-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 03/10/2014 in all areas
-
Giải Nobel Vật Lý 2012 và phép biện chứng duy vật khoahoc.com.vn Giải thưởng Nobel Vật lý 2012 được công bố trao cho hai nhà khoa học: Ha-rốt-chơ (Haroche, Pháp) và Uai-len-đơ (Wineland, Mỹ) vì công trình nghiên cứu của họ được cho rằng “có bước đột phá về vật lý lượng tử”, “có tính khả thi cao trong việc đo lường và kiểm soát riêng rẽ từng hệ thống lượng tử. Đây là một kết quả nghiên cứu mà giới vật lý thế giới đã mong đợi từ lâu và hôm nay, nghiên cứu này đã trở thành hiện thực”. Thậm chí theo Ủy ban Nobel, “Ha-rốt-chơ và Uai-len-đơ đã mở ra cánh cửa cho một kỷ nguyên thực nghiệm mới với vật lý lượng tử khi chứng minh: có thể quan sát trực tiếp các hệ lượng tử riêng rẽ mà không phá hủy chúng”. Trong đoạn mở đầu ở trên, tác giả đã cố ý đánh dấu chữ “lượng tử” bằng chữ nghiêng. Vậy, “lượng tử” là gì? “Vật lý lượng tử” là cái gì? Và “bản chất của công trình được giải thưởng Nobel vật lý 2012” là gì? Nói ra thì dài nhưng tác giả sẽ cố gắng tóm lược tới mức ngắn gọn nhất có thể dành cho những người không chuyên, theo quan điểm của phép biện chứng duy vật. Thế giới vật chất trong đó chúng ta đang sống được các nhà vật lý chia ra thành hai “mảng”: “thế giới vĩ mô” bao gồm các vật thể có kích thước lớn hơn nguyên tử, phân tử (có thể nhìn thấy được bằng mắt thường, kính hiển vi hay kính viễn vọng), còn “thế giới vi mô” – bao gồm các vật thể nhỏ dưới kích thước đó (không thể nhìn thấy được). Bằng các thí nghiệm ở nửa đầu thế kỷ trước, người ta cho rằng giữa “vĩ mô” và “vi mô” có một sự đột biến về chất mà không thể nào dung hoà được: Thế giới “vĩ mô” tuân theo cơ học cổ điển của Newton và thuyết tương đối của Einstein (còn gọi là thế giới “tất định”), còn thế giới “vi mô” lại tuân theo “Cơ học lượng tử” (còn gọi là thế giới “bất định”). Nguyên do là vì dường như ở thế giới vi mô, sự trao đổi năng lượng không xảy ra liên tục mà chỉ theo từng “khẩu phần nhỏ” gọi là “lượng tử”. Tính “lượng tử” này còn được thể hiện ở mô men động lượng quỹ đạo của điện tử trong nguyên tử. Và hơn thế nữa, để dung hoà với việc không thể giải thích được các vân sáng tối xen kẽ, được tạo bởi ánh sáng khi đi qua hai khe hẹp (có vẻ như ánh sáng là “sóng”?) với kết quả thí nghiệm quang điện theo đó ánh sáng chắc chắn phải là hạt, người ta buộc phải chấp nhận một khái niệm hết sức phi lý: “lưỡng tính sóng-hạt”. Và kết quả là dẫn đến việc thừa nhận tính bất định của thế giới hạ nguyên tử: lúc là hạt, lúc lại là sóng. Từ đó, người ta xây dựng nên một “lý thuyết” nhằm lý giải hành xử của thế giới vi mô, nhưng vẫn chấp nhận sự “phi lý” đó gọi là “cơ học lượng tử”, hay như trong bài báo đã nêu là “vật lý lượng tử”. Tuy nhiên, khi đó lại phải chấp nhận những phi lý mới: tính bất định về vị trí trong không gian – người ta không thể biết chắc một hạt ở vị trí nào mà chỉ là xác suất xuất hiện của nó, và tính bất định về thời gian, không tuân theo nguyên lý nhân quả. Chính vì thế, khái niệm “lượng tử” bây giờ còn được hiểu đồng nghĩa với “sự bất định về không gian-thời gian” – đây là tính chất không bao giờ quan sát thấy ở các vật thể vĩ mô. Nhà khoa học Serge Haroche (Pháp) và nhà khoa học David J.Wineland (Mỹ) đạt giải Nobel Vật Lý 2012 Mặc dù vậy, khái niệm “lượng tử” được sử dụng trong các thông báo về giải Nobel vật lý 2012 lại không liên quan gì tới các tính chất bất định vừa nói tới ở trên; nó chỉ có một nghĩa duy nhất đó là “vi mô”: hạt “lượng tử”, hệ “lượng tử”... đồng nghĩa với hạt “vi mô”, hệ “vi mô”... – nhưng tất cả chúng vẫn tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển là “tính tất định”: có