• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 24/06/2014 in Bài viết

  1. Hàng không náo loạn vì Trung Quốc tập trận trên biển Hoa Đông Thứ hai, 23/6/2014 | 22:09 GMT+7 Hàng chục chuyến bay qua biển Hoa Đông bị trễ hoặc hủy bỏ do quân đội Trung Quốc bất ngờ tập trận bắn đạn thật với quy mô lớn trên vùng biển này. Hải quân Trung Quốc và Nga tập trận chung bắn đạn thật trên biển Hoa Đông hồi tháng 5. Ảnh: Xinhua. Theo Want China Times, quân đội Trung Quốc tổ chức tập trận quy mô lớn 7 quân khu, trong đó có quân khu Nam Kinh nằm ở bờ biển phía đông, hướng ra phía Nhật Bản. Từ ngày 19/6, nhiều hãng hàng không đã báo cáo về các vụ gián đoạn nghiêm trọng trên đường bay qua và quanh quân khu Nam Kinh, khu vực bao gồm Thượng Hải cùng nhiều tỉnh duyên hải phía đông. Các chuyến bay giữa Hong Kong và Thượng Hải đặc biệt bị ảnh hưởng nặng nề, với ít nhất 65 chuyến bị hoãn hoặc hủy hôm 21/6. Hơn 10.000 hành khách được cho là "nạn nhân" của sự cố này hai ngày qua, trong đó có những người phải chờ đến 20 tiếng tại sân bay nhưng chỉ được đền bù 800 HKD (100 USD) mỗi người. Ming Pao đưa tin, cuộc tập trận ở quân khu Nam Kinh gồm các bài tập bắn đạn thật với xe tăng trong điều kiện đêm tối và địa hình nước ngoài để tăng cường năng lực chiến đấu của binh sĩ. Không quân Trung Quốc cũng được cho là luyện tập hạ cánh theo đội hình và cứu hộ ở các môi trường biển phức tạp. Lin Guangyu, cựu giám đốc Cục Hàng không Dân sự Trung Quốc, cho hay việc hàng loạt chuyến bay bị hoãn chắc chắn có liên quan đến cuộc tập trận của quân đội nước này. Ông nói thêm rằng các hãng hàng không có khả năng đã được thông báo trước nhưng họ không nhất thiết phải báo lại với hành khách. Huang Dong, chủ tịch Viện Quân sự Quốc tế Macau, cho hay đây là thời gian cao điểm của các cuộc tập trận quân đội trong năm, nhưng chỉ những cuộc nằm trong dự kiến mới được thông báo trước do phải giữ nguyên tính chất bất ngờ như chiến sự thật. Ông Huang cũng tin rằng, kiểu tập trận này sẽ tăng lên đáng kể trong tương lai do căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản trên biển Hoa Đông, nhất là sau khi Bắc Kinh tuyên bố Vùng Nhận dạng Phòng không cuối năm trước. Anh Ngọc ==================== Aristotle - Triết gia Hy Lạp phát biểu" "Nếu mọi bí mật được đưa ra ngoài ánh sáng, thế giới này sẽ sụp đổ". Lão Gàn phát biểu: "May quá! Chỉ có Thượng Đế mới có quyền quyết định có tiết lộ mọi bí mật hay không?". Phát biểu của Lão Gàn được SW Hawking tái xác nhận, dưới một hình thức khác: "Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không?!". Những diễn biến trên thế gian này - theo Lý học Đông phương, là: "Tại cái số nó thế!" . Duy nhất chỉ có Lý học Đông phương có khả năng tiên tri so với mọi lý thuyết của nền văn minh hiện đại. Kết luận cuối cùng theo tục ngữ Việt: "Khôn sống, mống chết". Cổ học tinh hoa phát biểu: "Giữa vòng trời đất, tài và bất tài đều chưa phải yếu tố thoát nạn, mà chỉ có Đức mới sống". Có người nói: "Khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ có biết là sống". Mọi thứ triết lý đều thừa, vì trong văn hóa truyền thống Việt, từ "khôn" đã xác định cái biết: "Trí khôn". Bình luận của Lão Gàn có vẻ chẳng ăn nhập gì với bài viết này.
    4 likes
  2. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. HỆ THỐNG CHỮ VIỆT CỔ CỦA NHÀ VĂN KHÁNH HOÀI Trong buổi giới thiệu Chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài tại hội trường Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam, tôi đã phát biểu: "Công trình nghiên cứu của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền, là nét vẽ cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh mô tả Việt sử 5000 năm văn hiến". Bởi vì một nền văn minh được thừa nhận thì phải có chữ Viết để duy trì và phát triển nên văn minh đó. Đây là một điều kiện hiển nhiên để minh chứng rõ hơn khi xác định một nền văn minh đã tồn tại. Nhưng điều kiện này không phải là một tiêu chí bắt buộc. Bởi vì khi một nền văn minh được xác định thì tất yếu nó phải có chữ viết. Vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào mà thôi. Đó là nội dung của lời phát biểu của tôi trong hội thảo. Bởi vậy, để chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, cội nguồn của nền văn minh Đông phương, khi đã hoàn chỉnh về mọi phương diện thì tất yếu nền văn minh này phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Tất nhiên, nó không phải là hệ thống 30. 000 từ gọi là Hán Việt - thực chất là Việt Nho - đó. Quí vị lớn tuổi chắc cũng biết là trước đây, người ta đã cố gắng chuẩn hỏa một dạng ngôn ngữ gọi là "quốc tế ngữ". Tất nhiên nếu thành công thì những ngôn ngữ phổ biến hiện nay là Anh , Pháp, hoặc Hin đu, Trung Hoa..., đều không cần dùng đến trong giao dịch quốc tế. Ở Việt Nam, lúc tôi còn là một gã thanh niên mới lớn, đã gặp không ít kẻ mặt vênh lên khi khoe khoang là đi học cái gọi là "quốc tế ngữ", khiến tôi phải ngậm ngùi vì sự dốt nát của mình. Nhưng đến nay, cái gọi là "quốc tế ngữ" đó, không phổ biến bằng tiếng Ai Cập cổ đại. Chưa hết, chính người Trung Hoa, bằng mọi cố gắng vẫn không thể nào chuẩn hóa được ký tự chữ Hán ra chữ Latin. Qua đó, với hệ thống 30. 000 từ tiếng Việt Nho ấy, không thể từ trên trời rơi xuống, ưu ái cho những học giả "mũ cao áo dài", học vị lủng xủng, lẻng xẻng căn cứ vào đấy để rung đùi phát biểu rằng: Ngôn ngữ Việt - là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Ngay cả Hoa Kỳ siêu cường số một thế giới, qua hơn 200 năm lập quốc, cũng chưa có ngôn ngữ và tiếng nói riêng của mình. Bởi vậy, tôi hy vọng rằng: Trừ những kẻ cố tình phủ nhận những gía trị văn hóa truyền thống Việt sử vì một mục đích nào đó - Còn nhưng ai có chút tỉnh táo của tư duy khoa học, cần suy ngẫm cho kỹ khi cho rằng: ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng văn hóa Hán và lệ thuộc văn hóa Hán với những từ gọi là Hán Việt trong ngôn ngữ Việt. Với hệ thống 30. 000 từ Việt Nho, quen gọi là Hán Việt ấy, phải là sản phẩm của văn minh Việt tộc từ trước thời Bắc thuộc. Chỉ có quốc gia Văn Lang - một thể chế tồn tại lâu nhất trong lịch sử văn minh nhân loại (2622 năm) và những bậc trí giả thực sự của nền văn hiến Việt mới có thể hệ thống hóa và Việt hóa, từ một ngôn ngữ cao cấp vượt trội, mới hệ thống hóa được 30. 000 từ và ký tự Hán ra tiếng Việt. Tất nhiên, một nền văn minh sở hữu một ngôn ngữ cao cấp thì phải có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh đó. Đó là điều hiển nhiên và không cấn phải chứng minh. Nhưng nếu xác định được một hệ thống chữ viết của nền văn minh đó thì sẽ làm sinh đông thêm những chứng lý cho sự tồn tại hoàn hảo trực quan cho nền văn minh đó. Do đó, vấn đề là hệ thống chữ viết đó cụ thể như thế nào? Chữ Khoa đẩu trên trống đồng Lũng Cú - đặt tại bảo tàng Pháp tại Paris. Có thể nói rằng: nếu xét về mặt tổng quát thì có thể xác định rằng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ Việt cổ là chữ Khoa đẩu. Điều này rõ ràng. Dấu ấn của chữ Khoa Đẩu rải rác khắp nơi từ Đài Loan (Có vĩ tuyến ngang với sông Dương Tử, ngay cả chữ Nhật Bản vẫn còn lưu lại dấu ấn của chữ Khoa Đẩu, Đồng bào Tày Thái cũng sử dụng chữ Khoa Đẩu (có một bức ảnh dạy học Bình dân học vụ vào năm 1945, 46 mô tả một giáo viện dạy học đồng bào Tày Thái bằng chữ khoa đẩu. Đã đưa lên diễn đàn). Quí vị quan tâm chỉ cần lên Goolge gõ chữ "Khoa đẩu " là có hàng tá tư liệu về vấn đề này. Dạy chữ Việt cổ trên vùng cao Cho đến thế kỷ XVII, Nguyễn Hữu Chỉnh trong cuộc họp nội các, cũng đã bàn đến việc sử dụng chữ Khoa Đẩu cho dân tộc Việt để chứng tỏ tính độc lập với văn hóa Hán. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh đã bác bỏ đề xuất này (Tư liệu của tôi đã đưa lên diễn đàn, khi tìm được tôi sẽ bổ sung sau). Di sản hệ thống chữ Khoa đẩu tìm thấy ở Lào Cai. Tôi nghĩ rằng chỉ cần như vậy cũng quá đủ để xác định nền văn minh Việt đã có chữ viết để duy trì và phát triển nền văn minh. Vấn đề cụ thế hệ thống chữ viết đó như thế nào . Cụ Khánh Hoài đã trình bày một cách rất cụ thể và chi tiết hệ thống ngôn ngữ Việt, trên cơ sở sưu tầm và tổng hợp những di sản còn lại của hệ thống chữ Khoa đẩu của Việt tộc. Cụ Khánh Hoài đã căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc để chứng minh cho hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình bày. Cụ đã chứng minh rằng: Toàn bộ hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ trình bày, hoàn toàn phủ hợp với những tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc. Phương pháp chứng minh của cụ hoàn toàn tương tự như phương pháp chứng minh của tôi, khi tôi phục hồi lại thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Sự trùng hợp giữa hai phương pháp chứng minh này, bởi vì cả hai đều chứng minh cho những hệ thống thuộc di sản văn hóa phi vật thể. Đó là một hệ thống lý thuyết cổ xưa và một hệ thống chữ viết đã thất truyền. Như phần trên tôi đã trình bày: Tôi đã theo cụ Khánh Hoài nhiều năm và tìm hiểu, so sánh đối chiếu rất kỹ những chuẩn mực là tiêu chí khoa học cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc với hệ thống chữ Viết mà cụ Khánh Hoài công bố, tôi mới nhiệt tình ủng hộ cụ với tư cách ủng hộ một chân lý đã được làm sáng tỏ. Tôi cần phải xác định lại một lần nữa rằng: Không phải dễ dàng tạo dựng cả một hệ thống chữ viết hoàn toàn phù hợp với ngôn ngữ của cả một dân tộc và những tiêu chí là chuẩn mực cho hệ thống chữ viết của dân tộc đó. Đây là điều mà tôi đã chứng minh ở trên. Sự thất bại của hệ thống Quốc tế ngữ, của những cố gắng Latin hóa ngôn ngữ Hán....ở cấp quốc gia và quốc tế, đã chứng tỏ điều này. Bởi vậy, cụ Khánh Hoài với tư cách là một cá nhân không thể tự mình tạo ra một hệ thống chữ viết cho cả một dân tộc - nếu như nó không phải là một thực tế đã tồn tại một cách khách quan trong quá khứ và chỉ để lại những di sản mờ nhạt. Cụ Khánh Hoài đã chứng minh: 1/ Hệ thống chữ Việt cổ mà cụ trình hoàn toàn phủ hợp với những ký tự cổ được xác định là của Việt tộc tồn tại rải rác trong những bản văn còn sót lại, như: Thanh Hóa Quan phong, Tự điển Việt Bồ La... Đây là những di sản tồn tại khách quan. Do đó, sự phù hợp của hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dung chứa những ký tự trong những di sản còn lại, tồn tại một cách hợp lý trong hệ thống đó, hoàn toàn không thể là sự áp đặt chủ quan. 2/ Những tiêu chí cho một hệ thống chữ viết của một dân tộc hoàn toàn phủ hợp với hệ thống chữ Việt cổ mà cụ đã trình bày. Như vậy, những chứng lý khách quan và khoa học đã được thực hiện đầy đủ và là một công trình nghiên cứu thực sự của một trí tuệ thông minh. Bởi vậy, những ý kiến phản biện - nếu có - phải chỉ ra: 1/ Mâu thuẫn giữa hệ thống chữ Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày với chính những tiêu chí khoa học mà cụ đã nêu. 2/ Phải chỉ ra và những ký tự trong các bản văn cổ - là những di sản tồn tại khách quan - mà cụ trình bày trong hệ thống chữ Việt cổ của cụ là ...không có thật. Chẳng một nhà gọi là "khoa học" mũ cáo áo rộng, bằng cấp lùng bùng nào ở Việt Nam thực hiện được điều này. Nhưng họ vẫn nhao nhao phản đối, mà đáng nhẽ ra họ là người có trách nhiệm phục hồi và chứng minh điều đó, chứ không phải cụ Khánh Hoài với động cơ mà họ gán cho là "Tinh thần yêu nước" trong công trình nghiên cứu của cụ. Duy nhất có giáo sư Lê Trọng Khánh đặt vấn đề hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài là hệ thống chữ khoa đẩu của dân tộc Tày Thái. Thực chất đây không phải yếu tố phản biện, mà chỉ là đặt vấn đề đối chiếu. Tôi vốn không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng tôi có thể xác định ngay rằng: Giả thiết hệ thống ký tự của đồng bào Tày Thái trùng khớp gần như hoàn toàn với những ký tự trong hệ thống chữ Khoa Đẩu của người Việt cổ mà cụ Khánh Hoài trình bày - tức là giả thuyết thuận lợi tối ưu cho cách đặt vấn đề này - thì điều đó không có nghĩa phủ nhận hệ thống của cụ Khánh Hoài không phải của người Việt cổ. Bởi những yếu tố sau đây: 1/ Dân tộc Tày Thái đã có chữ viết thì tất yếu dân tộc Kinh phải có chữ viết. 2/ Dân tộc Tày Thái là một bộ phận của nhà nước Văn Lang xưa ở Nam Dương tử, cho nên phải có mối liên hệ văn hóa và khả năng họ dùng chung một hệ thống ký tự với Việt tộc hoàn toàn không có gì là lạ. Nhưng chắc chắn với những ngôn ngữ khác nhau giữa Việt tộc và dân tộc Tày Thái thì cấu trúc mô tả ngôn ngữ của những ký tự chữ viết thể hiện ngôn ngữ khác nhau, không thể giống nhau. Một minh chứng cho vấn đề này chính là rất nhiều quốc gia sử dụng hệ thống chữ Latin. Nhưng rõ ràng chữ Quốc Ngữ của người Việt hiện nay thì không phải cấu trúc mô tả tiếng Anh của hệ thống chữ Latin này. Tất nhiên, chẳng ai bảo hệ thống chữ Quốc Ngữ hiện nay không phải hệ thống chữ Việt vì nó giống chữ Latin của các dân tộc khác trên thế giới. Bởi vậy, cá nhân tôi - nhân danh cá nhân - tôi xác định rằng: Hệ thống chữ Việt cổ của cụ Khánh Hoài dày công tìm tòi, hoàn toàn đầy đủ yếu tố khách quan của một công trình nghiên cứu khoa học đúng nghĩa. Còn số đông không thừa nhận, đấy là chuyện của họ. Số đông không quyết định tính chân lý. Mà nó chỉ quyết định sự phố biến của một trí thức nền tảng trong xã hội. Có một nhà khoa học đã hỏi tôi: "Ý kiến của anh về hệ thống chữ Việt cổ của ông Khánh Hoài như thế nào?". Tôi trả lời: "Hoàn toàn là một công trình khoa học thực sự!". Hôm nay tôi trình bày sự biện minh của cá nhân tôi ở đây về tính khoa học thật sự của hệ thống chữ Việt cổ của nhà nghiên cứu Khánh Hoài Đỗ Văn Xuyền. Tôi có niềm tin chắc chắn rằng: Không ai có thể phản biện được những luận cứ của cụ Khánh Hoài. Điều này cũng giống như tôi thách tất cả "cộng đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" có quan điểm phủ nhận nền văn hóa sử truyền thống Việt, chứng minh được rằng: "Thành Cổ Loa chính là Loa thành của An Dương Vương Thục Phán". Còn tiếp ====================== VÀI TƯ LIỆU LIÊN QUAN NHỮNG DẤU ẤN CỦA CHỮ KHOA ĐẨU. Trong một lần đi mua xôi sáng từ "thời xa vắng", Thiên Sứ tôi thấy bà bán xôi có một xấp giấy in roneo dùng để gói xôi. Thoáng nhìn thấy mấy chữ "Thời Hồng Bàng" và chữ "Khoa Đẩu", tôi vội đề nghị đổi ngay một tập vở giấy trắng mới tinh, vừa mới mua dùng để viết giải Tử Vi cho khách hàng kiếm tiền lay lứt qua ngày. Và quả là những tư liệu quý với tôi liên quan đến chữ Khoa Đẩu. Tất nhiên, thứ "tư liêu tham khảo" nhặt được từ con mẹ bán xôi dạo, chẳng bao giờ là "cơ sở khoa học" để được "khoa học công nhận" cả. Nhưng cái vấn đề chính là ở chỗ nó cho tôi và chúng ta biết người ta đã nói gì về thời Hùng Vương và chữ Khoa Đẩu. Tôi cứ tưởng đã mất tư liệu này sau ngót cả chục lần dọn nhà. Nhưng may quá, nhân một yêu cầu của nhóm cải cách tôi đi tìm lại một bộ hồ sơ thì thấy được tài liệu này. Tôi xin chụp ảnh vài đoạn và đưa lên để anh chị em và quí vị quan tâm tham khảo. Phần này của tài liệu xác định sách Kim Cổ kỳ quan đã nói đến "chữ khoa đẩu" của man sứ khiến vua Đường Minh Hoàng không đọc được. Sự tích Lý Bạch không đọc được quốc thứ từ man sứ là một sự tích nổi tiếng. Trong đó quan Trung Thư phải cởi giầy, quan Thái Úy phải mài mực. Sự tưởng thưởng của vị vua đào hoa nhất đời Đường này với Lý Bạch là cho phép ông được uống rượu thả giàn trên khắp đế chế nhà Đường và ngân khố của huyện phải trả cho ông ta. Tài năng của Lý Bạch đã giúp cho đế chế đời Đường giữ thể diện của nhà cầm quyền trước sứ giả lân bang, chỉ vì ông đọc được loại chữ này. Phần này của tài liệu cũng xác định các dòng chúa Trịng đã dùng chữ Khoa Đẩu làm chữ riêng- lúc ấy không còn phổ biến như một loại chữ chính thống - nhưng vẫn có người dùng và đọc được, để ghi gia phả cho dòng dõi nhà Trịnh. Đây là tư liệu đáng chú ý. Nó xác thực cho việc chữ khoa đẩu vẫn còn có người dùng đến thế kỷ XVIII và là cơ sở để các giáo sĩ Tây phương vốn thâm nhập để giảng đạo cho tầng lớp bình dân và đã thu lượm được loại chữ này làm tiền đề cho loại chữ Latin dùng cho người Việt sau này. Đây chính là một trong những luận cứ quan trọng của nhà nghiên cứu Đỗ văn Xuyền. Tôi sẽ giới thiệu với quý vị quan tâm và anh chị em toàn bộ tư liệu này vào buổi sáng. =========================== Đây có là một phần tài liệu tìm được ở Trung Tâm, phần tài liệu này được Sư Phụ Thiên Sứ tìm được trong một dịp tình cờ, nay đánh máy lại phổ biến lên cho các bậc học giả, nghiên cứu và cho ý kiến, nếu có bậc học giả nào có được bản hoàn chỉnh và muốn công bố cho mọi người biết xin liên hệ với TT NC Lý Học Đông Phương. Mục Đồng THUYẾT MINH 1.CHỮ KHOA-ĐẨU TỪ THỜI HỒNG-BÀNG: Kể từ đời Hồng-Bàng (-2879 trước Công-nguyên), đã có chữ khoa-đẩu. Sách Kim Cổ Kì Quan có kể chuyện rằng vào thời vua Đường Minh-Hoàng (713-756) có man-sứ dâng sớ bằng chữ khoa-đẩu, thứ chữ này có hình dạng như con nòng-nọc ( khoa đẩu=con nòng-nọc). Bấy giờ, trăm quan đại-thần không ai đọc được, chỉ có Lí Bạch là đọc được tờ sớ của man-sứ, bởi vì mẹ Lí Bạch là người Tây-vực (bấy giờ thường được gọi là man-bà). Từ năm 1599 ( Lê Thế-Tông),Quang-Hưng (năm 22), Trịnh Tùng thế-tập tước vương, lấy tước là An-Bình Vương.Tùng bí mật dùng riêng chữ khoa-đẩu để chép gia-phả và các tài-liệu giữ kín trong nội-phủ. Từ khi Trịnh Sâm và Trịnh Cán mất năm 1782, Trịnh Khải tự sát 1786, Trịnh Bồng bỏ chạy trốn mất biệt, không còn tung-tích gì nữa, thì coi như nhà Trịnh mất hẳn. Hiện nay, có người họ Trịnh còn giữ lại được gia-phả của Trịnh-phủ, mà lại nói rằng gốc từ bà Chúa Chè. Như vậy có thể là hậu-duệ của Trịnh Bồng còn giữ được gia-phả họ Trịnh, bởi vì Trịnh Sâm ắt phải dặn Tuyên-Phi (Đặng Thị Huệ) nhận Bồng làm con nuôi, đề phòng trường-hợp Cán không sống lâu. Do đó hậu-duệ của Trịnh-Bồng ắt phải thờ bà Chúa Chè coi như tổ-mẫu. Chữ khoa-đẩu phát-xuất từ thời Hồng-Bàng,trước cả đời Nghiêu Thuấn và chữ khoa-đẩu Trịnh-gia đều thuộc loại chữ phiên-âm và đều có đuôi nòng-nọc như nhau, mà chúng tôi sẽ mặc-ước gọi là: CHỮ KHOA-ĐẨU HỒNG-BÀNG (kí-hiệuKD-HB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ KD-HBlà: 2.CHỮ NÔM TỪ THỜI LÝ-TRẦN: Chữ nôm là một thứ chữ quốc-ngữ, gồm có một số hán-tự đọc theo quốc- âm và một số chữ biến-chế từ chữ Hán để đọc các thổ-âm. Thí-dụ: Câu “Phong-Trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì”. Viếttheo chữ nôm như sau đây: ___ ___ mài ___ lưỡi gươm Những ___ ___ áo túi cơm sá gì Trong câu đó, các chữ không phiên-âm là chữ Hán, các chữ có phiên-âm là chữ nôm. Muốn sử-dụng được chữ nôm thì cũng phải tinh-thông chữ Hán. Từ thế kỉ 12, chúng ta đã biết dùng chữ nôm, sau đây là những niên-kỉ sớm nhứt: Năm 1209, niên-hiệu thứ 5 đời vua Lý Cao-Tông dựng bia Báo-ân khắc bằng chữ nôm (Yên Lãng, Vĩnh Phú). Năm 1282, niên-hiệu Thiệu-bảo thứ 4,đời vua Trần Nhân-Tông, Hàn Thuyên làm văn-tế đuổi cá sấu. Sử chép: Hàn Thuyên có tài làm thơ phú quốc-ngữ, trong Phi-sa tập có nhiều thơ quốc-âm vân vân . .. Chữ nôm cùng với chữ Hán suy-tàn dần dần từ khi bãi-bỏ khoa-cử bằng chữ Hán, tức là sau khóa thi hội cuối cùng ( Kỉ Mùi 1919). 3.CHỮ ĐẮC LỘ VÀ VẦN ĐẮC LỘ: Khi giáo-sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đến Hội-An vào tháng 12 năm 1624 thì kể từ 1625 một thứ chữ quốc-ngữ mới xuất hiện, dần dần hình-thành do việc truyền-giáo. Chữ quốc-ngữ này được xây-dựng từ những phần-tử của bốn thứ chữ Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào. Chúng ta sẽ mặc-ước gọi thứ chữ ấy là: CHỮ ĐẮC LỘ (ký hiệu DR) Đồng thời, giáo-sĩ Đắc Lộ cũng dùng một cách ráp vần riêng mà chúng ta sẽ là: CÁCH RÁP VẦN ĐẮC LỘ (kí-hiệu RV-DR) Chữ Đắc Lộ tuy được khai-sáng từ năm1625, nhưng thực ra chỉ được thịnh-hành từ năm 1921 (Tân Dậu) bởi vì năm Khải-Định thứ 6, mới bắt đầu qui-định chương-trình mới cho Quốc-tử-giám bỏ chữ Hán, chỉ dùng chữ quốc-ngữ và chữ Pháp. 4.BẰNG-CÔNG DỰ-TRÙ ĐẶT RA CHỮ MỚI: Năm Bính-Ngọ (1786), vua Lê Hiển-Tông (niên hiệu Cảnh-Hưng 47) mời Hữu Chỉnh ra Thăng-Long để giúp vua Lê. Bấy giờ chúa Trịnh đã dùng chữ khoa-đẩu trong vương-phủ từ hai thế-kỷ trước (-187 năm từ năm Trịnh Tùng đượcban tước An-Bình Vương). Bằng-công bèn luận về chữ khoa-đẩu:Chữ khoa-đẩu vốn là chữ của nước ta từ thời Hồng-Bàng. Vần khoa-đẩu vốn rất hợp-lí và thích-hợp với truyền thống ngàn xưa. Tuy-nhiên biểu tượng chữ khoa-đẩu không được toàn- thiện, hình khoa-đẩu là hình con nòng-nọc cụp đuôi xuống là biểu-tượng hèn-hạ cam phận cố-thủ trong một nước nhược-tiểu. Bởi thế chữ khoa-đẩu không thể dùng làm thư-pháp cho một bậc bá-vương. Vậy ta truyền cho các bồi-thần và con cháu đời sau chớ nên dùng chữ khoa-đẩu để tránh vết xe cũ đưa tới nô-lệ và diệt-vong. Vào thời đó (cuối đời Cảnh-Hưng) thì chữ Đắc Lộ đã được biết trên 160 năm từ đời Lê Thần-Tông (niên-hiệu Vĩnh-Tộ thứ7). Bằng-công bèn luận về chữ Đắc-Lộ:Chữ Đắc Lộ là những chữ cũ sẵn có, lấy từ các nước văn-hóa suy tàn (Hi-La-Tây Ban-Bồ Đào . . . ). Giáo-sĩ Đắc Lộ chưa từng thiết-trí các chữ ấy bao giờ. Thêm nữa, chữ Đắc Lộ có những khiếm khuyết quá nhiều và vần mà giáo-sĩ đà dùng nhiều khi không được hợp-lí, và không phù-hợp với vần truyền-thống tự ngàn xưa. Bởi thế, chữ Đắc-Lộ cũng không thể dùng cho một sự-nghiệp lâu dài. Vậy ta truyền cho các bồi-thân và con cháu đời sau không nên dùng chữ Đắc Lộ, để tránh vết xe củ đưa tới suy-vong. Bằng-công bèn luận giềng mối cho thứ chữ ngày sau: Muốn thiết-trí một thứ chữ mới dùng để làm cơ sở cho một quốc-gia giàu mạnh thì trước hết bộ chữ phải có biểu-tượng cát-tường, âm dương ngũ-hành phải đầy đủ, không được khuyết-phạp, hình-thế thăng-bằng và hòa-hợp,đường nét cương-kiện và súc-tích. Hành kim, càng mạnh và càng nhiều thì nước càng giàu, nhưng đừng để cho các đường nét cắt phá nhau. Hành mộc càng sung-túc phồn-vinh thì nhân-lực càng mạnh ,việckiến-thiết càng dễ-dàng. Hành thủy đừng cho phân-tán, mà cần qui-tụ và được chế-ngự thì việc kinh-doanh càng phát-triển. Hành hỏa càng mạnh thì học-thuật càng rộng, văn-minh càng cao. Hành thổ càng vượng thì lòng người càng trung-hậu và tín-thực, biết giữ-gìn căn-bản. Nếu nhà Lê còn cơ-hội hưng-phấn thì ta nhất định đặt ra chữ mới để tương-lai nước nhà được vinh-quang sán-lạn,không còn lệ-thuộc các nước lớn, ắt gần đây bước lên hang bá-chủ. 5.CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG: Bởi vì chữ khoa-đẩu Hồng-Bàng, còn được gọi là hoành-đẩu, xem không được đẹp lắm nên Bằng-công đặt ra thứ chữ phi-đẩu, viết từ dưới lên trên, đơn-giản hơn và đẹp hơn, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là CHỮ PHI-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệu PD-CB) Thí-du, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết bằng chữ PD-CB tức là cột đứng ở bên mặt trên đây. 6.VẦN CÔN-BẰNG: Trong chữ phi-đẩu Côn-Bằng, Bằng-công đã dùng một phép ráp vần khác hẳn cách ráp vần của Đắc Lộ, mà chúng ta sẽ mặc-ước gọi là: CÁCH RÁP VẦN CÔN-BẰNG (Kí hiệu RV-CB) Thí dụ, danh-từ sau đây: ráp vần theo Đắc-Lộ là: LƯỠI GƯƠM ráp vần theo Côn-Bằng là: LƯAI GƯAM 7.HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG: Tiên-sinh Nguyễn Hữu Lâm vốn là hậu-duệ xa của tiên-tổ Bằng-công nên hiểu rành chữ phi-đẩu Côn-Bằng và quen dùng cách ráp vần Côn-Bằng. Đến năm Kỉ Mùi (1919), tiên-sinh vào được tam trường, nhưng lại không ra làm quan, bèn bỏ Hán-học, đổi qua học chữ quốc-ngữ Đắc Lộ và chữ Pháp. Bởi vì từng chịu ảnh-hưởng Hán-học và lí-học á-đông nên tiên-sinh chú-ý chữ nghiên-cứu lại vấn-đề hình-thành của chữ Đắc Lộ. Về mặt lí-thuyết thì tiên-sinh không thừa-nhận cách ráp vần của Đắc Lộ là hoàn toàn hợp-lí, mà cũng không thừa-nhận phần lớn các chữ Đắc Lộ đã mang quá nhiều khiếm- khuyết. Do đó tiên-sinh đã dùng lí-học, và nói rõ hơn đã dùng Chu-dịch, Thái-huyền và chỉ-số Lưu-Cơ để thiết-trí một chữ quốc-ngữ mới mà tiên-sinh gọi là CHỮ HOÀNH-ĐẨU CÔN-BẰNG (kí hiệuHD-CB) Thí-dụ, tước-hiệu Bằng-Lĩnh viết chữ Hoành-đẩu Côn-Bằng như sau: 8.HỌC-THUYẾT BIỂU-TƯỢNG (PHENOMENOLOGY) CỦA HUSSERL: Từ khi tiếp-thu những khái-niệm sơ-đẳng về hoc-thuyết biểu-tượng (phenomenology) của triết-gia Đức Edmond Husserl (1859-1938), chúng tôi càng tin-tưởng vào chủ-trương của tiên-sinh Hữu Lâm cho rằng biểu-tượng, hơn là bản-chất, đã chi-phối mọi thành-bại trên đời. Nói rõ hơn, ngũ-quan và trực-giác có thể giúp chúng ta tiên-liệu được tương-lai. Nhiều khi sự-viêc thực là mỉa-mai và chua-chát khi phải thừa-nhận rằngchỉ cần ngửi một chương-trình hay kế-hoạch, cũng đủ biết kết-cuộc sẽ ra sao! Bây giờ nếu chúng ta hạn-chế vấn-đề mà chỉ xét riêng chữ quốc-ngữ thì những chữ cái đang sử-dụng cho tên họ một cá-nhân, bảng hiệu một cửa hàng, thương-hiệu một công-ty, quốc-danh của một nước, v.v… có thể giúp chúng ta dự-kiến về tương-lai của cá-nhân hay tập-thể liên-hệ. Có gì đau-đớn cho bằng khi chúng ta thấy tên họ hay bảng hiệu của một người thân mà lại phạm vào một chữ cái có khuyết-điểm lớn lao, cho nên hậu-vận của người ấy không thể thăng-tấn thêm mãi. 9.LÍ-DO TẠI VÌ SAO NGƯỜI VIẾT BÀI THUYẾT-MINH NÀY KHÔNG NÓI RÕ HẾT NGỌN-NGÀNH GỐC RỄ: Khi Bằng-công luận về chữ Đắc Lộ (đã được sử-dụng 160 năm về trước) ngài không nói rõ là những chữ nào có những khuyết-điểm nào, đó là vì ngài cảm thấy bất-tiện không nói ra được, sợ rằng xúc-phạm tới cá-nhân nào đó hay tập-thể nào đó. Đằng khác, khi luận về ngũ-hành, Bằng-công không nói rõ là chữ nào thuộc về hành nào, đó là vì ngài không dám bộc-lộ tất cả chân-lí, nếu bộc-lộ hết như thế tức là “vạch áo cho người xem lưng”. Ngài chỉ luận khái-quát về ngũ-hành để cho người dựng nước ngày sau biết cách thiết-trí chữ mới. Bây giờ khi xét những tiếng đồng-âm giữa chữ Côn-Bằng và chữ Đắc-Lộ, thì tiên-sinh N.H. Lâm có những khuynh hướng như sau: - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phân-tán bằng một chữ Côn-Bằng có tánh qui tụ; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh luân-lưu vô-định bằng một chữ Côn-Bằng có tánh trung-kiên, bền-vững; - Thay một chữ Đắc Lộ có ngũ hành vô-ích bằng một chữ Côn-Bằng có ngũ-hành hữu-dụng; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh nhu-nhược hơn bằng một chữ Côn-Bằng có tánh hùng-cường hơn; - Thay một chữ Đắc Lộ có tánh phá-hoại bằng một chữ Côn-Bằng có tánh xây-dựng - Thay một chữ Đắc Lộ bất lợi thành một chữ Côn-Bằng ích lợi, vân vân … 10.CHỮ O CÓ CHƯNG VUÔNG: Từ ngày Bằng-công thua trận tại Thanh-quyết, chịu khổ-hình bốn ngựa phanh thây tại Thăng-Long (Đinh Mùi 1787),Bái đình hầu Nguyễn Hữu Du chết trận, vì chánh-nghĩa nhà Lê; Từ ngày bà Hoàng-phi nhịn ăn để chết theo chồng khi quan-tài vua Lê Chiêu-Thống được đưa về nước; Từ ngày giáo-thụ Cao Bá Quát bị hành-quyết vì khởi-nghĩa theo Lê Duy Cự. Từ ngày các vong-thần nhà Lê đều tuẫn-tiết,thì các trung-thần, nghĩa-sĩ theo nhà Lê không còn được ai nhắc-nhở tới nữa. Từ khi văn-sĩ Yukio Mishima không nhận giải văn-học Nobel 1967, nhường vinh-dự đó cho văn-sĩ Yasunari Kawabata, rồi đến cuối năm 1970 tự mổ bụng tự sát theo nghi-lễ truyền-thống võ-sĩ-đạo, để phản đối tinh-thần hiếu-lợi cực-đoan của người Nhật-bổn ngày nay, bỏ quên mất tinh-thần trượng nghĩa khinh-tài thuở xưa, đến nỗi mọi việc trên đời biến thành thương-mãi tất cả … Chúng ta không biết hoc giả Nguyễn Hữu Lâm có giữ vững lập trường dùng chữ O có chưng vuông của bộ chữ Côn-Bằng, chống lại nối chữ O tròn vình, có tánh thương mãi cực đoan của bộ chữ Đắc Lộ ? NHÓM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA CỔ HỌC HỒNG-BÀNG -HỒNG THỊ PHƯƠNG DANH -LÊ XUÂN TÙNG -LÊ XUÂN MAI Sưu tầm và thuyết minh.
