-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 24/07/2014 in all areas
-
Quán vắng!
Đại Phúc and 4 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
LỄ BẠC LÒNG THÀNH Con lạy cụ Thần Sấm, thần Sét, con lạy bà Thiên Lôi. Con lạy ông làm mưa, bà mần gió. Dạ! Lễ đầu là chuối xanh muối ớt, nhưng lễ bạc lòng thành, được thánh thần chứng giám, con thắng mấy quả phoengshui. Hôm nay lễ tạ gồm cả cháo gà, gà nguyên con, thịt heo quay một miếng lớn, trái cây, trà rượu đầy đủ.... Con kính cẩn dâng lên các vị! Tuy ăn mặc giản dị, vận sơ mi theo lối Tây, quần đùi đi dép, nhưng không dám "Ở trần đóng khổ"ạ. Con còn lang thang giang hồ mần phoengshui, lần sau có độ nào, nhưng mưa gió thất thường, kính xin thần linh trợ giúp. Con gần 70 tuổi, vẫn phải kiếm sống, Xin thánh thần cho con độ nhiều nhiều để con trả nợ. Híc! Các cụ Việt Nho dậy: "Trí thì cao siêu. lễ thì khiêm hạ". Lần sau con cứ chuối xanh, muối ớt gọi là "Lễ bạc lòng thành", cầu xin chứng giám. Còn hơn mâm cao, cỗ đầy mà coi thường tổ tiên thì cũng không ra gì ạ.5 likes -
Thân gửi các anh chị em thành viên, hội viên và học viên của Diễn đàn Lý Học Đông Phương. BQT Diễn đàn Lý Học Đông Phương đã hoàn tất quá trình thay đổi và nâng cấp với những nội dung sau: Thông tin bản quyền và nâng cấp mã nguồn diễn đàn Mã nguồn diễn đàn nâng cấp lên phiên bản mới nhất: Nâng cấp phiên bản mã nguồn mới nhất Nâng cấp, bổ xung tiện ích và chức năng thành viên Giao diện và chức năng, tiện ích: Giao diện Diễn đàn phát triển hoàn toàn mới theo cách mà chúng tôi cho rằng phù hợp nhất đối với các thành viên. Các chức năng cơ bản của diễn đàn như: Tạo chủ đề mới, Gửi bài viêt, Tham gia thảo luận, Gửi email, Tin nhắn cá nhân... được giữ nguyên và cải tiến cách thức sử dụng. Cập nhật các chức năng bổ xung cho thành viên và Quản trị viên. Thông tin bản quyền Bản quyền diễn đàn thuộc về Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương tại địa chỉ website http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/ Tất cả các nội dung ban đầu trên http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/ được tạo ra bởi các chủ sở hữu trang web, bao gồm nhưng không giới hạn văn bản, thiết kế, mã, hình ảnh, hình ảnh và video được coi là sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu trang web, cho dù có bản quyền hay không, và được bảo vệ bởi DMCA Dịch vụ Bảo vệ bằng cách sử dụng kỹ thuật số Bản quyền thiên niên kỷ Luật Tiêu đề 17 Chương 512 © (3). Tái bản hoặc tái bản của nội dung này là bị cấm nếu không được phép. Nội dung các bài Nghiên cứu, Bài viết tham luận, Giáo trình, lý thuyết Phong Thủy Lạc Việt, Luận tuổi Lạc Việt... được xuất bản bởi thành viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương có bản quyền thuộc về Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương và được bảo vệ. Thông tin bảo vệ bản quyền chi tiết: https://www.dmca.com/Protection/Status.aspx?ID=96021925-049b-4cc6-909e-2be2b32538fa&PAGE_ID=aHR0cDovL2RpZW5kYW4ubHlob2Nkb25ncGh1b25nLm9yZy52bi81 Những thay đổi về Quyền và Chức năng của thành viên Nhóm thành viên: Các thành viên được tổ chức vào các nhóm trên diễn đàn theo quy định chung. Mỗi nhóm có giới hạn các quyền và các chức năng khác nhau. Hoạt động tuân thủ theo nội quy của diễn đàn và dưới sự quản lý của Ban Giám Đốc Trung Tâm và Ban Quản Trị diễn đàn. Thông tin chi tiết các nhóm thành viên: Khách / Thành viên chưa đăng nhập: Chỉ có quyền xem bài viết ở các chuyên mục cho phép Chờ kích hoạt: Là thành viên đã đăng ký tài khoản, dùng tài khoản đã đăng ký để đăng nhập vào diễn đàn nhưng chưa được kích hoạt: Chỉ có quyền xem bài viết ở các chuyên mục cho phép Thành Viên Diễn Đàn:Được phép tham gia các chuyên mục Tư Vấn nhưng không được phép tạo chủ đề mới. Không cung cấp chức năng Gửi email và Tin nhắn cá nhân Hội Viên: Được phép tham gia các chuyên mục Tư Vấn, Trang Hội Viên Hội Viên Ưu Tú: Được phép tham gia các chuyên mục Tư Vấn, Trang Hội Viên và các chuyên mục Trao Đổi Học Thuật Trung Tâm Nghiên Cứu: Nhóm các thành viên là nhân viên thuộc Trung Tâm bao gồm Giảng viên các lớp Phong Thủy, Luận tuổi và có các quyền/chức năng riêng. Thông tin các lớp học Phong Thủy Lạc Việt và Luận Tuổi Lạc Việt:Học viên của các lớp này tạm thời bị ngừng cung cấp quyền truy cập vào các lớp học cũng như nội dung bài giảng, lý thuyết cho đến khi có thông báo mới. Trong quá trình nâng cấp và phát triển, toàn bộ tin nhắn cá nhân của các thành viên bị xóa bỏ nhằm giảm tải dung lượng cơ sở dữ liệu của Diễn đàn và không được hồi phục4 likes
-
LỜI MỞ ĐẦU. Chúng tôi bắt đầu loạt bài viết về chủ đề này, bằng sự giới thiệu về một buổi tọa đàm khoa học ngày 25. tháng 7 2014 tại Hội trường Bộ Khoa học và Công nghệ. Diễn giả chính là Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Buổi tọa đàm do báo Tiasang tổ chức và được sự tài trợ chính là Cty Tri thức giáo dục và Văn hóa Việt, ngoài ra là Cty thực phẩm chức năng Hansun tài trợ quà cho các đại biểu. Trong nội dung trình bày, tôi chỉ nói lại một cách tóm tắt, nhưng có hệ thống những gì tôi đã trình bày trên diễn đàn, trong các sách đã xuất bản, nhằm xác định: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở bờ Nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tim kiếm. Dưới đây là hình ảnh buổi tọa đàm kéo dài từ 14g 30 đến qua 18g 30 cùng ngày. Mở đầu buổi tọa đàm, Phó Tổng biên tập báo Tiasang giới thiệu nội dung và diễn giả. Tiếp theo là anh Nguyễn Thế Trung, giám đốc TTNC LHDP và là Tổng giám đốc Cty Điện tử và công nghệ DTT phát biểu ý kiến về luận điểm chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử, chủ nhân đích thức của thuyết ADNH và kinh Dịch sẽ được trình bày tóm lược trong buổi tọa đàm ngày hôm nay. Nội dung chi tiết và chủ yếu được thể hiện trong cuốn "Minh Triết Việt trong văn minh Đông phương" do Nxb Tri Thức phát hành trong nay mai. Tiếp theo là phần trình bày của tôi. Tôi trình bày ba tiêu chí khoa học để thẩm định một lý thuyết thuộc về một nền văn minh. Ba tiêu chí đó là: 2/ Nền văn minh được coi là chủ nhân của một học thuyết phải chứng tỏ được nền tảng tri thức đã tạo dựng nên hệ thống lý thuyết thuộc về nền văn minh đó. 3/ Tính hợp lý, nhất quán và hoàn chính trong nội dung hệ thống lý thuyết và không có mâu thuẫn trong nội hàm cấu trúc của hệ thống lý thuyết đó. Trên cơ sở ba tiêu chí này, tôi lần lượt chứng minh nền văn minh Hán không thể là chủ nhân của thuyết ADNH và kinh Dịch. Từ lịch sử hình thành học thuyết rất mơ hồ và mâu thuẫn. Cho đến nay, những nhà nghiên cứu Hán hiện đại vẫn không thể xác định được thời điểm ra đời của thuyết ADNH trong lịch sử văn minh Hán.(Tiêu chí 1); Cho đến nay nền văn minh Hán vẫn không hề có một cuốn sách nào trình bày có hệ thống - dù chỉ là tóm lược - về thuyết Âm Dương Ngũ hành và họ không thể phục hồi được học thuyết này (Tiêu chí 2); Cấu trúc nội hàm của thuyết Âm Dương Ngũ hành được mô tả qua các bản văn chữ Hán hết sức mơ hồ; thậm chí ngay những danh từ mô tả những khái niệm thuộc về thuyết ADNh trong bản văn chữ Hán đến nay vẫn chưa lý giải được, như: Khái niệm Khí, Thái cực, Lưỡng Nghi...vv...(Tiêu chí 3). Từ đó, tôi khẳng định rằng: Nền văn minh Hán không phải chủ nhân của thuyết ADNH và kinh Dịch. Vậy nó thuộc về nền văn minh nào? Khi mà cả Hàn Quốc lẫn Nhật Bản đều cho là nền văn hóa của họ là chủ nhân đích thực của văn minh Đông phương?! Tôi rất cảm ơn những vị học giả, những nhà nghiên cứu đã lắng nghe buổi thuyết trình của tôi. Cũng trên cơ sở ba tiêu chí này, tôi chứng minh thuyết ADNH thuộc về nền văn hiến Việt. 1/ Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử là chủ nhân đích thực của những gía tri tri thức của nền văn minh Đông phương (Tiêu chí 1). 2/ Nền tảng tri thức của nền văn minh này còn lưu truyền qua những di sản còn lại trong văn hóa truyền thống Việt là cơ sở phục hồi một cách hoàn chỉnh thuyết ADNH và kinh Dịch (Tiêu chí 2). Tôi trình bày đồ hình AD Việt trải rộng trên khắp Đông Á và Đông Nam Á chứng tỏ một nền văn minh phi Hán đã tồn tại trước Hán. Ngay bây giờ trên đất Hanoi này, di sản văn hiến Việt trong văn hóa truyền thống cũng chứng tỏ điều này..... Đây là đình Yên Phụ trong làng Yên Phụ, Hanoi. Một ngôi đình độc đáo ở Việt Nam vì mái đính nhọn là mặt tiền so với các đình mái bằng khác..... Ngay mặt đình, một đồ hình Lưỡng Nghi Việt sừng sững như khẳng định một gía trị minh triết Việt phi Hán đã tồn tại trong nền văn minh Đông phượng. 