馆记》云“献帝兴平元年陈留高朕为益州太守更葺成都玉堂石室。东别创一石室自为周公礼殿。其壁上图画上古、盘古、李老等神及历代帝王之像。梁上又画仲尼七十二弟子、三皇以来名臣。”耆旧云“西晋太康中益州刺史张收笔。” [www.lotus-eater.cc] 欽定四庫全書    Khâm định tứ khố toàn thư 述異記卷上   Thuật dị kí quyển thượng  梁任昉撰    (Lương) Nhậm Phưởng soạn Ngày xưa vào lúc Bàn Cổ thị chết, đầu tạo thành bốn quả núi, mắt tạo thành Mặt trời, Mặt trăng, máu mỡ tạo thành sông biển, lông tóc tạo thành cây cỏ. Người vùng Tần Hán [miền sông Vị, sông Hán] nói rằng đầu của Bàn Cổ tạo thành Đông Nhạc [tức núi Thái Sơn], bụng tạo thành Trung Nhạc [tức núi Tung Sơn], tay trái tạo thành Nam Nhạc [tức núi Hành Sơn], tay phải tạo thành Bắc Nhạc [tức núi Hằng Sơn], chân tạo thành Tây Nhạc [tức núi Hoa Sơn]. Bậc nhà Nho thời xưa nói rằng Bàn Cổ thị khóc thì tạo thành sông ngòi, thở thì tạo thành gió, thét thì tạo thành sấm, mắt nhìn tạo thành sét. Người xưa nói rằng Bàn Cổ vui thì trời sáng tạnh, giận thì trời tối mưa. Người vùng Ngô Sở [vùng lưu vực sông Dương Tử] nói rằng Bàn Cổ là khởi đầu của âm dương, vợ chồng vậy. Ngày nay ở quận Nam Hải có mộ của Bàn Cổ, vòng quanh hơn ba trăm dặm. Người đời nói rằng là người đời sau truy táng hồn của Bàn Cổ vậy. Ở quận Quế Lâm có miếu thờ Bàn Cổ, người đời nay cúng tế. Ở giữ biển Nam Hải có nước Bàn Cổ, người đời nay đều lấy tên Bàn Cổ làm họ. Phưởng xét rằng Bàn Cổ thị là tổ của vạn vật trong đời đất, vậy thì vạn vật có gốc từ Bàn Cổ vậy. Tích Bàn Cổ thị chi tử dã, đầu vi tứ nhạc, mục vi nhật nguyệt, chi cao bi giang hải, mao phát vi thảo mộc. Tần Hán gian tục thuyết Bàn Cổ thị đầu vi Đông Nhạc, phúc vi Trung Nhạc, tả tí vi Nam Nhạc, hữu tí vi Bắc Nhạc, túc vi Tây Nhạc. Tiên Nho thuyết Bàn Cổ thị khấp vi giang hà, khí vi phong, thanh vi lôi, mục đồng vi điện. Cổ thuyết Bàn Cổ thị hỉ vi tình, nộ vi âm. Ngô Sở gian thuyết Bàn Cổ thị phu thê âm dương chi thủy dã. Kim Nam Hải hữu Bàn Cổ thị mộ, hoàn tam bách dư lí. Tục vân hậu nhân truy táng Bàn Cổ thi hồn dã. Quế Lâm hữu Bàn Cổ thị miếu, kim nhân chúc tự. Nam Hải trung Bàn Cổ quốc, kim nhân giai dĩ Bàn Cổ vi tính. Phưởng án Bàn Cổ thị thiên địa vạn vật chi tổ dã, nhiên tắc vạn vật thủy ư Bàn Cổ. 昔盤古氏之死也頭為四岳目為日月脂膏為江海毛髮為草木秦漢間俗説盤古氏頭為東岳腹為中岳左臂為南岳右臂為北 岳足為西岳先儒説盤古氏泣為江河氣為風聲為雷目瞳為電古説盤古氏喜為晴怒為隂吳楚間説盤古氏夫妻隂陽之始也今南海有盤古氏墓亘三百餘里俗云後人追葬盤古之 魂也桂林有盤古氏廟今人祝祀南海中盤古國今人皆以盤古為姓昉按盤古氏天地萬物之祖也然則生物始於盤古 [club.xilu.com] NỮ OA 女媧 楚辭 Sở từ Chiến quốc - Khuất Nguyên soạn 天問 Thiên vấn Nữ Oa cũng có thân thể, ai tạo ra bà ấy? Nữ Oa hữu thể, thục chế tượng chi? 女媧有體孰制匠之 [ctext.org] 淮南子 Hoài Nam Tử Tây Hán - Lưu An soạn 覽冥訓 Lãm minh huấn Vào thời xa xưa, bốn cột chống trời bị đổ, chín châu chia cắt, trời chẳng che trùm, đất chẳng xoay quanh; lửa cháy rừng rực mà chẳng thôi, nước ngập cuồn cuộn mà chẳng ngừng; thú dữ ăn thịt dân lanh, chim ác quắp bắt người già yếu. Do đó Nữ Oa luyện đá năm màu để vá trời xanh, chặt bốn chân của con ngao để dựng lại bốn cột chống, giết rồng đen để giúp Kí Châu, chất cỏ lau để ngăn nước lũ. Trời xanh được vá, bốn cột được dựng; nước lũ được cạn, Kí Châu được yên; trùng độc bị chết, dân lành được sống; lại nằm dựa lưng vào đất vuông, tay ôm lấy trời tròn; điều hòa mùa xuân, dương nóng mùa hạ, tiêu điều mùa thu, lạnh giá mùa đông, nằm thẳng kê gối; có âm dương tắc nghẽn không thông thì xoi sửa; có khí chướng vật độc, làm thương hại đến người dân thì ngăn chặn. Vào thời bấy giờ, nằm thì thoải mái, dậy thì ngơ ngác; thấy kia cho là con ngựa, nhìn nọ cho là con trâu; đi lại lảo đảo, nhìn ngó dọc ngang; thản nhiên đều được hòa hợp, chẳng ai biết vì sao mình được sinh, vất vưởng chẳng biết tìm cầu cái gì, lởn vởn chẳng biết về đâu. Vào thời lúc ấy, cầm thú rắn rết, chẳng con gì không cất móng vuốt, thu ẩn nọc độc, không có ý cắn quắp. Xét công lao của bà ấy, trên thấu chín tầng trời, dưới khắc vào đất vàng; tiếng tăm lừng đời sau, sáng chói trùm vạn vật. Đi xe tuyết, ngồi lưng rồng cánh, cưỡi lưng rồng xanh, cầm hòn ngọc đẹp, trải chiếu tranh, xõa mây vàng, trước có con li trắng dẫn đường, sau có con rắn chạy theo; ngao du dạo chơi, giao lưu với quỷ thần, trèo lên chín tầng trời, chầu Ngọc Đế ở cửa Linh Môn, chầu nghỉ dưới cửa Thái Nghi. Nhưng không nêu rõ công của mình, không tỏ ra tiếng tăm, ẩn cái đạo của bậc thần tiên để theo cái đạo tự nhiên của trời đất. Vì sao? Là vì đức trên thông với trời thì trí xảo tự tiêu trừ vậy. Vãng cổ chi thì, tứ cực phế, cửu châu liệt, thiên bất kiêm phúc, địa bất chu tải, hỏa lạm viêm nhi bất diệt, thủy hạo dương nhi bất tức, mãnh thú thực chuyên dân, chí điểu quắc lão nhược, ư thị Nữ Oa luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực. Sát hắc long dĩ tế Kí Châu, tích lô hôi dĩ chỉ dâm thủy. Thương thiên bổ, tứ cực chính, dâm thủy hạc, Kí Châu bình, giảo trùng tử, chuyên dân sinh. Bối phương châu, bão viên thiên, hòa xuân dương hạ, sát thu ước đông, chẩm phương tẩm thằng, âm dương chi sở ủng trầm bất thông giả, khiếu lí chi; nghịch khí lệ vật, thương dân hậu tích giả, tuyệt chỉ chi. Đương thử chi thì, ngọa cư cư, hưng miện miện, nhất tự dĩ vi mã, nhất tự dĩ vi ngưu, kì hành điên điên, kì thị minh minh, đồng nhiên giai đắc kì hòa, mạc tri sở do sinh, phù du bất tri sở cầu, võng lượng bất tri sở vãng. Đương thử chi thì, cầm thú phúc xà, vô bất nặc kì trảo nha, tàng kì thích độc, vô hữu quắc phệ chi tâm. Khảo kì công liệt, thượng tế cửu thiên, hạ khế hoàng lô, danh thanh bỉ hậu thế, quang huy trùng vạn vật. Thừa lôi xa, phục giá ứng long, tham thanh cầu, viên tuyệt thụy, tịch la đồ, hoàng vân lạc, tiền bạch li, hậu bôn xà, phù du tiêu dao, đạo quỷ thần, đăng cửu thiên, triều Đế ở Linh Môn, mật mặc hưu ư Thái Nghi chi hạ. Nhiên nhi bất chương kì công, ẩn chân nhân chi đạo, dĩ tòng thiên địa chi cố nhiên. Hà tắc? Đạo đức thượng thông, nhi trí cô tiêu diệt dã. 