    3 likes
  3. Nhật, Philippines kêu gọi dùng luật pháp giải quyết tranh chấp 24/06/2014 15:59 (GMT + 7) TTO - Ngày 24-6, chính phủ Nhật và Philippines đã kêu gọi các nước tôn trọng sự thượng tôn pháp luật để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ tại châu Á. Tổng thống Philippines Benino Aquino (trái) bắt tay Thủ tướng Nhật Shinzo Abe trong cuộc họp báo ở Tokyo hôm nay Ảnh: Reuters Theo hãng tin AFP, hôm nay Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã đến Tokyo và hội đàm với Thủ tướng Nhật Shinzo Abe. “Do tình hình khu vực ngày càng nghiêm trọng, cả hai nước đang hợp tác chặt chẽ - ông Abe tuyên bố - Tôi và Tổng thống Aquino nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thượng tôn pháp luật”. Ông Aquino cho biết chuyến thăm Nhật của ông nhằm tìm hướng bảo vệ an ninh khu vực bằng cách thúc đẩy sự thượng tôn pháp luật. Trước đó, cả hai nhà lãnh đạo Nhật và Philippines từng nhiều lần đưa ra thông điệp tương tự trong thời điểm Trung Quốc gây hấn trên biển Đông và biển Hoa Đông. Ông Aquino cũng khẳng định Philippines ủng hộ việc chính phủ Nhật muốn “hiểu lại” hiến pháp hòa bình nước này để thực thi quyền phòng vệ tập thể, theo đó lực lượng vũ trang Nhật sẽ không chỉ bảo vệ nước này mà cả các nước đồng minh bị kẻ thù tấn công. Trong thời điểm Trung Quốc liên tục có những động thái khiêu khích để đòi chủ quyền vô lý trên biển Đông cũng như thách thức chủ quyền của Nhật ở quần đảo Senkaku, Tokyo và Philippines đã thắt chặt quan hệ hợp tác. Trước đó ông Abe từng cam kết hỗ trợ Philippines cải thiện năng lực phòng vệ trên biển. Tokyo sẽ cung cấp cho Manila 10 tàu tuần tra. NGUYỆT PHƯƠNG ==================== Thượng tôn pháp luật thì đúng rồi. Mọi chiện đều có thể giải quyết bằng con đường ngoại giao. Toàn là cứ từ đúng trở lên. Nhưng kiện thì Tung Cóoc hổng chịu ra tòa. Nước nhớn mừ. Ngoại giao thì Tung Cóoc chỉ chấp nhận song phương và bảo vệ chủ quyền đến cùng, kiểu "kéo cưa lừa xẻ, ông thợ nào fẻ thì ăn cơm zdua...". Không phải Thủ tướng Nhật và Tổng thống Phi Luật Tân với cả thế giới không biết điều này. Nhưng cứ gõ phèng phèng lên đã.
    2 likes
  4. Biển Nghĩa đen của Bể = Biển là cái đựng nước, cũng như cái Hố = Hồ 湖 hay cái Ao 凹 = Âu 甌 = Chậu đều là đồ đựng nước. Nhưng nước đựng trong Bể đựng nước mưa, trong Hố, Ao, Hồ đều có thể bị cạn, chỉ có nước đựng trong Biển thì không bao giờ cạn, vì nó là thông vùng nước toàn bề mặt trái đất, như cái “Bể không có Viền” = Biển, nên nó cũng là cái “Bể đầy nước vĩnh Viễn” = Biển. Gọi là cái Bể xây để đựng nước vì đáy và vách của nó được Be kín bằng vữa để nước không thể rò rỉ. Be là từ tối cổ của động tác Be bờ của dân lúa nước, tức dùng đất nhão khảm kín vách bờ ruộng để nước khỏi rò rỉ đi, gọi là Be bờ (thành ngữ “đắp đất be bờ”, phải đắp cao bờ trước rồi mới be cho kín sau). Be chuyển nghĩa chỉ cái lọ đựng nước (đương nhiên vách nó kín) cũng gọi là cái Be. “Be cho kín Mít”= = Bịt = “Be Hề 兮!” = Bế 閉, 0+1=1, từ Bịt nho viết bằng chữ Bế 閉. Nhấn mạnh “Be Hề!” = Bể, 0+1=1, chuyển nghĩa chỉ cái Bể xây để đựng nước. “Be Hề 兮!” = Bề, 0+1=1, chuyển nghĩa chỉ mặt tấm kín, tầng, lớp, như “Bề Chi 之!” = Bì 皮 chỉ da, “Bì 皮 Ạ !” = Bìa chỉ tấm bìa. Nhấn mạnh “Be Chi 之!” = Bí chỉ sự tắc nghẽn do bị bịt kín. Trước khi làm lúa phải Be bờ cho kín rồi dẫn nước vào, bờ có được Be kín thì mới không rò rỉ, thì mới có “Bờ giữ được nước Mãi” = Bái 沛, chuyển nghĩa là đầy nước gọi là Bái 沛. Chữ nho Bái 沛 này không bị liệt là “từ Hán Việt” vì không thấy có là cái “tố gốc Hán” trong Từ điển yếu tố Hán-Việt, Viện ngôn ngữ NXB KHXH HN 1991. Cái Hồ 湖 mà không bao giờ cạn gọi là cái hồ luôn luôn đầy nước tức “Hồ 湖 Bái 沛” = Hải 海. TVGT: Hải 海, đọc thiết “Hô 呼 Cải 改” = Hải. Đây chỉ là thiết cách đọc cho ra đúng âm là “Hải”. Logic của nó phải là trong tiếng Việt: “Hồ 湖 Bái 沛” = “Hồ Thoải” = Hải 海, là cái hồ đầy nước (Bái 沛), là cái hồ nước và đầy nước (“Thủy 水 Bái 沛” = Thoải) tức hồ mênh mông nước không bao giờ cạn, đúng như giải thích của TVGT: 海 Hải, 天 thiên 池 trì 也 dã (hải là cái “Trũng Chi 之!” = Trì 池, mênh mông, đại diện bằng chữ Thiên 天). Kiến 見 Trang 莊 Tử 子 tiêu 消 dao 搖 du 游 (thấy Trang Tử du ngoạn). 納 nạp 百 bách 川 xuyên 者 giả (dung nạp muôn sông về đó). 爾 di 雅 nhã (đầy khắp). 九 夷 Cửu Di, 八 狄 Bát Địch, 七 戎 Thất Nhung, 六 蠻 Lục Man 謂 vị 之 chi 四 tứ 海 hải (khắp nhân loại mọi dân tộc gọi chung là “tứ hải”). 此 Thử 引 dẫn 伸 thân 之 chi 義 nghĩa 也 dã (đây là cái nghĩa mở rộng của từ Hải). Một loại đồ đựng khác cũng có “Vỏ kín để Che” = Ve, gọi là cái Ve, mới có nghề ve chai. Nhấn mạnh “Ve Ve” = Vè, 0+0=1, chuyển nghĩa chỉ cái che chắn bùn gọi là cái Vè xe. Nhấn mạnh “Vè Hề 兮!” = =Vệ 衛, chuyển nghĩa chỉ sự che chắn, bảo vệ. Vệ Quốc 衛 國 là nói công việc của lính biên phòng che chắn ở phên dậu cho đất nước. Còn Giữ Nước là chẳng phải che chắn gì (hội nhập biển lớn) mà không kẻ nào dám lấn một tấc đất một tấc biển của Đất Nước. Cái Ve chỉ là cái đồ đựng mà cái Vỏ kín bên ngoài của nó có tác dụng che kín cho bên trong. Vỏ=O (chữ cái O này cũng rất kín, không hở như V thì vỡ hay U thì ướt) = 0 = Ổ (“kín như ổ mối”) = Ổ = = Tổ = ”Tổ Âm” = Tâm (kín đến mức không thể thấy được vì nó ở bên trong) = Tấm = Lầm (màu đen chuyển nghĩa thành sâu) = ”Lầm Trong” = Lòng (“sông sâu còn có kẻ dò, lòng người sâu thẳm ai đo cho tường”). O = Ổ = “Ổ Ạ!” = Oa 窩, nho viết từ Ổ bằng chữ Oa 窩, cũng chỉ đồ đựng (Oa 窩 Trữ 貯) Nhấn mạnh “Vỏ Ạ!” = Vá (nghĩa là Khảm = Trám cho kín); nhấn mạnh “Be Ổ” = Bổ 補 (nghĩa là Khảm = = Trám cho kín), nho viết từ Vá bằng chữ Bổ 補, nhấn mạnh “Bổ Chứ” = Bù. Phù sa “Bù chỗ Lội” = =Bồi. Từ điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng Viện Ngôn ngữ 1991 giải thích (trang 43) rằng Bổ 補 là cái “tố gốc Hán” dịch sang tiếng Việt là Vá (!?) thì đúng là mất gốc (như Dương Trung Quốc nói “chúng ta là đám mất gốc”). Từ đôi O Bế là nói tấm lòng muốn che chở đùm bọc kẻ khác nhưng thái quá (dùng từ đôi để nhấn mạnh ý , thành ra hàm nội dung là thái quá) thành ra chuyển nghĩa là sự che chở giấu giếm mà có vẻ cưỡng bức người được đùm bọc (VD: O Bế bồ nhí). Vỏ che chuyển nghĩa mở rộng thành những từ chỉ xã hội khép kín: Vỏ = Co = Cụm = Tụm = Phum = =Chùm = Chòm = Nhóm = Xóm = Thỏm = Thôn 村. Cổ đại dân cư rải rác thưa thớt, nơi cụm Co lại với nhau là Co = Xó = Xóc = Sóc. Nhấn mạnh “Xó Chứ!” = Xứ, “Sóc Chớ!” = Sở 處, mà có từ đôi Xứ Sở. Sóc = Xóc là cụm dân cư của ngôn ngữ Nam Á. Sóc = Xóc chuyển nghĩa thành chỉ xứ nóng, cái nóng, nhấn mạnh “Sóc Nào!” = Sao 燒, “Sóc Đấy!” = Sấy, “Sóc cho thuốc ra thật Đặc” = Sắc, “Xóc Đích” = =Xích 赤, Xích 赤 chuyển nghĩa thành chỉ màu đỏ của quẻ “Lửa Chi!” = Li 離, chỉ sự nóng chảy của kim loại, chỉ cái “Xứ nóng Đích 的!” = Xích 赤 là vùng xích đạo. Tên nước Xích Qủi 赤 鬼 có nghĩa đen là ”Xứ nóng Đích” = Xích 赤 của phương “Quẻ 卦 Li 離 ” = Qủi 鬼. Sóc còn chuyển nghĩa thành chỉ phương Sóc mà Tây phiên âm thành South, phương ngược lại là phương Nom của kim chỉ nom, Tây phiên âm Nom là North (Sau đổi gọi phương Sóc là phương Nam, phương Nom là phương Bắc – theo Nhật Nguyên). Dân cư rải rác thành Sóc Xóm = Lọt Thỏm (từ chuyển nghĩa) = Lạc Thôn, nho viết từ Lọt bằng chữ “Lọt rải Rác” = Lạc 落, viết từ Thỏm bằng chữ “Thỏm lổn Nhổn” = Thôn 村, nên từ đôi Sóc Xóm viết bằng chữ Lạc Thôn 落 村 (Hán ngữ dùng ngược là Thôn Lạc 村 落). Xã hội khép kín cũng chỉ như cái Be kín để cho mọi vật được Đựng = "Đứng Lâu" = Đậu ở trong nó, gọi là cái “Be Đậu” = Bầu.Như quả bầu khô là một cái Be kín Đậu toàn hột ở bên trong. Quả Bầu có cái vỏ phơi khô làm cái Be Nước = Be Nậm, sau lại gọi nó là cái Nậm rượu khi dùng đựng rượu. Xã hội của một gia đình nhỏ trên sông nước là Be Đậu = Ghe Bầu. Gọi là Ghe vì lấy "Gỗ làm Be" = Ghe. Vũ trụ cũng là một cái Bầu của “xã hội các thiên thể”, đối với Trái Đất thì nó bọc trái đất như là cái Vỏ, mà cụ thể là cái “Vỏ 宀 Ủ 于” = Vũ 宇 (nghĩa là bầu trời), nho viết biểu ý bằng bộ thủ ‘Mái Hiên” = Miên 宀 là cái Vỏ che và chữ Ở = Ư 于 = Ủ là những cái ở trong vỏ che. Có từ dân gian Vỏ rồi mới cói từ hàn lâm Vũ 宇, bởi logic rất đơn giản là Nho luôn viết từ bằng nhấn mạnh để đặt chữ: “Vỏ Chứ!” = Vũ 宇 (cũng vậy “Vỏ Chớ!” = Vở, là cái tập đựng chữ, chuyển nghĩa Vở diễn là chương trình chứa đựng các tiết mục diễn). Hai từ hàn lâm có viết bằng chữ nho, chỉ cái xã hội nhỏ là Thôn 村 và cái xã hội lớn là Vũ 宇 đều có gốc từ cái Vỏ chuối của nông dân Việt. Chứ chẳng lẽ nông dân Việt phải học chữ “Hán tự” Vũ 宇 do người Hán đến chiếm đất Việt, khai hóa cho người Việt, rồi chữ Vũ 宇 mới được hai lúa Việt đem “Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của từ tiếng Việt” (Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng, Viện ngôn ngữ 1991, lời nói đầu, trang 5) để rồi hai lúa Việt mới do từ Vũ 宇 trụ đó mà chế thành từ Vỏ chỉ cái Vỏ chuối (?!). Ví dụ khác để thấy rằng từ dân gian sinh ra từ hàn lâm mà không phải là ngược lại như Từ điển của Viện ngôn ngữ giải thích. Người nguyên thủy đã nhận thức tự nhiên để đặt ra từ. Cái Gai của các loại cây có gai đều mọc Ngang nhưng khi gai đâm là nó “Châm Dọc” = Chọc (như bổn thể là Dương mà mang tính Âm), còn cái cây mọc dọc nhưng lại xòe cành ngang (như bổn thể là Âm mà mang tính Dương). Nôi khái niệm của cái Gai là: Gai = Gay = Gây = Gềnh = Gành = Ganh = Giành = Tranh = =Ngạnh 硬 = Ngáng = Ngang = Càng = Cẳng = Kềnh = Cành = Kìm = Kim = Kiên 尖 = Cấn 艮 = Cứng = =Cương 剛 = Ương = Bướng = Chướng = Xương = Chường = Châm 針. Nhiều từ chuyển nghĩa: Càng dùng chỉ cái Càng cua (“Con cua tám cẳng hai Càng, một mai hai mắt bò Ngang suốt đời”); Cẳng chỉ cái chân thò ngang ra; Kìm chỉ cái kìm tác dụng như cái càng cua; Kim chỉ cái Kim hình thức như cái gai; Chường chỉ động tác của cái mặt Ngang phè phè gọi là “chường mặt ra”; Cấn 艮 dùng chỉ quẻ Cấn 艮 tượng trưng cái Cồn = Hòn là quả núi. Xương chỉ cái xương nhọn làm cho “Họng bị Xóc” = Hóc, nếu gỡ không khéo cho nó ra thì còn “Bị hóc sâu Nữa” = Búa, nên có từ đôi Hóc Búa đồng nghĩa từ đôi Gay Cấn; không chỉ xương nhọn mà cái “Gai cũng gây cho Hóc” = =Góc, nên từ đôi Gai Góc đồng nghĩa Hóc Búa và đồng nghĩa Ngang Xương. Người Bắc Bộ nói “Hắn ta gặp câu hỏi Hóc Búa nên bị Cứng Họng không trả lời được”. Người Nam Bộ nói “Hắn ta gặp câu hỏi Ngang Xương nên bị Ngọng không trả lời đươc” (Cứng họng = “Ngạnh 硬 họng” = Ngọng). Trong nôi khái niệm này rất nhiều từ dân gian Việt nhưng chỉ có vài từ hàn lâm Việt (có viết bằng chữ nho) như: Giành = Tranh 爭 (từ đôi Tranh 爭 Giành), Cứng = Cương 剛 (từ đôi Cương 剛 Cứng), Cương = Ương = Bướng (từ đôi Ương Bướng, Ương Ngạnh 硬), Cứng = Ngạnh 硬, Gai = Kiên 尖, Xương = Kiên 尖, Kim = Châm 針. Áp đặt cho con nít Việt tuổi mẫu giáo rằng những từ có viết bằng chữ nho đó là những “từ Hán Việt” thì đúng là đánh lừa cách dã man chẳng khác gì “củ chuối”!