3/ Chỉ có nền văn hiến Việt với di sản còn lại trong văn hóa truyền thống có khả năng phục hồi hoàn chỉnh học thuyết ADNH và kinh Dịch, phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học làm chuẩn mực thẩm định tính khoa học của nó. (Tiêu chí 3). Giáo sư Nguyễn Khắc Mai được mời phát biểu ý kiến. Ông xác định ông đến đây để nghe và học hỏi, nên không phản biện... Có một vị đặt câu hỏi, tôi trả lời chu đáo; một vị phản biện tôi đã chứng minh luận điểm phản biện sai; còn ba vị tôi thực sự không hiểu họ nói gì. Ngay trong buổi tọa đàm này, một nữ giảng viên sử học phát biểu: Hơn 2000 năm lịch sử của Việt tộc cũng chưa đủ tin cậy. Nên nói gần 5000 năm rất khó thuyết phục.....Tôi phản bác kịch liệt và xác định Việt sử trải gần 5000 văn hiến. Tất cả chi tiết diễn biến đều được quay video , khi làm xong, chúng tôi sẽ đưa lên đây để quý vị tham khảo. Tôi chỉ thừa nhận có một ý kiến phản biện với một cách đặt câu hỏi mang tính phản biện, và tôi đã biện minh rõ ràng. Còn lại là nhưng phát biểu thể hiện một cái nhìn không rõ ràng. Tôi công khai xác định quan điểm của mình về vấn đề cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là hoàn toán đúng với cá nhân tôi và đúng với tôi, cho đến khi có luận điểm phản bác hợp lý. Tôi cũng công khai xác định rằng: Thuyết ADNH nhân danh nền văn hiến Việt chính là lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Bởi vì nó đáp ứng một cách hoàn chỉnh tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng và tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất. Người phát biểu cuối cùng là giáo sư Trần Đình Hiến. Ông xác định rằng: Ông không có ý kiến cá nhân, mà chỉ đưa một thông tin khách quan, là: Tháng 4. 2014 Tân Hoa Xã đã tường thuật lại những quan điểm của các học giả Trung Hoa thừa nhận thuyết ADNH và kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hán; đồng thời xác nhận Bách Việt mới chính là chủ nhân một thời ở miền nam sông Dương tử...Ảnh chụp lúc 17g 24 tại Hội trường. Giáo sư Trần Đình Hiến đưa nội dung bài báo của các học giả Trung Quốc tên Quang Minh Nhật báo xác định thuyết ADNH không thuộc về Hán tộc. Sự xác định của các nhà khoa học Trung Quốc là một chứng nhân sắc xảo cho luận điểm của tôi. Điều này đã xác định rằng: Từ một góc nhìn khác của chính những nhà nghiên cứu Trung Hoa đã chứng tỏ tính khách quan khoa học cho những luận điểm của tôi. Tuy nhiên tôi cần khẳng định rằng: Những luận cứ và phương pháp xác định chân lý của tôi so với tất cả những nhà nghiên cứu khác- kể cả những nhà nghiên cứu Trung Quốc - là hoàn toàn độc lập với nhau. Do đó, nếu như không có những công trình của họ thì tôi vẫn xác định chân lý theo cách của mình.3 likes
-
KẾT THÚC TỌA ĐÀM Câu cuối cùng trong buổi tọa đàm của tôi là: Tri thức của cả thế giới này từ thuyết lượng tử, lý thuyết Dây cho đến mọi công thức Toán học cao siêu đều bắt đầu từ một khái niệm quy ước rất mơ hồ. Đó chính là khái niệm "điểm". Cho một quả cầu tròn tuyệt đối, đặt trên một mặt phẳng tuyệt đối. Về lý thuyết toán nó sẽ tiếp xúc với nhau tại một điểm. Từ điểm tiếp xúc có tính quy ước này là khởi đầu những bài toán liên quan đến nó. Nhưng ai có thể chỉ ra điểm đó thực tế như thế nào? Bản thân con người và tất cả những sinh vật với mọi vật thể trên thế gian - Từ hạt vật chất nhỏ nhất đến các thiên hà khổng lồ, nếu đưa vào mô hình toán học thì toàn là những điểm và tất cả đều mơ hồ. Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng: Chúng ta đang sống trong một thế giới quy ước. Kể cả Phật pháp. Bởi vậy, Đức Phật nói: Trong cả một chặng đường thuyết pháp của ta, ta chưa nói câu nào. Và Đức Phật cũng nói: Những điều ta nói chỉ như nắm lá trên bàn tay của ta. Còn chân lý như lá trong rừng Kỳ Đà sau lưng ta.3 likes
-
VÌ SAO THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH NHÂN DANH NỀN VĂN HIẾN VIỆT CHÍNH LÀ LÝ THUYẾT THỐNG NHẤT? Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không? SW Hawking Việc xác định tinh chân lý của một lý thuyết theo cách nói của tôi - cách nói theo tri thức khoa học hiện đại gọi là "tính khoa học của một lý thuyết". Có thể nói: Những lý thuyết của nền văn minh hiện đại đều xuất phát từ nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại. Nền tảng tri thức đó bao gồm cả phương tiện kỹ thuật liên quan đến các tri thức khoa học và các lý thuyết khoa học hình thành nên nền tảng tri thức của nền văn minh. Từ nên tảng tri thức này mới xuất hiện thuyết Tương Đối của Einstein, thuyết Lượng tử từ Max Planck, hoặc Lý thuyết Dây được tích hợp bởi nhiều tác giả...Những lý thuyết này, mới đầu cũng bị phản đối. Nhưng sau đó được công nhận bởi chính những trí thức nền tảng tạo nên nó. Nếu không có nền tảng trí thức của nền văn minh thì thuyết Tương đối của Einstein không thể được thừa nhận. Lý thuyết Tương đối không thể ra đời và được công nhận vào đầu thời vua Louis XIV ở viện Hàn Lâm Pháp Quốc vào thế kỷ XVII AC. Đây cũng chính là tiêu chí thứ 2 thẩm định một nền văn minh là cơ sở hình thành một lý thuyết thuộc nào đó: Thuyết ADNH đã thất truyền và chỉ lưu hành một cách rời rạc, mơ hồ và đầy mâu thuẫn qua các bản văn chữ Hán. Hay nói rõ hơn: Nó không thuộc về nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại ngay từ trong cổ sử. Nó cũng không phải là một sản phẩm vật thể để người ta có thể xác định nó có cấu trúc như thế nào bằng các phương tiện kỹ thuật thực nghiệm. Nó không phải "Hạt của Chúa" mà người ta có thể chứng nghiệm có hay không bằng cỗ máy gia tốc hạt LHC. Do đó, để phục hồi lại học thuyết này không thể bằng các phương tiện kỹ thuật. Ngay cả nền tảng tri thức khoa học hiện đại cũng không thể thẩm định nó bằng những lý thuyết hiện đại. Bởi vì nền tảng tri thức tạo nên thuyết ADNH không thuộc về nền văn minh hiện đại. Cho nên, phải dùng một phương pháp nghiên cứu phù hợp với trường hợp đặc thù này. Đó chính là sử dụng những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng để thẩm định tính cấu trúc nội hàm của thuyết ADNH. Trên cơ sở này, và dựa vào những di sản trong văn hóa truyền thống Việt còn sót lại qua những thăng trầm của lịch sử, nhưng là nền tảng tri thức đích thực của nền văn minh Đông phương từ hàng ngàn năm trước, mới có khả năng phục hồi lại thuyết ADNH, gía trị căn bản của nền văn minh Đông phương (Tiêu chí 2). Chỉ có nền văn hiến Việt, chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương - mới có thể phục hồi được học thuyết này một cách hoàn chỉnh (Tiêu chí 3) và phù hợp với tiêu chí khoa học cho một Lý thuyết khoa học được coi là đúng. Tương tự như vậy, thuyết ADNH mà tôi xác định rằng: Đó chính là Lý thuyết thống nhất, cũng hoàn toàn căn cứ vào tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất để thẩm định. Gần đây, các nhà khoa học còn xác định rằng: Tôi xác định rằng: Căn cứ vào tất cả những tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất, kể cả những tiêu chí mới nhất thì thuyết ADNH nhân danh nền văn hiến Việt hoàn toàn thỏa mãn. Thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử, chính là Lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang mơ ước. Sự xác định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, không phải chỉ để xây một tượng đài tưởng niệm cho một quá khứ huy hoàng của Việt tộc, mà còn là xác định những giá trị đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ đang sừng sững thách đố tri thức của toàn thể nhân loại trong cuộc hội nhập của các nền văn minh toàn cầu.2 likes
-
Xung đột Biển Đông qua nhìn nhận của một số học giả và chính khách Mỹ và phương Tây Hồ Sĩ Quý GS.TS., Viện Thông tin Khoa học xã hội 12-07-2014 http://www.vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/KhoaHocCongNghe/View_Detail.aspx?ItemID=4 Lời BBT: Biển Đông thực ra đã nóng lên từ vài chục năm trước, ít ra là từ năm 1974 khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, rồi sau đó, năm 1988 khi Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma. Nhưng xung đột tại một vài hòn đảo hoặc bãi đá là khác về chất (tính chất nguy hiểm, mức độ ảnh hưởng…) so với xung đột trên toàn Biển Đông. Từ tháng 3/2014 đến nay, Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt hành vi gây hấn trên toàn Biển Đông, từ cửa ngõ Vĩnh Bắc Bộ đến tận đảo Gạc Ma trên quần đảo Trường Sa. Tại vị trí cách đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi 120 hải lý về phía đông, nơi hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, từ 1/5/2014 đến nay, Trung Quốc đã đưa giàn khoan khổng lồ Haiyang 981 đi kèm hàng trăm tàu hộ tống và hàng chục máy bay quân sự, hàng ngày thực hiện các hành vi xâm phạm chủ quyền, đâm chìm tàu cá, bắt giữ ngư dân, cản trở lực lượng chấp pháp Việt Nam thực thi công vụ. Tình huống của xung đột từ 5/2014 đến nay đã làm cho trật tự địa chính trị liên quan đến Biển Đông ở vào trạng thái nguy hiểm. Mặc dù sự nhẫn nại gìn giữ hòa bình của Việt Nam được cả thế giới chứng kiến hàng ngày, nhưng nếu mưu đồ độc chiếm Biển Đông được Trung Quốc tính toán và thực hiện như hiện nay, thì hệ lụy của xung đột Biển Đông thật khó dự báo, không chỉ đối với Việt Nam, cũng không chỉ đối với giấc mộng cường quốc Trung Hoa, mà còn đối với trật tự hòa bình và phát triển của tất cả các quốc gia quanh Thái Bình Dương, nếu chưa muốn nói là toàn thế giới. Độ nóng của Biển Đông nhìn từ phía Việt Nam có thể là tương đối rõ. Nhưng nhìn từ bên ngoài, vấn đề thể hiện như thế nào. Với bài viết này, tác giả, người đã nhiều năm theo dõi khá sát những nghiên cứu về Biển Đông, sẽ cung cấp cho bạn đọc: các học giả và các chính khách Mỹ và Phương Tây nhìn nhận như thế nào về mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, mưu đồ này có liên quan gì đến cái gọi là “Sự trỗi dậy hòa bình” và “Giấc mộng Trung Hoa” và tại sao R. Kaplan lại nhận định rằng, “Thực tế là, không có quốc gia nào bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng Việt Nam” (The fact is, no country is as threatened by China’s rise as much as Vietnam). Bài viết gồm 4 phần: I. Khi con sư tử Trung Hoa thức dậy. II. Hà Nội 7/2010: Tuyên bố của Hillary Clinton và Chiến lược thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ. III. Biển Đông – “vạc dầu châu Á” qua phân tích của Robert D. Kaplan và nhóm chiến lược gia CNAS. IV. Những hệ lụy. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc. I. Khi con sư tử Trung Hoa thức dậy 1. Nếu coi nhận định của Napoleon về Trung Quốc cách đây gần trọn 200 năm là một dự báo, thì dự báo đó ngày nay đã có thể gọi là một tiên đoán - một tiên đoán thuộc loại chậm được chứng thực trong lịch sử nhân loại: “Khi con sư tử Trung Quốc thức dậy, cả thế giới sẽ run sợ” - năm 1816, Napoleon Bonaparte đã nói như vậy[1]. Nỗi lo ngại của Napoleon được coi là có cơ sở vì nó xuất phát từ toàn bộ nền văn hóa chính trị đối nội và đối ngoại của các Vương triều Trung Hoa. Nỗi lo ngại đó ám ảnh nền chính trị Châu Âu và thế giới đến nỗi, năm 1973, khi Trung Quốc vẫn còn ngập chìm trong hỗn loạn của cách mạng văn hóa, mà Alain Peyrefitte[2], một chính trị gia thân tín của Charles De Gaulle và là nhà văn Pháp, vẫn mượn câu nói của Napoleon làm tiêu đề cho cuốn sách của mình “Quand la Chine s'éveillera, le monde tremblera” (“Khi Trung Quốc thức dậy, cả thế giới sẽ run sợ”). Theo Peyrefitte, với số dân khổng lồ, khi Trung Quốc đạt đến một trình độ nào đó về văn minh và công nghệ, họ sẽ áp đặt cách hành xử Trung Hoa lên phần còn lại của thế giới. Năm 1996, sau một thời gian dài thấy kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trưởng cao, quốc phòng lớn mạnh, sự kiện Thiên An Môn 1989 cũng không làm Trung Quốc chùn tay, Peyrefitte viết tiếp cuốn sách thứ hai về chủ đề này “Trung Quốc đã thức tỉnh” (La Chine s'est éveillée). Cả hai cuốn sách đều gây ấn tượng mạnh với người đọc Châu Âu và Phương Tây[3]. 2. Không biết có bao nhiêu người Trung Quốc biết hai cuốn sách này, nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc hiểu được thế giới nghĩ gì về mình, nên năm 2003, trong một chuyến thăm Mỹ, tại Đại học Harvard, Ôn Gia Bảo, Thủ tướng Trung Quốc lúc đó đã đưa ra quan niệm “Trung Quốc trỗi dậy hòa bình” (中国和平崛起). Lý luận “Trỗi dậy hòa bình” hóa ra lại khiến thế giới lo ngại thêm. Bởi vậy, năm 2004 tại diễn đàn Bác Ngao, Hồ Cẩm Đào đã thay chữ “trỗi dậy” của Ôn Gia Bảo bằng chữ “Phát triển” - “Trung Quốc phát triển hòa bình” (中国 和平 发展). Tháng 3 năm nay trong chuyến thăm Pháp, Chủ tịch Tập Cận Bình không ngần ngại đối diện với lời nhận xét của Napoleon, nhưng giải thích khác đi: “Hôm nay con sư tử Trung Quốc đã thức dậy. Nhưng sự trỗi dậy của Trung Quốc là con sư tử hòa bình, thân thiện, văn minh” (The rise of China as a head than 'peace, amiable, civilized' lion[4]). Lúc Tập Cận Bình đang ở Pháp cũng là lúc Trung Quốc bí mật chuyển vật liệu để xây dựng sân bay ở bãi đá Gạc Ma, nơi Trung Quốc đã cưỡng chiếm bằng vũ lực năm 1988, làm 64 chiến sỹ Việt Nam hy sinh. Sau đó chỉ hơn một tháng, 5/2014, Trung Quốc đưa giàn khoan khổng lồ Haiyang 981 đi kèm hàng trăm tàu hộ tống và hàng chục máy bay quân sự vào khu vực đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Ngày 26/5/2014, tàu Trung Quốc đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Đà Nẵng. Tháng 6/2016, Trung Quốc tiếp tục đưa nhiều giàn khoan khác xuống Biển Đông, trong đó giàn khoan 09 nằm ngay tại Vịnh Bắc Bộ, nơi hai bên đang thảo luận để phân định ranh giới. Ngày 23/6/2014, Trung Quốc công bố bản đồ dọc, sửa đường 9 đoạn trên biển thành đường 10 đoạn ôm trọn Biển Đông của Việt Nam và vi phạm lãnh hải nhiều nước Đông Nam Á; bản đồ này còn vẽ luôn cả bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ vào lãnh thổ Trung Quốc. Ngày 24/6/2014, cùng một lúc 4 tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc xuất hiện tại đảo Hải Nam. Ngày 3/7/2014, quân đội Trung Quốc bắt 6 ngư dân Việt Nam khi đang đánh cá trong ngư trường Việt Nam truyền thống. Mặc dầu hành xử như vậy, nhưng trong lễ kỷ niệm 60 năm Hội Hữu nghị nhân dân Trung Quốc ngày 16/5/2014, Tập Cận Bình vẫn nói “Trong máu của dân tộc Trung Hoa không có gen xâm lược, thống trị thế giới”. Và để bào chữa cho hành động xâm lăng Biển Đông, ngày 27/6/2014 trong một cuộc họp có nhiều quan chức cao cấp của Trung Quốc, Tập Cận Bình giải thích, trong quá khứ Trung Quốc yếu về phòng thủ trên biển và trên đất liền nên “bị các nước khác bắt nạt”. Bởi vậy, ngày nay quân đội Trung Quốc phải tăng cường kiểm soát biên giới trên bộ và trên biển của nước này[5]. Khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, xâm lược 6 tỉnh biên giới năm 1979 hay đánh chiếm Trường Sa năm 1988… con sư tử Trung Hoa có thể vẫn được coi là chưa thức giấc. Nhưng đến thời điểm hiện nay, rõ ràng là Trung Quốc đã trỗi dậy. Nhưng sự trỗi dậy được xem là quá hiếm hoi những biểu hiện “hòa bình, thân thiện và văn minh” mà lại dựa vào khá nhiều phương thức kém văn minh, thường xuyên bất chấp lẽ phải và công pháp quốc tế. Hầu hết những gì Trung Quốc đã làm từ nhiều năm nay, từ thiếu minh bạch trong chi phí quân sự đến thả lỏng trách nhiệm trong sản xuất hàng hóa, từ thao túng các nước ASEAN đến cư xử ngang ngược với các nước láng giềng, từ khai thác thô bạo ở Châu Phi đến mưu đồ độc chiếm Biển Đông… tất cả đều khiến cộng đồng thế giới lo ngại. Thuật ngữ “Chinazi”, “Chinazism” ám chỉ Trung Quốc là một kiểu Quốc xã mới đã được sử dụng cả trong ấn phẩm và ở nhiều diễn đàn không chính thức[6]. Và, với những sự kiện mới nhất làm nóng Biển Đông, lời tiên đoán của Napoleon đã không còn chỗ cho Trung Quốc bào chữa. 3. Thực ra, Biển Đông đã nóng từ vài chục năm nay. Nhưng nóng do xung đột cục bộ tại một vài hòn đảo so với nóng toàn bộ Biển Đông, từ Vịnh Bắc Bộ tới đảo Gạc Ma, là hai tình huống khác nhau rất xa. Hiện nay, dư luận quốc tế lo ngại xung đột Biển Đông có thể đẩy các bên tranh chấp đi quá xa - quá giới hạn của sự kiềm chế. Trong khi đó, bước leo thang từ “xung đột” tới “xung đột có vũ trang” hay “chiến tranh” lại là thứ logic không thiếu gì nguyên cớ, mặc dù sự nhẫn nại gìn giữ hòa bình của Việt Nam được cả thế giới chứng kiến hàng ngày. Nếu mưu đồ độc chiếm Biển Đông được Trung Quốc tính toán và thực hiện như hiện nay, thì xung đột vũ trang ở Biển Đông là khả năng khó tránh. Nếu xung đột vũ trang xảy ra ở Biển Đông thì việc phân định lại trật tự địa chiến lược trên Thái Bình Dương cũng đương nhiên sẽ được khởi động. Và như vậy, chẳng có gì giữ nổi cuộc chiến chỉ hạn chế trên biển. Không khó để hình dung, tình huống chắc sẽ không thể giống như Hoàng Sa năm 1974 hay Gạc Ma năm 1988 được nữa. Carl Thayer không phải là người duy nhất bày tỏ lo lắng về tình huống ảm đạm này[7]. 4. Cách đây chỉ vài năm, lo ngại ở mức độ này chưa xuất hiện. Lúc đó, tất cả các dự báo mạnh bạo và cực đoan nhất dựa trên các thông tin khai thác ở mức thiên kiến nhất, cũng đều chưa dám tiên lượng về một cuộc chiến trên Biển Đông. Tất cả đều cố gắng đặt niềm tin vào sức mạnh kiềm chế, rằng chiến tranh sẽ không xảy ra, ít nhất là trong một tương lai gần; dự báo về chiến tranh chẳng qua chỉ để ép các nhà chức trách có trách nhiệm hơn trong việc theo đuổi hòa bình. Nhưng xung đột ở Biển Đông từ tháng 5/2014 đến nay đã gây ra một hiệu ứng khác. Lo ngại chiến tranh đã bắt đầu được đề cập cả trong các tính toán chiến lược, các diễn đàn ngoại giao và cả trong các tranh cãi đường phố. Vấn đề là ở chỗ, trong các tình huống cận xung đột vũ trang, một khi thủ lĩnh các bên vẫn còn định kỳ gặp gỡ và “nâng cốc yến tiệc”, thì chiến tranh vẫn chỉ là một khả năng xa, nghĩa là việc thảo luận trên bàn vẫn quyết định tình hình thực tế. Nhưng một khi tình hình thực tế đã tiềm tàng phát sinh những tình huống không kiểm soát được, thì chiến tranh bao giờ cũng là điểm hội tụ của những yếu tố bất ngờ - thời điểm xảy ra chiến tranh, trên thực tế, cũng đã từng bất ngờ ngay cả với bên gây chiến. Xung đột biển Đông hiện nay đã được một số học giả coi là ở vào trình độ tiềm tàng những tình huống khó kiểm soát[8]. Ở Việt Nam, trong tâm thế hết sức thận trọng, một số nhà lãnh đạo đã phải nói tới việc “chuẩn bị cho tình huống xấu” (hoàn toàn trái ngược với sự xuyên tạc trắng trợn của báo chí Trung Quốc). Còn tại Trung Quốc, khá nhiều học giả và tướng lĩnh cấp cao, chẳng hạn, Thường Vạn Toàn, Phòng Phong Huy, Tôn Kiến Quốc, Kim Vĩnh Minh, Lương Quốc Lương… lại công nhiên kêu gọi đánh Việt Nam, “Đánh một trận thiên hạ sẽ ổn định”. Thậm chí “Kế hoạch tấn công Việt Nam trong 31 ngày” mà hồi năm 2008 phía Việt Nam đã có ý kiến chính thức phản đối, cũng được giới chức Trung Quốc bật đèn xanh cho mạng Sina.com đăng lại. Tâm lý hiếu chiến dân tộc chủ nghĩa Đại Hán có thể dễ dàng bắt gặp trên báo chí Trung Quốc[9]. II. Hà Nội 7/2010: Tuyên bố của Hillary Clinton và Chiến lược thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ 1. Đối diện với một Trung Quốc tham vọng quá lớn, từ vài năm gần đây