• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/10/2014 in all areas

  1. Thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Tôi luôn khẳng định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán, hoàn chỉnh và bát quái mô tả trong kinh Dịch chỉ là ký hiệu siêu công thức mô tả sự vận động có tính quy luật của vũ trụ thể hiện trong nội dung của học thuyết này. Thuyết ADNh là nền tảng tri thức của nền văn minh Đông phương, chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước, thuộc về Việt tộc trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử. Nhiều người đặt vấn đề cho rằng: "Mặc dù người Trung Quốc thừa nhận thuyết ADNh và bát quái không thuộc về nền văn minh của họ, nhưng điều đó không có nghĩa nó thuộc về Việt Nam, Những di sản liên quan đến thuyết ADNh cũng có ở nhiều quốc gia trên thế giới, như: Hàn Quốc, Nhật Bản...Thậm chí cả ở Peru. Vậy tại sao họ không thể là chủ nhân của thuyết ADNh?" Ở đây tôi xin nhắc lại luận điểm của tôi là: Những biểu tượng liên quan đến thuyết ADNh trên khắp các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nó không phải là nội dung của học thuyết ADNh. Cho dù đất nước Nhật lưu giữ Lạc thư cửu tinh đồ và nguyên lý lập thành Hà Đồ qua sự vận động có tính quy luật của Ngũ tinh trong Thái Dương hệ - thì đó cũng chỉ là những hiện tượng phản ánh một thực tế của mô hình biểu kiến của học thuyết này là Lạc thư, Hà đồ, chứ không phải nội dung của học thuyết đó. Sự phục hồi một cách hoàn chỉnh học thuyết này chỉ có thể từ những di sản văn hóa truyền thống Việt của những người Việt không bị Hán hóa hoàn toàn, trong cuộc di cư khổng lồ xuống vùng đất Bắc Việt Nam hiện nay. Thâm chí, những di sản văn hóa còn lại ở vùng đất Việt cũ ở Nam Dương tử cũng không đủ khả năng phục hồi học thuyết này. Những luận cứ nhân danh khoa học của tôi hoàn toàn căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Nội dung của sự minh chứng này chính là sự hiệu chỉnh từ nguyên lý căn để "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" và tính hợp lý lý thuyết bao trùm tất cả mọi lĩnh vực liên quan đến học thuyết này trong Đông y, Phong thủy, và tất cả các môn dự báo Đông phương. Trong khi đó, chính nền văn hóa Hán đã không thể làm được điều này từ hơn 2000 năm qua. Tất nhiên với những tư liệu đồ sộ, nhưng không hoàn chỉnh và sai lệch của nền văn minh Hán đã không thể phục hồi được thuyết ADNh, thì những di sản còn lại của các nền văn minh khác cũng không thể thực hiện được điều này.
    3 likes
  2. Tôi xóa tên web mà tác giả này giới thiệu trong bài viết. Theo tôi người này được gọi là "biết đọc, biết viết" hoàn toàn không phải là một người có khả năng phân tích và tổng hợp là yêu cầu tối thiểu trong nghiên cứu. Thanhdc hãy xem kỹ lại bài viết của người này: Ông ta chỉ đặt vấn đề theo cái nhìn của ông ta. Đại loại như kiểu "Kinh Dịch là gì?"; hoặc nghiên cứu Kinh Dịch, thuyết ADNh để làm gì?". Hoàn toàn không có luận cứ để xác định luận điểm. Sau này, Thanhdc không cần phải đưa những loại bài như thế này vào trang web của chúng ta.
    2 likes
  3. Miếu thờ Trưng Vương trên đất Hồ Nam Thứ Hai 8:30 13/02/2006 Trên đất Trung Quốc mà lại có đền thờ Bà Trưng ? Lạ, nhưng có thật. Vì nguồn thông tin này do hai nho sỹ Việt Nam từng đi sứ sang Trung Quốc, từng nhìn thấy ngôi đền và ghi chép lại trong thơ văn của họ. Đó là Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Thực (1554 - 1637) người làng Vân Điềm (tên nôm là làng Đóm), nay thuộc xã Vân Hà, huyện Đông Anh. Ông đỗ tiến sĩ nhị giáp khoa thi đình đầu tiên của nhà Lê Trung hưng mở tại Thăng Long (năm 1595). Nguyễn Thực là vị quan thanh liêm, chính trực, được người đương thời trọng vọng. Trong thời gian được cử đi sứ sang Trung Quốc, ông có làm một số thơ, nhưng sau đó bị thất lạc. Tới thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn sưu tầm được 10 bài, trong đó có 4 bài làm trong thời gian đi sứ. Trong 4 bài này, có một bài cho biết là ở Trung Quốc, phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh có đền thờ Trưng vương. Đó là bài Nam hoàn chí Ngũ Lĩnh (về Nam đến rặng núi Ngũ Lĩnh): Ngũ Lĩnh điêu nghiêu trấn Việt thùy Hứa đa cảnh trí chiếm thanh kỳ Uất thông đông hậu thùy thiên cán Nùng diễm xuân tiền mai nhất chi Đồng trụ Trưng vương lưu cựu tích Thạch nhai Trưng tướng phục tùng từ Phong cương tự cổ phân trung ngoại Thậm tiễn thiên công xảo thiết thi Dịch: Núi Ngũ Lĩnh chất ngất trấn ở vùng biên cương đất Việt Biết bao cảnh trí tươi tắn kỳ lạ Sau mùa đông ngàn cây tùng xanh um Trước mùa xuân một nhành mai diễm lệ Cột đồng còn lưu dấu cũ Trưng Vương Đường đá nghiêng bên ngôi đền Trưng tướng Chốn biên cương từ xưa phân rõ trong, ngoài Rất phục thợ trời sao khéo đặt bày Tác giả viết bài này khi về tới dãy núi Ngũ Lĩnh ở Trung Quốc, tức dãy núi làm ranh giới hai nước Sở, Việt thời cổ. Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam (phía Nam hồ Động Đình) và Việt là khu vực tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Về tứ thì đây là bài thơ đẹp một cách hồn hậu. Có thể, khi đó là cuối mùa đông nhưng gió xuân đã thổi nên tùng bách vẫn xanh um, mà một bông hoa mai trắng đã nở chào mùa xuân mới đang tới. Song, chúng tôi lại lưu ý tới một chi tiết về lịch sử ở câu thứ 5 - Cột đồng lưu dấu cũ Trưng Vương. Trưng Vương ở đây chính là vua bà Trưng Trắc của chúng ta, người đã giành lại độc lập cho đất nước và làm vua trong 3 năm, từ năm 40 đến 43. Cột đồng là muốn nhắc lại việc Mã Viện cướp các trống đồng đất Việt, đúc thành cột dựng ở một số nơi để ghi chiến công (cũng như đem về Trường An đúc ngựa đồng đặt ở cung vua). Còn dấu cũ Trưng Vương, hẳn là dùng để chỉ ngôi đền đã được dựng lên để thờ vị nữ anh hùng của dân Việt. Nói rằng đó là ngôi đền thờ bà Trưng vì còn một chứng cứ nữa. Đó là điều mà hai thế kỷ sau Ngô Thì Nhậm có dịp nhắc lại khi ông đi sứ. Ngô Thì Nhậm (1746- 1803) quê ở Tả Thanh Oai (tên nôm là làng Tó) nay thuộc huyện Thanh Trì. Năm 1793, ông có đi sứ nhà Thanh, có sáng tác tập Hoàng Hoa đồ phả - một tập thơ có cả những bức vẽ. Trong tập đó có một bài nhan đề Phân Mao lĩnh (Núi Phân Mao): Nhất đái thanh sơn Sở, Việt giao Hoàng Mao dịch lộ nhậnPhân Mao Thiên thư bất tận Hành Sơn Lĩnh Địa khí hoàng phù Nhạn Trạch Mao Trưng Trắc kiếm mang khai động phủ Uy đà quế đố lạc sơn sào Phong lai giải uấn tay nam lợi Vị ứng Hùng Bi vạn nhận cao Nghĩa là: Một dải núi xanh ở nơi giáp giới với Sở và Việt Trên đường đến trạm Hoàng Mai nhận ra đó là núi Phân Mao (Ranh giới của Trung Hoa là do) Sách trời định ra không quá núi Hành Sơn (1) Khí đất làm trôi ngược lông chim nhạn ở Nhạn Trạch (về phía nam) Lưỡi kiếm của bà Trưng mở ra động phủ Sâu quế của Triệu Đà còn đầy trong hang núi Gió từ tây nam làm nguôi cơn nồng Coi thường núi Hùng Bi dù cao tới muôn sải (2) Ngô Thì Nhậm có lời chú thích rằng: “Núi Phân Mao ở địa giới Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam, có cỏ mao rẽ hai ngả Nam Bắc, trên đường đi có biển đề Phân Mao lĩnh”. Như vậy thì núi này là chỗ ranh giới hai nước Sở, Việt. Như đã