    2 likes
  5. Cái tên gọi quẻ Đoài 兑 Đoài 兑 ,Hán ngữ phát âm là “Tuây” [兑 pinyin: dui] với nghĩa “là tên một quẻ trong bát quái” và nghĩa nữa là phía tây. Nghĩa sau này chỉ là do lấy tích của dịch lý mà thành nghĩa là phía tây. Còn Hán ngữ chỉ phía tây bằng từ “Xi” [ 西 Xi]. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là : Đổi cũng gọi là “Tuây”, đối cũng gọi là “Tuây”, đội cũng gọi là “Tuây”, cối đạp cũng gọi là “Tuây”. Đây là do Hán ngữ đã mượn chữ Đoái 兑 là một chữ nho mang nghĩa “Đổi Lại” = Đoái 兑 (diễn tả hành vi thanh toán bằng tiền, nôm na là trao đổi tiền) để phiên âm từ Đoài của tiếng Việt vốn đã viết ký âm bằng chữ khoa đẩu. Từ Đoài trong tiếng Việt mới có nghĩa là phía tây, chứ chữ Đoái chẳng có nghĩa gì là phía Tây cả. Nôi khái niệm phía mặt trời lặn xuống: Thá = Tà = ”Tà Đấy!” = Tây 西 = ”Tây Thụt” = =Tụt = ”Tụt Hoài” = Toài = ”Được Toài” = Đoài 西 = ”Đoài Ạ!” = Đọa = Sà = Sa = “Sa Mãi” = Sài 西 (tiếng Việt Đông) = Lài = Lao = Lào = Lặn, diễn tả quá trình mặt trời lặn, về cái phía ấy gọi là phía Tây (vì nhấn mạnh thì “Tà Đấy!” = Tây, “Sa Mãi” = Sài). Nhìn nôi khái niệm này cũng thấy ra từ Già mang nghĩa là tuổi xế chiều, vì “Trời Tà” = Tra (tiếng Nghệ tuổi cao gọi là Tra, hột bắp già gọi là Tra, nhưng người già vẫn gọi là cụ Già chứ không thể gọi là cụ Tra, vì Già là do lướt “Dân Tra” = Già, cũng là lướt lủn “Gia về Chiều” = Già, con lớn tuổi nhất trong nhà không gọi là Con Tra mà phải gọi theo kết quả lướt là “Con Tra” = Cả, là đứa Cả xuống đến đứa hai, đứa ba ); Trời Tà = “Thiên Tà” = Thá, từ Thá chỉ phía Tây, từ Thá này con trâu nó cũng hiểu hiệu lệnh Thá! (Tắc!), Dí! (Rì!) để quẹo tây, quẹo đông và “Hãm Đó!” = Họ! là để đứng lại. Quẻ mang tên là quẻ Đoài vì nó tượng trưng cái đầm nước. Nôi khái niệm từ chất nước đến màu ngũ hành của nước là: Nước = Nậm = Lầm (màu đen, chuyển nghĩa Lầm lỡ, sai Lầm) = ”Đen Lầm”(từ đôi) = Đậm (màu đen) = ”Thành Đậm” = Thâm 深 (màu đen chuyển nghĩa sâu) = “Thâm 深 Chi 之!” = Thủy 水 (rất sâu Thúy 遂 = Thủy 水 chuyển nghĩa chất nước) = “Thủy 水 Bái 沛” = Thoải (nước tràn trề, Thoải Mái, “Mãn 滿 Bái 沛” = Mái, Bái 沛 nghĩa là đầy nước: “Hồ 湖 Bái 沛” = Hải 海). Đạo mẫu khi gọi Mẹ Nước thì không gọi đơn giản là Mẫu Thủy mà phải gọi là Mẫu Thoải (mẹ nước tràn trề, tượng trưng cho tấm lòng mênh mang). Từ Thoải Mái dùng với tần xuất lớn trong tiếng Việt, ai cũng hiểu đó là sự dễ chịu (chuyển nghĩa) nhờ đầy đủ, nên cứ việc “dùng thoải mái đi!”, mà cái làm cho vạn vật thoải mái nhất đó là nước, cả hai từ Thoải và Mái đều có gốc do nước, “Thủy 水 Bái 沛” = Thoải, “Mãn 满 Bái 沛” = Mái, nên Thoải Mái là từ đôi, không phải là từ láy như Ngôn ngữ học giải thích. Do vậy cái đầm nước mà rất đầy nước, tức là cái “Đầm Thoải” = Đoài, thành tên của quẻ Đoài. Nho dùng chữ “Đổi Lại “ = Đoái 兑 (vốn nói sự trao đổi tiền) để ghi âm từ Đoài 兑 làm tên của quẻ Đoài. Nói, tiếng Huế phát âm là “Noái”, gần âm với “Loái” = Lưỡi. Đang Nói = “Đương Noái” = Đoái 兑, cùng một chữ nho ấy, nhưng ở đáp số này Đoái 兑 mang nghĩa là trao đổi bằng lời, vì nó là “Đối Lại” = =Đoái 兑 (hai bên đang đối đáp nhau), gọi pha học là đang giao tiếp. (Khác với đáp số trước là “Đổi Lại” = Đoái 兑 là hai bên trao đổi bằng tiền). Nho chỉ cần thêm chữ Ngôn 言 đằng trước chữ Đoái 兑,nghĩa là thưa thốt cái trao đổi (“biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”) , nho viết thành nghĩa “Thốt 言 Đoái 兌” = Thoại 說. Lời là cái tiếng ngỏ ra nhưng phải có người khác nghe (không ai nghe thấy đương nhiên không có sự công nhận đó là lời), mà cụm từ “hai bên cùng nghe”, cổ thì viết bằng chữ Môn 門 (tượng hình biểu ý là hai hộ 户 hộ 户 đối diện nhau), nên “nói cho hai bên cùng nghe” là “Ngỏ cho Môn 門” = Ngôn 言. Chữ Ngôn 言 đại diện cho Lời nói, cũng đại diện cho động từ Nói và đại diện cho động từ dính Thưa-Thốt cũng như đại diện cho động từ Thưa và động từ Thốt. Lưỡi cho ra Lời, từ đó mà có các kiểu lời là Láy, Lái, Lối, Lướt, Luyến, Lóng, Lửng, Lấp-Lửng trong tiếng Việt. Từ Lưỡi nho viết bằng chữ Thiệt 舌, vì lưỡi và các động tác của lưỡi là ở nôi khái niệm: Lưỡi = Liếm = Lề (tiếng Lào) = Le = Lướt = Liếc (như liếc lưỡi dao khi mài) = Liết = Thiệt 舌. Thiệt 舌 nở ra cũng cả đống từ dính diễn đạt các kiểu lời nói như Thỏ-Thẻ, Thẽ-Thọt, Thì-Thào, Thao-Thao, Thưa-Thốt . Thưa-Thốt là từ dính, rồi tách hẳn ra thành Thưa = “Thưa Thiệt 舌” = Thuyết (nho viết từ Thưa bằng chữ Thuyết 話) và Thốt = “Thốt Noái” = Thoại (nho viết từ Thốt bằng chữ Thoại 說) . Thưa Thiệt 舌 = Nói Thiệt 舌 , có nghĩa là nói bằng lưỡi tức nói thành tiếng chứ không phải nói bằng ánh mắt hay bằng ngón tay. Cho nên có từ đôi Thoại Thuyết 說 話 hay Thuyết Thoại 話 說 đồng nghĩa từ đôi Ngôn Ngữ 言 語 hay Ngữ Ngôn 語 言 (“Ngỏ cho Môn” = =Ngôn, “Ngôn Chứ!” = Ngữ), mỗi từ độc lập của trong những từ đôi này đều đồng nghĩa với Nói khi sử dụng độc lập. Chữ Ngôn 言 làm đại diện chung cho mỗi từ đó, làm thành bộ thủ Ngôn 言(viết biểu ý từ trên xuống dưới là Đầu 亠 Mắt 一 Mũi 一 Mồm 口, là cái bộ mặt của con Người=Ngôn, cho nên lời nói không thể tàm bậy được) . Nho ghép bộ thủ Ngôn 言 trước chữ Thiệt 舌 thành nghĩa “Thưa 言 bằng cái Thiệt 舌” = Thuyết 話. Người Hán đã mượn chữ nho để dùng (từ bỏ ngôn ngữ Mông Cổ của họ khi họ trở thành tầng lớp quan thoại là thiểu số , nhưng có quyền lực của kẻ thống trị vì đã dùng vũ lực chiếm được đất và nước của người Việt, trong xã hội Trung Hoa xưa) nhưng họ phát âm lơ lớ và dùng lộn trong nhiều trường hợp, ví dụ trường hợp ở đây. Người Hán đã học từ Thưa nhưng phát âm là “Sứa” (cũng như học chữ Thừa 乘 lại phát âm là “Sấng”, học chữ Thành 成 lại phát âm là “Sấng” v.v.), Nhưng lại đem dùng lộn cái âm tiết “Sứa” ấy đặt vào cho chữ Thiệt 舌 (dịch Hán sang Việt thì “Sứa” là Thiệt 舌, là cái lưỡi), do vậy thì họ phải đọc chữ “Thưa 言 Thiệt 舌” = Thuyết 話 là “Sua” thì mới đúng logic ( “Sua” của Hán ngữ nghĩa là Nói, Thiệt 舌 = ”Sứa” thì Thuyết 話 = “Sua” là đúng logic, như vậy thì “Sua” phải là chữ Thuyết 話 đúng, có bộ thủ Thiệt 舌). Nhưng họ lại không đặt cái âm tiết “Sua” vào chữ Thuyết 話 vốn logic với âm “Thiệt 舌” mà lại đặt âm tiết “Sua” vào chữ Thoại 說 vốn logic với âm “Đoái 兌”. Thế là chữ Thoại 說 thì Hán ngữ đọc là “Sua” và cứ khăng khăng bảo đó là Thuyết (viết chữ Tiểu 小 Thoại 說 nhưng lại đọc “Xẻo Sua” và bảo đó là Tiểu Thuyết), chữ Thuyết 話 thì Hán ngữ lại bảo đó là Thoại, hàng trăm năm sau các từ điển của VN đành phải công nhận như Hán ngữ đã đảo lộn, dịch chữ Thoại 說 là “Thuyết” và dịch chữ Thuyết 話 là “Thoại”. Hàng nghìn năm tầng lớp quan lại cấp dưới trong xã hội Trung Hoa là những “tiên hiền Bách Việt”, chuyên dạy chữ nho và tiếng Việt cho tầng lớp quan trên lãnh đạo đều là “Bắc phương nhân” đã ngao ngán với việc người Hán họ làm lộn (cả nhiều thứ khác nữa, như dịch học, địa lý, lịch sử v.v.) mà chẳng cãi lại được, đành thốt lên rằng chao ôi toàn là “chữ Tác đánh chữ Tộ” cả. Thời hiện đại thì không còn “tiên hiền Bách Việt” nữa, nhưng những bậc “hiện hiền Bách Việt” lại là những người lãnh đạo tài giỏi nổi tiếng như các ông Tôn Trung Sơn, Quách Mạt Nhược, Lý Đăng Huy, Lý Quang Diệu, họ là những người Khách Gia tức người Hoa Hẹ chứ không phải là người Hán. Nhưng trải ngàn năm xu thế không cưỡng lại được sự phát triển nhờ ưu thế chính trị của tiếng Quan Thoại, ngày nay tiếng Quan Thoại đang lấn át để tiêu diệt nốt cái nôi Việt Ngữ 粤 语 cuối cùng trên đất TQ là ở Quảng Châu và Hồng Kông,dù rằng ngôn ngữ học thế giới công nhận Việt Ngữ 粤 语 là một ngôn ngữ độc lập hoàn chỉnh. TVGT: Đoài 兌, đọc thiết “Đại 大 Ngoại 外” = Đoài 兑. TVGT: 兌 Đoài,易 dịch 曰 viết: 為 vi 巫 mo 為 vi 口 khẩu (theo dịch thì Đoài là nói về bói) tức Đoài chỉ là cái tên quẻ. TVGT: 兌 Đoái, 說 thoại 也 dã (Đoái là thoại). Đây đúng là giải thích “Đang Noái” = Đoái 兌, là sự giao tiếp trao đổi với nhau bằng lời. TVGT: 說 thoại 者 giả 今 kim 之 chi 悅 duyệt 字 tự (thoại nay là chữ duyệt- Duyệt 悅 nghĩa là vui vẻ). Đây chỉ là chuyển nghĩa của Thoại 說, người ta cũng như loài chim khi vui vẻ thì mới hay nói. Loài chim có tính Hóm-Hỉnh khi biết Hót nhại tiếng người, được người Việt đặt tên cho là loài chim Yểng (vì nó nghe tiếng người rồi nhập tâm, thỉnh thoảng “Ôn lại Tiếng” = =Yểng); chuyển nghĩa thành động từ Yểng, VD: “Học ngoại ngữ thì phải Yểng nhiều mới nói thạo được”. Cùng bộ Đoái 兌 còn có các chuyển nghĩa khác như Duyệt Nhĩ 悅 耳 là nghe vui (cũng là do nói); Duyệt 閱 nghĩa đen theo biểu ý của chữ là Nghe (Môn 門) Nói (Đoái 兌), chuyển nghĩa Duyệt Lãm 閱 覽 là sự xem xét kỹ bằng nghe nói và xem (lãm 覽) thấy (kiến 見). Chuyển nghĩa của Đoài: Đoài 兑 chỉ phương tây, Đoài Vực 兑 域. Đoài Âm 兑 音 chỉ tiếng chuông. Chuyển nghĩa của Đoái:(1) Trao Đổi viết bằng chữ Giao Đoái 交 兑. Chuyển Đổi viết bằng chữ Đoái Chuyển 兑 转. Thu Đổi viết bằng chữ Thâu Đoái 收 兑. Đổi tiền viết bằng chữ Hoán Đoái 换 兑 chuyển nghĩa thành đòi mạng. (2) Trộn lẫn viết bằng chữ Sàm Đoái 搀 兑 chuyển nghĩa Tham Lam. Lam 婪 = =Lạm 濫 = Tham 貪 = Thèm 饞 = Gièm 讒 = Sèm 饞 (tiếng Nghệ nghĩa là thèm) = Sàm 饞 = Thàm Thàm = =Tàm Bậy. NÔI = Nói = Lói = Lời = Lưỡi = ”Lói Mãi” = Loái = Noái. “Đôi đang Noái” = Đoái 兑 = Thoại 说. Bất cứ một từ nào khi đã được nói ra cho hai bên đối thoại cùng nghe, tức “Ngỏ Môn 門” = Ngôn 言, thể hiện gồm Đầu 亠 Mắt 一 Mũi 一 Mồm 口, là bộ mặt của cái “Ta Giỏi” = Tôi = “Ngã Giỏi” = Người, tức Ngôn 言, nhấn mạnh “Ngôn Chứ!” = Ngữ 語 là Ngôn Ngữ 言 語 thể hiện cái nhân cách của Tôi = “Tôi Gốc” = Tộc của một dân tộc. Bởi vì ngôn ngữ đã được dân tộc đó mài dũa hàng ngàn năm như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” mới có được. Khi đưa ra một từ, tức từ đó đang được Dùng hay đang được Việc (tức có tác dụng chuyển tải thông tin). Chính từ Dùng và từ Việc đã cho ra cái đuôi láy “Ủng” và “Iếc” là xuất hiện nhiều nhất trong các từ láy của tiếng Việt. Từ láy là để nhấn mạnh ý nhiều đối với giá trị của cái từ ấy, nhưng đuôi “Ủng" và đuôi “Iếc” dùng nhiều quá thành ra riêng hai đuôi này là chúng bị rẻ nhất trong các loại đuôi láy, làm cho từ được láy bằng đuôi ấy bị chuyển nghĩa thành ý “xấu”, thực ra thoạt ban đầu những đuôi ấy là hay ho chứ chẳng có ý gì là xấu cả. VD đối thoại: “Cơ quan chị toàn là ngồi chơi xơi nước thế mà lại hay Họp Hiếc lắm, chỉ mất thì giờ”, “Thì công ty quốc doanh của em cũng thế, chẳng có việc mà làm, thế mà cứ Họp Hủng xoành xoạch”. Thực ra nghĩa đen của từ láy Họp Hiếc là: [ Họp + ”Họp là từ đang làm Việc” = Hiếc ] = Họp Hiếc; nghĩa đen của tứ láy Họp Hủng là: [ Họp + ”Họp là từ đang được Dùng” = Hủng ] = Họp Hủng. Nhiều dân tộc dùng từ Lưỡi chuyển nghĩa thành từ chỉ ngôn ngữ. Tiếng Anh cái Lưỡi là “Tâng” [tongue] và Tiếng (ngôn ngữ) cũng gọi là “Tâng” (Tiếng = “Tâng”) nhưng động từ Nói lại gọi là “x-A-y” (sẽ theo xu hướng A = Na = Nói = NÔI). Tiếng Nga cái Lưỡi là “i-A-dức” và Nói (ngôn ngữ) cũng gọi là “i-A-dức” (xu hướng đơn âm hóa thì sẽ gọi là A = Na = Nói = NÔI) còn động từ Nói thì lại là “Ga-Va-rít” (xu hướng đơn âm hóa thì sẽ gọi là Va = Và = Na = Nói = NÔI). Tiếng Hán cái Lưỡi gọi là “Sứa 舌” và Nói (ngôn ngữ) cũng gọi cận âm là “s-u-A” (sẽ theo xu hướng A = Na = Nói = NÔI). Tiếng Nhật cái Lưỡi gọi là “Xay-Chứ 舌” (nhấn mạnh động từ Xay là nói của tiếng Anh bằng phụ từ khẳng định Chứ của tiếng Việt), còn ngôn ngữ tức Nói thì gọi là “ha-Na-xư” (xu hướng đơn âm hóa sẽ là Na = Nói = NÔI). NÔI = Nói = Lói = Lời = Lưỡi = Liếc = "Thành Liếc" = Thiệc = =Thiệt 舌 = Thuyết 話 = Thoại 說. Cái tên gọi quẻ Tốn 巽 Tốn 巽, Hán ngữ phát âm là “Xuyn” [ 巽 pinyin: Xun] và chỉ có một nghĩa là “tên gọi một quẻ trong bát quái”, và đến cả trong Thuyết Văn Giải Tự cũng “xin lỗi, chưa có thâu lục Hán tự Tốn 抱 歉!没 有 收 录 汉 字 巽”. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Huấn cũng gọi là “Xuyn”, Tuần cũng gọi là “Xuyn”, Tuẫn cũng gọi là “Xuyn”, khiêm Tốn cũng gọi là “Xuyn”, Tấn cũng gọi là “Xuyn”.