往古之時四極廢九州裂天不兼覆地不周載火爁炎而不滅水浩洋而不息猛獸食顓民鷙鳥攫老弱於是女媧煉五色石以補蒼天斷鼇足以立四極。殺黑龍以濟冀州積蘆灰以止淫水。蒼天補四極正淫水涸冀州平狡蟲死顓民生。背方州抱圓天和春陽夏殺秋約冬枕方寢繩陰陽之所壅沈不通者竅理之逆氣戾物傷民厚積者絕止之。當此之時臥倨倨興眄眄一自以為馬一自以為牛其行蹎蹎其視瞑瞑侗然皆得其和莫知所由生浮游不知所求魍魎不知所往。當此之時禽獸蝮蛇無不匿其爪牙藏其螫毒無有攫噬之心。考其功烈上際九天下契黃壚名聲被後世光暉重萬物。乘雷車服駕應龍驂青虯援絕瑞席蘿圖黃雲絡前白螭後奔蛇浮游消搖道鬼神登九天朝帝於靈門宓穆休於太宜之下。然而不彰其功不揚其聲隱真人之道以從天地之固然。何則道德上通而智故消滅也。 [zh.wikisource.org] 論衡 Luận hành Đông Hán - Vương Sung soạn 談天篇 Đàm thiên thiên Sách của nhà Nho nói rằng: Cộng Công tranh ngôi Đế với Chuyên Húc không thắng, giận mà húc đầu vào núi Bất Chu, khiến cho cột chống trời gãy, cắt đứt với đất. Do đó Nữ Oa nung chảy đá năm màu để vá trời, chặt chân của con ngao để dựng bốn cột chống, trời không đủ ở phía tây bắc, cho nên Mặt trời, Mặt trăng chuyển về phía ấy, đất không đủ ở phía đông nam, cho nên trăm sông đổ về phía ấy. Đấy là lời xa xưa rồi, là lời của người đời truyền tụng vậy. Đối với người văn nhã, thấy lạ mà chẳng cho là sai, mà nếu cho là sai thì cũng chẳng biết lấy gì mà bác bỏ được, lại e rằng đấy là đúng, không dám sửa lại. Theo đạo lí của trời người mà luận thì chắc chắn đấy là sai vậy. Nho thư ngôn: Cộng Công dữ Chuyên Húc tranh vi Thiên tử bất thắng, nộ nhi xúc Bất Chu chi sơn, sử thiên trụ chiết, địa duy tuyệt. Nữ Oa tiêu luyện ngũ sắc thạch dĩ bổ thương thiên, đoạn ngao túc dĩ lập tứ cực, thiên bất túc tây bắc, nhật nguyệt di yên; địa bất túc đông nam, cố bách xuyên chú yên. Thử cửu viễn chi văn, thế gian thị chi ngôn dã. Văn nhã chi nhân, quái nhi vô dĩ phi, nhược phi nhi vô dĩ đoạt, hựu khủng kì thực nhiên. Dĩ thiên đạo nhân luận chi, đãi hư ngôn dã. 儒書言共工與顓頊爭為天子不勝怒而觸不周之山使天柱折地維絕。女媧銷煉五色石以補蒼天斷鰲足以立四極。天不足西北故日月移焉地不足東南故百川注焉。此久遠之文世間是之言也。文雅之人怪而無以非若非而無以奪又恐其實然不敢正議。以天道人事論之殆虛言也。 說文解字 Thuyết văn giải tự Đông Hán - Hứa Thận soạn 【女部】媧 Nữ bộ: Oa Vị nữ thần thánh thời cổ, là người tạo ra vạn vật vậy. Theo bộ 'nữ', thanh 'qua'. 'Qua', theo thể chữ trứu thì 'oa' theo bộ 'qua'. Cổ oa thiết. Cổ chi thần thánh nữ, hóa vạn vật giả dã. Tòng nữ qua thanh. Qua, trứu văn qua tòng qua. Cổ oa thiết. 古之神聖女化萬物者也。从女咼聲。籒文媧从。古蛙切 [www.zdic.net] 山海經海經新釋 Sơn hải kinh hải kinh tân thích 大荒西經 Đại hoang tây kinh Có vị thần mười thân, gọi là ruột của Nữ Oa [1], hóa thành thần, ở tại cánh đồng Túc Quảng [2], chặn ngang đường mà ở [3]. [1] Quách Phác [người thời Tây Tấn] nói: "Có người núi là bụng của Nữ Oa". [2] Quách Phác nói: "Nữ Oa là vị thần nữ mà làm vua thời xưa, mặt người thân rắn, trong một ngày biến bảy mươi lần, bụng của bà ấy hóa thành vị thần ấy. Túc Quảng là tên một cánh đồng. Oa, đọc là 'qua'". Kha [tức Viên Kha, người thời Dân quốc] xét: Quách chú: "Bụng của bà ấy hóa thành vị thần ấy", giống với quyển bảy mươi tám của sách Thái bình ngự lãm dẫn. Hữu thần thập nhân, danh viết Nữ Oa chi tràng [1], hóa vi thần, xứ Túc Quảng chi dã [2], hoàng đạo nhi xứ [3]. [1] Quách Phác vân: "Hoặc tác Nữ Oa chi phúc". [2] Quách Phác vân: "Nữ Oa, cổ thần nữ nhi đế giả, nhân diện xà thân, nhất nhật trung thất thập biến, kì phúc hóa vi thử thần. Túc Quảng, dã danh. Oa âm qua". Kha án: Quách chú: "Kì phúc hóa vi thử thần", Thái bình ngự lãm quyển thất bát dẫn đồng. 有神十人名曰女媧之腸化為神處栗廣之野橫道而處。  郭璞云「或作女媧之腹。」  郭璞云「女媧古神女而帝者人面蛇身一日中七十變其腹化為此神。栗廣野名。媧音瓜。」珂案郭注「其腹化為此神」藏經本腹作腸太平御覽卷七八引同。 [www.yasue.cc] 藝文類聚 Nghệ văn loại tụ 帝女媧氏 Đế Nữ Oa thị Đế Vương thế kỉ [của Hoàng Phủ Mật thời Tây Tấn soạn] chép: Đế Nữ Oa thị, cũng thuộc dòng Phong tính, làm ra lưỡi khèn, còn gọi là Nữ Hi, đấy là Nữ Hoàng. Vào thời cuối chư hầu là Cộng Công thị dùng việc giết chóc gây bạo, làm bá mà chẳng làm vua. Đế Vương thế kỉ viết: Đế Nữ Oa thị, diệc Phong tính, tác sinh hoàng, diệc xà thân nhân thủ, nhất viết Nữ Hi, thị vi Nữ Hoàng, kì mạt chư hầu Cộng Công thị, nhậm trí hình dĩ cường, bá nhi bất vương. 帝王世紀曰帝女媧氏亦風姓也作笙簧亦蛇身人首一曰女希是為女皇其末諸侯共工氏任知刑以強伯而不王 [zh.wikisource.org] 独异志 Độc dị chí 唐 李亢撰 Đường - Lí Kháng soạn Ngày xưa vào thời vũ trụ mới mở, chỉ có hai anh em Nữ Oa ở tại núi Côn Lôn mà thiên hạ chưa có người dân, bèn bàn nhau lấy làm vợ chồng, lại tự cho vậy là đáng hổ thẹn. Anh liền cùng em gái lên đỉnh núi Côn Lôn, người anh nói: "Nếu trời sai hai anh em ta làm vợ chồng thì đám mây kia tụ lại; nếu không sai thì đám mây kia tan ra". Do đó đám mây liền tụ lại, em gái liền đến chỗ anh, rồi buộc cỏ làm quạt để che mặt. Người thời nay lấy vợ thì cầm quạt là bắt chước việc ấy vậy. Tích vũ trụ sơ khai chi thì, chỉ hữu Nữ Oa huynh muội nhị nhân tại Côn Lôn sơn, nhi thiên hạ vị hữu nhân dân, nghị dĩ vi phu thê, hựu tự sai xỉ. Huynh tức dữ kì muội thượng Côn Lôn sơn, huynh viết: "Thiên nhược khiển ngã huynh muội nhị nhân vi phu thê nhi yên tất hợp; nhược bất sử, yên tán". Vu thị yên tức hợp, kì muội tức lai tựu huynh, nãi kết thảo vi phiến, dĩ chướng kì diện. Kim thì nhân thủ phụ chấp phiến, tượng kì sự dã. 昔宇宙初开之时只有女娲兄妹二人在昆仑山而天下未有人民议以为夫妻又自羞耻。兄即与其妹上昆仑山兄曰“天若遣我兄妹二人为夫妻而烟悉合若不使烟散。”于是烟即合其妹即来就兄乃结草为扇以障其面。今时人取妇执扇象其事也。 [book.guqu.net] 太平御览 Thái bình ngự lãm Tống - Lí Phưởng soạn 女娲氏 Nữ Oa thị Phong tục thông [của Ứng Thiệu thời Đông Hán soạn] chép: Người đời nói rằng vào thủa trời đất mới mở mang, bấy giờ chưa có người dân, Nữ Oa bèn lấy đất vàng để tạo ra con người, việc nhiều, sức chẳng thảnh thơi, bèn dẫn dây xuống trong bùn lầy để đưa lên làm thành con người. Cho nên người giàu có thì làm bằng đất vàng, người nghèo hèn tầm thường thì do dây kéo bùn lên làm ra vậy. Phong tục thông viết: Tục thuyết thiên địa khai tịch, vị hữu nhân dân, Nữ Oa chuyển hoàng tác nhân, kịch vụ, lực bất hạ cung, nãi dẫn thằng ư hoàn ni trung vu cử dĩ vi nhân. Cố phú quý giả hoàng thổ nhân dã, bần tiện phàm dung giả hoàn nhân dã. 《风俗通》曰俗说天地开辟未有人民女娲抟黄土作人剧务力不暇供乃引绳於縆泥中于举以为人。故富贵者黄土人也贫贱凡庸者縆人也。 [www.guoxue123.com] ____________________ Hình, tượng của Nữ Oa Thần Nông Thần Nông thị là một trong vị vua thời xa xưa của người Hoa Hạ, theo truyền thuyết là người phát minh ra nghề trồng trọt và làm thuốc chữa bệnh, ông ta từng nếm qua trăm loại cỏ, dạy người khác chữa bệnh và cày bừa. Cũng vì hai cống hiến trọng yếu ấy mà được người đời tôn xưng là "vị vua làm thuốc chữa bệnh", "vị vua trồng ngũ cốc", "vị vua đầu tiên trồng ngũ cốc", "vị vua lớn trồng trọt như thần", là vị thần coi giữ việc làm thuốc chữa bệnh và trồng trọt, không chỉ giúp đỡ việc trồng trọt thành công, người dân khỏe mạnh, mà còn được thầy thuốc, thầy chữa bệnh xem là vị thần bảo hộ. Theo truyền thuyết, Thần Nông thị có tướng mạo rất kì dị, thân thể gầy gò, thân thể ngoài bốn tay chân và đầu ra thì còn lại đều trong suốt, do đó thấy được nội tạng rõ ràng. Thần Nông thị từng nếm hết trăm loại cỏ, chỉ cần cỏ thuốc có độc thì nội tạng của ông ở trong bụng sẽ bị hiện ra màu đen. Do đó cỏ thuốc rất nhỏ nhưng đối với một bộ phận của thân người cũng có ảnh hưởng, vì thế dễ dàng biết được. Sau này, vì Thần Nông thị nếm uống rấy nhiều loại thuốc độc, chứa độc rất nhiều, cuối cùng mất mạng. Gần đây khảo cổ các di chỉ văn hóa Bùi Lí Cương, văn hóa Giả Hồ, khoảng vào 7.000 năm đến 10.000 năm trước, tại vùng đất Trung Nguyên lưu vực sông Hoàng Hà đã xuất hiện xã hội trồng trọt. Vì thời kì xa xưa chưa có chữ viết hoàn chỉnh, cho nên phần lớn là truyền thuyết tai miệng truyền chau. Nhưng có có không ít truyền thuyết liên quan đến Thần Nông thị. Cũng có sách cũ dùng hình thức thần thoại đề cập đến một số sự việc về Thần Nông thị: Dịch kinh - Hệ từ: "Thần Nông thị nổi lên, chặt gốc làm cái cuốc, đẽo gỗ làm cái cày, nêu rõ cái lợi của cày cuốc để dạy thiên hạ". Bạch hổ thông: "Người thời xưa đều ăn thịt cầm thú. Đến thời Thần Nông, người dân đông nhiều, cầm thú không đủ, đến đây Thần Nông dựa vào thời tiết của trời, chia lợi ích của đất, tạo ra cày cuốc, dạy dân trồng trọt". Thái bình ngự lãm dẫn Chu thư: "Thần Nông trồng trọt và làm ra đồ gốm". Sử kí - Bổ tam hoàng bản kỉ: "Thần Nông bắt đầu nếm trăm loại cỏ, bắt đầu làm thuốc chữ bệnh". Thế bản: "Thần Nông trộn thuốc cứu người". Hoài Nam Tử: "Nếm nị ngon của trăm loại cỏ, vị ngọt đắng của sông suối... một ngày mà nếm qua bảy mươi vị độc". Dạy dân trồng trọt Tương truyền là Thần Nông phát minh ra cách thức trồng trọt, ông sai trăm họ thu nhặt các loại lúa, sau đó gieo trên ruộng đất đã được khai khẩn. Tứ đó trăm họ liền noi theo cách ấy mà trồng trọt ngũ cốc, tên gọi Thần Nông thị có gốc như thế. Phát minh cày cuốc Thần Nông thị bắt đầu làm ra cày cuốc bằng gỗ, được cho là người đầu tiên phát minh ra nghề nông. Nếm trăm loại cỏ Tương truyền Thần Nông thị để phân biệt các loại cỏ thuốc, liền tự mình nếm qua, sau đó nếm thử một loại cỏ thuốc có độc mạnh mà không có cách gì giải độc được, cuối cùng hi sinh tính mạng. Thần Nông thị có một cái roi thần, dùng để giã các loại hoa cỏ, biết được đặc tính thuốc, độc, nóng, lạnh của hoa cỏ. Theo truyền thuyết, loại cỏ thuốc độc mạnh là "cỏ cắt ruột". Phát minh đồ gốm Thần Nông thị còn phát minh đồ gốm, đồ gốm xuất hiện cùng thời với nghề nông, được xem là một sáng tạo lớn sau khi biết dùng lửa. Dòng dõi của Thần Nông Tương truyền vào thời Viêm - Hoàng, Viêm Đế và Hoàng Đế đều là dòng dõi của Thần Nông thị, hai bộ lạc liên hợp hình thành dân tộc Hoa Hạ Viêm Đế bị Hoàng Đế đánh bại, Hoàng Đế làm thiên tử, một phần bộ lạc của Viên Đế rời khỏi lưu vực sông Hoàng Hà. Xi Vưu cũng là dòng dõi của Thần Nông thị, sau khi bộ lạc của Xi Vưu thua trận ở lưu vực sông Hoàng Hà, một phần nhập vào bộ lạc của Hoàng Đế, một phần chuyển về phía nam, sau lại sang phía tây. Ở vùng Ngạc, Tương, Quý đều có người Miêu sinh sống, là dòng dõi của Xi Vưu, vì tổ tiên làm nghề nông, cho nên có tên ấy. Xi Vưu là dòng dõi của Thần Nông thị, trình độ văn minh của bộ lạc của Xi Vưu vốn tương đối cao, chỉ vì sau khi thua trận mà dòng dõi phải chuyển cư ở vùng núi non xa cách, lâu ngày văn hóa đều không tiến bộ, lại thoái hóa, trở thành dân ở ngoài vòng giáo hóa. Chỗ ở của Thần Nông Tương truyền Thần Nông thị sinh ra ở núi Liệt Sơn, có người dựng "nhà cũ của Thần Nông" ở động Thần Nông tại núi Liệt Sơn thuộc thị trấn Lệ Sơn, cách phía bắc thành phố Tùy Châu tỉnh Hồ Bắc 40 km. "Nhà cũ của Thần Nông", có dựng hai chỗ ở động Thần Nông (một chỗ là cất giữ thóc lúa cỏ thuốc, một chỗ là nhà ở), còn có đình Thần Nông, tháp Thần Nông, miếu Thần Nông; ở phía nam núi