vị trí xác định trong không gian, bởi vậy mới có thể đo lường được chúng, và có quỹ đạo xác định theo thời gian, bởi vậy mới có thể điều khiển được chúng. Thật vậy, theo như bản “Mô tả khoa học của giải Nobel vật lý 2012”, trong thí nghiệm của Uai-len-đơ, i-ôn được giữ bên trong một ống nghiệm bao quanh bởi điện trường tĩnh và điện trường dao động điều hoà. Ông sử dụng chùm xung la-de (laser) tử ngoại để triệt bỏ chuyển động nhiệt của i-on và nhờ điện trường kể trên để điều khiển trạng thái năng lượng của i-ôn: đưa điện tử ngoài cùng của nó lên các quỹ đạo tương ứng với hai tần số có giá trị kề cận sai khác nhau một “lượng tử”. Ha-rốt-chơ lại có hướng tiếp cận trái ngược: ông kiểm soát và đo các hạt phô-tôn cô lập bằng các nguyên tử Rít-bớc (Rydberg) đã được biết – nó lớn hơn hàng nghìn lần nguyên tử bình thường do điện tử ngoài cùng bị kích thích lên quỹ đạo rất xa hạt nhân và có thể hành xử giống như một hệ hành tinh kiểu như Mặt trời và Trái đất (tức là không có tính “lượng tử” nữa). Bên cạnh đó, ông còn tạo ra hạt phô-tôn vi sóng bật tới và nảy trở lại giữa hai gương cầu “siêu sáng” đặt đối diện nhau trong khoảng thời gian “khá dài”: gần 1/10 giây. Khi thả lần lượt các nguyên tử Rít-bớc bay ngang qua khe giữa hai gương, chúng sẽ lần lượt tương tác rất yếu (nếu có thể) với photon vi sóng “độc nhất” trong đó. Kết quả là sau khi ra khỏi hai gương, nếu nguyên tử nào tương tác được với photon, sẽ thay đổi trạng thái năng lượng và sau khi đi qua gương sẽ được phát hiện nhờ một bộ cảm biến (detector). Nói cách khác, thí nghiệm của Uai-len-đơ và Ha-rốt-chơ đã thành công trong việc chứng minh tính đúng đắn của các quy luật cơ học cổ điển ngay cả đối với những hạt vi mô như nguyên tử, điện tử, phô-tôn, tức là khẳng định tính “tất định” của thế giới vật chất mà trước đó người ta cho rằng không thể. Cái được gọi là “sự chồng chập” (superpositions) được sử dụng trong bản “Mô tả” chỉ ứng với tác động của các hạt tham gia tương tác, hoặc trạng thái năng lượng của chúng, chứ tuyệt nhiên không phải là chính bản thân các hạt đơn lẻ đó như ở trường hợp “Con mèo Srô-đing-gơ (Schrödinger)” vừa sống, vừa chết(?) – là nghịch lý của cơ học lượng tử khi phải chấp nhận tính bất định về không gian-thời gian. “Sự chồng chập” tác động và trạng thái này vốn là bản chất của thế giới vật chất mà chúng ta đang sống, chứ không chỉ là “đặc quyền” của thế giới vi mô: mỗi chúng ta đồng thời chịu tác động “chồng chập” của Trái đất, Mặt trăng, Mặt trời v.v.. cũng như đang phải tồn tại trong trạng thái năng lượng “chồng chập” với tất cả thế giới đó, nhưng sống là sống, chết là chết chứ không thể vừa sống lại vừa chết được. Có một điều không thể không nói thẳng ra rằng: giữa vật lý hiện đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác hoàn toàn không có một tiếng nói chung nào. Bắt đầu từ những phạm trù cơ bản nhất như vật chất, không gian, thời gian, cho tới các quy luật cơ bản như “đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập”, “lượng đổi chất đổi”, cũng như các nguyên lý cơ bản như “nguyên lý thống nhất tính vật chất của thế giới”, “nguyên lý nhân quả”… Sự vi phạm thô bạo những nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa vật lý của thế kỷ XX đến bờ vực của sự khủng hoảng không lối thoát: không thể giải thích được một cách nhất quán hành xử của các thực thể vĩ mô và vi mô, thậm chí ngay cả ở lĩnh vực vĩ mô cũng chứa đựng đầy rẫy những nghịch lý và bất cập, chấp nhận vô điều kiện những giả thiết phi lý, trái với tự nhiên, bất chấp lô-gíc, bất chấp tính nhân quả… Kết quả là phải thừa nhận chỉ mới hiểu biết được có 4% những gì cấu thành nên vũ trụ mà họ gọi là “vật chất”, còn lại 26% là “vật chất tối” và 70% cái gọi là “năng lượng tối”(?). Ngay trong sơ đồ phân loại “cấu trúc” của vũ trụ này đã cho thấy việc đánh đồng “vật chất” với “năng lượng” (vốn chỉ là một đặc tính của vật chất) đã cho thấy sự lộn xộn trong tư duy của các nhà vật lý theo chủ nghĩa duy tâm siêu hình là như thế nào rồi. Và lẽ đương nhiên nó cũng chỉ là hệ quả của lý thuyết “Vụ nổ lớn” (Big Bang) mà từ “không có gì” đã sinh ra vật chất (bao gồm cả không gian, thời gian) và cả vũ trụ như chúng ta đang quan sát thấy – như thế có khác gì thừa nhận: “Chúa đã sáng thế” đâu? Vậy là từ những thiếu hiểu biết thế giới vật chất hữu hình và về phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các nhà toán học núp dưới danh “vật lý học” đã vô tình xoá sổ một bộ môn khoa học về thế giới tự nhiên là vật lý để thay thế bởi một thứ “giả vật lý” duy tâm siêu hình: cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Giải thưởng Nobel vật lý năm nay rất may là được trao cho các công trình thực nghiệm chứ không phải lý thuyết, nên mặc dù cách hành văn và diễn giải các thí nghiệm trong “Mô tả khoa học của giải Nobel vật lý 2012” vẫn vay mượn những thuật ngữ của vật lý lượng tử, nhưng không vì thế mà làm thay đổi được bản chất vật chất của thế giới tự nhiên hữu hình: chúng vẫn tuân theo các quy luật của vật lý cổ điển, chỉ có điều ở mức tinh tế hơn theo quy luật lượng đổi chất đổi của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà thôi. Chính vì thế, có thể nói các công trình thực nghiệm được trao giải lần này về thực chất là bằng chứng hùng hồn về sự cáo chung của cái gọi là “vật lý lượng tử”, mở đầu cho sự cáo chung của “vật lý hiện đại” trong thời gian không xa nữa Vũ Huy Toàn =============== Cá nhân tôi không ý kiến gì về kết luận của tác giả ở đoạn cuối bài. Nhưng rất quan tâm đến phần đầu giới thiệu về vật lý lượng tử và kết luận cuối cùng của giải vật lý Nobel, là: Bởi vì, toàn bộ đoạn giới thiệu nội dung về sự quan hệ giữa thế giới vi mô và vĩ mô, quan hệ tương tác lượng tử qua thí nghiệm trực quan với kết luận: Điều này cho thấy một phát minh mới nhất của khoa học hiện đại đã xác định tính hợp lý thể hiện trong những quy luật của sự tiến hóa, của mọi mối quan hệ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Chính vì tính hợp lý đó mới dẫn đến tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, trong tiêu chí khoa học mà tôi thường nói đến. Và điều này Lý học Đông phương đã thể hiện từ lâu , qua nền tảng tri thức của là thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt. Học thuyết này và những ứng dụng của nó mô tả toàn bộ sự phát triển của ý thức trong lịch sử phát triển của vũ trụ: Đó là ý niệm về tính cảm ứng, tính phân loại (Ngũ hành), tính hợp lý , tư duy trừu tượng, tư duy biện chứng (Mô tả sự vận động và tương tác có tính quy luật của các phạm trù Âm Dương, Ngũ hành), đều được tổng hợp trong học thuyết này. Nó cũng mô tả mọi sự vận động trong lịch sử vũ trụ. Từ trạng thái khởi nguyên (Thái cực) cho đến mọi quy luật vận động của các thiên hà, các hạt vật chất nhỏ nhất và đặc biệt cả những trạng thái vật chất mà nền văn minh hiện đại chưa biết đến....cho đến mọi quy luật vận động của xã hội, cuộc sống , đến từng hành vi của con người với khả năng tiên tri. Những mô hình biểu kiến của học thuyết này - nhân danh nền văn hiến Việt - hoàn toàn thỏa mãn những tiêu chí khoa học khó tính nhất. cho một lý thuyết. Giải Nobel vật lý 2012 là một phát minh khoa học mới nhất xác định tính hợp lý trong sự vận động của toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô (Tính tất định). Điều này đã xác định tính hợp lý