Chiến lược “xoay trục về Châu Á” và “Thế kỷ Thái Bình Dương” của Mỹ đã được thực thi. Tuy nhiên, tư tưởng của Chiến lược này, không phải xuất phát từ sự “ấu trĩ, bốc đồng của các chính trị gia thời Obama-Clinton (Hillary)”, mà thật ra đã được hình thành từ trước và được bắt đầu thực thi dưới thời George W. Bush, nhưng sự kiện 911 (11/9/2001) ngay sau đó đã làm mờ đi kế hoạch này. Điều quyết định hơn, thái độ hung hăng của Trung Quốc trong gần hết thập niên đầu tiên của thế kỷ mới cũng chưa đến mức nguy hiểm như hiện nay. Còn mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc trong cái nhìn của người Mỹ và Phương Tây thì đã rõ ngay từ khi Trung Quốc còn nghèo đói. 2. Người đầu tiên trong số các bộ óc chiến lược Mỹ bày tỏ sự lo ngại về xung đột có thể xảy ra giữa Việt Nam và Trung Quốc ở Biển Đông là Samuel Huntington, học giả nổi tiếng toàn thế giới với tác phẩm “Sự đụng độ của các nền văn minh” xuất bản bằng 39 thứ tiếng. Từ góc độ trật tự địa chính trị, năm 1993 ông đã cảnh báo các nhà chiến lược Mỹ về điều này trên tờ “Foreign Affairs” Vol. 72 số 3, nhưng do quan tâm nhiều hơn đến mối đe dọa Hồi giáo cực đoan nên lúc đó dường như không mấy ai chú ý. Phát triển tư tưởng này trong cuốn sách “Sự đụng độ của các nền văn minh” xuất bản năm 1996, ông viết rõ: “Sự bá quyền của Trung Quốc ở Đông Á khó có thể đưa đến sự bành trướng về kiểm soát lãnh thổ thông qua can thiệp quân sự trực tiếp” nhưng “Biển Đông là trường hợp ngoại lệ”[10]. Ngoại lệ - đây là điều thật đáng chú ý. Phân tích điều này, Huntington chỉ ra rằng: “Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, và lực lượng hải quân hai bên đã từng đụng độ nhau trong các thập kỷ 70 và 80. Trong những năm đầu thập kỷ 90, tiềm năng quân sự của Việt Nam đã giảm sút tương đối so với Trung Quốc… trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, Hoa Kỳ có thể là nước sẵn lòng kiềm chế Trung Quốc hơn, song trong giữa thập kỷ 90, điều không rõ là Hoa Kỳ sẽ đi xa đến đâu trong việc chống lại sự đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông. Cuối cùng thì, đối với Việt Nam, sự lựa chọn ít tồi tệ hơn cả có thể là ủng hộ Trung Quốc”[11]. Những dòng này Huntington viết trước năm 1995. Lý do, có thể không hoàn toàn như Huntington nói, nhưng Việt Nam quả thật đã lựa chọn phương thức gần giống với điều Huntington đã hình dung là “ủng hộ Trung Quốc”. Mặc dầu vậy, “việc lựa chọn điều ít tồi tệ hơn đối với Việt Nam”, từ đó đến nay, hóa ra cũng không ngăn cản nổi, và tệ hơn nữa, cũng gần như không tác động được gì đến việc Trung Quốc quyết tâm thực hiện độc chiếm Biển Đông. Huntington mất 12/2008, nhưng những điều ông viết vẫn rất sống động với thế giới hôm nay, với sự lựa chọn chiến lược của Nhà Trắng, không chỉ về vùng Trung Cận Đông, về thế giới Hồi Giáo, mà còn về quan hệ Mỹ Trung, Mỹ Nhật, và đặc biệt về Biển Đông và Việt Nam[12]. 3. Trong những diễn biến liên quan đến Biển Đông, cần thiết phải nhắc tới sự kiện ngày 23/7/2010, Hội nghị Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF) lần thứ 17 được tổ chức tại Hà Nội. Đây là Hội nghị đánh dấu thái độ của Mỹ, của 27 nước thành viên ARF trong và ngoài ASEAN, và của cộng đồng thế giới về vấn đề Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ lúc đó, bà Hillary Clinton chính thức lên tiếng về “lợi ích quốc gia của Mỹ trong việc tự do hàng hải ở biển Đông”. Bà Clinton nói: “Mỹ tuyên bố hỗ trợ ngoại giao đối với các bên tranh chấp và lên án sự cưỡng ép, sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước nào”. Ngoại trưởng Mỹ còn nói rõ, “việc đòi chủ quyền đối với không gian biển phải bắt nguồn từ việc đòi chủ quyền hợp pháp với các đảo, đất, đá... trên biển”[13]. Tuyên bố này ngay thời điểm đó đã gây chấn động mạnh. Hơn một nửa trong số 27 nước có mặt phát biểu ủng hộ. Dương Khiết Trì, ngoại trưởng Trung Quốc lúc đó, tức giận bỏ phòng họp và chính giới Trung Quốc khó chịu. Nhắc lại sự kiện này trong cuốn Hồi ký “Sự lựa chọn khó khăn” mới xuất bản 6/2014 của mình, bà Clinton kể lại, lúc đó “Trung Quốc đã đi quá đà và Việt Nam là cơ hội độc đáo chiến lược cho dù đầy thách thức”. “Tôi thấy Dương Khiết Trì giận tái mặt! Anh ta yêu cầu dừng phiên họp một tiếng đồng hồ trước khi trả lời. Khi trở lại, nhìn thẳng vào mắt tôi, Dương Khiết Trì bác hẳn chủ đề Biển Đông và cảnh báo mọi can thiệp từ bên ngoài. Rồi quay sang các nước láng giềng châu Á, anh ta nhắc lại rằng Trung Quốc “là một nước lớn, lớn hơn tất cả những nước có mặt ở đây cộng lại” (China is a big country, bigger than any other countries here). Trong khuôn khổ hội nghị này, đó không phải là một lý lẽ thuyết phục”[14]. Điều thú vị là, hiện nay cuốn sách này chính thức bị cấm phát hành ở Trung Quốc. 4. Không dừng ở đó, cuối năm 2011, Mỹ đã chính thức tuyên bố thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ. Phục vụ chiến lược này, Mỹ đã nâng cấp quan hệ quân sự và tiến hành tập trận chung với các nước như Philippines, Singapore, Australia, Ấn Độ… - những nước đang có tranh chấp với Trung Quốc. Kế hoạch cho sự có mặt dài lâu của quân đội Mỹ ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương cũng đã không ngần ngại được nói đến. Tinh thần “thế kỷ Thái Bình Dương” được Mỹ liên tục nhắc lại trong các diễn đàn chính trị quốc tế. Tại Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) diễn ra ở đảo Cook ngày 31/8/2012, ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh “Washington sẽ can dự lâu dài ở Nam Thái Bình Dương” vì Thái Bình Dương không phải là ao nhà của bất kỳ ai, mà “Khu vực Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước, cho Mỹ và cho một Trung Quốc đang lên”[15]. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ - lời tuyên bố chính thức cho chiến lược này được ngoại trưởng Mỹ công bố tại hội nghị thượng đỉnh khối APEC gồm 21 nước Châu Á - Thái Bình Dương nhóm họp tại Honolulu ngày 10/11/2011. Tuyên bố này sau đó được đăng lại trên tờ Foreign Policy số tháng 11/2011. Chắc chắn đây là một văn kiện quan trọng mà có thể nhiều thập niên sau người ta mới thấy hết ý nghĩa của nó. Với tuyên bố này, bà Clinton nói rõ: “Tương lai của các hoạt động chính trị sẽ được quyết định ở Châu Á, chứ không phải ở Apghanistan hay Iraq, và Mỹ sẽ ở trung tâm của những hành động đó… Châu Á có ý nghĩa quyết định đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ can dự sẽ có ý nghĩa sống còn đối với tương lai của Châu Á. Mỹ là cường quốc duy nhất có mạng lưới liên minh rộng khắp trong khu vực, không tham vọng về lãnh thổ, và từ lâu đã có những thành tích trong việc mang lại lợi ích chung”[16]. Sự can dự của Mỹ với truyền thống của một Đế quốc không tham vọng lãnh thổ luôn được các nước có liên quan coi là điều có sức thu hút[17]. 5. Có thể là để chuẩn bị cho Ngoại trưởng Hillary Clinton công bố chiến lược Thế kỷ Thái Bình Dương, tờ Foreign Policy số tháng 9 và tháng 10 năm 2011 đã cho ra mắt bài “Biển Đông: tương lai của xung đột” của R. Kaplan[18], một bài viết vạch rõ những căn cứ lý luận, lịch sử và những tư tưởng nền tảng cho chiến lược Biển Đông của Mỹ. Tháng 1/2012, Kaplan cùng các tác giả khác của CNAS (Center for a New American Security, Trung tâm An ninh Mỹ) còn công bố bản phúc trình 115 trang mang tên “Phối hợp lực lượng: Mỹ, Trung Quốc và Biển Đông”, thực chất là tư tưởng về hoạch định Chiến lược của Mỹ đối với Biển Đông[19]. Bài viết “Biển Đông: tương lại của xung đột” cùng với Bản phúc trình “Phối hợp lực lượng” từ ngày đó đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu, giới quân sự, các nhà hoạt động xã hội và các chính khách ở khắp các diễn đàn liên quan tới tình hình Biển Đông, Việt Nam và Châu Á - Thái Bình Dương. III. Biển Đông – “vạc dầu châu Á” qua phân tích của Robert D. Kaplan và nhóm chiến lược gia CNAS 1. Trong giới chính trị chiến lược Mỹ và phương Tây, Robert D. Kaplan[20], chuyên gia nổi tiếng của Hội đồng Chính sách Quốc phòng Mỹ, người có tầm nhìn sâu sắc về chiến lược và có kinh nghiệm dày dạn trong hoạt động quân sự, được coi là người giỏi nhất về tình hình Biển Đông. “Vạc dầu Châu Á” là thuật ngữ gọi Biển Đông của Kaplan từ tháng 3/2014. Gần như trùng với thời điểm Trung Quốc đưa giàn khoan Haiyang 981 vào Biển Đông, Kaplan đã cho ra mắt cuốn sách “Vạc dầu Châu Á: Biển Đông và sự kết thúc của Thái Bình dương yên tĩnh”[21]. Cuốn sách trở thành “hiện tượng” ở Mỹ và nhiều nước phương Tây, một phần vì tên tuổi của Kaplan, phần khác vì chính sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Haiyang 981 vào vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam. 2. Có thể nói không ngoa rằng, kể từ khi Biển Đông nóng lên thì trên bàn làm việc của tất cả các chính khách và các chiến lược gia về Châu Á - Thái Bình Dương, bên cạnh hồ sơ tranh chấp và xung đột, chắc chắn phải là cuốn sách “Vạc dầu Châu Á…” của Kaplan. Có lẽ không ai dám bỏ qua cuốn sách này nếu muốn đưa ra ý kiến của mình. Đánh giá cuốn sách, Henry Kissinger, người vẫn được coi là nhà kiến tạo quan hệ Mỹ Trung hiện đại, Ngoại trưởng Mỹ 1973-1977, Cố vấn an ninh Quốc gia Mỹ 1969-1975, viết: “Một nghiên cứu