    2 likes
  6. Vì sao con người không trường sinh bất tử? Chủ Nhật, 22/06/2014 14:47:39 GMT+7 Vì sao có người sống thọ, có người không thọ? Tuổi thọ do yếu tố nào quyết định? Vì sao con người không trường sinh bất tử?... Cho đến gần đây, các nhà khoa học đã khám phá ra một phần bí ẩn của tuổi thọ. Con người không thể sống mãi vì tế bào chỉ phân chia 50 lần mà thôi Các nhà khoa học phát hiện: trong cơ thể, quá trình lão hóa được kiểm soát không chỉ bởi các đồng hồ sinh học đặc biệt của toàn cơ thể mà còn rất nhiều “đồng hồ” đặt ở trong từng tế bào. Trước đây các nhà khoa học cho rằng, các tế bào trong cơ thể có số lần phân chia vô hạn. Nhưng công trình nghiên cứu của Hayflik ( Hoa Kỳ) đã chứng minh rằng chỉ có các tế bào ung thư mới phân chia vô hạn, còn tất cả các tế bào bình thường chỉ phân chia đến giới hạn 50 lần rồi ngừng phân chia và chết đi. Sơ đồ hiệu ứng Hayflik Hayflik đã làm đông lạnh tế bào đã phân chia được 30 lần. Sau một thời gian lại hoạt hóa cho tế bào này phân chia tiếp. Thế nhưng nó vẫn nhớ là đã phân chia 30 lần trước khi đông lạnh rồi, bây giờ nó chỉ phân chia tiếp 20 lần nữa là đủ 50 lần phân chia rồi ngừng hẳn. Nhà khoa học còn phát hiện ra rằng: sự phân chia đầy đủ 50 lần chỉ có ở các tế bào từ bào thai, còn các tế bào ở người trưởng thành thì người càng già số lần phân chia của tế bào càng ít. Đây gọi là hiệu ứng Hayflik. Nhưng tác giả của phát minh này cũng như nhiều nhà khoa học khác, không giải thích được nguyên nhân vì sao tế bào chỉ phân chia số lần hữu hạn là 50. Tuổi thọ giảm vì phân tử AND bị tiêu hao sau mỗi lần phân chia Chuỗi xoắn kép phân tử AND do Watson và Crick tìm ra là cơ sở di truyền của tế bào. Nhà khoa học Alexei Olovnikov (Liên Xô ) nêu giả thuyết là cứ mỗi lần phân chia của tế bào, phân tử AND lại ngắn đi một ít. Cho đến khi sự rút ngắn này đụng đến một gen quan trọng cho sự sống thì tế bào sẽ chết. Ông giải thích hiện tượng này như sau: các phân tử ADN của mỗi tế bào khi phân chia thì hai sợi xoắn kép giãn ra, tách đôi để tạo ra chuỗi xoắn mới, với hai dãy enzym tích tụ từ quá trình này không đủ khả năng lặp lại toàn bộ cả hai sợi phân tử ADN. Hậu quả là một trong hai sợi xoắn kép bao giờ cũng bị ngắn hơn sợi kia. Cứ mỗi lần tách ra là phân tử ADN lại mất một ít thành phần của nó. Sự co ngắn của các phân tử ADN được Olovnikov gọi là sự “co mép lề” hay “cắt khúc cuối”. Mô hình cấu trúc phân tử AND Ông giải thích rằng: các chuỗi ADN con được tạo thành do di chuyển của men ADN - Polymeraza dọc theo chuỗi mẹ. Các trung tâm nhận biết và trung tâm xúc tác của men này nằm cách nhau. Khi trung tâm nhận biết (ví như đầu tàu hỏa) đi đến chuỗi ADN mẹ thì trung tâm xúc tác (ví như toa cuối đoàn tàu) ngừng ở cách đoạn cuối ADN một khoảng và khoảng còn lại đó không được sao chép. Một lý do nữa là ADN còn bị thu ngắn do việc tổng hợp các chuỗi sao chép được bắt đầu với những phân tử ARN (Axit Ribonucleic) ngắn. Sau khi tổng hợp xong, chuỗi sao chép ARN được loại ra, vì vậy bản sao thường ngắn hơn bản gốc. Con người không thể trường sinh bất tử Hiện tượng “co mép lề” ADN cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào lý giải được rõ ràng. Nhà khoa học Barbara Mc Clintock khi nghiên cứu về ngô đã thấy rằng nhiễm sắc thể trở nên không ổn định một cách lạ lùng khi chúng bị phân chia ra. Còn Herman Muller, cũng có nhận định tương tự Barbara khi nghiên cứu loài ruồi giấm. Ở các đầu mút của nhiễm sắc thể bình thường phải tồn tại một cấu trúc phân tử nào đó có tác dụng ổn định chúng. Herman Muller gọi chúng là “telomeres” (theo tiếng Hy Lạp telo có nghĩa là phần cuối). Chính telomeres nằm ở chuỗi tế bào sẽ chết. Nhưng chiều dài của telomeres có tỷ lệ với tuổi thọ hay không? Nhiều nghiên cứu trên thế giới đang tìm lời giải đáp.Với những kỹ thuật hiện đại, người ta đã có thể tách riêng các telomeres ra khỏi chuỗi ADN làm rõ sự rút ngắn telomeres, cũng như đo được nhịp điệu co ngắn của telomeres chia tế bào. Mô hình tách riêng các telomeres ra khỏi chuỗi AND Người càng cao tuổi thì telomeres của họ càng ngắn. Theo một tính toán: telomeres của nguyên bào sợi là nơi sản sinh ra chất colagen, cứ mỗi năm mất khoảng 20 phân tử. Đến khi các telomeres trở nên quá ngắn thì các nhiễm sắc thể sẽ kém bền vững, chúng không thể bám vào được màng nhân tế bào, chúng bị dính vào nhau và có hình dạng kỳ dị. Kết quả là các tế bào không thể phân chia được nữa. Các nhà nghiên cứu đang xem xét đánh giá kích thước của telomeres như một “thước đo”chuẩn xác tuổi thọ của tế bào. Nhà khoa học Calvin Harley còn cho rằng nếu khi sinh ra telomeres của một người nào đó ngắn hơn bình thường, thì các tế bào của người đó sẽ có tuổi thọ ngắn hơn một cách tương ứng. Có lẽ các telomeres như một thứ bảo hiểm làm chậm hiệu ứng của thời gian đối với các nhiễm sắc thể. Hy vọng không lâu nữa khoa học sẽ tìm ra “thước đo cuộc đời” yếu tố quyết định tuổi thọ, để tìm ra phương pháp làm tăng tuổi thọ cho con người. Theo Ths Phạm Vũ Hoàng (Suckhoedoisong.vn) =================== Longphibaccai gửi cho tôi bài viết này và đặt vấn đề sự liên hệ với số Hà Lạc. Gợi ý của Longphibaccai làm tôi chợt nhớ đến một cuốn sách nghiên cứu về Kinh Dịch liên quan đến di truyền học. Nhưng bây giờ trời chưa sáng, tôi không thể đi tìm cuốn sách này. Tuy nhiên, ý tưởng đầu tiên của tôi về sự trùng hợp mà longphibaccai nói đến, là: con số 50 lần phân chia tế bào của ADN hoàn toàn trùng khớp với độ số 50 vòng tròn Âm, hoặc Dương trong số Hà Lạc - tương ứng với 50 người con theo Mẹ Âu Cơ lên núi trong huyền thoại thời lập quốc của Việt tộc. Nếu như con số 50 lần phân chia của ADN là con số không thể thay đổi cho những người có tuổi thọ khác nhau, thì con người muốn thọ lâu chỉ còn cách làm chậm lại qúa trình chuyển hóa trong con số 50 này. Nếu giải thuyết của tôi đúng về sự liên hệ giữa số Hà Lạc và con số lần chuyển hóa 50 trong dãy ADN, thì chu kỳ này phải có trong tất cả tế bào ADN của mọi sinh vật sống trên trái Đất này. Còn không phải như thế thì chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
    2 likes
  7. Tiếng Việt 1. Các Qui Tắc tạo Từ của Tiếng Việt (viết tắt là QT) Cái Nền để nghiên cứu lời Nói của giống Nòi là cái Nôi khái niệm. Thủa bé , một lần đọc báo thấy nêu một nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Pháp (thời thuộc địa) nhận xét rằng: “Tiếng Việt là mẹ của các ngôn ngữ trên thế giới”, và đưa ra nhiều ví dụ. Như trường hợp giục phu kéo xe tay đi nhanh, người Việt lệnh “Mau lên!”, người Madagatsca ở Ấn Độ dương lại lệnh “Gao len!”(hay là muốn nói “gâu” lẹ! ?). Qui tắc tạo từ của tiếng Việt (QT) trình bày bằng 5 mục dưới đây: 1/ NÔI khái niệm: Đặt tên là NÔI vì: 1.NÔI=Nôi. Nôi là vật dụng để đặt đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru mà biết nói. 2.NÔI là cái Ổ (chữ Ô ở giữa) sinh ra ngôn từ tính Âm (N-Negative) và ngôn từ tính Dương (I-Innegative), (theo đúng “Nam tả, Nữ hữu”) 3.NÔI=Hội=Hột=Một. Nôi là một hột giống sinh ra muôn vàn hột giống khác (Tất cả đều trong Một. Một=1 là Dương. Dương sinh ra Âm; Dương có trước, Âm có sau). Hội=Hột=Một: Một hột cây hội tụ tất cả các gen của một loài cây. 4.NÔI=Nở. NÔI là NÔI mẹ ắt nở ra muôn vàn Nôi con. Nôi con sinh ra nhiều từ sắc thái khác nhau nhưng ý nghĩa của chúng là cùng nôi khái niệm. Chính là NÔI đã làm ra QT Nở. 5.NÔI=Nở=Vỡ=Vỏ=Vo. Quá trình nảy mầm của hột giống là Nở cho Vỡ cái Vỏ (Vỏ=Giỏ=Da, bọc ngoài mầm hột) để vỏ ấy bị Vo (tự tiêu rã) mất. Chính là NÔI đã làm ra QT Vo. 6.NÔI=Nối=Lối=Lướt. NÔI đã sinh ra lối (cách thức, đường lối) nối cái phụ âm đầu hay cái vắng phụ âm đầu của từ đầu câu với cái âm vận của từ cuối câu thành một từ mới. Chính là NÔI đã làm ra QT Lướt. 7.NÔI=Nõn=Nộn=Lồn=Lời=Rỡi (“Ruột Lời”=Rỡi). NÔI=Cội=Cọc=Tóc=Tay=Tơi (“Tay Lời”=Tơi). Tơi là cái áo của lời. Bản thân Tơi không làm nên lời, cũng như bản thân áo không làm nên người. Lời=Ngời (sáng)=Người. Một lời nói ra thể hiện một cái sáng của con người (“Văn là người”. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh=Mình). Rỡi thuộc âm vì nó là cái Vần, nó có công tạo ra lời lớn hơn công của Tơi (Âm=Vâm=Vần). Tơi thuộc dương vì nó là cái áo, giúp một phần vào tạo ra lời (Dương=Giúp, vì “Dương nằm Úp”=Giúp, nên trai bao giờ cũng giúp đỡ gái). (Tiếng Tây còn gọi thân mật là “Cái áo của em ơi!”, nhưng khi chồng nát rượu, bà vợ đá cho một cú lăn cù xuống cầu thang gỗ, khuất mắt. Hàng xóm cùng tầng nghe động, sang hỏi có gì mà ồn chuyện vậy, bà vợ trả lời tỉnh queo: “ Xin lỗi ạ, tôi lỡ tay làm rớt cái áo ấy mà”). Chính là NÔI đã làm ra QT Tơi-Rỡi. 2/ QT Vo: Là vò rụng đầu rụng đuôi một từ đa âm tiết, còn lại cái lõi thành từ đơn âm tiết. VD: Ha-Na-Xư ( tiếng Nhật nghĩa là nói), rụng còn lõi Na (tiếng Việt nghĩa là nói). Pnom (tiếng Khơ Me nghĩa là núi), rụng còn Non (tiếng Việt nghĩa là núi. Đến m dài còn bị vò rụng đuôi còn n ngắn). Blơi (tiếng Mường nghĩa là trời), rụng còn Lời=Trời (Mà lời là do trời cho thật, những loài sống ngầm dưới đất như loài giun, không hưởng trời nên không có tiếng kêu). Vo còn dẫn tới hậu quả là Vo cả câu. VD: “vuông Chữ Nho nhỏ” vo rụng đầu “vuông” và đuôi “nhỏ” thành còn cái lõi là Chữ Nho. “Trong ấy” vo thành Trỏng. “Bên ấy” vo thành Bển. “Anh ấy” vo thành Ảnh. 3/QT Nở: Một từ trong NÔI sẽ nở ra hai từ, một từ là tính âm (0) và một từ là tính dương (1). VD: Từ Mỗi nở ra từ Mô (0) và từ Một (1). Từ In nở ra từ Uống (0) và từ Ăn (1). Từ Túc nở ra từ Tấn (0) và từ Tay (1). Nguyên tắc là hai từ mới phải cùng Tơi (hay cùng Vắng Tơi) với từ cũ. 4/ QT Lướt: 1.Lướt hai từ: Lướt để chắp Tơi của từ đầu với Rỡi của từ sau thành từ mới có ý nghĩa logic với ý nghĩa tạo bởi hai từ trên. VD: “Hai Yêu”=Hiếu (Hai thế hệ già và trẻ phải yêu thương nhau. Nho viết bằng chữ Lão ở trên và chữ Con ở dưới, thành chữ Hiếu). 2.Lướt cả câu: Lướt để chắp Tơi của từ đầu câu với Rỡi của từ cuối câu thành từ mới có ý nghĩa logic với nội dung của câu. VD: “Làm gia công cho lưỡi cưa cùn sắc lại như Mới”=Lỡi (thợ Lỡi, máy Lỡi). 3.Lướt từ lặp: Thành từ mới có ý nghĩa như mục đích của từ lặp là nhấn ý “nhiều”, nhưng thanh điệu thì là tổng phép cộng số học nhị phân của hai từ đồng âm đồng nghĩa trên. Ví dụ “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1 (Nhiều cái chung ở một nơi thành đông là Chúng: Chúng tao, Chúng mày, Chúng nó, “Chúng Qua”=Choa). “Quân Quân”=Quần, 0+0=1 (ghép thành từ đôi Quần Chúng, chỉ số đông người). “Đông Đông” lúa = Đồng lúa. “Mai Mai”=Mải, 0+0=1. “Mải Mải”=Mãi, 1+1=0. (“Lâu Mãi”=Lai, là tương lai). Sáu thanh điệu của tiếng Việt chia ra hai nhóm: Nhóm âm (0) gồm “không”, “ngã”, “nặng”. Nhóm dương (1) gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền”. 