-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 12/10/2014 in all areas
-
Bước Ra Từ Huyền Thoại
ATN and 2 others liked a post in a topic by Minh Xuân
Cuốn sách BƯỚC RA TỪ HUYỀN THOẠI mới được in. Dưới đây là bài dẫn của cuốn sách này. Chi tiết hơn xin xem ở http://asakicorp.com/bachviet18/?p=845. BÁCH VIỆT TRÙNG CỬU DẪN LUẬN Lịch sử của quốc gia, của dân tộc không thuộc về riêng ai. Các sử gia chép sử, các nhà văn hóa mô tả sử…, còn nhân dân mới là những người làm nên lịch sử. Trong khi các sử gia thận trọng biên chép các sự kiện lịch sử theo quan niệm chính thống mỗi thời đại thì còn một dòng sử khác tồn tại song song, với sức lan tỏa rộng hơn, sinh động hơn. Đó là dòng sử trong dân gian, được lưu truyền qua các câu chuyện kể, các di tích, các di vật, các sự tích của các danh nhân địa phương… Truyền thuyết họ Hồng Bàng của người Việt kể rằng Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con trai, là tổ của Bách Việt. Cha Lạc Long dẫn 50 người con xuống khai phá vùng biển Đông. Mẹ Âu Cơ dẫn 50 người con lên rừng, về đất Phong Châu, lập con cả làm vua, gọi là Hùng Vương. Người Việt ngày nay là con cháu của trăm người con trai đó, tức là một phần của cả dòng họ, đồng bào Bách Việt xưa, cùng chung một nguồn cội họ Hùng. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ…”. Cương vực 15 bộ mênh mông của nước Văn Lang thời Hùng Vương, với Tây giáp Tứ Xuyên (Ba Thục), Bắc tới Hồ Nam (hồ Động Đình?), làm các sử gia nghi ngờ rằng đó là lãnh thổ của cả dòng Bách Việt chứ không chỉ của “nước Việt” ngày nay. Lãnh thổ Bách Việt đã trải khắp vùng Hoa Nam, rộng lớn không thể ngờ. Phạm vi nước Văn Lang thời Hùng Vương theo truyền thuyết Truyền thuyết từ thời cha sinh mẹ đẻ không sai. Chính sử Việt chép cũng không sai. Bởi vì đó là những thông tin, những ghi chép lịch sử của cả cộng đồng người Bách Việt còn lưu lại chứ không phải chỉ của nước Đại Việt vào thời Lê sau này. Nếu nhìn nhận các truyền thuyết lịch sử Việt tách rời khỏi không gian và thời gian mà nó hình thành sẽ dẫn đến những lệch lạc vô cùng lớn, làm cho những câu truyện truyền thuyết trở nên không thể hiểu nổi. Với “tầm nhìn thời đại” của các chuyên gia sử học ngày nay thì những chuyện “trâu ma rắn thần” của thời cổ sử bị biến thành không “chích quái” thì cũng là “u linh”, mờ ảo. Thế nhưng, quá khứ xa xôi của người Việt lại nằm chính ở những dòng huyền sử lắng đọng đó. Chối bỏ huyền sử tức là quay mặt lại với quá khứ, với tổ tiên nòi giống. Người Việt là một phần của đại tộc Bách Việt là điều thật rõ, rõ ngay từ cái tên gọi. Vì thế lịch sử Bách Việt cũng là lịch sử của người Việt. Sách Hán thư viết: “Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.” Bách Việt là một cộng đồng các dân tộc cùng nguồn gốc sinh sống ở phía Nam sông Dương Tử cho tới bán đảo Đông Dương từ thời trước Công nguyên. Về nhân chủng học thì Bách Việt là những cư dân thuộc loại hình Nam Mongoloid (Nam Á), trong đó bao gồm những nhóm dân tộc Tày Thái, Việt Mường, Môn – Khmer và cả Miêu Dao, phân bố ở Hoa Nam và Đông Nam Á ngày nay. Trung Quốc thời nay là một tập hợp các vùng lãnh thổ nơi mà trong quá khứ đã được sinh sống bởi những tộc người khác nhau. Con sông Dương Tử chia đại lục Trung Quốc thành 2 phần gần bằng nhau. Một nửa lãnh thổ Trung Quốc là đất người Bách Việt vào thời trước Công nguyên nên lịch sử Trung Hoa không thể không có những khoảng thời gian là lịch sử Bách Việt. Hơn thế nữa, một nửa phương Nam mới là nơi đã làm nên nền văn hóa Trung Hoa cổ đại rực rỡ. Những công trình xác nhận vai trò của văn hóa Bách Việt đối với nền văn minh Trung Hoa cổ xuất hiện ngày càng nhiều. Bắt đầu từ những bước lội ngược dòng của giáo sư Kim Định vào những năm 1970 chỉ ra những đóng góp to lớn của văn hóa Việt trong văn hóa Trung Hoa cổ. Hay gần đây hơn như công bố của giáo sư người Nga Dega Deopik, Viện các nước Á – Phi thuộc trường Đại học Tổng hợp quốc gia Matxcơva, cho rằng chủ nhân của nền văn minh Trung Hoa là người Môn – Khmer, tức là người Bách Việt. Cho tới nay, chính nghiên cứu của những nhà khoa học Trung Quốc tại vùng Lĩnh Nam cũng đang khẳng định điều này. Xem lại