dựng phòng trà Thần Nông, vườn hoa Thần Nông, đình Cửu Long và phía bắc núi có làm mấy chục chỗ như vườn trồng các loài cỏ, ao tắm của mẹ của Thần Nông là bà An Đăng. Vùng núi phía tây của tỉnh Hồ Bắc cũng có một chỗ gọi là "giá Thần Nông", cũng có quan hêh với Thần Nông thị, vì theo truyền thuyết Thần Nông thị từng từng đến chỗ ấy đặt giá làm thuốc. Động Thần Nông và bia Thần Nông Rời khỏi thành phố Tùy Châu 55 km đến trên núi Liệt Sơn, trong động vốn có bàn đá, ghế đá, bát đá và giường đá, theo truyền thuyết là đồ vật mà Thần Nông dùng. Núi Liệt Sơn còn có kiến trúc cổ như giếng Thần Nông, nhà Thần Nông, gác Thần Nông. Phía bắc thị trấn Lệ Sơn có một tấm bia "Viêm Đế Thần Nông thị", còn giữ được đến ngày nay. Từ ngữ chủ yếu 神農氏 Thần Nông thị: họ Thần Nông, ông Thần Nông, có nghĩa là "người làm nông giỏi như thần". 裴李岗文化 Bùi Lí Cương văn hóa: văn hóa Bùi Lí Cương là nền văn hóa thời kì đồ đá mới, niên đại: 9.000 - 7.000 năm trước, di chỉ tại thôn Bùi Lí Cương - thành phố Tân Trịnh - tỉnh Hà Nam - Trung Quốc mà có tên ấy. Con người thời này đã biết trồng cây lúa tắc (còn gọi là lúa khô, tiểu mễ) và chăn nuôi heo, bắt đầu biết làm đồ gốm. 贾湖文化 Giả Hồ văn hóa: văn hóa Giả Hồ là nên văn hóa thời kì đồ đá mới, niên đợi: muộn hơn văn hóa Bùi Lí Cương một chút, di chỉ tại thôn Giả Hồ - cách phía tây bắc thị trấn Vũ Độ - huyện Vũ Dương - thành phố Tháp Thị - tỉnh Hà Nam - Trung Quốc 1.5 km. Biết trồng lúa tắc, lúa nước, nấu rượu từ gạo, nho, làm sáo từ xương thú, khắc phù hiệu... Phả hệ của Viêm Đế Thần Nông thị - Đời thứ nhất là Thần Nông thị: gọi là Viêm Đế, Cũng gọi là Xích Đế, Liệt Sơn thị, sinh tại bờ sông Khương (một dải thành phố Bảo Kê - tỉnh Thiểm Tây - Trung Quốc ngày nay) hoặc ở núi Liệt Sơn (thành phố Tùy Châu - tỉnh Hồ Bắc ngày nay) cách nay khoảng hơn 4.000 năm. Lúc chết táng tại Trường Sa (tỉnh Hồ Nam ngày nay). Hậu duệ nổi danh là Hoàng Đế Hữu Hùng thị, Xi Vưu, Cộng Công, Bá Di. - Đời thứ hai là Đế Khôi: là con cả của Thần Nông thị, làm vua 80 năm. - Đời thứ ba là Đế Thừa: làm vua 60 năm. - Đời thứ tư là Đế Minh: làm vua 49 năm. - Đời thứ năm là Đế Trực: làm vua 45 năm. - Đời thứ sáu là Đế Lai: làm vua 48 năm. - Đời thứ bảy là Đế Ai: làm vua 42 năm. - Đời thứ tám là Đế Du Võng: làm vua 55 năm. Bị Hoàng Đế Hữu Hùng thị đánh bại, mất ngôi thủ lĩnh. - Đời thứ chín tên là Khí: con của Đế Du Võng. - Đời thứ mười tên là Chúc Dung: con của Khí, lúc chết được táng ở núi Hành Sơn (thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay). - Đời thứ mười một tên là Thuật Hiêu: con của Chúc Dung. - Đời thứ mười hai tên là Câu Long: con của Thuật Hiêu. - Đời thứ mười ba tên là Thùy: con của Câu Long. - Đời thứ mười bốn tên là Cộng Công: tranh ngôi vua với Chuyên Húc không được, húc đầu vào núi Bất Chu. - Đời thứ mười lăm tên là Bá Di: giúp vua Nghiêu coi giữ bốn ngọn núi lớn, giúp vua Vũ trị thủy, xét công được phong ở ấp Lữ, trở thành tổ tiên của họ Lữ. Khương thái công Lữ Thượng là hậu duệ. Trận đánh ở cánh đồng Trác Lộc Theo truyền thuyết, Viêm Đế là thủ lĩnh của bộ lạc họ Khương thời xưa. Tương truyền mẹ của ông tên là Nữ Đăng, một lần đi chơi ở phía nam núi Hoa, bị rồng thần quấn lấy thân, cảm ứng mà có thai, sinh ra Viêm Đế tại hang đá ở núi Liệt Sơn, thân người đầu bò, trên đầu có sừng, lớn lên ở bên sông Khương, có thánh đức, dựa vào hỏa đức mà làm vua, cho nên gọi là Viêm Đế. Lúc đầu bộ lạc của Viêm Đế sinh sống ở lưu vực sông Khương, sau đó đi vào giữa lưu vực sông Hoàng Hà, nảy sinh xung đột nhiều lần với bộ lạc Cửu Lê. Bấy giờ là thời Viêm Đế tên là Du Võng, thủ lĩnh của bộ lạc Cửu Lê tên là Xi Vưu, cũng là dòng dõi của Thần Nông thị, thân thú mặt người, đầu đồng chân sắt, trên tai mọc lông cứng như đao kiếm, có thể ăn được sỏi đá, lấy một số loài thú dữ làm vật tổ, có 81 thị tộc, là bộ lạc dũng mãnh thiện chiến. Xi Vưu đuổi Viêm Đế đế cánh đồng Trác Lộc (lưu vực sông Tang Can phía tây bắc tỉnh Hà Bắc ngày nay), Viêm Đế bèn đến chỗ Hoàng Đế cầu cứu, đánh Xi Vưu ở Trác Lộc. Hoàng Đế đánh bại Xi Vưu, được bầu làm thiên tử. Giới sử học còn theo một truyền thuyết khác, bấy giờ cuối thời Thần Nông thị suy yếu, Viêm Đế tên là Du Võng không hiệu lệnh được chư hầu, Hoàng Đế bắt đầu nuôi dưỡng lực lượng, đánh bại Du Võng ở Bản Tuyền. Sau đó Xi Vưu không thần phục, lại đánh Xi Vưu ở Trác Lộc, thống nhất chư hầu. Có một thông tin có liên quan tới dân Lạc Việt mà Lí tiên sinh chưa đề cập. Đó là Viêm Đế Lăng ở huyện Viêm Lăng, thuộc Chu Châu thị, tỉnh Hồ Nam 湖南省株洲市炎陵县. Nằm ở khoảng giữa lưu vực sông Tương, xưa được gọi là "cổ Lạc Việt chi địa", xem thông tin ở đây: [www.12edu.cn] Vùng này mãi đến cuối thời Chiến Quốc mới thuộc về nước Sở, lúc Khuất Nguyên (屈原 340 TCN - 278 TCN) bị đầy đến đất này thì vùng này vẫn còn bị coi chỗ rừng rú man di. Bản thân người Sở lúc đầu lập quốc cũng không nhận mình là "Hoa hạ", vua Sở Hùng Cừ từng nói: "Ta là dân man, ta không chịu nhận thụy hiệu của vua nhà Chu" Như vậy hơn hai ngàn năm lăng Viêm Đế ở trên đất Lạc Việt thì thị tộc nào đã giữ gìn coi sóc nó ? Hay có một nhóm người Hán giữ vùng lăng này hơn 2 ngàn năm, lọt vào giữa các nhóm Lạc Việt ? họ nói ngôn ngữ gì, phong tục tập quán có gì khác với dân lạc Việt không ? Lại thêm chuyện Tang Cung trong Hậu Hán thư cho biết