4.Lướt Lủn hai từ: Từ đầu giữ nguyên và lướt tới lấy dấu thanh điệu của từ sau thay cho thanh điệu của mình. VD: “Việt Nói” = “Viết sắc Viết”=Viết (Viết= Van=Văng=Vân=Vân Vân=Và=Na=Nói=Nài, dần dần Viết chuyển sắc thái là “nói bằng văn bản” rồi dùng đại diện cây Viết). “Bụt Nói”= “Bụt sắc Bút”=Bút (tháp Bút ý là ở đó ngự lời của Bụt, sau Bút dùng đại diện cho cây viết, gọi là cái Bút. Bút dùng để “Pút”- post lên, và “Pút Lên”=Pen, tiếng Anh). Lướt Lủn tức là lướt cụt lủn hai từ (“Lời ngắn Ngủn”=Lủn) 5.Lướt Lỏn hai từ: Từ đầu lướt tới lấy Tơi của từ sau ghép vào Rỡi của mình thành từ mới có Rỡi mới. VD: “Hai Mươi”=Hăm. “Ba Mươi”=Băm. “Nghỉ Một” tí = Nghỉm tí. Lướt Lỏn tức là lướt gọn lỏn hai từ thành một từ (“Lời nói Gọn”=Lỏn). 5/ QT Tơi-Rỡi: Thay Tơi hay Rỡi của một từ đều tạo ra từ mới cùng nôi khái niệm với chính từ đó. VD: Hò=Hú=Hô=Hét=Hót=Hớt=Hát=Hỏi=Gọi=Gí (tiếng Đài Loan)=Gô (tiếng Nhật)=Gọi=Nói=Nài=Na=La=Và (tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Mắng=Mách=Mạ=Nhả=Nhắn=Vắn=Vấn=Vân= Vân Vân = Ngân Nga = Thả= Thỏ Thẻ = Thưa =Thốt =Thuyết =Thoại = =The Thot = Thi Thâm =Ngâm=Ngợi=Ngữ=Ngôn=Ngỏ=Ngả=Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quang Quác = Cáo = =Quảng=Giảng. Kết luận: Từ Điển mà giải thích như nôi khái niệm về “nói” vừa nêu trên thì còn ai kêu ca hay van nài gì nữa? Mắc mớ gì cứ thấy từ nào có viết bằng chữ nho thì giải thích đó là “từ gốc Hán”, “từ Hán Việt”. (Hán ngữ “Shuo” nghĩa là nói, “Yu Yan” nghĩa là ngôn ngữ, “Yáo Lán” nghĩa là cái nôi, “Jiang” nghĩa là giảng). Ngỏ là từ có sắc thái rất lịch sự, Ngỏ lời hay thư Ngỏ là yêu cầu phải có trả lời, nếu không trả lời là bất lịch sự, như “Ngỏ lời xin cưới”. Ngỏ = Thỏ Thẻ = Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”= Thuyết. Tiếng=Thiêng=Thanh. Sáng=Láng=Linh. Dân tộc ta có Tiếng nói là mượt mà và con người là Sáng Dạ, đó là cái thiêng liêng nhất. Câu đối trong đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm Hà Nội: “Sơn Bất Tại Cao, Hữu Tiên Tắc Thanh. Thủy Bất Tại Thâm, Hữu Long Tắc Linh”. Nổi Tiếng và Sáng là Thanh Linh = Thiêng Liêng. Thiêng Liêng vì trong Ta có cả “Sáng Âm”= Sấm, là khả năng tiên tri. Có khả năng tiên tri là do biết bói quẻ: Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch, của người Việt. Câu Sấm: “Song Ngư liền địa, Nghi Lộc phát vương”. Nghi Lộc là Ngộc Ly. “Người Gốc” = Ngộc. Ly là Lửa. Người=Ngời=Ngọc=Ngộc. Trời=Trưa=Lửa. “Dân Lửa” = Giữa. Giữa Chỗ = Giao Chỉ = Giao Chứa = Gieo Chữ. Giao=Gieo (gieo lúa là giao hột lúa cho đất). Chỗ là vị trí bất động, tức “Chẳng Đi”=Chỉ止. Chứa=Chữ=Trữ=Tự字=Tự嗣 (Chứa=Chữ=Tự 字nghĩa là nối dòng văn hóa, Chứa=Chửa=Tựa=Tự 嗣nghĩa là nối dòng huyết thống. Có cùng Gien thì mới Giống như Tựa hay giống như Tạc. Tiếng Nhật “O-Na-Di Đếx Né” nghĩa là “Nó - Na Ná - Giống Đấy Nhé”) . “Kinh Gieo” = Keo. Dân Kinh = Cần Keo (tiếng Tày Thái). “Dân Kinh” = Dinh=Dính. Keo Dính = Keo Dán = Keo Gắn. Gắn=Đặn(Đầy Đặn)=Đám=Đàn=Đoàn. Gắn Keo = Gắn Kết = Đoàn Kết. Trong Mình của người Việt có hai cái Sáng. Một cái Sáng là cái “Ta Dương”=Tướng, là cái thể hiện ra ngoài, có thể nhìn thấy bằng mắt, đó chính là cái “Sáng Mắt”=Sắt. Một cái Sáng là cái “Ta Âm”=Tâm, là cái sáng bên trong không thể hiện ra ngoài, không thể nhìn thấy được, Tâm=Tấm=Tỏng=Lòng=Trong (biết “Tường tận trong Lòng”=Tỏng), đó chính là cái “Sáng Lòng”=Sóng=Son (sóng ở đây là cái sóng ánh sáng, nó là vi ba, bước sóng cực nhỏ, nên gọi là “Sóng Con”=Son). Rõ ràng từ Sắt Son là một cấu trúc Dương (Sắt) Âm (Son) cân bằng, bởi vậy nó rất bền vững, không bao giờ thay đổi. Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 , trang 675, giải thích Sắt Son: Thủy chung trước sau như một trong tình yêu, vd “Nào lời non nước, nào lời sắt son”. Giải thích như vậy mới chỉ là giải thích một ứng dụng của từ Sắt Son trong một lĩnh vực cụ thể là tình yêu, chưa phải là giải thích bổn nghĩa của từ Sắt Son ở nguyên do của nó. Cái Sáng của người Việt lại là do Trời cho bằng chính cái ánh sáng của Trời (và Trời chỉ chọn Người để cho chứ không cho các loài khác): Trời=Ngời=Người= “Người có Óc”=Ngọc (“Ngọc chưa mài chưa thành quí. Người chưa học chưa tri lý”). Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật đều là ánh sáng của Trời, phần Nguyệt thì Trời đem cho Trăng, Nguyệt thành ánh sáng của Trăng, nhưng vẫn là của Trời. Vậy chính xác thì Trời mới chính là kẻ “đã cho ta Sáng Mắt, Sáng Lòng”. Bởi vậy người Việt Sắt Son nhất là Sắt Son với Trời, luôn biết nói “Nhờ Trời”, “Ơn Trời” và kêu “Trời Ơi”. Bởi vì: 1. Trời đã cho Ta cái tên bằng ánh sáng của Trời: Trời=Ngời=Người (=Ngài=Ai= “Thể Ai”=Thai) 2. Trời đã cho Ta cái khả năng tư duy: Trời=Ngời=Nghĩ (=Ý=Chí=Trí=Tri=Bì=Biết=Biệt) 3. Trời đã cho Ta cái khả năng thị giác: Trời=Ngời=Ngắm (=Nhằm=Nhòm=Nom=Dòm=Nhòm=Nhìn=Nhãn=Khán=Khám) 4. Trời đã cho Ta cái khả năng thính giác: Trời=Ngời=Nghe (=Ngóng=Thông=Thính) 5. Trời đã cho Ta cái khả năng khứu giác: Trời=Ngời=Ngửi (=Khui=Khứu) 6. Trời đã cho Ta cái khả năng xúc giác: Trời=Ngời=Ngậm (=Cầm=Chạm=Nắm=Nã=Xoa=Xát=Sát=Sờ) 7. Trời đã cho Ta cái khả năng tiên tri: Trời=Ngời=Sới=Sấm Tên riêng của mỗi cá nhân cũng là cái sáng, của Trời cho, gián tiếp qua ánh sáng của con Đom Đóm. Trẻ con rất thích bắt Đom Đóm chơi. Đom Đóm=Tóm=Tên=Tánh=Danh (ra đời mới thành Tên hay lớn lên làm ăn đã thành Danh đều bị Tóm vào “sổ hộ khẩu” và vào sổ Nam Tào tất). Tên gọi những nơi cần quảng cáo cũng đều xuất xứ từ cái sáng của con Đom Đóm: Đom Đóm=Điểm=Điếm=Tiệm=Tên. Trời đã cho Ta cái khả năng tiên tri: Trời=Ngời=Sới=Sấm. Ngoài các khả năng của 5 giác quan (thường gọi là Ngũ quan) là của Trời cho. Trời còn cho thêm giác quan thứ Sáu (nó ở rất Sâu và tồn tại rất Lâu theo con người, kể cả khi xác đã trả về đất chỉ còn lại cái hồn, giác quan thứ Sáu đó vẫn còn. Sáu=Sâu=Lâu=Lục=Lão=Luôn Luôn= “Lâu Mãi”=Lai, tức đến các “Kế Tiếp”=Kiếp sau vẫn còn). Giác quan thứ 6 đó là cũng từ cái Sáng của Trời (“Sáng danh Chúa ở côi Lời”): Trời =Ngời=Sới=Sấm (lời Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều câu còn ứng nghiệm vào 500 năm sau). Sấm là cái “Sáng Âm”=Sấm. Sới là chỉ địa điểm, là cái “Sáng Nơi”=Sới, địa điểm đó phải chọn theo PTLV, là nơi Sáng tức nơi Linh, gọi là Địa Linh (như nơi đặt mồ mả, nơi xây Sới võ, nơi xây công trình v. v. Sới phải phù hợp với cái Sáng Âm thì mới phát huy được cái “Sáng Tới”=Sới (“Âm phù Dương trợ”). Chúa Nguyễn Hoàng đã nghe theo Sấm của Trạng Trình mà chọn được Sới là nơi “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, biết đường đi “Ta theo hướng Mới”=Tới, đó là cái “Tới Dương”=Tương nên được “Lâu Mãi”=Lai. (Tương Lai là từ hoàn toàn thuần Việt). Tương Lai kể cũng quan trọng thật, nhưng Hạnh Phúc là cái xài liền, không phải là chờ đợi đến tương lai mới được hưởng. “Dân dĩ Thực vi Thiên”, cái “Thật Đức”=Thực là cái Thực có trên thực tế, và là Thực là đủ ăn (“Thức Thức”=Thực, 1+1=0, các thức để “ăn” đây bao gồm cả ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn ở, ăn làm, ăn nằm), mới là cái dân cần “Thấy đầu Tiên”=Thiên. Nguyên hai câu là “Nhân dĩ Hòa vi Qúi. Dân dĩ Thực vi Thiên” nó có hai nghĩa cho cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, vì Hòa là lúa, Hòa lại là Hòa Hiếu; Thực là nhiều Thức, Thực lại là sự Thực, mà sự thực thì chỉ có “Thật Đức”=Thực, xã hội đạo đức giả thì không thể có sự thực. Quán nhậu treo hai câu trên chỉ mong người ta hiểu phiến diện có một nghĩa là ăn nhậu sướng bằng Trời-Thiên. Chữ nho Hòa 和 là cây Lúa 禾 và Mình 口,“Em xinh là xinh như cây lúa” (lời hát chèo), cũng lấy chữ Hòa 和 ấy ghép với chữ “Hai Yêu”=Hiếu 孝 thành từ ghép Hòa Hiếu 和 孝 cho cả hai nghĩa: yêu tôn trọng thiên nhiên (Mình 口yêu cây Lúa 禾 và cây lúa yêu mình, như Hiếu 孝: thế hệ Lão 老 yêu thế hệ Con 子, và thế hệ con yêu thế hệ lão, chữ Con 子 đặt ở dưới có nghĩa là con phải gánh vác di sản và đề cao truyền thống mà thế hệ Lão 老 để lại). Rõ ràng dân trồng lúa (nền văn minh lúa nước) là dân Hiền Lành nhất trên đời này. Nhưng đừng thấy người ta Hiền Lành mà tới hiếp đoạt của người ta, sẽ bị người ta Hành Liền, cái hàm ý này chỉ có trong ngôn từ rất mượt mà của Tiếng Việt mà thôi. (Vụ án “Máu thắm đồng Nọc Nạn” ,năm 1928 ,tòa án thuộc địa cùng luật sư người Pháp đã xử cho những người nông dân trồng lúa Hiền Lành đã phải vùng lên Hành Liền, khi bọn cường hào tới hiếp đoạt ruộng đất mà họ đã bỏ công khai phá, được trắng án như tòa tuyên: “vô tội”). Cho nên người đời trên thế giới rất biết tôn trọng người dân Việt vốn Hiền Lành. Ngôn từ Việt đã hàm ý rõ tất cả rồi, không hề nói dóc. Tìm bao giờ cho thấy Hạnh Phúc?. Đơn giản, phải tìm nhiều. Tìm nhiều thì “Hạnh Hạnh”= Hành, 0+0=1; “Phúc Phúc”= Phục, 1+1=0, tìm nhiều để đến được Hạnh Phúc là phải Hành Phục. Hạnh Phúc theo dấu thanh điệu là 0+1 (là cân bằng âm dương, cho kết quả là 0+1=1 là kết quả tích cực). Hành Phục theo dấu thanh điệu là 1+0=1 (là cân bằng dương âm, cho kết quả là 1+0=1 là kết quả tích cực). Hành Phục có nghĩa đen là “làm lại như cũ” (phục hồi), quay lại sống tôn trọng thiên nhiên (như Cụ Sáu = Cụ Lâu = Cụ Lão=Tử Lão=Lão Tử từng nói), nghĩa bóng là Phục Thiện (theo dấu thanh điệu là 0+0=1 là kết quả tích cực). Điều Hành Phục để luôn có Hạnh Phúc, người nông dân Việt đã biết từ thời cổ đại. Chính họ nói: “ Hiền như Đất. Thật như Ruộng”. Cho nên ăn hoa màu được hạnh phúc rồi là họ lo ngay Hành Phục lại sức khỏe cho đất: Cày phơi ải để làm tiệt trùng ( làm “Tới Diệt”=Tiệt. Cũng như “Hố chôn xác Chết”=Huyệt, “Tới Chót”=Tót, “Tới Hết”=Tuyệt, Tót Vời=Tuyệt Vời, Vời=Vợi=Viễn), rồi bón phân hữu cơ trả lại các vi lượng cho đất. Đất nó “Hiền Thiệt!” nên đối xử với nó lại phải “Hiệt Thiền” . Hiệt là “Hồn Việt”=Hiệt. Chữ Hiệt 黠 là “chất xám”( chữ Đen=Hoẻn=Hắc 黑) và “lòng tốt” (chữ Tốt= Cốt= “Cốt Đạt”=Cát 吉). Từ “chất xám” ngày nay giới khoa học nông nghiệp gọi bằng từ đại diện là “biện pháp khoa học kỹ thuật”, còn từ “lòng tốt” thì phải chịu tiếng Việt, không lấy từ gì làm đại diện nổi. Thiền là “Thật Hiền”=Thiền. Vì đất “Hiền Thiệt!” nên đối xử với đất phải “Hiệt Thiền”, tức phải có ánh sáng KHKT và tấm lòng “Thật Hiền”=Thiền ( theo thanh điệu thì cũng cân bằng âm dương 0+1=1 là kết quả tích cực) đối với mọi việc đụng tới đất: canh tác, khai khoáng, thủy điện v.v. Cứ thế tích cực Phục Thiện nhiều thì sẽ đạt Phúc Thiền, 1+1=0, là cái Tâm trống rỗng, lúc đó đạt được tót đỉnh của Phúc. QT Tơi-Rỡi đã cho ra một nôi khái niệm về “nói”: Hò=Hú=Hô=Hét=Hót=Hớt=Hát=Hỏi=Gọi=Gí (tiếng Đài Loan)=Gô (tiếng Nhật)=Gọi=Nói=Nài=Na=La=Và (tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Mắng=Mách=Mạ=Nhả=Nhắn=Vắn= =Vấn= Vân=Vân Vân=Ngân Nga=Thả=Thỏ Thẻ =Thưa=Thốt =Thuyết =Thoại =The Thot=Thi Thâm=Ngâm=Ngợi=Ngữ=Ngôn= =Ngỏ=Ngả =Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quang Quác=Cáo=Quảng=Giảng. Ngỏ mang sắc thái lịch sự: Ngỏ=Thỏ Thẻ=Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”=Thuyết. “Thốt Noái”=Thoại. Nói nghĩa là Nêu ra bằng lời. Viết nghĩa là Nêu ra bằng chữ. Tiếng Việt đơn giản là cái do người “Kinh Nêu”=Kêu, và “Việt Nói”= “Việt sắc Viết”=Viết. Theo nôi khái niệm về “nói” ở trên mà hiểu thì Tiếng là “Tự người việt đưa ra lời từ Miệng”= “Tự một âm phát ra có ý nghĩa Riêng”= Tiếng. Tiếng của người Việt, gọi là Tiếng Việt. Ngôn Ngữ Việt là Nói Nói (của) Việt. Việt Ngữ là Việt Nói, tất cả các từ ghép trên đều đúng văn phạm Việt, và không có từ nào gọi là “từ Hán Việt”. Hán