lịch sử Trung Hoa thời trung đại. Thế kỷ thứ 13 khi vó ngựa Mông Cổ tung hoành khắp đại lục Trung Hoa, nước Đại Lý, rồi Nam Tống của người Hoa lần lượt bị quân Nguyên thôn tính. Chỉ có nhà Trần trên đất Đại Việt – Giao Chỉ là kiên cường chống quân xâm lược. 3 lần đại thắng quân Nguyên của vua tôi nhà Trần không chỉ là chiến thắng của người Việt trước quân giặc phương Bắc mà còn là chiến thắng của cộng đồng Bách Việt trước sự bành trướng của ngoại tộc Thát Mông. Nhà Trần vốn xuất xứ từ vùng đất Mân Việt ở Phúc Kiến – Chiết Giang, là đất Trung Hoa, cũng là đất Bách Việt xưa. Xét vậy thì giữa nhà Trần và nhà Nguyên rõ ràng nhà Trần mới là Trung Hoa đích thực. Nhà Nguyên là triều đại của người Mông Cổ, không liên quan gì tới Trung Hoa cổ đại. Các vua Trần rồi vua Lê sau đó trong không ít thư tịch, văn bia để lại đã gọi quốc gia của mình là cõi Trung Hạ, Trung Quốc, thậm chí Hoa Hạ (xin xem các trích dẫn trong phần Quan niệm Hoa Di trong sách Ngàn năm áo mũ của Trần Quang Đức). Gần hơn nữa, có Nguyễn Huệ, tên thật là Hồ Thơm, người họ Hồ từ tổ tiên dòng Đế Thuấn nước Ngu của Trung Hoa cổ đại. Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa Càn Long nhà Thanh và vua Quang Trung ở thành Thăng Long thì rõ ràng triều đại của Quang Trung mới là người Trung Hoa chính gốc. Nhà Thanh là người Mãn Kim, không hề có dây mơ rễ má gì với Trung Hoa cả. Sang đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng lên ngôi, đoàng hoàng, công khai cho đúc Cửu đỉnh, là 9 chiếc đỉnh lớn tượng trưng cho vương quyền của Trung Hoa, đặt ở kinh thành Huế. Chiếu chỉ đúc đỉnh ghi rõ: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu…”. Những chiếc đỉnh được đúc theo gương “các minh vương thời Tam đại” (Hạ, Thương, Chu) này là minh chứng rõ ràng, triều Nguyễn mới là “thiên tử” chính truyền của Trung Hoa thời kỳ này. Truyền thuyết lịch sử Việt được chép trong Việt Điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là những thu nhặt chuyện kể trong dân gian từ thời Trần. Những câu đối, hoành phi trong các đền miếu ngày nay còn giữ lại được phần lớn là từ thời Nguyễn. Có vẻ niên đại của những minh văn này không đủ xa, đủ lâu so với những thư tịch chính sử… được mang từ bên Tàu về. Nhưng giá trị của những tư liệu dân gian này là ở chỗ nó không bị chỉnh lý bởi quan niệm sử chính thống hay bị bóp nặn theo ý đồ của ai đó. Những thần phả, thần tích địa phương ở nước ta được chép với quan điểm Trung Hoa – Bách Việt rõ ràng, bởi vì vào thời kỳ đó chỉ có Việt mới là Hoa thực thụ. “Trung Hoa” trong quá khứ là từ chung chỉ “thiên hạ” của các tộc người vùng Đông và Đông Nam Á. Trung Hoa xưa và Trung Quốc nay không phải là một. Trong số các dân tộc của Trung Quốc ngày nay thậm chí còn không có dân tộc “Hoa”, chỉ có Hán tộc mà thôi. Hoa không hề là Hán như vẫn người Tàu vẫn chú thích một cách vô căn cứ vì người Hoa là người Bách Việt, còn Hán là người Bắc Mongonloid, cùng dòng giống với người Liêu, người Kim, người Thát (Mông Cổ). Nhận định lịch sử Trung Hoa cổ đại là lịch sử Bách Việt mà người Việt ở nước Nam ngày nay là một bộ phận độc lập còn tồn tại cho phép giải mã được phần lớn các truyền thuyết lịch sử Việt. Đây không phải là “lấy sử Tàu làm ta”, bởi vì “sử Tàu” hay “sử ta” ngày nay chỉ là những cách chép sử với góc nhìn mang hạn chế của vùng lãnh thổ hiện tại vào thời điểm hiện tại. Nước Nam của thời đầu Công nguyên có lãnh thổ hoàn toàn không giống với nước Đại Việt thời Lê hay với nước Việt Nam thế kỷ 21 này. Những sự kiện, những nhân vật lịch sử nước Nam thời cổ và trung đại có tầm vóc, phạm vi vượt ra ngoài khuôn khổ lãnh thổ quốc gia ngày nay bởi đó là lịch sử ghi chép theo quan điểm dân tộc Bách Việt trên địa bàn của Trung Hoa rộng lớn. Lĩnh Nam chích quái là truyền thuyết của vùng Lĩnh Nam, tức là của cả vùng đất Bách Việt. Giải mã, đối chiếu truyền thuyết và lịch sử của nước Nam không thể chỉ hạn chế ở ranh giới Việt – Trung mới được định lại vào sau thời “Trung Hoa dân Quốc” của Tôn Trung Sơn (năm 1911). Từ đầu Công nguyên cột đồng phân giới giữa Trưng Vương và Mã Viện hoàn toàn có thể nằm ở tận Bắc Quảng Tây. Bảy quận nước Nam