trong tiêu chí khoa học mà tôi đã trình bày và đó cũng là chuẩn mực để xác định tính khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất - nhân danh nền văn hiến Việt. ===================== PS: Khái niệm về "tính tất định" trong vật lý lý thuyết thực chất là sự mô tả mối liên hệ có tính hợp lý trong tự nhiên, nó là tiền đề của tư duy biện chứng là một trong giai đoạn phát triển của ý thức. Trước đây, giới vật lý lý thuyết cho rằng trong cấu trúc trạng thái vật chất vi mô không có tính tất định (Hợp lý), mà họ gọi là "bất định". Đấy có thể là nguyên do giáo sư Trọng cho rằng: Chỉ có toán học mới có tính hợp lý. Sau đó, trước sự biện minh của tôi, giáo sư Trọng thừa nhận tính hợp lý có trong vật lý cổ điển Newton (Lý thuyết vật lý cho những vật thể vĩ mô - đã mô tả trong bài báo). Tuy nhiên giải Nobel vật lý 2012 đã xác định tính Tất định ở cả trong thế giới vi mô và đã mô tả trong bài báo. Hay nói một cách khác: Tri thức khoa học hiện đại cập nhật mới nhất đã xác định mối liên hệ tương tác có tính quy luật tất định ở mọi trạng thái vật chất mà nền khoa học hiện đại nhận thức được chính là tính hợp lý - yếu tố căn bản trong tiêu chí khoa học, mà tôi đã trình bày từ lâu trên diễn đàn. Đến đây, quý vị và anh chị em đã nhận thấy rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành - nhân danh nền văn hiến Việt - chính là lý thuyết thống nhất , và là một hệ thống tri thức vượt trội khi nó mô tả toàn bộ lịch sử vũ trụ một cách hợp lý, có hệ thống và nhất quán, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Tất nhiên nó xác định tính tất định - hợp lý - về các mối liên hệ tương tác trong sự vận động của cả vũ trụ này.2 likes
-
Qua thí nghiệm này cho thấy, bằng những phương tiện khoa học, đã xác định được qua nhận thức trực quan (Vật lý thực nghiệm), rằng: tính hợp lý lý thuyết cho mọi hiện tượng tương quan trong vũ trụ là không hề thay đổi. Qua đó xác định luận điểm của tôi rằng: Giữa một lý thuyết, một giả thuyết khoa học thì tính hợp lý thuyết là một yếu tố cần, khác hẳn nhận thức trực quan về tính bất định - khi chưa có thí nghiệm này. Hay nói theo một cách khác, như tôi đã trình bày: Tính hợp lý lý thuyết và sự nhận thức một thực tại hoàn toàn khác nhau. Yếu tố hợp lý trong tiêu chí khoa học được tôi ứng dụng một cách tự tin, ngay cả trước khi chưa có thí nghiệm của hai nhà khoa học được giải Nobel được công bố. Chính vì bản chất của Lý học - nhân danh nền văn hiến Việt - đã xác định một cách chắc chắn rằng: Tính hợp lý (Tất định) không chỉ thể hiện trong quy luật phát triển của ý thức, mà cũng là bản chất tất định của toàn thể vũ trụ từ khởi nguyên cho đến mãi mãi về sau. Điều này thể hiện qua khả năng tiên tri qua các phương pháp tiên tri Đông phương, mặc cho lịch sử biến động và phát triển của toàn bộ nền văn minh nhân loại, thì hiệu quả của khả năng tiên tri vẫn không hề thay đổi. Hiện tượng khách quan này của các bộ môn dự báo Đông phương qua hàng thiên niên kỷ đã chứng tỏ một quy luật vũ trụ tất định trong mọi vận động của nó . Phải có tính quy luật mới có khả năng tiên tri. Và chính điều này đã là một yếu tố quan trong xác định thuyết ADNh chính là một lý thuyết thống nhất khi nó thể hiện qua các phương pháp tiên tri, mô hình tiên tri cho hầu hết các vấn đề thiên nhiên, xã hội và con người.1 like
-