người Lạc Việt từng cư trú ở huyện Trung Lư (nay là Nam Chương), lỵ phủ là Tương Dương - Phàn Thành, chỉ cách Liệt Sơn, quê hương Thần Nông khoảng 60km đường chim bay. Đây có phải là chuyện tình cờ không ? Đồng ý rằng Lạc Việt có nhiều nhóm tộc, nhưng tộc lớn nhất là Kinh tộc, gần gấp đôi tất cả các nhóm tộc kia cộng lại. Trong các nhóm tộc đó, ngoài Kinh tộc thì còn nhóm tộc nào có truyền thuyết tự xưng dòng dõi Thần Nông không ? Theo truyền thuyết Viêm Đế Thần Nông thị vì nếm phải cỏ độc mà chết, táng ở Trường Sa. Vậy thì nơi Thần Nông thị nếm phải cỏ độc là ở Trường Sa, cho nên táng ở đấy. Lăng ở đây hiểu theo nghĩa cổ là "gò đất lớn". Lăng Viêm Đế kể từ thời nhà Tống, năm Càn Đức thứ năm (năm 967 Công nguyên) cho "lập lăng miếu, làm tượng để tế", từ đó không ngừng tu sử mới có như ngày nay có tổng thể cả miếu, đền, đài, điện, bia, chùa... Khi chưa có sách vở chữ viết thì có "bia miệng". Những thị tộc, bộ lạc ở đất Tương đã làm cái bia miệng đó, để người đời sau biết rằng Viêm Đế đã mất và được táng ở đấy. Người Kinh và người Hán ra thì không một nhóm tộc nào thuộc Bách Việt nhận mình là dòng dõi Thần Nông cả. Bời vì những bộ lạc thuộc Bách Việt ấy dẫu thuộc vào bản đồ Trung Quốc từ thời Tần - Hán về sau, nhưng vẫn ở nơi rừng rú, không có Nho sĩ học theo văn hóa Tàu các Nho sĩ người Kinh từ thời Lí - Trần - Lê. Bản đồ khái quát cương vực thời kì đồ đá mới ở Trung Quốc 新石器時代 Thời kì đồ đá mới 公元前 6000 裴李崗文化誕生遺址在今河南北部 Năm 6000 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ ở phía bắc tỉnh Hà Nam ngày nay 公元前 5100 紅山文化誕生遺址遍佈遼河流域北部。 Năm 5100 TCN Khai sinh văn hóa Bùi Lí Cương, di chỉ phổ biến ở phía bắc lưu vực sông Liêu 公元前 5000 仰韶文化、北辛文化、河姆渡文化相繼誕生遺址分布於黃河流域及長江下游。 Năm 5000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Ngưỡng Thiều, văn hóa Bắc Tân, văn hóa Hà Mẫu Độ kế tiếp nhau, di chỉ phân bố ở lưu vực sôn Hoàng Hà và hạ du sông Trường Giang 公元前 4500 馬家窯文化誕生遺址在長江三角洲。 Năm 4500 TCN Khai sinh văn hóa Mã Gia Diêu, di chỉ ở vùng tam giác châu sông Trường Giang 公元前 4000 大汶口文化、大溪文化相繼誕生遺址分布於黃河下游及長江中游。 Năm 4000 TCN Khai sinh các nền văn hóa Đại Vấn Khẩu, văn hóa Đại Khê văn kế tiếp nhau, di chỉ phân bố ở dụ du sông Hoàng Hà và trung du sông Trường Giang 公元前 3000 屈家嶺文化、石峽文化誕生遺址分別在今湖北及廣東境內。 Năm 3000 TCN Khai sinh văn hóa Khuất Gia Lĩnh, văn hóa Thạch Hiệp, di chỉ phân bố ở các tỉnh Hồ Bắc và Quảng Đông ngày nay 公元前 2600 龍山文化誕生遺址遍佈於黃河流域中國古史傳說的黃帝時代開始。 Năm 2600 TCN Khai sinh văn hóa Long Sơn, di chỉ phân bố ở lưu vực sông Hoàng Hà; mở ra thời kì Hoàng Đế truyền thuyết cổ sử Trung Quốc 公元前 2500 良渚文化誕生遺址在今浙江及江蘇南部境內。 Năm 2500 TCN Khai sinh văn hóa Lương Chử, di chỉ ở các tỉnh Chiết Giang và phía nam tỉnh Giang Tô ngày nay 新石器時代 Thời đại đồ đá mới Thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc (khoảng 3500 - 1500 TCN) bắt đầu có xuất hiện một số xã hội nông nghiệp, bởi vì con người thời kì này theo đuổi việc làm nghề trồng trọt và chăn nuôi, tương đối giữ gìn được tính ổn định, do đó cởi bỏ được sức lao động trong xã hội để theo đuổi hoạt động công nghệ, khiến cho văn hóa phát triển nhanh chóng. Di chỉ thời kì đồ đá mới phát hiện được ở Trung Quốc rất nhiều, các vùng trong cả nước đều có phát hiện, theo đó mà nói thì phân bố chủ yếu ở xung quanh lưu vực sông Hoàng Hà. Bấy giờ khí hậu ở vùng sông Hoàng Hà có ẩm ướt ấm áp hơn so với ngày nay, rừng cây sum suê, có nhiều loài động vật hoang dã, hồ và đầm ao có khắp miền bắc Trung Quốc. Cây trồng chủ yếu ở thời kì đồ đã mới là lúa tắc, lúa nếp; đồ vật đại biểu là đồ gốm. 仰韶文化(公元前4000年-前2000年) Văn hóa Ngưỡng Thiều (năm 4000-2000 TCN) Vì phát hiện sớm nhấy ở di chỉ thôn Ngưỡng Thiều - huyện Yểm Trì - tỉnh Hà Nam mà có tên ấy, là văn hóa giữa thời đại đồ đá mới. Một phái cho rằng tiền thân của văn hóa Ngưỡng Thiều là văn hóa Lão Quan Đài, văn hóa Lí Gia Thôn, Văn hóa Từ Sơn, văn hóa Bùi Lí Cương. Văn hóa Ngưỡng Thiều phân bố chủ yếu ở trung tâm vùng đất Trung Nguyên nơi hội tụ của lưu vực sông Hoàng Hà là các nhánh sông Vị, sông Phân, sông Lạc. Nền móng ở cùng tây bắc và miền Quan Trung có văn hóa đặc trưng không giống nhau, lại chia thành văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Trung Nguyên và văn hóa Ngưỡng Thiều ở vùng Cam Túc. 紅山文化 (公元前4000年-前3000年 ) Văn hóa Hồng Sơn (năm 4000-3000 TCN) Di chỉ ở thành phố Xích Phong - tỉnh Nội Mông Cổ, là văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở phía đông nam tỉnh Nội Mông Cổ, phía tây tỉnh Liêu Ninh, phía bắc tỉnh Hà Bắc. Phát hiện khá nhiều đồ vật làm bằng ngọc, không có nhiều các loại đồ gốm nhưng có vẻ đặc trưng. 馬家窯文化( 公元前3300年-前2650年) Văn hóa Mã Gia Diêu (năm 3300-2650 TCN) Vì phát hiện ở thôn Mã Gia Diêu - huyện Lâm Thao - tỉnh Cam Túc mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu tại vùng thượng du sông Hoàng Hà. 良渚文化(公元前3300年-前2200年) Văn hóa Lương Chử (năm 3300 - 2200 TCN) Vì phát hiện ở thị trấn Lương Chử - huyện Dư Hàng - tỉnh Chiết Giang mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới, phân bố chủ yếu ở vùng Thái Hồ. Đồ gốm đặc trưng là đồ gốm màu đen, chế tác sáng đẹp. Đồ ngọc điêu khác cũng tinh xảo, có nhiều chủng loại. 