của Giao Châu thời Sĩ Nhiếp chẳng chừa vùng Lưỡng Quảng. Lưu Cung lập nước Đại Việt năm 917 không phải là trên vùng đất Nam Việt nhà Triệu xưa? Đó đều là lịch sử Việt cả. Thiên Nam ngữ lục, trường ca thơ sử bằng chữ Nôm cuối thế kỷ 17 là một kho tàng sử liệu cực kỳ quý giá đối với nghiên cứu lịch sử Việt. Tác phẩm có niên đại cùng thời Ngô Sĩ Liên chỉnh lý Đại Việt sử ký toàn thư. Bộ ngữ lục này được sáng tác bằng thơ, bằng chữ Nôm, nhưng không có nghĩa là “tùy tác”. Đây là một tác phẩm được soạn để dâng lên chúa Trịnh, là một cuốn chính sử hoàn toàn nghiêm túc như trong câu mở đầu tác phẩm đã nói: Trải xem sự kỷ nước Nam Kính vâng tay mới chép làm nôm na. Truyền thuyết, thơ sử lưu truyền ngày nay bị cho là có tính “thảng thốt” về lịch sử, bởi vì những gì được chép lại không giống với dòng sử bác học đang lưu hành. Không giống không có nghĩa là không đáng tin, đáng nghĩ. Những chỗ mà dòng sử dân gian vênh lệch so với sử hàn lâm chính là những chỗ lịch sử nước Nam cần phải xem xét lại, phải diễn giải lại cho đúng với không gian thời gian của lịch sử. Bên cạnh phạm vi lãnh thổ và thời gian, để hiểu đúng truyền thuyết còn cần lùi cách nhìn nhận lại vào đúng không gian ngôn ngữ văn hóa của thời kỳ mà truyền thuyết được hình thành. Ví dụ từ “cửu trùng” hiểu như ngày nay là “9 tầng” thì sẽ dẫn đến những điều vô lý, chẳng đâu vào đâu. Xưa lên ngôi vua gọi là lên “ngôi cửu trùng”. Đền Thượng thờ vua Hùng ở Phú Thọ gọi là Cửu trùng thiên điện, không phải nghĩa là điện thờ ở 9 tầng trời mà là điện thờ Vua, thờ ông Trời. Thành Cổ Loa không phải có 9 vòng thành, mà là tòa thành từng được gọi là “Cửu trùng thành”, nghĩa là thành nơi có Vua. Cửu trùng hay trùng cửu – trường cửu là từ mượn âm, dùng để xưng tụng, tung hô với nghĩa như từ “vạn tuế”. Đời vua Hùng Vương 18 không phải là đời vua Hùng cuối cùng, mà ngược lại, 18 là trùng cửu (9×2), là con số chỉ sự trường tồn của thời đại Hùng Vương. Những cái bẫy của ngôn ngữ do sự khác biệt xưa – nay đã làm lạc hướng các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Việt, dẫn đến “sai một ly đi một dặm”. Do chữ Nho là thứ văn tự bản chất tượng hình nên để ký âm, nhất là âm của ngôn ngữ khác, các nho sĩ xưa phải dùng phép phiên thiết. Phiên thiết một âm là dùng 2 “ký tự” (2 chữ), một tự ký phụ âm, một tự ký vần, ghép lại để ghi âm. Một âm Nôm khi chép vào sử sách do vậy biến thành 2 chữ Nho, lâu ngày người ta quên đi rằng đây là các “ký tự” để ghi âm chứ không phải ghi nghĩa. Mê Linh là 2 ký tự ghi âm Minh – Minh đô của vua Hùng, chẳng phải loài chim M’linh, M’lang nào cả. Tên làng Vân Già thiết Và, chứ không phải đám mây có tuổi mà “già”… Truyền thuyết không phải là lịch sử, nhưng nếu truyền thuyết được quy chiếu vào đúng hệ tọa độ không gian – thời gian – ngôn ngữ – văn hóa sẽ trở thành lịch sử thật sự. Một trong những tọa độ căn bản của văn hóa phương Đông xưa là Dịch học, là Hà thư Lạc đồ, là Âm Dương Ngũ Hành. Hà là trời, Lạc là đất. Hà thư là những cặp số sắp xếp theo phương vị để chỉ 4 phương trời và một phương trung tâm. Do đó Ngũ Lĩnh là 1 ngọn núi tên là Ngũ, tức là ngọn núi ở trung tâm. Kinh Dương Vương đi tuần ở Ngũ Lĩnh, không phải là nơi có 5 ngọn núi ở bên Tàu. Bát Hải không phải là có 8 cửa biển mà là biển nằm ở phương Tám, tức là phương Đông. Vua cha Bát Hải Động Đình của Thoải phủ trong đạo Mẫu do vậy không hề xuất xứ từ đầm nước ở Hồ Nam mà là vị vua của biển Đông, là cha Lạc Long đã dẫn 50 người con xuống biển. Khi các con số chỉ phương hướng của Hà thư lại phối chồng lên với các tính chất của Ngũ hành hay các quẻ của Bát quái thì sự thể còn đi xa hơn nữa. Từ Lạc – Nác – Nước, cũng là Lục, là số 6, con số chỉ phương Bắc ngày nay. Hùng Vương thứ sáu là Lạc Vương, nghĩa là vua vùng đất phía Bắc, đồng nghĩa với Kinh Dương Vương (Canh Giêng Vương). Tên nước Xích Quỷ hay Xích Quẻ là quẻ chỉ hướng Nam, hướng Xích đạo. Hiểu nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân thành “quỷ mặc áo đỏ” thì chẳng ra ngọn ngành gì cả… Những ví dụ về ngôn ngữ như vậy trong cổ sử Hoa Việt vô cùng nhiều. Không vận dụng Dịch lý thì không thể hiểu được những nhân danh, địa