Nhớ lại ngày xưa, khi tôi còn sinh hoạt trên tuvilyso.com, có comment trong một cuộc tranh luận kiểu hàng chợ vào lúc bấy giờ, đại ý là: Nếu lý thuyết của tôi sai, toàn bộ nền khoa học thế giới sẽ sụp đổ. Nhiều người lúc bấy giờ cho rằng tôi ngạo mạn. Nhưng thực tế lúc ấy tôi chỉ mô tả một thực tại khách quan và không hề có ý nghĩ ngạo mạn gì. Bây giờ, qua luận điểm của ông Trọng , giáo sư vật lý lý thuyết, một ngành học rất hiếm hoi ở Việt Nam và là một trong những ngành khoa học thuộc loại mũi nhọn của nền văn minh nhân loại, mới thấy tôi nói đúng và hoàn toàn khách quan. Nếu như tất cả các lý thuyết và giả thuyết khoa học đều không cần tính hợp lý - theo luận điểm của giáo sư Nguyễn Văn Trọng - thì tất nhiên nó sụp đổ ngay từ trong ý tưởng. Trong trường hợp này, những giải Ig Nobel sẽ là những giải thưởng danh giá. Bởi nó không có tính hợp lý. Ở đây tôi chưa nói đến tính hợp lý trong các mối quan hệ xã hội, từ thượng tầng kiến trúc đến dân sự và kinh tế. Trong một cấu trúc xã hội cần có những chuẩn mực xã hội. Thiếu chuẩn mực xã hội đủ để cho nó hỗn loạn. Nhưng chuẩn mực xã hội lại đặt trên cơ sở tính hợp lý. Cho dù là tính hợp lý cục bộ. Qua đó đủ thấy rằng tính hợp lý bao trùm lên mọi lĩnh vực của ý thức, ngay cả ở những động vật cao cấp, chưa nói đến con người và sự thể hiện cao cấp hơn là các giả thuyết, lý thuyết khoa học. Phủ nhận tính hợp lý thì toàn bộ nền khoa học thế giới sẽ sụp đổ. Đây là một thực tại khách quan và tôi không hề ngạo mạn. Ngay cả những lý thuyết khoa học hiện đại, như: Lý thuyết dây, lý thuyết lượng tử...Nó có thể chưa hoàn chỉnh so với sự phản ánh thực tại của tự nhiên. Nhưng chí ít nó phải có tính hợp lý trong tương quan những luận đề thuộc nội hàm của nó. Xét về tầm bao trùm không gian và lịch sử vũ trụ thì tất cả những lý thuyết của nền văn minh hiện nay thì đều chỉ phản ảnh tính hợp lý cục bộ. Bởi vậy, nó mới chưa phải là lý thuyết thống nhất - đang là mơ ước của nền văn minh hiện đại. Do đó, khi tôi xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất thì tất nhiên nó thuộc dạng kiến thức vượt trội so với nền tảng trí thức của nền văn minh hiện đại. Tất nhiên, không phải ai cũng dễ dàng nhận thức được điều này. Nhưng để phản biện một lý thuyết thống nhất, như luận điểm của giáo sư Nguyễn Văn Trọng thì quả là không thể gọi là xuất sắc.1 like
-
Tôi thực sự không biết gì về giáo sư Trọng. Khi viết bài biện minh trước sự phản biện của ông ta, tôi lên google tìm kiếm thì chỉ có hai bài trên Tuần Việt Nam viết về vị giáo sư này. Qua đó, mới thấy rằng: Việc chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến của tôi nó khó khăn như thế nào. Bởi vì, với một người ít nhất thuộc hàng giáo sư vật lý lý thuyết mà phát biểu nhận thức của ông ta như vậy thì rất khó có chuẩn mực để phân biệt đúng sai. Khi đã không thể phân biệt đúng sai vì tính hợp lý là yếu tố tối thiểu bị phủ nhận thì không thể có một chuẩn mực để tìm tới chân lý, cho dù đó là chân lý đơn giản nhất trong nhận thức của con người. Hậu quả của những nhận thức thể hiện ở cách phản biện phủ nhận tính hợp lý sẽ ra sao thì chắc những bậc trí giả thật sự sẽ hiểu sâu sắc hơn. Cũng trong cuộc trao đổi này, có người cho rằng: những đồ hình Âm Dương Việt không phải cơ sở để chứng minh thuyết ADNh thuộc về văn hiến Việt. Nhưng cũng thật rất tiếc: Tôi chưa bao giờ phát biểu rằng: Đồ hình AD Việt là cơ sở để chứng minh cho cội nguồn Việt sử cả. Hơn nữa, rất nhiều lần tôi xác định trên diễn đàn, trong các bài viết và ngay cả trong cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" rằng: "Tôi không bao giờ coi việc giải mã những di sản văn hóa truyền thống là luận cứ khoa học để chứng minh cho Việt sử 5000 năm văn hiến". Nếu tôi nhớ không nhầm thì tôi nhắc điều này ít nhất hai lần trong cuốn sách. Nhưng họ lại cứ bám vào đấy để chỉ trích tôi là "mơ hồ", là "không có cơ sở khoa học". Hình như họ cố tình như vậy, chứ tôi không nghĩ họ lại không thể hiểu. Vì cũng toàn là giáo sư, tiến sĩ cả.1 like