hấp dẫn và không tầm thường. Cuốn sách mới và quan trọng này soi sáng một chân lý cổ xưa: Địa lý là nhân tố chủ yếu trong việc quyết định số phận của các quốc gia, từ các Pharaoh của Ai Cập ngày xưa đến Mùa xuân Ả Rập hiện nay”[22]. Cuốn sách gồm 8 chương, trong đó chương 3 được dành riêng viết về Việt Nam (Tiêu đề chương 3: “Thân phận của Việt Nam” - The Fate of Vietnam). Với sự am tường Việt Nam ở mức khá sâu cả về lịch sử và cả về hiện trạng, sự cảm nhận sắc sảo những nét tinh tế và phức tạp của vấn đề qua các cuộc gặp gỡ với những chính khách và các nhân vật đáng chú ý ở Việt Nam, Mỹ và ở các nước khác, Kaplan đã phân tích khá rõ vị thế vô cùng khó khăn và phức tạp của Việt Nam trước ý đồ của Trung Quốc trong trật tự địa chính trị thế kỷ XXI. Quan điểm của Kaplan và các nhà chiến lược Mỹ nhóm CNAS, trong cuốn sách “Vạc dầu Châu Á…” và trong các bài viết quan trọng của họ (đã được dẫn ra ở bài viết này), theo chúng tôi, có mấy điểm đáng chú ý (đáng ra phải trình bày rất dài, nhưng xin được nói vắn tắt ở đây) như sau: 3. Theo R. Kaplan, “những khu vực tranh chấp gay gắt nhất của địa cầu trong thế kỷ XX nằm trên lục địa châu Âu, đó là một địa cảnh (Landscape - trên bộ, trên đất liền, lục địa – Chúng tôi giải thích thêm. HSQ). Còn Đông Á, khu vực tranh chấp gay gắt nhất của thế giới trong thế kỷ XXI lại là biển, những hải vực bao la, một hải cảnh (Seascape). Sự khác biệt này là quan trọng giữa thế kỷ XX và thế kỷ XXI”[23]. Đây là nhận định tổng quát nhất của Kaplan về xung đột trong thế kỷ XXI, cũng là nhận định có ý nghĩa nền tảng để Kaplan phân tích những tình huống xung đột cụ thể ở Biển Đông và những ý đồ địa chính trị của các bên tranh chấp. Theo quan điểm này thì xung đột trong thế kỷ XXI chủ yếu là những xung đột liên quan đến biển, trên nền của những “hải cảnh”, chủ yếu nhằm giải quyết những vấn đề về biển. Không biết Kaplan quan niệm như thế nào về những vấn đề địa chính trị gay gắt trên bộ, trên đất liền, mà xung đột gay gắt nhất của thế kỷ này, theo ông lại chỉ còn ở biển, nhất là những hải vực bao la. Chúng tôi chưa thấy ai phản bác quan điểm này của Kaplan, có thể là vì thế kỷ XXI, phạm vi thời gian trong khái quát của kaplan, cũng chỉ mới đi được một đoạn rất ngắn, 14 năm. Nhưng sự im lặng này cũng không đồng nghĩa với sự tán thành hoàn toàn quan điểm Kaplan. 4. Kaplan dự báo “một hình thái xung đột ở Biển Đông sẽ khác hẳn với những gì đã từng thấy” (“xung đột thì không thể loại hoàn toàn ra khỏi đời sống nhân loại”, theo Kaplan). Trong tương lai, “Có lẽ chúng ta sẽ được chứng kiến một hình thái xung đột thuần túy hơn, chỉ nằm gọn trong lãnh vực hải quân. Đây là một tình huống đáng lạc quan”. “Xung đột hay chiến tranh trên biển thì chẳng có gì lãng mạn cả. Nhưng trong các trận hải chiến, trừ phi có pháo kích vào bờ, thực ra không hề có nạn nhân”[24]. Đây cũng là quan niệm tương đối mới lạ của Kaplan và cũng chưa thấy ai đồng tình hay phản đối. Chiến sự tương lai sẽ chỉ nằm gọn trong lĩnh vực hải quân, hải quân được Kaplan giải thích theo nghĩa rộng, gồm tất cả những gì liên quan đến biển, kể cả không quân trên biển. Kaplan có ý cho rằng, với chiến tranh hoặc xung đột trên biển, sẽ không có cảnh dàn trận với hàng vạn hoặc chục vạn quân nhân của những quân đoàn hay phương diện quân khổng lồ trên biển. Vùng chiến sự trên biển lại không nằm trong khu vực dân cư như trên bộ. Những hạm đội hùng hậu trên biển cũng chỉ có lực lượng lính thủy đánh bộ là trực tiếp tác chiến theo kiểu cổ điển[25]. Do vậy, những những tội ác chiến tranh theo kiểu trên bộ sẽ không xảy ra. “Không có nạn nhân” và “Tình huống lạc quan” hiểu theo Kaplan là như vậy. Chúng tôi cho rằng quan điểm này của Kaplan cũng cần thiết phải được phản biện. Tuy nhiên, điều này vượt quá khuôn khổ và vấn đề của một bài báo. 5. Theo R. Kaplan, “trong quan hệ quốc tế, đứng sau mọi vấn đề đạo đức là vấn đề quyền lực... Trong những thập kỷ tới, tại Tây Thái Bình Dương, đạo đức có thể có nghĩa là từ bỏ một số lý tưởng mà chúng ta trân quí nhất (our most cherished) để kiến tạo ổn định. Chúng ta có thể làm gì khác hơn để nhường chỗ cho một Trung Quốc theo thể chế nửa – độc tài (quasi-authoritarian) trong khi quân đội của họ không ngừng bành trướng?… Đó cũng sẽ là một bài học của Biển Đông trong thế kỷ XXI - một bài học mà những người có lý tưởng (Idealists) không muốn nghe… Bởi thế bất cứ vở kịch đạo đức nào diễn ra ở Đông Á cũng phải mang sắc thái chính trị quyền lực khắc khổ thuộc loại sẽ khiến nhiều trí thức và ký giả tê điếng (numb)... Trong câu chuyện tái diễn ở thế kỷ XXI, với Trung Quốc đóng vai người Athens nắm giữ địa vị cường quốc hải dương có sức mạnh vượt trội trong khu vực, kẻ yếu vẫn phải khuất phục - và chỉ có thế mà thôi. Đây sẽ là chiến lược ngầm của Trung Quốc, những các quốc gia nhỏ hơn tại Đông Nam Á buộc phải liên kết với Hoa Kỳ để tránh khỏi số phận của người dân đảo Melos. Nhưng tàn sát - điều đó sẽ không hiện hữu”[26]. Cần phải có một chuyên luận riêng để bàn về những điều Kaplan vừa nói. Trước mắt, với các nhà nghiên cứu, việc thấu hiểu quan niệm này một cách sâu sắc để phản biện, tiếp thu hay bày tỏ thái độ phản đối là rất quan trọng. Hơn thế nữa chúng tôi cũng không có tài liệu hay thông tin về thái độ của Nhà Trắng đối với quan điểm này, không biết Tổng thống, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng… Mỹ có tán thành quan điểm này hay không, và nếu có thì ở mức độ nào. 6. Mặc dù viết khá nhiều về chiến tranh và cùng với thời gian, nguy cơ của xung đột vũ trang trong các ý kiến có ý nghĩa dự báo của Kaplan cũng ít nhiều tăng lên, nhưng trong cái nhìn toàn cục thì quan điểm của Kaplan và của các nhà chiến lược CNAS, tính đến nay (7/2014), vẫn nghiêng về phía tin tưởng vào khả năng kiểm soát của “lý trí lành mạnh”, ám chỉ trước hết là khả năng kiểm soát của Mỹ. Theo Kaplan, không để chiến tranh xảy ra ở Biển Đông là điều có thể làm được. Ông viết: “Cuộc đấu tranh để giành địa vị ưu việt tại Tây Thái Bình Dương không nhất thiết phải bao gồm chiến tranh. Chiến tranh chẳng phải là chuyện không thể tránh khỏi cho dù cạnh tranh là điều hiển nhiên”[27]. 7. Về Việt Nam, khi cảm nhận và có ý sẻ chia với tâm thức của người Việt về mối đe dọa từ phương Bắc, Kaplan đã đưa ra một so sánh thú vị giữa Mỹ và Trung Quốc trong lịch sử Việt Nam. Ông viết: “Mỹ chỉ là một cấu thành bên lề của quá khứ Việt Nam, trong khi đó Trung Hoa lại là một thành tố cốt tử”. Ông tán đồng với Robert Templer, một học giả Mỹ đã có thời tham chiến ở Việt Nam về “nỗi lo sợ bị đô hộ là bất biến và vượt qua mọi khác biệt về hệ tư tưởng” ở người Việt. Theo Kaplan, “nỗi lo sợ của Việt Nam là một tất yếu sâu sắc vì Việt Nam không thể chạy trốn khỏi sự vây tỏa của người láng giềng khổng lồ phương bắc, có dân số đông gấp 15 lần. Người Việt Nam hiểu rằng vị trí địa lý đã quy định cách thức quan hệ của họ với Trung Hoa: họ có thể chiến thắng trên chiến trường, nhưng sau đó vẫn phải cử người đến Bắc Kinh thể hiện sự thần phục. Đó là tình huống lạ lùng đối với một quốc gia trên thực tế là một hòn đảo như Mỹ” [28]. “Thực tế là, không có quốc gia nào bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng Việt Nam” (The fact is, no country is as threatened by China’s rise as much as Vietnam)[29]. Đây là một nhận xét sâu sắc, đặc biệt thú vị và phải là người có cái nhìn xuyên suốt lịch sử Việt Nam trong đối sánh với các quốc gia khác xung quanh Trung Quốc, thì mới có thể bật ra được nhận xét tinh tường như thế. Người Việt Nam đôi khi cũng có suy nghĩ tương tự, nhưng chưa thấy ai viết hoặc phát biểu chính thức như vậy. IV. Những hệ lụy 1. Chắc chắn là Trung Quốc đã tính toán rất kỹ và chuẩn bị từ lâu để đưa giàn khoan Haiyang 981 cùng các phương tiện quân sự vào vùng biển chủ quyền của Việt Nam. Thời điểm mà Trung Quốc lựa chọn cũng thuộc loại hiếm hoi để Nga dẫu có định nói gì cũng phải im lặng[30] (sau cú gây chấn động địa chính trị ở Crimea và bắt tay với Trung Quốc để bán hàng trăm tỷ USD khí đốt trong suốt 30 năm). Mỹ đang có những vấn đề của mình ở Châu Âu và Trung Đông, trong khi Tổng thống Obama lại ở vào thời điểm bất lợi nhất về uy tín[31]. Nhật Bản đang “nín thở” để thực thi chính sách “quyền tự do nhiều hơn về quân sự” của mình. Philippines và Indonesia thì còn đang “ngơ ngác chưa hiểu Trung Quốc định làm gì” với các eo biển Malacca, Sunda, Blombok và Makascha[32]. Malaysia thì có thái độ bí ẩn đến nghi ngờ[33]. Thái Lan và Campuchia thì vô tình hoặc cố ý coi một vài bãi đá ở Thái Bình Dương là chuyện xa lạ. Lào thì lúng túng không biết thể hiện chính kiến như thế nào. Còn Việt Nam, “kẻ đối đầu hữu nghị” - đối tượng có ý nghĩa quyết định nhất cho việc thành bại của những âm mưu - thì thực lực quân sự vẫn chưa mạnh như dự kiến[34], kinh tế gặp nhiều khó khăn, đối nội và đối ngoại đều có những vấn đề lớn nhỏ. Một “cơ hội khó có thể tốt hơn” tương tự như lúc Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. 