nêu ở trên, Sở là khu vực tỉnh Hồ Nam và Việt là khu vực hai tỉnh Lưỡng Quảng ngày nay. Và vậy là, theo bài thơ này, tại Hồ Nam có đền thờ bà Trưng Trắc. Không rõ về sự kiện này thì Ngô Thì Nhậm rút từ tư liệu nào? Chính sử Việt Nam và Trung Quốc không có ghi chép gì về sự kiện đó. Có thể đó chỉ là truyền thuyết ? Nhưng cơ sở để hình thành truyền thuyết này thì có thể giải thích được. Các sách chính sử có ghi là sau khi Mã Viện hoàn thành công việc xâm lăng đã bắt trên 300 cừ suý (có thể hiểu là “tướng lĩnh cừ khôi”) người Việt đưa về Trung Quốc, an trí tại Linh Lăng. Linh Lăng chính là phần đất phía Nam tỉnh Hồ Nam. Số ba trăm cừ suý đó, tất phải là các thủ lĩnh nghĩa quân, tướng lĩnh của Hai Bà và các lạc hầu, lạc tướng, đã kiên quyết chống lại quân Mã Viện. Những người dân Việt yêu nước này, tuy bị đầy ải xa quê hương nhưng vẫn hướng về đất Tổ, lập “miếu Bà Trắc” để tưởng nhớ thủ lĩnh của mình, thể hiện ý chí bất khuất của người Việt. Những câu chuyện về cuộc khởi nghĩa kháng chiến ngày đó tất cũng được lưu truyền trong cộng đồng đó, nhưng rồi trải qua bao đời, chuyện bị “khúc xạ”, trở thành truyền thuyết Hai Bà Trưng đánh Mã Viện trên đất Hồ Nam. Miếu Bà Trắc ở bên hồ Động Đình đúng là biểu tượng hiên ngang bất khuất của người Việt thời Hai Bà Trưng, dù bị tách khỏi quê hương. Còn về cột đồng được nhắc tới trong thơ Nguyễn Thực thì có thể hiểu là Mã Viện sau khi an trí các cừ suý Việt ở Linh Lăng thuộc Hồ Nam, Ngũ Lĩnh thì cho dựng một (hoặc nhiều) cột đồng để tự biểu dương chiến công. Nhưng các cừ suý Việt đã xây ngay đền thờ Hai Bà ở chỗ có cột đồng nọ để khẳng định bản lĩnh của cộng đồng mình. Dù sao, “Miếu thờ Trưng Vương” ở đất Hồ Nam là có thật. Nguyễn Vinh Phúc - - - - - - - - (1) Hành Sơn: tên dãy núi trùng điệp trên địa bàn huyện Hành Dương. (2) Hùng Bi là một dãy núi ở huyện Kỳ Dương, huyện cực Nam của tỉnh Hồ Nam. ANHTHU Nguồn: http://hanoimoi.com.vn/
    1 like
  4. Chỉ cần một câu này thấy chưa đạt yêu cầu. Tôi đố "cộng đồng khoa học thế giới" và " Hầu hết những nhà khoa học trong nước" chứng minh được thành Cổ Loa ở Hanoi ngày nay chính là Loa thành của An Dương Vương. Giải thưởng 10. 000. 000 VND. Thiên Sứ trả. Thanhdc hãy cảnh giác với những luận điểm cho rằng: "Người Việt hiện nay không phải Lạc Việt": hoặc công nhận là Lạc Việt, nhưng Lạc Việt chỉ ở đồng bằng sông Hồng....Đây là một cách nhìn sai lầm, hoặc cố tình xuyên tạc truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. . Nhưng bài này đỡ tệ hơn nhiều so với bài của tác giả Thu Tứ, gọi là có khả năng tư duy, nhưng chưa hoàn hảo. Còn cái đám cứ la oai oải là Thiên Sứ căn cứ vào truyền thuyết là mơ hồ, nhưng chính họ lại coi truyền thuyết là cơ sở để phân tích chứng minh luận điểm của họ. Thí dụ: nhiều người lấy hình tượng "Mẹ Âu cơ dẫn con lên núi và con trưởng làm Hùng Vương thứ nhất". để lải nhải rằng: Việt tộc đang ở "chế độ mẫu hệ". Rõ ràng họ lấy truyền thuyết trực tiếp làm cơ sở chứng minh cho luận điểm: "Việt tộc đang ở chế độ mẫu hệ". Còn tôi hoàn toàn không.
    1 like
  5. Obama: Không có vấn đề gì trên thế giới mà không "đến tay" Mỹ! Hồng Anh | 05/10/2014 19:46 "Luôn là vậy. Mỹ dẫn đầu. Chúng ta là một quốc gia không thể thiếu được. Chúng ta có khả năng mà không ai có. Quân đội của chúng ta tốt nhất trong lịch sử thế giới". Trong cuộc trả lời phỏng vấn độc quyền với hãng tin CBS News, Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định, hành động của Mỹ là sự "hỗ trợ Iraq trong một trận chiến thực sự trên đất của họ, với quân đội của họ... Không phải là Mỹ chống lại IS, Mỹ lãnh đạo cộng đồng quốc tế để hỗ trợ cho một đất nước mà chúng ta có quan hệ đối tác an ninh để chắc chắn rằng họ có thể chăm lo cho công việc của mình". Theo Tổng thống Obama, bản chất của nhà nước Hồi giáo tự xưng IS là "sự kết hợp giữa mạng lưới khủng bố và tham vọng lãnh thổ, cộng thêm chiến lược và chiến thuật quân đội", và vì vậy, việc Mỹ không kích IS cũng mang lại lợi ích cho Mỹ. Cũng trong buổi phỏng vấn này, ông Obama đã giải thích lý do vì sao ông không thông qua đề xuất triển khai bộ binh tới tham chiến tại Iraq mà chỉ tiến hành các cuộc không kích trên không: "Khi còn đương chức, Thủ tướng Iraq Maliki chỉ quan tâm nhiều tới việc củng cố nền tảng Shiite của mình mà tỏ ra hoài nghi người Sunni và người Kurd - những người chiếm tới 2/3 tổng số dân. Do đó, điều mà bạn không thể thấy, đó là một chính phủ xây dựng được ý thức đoàn kết dân tộc. Và đó là lý do vì sao mà tôi phải nhắc lại những gì tôi đã nói trước đây: Chúng ta không thể làm thay họ, bởi đó không chỉ là vấn đề về quân sự. Đó là vấn đề về chính trị. Và nếu chỉ đơn giản là đưa quân đội Mỹ quay lại đó thì chúng ta sẽ sai lầm, bởi chúng ta có thể duy trì hòa bình trong một khoảng thời gian". Theo Tổng thống Obama, vấn đề nằm ở chỗ, "người Iraq phải chiến đấu một cách công tâm. Người Shiite, người Sunni và người Kurd phải cùng nhau chống lại khối ung nhọt này". Ông Obama cho biết thêm: "Họ (người Iraq) đã tạo ra một một trường mà ở đó, người trẻ tuổi quan tâm tới việc họ là người Shiite hay Sunni, hơn là việc liệu họ có được giáo dục tốt hay không, liệu họ có thể tìm được một công việc tốt hay không. Nhiều người nghèo đói. Nhiều người mù chữ.... Khởi đầu của một giải pháp cho toàn bộ Trung Đông sẽ nằm ở việc các quốc gia thay đổi cách dạy dỗ những người trẻ tuổi. Điều mà các hoạt động quân sự có thể làm được chỉ là kiểm tra và đẩy lùi các mạng lưới (khủng bố) khi chúng xuất hiện và đảm bảo chắc chắn về mặt thời gian và không gian, giúp cho những cách thức mới này bắt đầu được bén rễ". Dù vậy, ông Obama tỏ ra không nề hà, ngay cả khi dường như Mỹ đang đảm nhiệm 90% công việc với Iraq: "Đó không phải là vấn đề. Khi có bão ở Philippines, hãy nhìn xem ai là người giúp Philippines đối phó tình hình. Khi động đất ở Haiti, hãy xem ai là người đi đầu trong việc chịu trách nhiệm đảm bảo rằng Haiti có thể phục hồi. Đó là cách mà nước Mỹ vận hành. Đó là điều làm nên nước Mỹ". Trong khi đó, nói về việc Mỹ không kích IS ở Syria, ông Obama hiểu rằng Washington đang giúp chính quyền của Tổng thống Bashar al-Assad tiêu diệt một đối thủ, song Mỹ vẫn muốn loại bỏ Assad, vì "chúng ta sẽ không thể ổn định được Syria khi nước này nằm dưới sự kiểm soát của Assad, bởi những khu vực của người Sunni tại Syria cho rằng Assad đã gây ra những tội ác khủng khiếp". Cũng bởi sự mâu thuẫn này, mà Tổng thống Mỹ thẳng thắn thừa nhận, vấn đề ở Syria "còn khó khăn hơn nhiều". theo Đại Lộ ==================== Bởi vậy, Lão Gàn thường phát biểu rằng: Nước Mỹ đang là bá chủ thế giới trên thực tế. Do đó, cho nên, cái vấn đề chính là cái vấn đề mà tôi muốn nói ở đây là vấn để bể Đông. Đấy chính là cái vấn đề mà người Mỹ xác định "quyền lợi căn bản" của Hoa kỳ ở đây. Nó là cái vấn đề tự do hàng hải. Người Tàu đã sai lầm khi lấn chiếm bể Đông của Việt Nam, nên họ phải đối đầu với Mỹ. Nếu họ cứ tranh nhau với Nhật thì nó lại đi một lẽ khác. B) . Mọi chuyện đã không thể lùi lại được nữa. Vì quá hạn 10. 3 Quý Tỵ. :( . Thật đau cổ vì viêm họng.