danh trong quá khứ, tức là không thể hiểu được những “mật mã” mà tiền nhân người Việt đã nhắn gửi trong những câu truyền thuyết. Ngôn ngữ, văn hóa không chỉ đọng lại trong thư tịch, trong truyền thuyết, trong hoành phi câu đối điện thờ. Những hiện vật khảo cổ của từng thời kỳ lịch sử, có minh văn hay không có minh văn, đều tự kể chuyện mình, kể những câu chuyện hoàn toàn không như cách “giải đoán” của các sử gia ngày nay. Tấm bia Xá lợi tháp minh phát hiện ở Bắc Ninh ghi rõ năm 601 Giao Châu là đất “thuộc bản đồ đế quốc Tùy”, do thứ sử Lưu Phương cai quản. Tức là Lý Phật Tử – Triệu Việt Vương không hề đóng đô ở Long Biên vào những năm này. Đồng tiền cổ với chữ Đinh ở mặt sau thời Ngũ đại thập quốc lại có tên được đúc trăm đồng như một là “Đại Hưng bình bảo”, xứng tên nước Đại Hưng rõ ràng. Chuông cổ Thanh Mai ở Hà Nội đúc năm Càn Hòa thứ 6 cho biết năm 948 Giao Châu đang là một huyện dưới thời vua Lưu Thịnh ở Quảng Đông. Trận đại thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng do đó không thể xảy ra vào năm 938 được… Ngày càng có nhiều những phương pháp, những dẫn chứng thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau soi thấy chính sử nước Nam đã được chép… đúng mà không đúng. Lịch sử bị biến thành huyền thoại vì đã không được đặt đúng, hiểu đúng trong tọa độ vốn dĩ của các sự kiện từng xảy ra. Giải mã những huyền thoại, truyền thuyết Việt không phủ nhận, mà trái lại, giúp làm rõ thêm lịch sử. Lịch sử nước Nam là lịch sử của cả đại tộc Bách Việt trên phạm vi thiên hạ Trung Hoa rộng lớn thời cổ trung đại. Lịch sử Hoa Việt thật sự càng lộ rõ thì tộc danh Bách Việt càng rực rỡ, rực rỡ như đã từng tỏa chiếu trong quá khứ. Hình ảnh trên mặt trống đồng Ngọc Lũ Những thông điệp từ quá khứ được nhắn gửi rõ ràng ngay trên mặt trống đồng, linh khí của người Việt cổ. Ở chính giữa mặt trống đồng là hình ảnh của mặt trời, nguồn sống muôn loài. Ngọn lửa ánh sáng ở trung tâm tức là Trung Hỏa – Trung Hạ hay Trung Hoa. Trung Hoa là cõi thiên hạ của người Bách Việt. Vòng ngoài cùng của mặt trống đồng Ngọc Lũ khắc 18 cặp chim, 1 non và 1 trưởng thành đang tung bay. 18 là trùng cửu, là trường cửu. Ý nghĩa của vòng ngoài mặt trống đồng là đời sau con cháu nối tiếp ông cha đời trước mà trường tồn. Thông điệp của trống đồng gửi từ ngàn xưa về là Bách Việt trùng cửu, một sự khẳng định: Bách Việt trường tồn với thời gian.3 likes -
Triều Tiên muốn Hàn ủng hộ "Cộng hòa dân chủ liên bang Korea" Hải Võ | 12/10/2014 13:55 Hôm 10/10, Triều Tiên đã công bố "bản ghi nhớ" kêu gọi Hàn Quốc hưởng ứng phương án thống nhất bán đảo Triều Tiên mà Bình Nhưỡng khởi xướng từ 34 năm trước. Đoàn đại biểu cấp cao Triều Tiên trong cuộc hội đàm phi chính thức với phía Hàn Quốc tại Incheon, Hàn Quốc hôm 4/10 vừa qua. Tân Hoa Xã ngày 12/10 cho hay, trong lúc giới quan sát quốc tế tập trung sự chú ý vào các động thái của lãnh đạo tối cao Triều Tiên Kim Jong-un, thì chính phủ nước này hôm 10/10 đã công bố một "bản ghi nhớ" kêu gọi Hàn Quốc hưởng ứng phương án "Cộng hòa dân chủ liên bang Korea" do cố lãnh tụ Triều Tiên Kim Nhật Thành khởi xướng. Triều Tiên kêu gọi thành lập quốc gia theo chế độ liên bang Cái tên "Cộng hòa dân chủ liên bang Korea" lần đầu tiên được ông Kim Nhật Thành đề ra hồi năm 1980. Ngày 10/10 là kỷ niệm 69 năm thành lập đảng Lao động Triều Tiên, đồng thời cũng tròn 34 năm ông Kim Nhật Thành khởi xướng phương án thống nhất 2 miền bán đảo Triều Tiên. Căn cứ theo phương án thống nhất của phía Triều Tiên thì biện pháp tối ưu để hiện thực hóa sự thống nhất là dựa trên cơ sở 1 dân tộc, 1 quốc gia, 2 chế độ để thành lập một nước liên bang. Theo Tân Hoa Xã, giải pháp thống nhất của Triều Tiên được giới quan sát hiểu đơn giản là "1 quốc gia, 2 chế độ". Chính phủ Triều Tiên đã nhiều lần kêu gọi Hàn Quốc tỏ rõ thái độ phản đối hoặc đồng tình đối với phương án này. Có thể nói, chế độ liên bang chính là nội dung cốt lõi và yêu cầu trọng điểm của phía Triều Tiên đối với phương án thống nhất. Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye từng đưa ra 3 đề xuất lớn Tân Hoa Xã đặt câu hỏi, Hàn Quốc - quốc gia cùng nuôi hy vọng thống nhất 2 miền như Triều Tiên - sẽ có lập trường và quan điểm như thế nào? So với phương án nhà nước liên bang có phần cởi mở của Triều Tiên - cho phép 2 miền Nam, Bắc đều có quyền hạn trong lãnh thổ quản lý của mình, thì Hàn Quốc chủ trương xây dựng một quốc gia liên bang có mức độ chặt chẽ hơn. Hồi tháng 3 năm nay, Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye đã có bài phát biểu tại thành phố Dresden, Đức. Trong đó, bà Park nêu ra 3 đề xuất lớn đối với vấn đề thống nhất bán đảo Triều Tiên, bao gồm ưu tiên xử lý các vấn đề liên quan tới chủ nghĩa nhân đạo trong quan hệ 2 miền, xây dựng cơ sở hạ tầng vì sự phồn thịnh chung của Triều Tiên - Hàn Quốc, khôi phục ý thức dân tộc chung của người dân 2 miền. Theo hãng thông tấn Yonhap của Hàn Quốc, 3 đề xuất của bà Park Geun-hye đã "vẽ nên một tấm bản đồ" để hiện thực hóa thống nhất bán đảo Triều Tiên. Phương án của Tổng thống Hàn Quốc gồm các trọng điểm: Ưu tiên giải quyết vấn đề chủ nghĩa nhân đạo, theo đó Hàn Quốc sẵn sàng gia tăng các dự án viện trợ nhân đạo đối với người Triều Tiên; tiếp đó là Hàn - Triều chung tay xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển chung. Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye nói, Hàn Quốc có thể đầu tư vào lĩnh vực viễn thông cũng như cơ sở hạ tầng giao thông, cung cấp các khóa đào tạo về tài chính, thuế và kinh tế cho Triều Tiên. Ngược lại, bà Park cũng kêu gọi Triều Tiên cởi mở hơn về vấn đề quyền khai thác nguồn tài nguyên, song phương cùng có lợi. Bên cạnh đó, theo bà Park, Hàn Quốc cũng sẽ tích cực thúc đẩy các dự án hợp tác kinh tế giữa Hàn, Triều, Trung Quốc và Nga, bao gồm cả các dự án xây dựng đường sắt. Về vấn đề khôi phục ý thức dân tộc chung của người dân 2 miền, Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye kêu gọi liên Triều tăng cường các cuộc giao lưu phi chính trị. Bà Park cũng thêm một lần nữa đề nghị xây dựng "Công viên hòa bình Thế giới" tại khu phi quân sự, đồng thời thiết lập "Phòng hợp tác giao lưu Nam - Bắc" đặt tại Seoul và Bình Nhưỡng. theo Đại Lộ1 like
-
Tòa án Trung Quốc cấm “nhân nhục” 12/10/2014 08:26 GMT+7 TT - Người sử dụng và các công ty cung cấp dịch vụ Internet ở Trung Quốc từ nay không được dùng “công cụ tìm kiếm nhân nhục”. Người truy cập Internet ở Trung Quốc bị cấm dùng “Công cụ tìm kiếm nhân nhục”. Ảnh: politico “Công cụ tìm kiếm nhân nhục” vốn được nhiều người Trung Quốc sử dụng để tìm kiếm nhân thân của các quan chức tham nhũng ở nước này trong mấy năm gần đây. Nhật Báo Trung Quốc dẫn lời ông Tôn Tuấn Cung, người phát ngôn của Tòa án tối cao nhân dân Trung Quốc, tuyên bố ngành này sẽ không dung thứ cho bất kỳ người nào vi phạm lệnh cấm này. Bất kỳ người sử dụng hay nhà cung cấp dịch vụ Internet để lộ thông tin cá nhân, lịch sử bệnh tình và sức khỏe, lịch sử phạm tội hay địa chỉ nhà dẫn đến việc làm ảnh hưởng người khác sẽ phải chịu trách nhiệm trước luật pháp. Ông Tôn cho rằng lệnh cấm này nhằm thiết lập lại trật tự trong vấn đề quản lý mạng Internet. Song, có nhiều ý kiến cho rằng vì công cụ tìm kiếm “nhân nhục” đã tiết lộ quá nhiều thông tin nhạy cảm về các quan chức gây ảnh hưởng đến danh tiếng của Chính phủ Trung Quốc nên bị cấm. “Nhân nhục” là một dạng công cụ tìm kiếm mà nhiều người sử dụng cùng lúc, hợp tác để truy lùng và chia sẻ thông tin cá nhân của người cần tìm, từ hình ảnh hay thông tin ban đầu có được một cách nhanh nhất trên Internet và các mạng xã hội ở Trung Quốc như Weibo và WeChat. Chính công cụ này giúp đưa ra ánh sáng nhiều quan chức có hành vi lạm dụng quyền lực, dùng tiền công để phục vụ cuộc sống xa hoa và tham nhũng. Một trong những vụ đình đám nhất được phanh phui nhờ công cụ tìm kiếm “nhân nhục” là sự kiện Lý Cương vào cuối năm 2010. Con trai của quan chức này lái xe trong tình trạng say rượu và đã tông vào hai sinh viên Trường đại học Hà Bắc, khiến một sinh viên thiệt mạng. Người lái xe khi bị bảo vệ của trường giữ lại đã lớn tiếng thách thức: “Đố chúng mày dám động đến tao, cha tao là Lý Cương”. Cộng đồng mạng ở Trung Quốc ngay lập tức truy tìm được danh tính tài xế là Lý Khởi Danh, con trai của Lý Cương - phó giám đốc Sở Công an tỉnh Hà Bắc. Lý Khởi Danh sau đó bị tuyên án 6 năm tù giam và Lý Cương cũng bị ảnh hưởng nặng nề trong công tác. MỸ LOAN ==================== "No" bình luận. Bài viết này ai xem tự nhận thức.1 like