山東龍山文化(公元前2500年-前2000年 Văn hóa Long Sơn - tỉnh Sơn Đông (năm 2500 - 2000 TCN) Vì phát hiển ở thị trấn Long Sơn - huyện Chương Khâu - tỉnh Sơn Đông mà có tên ấy, thuộc văn hóa cuối thời đại đồ đá mới. Phân bố chủ yếu ở giữa và phía đông tỉnh Sơn Đông, vùng phía bắc sông Hoài của tỉnh Giang Tô. Cư dân ở đây lấy việc trồng cây lúa tắc trên ruộng khô, chăn nuôi các loài gia súc như heo, bò, dê, chó và đánh bắt cá là chủ yếu. Kế thừa kĩ thuật chế tác đồ gốm của văn hóa Đại Vấn Khẩu, chế tác thành đồ gốm màu đen, vỏ gốm sáng mỏng như vỏ trứng. Ta nên chú ý, thời đại Thần Nông thị cho đến thời vua Nghiêu-Thuấn còn là thời đại đồ đá mới, dùng công cụ bằng đồ đá và đồ gốm; con người dẫu đã định canh định cư trồng trọt nhưng về quản lí xã hội (nhà nước) là chưa có chặt chẽ, nếu không muốn nói chưa có nhà nước, tức là chưa có chữ viết và con ngựa. Vậy thì làm gì có tri thức chính trị này kia? Cùng lắm chỉ là những kinh nghiệm mắt thấy tai nghe rồi truyền miệng cho nhau theo lối "thắt gút" mà thôi. Chuyện di cư vì chiến tranh hay chính trị thời xưa rất ít, mà có thì cũng chẳng đi được bao xa, bởi vì phương tiện không có (xe ngựa, thuyền lớn và quan trọng là con đường), chưa kể thời ấy đất rộng người thưa, nhiều vùng đồng bằng chưa được khai phá, rừng rậm, ao hồ và thú dữ còn nhiều, dễ làm "chùn bước" của những đoàn di dân. Chuyện dòng dõi Thần Nông là Lạc Long Quân chạy xuống Ngũ Lĩnh rồi Việt Nam là khó xảy ra. Họ không có động cơ để chạy xa như thế. Bấy giờ Hoàng Đế đánh Xi Vưu ở Trác Lộc (thuộc miền Hà Bắc), một bộ phận người Cửu Lê phải thiên di về phía nam, vượt sông Hoài, đến thời nhà Chu, ở vùng sông Hoài vẫn có nhóm dân gọi là 淮夷 Hoài Di, xa hơn chỉ đến vùng hồ Động Đình và hồ Bà Dương. Vào thời vua Thuấn, người Miêu ở đây làm loạn, vua Thuấn đi dẹp, chỉ đến núi Cửu Nghi mà thôi. Thực ra, theo truyền thuyết chép trong Lĩnh Nam chích quái, chẳng có cái gọi là "thiên di" về chiến tranh hay chính trị gì cả. Câu chuyện chỉ giải thích nguồn gốc dân Bách Việt là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ sau khi sinh 100 trứng và sự thành lập nước Văn Lang. Câu chuyện này chỉ là thần thoại có chủ ý của một nhóm tác giả Hán học từ thời Lí Trần về sau mà thôi. Nó hoàn toàn vô lí và không có cơ sở, nó phủ nhận hoàn toàn văn minh của người bản địa là do người bản địa tạo dựng từ sớm, ít ra cũng ngang ngửa với thời đại Thần Nông ở lưu vực sông Dương T 中國新石器時代文化遺址分布示意圖 Bản đồ biểu thị phân bố di chỉ văn hóa thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc Bàn Cổ - Nữ Oa - Thần Nông Dịch giả: Lý Nhĩ Chân 中國舊石器時代考古遺址分布圖 Bản đồ phân bố di chỉ khảo cổ thời đại đồ đá cũ ở Trung Quốc [hk.chiculture.net] Người đứng thẳng 元謀人  約公元前170萬年 Người Nguyên Mưu khoảng 170 vạn năm TCN 藍田人  約公元前80 萬 - 前50萬年 Người Lam Điền khoảng 80 - 50 vạn năm TCN 北京猿人  約公元前50 萬 - 前20萬年 Người vượn Bắc Kinh khoảng 50 - 20 vạn năm TCN 大洞文化  約公元前30 萬年 Đại Động văn hóa khoảng 30 vạn năm TCN 金牛山人  約公元前28 萬年 Người Kim Ngưu Sơn khoảng 28 vạn năm TCN Người tinh khôn thời kì sớm 大荔人  約公元前20 萬年 Người Đại Lệ khoảng 20 vạn năm TCN 馬壩人  約公元前20 萬 - 10萬年 Người Mã Bá khoảng 20 - 10 vạn năm TCN 丁村人  約公元前12 萬年 Người Đinh Thôn khoảng 20 - 10 vạn năm TCN Người tinh khôn thời kì muộn 柳江人  約公元前5 萬年 Người Liễu Giang khoảng 5 vạn năm TCN 河套人  約公元前5 - 前3.7萬年 Người Hà Sáo khoảng 5 - 3.7 vạn năm TCN 下川文化  約公元前3.6 萬 - 前1.3萬年 Văn hóa Hạ Xuyên khoảng 3.6 - 1.3 vạn năm TCN 山頂洞人  約公元前1.8 萬年 Người Sơn Đính Động khoảng 1.8 vạn năm TCN Bổ sử kí Tam hoàng bản kỉ (Đường - Tư Mã Trinh soạn chú) Tiểu Tư Mã thị [1] nói: Thái sử công soạn Sử kí, chép những việc thích đáng của vua tôi, những việc từ thủa khai tịch đến đương đại, cho là trước sau một nhà. Nay bỏ Tam hoàng mà lấy Ngũ đế làm đầu, đấy là vì Đại Đái lễ có Ngũ đế đức biên, lại vì các thế hệ của Đế vương đều theo thứ tự từ Hoàng Đế về sau, cho nên lấy Ngũ Đế bản kỉ làm đầu. Thật ra, thời Tam hoàng về trước, sách vở ít chép. Nhưng cái gốc của vua tôi, cái nguồn của giáo hóa, đã được bàn đến trong sử xưa, nhưng cũng không trọn vẹn. Gần đây, Hoàng Phủ Mật soạn Đế vương thế kỉ, Từ Chỉnh soạn Tam ngũ lịch, đều luận các việc từ thời Tam hoàng về sau. Đấy cũng là một bắng chứng của thời xưa, nay chọn mà tập hợp lại soạn thành Tam hoàng bản kỉ, dẫu còn nông cạn, nhưng tạm bổ khuyết vậy. Thái Hạo Bào Hi thị, họ Phong, thay Toại Nhân thị, theo trời mà làm vua. Mẹ là Hoa Tư, dẫm vào vết chân của người lớn [2] ở Lôi Trạch mà sinh ra Bào Hi ở Thành Kỉ. Thân rắn đầu người. Xét: Phục Hi họ Phong, được chép ở Quốc ngữ. Từ đoạn chép về Hoa Tư về sau xuất từ Đế vương thế kỉ. Còn Lôi Trạch là tên đầm, là chỗ mà vua Thuấn bắt cá, tại huyện Tế Âm. Thành Kỉ cũng là tên đất. Xét quận Thiên Thủy có huyện Thành Kỉ. Có thánh đức, ngẩng thì xem tượng ở trời, cúi thì xét hình ở đất, bên thì nhìn vết chân của chim thú, theo cái quy luật của trời đất. Gần thì tìm ở mọi người, xa thì tìm ở các vật, bắt đầu vẽ ra bát quái để thông cái đức của thần linh, để biết cái tính của vạn vật. Tạo thư khế [3] để thay lối thắt gút. Do đó bắt đầu định ra phép cưới hỏi, lấy da hươu làm lễ. Xét: Cổ sử khảo của Tiếu Chu chép: Phục Hi đặt ra phép cưới hỏi, lấy da hươu làm lễ. Kết lưới võng để dạy dân bắt cá, cho nên gọi là Mật Hi thị. Xét: Việc này xuất từ Hán thư - Lịch chí. Mật, đoc là 'phục'. Lấy nhà bếp dể nuôi gia súc, cho nên gọi là Bào Hi. Có điềm rồng, lấy rồng để đặt tên quan coi việc, gọi là Long sư. Làm