    1 like
  6. Dù sao chăng nữa sao Hóa Khoa cũng nói lên : Cháu đỗ Đại Học và vẫn có thể đi du học. Đợi xem.
    1 like
  7. Câu chuyện này cũng giống như "Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai" thôi. Khi trở về Lưu - Nguyễn cũng không tin rằng 300 năm đã trôi qua. Trên thế giới cũng có vài dị bản tương tự ở một vài nền văn minh cổ đại khác. Bởi vậy, hoặc là câu truyện này có thực thì nó sẽ biện minh cho truyền thuyết của nền văn minh Việt; nếu nó là tin vịt thì nó là truyền thuyết thời hiện đại. Một loại dị bản khác. Về lý thuyết Lý học Đông phương cho rằng đây là khả năng có thể xảy ra. Nhưng thực tế hiện tượng này còn nhiều câu hỏi liên quan để xác minh hiện thực của nó.
    1 like
  8. Tờ A4 bí ẩn khiến Thủ tướng Hàn 2 lần hội kiến Bộ 3 Triều Tiên Hải Võ 5/10/2014 07:10 Tân Hoa Xã ngày 4/10 đã có bài phân tích, liệu chuyến đi bất thường của Bộ 3 quyền lực Triều Tiên tới Hàn Quốc có chỉ dừng lại ở việc... xem lễ bế mạc ASIAD? Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Triều Tiên kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Triều Tiên Hwang Pyong-So (phải) bắt tay Thủ tướng Hàn Quốc Jung Hong-won tại Incheon chiều qua, 4/10. Ảnh: Yonhap. Tân Hoa Xã đưa tin, sáng ngày 4/10, Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Triều Tiên kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Triều Tiên Hwang Pyong-So đã lên máy bay tới Hàn Quốc để tham dự lễ bế mạc Đại hội thể thao Châu Á (ASIAD) tại Incheon. Tân Hoa Xã cho hay, đi cùng ông Hwang là Bí thư Đoàn chủ tịch Bộ chính trị Đảng lao động Triều Tiên kiêm Chủ nhiệm Ủy ban chỉ đạo thể dục quốc gia Triều Tiên Choe Ryong-hae, và Bí thư Đoàn chủ tịch Bộ chính trị Đảng lao động Triều Tiên kiêm Bộ trưởng Bộ chiến tuyến thống nhất Kim Yang-gon. Được biết, 4/10 là kỷ niệm 7 năm ngày lãnh đạo Triều Tiên - Hàn Quốc ký kết "Tuyên ngôn Quan hệ Bắc - Nam phát triển hòa bình phồn vinh" (còn gọi là Tuyên ngôn 4/10) tại Bình Nhưỡng. Việc Triều Tiên chọn ngày này để phái Đoàn đại biểu cấp cao tới Hàn Quốc khiến truyền thông không khỏi đưa ra nhiều lời đồn đoán. Từ ASIAD... Theo Tân Hoa Xã, Triều Tiên cử 150 vận động viên tham gia ASIAD 2014 ở 14 bộ môn như bóng đá, bơi lội, bắn cung... gặt hái được thành tích tốt và đã thu hút sự chú ý từ người dân Triều Tiên. Trong những ngày này, các kênh truyền hình của Triều Tiên và hãng thông tấn KCNA đều đăng tải những thông tin ca ngợi thành tích của Đoàn thể thao nước này tại ASIAD. "Lúc này điều mà học sinh sinh viên Triều Tiên quan tâm chính là Á vận hội, đặc biệt là đội tuyển bóng đá nam và nữ" - Một sinh viên Triều Tiên tại Bình Nhưỡng cho hay. Chủ nhiệm Ủy ban chỉ đạo thể dục quốc gia Triều Tiên Choe Ryong-hae và Bộ trưởng Bộ chiến tuyến thống nhất Kim Yang-gon (phía sau) là những quan chức cấp cao cùng tới Incheon với ông Hwang Pyong-So trong ngày 4/10. Ảnh: CRI. ... đến quan hệ Triều Tiên - Hàn Quốc BÀI LIÊN QUAN Xã hội đen Triều Tiên trỗi dậy nhờ... xem phim Hàn Quốc Triều Tiên dùng vệ tinh Trung Quốc tấn công Hàn Quốc? Triều Tiên bất ngờ đề nghị ‘liên bang hóa’ với Hàn Quốc Tân Hoa Xã cho hay, kể từ lễ khai mạc Á vận hội, Triều Tiên đã không ngừng "đánh tiếng" với Hàn Quốc, chủ yếu nhằm vào 3 vấn đề: chỉ trích chính phủ Hàn Quốc dung túng tổ chức dân sự phát truyền đơn chống Triều Tiên; phê bình phát biểu của Tổng thống Hàn Quốc Park Geun-hye liên quan tới Triều Tiên tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc; kêu gọi Hàn Quốc ngừng chống đối Triều Tiên và ủng hộ một phương án thống nhất 2 miền. Ủy ban Tổ quốc Thống nhất hòa bình Triều Tiên còn gọi phát ngôn của bà Park Geun-hye là "hành vi đẩy quan hệ Bắc - Nam vốn đã mong manh tới bờ vực". Hôm 2/10, Ủy ban Tổ quốc Thống nhất hòa bình Triều Tiên thêm một lần nữa ra thông cáo, nói rằng "Tuyên ngôn chung 15/6" và "Tuyên ngôn 4/10" là điểm xuất phát của tiến triển quan hệ Bắc - Nam. Triều Tiên cho rằng, nếu Hàn Quốc thực hiện đúng Tuyên ngôn 4/10 thì vấn đề "sự nghiệp hợp tác" mà phía Hàn khởi xướng sẽ được giải quyết. Các nhà phân tích cho rằng, Triều Tiên cử Bộ 3 quyền lực của mình tới Hàn Quốc với mục đích chính là thể hiện cho các bên quan sát thấy rằng nước này đang nỗ lực thực hiện Tuyên ngôn 4/10. Trong khi đó, giới quan sát nhận định, mặc dù trong thời gian gần đây Triều Tiên có nhiều "công kích" đối với Hàn Quốc, tuy nhiên việc nước này cử Đoàn đại biểu tới tham dự lễ bế mạc Á vận hội được đánh giá là một bước tích cực trong hành động thực tế nhằm cải thện quan hệ Hàn - Triều. Từ trái qua: Ông Hwang Pyong-So, ông Choe Ryong-hae và ông Kim Yang-gon tham dự lễ bế mạc Đại hội thể thao Châu Á tại Incheon tối qua, 4/10. Nhân vật quyền lực số 2 Triều Tiên tham dự lễ bế mạc ASIAD tại Hàn có phải là "bất thường"? Theo Tân Hoa Xã, vào các năm 1986 và 2002, Hàn Quốc đã đăng cai tổ chức Á vận hội tại Seoul và Busan. Theo đó, tại ASIAD Busan 2002, Triều Tiên cử Đoàn đại biểu quy mô lớn gồm 184 vận động viên và đội cổ vũ 300 người tới tham dự Đại hội. Ngược lại, tại các kỳ ASIAD Doha 2006 và Quảng Châu 2010, Triều Tiên đều không cử phái đoàn cao cấp tới quốc gia đăng cai. Có thể nói, đây là lần đầu tiên Triều Tiên cử một đoàn đại biểu gồm 3 quan chức cấp cao nhất nước này tới tham dự lễ bế mạc một kỳ ASIAD. Đồng thời, đây cũng là chuyến thăm cấp bậc cao nhất của Triều Tiên đối với Hàn Quốc kể từ khi Tổng thống Park Geun-hye nhậm chức. Thái độ của Hàn Quốc đối với chuyến thăm của ông Hwang Pyong-So Cũng trong ngày 4/10, Bộ trưởng Thống nhất Hàn Quốc Ryoo Kihl-jae đã có mặt tại khách sạn ở Songdo (Incheon) để tiếp đón Đoàn đại biểu cấp cao Triều Tiên. Sau đó, Bộ trưởng Thống nhất Hàn Quốc và Giám đốc An ninh quốc gia Kim Kwan-jin đã dùng bữa trưa cùng Đoàn đại biểu cấp cao Triều Tiên, đồng thời tiến hành cuộc hội đàm không chính thức vào buổi chiều. Đoàn đại biểu cấp cao Triều Tiên trong buổi hội đàm không chính thức với Hàn Quốc chiều 4/10. Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Triều Tiên Hwang Pyong-so (mặc quân phục) bắt tay Giám đốc An ninh quốc gia Hàn Quốc Kim Kwan-jin Ảnh: Yonhap. Truyền thông Hàn Quốc đánh giá động thái của Bình Nhưỡng chính là bước ngoặt để cải thiện quan hệ Triều - Hàn. Tân Hoa Xã cho biết, chính quyền của bà Park Geun-hye cũng như phe đối lập tại Hàn Quốc đều bày tỏ thái độ hoan nghênh chuyến thăm của Đoàn đại biểu cấp cao Triều Tiên. Đại diện Đảng Tân quốc gia cầm quyền đánh giá, động thái của Triều Tiên cho thấy nước này đã cân nhắc đến tình trạng bế tắc trong quan hệ Hàn - Triều, và cho biết vô cùng hoan nghênh bước đi của Triều Tiên. Yoo Ki-jun - Chủ tịch Ủy ban ngoại giao thống nhất thuộc Quốc hội của Đảng Tân quốc gia cũng cho hay, việc Triều Tiên cử phái đoàn cao cấp tham dự lễ bế mạc ASIAD là chưa từng có trong lịch sử, đồng thời hy vọng chuyến đi của phái đoàn Triều Tiên sẽ góp phần tích cực cải thiện quan hệ Triều - Hàn. Nghị sĩ Lee thuộc Đảng Tân liên minh chính trị vì dân chủ (đảng đối lập ở Hàn) đánh giá, việc Triều Tiên lựa chọn ngày kỷ niệm 7 năm ký kết Tuyên ngôn 4/10 để cử phái đoàn tới Hàn Quốc cho thấy kỳ vọng về một bước đột phá trong việc "hâm nóng" lại quan hệ 2 miền Bắc - Nam. theo Đại Lộ
    1 like
  9. Chắc chắn mà. Tôi sẽ ra trong tuần này, nhưng chưa chắc chắn ngày nào. Thời gian của tôi rất hạn chế. Khi ra tôi sẽ gọi dt cho Hùng ngay.