-
Oh! Tốt quá. Chúng ta là chứng nhân của nhau. Vì cùng cho rằng những di sản văn hóa truyền thống Việt phản ánh những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương nói chung. Về chi tiết có nhiều điểm trùng hợp. Có điều cách phân tích để đạt đến giải mã nội dung bức tranh khác nhau. Tôi đã phân tích truyện trê cóc từ 2002, trong "Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam". Nhưng để nhấn mạnh vấn đề tôi luôn phải xác định rằng: "Tôi không bao giờ coi sự giải mã là luận cứ khoa học chứng minh cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử". Sở dĩ tôi luôn phải xác định điều này, không phải với anh. Mà như anh đã biết, nhiếu học giả và nhà nghiên cứu - nếu không phải cố tình xuyên tạc thì cũng hiểu nhầm - rằng: tôi chứng minh cho Việt sử một cách mơ hồ vì dựa vào truyền thuyết và giải mã là không có "cơ sở khoa học". Bởi vậy, tôi phải đưa toàn bộ cuốn sách lên mạng và giải thích làm sáng tỏ vấn đề, mà trước đây tôi nghĩ họ có thể hiểu được. Chúc anh tiếp tục thành công.1 like
-
Cũng xin chúc mừng anh Thiên sứ đã ra mắt cuốn Minh triết Việt trong văn minh phương Đông. Tôi nghĩ là giữa những người nghiên cứu nghiêm túc dù khác cách làm nhưng rồi sẽ đi đến điểm chung. Ví dụ ở cuối cuốn sách của anh có bàn về bức tranh Đông Hồ Trê cóc kiện nhau. Tôi cũng đã từng có bài viết về bức tranh này và cũng dùng nó làm trang cuối cho sách của mình. NÒNG NỌC ĐỨT ĐUÔI Trong kho tàng truyện Nôm Trê cóc kiện nhau là câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa. Cóc sống trên bờ, đến kỳ sinh nở đẻ xuống ao, nở ra nòng nọc. Cá Trê thấy thế dẫn về làm con mình. Cóc phát đơn kiện đòi con nhưng quan trên về tra xét, thấy lũ nòng nọc con bơi dưới nước giống như Trê, nên xử Cóc thua. Oan khuất tày đình. May nhờ có thầy Nhái bén “tư vấn”, đợi đến khi nòng nọc đứt đuôi, nhảy lên bờ thì cả nhà Cóc lại đoàn tụ. Cóc thắng kiện. Bức tranh dân gian Đông Hồ đã diễn tả rất sinh động câu chuyện này. Hình ảnh chú Cóc hai tay giơ trên đầu dâng đơn kiện lên quan “thái thú” cá chép. Xung quanh toàn là họ hàng nhà tôm cá, không có lấy một chú ếch nhái nào. Nòng nọc thì đang còn đuôi, bơi bên cá Trê. Xét xử như vậy những tưởng Cóc sẽ thua. Nhưng Cóc vẫn hùng hồn tuyên bố (chữ trên tranh): Giỏ ai quai nấy rành rành Giương vây thích ngạnh tranh hành chẳng xong. Sự thật cuối cùng sẽ trở về đúng chỗ của nó dù xung quanh có huyên náo như thế nào. Câu chuyện này còn có chứa thâm ý gì? Bức tranh Đông Hồ Thầy đồ cóc cho biết con cóc vốn là “thầy đồ”, là người đã sản sinh ra văn tự, chính là đàn “nòng nọc” đầu to chữ khoa đẩu xưa. Thầy đồ cóc là biểu tượng của văn hóa Việt. “Con cóc là cậu ông trời”, chỉ nghiến răng cũng đã làm Trời phải sợ. Cóc quen vui thú bờ hồ, Khi ra đài các, khi vô cung đình. Chú Cóc Việt đơn giản nhưng thật cao quí, đầy hãnh diện. Đàn chữ khoa đẩu nòng nọc của nền văn hóa Việt sinh ra ở dưới nước, bị cá Trê cướp đoạt mất. Nước (thủy) trong Dịch học là tượng trưng của phương Bắc ngày nay. Con cá Trê đen nhẻm, chuyên rúc bùn ao là hình ảnh của hắc tặc – giặc phương Bắc. Hán tộc đã cướp không đàn chữ “nòng nọc” của người Việt, gọi thành “chữ Hán”. Cuộc kiện tụng ngàn năm xem “cái chữ” thuộc về ai bắt đầu. Quan tòa xét xử như trong bức tranh đều là họ hàng tôm cá cả. Một mình chú Cóc Việt đâm đơn, đòi lại chân lý, đòi lại công bằng. “Chữ Hán” là của người Việt. Cái điều tưởng như vô lý, “thế giới” ai ai cũng cười nhạo này rồi cuối cùng cũng trở về đúng vị trí của nó. Hãy nghe lời Cóc mắng Trê trên công đường: Trê kia chớ có huyên hoa, Hùm dầu có cánh ta đà chẳng ghê. Quả tình nào có hồ nghi, Ra điều bán dạ lâm trì khó coi. Phù sinh mấy kiếp ở đời, Làm cho rắn cắn được voi còn chầy. Chỉ nghề dạy khỉ leo cây, Xui nguyên dục bị, chỉ hay bày trò. Ai ngờ xã thử thành hồ, Chỉ điều cậy thế làm cho hại người. Biết rằng hươu chết tay ai, Mỏ chim, nanh chuột tranh hơi còn nhiều. Đoạn này truyện Nôm dùng