ra cây đàn sắt có ba mươi lăm dây. Vua của mộc đức, chủ mùa xuân, cho nên Dịch chép là 'đế xuất ở quẻ chấn'. Trong chương Nguyệt lệnh - Mạnh xuân là Đế Thái Hạo vậy. Xét: Làm vua ở miền đông, nhìn sự sáng rỡ của Mặt trời, cho nên gọi là Thái Hạo. Hạo là sáng rỡ vậy. Đóng đô ở đất Trần, đến phía đông phong thiện ở núi Thái Sơn, làm vua một trăm mười một năm thì bằng. Xét: Hoàng Phủ Mật nói Phục Hi được táng ở Nam Quận, có người nói mộ ở phía tây huyện Cao Bình quận Sơn Dương. Dòng dõi ở vào thời Xuân thu là vua của các nước Nhâm, Túc, Tu, Câu, Chuyên Du, đều là con cháu họ Phong. Nữ Oa thị cũng họ Phong, thân rắn đầu người, có đức thần thánh, thay Mật Hi mà làm vua, hiệu là Nữ Hi thị. Không có sáng tạo gì ngoài làm ra khèn sinh hoàng,Xét: Lễ kí - Minh đường và Hệ bản đều chép Nữ Oa làm ra khèn hoàng. cho nên Dịch không chép, không nối theo ngũ hành. Có người nói Nữ Oa cũng là vua của mộc đức, có lẽ là dòng dõi của Mật Hi đã qua được mấy đời rồi. Kim mộc luân chuyển một vòng lại về lúc đầu. Nêu riêng Nữ Oa ở đây là vì có công cao, xếp vào Tam hoàng, cho nên là vua của mộc đức vậy. Vào cuối thời ấy, chư hầu là Cộng Công thị dùng trí hình, làm việc cường bạo mà không theo phục. Lấy thủy thay mộc, bèn đánh với Chúc Dung, không thắng mà giận, rồi húc đầu vào núi Bất Chu, núi lở, cột trời gãy, mạch đất sụt. Nữ Oa bèn luyện đá năm màu để vá trời, chặt chân con ngao [4] để dựng bốn cột, tụ cây lau để ngăn nước lụt, để giúp Kí châu. Xét việc này xuất từ Hoài Nam Tử. Do đó đất bằng trời tròn, không đổi vật cũ. Nữ Oa thị mất, Thần Nông thị thay. Xét: Những người chép về Tam hoàng không giống nhau. Tiếu Chu lấy Toại Nhân là hoàng. Tống Quân lấy Chúc Dung là hoàng. Trịnh Huyền dựa theo Xuân thu vĩ lấy Nữ Oa là hoàng, thay Phục Hi. Hoàng Phủ Mật cũng như thế. Nay tôi theo đó mà nói. Viêm Đế Thần Nông thị, họ Khương, mẹ là Nữ Đăng, con gái của Hữu Oa thị, làm vợ của Thiếu Điển. Cảm rồng thần mà sinh ra Viêm Đế, thân người đầu bò, lớn lên ở bên sông Khương, nhân đó đặt làm họ. Xét: Quốc ngữ chép: Viêm Đế, Hoàng Đế đều là con của Thiếu Điển, mẹ của họ đều là con gái của Hữu Oa thị. Xét các sách và Cổ sử khảo, từ thời Viêm Đế về sau cả thảy là tám đời, được hơn năm trăm năm, đến đây Hiên Viên thị nổi lên. Há có việc Viêm Đế, Hoàng Đế đều là anh em cùng hẹ sao? Hoàng Phủ Mật cho rằng Thiếu Điển, Hữu Oa thị là quốc hiệu của chư hầu, nhưng hai vua họ Cơ và Khương cùng xuất từ Thiếu Điển, vậy thì mẹ của Hoàng Đế chỉ là con gái đời sau của mẹ của Thần Nông thị, đều là con gái của Hữa Oa thị vậy. Là vua của hỏa đức, cho nên gọi là Viêm Đế. Lấy lửa để đặt tên quan coi việc. Đẽo gỗ làm quốc, chặt gỗ làm cày, làm các đồ cày cuốc để dạy muôn người. Vì dạy trồng trọt, cho nên gọi là Thần Nông thị. Do đó đặt ra lễ tế chạp, lấy roi đỏ để khoa cây cỏ. Bắt đầu nếm trăm loại cỏ, mới có thuốc chữa bệnh. Lại làm đàm sắt có năm dây. Dạy dân vào giữa ngày họp chợ, trao đổi xong thì về, đều đâu vào đấy. Rồi chồng bát quái đơn thành 64 quẻ. Lúc đầu đóng đô ở đất Trần, sau lại trú ở Khúc Phụ. Xét: Huyện Hoài Dương ngày nay có giếng Thần Nông. Lại theo Tả truyện chép nước Lỗ có kho của Đại Đình thị. Làm vua một trăm hai mươi năm thì băng, táng ở Trường Sa. Thần Nông vốn nổi lên ở núi Liệt Sơn, cho nên Tả thị gọi là con của Liệt Sơn thị gọi là Trụ, cũng gọi là Lệ Sơn thị có thiên hạ vậy. Xét: Trịnh Huyền nói: Lệ Sơn là chỗ Thần Nông sinh ra, cũng gọi là Liệt Sơn. Hoàng Phủ Mật nói: Lệ Sơn thuộc làng Lệ Hương huyện Tùy Châu ngày nay. Thần Nông thị lấy con gái của Bôn Thủy thị, gọi là Thính Bạt làm vợ, sinh ra Đế Ai, Đế Ai sinh ra Đế Khắc, Đế Khắc sinh ra Đế Du Võng, cả thảy tám đời, được năm trăm ba mươi năm thì Hiên Viên thị nổi lên. Xét: Từ thời Thần Nông về sau là tám đời, việc này thấy chép trong Đế vương thế kỉ và Cổ sử khảo. Nhưng sách cũ lại không chép. Huống cho hai họ Tiếu-Hoàng đều là người quân tử nổi danh thời trước, khảo xét sách cũ mà soạn? Há đến nay lại xuyên tạc sao? Cho nên tôi theo đó mà nói. Dịch chép là Thần Nông thị mất, tức Du Võng vậy. Du Võng cũng nối hiệu của Thần Nông. Dòng dõi có vua của các nước Châu, Phủ, Cam, Hứa, Hi, Lộ, Tề, Kỉ, Thai, Hướng, Thân, Lữ, đều là hậu duệ của họ Khương, đều làm chư hầu, hoặc chia ra làm Tứ nhạc. Vào thời nhà Chu có Phủ Hầu, Thân Bá, là Tướng quốc giỏi của nhà vua. Các nước Tề, Hứa xếp làm chư hầu, làm bá ở Trung Quốc. Có lẽ là vì đức của thánh nhân rộng lớn, cho nên hậu duệ được hưng thịnh lâu dài vậy. Có người nói Tam hoàng là Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng làm Tam hoàng. Vì vào buổi đầu khai tịch, mới có vua tôi. Điều mà các sách xưa chép, không nên bỏ hết, cho nên hợp vào đây theo trình tự. Trời đất mới lập, có Thiên Hoàng thị, thân có mười hai đầu. Đơn sơ chẳng làm gì cả mà tục tự hóa. Làm vua của mộc đức, tính năm kể từ sao Nhiếp đề. Có mười hai người anh em, mỗi vị đều sống đến một vạn tám nghìn tuổi. Có lẽ trời đất mới lập, có người thần xuất hiện hành hóa, cho nên niên đại lâu dài. Nhưng nói là có mười hai đầu, đấy chẳng phải là thân của một người có mười hai đầu vậy. Có lẽ là thời xưa sánh với số đầu của chim thú. Địa Hoàng có mười một đầu, làm vua của hỏa đức, có mười một người anh em, nổi lên ở các núi Hùng Nhĩ, Long Môn, mỗi vị cũng đều sống đến một vạn tám