    1 like
  10. Sư phụ ơi, khi nào Sư phụ ra Hà Nội thì mang ra mấy cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" nhé vì trước đây Sư phụ có hứa tặng cho họ mà. Có mấy người đã liên hệ với con để nhận quà tặng của Sư phụ đấy ạ nhưng con không cầm cuốn nào cả. Hì Ví dụ: Việt Hà, Thanhdc ...
    1 like
  11. Thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Do lỗi kỹ thuật của phần mềm , nên khi thanhdc đưa bài lên diễn đàn, xuất hiện những lỗi kỹ thuật trong bài viết của một học giả tôi rất kính trọng, là giáo sư Trần Đại Sĩ (Việt kiều Pháp quốc). Tôi đã chỉnh sửa lại sau khi xem kỹ lại để quý vị và anh chị em quan tâm dễ xem. Cá nhân tôi sẽ phản bác một số kết luận, hoặc luận cứ trong bài viết của cả hai vị học giả và chứng minh cho quan điểm của tôi: Đất Việt Nam hiện nay là nơi rút lui cuối cùng của Việt tộc, sau khi nền văn minh Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử vào thế kỷ thứ III BC.
    1 like
  12. Chân lý và nhận thức chân lýkhoahoc.com.vn Cập nhật lúc 09h40' ngày 19/07/2014 Chúng ta đều biết, nhận thức là một quá trình tiệm cận tới chân lý mà không bao giờ đến được chân lý đó, cho dù là rất… rất gần. Điều này được lý giải bởi tính vô cùng vô tận của thế giới vật chất mà trong đó có chúng ta đang sống và nhận thức nó. Chính vì thế, khoa học luôn luôn phát triển không ngừng. Mỗi lý thuyết vật lý được đưa ra ở từng thời kỳ có thể sẽ tiến được đến gần hơn tới chân lý (có thể gọi là “hội tụ”, hay “tiệm cận”), nhưng cũng có thể sẽ rời xa hơn (có thể gọi là “phân kỳ”, hay “lạc hướng”). Nhưng điều oái ăm là ở chỗ chính cái gọi là “chân lý” ấy lại không bao giờ lộ diện đầy đủ để ta có thể đem “nhận thức” (lý thuyết vật lý) ra so sánh xem đã “gần” hay “xa”? “hội tụ” hay “phân kỳ”, “lạc hướng”? Bởi vậy, từ xưa tới nay, người ta thường phải dựa vào các thí nghiệm thực tế để kiểm chứng với tiêu chí: “Thực nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý”, tức là thay vì “chân lý”, người ta dùng “thực nghiệm” làm “vật thay thế”. Chẳng hạn, để lật đổ quan niệm “Trái đất là trung tâm của vũ trụ”, Copernicus đã tiến hành đo đạc quỹ đạo chuyển động của các hành tinh và Mặt trời và nhận thấy: những kết quả “thực nghiệm” sẽ phù hợp hơn nếu cho rằng Mặt trời mới là “trung tâm”; để chứng minh “chân lý” – “Trên trái đất, mọi vật đều rơi như nhau”, Galileo đã thực hiện thí nghiệm với các vật rơi nặng, nhẹ khác nhau trước sự chứng kiến của các thẩm phán Toà án Vatican xét xử ông vì những tư tưởng “dị giáo” đó; để chứng minh “chân lý” – “ánh sáng là sóng”, thí nghiệm khe Young là một “thực nghiệm” được coi là có tính thuyết phục, nhưng thí nghiệm “hiệu ứng quang điện” cũng tỏ ra là một “thực nghiệm” không hề kém thuyết phục hơn để minh chứng cho một “chân lý” (ngược lại) – “ánh sáng là hạt”, v.v.. Tức là ở đây, thay vì “chân lý” là cái “trừu tượng” (không biết), người ta lựa chọn “thực nghiệm” là cái có thể “sờ mó” được làm “vật thay thế”, làm “tiêu chuẩn chân lý”. Và thế là đến đây, mọi sự việc lại thay đổi sang một hướng khác: thay thế “chân lý (khách quan)” bằng “nhận thức thực nghiệm (chủ quan)” để xây dựng “nhận thức lý thuyết” (tất nhiên là cũng chủ quan nốt). Chân lý là khách quan, không phụ thuộc vào chủ quan của con người, nhưng “vật thay thế” nó – “thực nghiệm” lại là nhận thức chủ quan phụ thuộc vào sự công nhận (biểu quyết) của số đông. Kết quả là trong suốt quá trình phát triển gần 400 năm nay của vật lý học, người ta đã lấy chính cái “chủ quan – thực nghiệm” làm tiêu chuẩn cho “chủ quan – lý thuyết”, tức là yếu tố “khách quan” bị đẩy ra ngoài lúc nào mà không hề hay biết(?). Bởi thế, chúng ta mới nghe thấy những điều tuyên bố hùng hồn tương tự như: “Lưỡng tính sóng-hạt được thực nghiệm khẳng định”, “Đã tìm thấy hạt quark”, “Thực nghiệm đo độ cong của tia sáng đi gần Mặt trời vào thời gian Nhật thực khẳng định tính đúng đắn của GR” v.v.. và v.v.. Tuy sự cần thiết của các thí nghiệm (thực nghiệm) là không có gì phải nghi ngờ, nhưng “sự tuyệt đối hóa” quá mức tính “chân lý” của nó đã khiến cho vật lý thực sự rẽ sang một lối khác: ngày càng rời xa “chân lý – khách quan” để sa vào cái “bẫy” của “nhận thức thực nghiệm – chủ quan” do chính con người tạo ra, và kết quả là đã dọn đường cho “nhận thức lý thuyết – chủ quan” (các phương trình toán học – con đẻ của tư duy trừu tượng) ngày càng rời xa thế giới vật chất khách quan hiện hữu để đến với siêu hình – điều mà chính Newton đã cảnh báo: “Vật lý! Hãy cẩn trọng với siêu hình!”. Từ đây xuất hiện một vấn đề: vậy, lấy gì làm “tiêu chuẩn chân lý” khi mà cái gọi là “thực nghiệm” lại có thể không đáng tin cậy như vậy? Không lẽ phải từ bỏ nó? Chúng ta biết rằng kết quả của cái được gọi là “thực nghiệm” như vừa đề cập bao giờ cũng là kết quả của việc đo đạc các thông số khác nhau của đối tượng, để qua đó nhận biết được nó là chính nó chứ không phải là một cái gì khác. Chính vì vậy, câu trả lời trước tiên phải dành cho các nhà đo lường học. “Đo lường học – là khoa học về các phép đo, phương pháp và phương tiện đảm bảo sự thống nhất của chúng và các giải pháp đạt tới độ chính xác cần thiết” trong đó, phép đo được hiểu là “quá trình tìm giá trị của đại lượng vật lý nhờ các phương tiện kỹ thuật chuyên dụng (gọi là phương tiện đo)”. Nói cách khác, đo lường chính là một phương pháp (thực nghiệm) để nhận thức “chân lý khách quan”. Nhà bác học người Nga Mendeleev đã rất có lý khi nói: “Khoa học chính xác chỉ bắt đầu khi người ta bắt đầu đo”. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học nổi tiếng mang tên ông là minh chứng cụ thể cho điều đó. Tuy nhiên, đối với các nhà đo lường học, phép đo không phải là “thần thánh” mà trái lại, cần phải hiểu bản chất cốt lõi của nó chỉ là quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin về đại lượng cần đo; các quá trình này luôn chứa đựng đầy rẫy những rủi ro, những yếu tố bất định tiểm ẩn do giới hạn của phương tiện kỹ thuật, của trình độ nhận thức con người về mối quan hệ giữa các đại lượng vật lý và của cả ảnh hưởng môi trường xung quanh khi thực hiện phép đo. Chẳng hạn trong thí nghiệm rơi tự do của Galileo, các vật rơi tuy có khối lượng rất khác nhau, nhưng nếu so với khối lượng của Trái đất, vật thể quyết định tới gia tốc rơi của mọi vật, thì sự sai khác ấy chẳng đáng là bao, nên kết quả đo gia tốc rơi của tất cả chúng đều như nhau là điều dễ hiểu, chỉ có điều lúc bấy giờ, định luật vạn vật hấp dẫn chưa được phát minh ra nên sự rơi ấy không được gắn với bản thân Trái đất như đáng lẽ ra phải như thế. Tức là ở đây, đã có sự thiếu hụt nhận thức của con người đối với thế giới tự nhiên. Khi khối lượng của vật rơi so sánh được với khối lượng của Trái đất, mọi việc sẽ khác hẳn: vật càng nặng rơi càng nhanh, đúng như Aristotel đã tiên đoán từ 2500 năm trước. Hoặc giả có được thiết bị đo có độ chính xác cực lớn với sai số chỉ cỡ 10-24 thì chắc chắn cũng phát hiện được sự sai khác ngay trong thí nghiệm của Galileo. Điều này còn đặc biệt nghiêm trọng khi phải thực hiện các phép đo gián tiếp hay tổ hợp khi mà đại lượng cần đo không những còn cần phải được chuyển đổi về một trong những đại lượng thuận tiện cho phép đo, mà còn phụ thuộc vào các lý thuyết mà con người xây dựng nên để kết nối giữa các đại lượng vật lý đo được trực tiếp với đại lượng vật lý cần đo. Khi đó sẽ xuất hiện một thành phần sai số gọi là sai số phương pháp; nó không thể bị loại trừ khi xử lý kết quả đo và trực tiếp ảnh hưởng tới độ tin cậy của phép đo, cũng tức là độ tin cậy của cái gọi là “thực