ngữ (còn gọi là tiếng Quan Thoại) thì “Shuo” nghĩa là nói. Từ “Shuo” không có trong nôi khái niệm về “nói” ở trên. Con người là Âm/Dương=Đất/Trời= “Tất/Cả”= “Tạo/Hóa”=Ta. Cái do Đất làm và cái làm cho người ở Đất thì gọi là Tạo. Cái do Trời làm và cái làm cho vong ở trên Trời thì gọi là Hóa. Hai yếu tố âm dương trong Ta là hai cái Minh nên Ta là “Kẻ Mình”=Mình= “Minh Minh”=0+0=1= =“Một Kinh”=Mình. Hai cái Minh đó là Sáng và Dạ nên ta có tên là Sáng Dạ. Theo sinh lý học thì Sáng thuộc Dương, gọi là “Sáng Dương”=Sướng; Dạ thuộc Âm, gọi là “Dạ Âm”=Dâm. Về sinh lý thì Sướng và Dâm đều là sướng cả. Vì Ta là Minh, là Sáng nên bản chất nó là trong trẻo. Cái trong trẻo đó trong Ta dù là thuộc dương hay thuộc âm đều là khởi nguồn cho óc tưởng tượng: “Minh Dương”= Mường (mường tượng được ra những cái chưa từng có); “Minh Âm”= Mầm (mầm mộng được ra những cái chưa từng có). Một từ của tiếng Việt cũng có cấu tạo bằng hai cái minh, thuộc dương và thuộc âm, y như cấu tạo của một con người. Vì bản chất là Sáng nên nó cũng là trong trẻo (“Giọng nói trong trẻo”, “Trong như tiếng hạc bay qua”). Hai nửa mang bản chất Sáng dương và Sáng âm đó của một từ chính là cái Tơi và cái Rỡi của từ. Cấu tạo của từ là Tơi-Rỡi (Cái Vắng Tơi cũng giá trị như là Tơi. Vắng Tơi không có nghĩa là không, mà nó vẫn là có, vì đây là khái niệm của ngôn ngữ, không phải là khái niệm vật chất: cái “lỗ trống” vẫn là có vì vẫn đếm được có bao nhiêu lỗ trống, không như vật chất thì lỗ trống là không có gì). Cấu trúc Tơi-Rỡi của từ là cấu trúc Dương-Âm theo cấu trúc của vũ trụ, vì Lời cũng chính là cái sáng của Trời cho (Trời=Ngời=Lời). “Tay của Lời”= “Tay Lời”= Tơi. “Ruột của Lời”= “Ruột Lời”= Rỡi. Trước kia, khi nghiên cứu tiếng Việt, người ta đứng trên nền của ngôn ngữ phương Tây mà người ta đã học để nghiên cứu, nên họ gọi Tơi là “phụ âm đầu” nhưng lại quên mất còn có cái “vắng phụ âm đầu” (Mô=Vô=0, Chăng=Chẳng=0, lướt từ đôi “Vô Chẳng”= Vắng); họ gọi Rỡi là “âm vận”. Lời là cái ý nghĩa nhờ “Lưỡi đưa tiếng từ miệng ra ngoài Trời”= Lời, nó trong trẻo bởi bản chất nó là sáng: Trời=Ngời=Lời. Tơi= “Tay của Lời” là Nòng thì như cái Nòng súng, còn Rỡi= “Ruột của Lời” là Nọc thì như viên đạn (cái Nọc của con ong hay của con rắn chính là viên đạn của nó vậy). Cấu trúc một từ là Tơi-Rỡi chính là cấu trúc Nòng-Nọc (bởi chữ ký âm thời tiền sử cổ xưa gọi là chữ Nòng-Nọc, mỗi chữ cái đều có nét ngoằn nghoèo như con nòng-nọc). Tiếng Hán “Khoa Đẩu” nghĩa là con nòng-nọc, về sau Hán thư dịch theo nghĩa mà gọi chữ Nòng Nọc là “Khoa Đẩu tự”. Con Nòng-Nọc là ấu trùng đang sống trong Nôi nước, từ Nòng-Nọc là một từ dính, nên có gạch nối ở giữa, và tuyệt đối không được đảo là nọc nòng, vì như vậy sẽ không còn hiểu là con gì nữa. Cái Tế của từ dính Nòng-Nọc chính là cái tế bào Nòi. Theo QT Nở thì Nòi tách đôi thành Nòng/Nọc. Nhưng Nòng-Nọc muốn “nở” thì trước hết nó phải dùng QT Vo mà vò cho rụng đuôi đi đã. Vậy là “Cắt N của nòng và N của Nọc”= “Cắt…Nọc”= Cóc (rất logic: nó đồng thời còn phải dùng cả QT Lướt). Cóc gắn bó với người nông dân trên ruộng từ thủa ban đầu của nền nông nghiệp trồng trọt cách nay hàng vạn năm. Con Cóc nó “Thật Hiền”= Thiền, đó là một tên khác của con Cóc, sau Thiền phiên thiết ra gọi là con Thiềm Thừ (Thiềm=Thêm là tên thêm, Thừ=Thứ=Chư, là cái tên thứ hai). Một cái Nòi thì theo QT Nở mà ra Nòng (1) và Nọc (0); một cái Cồi thì theo QT Nở mà ra Có (1) và Cóc(0), cặp đối 1/0=Có/Cóc = Cộc/Cái = Đực/Đẻ. Cóc=0, số Không là tuyệt đỉnh của trí tuệ, là cái vòng luân hồi. Tên con Cóc ám chỉ đúng như vậy: “Có Óc”= Cóc (“Con Cóc là cậu ông Trời”. “Thầy đồ Cóc”) . Lời là ý nghĩa của một Từ. Từ gồm Tơi-Rỡi, bản chất lời là trong trẻo do Tơi-Rỡi mang bản chất trong trẻo: Tơi thuộc Dương, nên có từ đôi “Tơi Dương”=Tường. Rỡi thuộc Âm nên có từ đôi “Rỡi Âm”=Râm(mát mẻ)=Rõ=Tỏ=Tường, do vậy ý nghĩa của Từ (tức Lời) là Tỏ Tường = Rõ Ràng=Rạng=Sáng, tức như bản chất nó là trong trẻo. (Tường=Ràng cũng giống như Đương=Đang, Đường=Đàng, Giường=Sàng). Lời là do Trời cho, đương nhiên Tơi-Rỡi cũng là do Trời cho: Tơi=Tống=Nòng=Nắng=Nường=Dương. Rỡi=Rốn=Nõn=Nọc=Nước=Nậm=Âm (nọc ong, nọc rắn đều là chất nước độc để tiêm vào thịt đối thủ). Kết cấu Dương-Âm là: Dương/Âm= Tơi/Rỡi = Nường/ Nõn = Nắng/Nước (là kết cấu của vũ trụ,là của Trời cho. Ở đất thì kết cấu phồn thực là ngược lại, là cặp Nõn/Nường, ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Một Tiếng gồm Tơi-Rỡi = Nắng-Nước thì nó trong trẻo là phải thôi. Tiếng=Thiêng=Thương=Trường=Đương(để mà đương đầu)= Đùng Đùng=Súng, thì đúng Tiếng=Từ=Lời là khẩu súng Trời cho (chữ Thương 搶 nghĩa là cây súng trường, rồi thương trường cũng là súng trường vậy, nên người ta nói “thương trường là chiến trường” ?, nói vậy chẳng qua là do giọng hiếu chiến, tỷ như “cuộc vận động trồng cây gây rừng” thì người ta còn tương lên báo là “chiến dịch trồng cây gây rừng”. Thương trường không phải là chiến trường, bởi trên thương trường chỉ có “súng xịt nước”, sẽ thấy tiếp sau). Viên đạn do nòng súng tống ra mới là cái để đạt mục đích, còn cây súng chỉ đứng tại chỗ. Tơi=Tời=Tải=Tống=Nòng=Nắng (phải dùng lửa mới đúc được nòng súng). Rỡi=Râm=Rốn=Nõn=Nọc=Nước (viên đạn này là bằng nước mà lại còn râm mát). Đúng là Trời cho cái Tiếng=Thiêng chỉ là một cây súng xịt nước (lễ hội xịt nước của người Lào và người Thái Lan). Trời cho tiếng Việt chứa hàm ý như vậy thì đúng là Trời muốn qua tiếng Việt mà dạy cho loài người phải biết đối thoại chứ không dùng bạo lực. Nhưng đối thoại thì vẫn có Tơi=Tường=Tướng (là “nói tướng lên” tức to tiếng, nói thẳng) và Rỡi=Râm (là “nói mát nói mẻ”, nhiều khi giọng còn chua cay). Dẫu sao thì vẫn chỉ là đối thoại chứ không dùng bạo lực. Ngôn từ Việt đã chỉ ra Tất Cả. 5000 năm trước mà thế giới biết học chữ Nòng-Nọc và tiếng Việt để hiểu được văn hiến của Văn Lang Lạc Việt thì thế giới đã đại đồng từ lâu rồi chứ còn ai sản xuất vũ khí làm gì . (Hiếu với Thiên hạ gọi là “Hiếu Thiên” = Hiến. Thời tiền sử chỉ có Văn Lang mới có văn hiến). Đất/Trời=Tất/Cả=Tạo/Hóa=Ta. Người Kinh tự xưng “Ta” (ngôi Một) và tự xưng “Một Kinh” = Mình (ngôi Một), “Mình Hai” = ”Mình Hay” = Mày (ngôi Hai). Khẳng định ngôi hai là “Mày Chứ” = Mừ (Mừ là ngôn xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái). Chứ=Chư=Thứ (là dòng thứ, con thứ, dòng hai, sau dòng đầu). Trong các dòng Thứ = dòng Chư (tức dòng hai) xếp thứ tự lại có một dòng “Hai Đầu” = Hầu. Đây chính là tước Hầu thời nhà Chu phong đất. Chư Hầu = =Thứ Hai. Các tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam chính là Rộng (rộng đất nhất), Hai, Ba, Tư, Năm. Vậy thời nhà Chu toàn dân nói tiếng Việt. Đất/Trời=Tất/Cả=Ta. Đất và Trời (đều là thiên thể) xa nhau nhất mà cũng là gần nhau nhất (chưa thấy tốc độ nào nhanh hơn tốc độ ánh sáng, mà cái Sáng lại là do trời cho Ta). Chính Ta (con người) là cầu nối Đất và Trời (“đứng giữa đất trời”), hễ sáng là Trời Đất nối liền nhau ngay bằng chính “Ta Kia” = =Tia (sáng) chứ không phải bằng loài vật nào khác. Ngôn ngữ thì Tiếng chính là cái Sáng vì Tiếng=Từ=Tơi+Rỡi. Do “Ruột Thiêng” = Riêng của Ta, mà loài vật không thể có, Ta có cái độc đáo hơn loài vật là có cái “Ta Riêng” = Tiếng. Do Tiếng là cái Sáng (tiếng trong trẻo) nên Tơi và Rỡi cũng đều là cái Sáng. “Tơi Rỡi”=Tời=Tải, là nó tải cái Lời (ý nghĩa của tiếng) đi ra. “Rỡi Tơi”=Rời=Rạng=Sáng=Láng=Linh=Lìa=Ly=Lửa=Lả=Hỏa=Hồn. Kẻ Sống=Kẻ Sáng luôn có Hồn, nhưng Hồn không dính cứng ở cơ thể sống, mà linh hoạt, lúc đi ra là tải Lời (có khi Hồn còn đi lạc, phải hú Hồn về). Hồn còn chuyển tải cái Sáng sang người khác (Sáng=Sang=Hàng=Hướng=Hành, hàng dọc là hướng sang dọc, hàng ngang là hướng sang ngang; hành là thi hành; “Thấy Đi”=Thi; cái Sáng làm chức năng của nó bằng cái Thấy). Cụ Trưởng Cần chỉ dùng lời của Cụ (nghe được) và cái ý nghĩ của Cụ (ẩn kín) mà chữa được bệnh nan y cho người khác, bởi Cụ đã dùng cái Thấy. “Tất Cả”=Ta, từ người Kinh xưng (ngôi Một), tức Ta là một người Kinh, là một con người. Từ đôi Người Ta có nghĩa là nhiều người (“Người ta nói thế” tức “Nhiều người nói thế”, đó là một cái thông điệp do nhiều người cùng phát như vậy, mà bản chất là cái Sáng của chúng nó nói ra, tức của “Hồn chúng Nó” = =Họ nói ra, tức “Họ nói thế”. Như vậy khi đã nói đến Họ của “Ta Gốc”=Tộc là nói Họ Tộc . “Người Kinh họ nói thế” bởi họ còn “nhớ như In” (tiếng Kinh thì In là từ chung cho Ăn hay Uống, ăn uống là cái bản năng của Con, hễ khát nhớ uống, hễ đói nhớ ăn, cho nên mới có thành ngữ “Nhớ như In”). Người “Kinh họ nói là In” = Kin (tiếng Tày-Thái thì Kin là từ chung chỉ ý ăn hay uống, đến nay vẫn dùng chung như vậy, kể cả bên Thái Lan). Vậy thì đúng là Kinh đã Gieo tiếng. Tiếng là do “Kinh Gieo” = Keo. Tiếng Tày-Thái gọi “Dân Kinh” là “Cần Keo”. Kinh là dòng Rồng (Lạc Long), Thái là dòng Tiên (Âu Cơ).Ta=Giả nên nho viết chữ Giả 者 gồm Tia Sáng nối Đất 土 (đại diện bằng cái sáng của Đất là “Thấy Ổ”= Thổ, chữ Thổ 土) với Trời 日 (đại diện bằng cái sáng của Trời là chữ Nhật日), đúng như Ta=Tất Cả. Ta và Mình đều là ngôi Một, chỉ số đông thì dùng Chúng Ta hay chúng Mình, nhân Dân chúng Ta thì nói tắt là Dân Ta. Còn khi đứng riêng thì Dân hay Ta đều là chỉ một người, dùng từ đôi để nhấn ý cho trịnh trọng thì “Dân Ta” = Gia (chỉ một người), nhấn cho thêm trịnh trọng nữa thì “Gia Gia” = Giả, 0+0=1(chỉ một người). Do khẳng định Ta không phải là loài nào khác mà là “Ta Kia” = Tia, phản ánh đúng Ta là cái Tia sáng nối Trời với Đất. Do vậy chữ nho viết biểu ý cái tia sáng ( Tia=Phía=Phẩy) bằng một nét phẩy xiên từ phải sang trái (ý là mặt trời mọc đàng đông) từ trên xuống dưới (ya là từ trời xuống đất). Chữ Việt bộ mễ nhiều người cứ thắc mắc còn một gạch xiên trên đầu là ý gì. Đỗ Thành (blog Nhạn Nam Phi) đã giải thích đó là tia sáng, bộ phận của chữ Thái 采 nghĩa là ánh sáng (còn viết Thái 彩). Chữ Việt 粤 gồm chữ Thái 采, bọc bằng chữ Vuông 口=Vành Vạnh=Mảnh=Mình= “Một Kinh”, dưới có hình cái Cày. Cày là cái công cụ quan trọng thứ Hai sau bàn Tay của dân nông nghiệp lúa nước. Nếu Một là cái phát hiện cũ thì cái phát hiện thứ hai đương nhiên phải là Hay hơn (“Hai đánh Một không chột cũng què”). Cho nên cái công cụ “Kinh Hay” = Cày (tiếng Kinh gọi cái cày là Cày); cái công cụ “Thái Hay” = =Thay (tiếng Thái gọi cái cày là Thay, nó cũng đồng với từ Thay của tiếng Kinh, nghĩa là thay cho sức của bàn tay cuốc đất). Cái Hay là cái văn minh, vì nó mới hơn cái cũ là cái một. “Thấy Hay” = Thay, nên người Việt rất nhạy với cái mới, Thay đời xe máy, ô tô, điện thoại di động như Thay áo. Bởi cái Mới là Hay, nên có “Mới Hay” = May. Người Việt hễ Thấy Hay là “Thấy Hay” = Thay liền, là làm Mới Liền = Mô Đên. Ta=Giả, nên chữ Giả 者 nho viết biểu ý gồm tia sáng nối Đất 土(chữ Thổ 土. Ổ=Tổ=Thổ) với Trời 日(chữ Nhật 日), đúng như Ta = Tất Cả. 2. Con người là một tiểu vũ trụ Người Việt khi bắt đầu khai thác bề mặt Trái Đất để làm lúa nước bằng những mảnh Ruộng=Vuông (cách nay vạn năm , như di tích hột lúa ở Hòa Bình VN và ở Hà Mẫu Độ, Triết Giang TQ), người Việt đã đứng trên mặt đất mà nhìn để hiểu rằng cái