2. Cơ hội tốt, tiềm lực kinh tế vững, thực lực quân sự đủ mạnh, phương thức thừa tự tin để hiện thực hóa ý chí “Trung Hoa mộng”…, vậy bước đi này của Trung Quốc là đúng đắn hay sai lầm, có lợi hay có hại cho sự hình thành một Trung Hoa cường quốc vào những thập niên tới? Dĩ nhiên Trung Quốc tự ca ngợi hành động của mình chính đáng và hơn thế nữa, còn là không quên “nỗi nhục trong lịch sử” (History of humiliation, như chính tập Cận Bình đã nói trước quân đội 27/6/2014[35]). Nhưng cũng không ít học giả, chính khách quốc tế, trong đó có cả học giả Trung Quốc, coi bước đi này của Trung Quốc là “dại dột”, “Cao Biền dậy non”, sai lầm, thậm chí sai lầm to lớn. Và, nếu thế thì đây mới là điều đặc biệt thú vị. Một Trung Quốc khôn ngoan, mưu lược, kỹ lưỡng đến từng chi tiết, ấp ủ mộng lớn tới hàng trăm năm… mà chẳng lẽ vẫn “dại dột”, và “về lâu dài lại gây tổn hại cho mình nhiều hơn”[36] hay sao. Như trong tham luận “Thế kỷ châu Á và vấn đề Biển Đông” tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ tư, Hà Nội, 11/2012[37], quan điểm của chúng tôi và của nhiều học giả quốc tế khác đã được trình bày, triển vọng về một Châu Á hưng thịnh trong thế kỷ XXI với cường quốc Trung Hoa đóng vai trò đầu tàu vĩ đại của sự tiến bộ, là triển vọng khá thực tế. Khó ai có thể ngăn trở hoặc phá vỡ được triển vọng này, ngoài chính Trung Quốc. Xin nhấn mạnh, Khó ai có thể ngăn trở hoặc phá vỡ được triển vọng này, ngoài chính Trung Quốc. Nghĩa là, nếu Trung Quốc biết kiềm chế tham vọng phi lý của mình và nếu Biển Đông không có chiến tranh, thì thế kỷ XXI sẽ là “Thế kỷ châu Á”, Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc có trách nhiệm và nhiều điều tốt đẹp khác sẽ đến với Châu Á và với thế giới. Nhưng điều kỳ lạ đến khó tin là, trong đối ngoại, “Trung Quốc chỉ cảm thấy thoải mái khi hành xử theo cách của riêng mình” [38] (Rory Medcalf, Giám đốc chương trình an ninh quốc tế thuộc Viện Lowy, thành viên cao cấp của Viện Chính sách đối ngoại Brookings đã nhận xét như vậy). Nếu đúng như thế thì có thể tâm lý Đại Hán dân tộc chủ nghĩa đã che khuất tầm nhìn sáng suốt của giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo dõi đánh giá của các học giả Mỹ, Phương Tây và các nước khác, trong chừng mực tài liệu mà chúng tôi bao quát được, về hệ lụy của hành động Trung Quốc làm nóng Biển Đông, chúng tôi thấy các phân tích thường khá tập trung ở những nội dung sau: 1/ Trung Quốc làm xấu đi hình ảnh của chính mình, tự coi mình là trường hợp dị thường, làm mất thêm niềm tin của cộng đồng quốc tế. 2/ Làm sống dậy chủ nghĩa dân tộc Đại Hán hẹp hòi, “to xác, xấu tính” [39] (chữ dùng chỉ Trung Quốc của David Pilling, Biên tập viên kỳ cựu của tờ Financial Times). 3/ Vô tình thúc đẩy Liên minh Nhật - Mỹ - Philippines, Liên minh Nhật - Mỹ - Hàn. 4/ Buộc ASEAN khá lỏng lẻo phải đồng thuận hơn. 5/ Làm cho EU và phương Tây e ngại sâu sắc hơn đối với Trung Quốc. 6/ Đẩy Việt Nam xích lại phía Mỹ gần hơn. 7/ Cuối cùng, biến mối quan hệ giữa 2 Đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, vốn đã không nhiều tin tưởng, trở thành lạc lõng; vô hiệu hóa khẩu hiệu 4 tốt và 16 chữ vàng, mà Trung Quốc dùng để ràng buộc Việt Nam nhiều hơn là Việt Nam có thể yêu cầu gì ở phía Trung Quốc. V. Kết luận Mặc dù những hiện tượng dẫn ra trong bài đều là có thật và những đánh giá của các học giả và các chính khách Mỹ và Phương Tây về vấn đề đều rất khách quan, nhưng chúng tôi vẫn hy vọng rằng, quy luật về sự tiến bộ trước sau vẫn là quy luật thép. Và nếu thế thì những hiện tượng khiến thế giới cảm nhận không mấy tốt đẹp về sự trỗi dậy của Trung Quốc chẳng qua chỉ là những biểu hiện không bản chất, những bước vấp váp, quanh co hoặc thụt lùi… sai lầm của một một cường quốc đang lên. “Quay đầu là bờ” – Trung Quốc rồi sẽ nhận ra hay buộc phải nhận ra sai lầm của mình. “Hạ lưu” không thể là phương thức để phát triển. Sự “trỗi dậy” trong thế kỷ XXI không thể bằng cách nào khác ngoài hòa bình, thân thiện và văn minh, nếu Trung Quốc muốn là con sư tử Trung Hoa. Thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của một Châu Á thịnh vượng. ================== [1]. Xem: Gabriel Racle (2005). L' Eveil de la Chine. L'Express 13-19 décembre 2005. http://www.lexpress.to/archives/94 [2]. Alain Peyrefitte (1925-1999) là nhà văn, viện sỹ Hàn lâm. Ông đã có một thời gian dài giữ các trọng trách trong chính phủ Pháp: Nhà ngoại giao ở Đức và Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Thông tin 1962-1966, Bộ trưởng Bộ Tư pháp 1977-1981. Ông là tác giả của nhiều ấn phẩm có giá trị: “The Immobile Empire” (Đế chế bền vững), “Quand la Chine s'éveillera, le monde tremblera” (Khi Trung Quốc thức dậy, thế giới có run sợ), “Le Mal Français” (Người Pháp xấu xí)… Sau khi qua đời 1999, ông được vinh danh và thi hài được giữ trong Les Invalides, nơi yên nghỉ của Napoleon và các vĩ nhân khác. [3]. Xem: Gabriel Racle (2005). Sđd. [4]. Xem: Xi Jinping: the Chinese foreign media attention compared to the peace "Lion". http://www.newshome.us/news-7406458-Xi-Jinping-the-Chinese-foreign-media-attention-compared-to-the-peace-Lion.html [5].“中华民族的血液中没有侵略他人、称霸世界的基因,中国人民不接受'国强必霸'的逻辑。” Xem:http://mp.weixin.qq.com/s?__biz=MjM5NjI0Mjk0MA==&mid=200565954&idx=1&sn=29d8276f57d73d0cb4331431a91872ee // Tập Cận Bình nói Trung Quốc bị bắt nạt: Sự thật là gì? http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/tap-can-binh-noi-tq-bi-bat-nat-su-that-la-gi-3044372/ [6] Vào bất cứ thời điểm nào, gõ hai thuật ngữ trên tại bất cứ công cụ tra cứu nào, mạng Internet cũng đưa ra hàng vạn kết quả. Xem: Navarro, Peter & Greg Autry (2011). Death by China, Confronting The Dragon – A Global Call to Action. Publishing as Prentice Hall. http://www.deathbychina.com/DBC-excerpt.pdf . // 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html (Website Chinanew nói về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ tiến hành để thực hiện Giấc mộng Trung Hoa trong 50 năm tới: 1/ Đài Loan 2020-2025; 2/ Biển Đông 2025-2030; 3/ Tây tạng 2035-2040; 4/ Điếu Ngư-Lưu Cầu 2040-2045; 5/ Ngoại Mông 2045-2050; Nga 2055-2060. Từ năm 2011 đến nay, 6/2014, bài viết này đã bị phản đối gay gắt trên khắp thế giới. Nhưng Trung Quốc vẫn không chịu gỡ bỏ). [7]. Xem: Carl Thayer (2014). Kịch bản chiến tranh Việt - Trung. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/05/140522_carlthayer_vn_china_conflict.shtml // James B. Steinberg, Michael O'Hanlon (2014). Keep Hope Alive How to Prevent U.S.-Chinese Relations From Blowing Up. http://www.foreignaffairs.com/articles/141476/james-b-steinberg-and-michael-ohanlon/keep-hope-alive [8]. Xem: Aliza Goldberg (2014). Push Comes to Shove in the South China Sea. World Policy. June 26, 2014. http://www.worldpolicy.org/blog/2014/06/26/push-comes-shove-south-china-sea // Bill Dries (2014). How to Have a Big Disastrous War with China. National Interest 27 June 2014. http://nationalinterest.org/feature/how-have-big-disastrous-war-china-10762 [9]. Xem: Việt Nam phản đối bài viết trên mạng Trung Quốc. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080905_viet_protest_china.shtml // Hữu nghị, nhưng phải giữ chủ quyền. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/07/140701_nguyenphutrong_on_oilrig.shtml // Trung Quốc lộ rõ ý định đánh phủ đầu Việt Nam. http://hoangsa.org/f/threads/khi-trung-quốc-lộ-rõ-ý-định-đánh-phủ-đầu-việt-nam.686 // Học giả Trung Quốc: Nên tạm gác Hoa Đông, "xử lý" Biển Đông trước. http://giaoduc.net.vn/Quoc-te/Hoc-gia-Trung-Quoc-Nen-tam-gac-Hoa-Dong-xu-ly-Bien-Dong-truoc-post146632.gd // Trung Quốc kéo 4 tàu ngầm hạt nhân ra dọa Mỹ, trừng phạt Việt Nam. http://www.baomoi.com/Trung-Quoc-keo-4-tau-ngam-hat-nhan-ra-doa-My-trung-phat-Viet-Nam/119/14151265.epi [10]. Huntington, Samuel P.(2005). Sự va chạm của các nền văn minh. Nxb. Lao động. tr.328. [11]. Huntington, Samuel P.(2005). Sđd. tr. 336-337. [12]. Xem: Flournoy, Michael, Ely Ratner (2014). China’s territorial advances must be kept in Check by the United States. Washington Post. July 4. http://www.washingtonpost.com/opinions/chinas-territorial-advances-must-be-kept-in-check-by-the-united-states/2014/07/04/768294dc-0230-11e4-b8ff-89afd3fad6bd_story.html. [13]. Clinton, Hillary R., Secretary of State (2010). Press Availability. National Convention Center. Hanoi, Vietnam. July 23,. http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm [14]. Xem: Clinton, Hillary R. (2014). Hard Choices. Pub.: Simon & Schuster. [15] Clinton, Hillary R., Secretary of State (2012). Commemorating U.S. Peace and Security Partnerships in the Pacific.Cook Islands, August 31. http://www.state.gov/secretary/rm/2012/08/197262.htm [16] Clinton, Hillary R. (2011). America's Pacific Century. Foreign Policy. November, 2011. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=full. [18] Kaplan, Robert D. (2011). The South China Sea Is the Future of Conflict. Foreign Policy. Sept/Oct,.http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/the_south_china_sea_is_the_future_of_conflict [19] CNAS. Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea. (Edited by Patrick M. Cronin. Contributors: Patrick M. Cronin, Peter A. Dutton, M. Taylor Fravel, James R. Holmes, Robert D. Kaplan, Will Rogers and Ian Storey). January, 2012. http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf [20]. Robert D. Kaplan, Giám đốc cơ quan phân tích địa chính trị Stratfor, chuyên gia cao cấp của Trung tâm An ninh Mỹ CNAS (Center for a New American Security), chuyên gia Hội đồng Chính sách Quốc phòng, Mỹ. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng về quan hệ quốc tế, như “Cuộc báo thù của địa lý: những gì bản đồ nói với chúng ta về các xung đột sắp tới và cuộc chiến chống lại định mệnh” (The Revenge of Geography: What the Map Tells Us About Coming Conflicts and The Battle Against Fate) Nxb. Random House, 2012, & 2013; “Những bóng ma Balkan: hành trình qua lịch sử (Balkan Ghosts: A Journey Through History. Nxb. Picador, 1993, 2005)… Năm 2011 và 2012 Kaplan được “Foreign Policy” xếp hạng thuộc “Top 100” Nhà tư tưởng toàn cầu (“Global Thinkers”).Thomas Friedman gọi R. Kaplan một trong bốn tác giả được đọc nhiều nhất sau Chiến tranh lạnh (cùng với Francis Fukuyama - Đại học Johns Hopkins, Paul Kennedy - Đại học Yale và Samuel Huntington - Đại học Harvard). (Theo: http://www.cnas.org/people/experts/staff/robert-kaplan // http://www.robertdkaplan.com/robert_d_kaplan_bio.htm). Lưu ý: Quan điểm của Kaplan không phải lúc nào cũng được Nhà trắng tán thành, như một số tài liệu đã nói. [21]. Kaplan, Robert D. (2014). Asia's Cauldron: The South China Sea and the End of a Stable Pacific. Random House. New York, 2014. [22] The Latest Books From Robert D. Kaplan. http://www.robertdkaplan.com/ [23] Kaplan, Robert D. (2011). Sđd. (Bản dịch của Viện Thông tin KHXH (2012). Niên giám Thông tin KHXH nước ngoài. Số 3. Nxb. KHXH. 2012. tr. 328. [24] Kaplan, Robert D. (2011). Sđd. tr. 337. [25] Xem: The United States 7th Fleet. http://www.csg7.navy.mil/engagements/7thfleetregion.htm // Trịnh Thái Bằng (2013). Hạm đội 7 Mỹ và cuộc chiến ở Biển Đông. http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/ham-doi-7-my-va-cuoc-chien-o-bien-dong-644299.tpo [26] Kaplan, Robert D. (2011). Sđd. tr. 341-342, 337. Xin được trích nguyên văn để tránh hiểu sai: “In international affairs, behind all questions of morality lie questions of power… In the Western Pacific in the coming decades, morality may mean giving up some of our most cherished ideals for the sake of stability. How else are we to make room for a quasi-authoritarian China as its military expands? … That, too, will be a lesson of the South China Sea in the 21st century -- another one that idealists do not want to hear. (…) Whatever moral drama does occur in East Asia will thus take the form of austere power politics of the sort that leaves many intellectuals and journalists numb. (…) In the 21st-century retelling, with China in Athens's role as the preeminent regional sea power, the weak will still submit -- but that's it. This will be China's undeclared strategy, and the smaller countries of Southeast Asia may well bandwagon with the United States to avoid the Melians' fate. But slaughter there will be not”. [27]. Robert D. Kaplan (2011). Sđd. tr. 330. [28]. Kaplan, Robert D. (2014). Sđd. Chapter III. // Cuốn sách mà Kaplan trích dẫn: Robert Templer (1999). Shadows and Wind: A View of Modern Vietnam. Penguin Books. 384 p. ISBN-13: 978-0140285970. [29]. Kaplan, Robert D. (2014). Sđd. Chapter III. [30]. Căng thẳng biển Đông: Vì sao Nga im lặng? (Phỏng vấn Lucio Caracciolo 15/5/2014). http://plo.vn/thoi-su/cang-thang-bien-dong-vi-sao-nga-im-lang-468385.html // Trung Quốc đã tính kỹ thời điểm đặt giàn khoan trái phép http://www.doisongphapluat.com/xa-hoi/trung-quoc-da-tinh-ky-thoi-diem-dat-gian-khoan-trai-phep-a32337.html#.U7oHg41_vlQ [31]. Theo kết quả thăm dò toàn nước Mỹ được Đại học Quinnipiac, Connnecticut công bố ngày 2/7/2014 thì 33% người được hỏi đánh giá Obama là Tổng thống tệ nhất của Mỹ kể từ sau Thế chiến II. Xem: http://www.quinnipiac.edu/news-and-events/quinnipiac-university-poll/national/release-detail?ReleaseID=2056 [32]. Lê Ngọc Thống (2014). Nước cờ nào của Trung Quốc trên Biển Đông. http://baodatviet.vn/quoc-phong/binh-luan-quan-su/nuoc-co-nao-cua-trung-quoc-tren-bien-dong-3032788/ [33]. Quan hệ lạ thường Malaysia – Trung Quốc (2014). http://petrotimes.vn/news/vn/quan-doi-va-chien-tranh/quan-he-la-thuong-malaysia-trung-quoc.html. Ngày 24/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc phải gửi tuyên bố tới tờ WSJ (The Wall Street Journal) để giải thích cho mối quan hệ “khó giải thích” của họ với Malaysia. [34]. Perlez, Jane (2014). Q. and A.: Lyle Golstein on China and the Vietnamese Military. July 5. http://sinosphere.blogs.nytimes.com/2014/07/05/q-and-a-lyle-goldstein-on-china-and-the-vietnamese-military/?_php=true&_type=blogs&emc=edit_tnt_20140705&nlid=15975&tntemail0=y&_r=0 [35]. Xi Jinping stresses building strong frontier defense. http://english.sina.com/china/p/2014/0628/713605.html [36]. “In the long run, the premature displays of confidence China has lately shown are likely to harm its interests more than advance them”. Rory Medcalf (2014). China's Premature Power Play Goes Very Wrong. National Interest June 3. http://nationalinterest.org/feature/chinas-premature-power-play-goes-very-wrong-10587 // Trần Ngọc Thêm (2014). “Cao Biền dậy non” http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140530_who_mediate_981_conflict.shtml [37]. Xem: Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, ĐHQG Hà Nội (2014). Việt Nam học. Kỷ yếu Hội thảo lần thứ tư. Hà Nội, 26-28/11/2012. Tập VII. Nxb. KHXH. tr. 487-498. [38]. “Chinese diplomacy seems comfortable only on a stage it manages”. Rory Medcalf (2014). Sđd. [39]. David Pilling (2011) Asia’s quiet anger with ‘big, bad’ China. http://www.ft.com/intl/cms/s/0/da3396b6-8c81-11e0-883f-00144feab49a.html#axzz36mNae8Pi. ================== Cũng chả có gì mới. Nhưng Lão Gàn thấy sao các quí dị học giả cả Tây lẫn Ta nhìn nhận zdấn đế "gian đởn" wá. Lão Gàn thì chẳng có ý kiến, ý cò gì. Vì vừa cúng chuối xanh, muối ớt và lễ tạ Thần Sấm...xong nhậu xỉn wá, nên cho qua.1 like
-
Lời Tiên Tri 2014
xitrum liked a post in a topic by Thiên Sứ
Biển lửa ở kho sản xuất cồn khôThứ năm, 24/7/2014 | 14:36 GMT+7 Cột khói bốc cao cả chục mét, nhiều tiếng nổ lớn phát ra, chỉ trong ít phút kho chứa cồn trên đường Phan Trọng Tuệ (Thanh Trì, Hà Nội) chìm trong biển lửa. Lửa bùng phát tại khu vực sản xuất cồn khô trong khuôn viên Tổng kho nam Sông Hồng trên đường Phan Trọng Tuệ. Nhiều nhân viên sửa chữa ôtô ở gara bên cạnh cho biết, thấy mùi khói nồng nặc rồi lửa nhanh chóng bốc cao cả chục mét. Sau ít phút, 5 xe cứu hỏa có mặt tại hiện trường. Khu vực bị cháy là nơi đựng các bình cồn nước lớn để sản xuất cồn khô. Nhiều bình bị vỡ khiến lửa mỗi lúc một to, việc dập lửa gặp nhiều khó khăn. Để khống chế đám cháy cồn, lực lượng chức năng đã phải sử dụng nhiều can hóa chất dập lửa chuyên dụng. Và sử dụng vòi phun mưa làm mát các khu vực, tránh lửa lây lan. Nhiều bộ đội được huy động cùng tham gia chữa cháy. Trong kho còn có vật liệu xốp, nhựa và thùng các tông nên khói bốc mù mịt, cản trở việc dập lửa. Vụ hỏa hoạn được khống chế lúc 12h, thiêu rụi một kho rộng hơn 100m2. Không có thiệt hại về người. Tại gara ôtô, một xe máy và một ôtô bị lửa táp vào nhưng rất may các nhân viên đã kịp đưa phương tiện ra ngoài. Bá Đô1 like -
Hugo Chavez và khuynh hướng ám sát công nghệ cao trong nền chính trị thế giới -Phần 2 Thứ ba, 26/03/2013 - 11:18 AM (GMT+7) NDĐT- Hugo Chavez, Tổng thống theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của Venezuela trong 14 năm đã mất ngày 5-3-2013, sau vài tháng chống chọi quyết liệt với căn bệnh ung thư. Các phương tiện truyền thông đang nói về bệnh “đau tim” bất thường là nguyên nhân của cái chết này. Bà Bhuto phát biểu trước những người ủng hộ trước khi bị ám sát II Thành công và thất bại Các vụ ám sát công nghệ cao có thể thành công và có thể thất bại. Một mặt, việc áp dụng các vụ ám sát công nghệ cao đã đạt thành công. Thí dụ, trong số 11 trường hợp trên có bốn trường hợp thành công như: Hugo Chavez, Nestor Kirchner, Alexander Litineko và Yassar Arafat Mặt khác, một số trường hợp lại thất bại, theo hai cách chủ yếu dưới đây. Trước hết, một vài cố gắng (giống như 9 trường hợp trên ) không thành công bởi ít nhất vì thời điểm- khi Israel đã cố gắng lặng lẽ giết Khaled Meshal không thành công bằng thuốc độc, nhưng “một trong số những vệ sĩ của Meshaal là Muhammad Abu Saif đã đuổi theo hai nhân viên Mossad là những người thực hiện phi vụ này, và với sự giúp đỡ của lực lượng Quân đội giải phóng Palestin PLO, đã bắt giữ được kẻ chủ mưu và “vụ ám sát bất thành đã trở thành minh chứng về một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử các điệp vụ đặc biệt và cũng chính là một thời khắc mấu chốt đối với sự trỗi dậy của Hamas. Điều này cũng làm bẽ mặt ông Benjamin Netanyaho, Thủ tuớng Israel thời kỳ 1996-1999 và cũng là Thủ tướng cả bây giờ (kể từ năm 2009), bởi vì ông ta đã bị buộc phải không chỉ cung cấp thuốc giải độc và thành phần thuốc độc đã được sử dụng đề đầu độc Meshaal