nghiệm”. Chẳng hạn trong “thực nghiệm” khẳng định vũ trụ giãn nở, người ta đo được “độ dịch chuyển đỏ” của các thiên hà phụ thuộc vào khoảng cách tới chúng. Khoan hẵng bàn tới bản thân khoảng cách tới các thiên hà là một đại lượng không thể đo được trực tiếp, mà bản thân sự dịch chuyển về phía đỏ của ánh sáng được cho là do hiệu ứng Dopler cũng chỉ là giả thiết khi mà bản thân cái gọi là “ánh sáng” còn chưa ai biết nó là cái gì? Theo CĐM, với cấu trúc là hai hạt electron và positron vừa quay xung quanh tâm quán tính của chúng, vừa chuyển động với tốc độ ánh sáng trong trường hấp dẫn đã khiến cho photon mất dần năng lượng (như bất kể một vật thể nào khác được biết tới) và kết quả là đã gây nên “sự dịch chuyển đỏ” chứ có phải các thiên hà đang chạy ra xa nhau đâu mà bảo là “vũ trụ giãn nở”? Tóm lại, cần phân biệt rõ: chân lý là khách quan không phụ thuộc vào chủ quan, nhưng nhận thức chân lý (cả lý thuyết lẫn thực nghiệm) đều là chủ quan, hoàn toàn phụ thuộc vào biểu quyết của số đông. Chính vì vậy, việc đặt niềm tin thái quá vào chúng có thể sẽ dẫn tới nhận thức sai lầm. Vậy, cần phải đặt ra câu hỏi là: nếu “thực nghiệm” cũng có thể sai thì làm thế nào để biết rằng nó sai? Không lẽ còn có một cái gì đó khác có thể đóng vai trò là “tiêu chuẩn của chân lý”? Đến đây, một lần nữa cần phải có kiến thức đầy đủ về đo lường học: Một kết quả đo được coi là tin cậy khi, và chỉ khi nó không chứa sai số hệ thống. Từ đây suy ra một “thực nghiệm” là đúng, nếu nó không chịu ảnh hưởng của những yếu tố có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đối tượng làm thí nghiệm, hoặc nếu có thì phải được tính đến đầy đủ và tìm cách bù trừ, hay loại trừ chúng. Nếu yếu tố liên quan là chính một lý thuyết nào đó, thì cần phải xác định rõ phạm vi áp dụng của lý thuyết ấy có phù hợp với điều kiện thí nghiệm hay không? Chẳng hạn trong thực nghiệm “vũ trụ giãn nở” ở trên, sự suy giảm năng lượng của ánh sáng trong trường hấp dẫn hoàn toàn không được tính đến, mặc dù rõ ràng nó bị trường hấp dẫn của Mặt trời tác động làm cong đi trong một thực nghiệm khác? Trong khi trên thực tế cuộc sống hàng ngày, không ghi nhận được bất kỳ chuyển động nào lại không bị tiêu hao năng lượng do có tương tác với các thực thể vật lý khác cả, chỉ là ít hay nhiều mà thôi. Một khi ánh sáng đã bị cong đi do tác động của trường hấp dẫn, thì tức là nó cũng đã bị thay đổi năng lượng, và khi lan truyền trên những khoảng cách lớn hàng triệu, hàng tỷ năm ánh sáng, nó có bị suy giảm năng lượng cũng là chuyện bình thường chứ? Sao lại chỉ trông chờ vào mỗi hiệu ứng Dopler không thôi? Nếu chưa xây dựng được lý thuyết về sự suy giảm năng lượng của ánh sáng trong trường hấp dẫn theo khoảng cách thì lại là một chuyện khác – cần phải xây dựng nó đã rồi hẵng tính đến hiệu ứng Dopler cũng chưa muộn. Cuối cùng, ngoài kiến thức về đo lường học ra, nhà khoa học còn cần phải có các kiến thức về lô-gíc học (lô-gíc hình thức cũng như lô-gíc biện chứng) và cả phương pháp biện chứng duy vật nữa. Sự thiếu hụt những kiến thức này sẽ dẫn đến những kiểu tư duy lộn xộn, phi lô-gíc và siêu hình trong nhận thức thế giới, kể cả là bằng “thực nghiệm” hẳn hoi như trong các thí nghiệm khe Young, rơi tự do, hấp thụ và bức xạ nhiệt, vũ trụ dãn nở v.v.. Kết quả là nhận được bức tranh méo mó về hiện thực khách quan như cơ học lượng tử, thậm chí đến mức phản khoa học như lý thuyết Big Bang, vũ trụ dãn nở tăng tốc… Vũ Huy Toàn ============= Đó là tác giả bài viết này trên khoahoc.com.vn nói và điều này chính SW Hawking cũng đã phát biểu gần đây: "Chúng ta sẽ không thể tìm ra lý thuyết thống nhất". Nhưng trong cái khái niệm "chúng ta" của đoạn trích dẫn ra thì xin trừ tôi ra. Bởi vì, tôi đã xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất. Tức là xác định rằng có một nền văn minh tạo ra lý thuyết này đã tiếp cận và nhận thức được tới chân lý tuyệt đối. Còn những vấn đề mà tác giả và rất nhiều nhà khoa học nói đến "vật lý thực nghiệm", suy cho cùng cũng chỉ là nhận thức trực quan được hỗ trợ bằng phương tiện kỹ thuật, để được gọi là "khoa học công nhận". Nhưng chính sự phát triển của phương tiện kỹ thuật, đã khiến nhận thức của con người từ những nhận thức tự nhiên, vũ trụ qua phương tiện tự thân, đã ngày càng nhận thức được bản thể cấu trúc vật chất hết sức phong phú: Từ các thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất mà những phương tiện hiện đại đã giúp còn người "nhìn thấy". Những nhà thông thái của nhân loại, bằng tư duy trừu tượng đã tổng hợp những nhận thức trực quan đó và đưa nó lên thành những hệ thống lý thuyết riêng phần, mô tả những quy luật cục bộ mà họ nhận thức được. Đương nhiên, để có một nhận thức trực quan đúng, nó còn phụ thuộc vào phương tiện và phương pháp nghiên cứu. Cũng phương tiện của nền văn minh hại điện, các nhà khoa học đã nhìn thấy "lưỡng tính sóng hạt" của vật chất vi mô. Và nó đẻ ra một thứ lý thuyết trên cơ sở bất định của vật chất vi mô mà họ "nhìn thấy", gọi là lý thuyết bất định. Nhưng cũng phương tiện ấy thì hai nhà bác học được giải Nobel 2013 thì lại xác định tính tất định của vật chất. Nay mai, cái máy gia tốc hạt to đùng của Tàu mới làm (Xem bài viết trên trong trang này) lại thấy vật chất biến mất. Híc! Thế là lại đẻ ra một thứ lý thuyết dở hơi nào đó. Trong điều kiện này Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt lại bị coi là "mơ hồ" và không có "cơ sở khoa học". Nền khoa học lấy nền tảng là thực chứng, thực nghiệm như hiện nay đã khiến cho những lý thuyết khoa học lệ thuộc vào khả năng nhận thức và chứng minh qua phương tiện kỹ thuật. Càng lao vào bản chất của vật chất thì càng đòi hỏi những phương tiện cực kỳ tốn kém. Thí dụ như để thẩm định lý thuyết Higg, người ta phải tạo ra một cổ máy gia tốc hạt chi phí lên đến gần 100 tỷ Dollar. Khiếp! Kết quả cuối cùng cũng phát hiện ra một dạng hạt trong tiên đoán của lý thuyết này, Nhưng nó không phải là "Hạt của Chúa' theo nghĩa là nguyên nhân để tạo ra tất cả các hạt cơ bản! Nhưng cũng chính những lý thuyết khoa học xuất hiện một cách sơ khai trên nền tảng thực chứng, thực nghiệm này đã phát triển hình thành những chuẩn mực để thẩm định một lý thuyết khoa học được coi là đúng. Rất nhiều tiêu chí khoa học rời rạc, rải rác đang ...."lưu truyền trong dân gian". Trên cơ sở tiêu chí khoa học và những gì nghiên cứu được của Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt, tôi đã xác định "không có Hạt của Chúa" và "không có sự sống trên sao Hỏa". Việc "không có sự sống trên sao Hỏa" chỉ là hệ quả của sự xác định: "Không có sự sống ngoài Địa cầu". Bởi vậy, vấn đề còn là phương pháp nghiên cứu và điều kiện nghiên cứu, cộng với khả năng tư duy. Cho nên tôi trừ tôi ra trong cái "chúng ta đều biết...". Với tôi chân lý là tuyệt đối và có thể giải thích được. Mình tôi thôi. lạc lõng và cô đơn quá. Bởi vì, để tiếp cận chân lý tuyệt đối thì không thể có một phương tiện nào có thể giúp con người - kể cả thánh thần - nhìn thấy. Nhưng nó chính là tập hợp lớn nhất bao trùm tất cả mọi tập hợp và không thể có một tập hợp nào lớn hơn nó, trong "Nghịch lý Cantor". Cũng có thể mô tả nó bằng lý thuyết Vonfram. Câu chuyện cũng còn dài. Nhưng một tiền đề để các nhà khoa học đầu bảng cần xem xét luận điểm của tôi là: Khái niệm điểm trong toán học - mở đầu cho toàn bộ ngành toán học đồ sộ của văn minh hiện này là một ý niệm quy ước của tư duy trừu tượng. Trên thực tế không có cái gì chứa "điểm" trong khái niệm của con người. Bởi vì "điểm" là một khái niệm không có định lượng.