toàn thành ngữ: “hùm dầu có cánh”, “bán dạ lâm trì” “rắn cắn voi”, “dạy khỉ leo cây”, “xã thử thành hồ”, “hươu chết tay ai”… Chửi rất hay và rất đúng. “Thầy đồ cóc” có khác, rất lắm chữ. Cái lý ở đời không thể nào đổi trắng thay đen được, không thể dùng quyền thế mà lấn át sự thật. Và cái sự kiện tụng ở đây đã không chỉ còn dừng lại ở phân xử chữ Nho là của ai nữa. Điển tích “săn hươu” là chỉ “thiên hạ”. “Thiên hạ” Trung Hoa thực sự là của ai? Đầu năm Nhâm Thìn đã tìm thấy chữ Lạc Việt khắc trên đá ở Bình Quả – Quảng Tây, với niên đại vào thời kí đỉnh cao của ‘văn hóa xẻng đá lớn’ cách đây 4000 – 6000 năm. Nòng nọc khoa đẩu cuối cùng cũng đứt đuôi để lên bờ, trở về với cha ông Cóc của mình. Lời “tiên tri” trong câu chuyện Trê cóc đã thành sự thực. Đáng nói là loại chữ Lạc Việt cổ này có sớm hơn chữ giáp cốt nhà Thương tới 1000 năm và “chắc chắn có nguồn gốc sâu xa với chữ giáp cốt cổ”. Nói vậy tức là chữ Lạc Việt là chính là tiền thân của chữ giáp cốt đời Ân Thương được tìm thấy Ân Khư. Nhà Thương là một triều đại dùng chữ Việt, tức là triều đại của người Việt. Con chữ, cái nền tảng của văn minh đã được phát hiện. Chân lý này thật “nhái bén”: sự thật không cần kiện mà vẫn thắng. Đã đến lúc phải trả lại “nòng nọc” cho “cóc”. Không phải chỉ trả chữ Nho cho người Việt mà còn phải trả cả văn hóa lịch sử Trung Hoa cổ đại về đúng quê cha đất tổ Việt Nam.1 like
-
Chúc mừng anh Minh Xuân đã xuất bản sách. Diễn đàn lý học Đông phương là một diễn đàn học thuật thực sự, tất cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước của tất cả các ngành khoa học có ý tưởng gì mới đều có thể đăng bài trên diễn đàn, Mặc dù không thống nhất quan điểm, miễn không phạm nội quy. Mọi phản biện đều phải lập một topic riêng nếu tác giả đồng ý và phải là phản biện khoa học đúng nghĩa. Nếu thể hiện tính phản đối lập tức sẽ bị xóa bài hoặc loại ra ngoài diễn đàn. Cá nhân tôi luôn ủng hộ mọi mục đích chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, mặc dù phương pháp đạt được mục đích khác nhau, có thể đúng và có thể sai. Một lần nữa chúc mừng anh. Anh có thể tiếp tục đưa các bài viết liên quan vào các topic của diễn đàn.1 like
-
Dạ, con cũng đã nhắn rồi nhưng chưa thấy ai liên lạc lại ạ. Chắc mọi người kg vào diễn đàn!1 like
-
Tôi đã ký tặng và trao sách cho Phạm Hùng, nhờ chuyển đến Vietha và Thanhdc. Khi nào Vietha và thanhdc rảnh,liên hệ với Phamhung để lấy sách.1 like
-
Bởi vậy, Lão Gàn mới lói rằng thì là mà: Ngài Tập đã "xuonglungcop". Tất nhiên hệ quả thế nào xem hồi sau sẽ rõ. Chuyện tận bên Tàu, Lão Gàn không có "quyền lợi và nghĩa vụ liên quan". "No table" - "Nô tế bồ " - không bàn. Hì!1 like
-
Tập Cận Bình phái mật sứ đi Tokyo gặp Shinzo Abe Hồng Thủy 08/10/14 10:08 Thảo luận (0) (GDVN) - Chiều tối qua Thủ tướng Nhật bản Shinzo Abe đã đi xem kịch và có cuộc trao đổi ngắn với bà Lâm. Báo Mỹ: Tập Cận Bình muốn xây dựng nền dân chủ như cách của Putin SCMP:2 tướng TQ mất chức vì không cam kết trung thành với Tập Cận Bình Bà Lý Tiểu Lâm. Đa Chiều ngày 7/10 đưa tin, hôm qua 7/10 Lý Tiểu Lâm, Hội trưởng Hội đối ngoại hữu nghị nhân dân Trung Quốc đã lên đường sang Nhật Bản gặp Thủ tướng Shizno Abe, dọn đường cho một cuộc hội nghị thượng đỉnh Trung - Nhật bên lề diễn đàn APEC tại Bắc Kinh tháng 11 tới. Lý Tiểu Lâm là con gái Lý Tiên Niệm, cố Chủ tịch nước Trung Quốc. Bà Lâm là bạn thân của Tập Cận Bình từ nhỏ, sau này bà kết hôn với tướng Lưu Á Châu, con trai Lưu Thiếu Kỳ, đang được Tập Cận Bình cất nhắc đưa vào Quân ủy trung ương trong hội nghị trung ương sắp tới. Nguồn tin của hãng Kyodo News cho biết, chiều tối qua Thủ tướng Nhật bản Shinzo Abe đã đi xem kịch và có cuộc trao đổi ngắn với bà Lâm. Trước khi rời Nhật Bản, Lý Tiểu Lâm sẽ hội đàm với Chánh văn phòng Nội các Yoshihide Suga. Trước đó khi được hỏi về chuyến thăm của bà Lâm, ông Suga nói rằng Lý Tiểu Lâm là thủ trưởng một tổ chức xã hội, do đó ông không rõ thời gian và lịch trình chuyến công du Nhật Bản của bà. Động thái Tập Cận Bình phái Lý Tiểu Lâm đi Nhật đã được truyền thông Tokyo loan báo cách đây hơn 1 tháng, truyền thông Trung Quốc thì không đưa tin nào về