mà đồng thời còn “phải ra lệnh thả nhà sáng lập phong trào Hamas (Kheikh Ahmed Yassin) khỏi nhà tù trong một cuộc trao đổi tù binh” như lời tờ báo Al Jazzera tường thuật ngày 30-1-2013. Thứ hai, ngay cả các vụ giết hại các đối thủ chính trị cũng không nhất thiết đều mang lại kết quả như mong muốn. Thí dụ cái chết cuả Nestor Kirchner không đem lại cho Argentina sự ủng hộ Mỹ hơn từ trong nước này. Trái lại, điều đó chỉ góp phần đưa người vợ của ông là Crítina Kirchner -người luôn kề vai sát cánh với ông Chavez lên nắm quyền. Cái chết của Yassar Arafat không đem lại hoà bình cho Trung Đông , cũng không đem lại bình yên hơn cho Israel từ phía Hamas, bởi vì cả hai phía mới đây đều xảy ra xung cột quân sự vào tháng 12-2012. Cái chết của Alexander Livineko cũng không dập tắt được tiếng nói của phe đối lập chống lại Tổng thống Putin; trái lại, phe đối lập giờ đây còn trưởng thành mạnh mẽ hơn, từ chỗ chiếm 29% phiếu bầu trong cuộc bầu cử tổng thống hồi 2004 tới 37% phiếu bầu trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 2012. Và cái chết của Hugo Chavez đã khiến ông trở thành vị anh hùng tử vì đạo trong mắt những người ủng hộ ông, cả trong nước và trên thế giới, bởi những thành tựu vĩ đại của ông trong việc đưa lại cho người nghèo có được tiếng nói của mình trong khu vực ảnh hưởng công và khả năng đứng dậy chống lại chủ nghĩa đế quốc vì một nền độc lập cho Nam Mỹ với tư cách là một khối thống nhất tích hợp mạnh hơn. Luiz Ináco da Silva, Cựu Tổng thống Brazil đã viết một cách hùng hồn về Chavez trên tờ New York Times hôm 6-3-2013, một ngày sau cái chết của ông Chavez: “Không thể có một con người trung thực nào, thậm chí là người chống đối quyết liệt nhất nào có thể chối bỏ mức độ thân thiết, của lòng tin cậy và thậm chí cả tình yêu mà ông Chavez dành cho người dân nghèo Venezuela cũng như dành cho sự nghiệp hội nhập châu Mỹ Latinh. Trong nước, “Các chiến dịch xã hội của ông Chavez, đặc biệt trong lĩnh vực sức khoẻ cộng đồng, nhà ở và giáo dục đã đạt thành công trong việc nâng cao mức sống của hàng chục triệu người dân Venezuela” – Ông Lula không tiếc lời ca ngơi. Trên thế giới, “ông Chavez đã có công đầu trong việc ra đời bản Hiệp định 2008 cho phép thành lập Liên đoàn các quốc gia Nam Mỹ, một tổ chức liên chính phủ gồm 12 nước thành viên, một ngày nào đó có thể chuyển dịch châu lục hướng tới hình mẫu của EU. Năm 1010, Cộng đồng Mỹ La tinh và các nước Caribe đã có bước nhảy từ học thuyết tới thực tiễn khi tạo ra một diễn đàn chính trị song song Tổ chức các nước Châu Mỹ (Không bao gồm Mỹ, Canada như cơ cấu của Tổ chức các nước châu Mỹ). Ngân hàng phương Nam, một thể chế mới độc lập với WB và Ngân hàng phát triển liên Mỹ cũng không thể ra đời nếu không có vai trò lãnh đạo của ông Chavez. Cuối cùng, ông Chavez đã đặc biệt quan tâm tới việc thúc đẩy quan hệ gắn bó châu Mỹ Latinh với châu Phí và thế giới Ả tập” như lời ông Lula ca ngợi. Song điều này không có nghĩa rằng ông Chavez không có những khiếm khuyết trong cách làm của mình. Trái lại, như Lula từng phê bình ông: “Người ta không cần đồng ý với mọi thứ mà ông Chavez nói hay làm…Không phủ nhận rằng ông là một người gây tranh cãi, thường xuyên gây ra phân cực,…” Còn đối với kẻ thù của mình, đặc biệt là những người có quan hệ với thế giới tư bản chủ nghĩa, ông có thể xem như là tai ương từ địa ngục. Vâng, với tất cả những phân tích trên, những người đã xuống đường, tràn ngập phố xá Caracas vào ngày 6-3-2013 rồi chờ đợi hàng tiếng đồng hồ chỉ để chào vĩnh biệt ông lần cuối khi quan tài của ông đượcchuyển đến Viện bảo tang quân đội với nhiều nước mắt rơi tiếc thương, nhiều người thậm chỉ đứng suốt đêm để nhìn ông lần cuối tại Học viện Quốc phòng Fort Tiuma- thì cái chết của ông đã làm cho ông trở nên vĩ đại hơn bản thân một cuộc sống trần thế. Và theo góc nhìn đó, như Lula nói: “Những tư tưởng của ông sẽ còn lôi cuốn thế hệ trẻ tương lai mạnh mẽ hơn cuộc đời của Simon Bolivar, người Anh hùng giải phóng dân tộc của Châu Mỹ La tinh mà ông Chavez luôn ngưỡng mộ” Tác giả Andrew Cawthorne hôm 8-3 đã viết: “Nhiều giờ sau khi Hugo Chavez chết, người ta đã lập bàn thờ ông ở các gia đình và các góc phố trên khắp nước Venezuela với nến cháy, ảnh treo và lời cầu nguyện cho vị Tổng thống quá cố. Than khóc bên linh cữu ông, những người ủng hộ ông xem ông như là người anh hùng Simon Bolivar hoặc thậm chí, như là Chúa Jesus Chris. Các vị bộ trưởng dẫn lời nói ông với đầy vẻ kính trọng” Và sự ra đi của ông chính là điều tuyệt vời nhất mà những kẻ thù của ông đã làm với ông: cái chết sớm và đau đớn của ông đã khiến ông trở thành người anh hùng trong tim những người yêu quý ông cả trong nước và quốc tế, hiện tại cũng như tương lai. ==================== Chuyện "Ám sát công nghệ cao" đặt ra một vấn đề mối liên hệ tế vi về một loại công nghệ cao, có khả năng gây ra cái chết của con người mà bài báo đặt vấn đề ở trên, làm tôi liên hệ đến những cái chết được báo trước trong thời gian làm phong thủy của tôi. Nhưng ở trong Phong thủy thì lại là một mối liên hệ tương tác có thể mô tả bằng một hệ thống những nguyên lý, quy tắc có thể suy diễn một cách hợp lý phản ánh một quy luật tương tác gây ảnh hưởng đến con người. Tôi có thể trình bày vài thí dụ mà tôi nhớ được trong những thời gian thực hành về phong thủy: 1/ Nhà đạo diễn Huỳnh Phúc Điền. Ngày ấy, tôi đến nhà Chipchip làm phong thủy cho cô bé. Ra về, tôi chỉ ngay cái nhà bến canh và nói với Chipchip: Người ở trong cái nhà này, không quá 6 năm sẽ có người mắc bạo bệnh và chết. Vì Chipchip có theo học PTLV một thời gian, nên khi làm nhà, tôi cũng giảng giải thêm. Lúc ấy tôi không biết đó là nhà của đạo điền Huỳnh Phúc Điền. Một năm sau, tôi nghe Chipchip kể lại và xác định tôi nói đúng. Nghe câu chuyện và tiếc một đạo diễn tài ba, tôi có ngỏ lời chữa phong thủy miễn phí. Nhưng vì gia đình anh ta cũng có thầy theo đã nhiều năm. Nên tôi không có duyên giúp anh ta. Sự kiện này cũng đã đăng tải công khai trên diễn đàn. 2/ Nữ thân chủ tuổi Ất Mùi. Bà ta bị ung thư giai đoạn cuối. Tôi ra giá 30 T và thân chủ ứng đủ. Nhưng khi đến nơi, tôi yêu cầu xây căn phòng cuối nhà cao lên hai tầng nữa. Bà ta nói không còn tiền nâng nhà. Tôi trả lại tiền cho bà ta vì biết trong điều kiện này không thể chữa khỏi cho bà ấy được. và chỉ tư vấn giúp miễn phí những chi tiết khác,mà cái căn bản lại không thực hiện được. Tuy nhiên vẫn kéo dài tuổi thọ cho bà ấy gần 3 năm. 3/ 4 anh em nhà ông Quí Mùi Nhà này diện tích gần như vuông 10x12. Bốn anh em ăn nên làm ra xây trên nền đất của một căn nhà 5 tầng và có một cái cột chịu lực bằng rưỡi người ôm ngay giữa nhà. Xây xong, người anh cả chết. Sang năm người anh thứ hai Bính Tuất chết. Khi tôi đến thì người anh thứ hai Giáp Ngọ, chống gậy từ trên gác xuống tiếp tôi. Còn người út tuổi Đinh Dậu thì hoại tử xương hông đang ngồi xe lăn. Tôi biết chắc là do cái cột đâm vào giữa nhà. Nhưng nghĩ mãi chưa ra cách nào khống chế. Vì đập cột thì sập nhà. Tôi định bỏ cuộc và trả lại tiền. Nhưng thật là "may thày, phước chủ". Tôi nghĩ ra một kế là gọt cái cột còn lại lõi beton 40x40cm, quây lại thành một cái phòng. Hai anh em còn sống khỏi bệnh. Tuy nhiên, tôi có yêu cầu tất các hộ gia đình trên lầu phải đưa bếp xuống dưới nhà nấu. Mọi người đều tuân thủ. Chỉ riêng bà dâu cả không tin. Vì cho rằng đám em chồng vẽ vời. Sáu tháng sau bà ta chết. Có rất nhiều ví dụ như vậy, tôi chỉ đưa vài ví dụ để chia sẻ rằng: Có những quy luật tương tác gián tiếp trong môi trường sống của chúng ta, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Và giả sử việc đầu độc công nghệ cao là có thật thì người ta có thể giải thích được cơ chế tương tác của nó. Nhưng thực tế chứng nghiêm của Phong thủy với hệ thống phương pháp luận ứng dụng, đã xác đinh một sự tương tác khác,mà tri thức khoa học hiện đại chưa thể hiểu được cơ chế tương tác của nó. Mặc dù có thể thẩm đinh về lý thuyết với tiêu chí khoa học cho hệ thống phương pháp luận ứng dụng này. Phong thủy là một ngành khoa học thực sự - với Phong Thủy Lạc Việt mới đáp ứng đầy đủ tiêu chí khoa học cho hệ thống phương pháp luận ứng dụng của nó . Bởi vậy, nó ví như là thuốc và thực phẩm trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Ăn thực phẩm sach, uống thuốc bổ thì cuộc sống bình thường - cho nên một cái phong thủy đúng thì cuộc sống bình thường vẫn trôi đi. Những thân chủ thành công vẫn nhận thấy chính tài năng của họ quyết định mọi việc. Nhưng ăn phải thực phẩm bẩn, uống thuộc độc tất nhiên là chết. Lúc ấy, con người mới cần đến ông thày thuốc. Chúng tôi sẽ xuất bản một cuốn Phong thủy Lạc Việt ứng dụng. Trong đó không giải thích mà chỉ tra sách và làm theo *Như vậy cũng qúa dày) . Đồng thời tôi cũng đang quay video ngay căn nhà tôi mới xây dựng theo Phong thủy Lạc Việt - tức là tôi ứng dụng đổi chỗ Tốn khôn và Hà đồ ngay vào nhà tôi, để quý vị tham khảo. Tôi hy vọng từ đó sẽ chia sẻ những hiểu biết của mình và anh chị em Phong Thủy Lạc Việt với mọi người , với thiện chí mong con người "gần lành, tranh dữ". Tôi thành thật tiếc nếu như không có sự giao lưu giữa hai nền văn minh.1 like