    1 like
  13. Thưa quí vị và anh chị em quan tâm đến cội nguồn Việt tộc. Tôi có luận điểm của tôi về cội nguồn Việt tộc và đã trình bày nhiều lân trên diễn đàn. Nhưng tôi sẽ chứng minh cho tính chân lý của cội nguồn Việt tộc của tôi trước những phát kiến khoa học đang là hệ thống nền tảng tri thức hiện nay về sự hình thành ngồn gốc loài người như bài viết của tiến sĩ khoa học Đỗ Kiên Cường, với luận điểm của ông cho rằng: Có thể nói luận điểm của ông Đỗ Kiên Cường gần tương đồng với một nhà nghiên cứu cổ văn hóa sử Việt là bác Hà Văn Thùy. Tôi rất ủng hộ tất cả những ai có tấm lòng tìm về cội nguồn văn hóa Việt và bỏ thời gian đi tìm chân lý cho vấn đề này, kể cả những người quan tâm nước ngoài không phải Việt tộc. Nhưng vấn đề quan trọng lại không phải là tấm lòng và sự nhiệt tình khoa học. Mà là khả năng chứng minh cho chân lý. Trước khi tôi trình bày luận cứ của mình, tôi cũng xin tiếp tục trình bày một hệ thống luận cứ đã đăng tải trên diễn đàn của nhà nghiên cứu Trần Đại Sỹ, liên quan đến cội nguồn dân tộc Việt. Dưới đây là toàn bộ bài viết của giáo sư Trần Đại Sỹ. ========== Nguyên văn bài viết đã đưa lên trang chủ diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn từ lâu. Đây là bài chép từ trên diễn đàn do thanhdc đưa lên. Do sự sao chép từ trang web khác có tính năng cấu trúc vi tính về chữ viết khác nhau, nên có nhiều lỗi chính tả. Chúng tôi không thể sửa hết được. Nhưng xét những lỗi này không ảnh hưởng đến nội dung bài viết. Mong quý vị và anh chị em thông cảm. *** Thử tìm lại biên giới cổ của Việt-Nam: Bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ. Chúng tôi xin giới thiệu với ðộc giả Việt-Nam bài diễn vãn của Giáo-sý Trần Ðại-Sỹ ðọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên vãn bằng tiếng Pháp, ðây là bản dịch tiếng Việt của chính tác giả và cô Tãng Hồng Minh chú giải. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA ðã mời một số đông các học giả,trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị. Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Chính với công trình nghiên cứu của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc thành người Hoa. Sau khi bài diễn vãn này phổ biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời. Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới ðây: * J.Y.CHU, cùng 13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố nãm 1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 nãm 1998. Tài liệu khẳng ðịnh rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Ðông Á, do ngýời Ðông-Nam-á ði lên, chứ không phải do ngýời Trung-hoa di cư xuống. *ALBERTO-PIAZZA (ðại học Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China, Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998. *LI YIN, Distribution of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999. 1/ Về bài diễn vãn này, từ nãm 1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, ðãng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược ði, ðôi khi cắt mất nhiều ðoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, ðầy ðủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua. Trong khi diễn giả trình bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài. Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sý Trần, chúng tôi có cho ích một phần bài này in vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước ðây? Paris ngày 10-10-2001 Sở tu thư, viện Pháp-Á 2/ Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Kính thưa ông Viện–trưởng, Kính thưa quý đồng nghiệp, Kính thưa quý vị quan khách. Các bạn sinh viên rất thân mến, Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn ðến tiếp diễn trong suốt cuộc ðời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt. Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt ðời tôi,tôi có cảm tưởng tổ tiên ðã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết : « Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phưõng diện nghiên cứu học hành, tôi ðứng ðầu. Nhýng nếu có ngýời bất hạnh nhất trong tình trường tôi cũng ðứng ðầu ». Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần ðây, vì chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 nãm, khiến cho ðất nước chúng tôi ðiêu-tàn, và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới. I. SƠ TÂM VỀ TỘC VIỆT Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dýõng (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi là một ðại thần của triều ðình Đại-Nam (tức Việt-Nam). Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng vãn hóa vĩ ðại ðể ðọc, ðể thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nõi ðây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó nhý thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng ðã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học. Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn ðồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như : Đại-Việt sử ký toàn thý (ÐVSKTT), An-Nam chí lýợc (ANCL), Ðại-Việt thông-sử (ÐVTS), Khâm-ðịnh Việt sử thông giám cương mục KÐVSTGCM), Ðại-Nam nhất thống chí(ÐNNTC). Ðại cương mỗi bộ sử ðều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau : « Vua Minh cháu bốn ðời vua Thần-Nông, nhân ði tuần thú phương nam, ðến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập ðài, tế cáo trời ðất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng : « Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy ðiều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt ðối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ». Xét triều ðại Thần-Nông, khởi từ nãm 3118 trýớc Tây lịch, ðến ðây thì chia làm hai : 1. Thần-Nông Bắc. Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch) Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch) Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch) Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch). Ðến ðây triều ðại Thần-Nông Bắc chấm dứt, ðổi sang triều ðại Hoàng-ðế từ nãm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời ðại Hoàng-ðế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tý-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông. 2. Triều ðại Thần-Nông Nam. Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua nãm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh- Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy nãm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho ðến nay (1991) là 4870 nãm, vì vậy ngýời Việt tự hào rằng ðã có năm nghìn năm văn hiến. (1) Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như ði xa hơn về những thời tiền cổ, thời ðồ ðá, ðồ ðồng, ðồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận ðến ở ðây. Xét về cương giới cổ sử chép : « Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), ðặt tên nýớc là Xích-quỷ, ðóng ðô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Ðộng-ðình là Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Ðế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương bãng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Vãn-Lang. Nước Vãn-Lang Bắc tới hồ Ðộng-ðình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, ðông giáp biển Ðông-hải.) Cổ sử ðến ðây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép : « Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trãm trứng nở ra trãm con. Ngài truyền cho các hoàng tử ði bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối . Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-ðình.(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa ðến Ðồng-nai.) Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới nãm mươi lập ra vùng Lão-qua.(Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.) Hoàng-tử thứ nãm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải. (Nay là Quảng-ðông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.) Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.) Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh) Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trãm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.) Ngài hẹn rằng : Mỗi nãm các hoàng-tử phải về cánh ðồng Tương vào ngày Tết, ðể chầu hầu phụ mẫu ». Một huyền sử khác lại thuật : Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng : « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không ðược. Nay ta ðem nãm mươi con xuống nước, nàng ðem nãm mươi con lên rừng. Mỗi nãm gặp nhau tại cánh ðồng Tương một lần » Các sử gia người Việt lấy nãm vua Kinh-Dương lên làm vua là nãm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-ðình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cõ làm Quốc-mẫu. Cho ðến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào : « Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ». Chủ ðạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này. Ghi chú của Tãng Hồng Minh, Ký giả chuyên về Văn-minh Đông-á Jean Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: « Thưa Giáo-sư, hiện Việt-Nam là nước theo chế ðộ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng nhý người Việt hải ngoại hay không ? » Trả lời : « Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội hiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-ðạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như ðã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người ðều tụ tập về ðây ðể tưởng nhớ công ơn các vua Hùng ðã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng nãm ðến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam như Chủ-tịch Hồ Chí Minh, Chủ-tịch Trường Chinh; Tổng bí thư Lê Duẩn, Đỗ Mười; Thủ-tướng Phạm Văn Đồng v.v. đều hành hương ðền thờ vua Hùng, và ðọc diễn vãn ca ngợi công ðức Quốc-tổ nhý một hành ðộng thu phục nhân tâm. Kết lại dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau." Ghi của Tãng Hồng Minh dành cho người Việt. Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là : - Chủ-tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962. - Tổng bí thư Lê Duẩn, 5-5-1977. - Chủ tịch nhà nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978. - Thủ tướng Phạm Vãn Ðồng 6-2-1969. 27-8-1978. - Tổng bí thư Ðỗ Mười 27-4-1993. Tôi xin trở lại với ðầu ðề, 3. Triều ðình, dân tộc. Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu Thái-bình dương : Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Ðại-Việt. Hai triều ðại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng : - Không có nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc ; - Không có nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một; - Cũng không có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt ðều là huyết tộc của vua Thần-Nông. - Trung-quốc, Ðại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng đất Trung-quốc, Đại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid, Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v. - Người Hoa, người Việt nhân triều ðại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước, mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi ðó hàng nghìn, hàng vạn bộ tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau. Sau này các vãn nhân người Hoa ở vùng lưu vực Hoàng-hà, lưu vực sông Hán, nhân có chữ viết, lại không ði ra ngoài, rồi tưởng tượng mà viết thành sách, tự cho mình là con trời, tự trời mà xuống; sau đó đem văn minh, truyền bá ra khắp thế giới (Thiên-hạ), người sau lấy làm chủ ðạo của họ. Tôi sẽ bàn ðến ở dưới. Tôi xin cử một tỷ dụ, ðể Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống ðầu tiên lập ra nýớc Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân ðến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi. II. CHỦ ÐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM. Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật týợng trýng là con gà trống. Ngýời Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Ngýời Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, ðược Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, ðặt cãn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này ðến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Ðông biến thể ði thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủ-tịch Hồ Chí Minh ; ông ðược ðào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-ðô (Hà-nội). Theo như dự ðoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung ðộng thế giới! Ghi chú của Tãng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân ðọc lại bài này). IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn vãn của các nhà lãnh đạo Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung, ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp Việt-Nam ðều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước 1945. 1.- Chủ đạo của Trung-quốc. Người Hoa thì tin rằng mình là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ, vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn minh Hoa-hạ, văn minh Nho-giáo đã kết thành chủ-đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở ðâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong ðến nghìn năm họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ ðánh chiếm, ðồng hóa hàng nghìn nước xung quanh, và nước của họ rộng lớn như ngày nay. Hầu hết những nước khác ðến cai trị họ, ðều bị họ ðồng hóa. Mông-cổ, Mãn-thanh bị đồng hóa, bị mất hầu hết lãnh thổ. Nhưng chủ-ðạo và sức mạnh của ngýời Trung-quốc phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt. Ghi chú của Tăng Hồng Minh Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert (Hòa-lan) hỏi : « Tôi thấy người Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng nhý tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trãm nãm, họ vẫn duy trì được dòng giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị ðồng hóa rất mau. Không lẽ chủ ðạo của Trung-quốc lại bị chủ ðạo của Gaulois xóa bỏ mau chóng như vậy sao ? ». Ðáp : « Thưa Giáo-sư, ðiều Giáo-sư hỏi, cũng là ðiều tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 ðến giờ. Khi ngýời Hoa tới bất cứ nước nào, họ cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau, bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại, sinh hoạt vãn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa, không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau, thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em người Hoa ngày ngày tới trường ðược bạn học, ðược thầy yêu thương, chúng thu nhập vãn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời giờ dạy con cái về vãn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ...ẩm thực. Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị ðừng buồn: trên khắp thế giới, khi người Việt tỵ nạn ðến ðịnh cư bất cứ nơi nào, ðều gặp nạn kỳ thị. Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ. Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh cửa tự do không hề đóng lại. Tôi xin trở lại với đầu đề. Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào ? Từ sách nào ? Do ai khởi xướng ? Ðầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các vãn nhân Trung-quốc không ði xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng ðâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trung-quốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại. Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu : Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm nãm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục. Trung-ương là kinh ðô của nhà vua. - Ðiện-phục ở ngoài kinh ðô nãm trãm dặm. - Hầu-phục ở ngoài cõi Điện-phục năm trăm dăm : trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phu. Hai trăm dặm nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu. - Kế tiếp Hầu-phục là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá vãn chương, giáo hóa quần chúng ; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo vệ quốc gia. - Sau cõi Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Ðông ở. Hai trãm dặm còn lại là nơi ðể ðầy tội nhân. - Cõi cuối cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương Nam ở, hai trãm dặm cuối cùng ðể ðầy người có tội nặng. - Ra khỏi cõi Hoang là... biển. Với lối phân chia lẫm cẩm, hài hước ấy, nãm nghìn năm qua, dân Trung-quốc coi là Kinh, tức những gì không thể thay đổi, rồi trở thành chủ đạo của tộc Hoa. Ghi chú của Tăng Hồng Minh: Giáo-sư khoa Chính-trị học J.Fr Longanacre (USA) hỏi : - Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con trời phát xuất từ ðâu ? Vào thời nào ? Ðáp : - Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ : Trời sinh ra dân, Ðặt ra vua, ra thầy, Ðều ðể giúp Thượng-ðế, Vỗ về dân bốn phương. Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học Iran) hỏi: - Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta ðều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di chuyển ði các nõi: Ra biển thành người Nhật, Nam-dương, Phi-luật-tân. Xuống Nam thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Ðại-hàn, Mông-cổ, sang phía Ðông-Bắc thành người Trung Ðông. Có ðúng thế không? Ðáp: - Thưa Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ cãn cứ vào truyền thuyết mà nói như vậy. Truyền thuyết cãn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì thư tịch cổ do những vãn nhân không ði ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà, tưởng tượng mà viết ra. Cả hội trường cùng im lặng. - Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ vãn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi ðem quân ðánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ ðại như ngày nay là ðúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển ðinh sinh sống các nơi... thì sai. Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa, do giống người từ Ðông Nam-á ði lên. Mà những người Ðông Nam-á có gốc từ Phi-châu. Họ ðến Nam-á từ lâu. Rồi tộc ðó lại kết hợp với những người cũng từ châu Phi ði lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 nãm trước. Chúng ta trở lại với ðầu ðề. Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết : Trời làm chủ Thiên-hạ, Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử. Ðến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết: Thiên hạ là quốc gia, Gốc của thiên hạ là quốc, Gốc ở quốc là gia. Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di, Ðịch ». Nghĩa là trong Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ. Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói : Ðông phương viết Di, Tây phương viết Nhung, Nam phương viết Man, Bắc phương viết Ðịch. Nghĩa là : Người ở Ðông phương gọi là Di, Tây-phương là Nhung, Nam phương là Man, Bắc phương là Ðịch. Di, Nhung, Man, Ðịch là những từ ðể chỉ mọi rợ. Bốn chữ ðó khi viết thì có bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn trùng, chó mèo ! Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ ! (Thính giả cười ồ lên !) . Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ . Nguời Nga là La-sát Quỷ. Ghi chú của Tãng Hồng Minh Sinh viên Marta Maria Fernandes hỏi : « Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục địa thì họ xưng là Trung-quốc ; của người ở Hương-cảng, Ðài-loan thì họ xưng là Trung-hoa. Ðôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi ðọc một số sách bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ Trung-quốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là người Tầu. Như trên Giáo-sư ðã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà có ? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy ? » Ðáp : « Như tôi ðã trình bầy : Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục ; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nõi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở ðây có tính chất chính trị, và ðịa lý. Còn từ Trung-nguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi. Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc danh này. Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ xưng là Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày 1-10-1949. 12 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin ðừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Ðông Nam là Hoa-âm, Ðông Bắc là Hoa-dương, giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là tên nước chứ không phải là tên chủng tộc. Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa ðể biểu tượng cho nước, vừa biểu tượng cho tộc. Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là triều Hán (207 trước Tây-lịch). Nãm 179 trước Tây-lịch, Triệu Ðà chiếm Âu-lạc (tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-ðẩu của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán. Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người Việt gọi họ là người Tầu ». Chúng ta trở lại với ðầu ðề. Từ nguồn gốc kinh ðiển cổ, người Hoa tự cho mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y ðồng tử trên thượng giớí giáng sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại. 2.- Chủ đạo của Việt-Nam. Như trên đã trình bầy, với nguồn gốc lập quốc, ngýời Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang ðầu thế kỷ thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong ðó có hơn trãm là nữ. Cuộc khởi nghĩa ðuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều ðại Lĩnh-Nam. Phụ nữ ðó là vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời ðại ðều có tinh thần riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt ðã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa ðến ðâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại với nhau ðể bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ ðạo tộc Việt, ðều thành công trong việc giữ ðược quyền cai trị dân. Gần ðây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam ðang trên ðà phục hưng chủ ðạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường 13 Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ của hơn hai triệu ngýời Việt ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình. Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng. Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân ðội Hoa-kỳ và ðồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc! Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói ðến chữ chủ ðạo tộc Việt bao giờ. Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Ðình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoa-kỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc. III. ĐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT. Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm : 1.- Thuyết của giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ý-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-Lạc. 2.- Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc. 3.- Thuyết của học giả Ðào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. Tất cả các thuyết này ðều cãn cứ vào những thư tịch cổ Trung-quốc, Việt-Nam. Mà những thư tịch này không có một biện chứng khoa học nào cả. Cuối cùng các giáo sư ðồng nghiệp ðã nhận định rằng : Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ¨¨ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận : « Thoạt kỳ thủy, trên vùng ðất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống người ðã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á, ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ Trung-quốc. Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Ngýời Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Ngýời Mân-Việt ði xuống Giao-chỉ. Ngýời Việt di cư từ nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt ðều ðúng. Ðó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam nãm 1954 ; chứ không phải họ là người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. » Chính vì lý do dùng hệ thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Ghi chú của Tăng Hồng Minh: Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung hỏi: - Thưa Thầy, con có ðọc một bộ sách của nhà vãn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ Mã-lai. Xin Thầy cho biết ý kiến? - Tôi chưa ðọc bộ sách ðó, vả có ðọc tôi cũng không thể ðem ra bàn luận ở ðây. Giáo-sư Viện-trưởng: - Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 nguười ðã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau ðây ðược ghi vào album nghiên cứu: - Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tý Mã Thiên. - Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu BEFEO XXIII. 138-244. - Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII 264-332. - Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959. - Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai vãn hóa Việt-Nam. - Gần ðây, giáo sý Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb nãm 1985 ở Canada. - Một số các bài của giáo sý Lương Kim Ðịnh, Nguyễn Ðãng-Thục và Tiến-sĩ Thái Vãn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc.. Một số tác giả viết chỉ với mục ðích khoa trương, lập dị, hoặc không có cãn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không ðem ra bàn ở ðây: - Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb. - Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí Đại-học Huế tháng 4 năm 1963. - Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phýõng pháp y-khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới ðây. Tôi ðã được giáo sư Tarentino về khoa Anatomie của Ý và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp ðỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch, lãnh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan. Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Ðông tới biển Nam-hải. Nghĩa là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Ðông-dương. 1. Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ. Biện chứng cãn bản của người nghiên cứu y-khoa là : « Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do » Biện chứng này ðã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi ðã trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân ðều theo ðó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những ðền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác : « Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ». Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi tìm ra sự thật. Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra kích thước của ba mũi tên ðồng của nỏ này.(4) Trước tôi ðã có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ tìm được tại Trung và Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại Đồ-đá, thì 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien, Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại tìm ra 32 xương sọ, thuộc thời ðại Ðồ-sắt (1000 nãm trýớc Tây-lịch ðến 300 sau Tây-lịch), thì 22/27 thuộc chủng loại Mongoide. Với 32 cái thì không thể kết luận rằng đó là toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoide. Những tác giả trên đã căn cứ vào chỉ số xương sọ mà kết luận. Nhưng y học ðã tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ ðể ðịnh nguồn gốc ðã bị đánh đổ. Nguyên do : Khi con ngýời di cư ðến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống, bị thực phẩm làm thay ðổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những ngýời ðang sống của 35 dòng họ tại Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những dòng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối cùng chúng tôi tìm ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lãnh thổ Văn-lang, tới hồ Động-đình. (5) Ghi chú của Tăng Hồng Minh Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi: - ADN là gì? Tôi nghe nói, cũng như ðọc trên báo hoài, mà không biết rõ chi tiết cái hệ thống này? Trần Đại-Sỹ: - Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề này trả lời. Vareilla Pascale: - Cảm ơn Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ ðã cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier. ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNA. ( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, vì quá chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoa.) 2. Những vấn đề. Ranh giới phía Nam của nước Văn-lLng tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Ðộng-ðình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hải. Có thực như thế không? Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới ðây là huyền thọai, huyền sử mà tôi ðã bấu víu vào để đi nghiên cứu. Tôi cần tra cứu cho ra: Vấn ðề thứ nhất, Cổ sử Việt ðều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Ðộng-ðình. Có thực nhý vậy không? Truyền thuyết nói Ðế-Minh lập ðàn tế cáo trời ðất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Ðế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh-Dương sau thành Văn-lang. Núi Ngũ-lĩnh, hồ Ðộng-ðình nay vẫn còn. Nhýng liệu có di tích gì chứng minh chăng? Tôi phải đi tìm Ngũ-lĩnh, hồ Động-đình. Vấn đề thứ nhì, Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, ðều lên núi Tam-sơn trên hồ Ðộng-ðình hưởng thanh phúc ba nãm. Lúc ngài lên núi có chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải ði tìm núi Tam-sơn ở hồ Ðộng-ðình. Liệu trên núi này có di tích gì về cuộc tình năm nghìn năm trước chăng? Vấn đề thứ ba, Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương. Cánh đồng Tương ở đâu? Nếu có cánh đồng Tương thì cũng có thể kết luận rằng biên giới nước Vãn-lang tới hồ Ðộng-ðình. Tôi phải đi tìm. Vấn đề thứ tư, chứng tích thứ nhất xác định: Bộ Sử-ký của Tư-mã, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt là Triệu-Ðà thường ðem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận, Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng này. Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông Trường-giang. Vấn ðề thứ nãm, Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng: - Khi Trưng Nhị, Trần Nãng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan ðem quân ðánh Trường-sa (39 sau Tây-lịch), thì nữ týớng Trần Thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật ðó là Tương-giang thông với hồ Ðộng-ðình). - Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch). Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Ðộng-ðình là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mã Viện, Lýu Long (40 sau Tây-lịch). Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Ðộng-ðình không? Nếu có thì ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đình. Vấn đề thứ sáu, Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng thuộc Tượng-quận, vì quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâu? Có trận này không? Nếu có trận này thì ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới Ba-thục (Tứ-xuyên.) Thưa Quý-vị, Nhưng các sử gia gần ðây (1900-1975) ðều ðặt nghi vấn rằng : Làm gì biên giới thời Văn-Lang rộng như vậy? Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Lại cũng có những người dốt nát (1975-1991), không ðủ sách ðọc, không theo kịp sự tiến triển của y học, họ chỉ ðọc những tài liệu sai lầm, rồi họ như con ngựa kéo xe, chỉ biết có vậy, chúng tôi thấy họ ngu dốt quá, nên không trả lời, cũng nhuư giải thích. Tôi cãn cứ vào những chứng trạng trên mà ði tìm nguồn gốc. V. ĐI TÌM BIÊN GIỚI NÝỚC VÃN-LANG 1. Núi Ngũ-lĩnh. Cuối nãm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay ði Bắc-kinh, rồi ðổi máy bay ở Bắc-kinh ði Trường-sa. Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Ðộng-ðình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-ðài, Tương-ðài, cánh ðồng Tương ðều nằm ở tỉnh này. Tôi ði nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, vì trong thư giới thiệu các giới chức y-khoa chỉ xin ðược giúp ðỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở du-lịch, ty vãn hóa ðịa phưõng, họ ðều tưởng tôi tới Trường-sa ðể nghiên cứu sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thì giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân ðiếm nằm trên ðại lộ Nhân-dân. Tôi mua cuốn ðịa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty vãn hóa, sở bảo vệ cổ-tích, ðại-học vãn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên vãn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Ðầu tiên tôi ði tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm dãy núi gần như ngãn ðôi Nam, Bắc Trung-quốc : - Một là Ðại-dữu lĩnh. - Hai là Quế-dương, Kỳ-ðiền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Ðô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh. - Nãm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí : - Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, ðến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-ðông. - Ngọn Ðại-dữu chạy từ huyện Ðại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây ðến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-ðông. - Ngọn Cửu-chân, Ðô-lung chạy từ Ðạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh Quảng-tây. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam ðến Liên-huyện tỉnh Quảng-Ðông. - Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây . Lập tức tôi thuê xe ði một vòng thăm các núi này. Tôi đi mất mười ngày, trải gần 15.000 cây số. Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi ðã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này : - Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi chia ðịa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa ðông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh nãm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Dương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Ðộng-ðình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trýờng-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ Ðộng-ðình mới thuộc lãnh địa Việt. Kết luận : « Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nõi phân chia lãnh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ». Ánh sáng ðã soi vào nghi vấn huyền thọai. Còn tiếp ================== Xin quý vị và anh chị em xem toàn bộ bài viết của giáo sư Trần Đại Sĩ do Thanhdc đưa lên ở bài dưới.
    1 like
  14. YÊU PHỤ NỮ Thân mến. Hôm nào Yeuphunu rảnh ghé qua sư phụ tặng cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương".
    1 like
  15. Phạm cách phong thủy rất nặng. Trong không quá 6 năm nữa rối mù. Năm nay là năm thứ nhất. Chờ xem, Đây là một thành phố bị phạm cách sát nặng nhất trong phong thủy theo cách nhìn của Địa Lý Lạc Việt. Đó là các cách "Xuyên tâm sát". "cung tiễn sát" , "thập tự sát" và một cách sát nữa chỉ lưu truyền trong dân gian là "Âm ma đại sát". Đó là giữa thành phố một bãi cỏ xanh rờn như bãi tha ma. Việc sử dụng bãi cỏ giữa Trung tâm, có thể biến cách thành đại phát. Nhưng không phải tầm cỡ ứng dụng của phong thủy gia Tàu đã thiết kế thành phố này.
    1 like