chuyến đi này. Lý Tiểu Lâm bắt đầu trở thành ủy viên Chính hiệp trung ương năm 2003, tháng 3 năm 2013 trở thành thường vụ Chính hiệp. Tháng 12/2012 bà Lâm đã từng có cuộc mật đàm với ông Shinzo Abe khi ông vừa trở thành Thủ tướng không lâu. Từ tháng 3 đến tháng 4/2013, bà Lâm tiếp tục công du Tokyo và có các cuộc gặp gỡ với những chính khách Nhật Bản. Đài BBC gọi Lý Tiểu Lâm là mật sứ của Tập Cận Bình. ==================== Chẳng ảnh hưởng gì đến tình hình thế giới. Nó chỉ giải quyết được vài chi tiết. Nói cho nó nhanh: Ngay cả khi nước Tàu rút lại khu vực nhận diện phòng không ở Hoa Đông và thừa nhận Senkaku của Nhật Bản thì mọi chuyện vẫn cứ xấu đi. Có điều nó chậm hơn một tý. Hãy chờ xem.1 like
-
Obama “lạc lối”? 09:19 | 09/10/2014 (PetroTimes) - Tổng thống Barack Obama đã "lạc lối" trong việc hoạch định những chính sách quân sự của Mỹ tại Trung Đông trong mấy năm qua. Đó là nhận xét của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta trong cuốn hồi ký vừa xuất bản. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta và cuốn hồi ký gây tranh cãi Trong cuốn hồi ký có tựa đề “Worthy Fights: A Memoir of Leadership in War and Peace” (Những trận chiến xứng đáng: Hồi ký về lãnh đạo trong chiến tranh và hòa bình), ông Leon Panetta phê phán Tổng thống Obama quá dựa vào logic của một giáo sư luật chứ không phải của một nhà lãnh đạo đất nước. Bởi vì ông Obama hành nghề luật sư rồi giảng dạy luật trong các trường đại học trước khi chuyển sang hoạt động chính trị. Ông Leon Panetta từng lãnh đạo Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) và sau đó là Bộ Quốc phòng trong phần lớn nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Obama. Trong cuốn hồi ký, mặc dù ca ngợi Obama về thành tích tiêu diệt được trùm khủng bố Osama bin Laden, nhưng ông Panetta nói lãnh đạo Mỹ đã mắc một số sai lầm trong chính sách tại Iraq và Syria. Điều đó là nguyên nhân khiến nhóm Nhà nước Hồi giáo tự xưng chiếm cứ những dải đất rộng lớn ở hai nước trên trong những tháng gần đây. Ông Panetta cũng quy lỗi cho Tổng thống Obama đã không hối thúc cựu lãnh đạo Iraq Nouri al-Maliki cho phép Mỹ duy trì lực lượng tại Iraq khi Mỹ triệt thoái quân đội vào năm 2011 sau cuộc chiến tranh chín năm. Vị cựu quan chức này còn chỉ trích Tổng thống Obama để ngoài tai lời khuyên của ông và của cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton về việc huấn luyện và vũ trang cho quân nổi dậy Syria vào năm 2012 trong cuộc chiến lật đổ Tổng thống Syria Bashar al-Assad, một chiến thuật mà ông Obama mới chấp thuận hồi gần đây. Ngoài ra, Tổng thống Obama lẽ ra nên tấn công Syria khi nước này vượt qua "lằn ranh đỏ" mà ông tự vạch ra và sử dụng vũ khí hóa học nhắm vào lực lượng đối lập, chứ không phải tìm kiếm sự phê chuẩn của quốc hội Mỹ, điều đã không trở thành hiện thực. Ông Panetta cho rằng, Tổng thống Obama nên thực hiện những chiến lược của Mỹ ở Trung Đông từ hai năm trước chứ không phải bây giờ và rằng ông Obama không nên loại trừ khả năng sử dụng bộ binh Mỹ trong cuộc chiến chống lại những kẻ chủ chiến Nhà nước Hồi giáo. Hồi ký của ông Panetta đã khiến Nhà Trắng giận dữ. Phó Tổng thống Joe Biden cho rằng việc các cựu quan chức viết sách đưa ra những tranh cãi về chính sách của Washington ngay sau khi rời khỏi chức vụ, trong khi ông Obama vẫn tại chức, là điều không nên. Nh.Thạch (tổng hợp) ===================== Ngay trong topic này , khi bà Clinton bộ trưởng ngoại giao và ông Panetta bộ trưởng quốc phòng từ chức, Lão Gàn đã xác định ngay rằng: Do bất đồng về chính sách ở Trung Đông. Nay quả là đúng như vậy. Nhưng tôi cũng cho rằng ngài Obama đã đúng khi không sử dụng quân lực ở đây. Chúng ta tưởng tượng rằng nếu ngài Obama quyết định đánh Iran và Xyria lúc đó thì cái gì đang xảy ra ngay bây giờ? Hơn thế nữa quyết định của ngài Obama đã đúng khi Xyria đồng ý giải trừ toàn bộ vũ khí hóa học và Iran đồng ý tham gia đàm phán hạt nhân. Hoa Kỳ cần phải sử dụng binh lực của họ vào một "canh bạc cuối cùng" quyết định ngôi bá chủ thế giới. Bây giờ nó không phải ở Trung Đông, mà là Tây Thái bình Dương. Mọi chuyện sẽ rất rõ ràng vào năm tới.1 like