nghìn tuổi. Nhân Hoàng có chín đầu, cưỡi xe mây cắm sáu lông chim, ra từ cửa hang. Có chín anh em, chia ra làm vua của chín châu, đều dựng thành ấp, cả thảy một trăm năm mười đời, hợp lại là bốn vạn năm nghìn sáu trăm năm. Từ thời Thiên Hoàng về sau, đều chép ở Hà đồ và Tam ngũ lịch. Từ thời Nhân Hoàng về sau có Ngũ Long thị, Ngũ Long thị, có năm người anh em, cùng cưỡi rồng lên xuống, cho nên gọi là Ngũ Long thị Toại Nhân thị, Xét: Vua này dùi gỗ tạo ra lửa, dạy dân nấu chín đồ ăn, ở trước thời Phục Hi thị. Tiếu Cho lấy Toại Nhân làm đầu của Tam hoàng Đại Đình thị, Bách Hoàng thị, Trung Ương thị, Quyển Tu thị, Lật Lục thị, Li Liên thị, Hách Tư thị, Tôn Lô thị, Hồn Độn thị, Hạo Anh thị, Hữu Sào thị, Chu Tương thị, Cát Thiên thị, Âm Khang thị, Vô Hoài thị, đấy có lẽ là hiệu của những vị có được thiên hạ sau thời Tam hoàng, Xét: Hoàng Phủ Mật cho rằng từ thời Đại Đình thị về sau có mười lăm vị vua, đều nối hiệu Phục Hi. Việc này không thấy qua, khó mà dựa theo. Nhưng xét những vị vua từng phong thiện ở núi Thái Sơn, trước thì có Hữu Hoài thị là trước thời Thái Hạo; chẳng lẽ đúng như lời mà Mật nói? nhưng sách vở không chép, chẳng biết họ, niên đại, chỗ mà các vị ấy đóng đô. Nhưng Hàn thi cho rằng từ xưa có hơn vạn vị phong thiện ở đỉnh Lương Phủ núi Thái Sơn. Trọng Ni xem xét cũng không thể biết hết. Quản Tử cũng nói có bảy mươi hai vị phong thiện ở núi Thái Sơn. Di Ngô cũng nói là có mười hai vị. Lúc đầu thì có Vô Hoài thị, vậy thì trước thời Vô Hoài thị, từ thời Thiên Hoàng về sau, niên đại xa xăm, các Đế vương làm sao mà lên mà tế cáo được! Nhưng sách cổ đã mất, không thể luận được, há bảo là không có đế vương sao? Cho nên Xuân thi vĩ nói là từ thủa khai tịch rất là rực rỡ, cả thảy ba trăm hai mươi bảy vạn sáu nghìn tuổi, chia làm mười kỉ. Cả thảy chín đời, một vạn sáu trăm năm: một là kỉ Cửu Đầu, hai là kỉ Ngũ Long, ba là là Nhiếp Đề, bốn là kỉ Hợp Lạc, năm là kỉ Liên Thông, sáu là kỉ Tự Mệnh, bảy là lẻ Tu Phi, tám là kỉ Hồi Đề, chín là kỉ Chiến Thông, mười là kỉ Lưu Cật. Có lẽ kỉ Lưu Cật ứng vào thời Hoàng Đế, đặt ở trong chín kỉ , cho nên nên chép ở đây, bổ thêm vào vậy. [www.sidneyluo.net] ____________________ Chú thích: [1] Tiểu Tư Mã thị: tức Tư Mã Trinh tự gọi mình, nghĩa là người họ Tư Mã hèn kém. [2] Người lớn: chỉ người khổng lồ, to lớn khác thường. [3] Thư khế: một dạng chữ viết cổ theo lối tượng hình. [4] Con ngao: theo truyền thuyết là một con rùa lớn.
    1 like
  2. Hôm qua, tôi đi xem phong thủy cho một đại gia để ....bán nhà. Vào đến cái bếp, tôi hỏi: "Cái bếp này thân chủ xây từ bao giờ?". Trả lời: "Cùng lúc với cái nhà này". Tôi nói ngay: "Từ khi xây xong cái nhà này thân chủ làm ăn ngày càng sa sút và thu không đủ bù chi phải không?". Thân chủ tôi thừa nhận điều này. Thân chủ tôi Tây trạch, bếp quay hướng Tây Nam - biết ngay là phong thủy Tàu - vì sách Tàu bảo là hướng Khôn, Tây trạch. Đấy là chưa nói đến các yếu tố xấu khác còn nặng hơn cả hướng bếp sai. Tôi nói: "Nếu khi thân chủ chưa xây căn nhà này, tôi thiết kế đòi 100. 000. 000 VND, chắc sẽ chẳng ai làm phong thủy cả. Nhưng với tình trạng như bây giờ thì thấy nó rẻ, so với cả một sự nghiệp lớn sụp đổ". Ngày xưa, khi thiết kế cho Voka Men, Sự thành công đến sau vài năm. Sau đó có thể nói: tất cả các VPDD của Voka Men trên toàn quốc cho đến giờ này, tôi đều làm phong thủy. Khủng khoảng kinh tế toàn cầu là chuyện chung của thế giới, không phải của Voka Men và Tổng Cty điện tử phần mềm kỹ thuật DTT. Đây là hai Cty đồng ý cho tôi công bố đã tư vấn phong thủy Lạc Việt. Cũng có một số đại gia nhờ tôi, nhưng họ làm phong thủy theo phong trào và chẳng hiểu gì cả. Nên chỉ làm nửa vời, cái nào thấy sửa tốn kém thì không sửa. Tất nhiên chỉ ngáp ngáp được. Tư vấn cho ai, tôi cũng nói rõ: "Tôi làm theo Phong thủy Lạc Việt, không theo Phong thủy Tàu. Nếu không tin phong thủy Lạc Việt thì đi nhờ mấy ông phong thủy Tàu làm!" . Tôi không có thời gian để giải thích cho những thân chủ tư duy ve chai, lông vịt, hiểu được tính khoa học của PTLV, - Mựa! Đến giáo sư tiến sĩ lý thuyết khoa học hàng đầu, còn chẳng hiểu gì cả thì làm sao giải thích được cho những thân chủ chuyên kinh doanh này?! Ngoại trừ tôi mở một khóa học kéo dài chừng ít nhất một năm trực tiếp giảng dạy ở cấp Đại học, may ra theo tôi ngần ấy thời gian mới hiểu được vấn đề. Những đệ tử theo tôi đến sáu, bẩy năm mà tôi còn có lúc điên tiết. Vậy mà mấy tay kỹ sư kiến trúc, học phọt phet, cũng bày đặt tranh luận với tôi. Cầu thang thiết kế "nghịch Long hổ" tôi không đồng ý, cũng cãi sổ nho: "Tả Thanh Long", mà cầu thang là tượng con rồng - long - nên phải để bên trái từ trong nhà nhìn ra. Mẹ kiếp! Vậy cái nhà nghèo điếu có cầu thang thì "tả thanh Long" không có sao? Rồi cái cầu thang sơn màu trắng thì gọi là Kim long chứ Thanh cái con mựa gì? Vớ vẩn. Nhớ đến câu chuyện một kỹ sư kiến trúc nói với tôi: Trong trường thầy giáo dạy phong thủy nói: Lăng Lê Lợi theo hướng Bắc Nam, nhưng mộ Lê Lợi theo hướng Tây Bắc Đông Nam (Phúc đức trạch theo PTLV), theo Phong thủy Tàu là Họa Hại trạch - Giảng viên giải thích - Do cách đây 500 năm, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu, nên la bàn sai". Leo mựa! Khó chịu nhất là phải tranh luận với những cái đầu gạch không chịu tư duy.
    1 like