kết cấu Âm/Dương là Đất/ Trời = Tất/ Cả = Tạo /Hóa = Ta (= Ngã 我 = Ngộ 我). Để làm được nông nghiệp trồng trọt, Ta phải nghiên cứu thiên văn, chủ yếu bằng con mắt quan sát (ngày nay vẫn còn phải dùng kính viễn vọng). Quan sát bằng mắt nên cái bầu trời như cái Vòm Ủ, gọi là “Vòm Ủ”= Vũ (nghĩa là không gian). Sau nho viết chữ Vũ bằng bộ thủ “Mái Hiên”= Miên 宀và bộ thủ Ư 于 thành chữ Vũ 宇 (Ủ = Ở = Ư 于 = U =Vu 于 = Du 游 = Do 由 - sự Ủ cũng là một sự chuyển động như lên men vậy). Cái “Trời Ủ” = Trụ (nghĩa là thời gian - ấn định bằng mặt trời) viết bằng bộ thủ Miên 宀 và bộ thủ Do 由 thành chữ Trụ 宙. Đứng ở vị trí Vũ Trụ mà nhìn xuống thì kết cấu Dương/Âm là Cả/Tất = Còn/ Khuất = Càn /Khôn. Gọi là Càn /Khôn vì quan sát vũ trụ bằng mắt, thấy có những thiên thể thì mắt người nhìn thấy “Có luôn luôn và trong trạng thái chuyển động Tròn” = Còn= “Còn miên Man” = Càn. Có những thiên thể là “Không thể nhìn thấy toàn bộ được bằng Mắt” = Khuất = “Khuất luôn Luôn” = Khôn. Ghép lại, từ Càn Khôn dùng chỉ chung vũ trụ. Càn dùng riêng thì ám chỉ Mặt Trời (mắt thường nhìn thấy toàn bộ mặt trời và cái cảm giác chuyển động tròn của nó trong ngày và đêm). Khôn dùng riêng ám chỉ Trái Đất, con người đứng trên mặt đất nhưng không thể nhìn thấy toàn bộ Trái Đất (vì thời cổ đại chưa có tàu vũ trụ) nên vẫn coi Đất là Khuất. Chỉ vài từ gốc của tiếng Việt nêu trên, vẫn dùng nguyên vẹn trong tiếng Kinh ngày nay, đủ để chứng minh rằng: Âm Dương, Bát Quái, Kinh Dịch là của người Việt. Đông Y cổ đại, Y học hiện đại, Khoa học nghiên cứu tiềm năng con người đều kết luận rằng con người là một vũ trụ thu nhỏ. Vậy mà kết luận trên lại hiển hiện tự nhiên trong ngôn từ Việt ở ngôn xưng của dân tộc Kinh: Dương / Âm = Còn / Khuất = Càn / Khôn = Trời / Đất = Tròn Vuông = Trọn Vẹn = Hoàn Toàn = Cả Tất. Đó là kết cấu theo vũ trụ, dương trước âm sau, dương sinh ra âm. Con người sinh ra ở Đất, do vậy kết cấu theo con người thì phải ngược lại, viết âm trước dương sau, “Sinh ra ở giữa Đất Trời”, bởi vậy người Việt gọi “thuyết Âm Dương”, Hán ngữ giữ nguyên kết cấu đó là Yin Yang. Kết cấu theo vũ trụ thì gọi là Trời Đất, mà kết cấu theo con người thì gọi là Đất Trời, và Đất Trời = Tất Cả. Tất Cả có nghĩa là vũ trụ, cái vũ trụ ấy cô đặc thành một con người, đó là “Tất Cả” = Ta. Ta là ngôn xưng của tiếng Kinh chỉ Mình = “Một Kinh”. Ta=Tui=Tôi=Tao= Cao (tiếng Vân Kiều)=Cau (tiếng Philippin) = =Coong(tiếng Khơ Me)= Cò (tiếng Thái) =Con=Qua=Cán 干 = Quan 官 = Quân 軍 = Quân 君,đều là ngôn xưng ngôi một. Một hướng phát triển khác của ngôn xưng Ta của người Kinh là: Ta=Nhà= Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Ngô 吾 = Ngộ 我 (tiếng Việt Đông). Chứng minh vũ trụ đã cô đặc thành một con người chỉ cần dùng có bốn từ tiếng Kinh của ngôi xưng thứ nhất: (1) KẺ, là chỉ con người, (dùng que cứng kẻ một Kẻ – là tượng trưng tính dương hay đàn ông, kẻ hai Kẻ – – nối cách nhau là tượng trưng tính âm hay đàn bà), từ Kẻ về sau phiên thiết thành hai âm tiết là Cơ Thể, trả lại như cũ, tức lướt thì “Cơ Thể”= Kẻ. (2) KINH = “Kẻ Minh”, Minh nghĩa là sáng: Sáng = Choang = Quang = Láng = Lượng = Linh = Minh. (3) MÌNH = “Một Kinh”, một Kinh tức một Kẻ thuộc dân tộc Kinh, thành từ tự xưng là “Một Kinh” = Mình. Trong một kẻ, là một con người, có hai cái Sáng (trí tuệ) , tức hai cái Minh, cân bằng nhau, là Minh dương và Minh âm, “Cân bằng hai cái Minh” = Kinh. Vì có hai Minh nên “Minh Minh” = Mình, 0+0=1, tự xưng là Mình. (4) TA = “Tất Cả”. Vũ trụ chỉ có dương và âm mà vũ trụ sinh ra tất cả. Trong con người có âm và dương nên con người là tất cả, được thu nhỏ lại, “Tất Cả”= Ta, tự xưng là Ta (Ta=Ngã=Ngộ). Hai từ tự xưng ghép lại thành từ đôi thì cũng như hai cái sáng ghép lại thì thành tố chất càng sáng: Mình Ta, nói lái là Mà Tinh; Ta Mình, nói lái là Tinh Mà. Nhưng trong nội tại nó luôn có mâu thuẫn: Mình Ta, nói lái là Tà/Minh; Ta Mình, nói lái là Minh/Tà. Giống như tương tác trong vũ trụ cho ra những kết quả Minh và Tà. Tương tác trong cơ thể cũng cho ra những kết quả Minh và Tà. Hán thư viết rằng: “Cái tên Việt và Bách Việt xuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc”. Nhưng thời Xuân Thu có 7 nước, đến thời Chiến Quốc đã thành 140 nước. Nước nào cũng có Kinh Đô riêng. Mà Kinh Đô tức là nơi người Kinh “Đông Hộ”. “Đông Hộ” = Đô. Chữ Đô 都, nghĩa biểu ý của nó là chữ: Ta 者(ở thành) Ấp 阝. Chữ Ta 者 viết biểu ý là một Tia sáng (nét Tia=Phía=Phẩy từ trên xuống dưới, hơi xiên từ phải sang trái, Phải ý là trời, Trái ý là trái đất; Tia ấy nối Đất – đại diện bằng cái sáng của đất là chữ Thổ 土, với Trời – đại diện bằng cái sáng của trời là chữ Nhật 日, thành chữ Ta=Giả 者). Ta (= Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Ngô 吾 = Ngộ 我, là những từ có sau, đều dùng để xưng “Tôi”). Ấp thì phải là “Đông Hộ”. Họ là nhiều người, “Nghe họ nói thế” tức là “Nghe nhiều người nói thế”. “Họ chung một Ổ”= Hộ (dù những người ấy không nhất thiết phải là thân thuộc của nhau). Việt mà chỉ “thời Xuân Thu mới xuất hiện”(?) thì người Kinh có từ khi nào? Tra về người thì tư liệu TQ nói: Kinh là dân tộc thiểu số trong 56 dân tộc của TQ, trong lịch sử họ từ VN di cư sang vài hòn đảo thuộc Quảng Tây TQ vào thời nhà Lê, thế kỷ 17. Tư liệu VN nói: Kinh là dân tộc đa số của VN (Từ Điển Tiếng Việt nxb KHXH 1977, trang 443). Kinh là người Kinh chỉ đơn giản vậy thôi sao? Thời cổ đại cách nay 5000 năm, đã có vua thì vua nào dân nấy. Vua là Kinh Dương Vương thì dân là Dân của Kinh, hay gọi là Dân Kinh. Nhưng “Dân Kinh” = Dinh, dân ấy là dinh lũy bền vững cho vua Kinh Dương Vương. Vua là Khan thì dân là Dân của Khan, hay gọi là Dân Hãn. Nhưng “Dân Hãn” = Dãn = Dấn = Lấn = “Lấn Trước” = Lược, vì họ sống du mục, (ngô ngoài đồng của dân trồng trọt mới ra bắp non thì cả bầy ngựa của dân du mục đã ào đến gặm sạch), từ đó mà có từ xâm lấn, xâm lược. Thời Kinh Dương Vương, quan hệ xã hội là “Kinh với Dân” = Cân = Công = Đồng = Đẳng = Bằng = Bình = “Cân Bình” = Kinh (còn “Dân với Kinh” = Dinh = Dính, là dinh lũy bền vững). Về biểu ý của chữ nho thì “Cân Bình” = Kinh, nên chữ Kinh 京 viết rất cân đối theo chiều bổ dọc đôi, nó gồm ba phần là Đầu 亠, Mình 口, và Túc 小. Đầu là cái chui ra trước tiên khi con người ra đời, nó là cái Trước (về thời gian), nó có Óc ở trong Ốc sọ, nên còn gọi là “Trước Ốc” = Trốc, che ngoài Trốc có Toóc (như “vỏ ngoài của thân cây lúa” = “Toóc”, tiếng Huế). “Toóc che cho ốc sọ và Óc” = Tóc. Mình 口, viết bằng Vuông 口, tiếng Việt Đông đọc Vuông 口 là Mảnh, Mảnh=Mình. Vuông=Văn, “Văn bằng” hay “Mảnh bằng” cũng thế cả. “Mảnh thân này có sá chi” hay “Mình này có sá chi” cũng thế cả. Câu đầu trong sách dạy nhân thể học là “Cơ thể người ta gồm có ba phần: Đầu 亠, Mình 口, và Chân Tay 小”. Chân Tay có từ chung là Túc (cũng như Ăn Uống có từ chung là In = Ẩm). Túc đã theo QT Nở mà nở ra Tay và Tấn. Đứng Tấn là một thế võ đứng không động, tức “Chỉ Tấn” = Chân. Chỉ là “Chẳng Đi” = Chỉ止. Đứng “Chẳng Đi” đã cho ra từ viết bằng chữ nho là Đình Chỉ, vì người Kinh họ nói như thế. “Đứng của tiếng Kinh”= Đình 停 (dấu = ở đây thay cho “còn gọi là”). Túc=Tiểu, nên trong chữ Kinh 京 ý Túc được đại diện bằng chữ Tiểu 小, vì thực tế Tay Chân là cái nhỏ của cơ thể (Nick không có tay chân mà còn làm nên cái vĩ đại cho thế giới thấy). Mình=Mảnh=Vành Vạnh=Vuông=Văn. Chữ Kinh chỉ rõ là một cơ thể con người, đó là một Kẻ. Kẻ ấy có hai cái Minh trong trí tuệ, nên gọi là “Kẻ Minh” = =Kinh. Nó xưng là “Một Kinh”= Mình, vì trong mình nó có hai cái Minh, “Minh Minh” = Mình, 0+0=1. Minh ấy là Sáng, do Sáng = Láng (=Lượng 亮) =Linh, “Kẻ Linh” = Kinh. Hai cái Minh ấy là Minh dương và Minh âm. Minh dương là Sáng Lâu, viết biểu ý bằng cái ánh sáng gọi là Nhật 日 là của Trời và cái ánh sáng gọi là Nguyệt 月 là của Trăng (Trời đã cho ra những cái tên chỉ ánh sáng của Trời là: Trời=Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật, nó là cái còn mãi mãi), thành chữ Minh 明. Minh dương là Sáng Lâu thì lái ngược lại Minh âm là Sâu Láng = Mầu Linh (Sâu=Mầu, Láng=Linh), “Mầu và Linh” = Minh 冥, vì là âm, nên viết phải lái ngược là “Mịch 冖 Viết 曰 Lâu 六”= “Mầu Viết Linh”. Viết 曰 = Van=Vân Vân = Và = Na = Nói = Nài. Có là người Việt thì mới gọi Nói là Viết, khi lướt hai từ “Việt Nói” mà không lấy rỡi của từ sau, chỉ lấy thanh điệu của từ sau (gọi là Lướt Lủn) thì có “Việt Nói” = “Việt sắc (dấu sắc của Nói) là Viết” = Viết. Viết nghĩa là “tiếng nói chung của nhiều người Việt”, vì “Việt Việt” = Viết, 0+0=1. (Từ điển của Viện ngôn ngữ giải thích từ Việt 越 là “từ gốc Hán”, trang 476). (Tương tự như “Giết Giết” = Diệt, 1+1=0. Diệt 滅 nghĩa là “Giết hết, làm cho không còn tồn tạị” như Từ Điển Yếu Tố Hán Việt Thông Dụng , Viện Ngôn Ngữ học, NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 100. Giải thích như LM: Diệt nghĩa là Giết Sạch, do lướt lủn, tức chỉ lấy dấu nặng của từ sau nên “Giết Sạch”= “Giết nặng Diệt”= Diệt (như là đánh vần), kết quả sau cùng của Giết và Diệt đều là -Ết = Chết = Hết. Giết thì chưa chắc đã chết hết, nhưng giết nặng tay thành ra Diệt thì chết sạch sành sanh. Vậy mà từ điển trên xếp chữ Diệt 滅 là “từ gốc Hán” (vì nhìn thấy có viết bằng chữ nho), lại không thấy bố mẹ đẻ ra từ Diệt là từ Giết ( Giết của Hán ngữ là “Sha 殺”, Diệt của Hán ngữ là “Mie 滅”, Sha với Mie có logic gì với nhau bằng Giết với Diệt không? Kể cả đúng với toán học nhị phân: Giết Giết = Diệt, 1+1=0, là không còn một mống). Nôm Na là Vuông 口 Nam 南 (= 喃)Nói = Vuông Lam Nói = Văn Lang Nói. Pạc Và là tiếng Việt Đông. Pạc Và = Bạch Nói ( Dân tộc Bạch từng rút lui về nam lập nước Đại Lý tồn tại 400 năm ở Vân Nam, đất xưa Văn Lang, sau bị Nguyên diệt. Người Bạch có phải là hậu duệ của Bách Việt không? Có học giả TQ nghiên cứu về ngôn ngữ nói: nhiều từ gốc của người Bạch giống từ gốc của dân vùng đồng lầy Vân Mộng , bắc Động Đình Hồ. Có người Bạch ở Đại Lý thì nói: dân tộc tôi không có chữ viết - hay đã bị mất? - nên chúng tôi bị mất mát rất nhiều bản sắc). Sáng=Láng=Lượng=Linh=Minh, cái “Kẻ Minh”= Kinh ấy gọi là Kinh ( chú giải của Thuyết Văn Giải Tự: “ Kinh là cái tuyệt cao của con người”- Đoạn Ngọc Tài 段 玉 裁, đời Thanh. Tuyệt cao đây không phải là cao mấy mét hay cao chức cao quyền, tuyệt cao đây là cái trí tuệ, thì đích thị nó là “Cao Minh” = “Cân Minh” = “Kẻ Minh”= Kinh. Người Kinh tự xưng là “Một Kinh”= Mình, tự gọi cơ thể mình là “Một Sáng”= Mạng, và “Mạng Sống”= Mống. VD “Nhà mày đẻ được mấy Mống rồi?”, “ Diệt cái thói xâm lược cho nó chết sạch không còn một Mống”. Trong Từ Điển Tiếng Việt đã dẫn, không có từ Mống = ”Mạng Sống” này, nhưng có từ Mống cụt, được giải thích là Mống cầu vồng cụt , VD “Mống vàng thì nắng, Mống trắng thì mưa”, trang 519, đủ thấy Từ Điển đã không biết rằng nông dân cổ đại đã lướt cái “Móng cầu Vồng”= Mống, để có từ Mống ở trường hợp này, cũng như khi hột lúa bị ướt thì nhú cái mầm sống của nó ra, nông dân cổ đại đã lướt “Mầm Sống”= Mộng, cho trường hợp đó, gọi là lúa lên mộng. Người Kinh khi thưa thì nói Dạ! “Tôi Dạ!”= Tạ, “Tôi Rõ!”= Tỏ, “Dạ Rõ” = “Dạ Tỏ” nên Dạ ấy nghĩa là Sáng. Con người có hai cái Sáng vì vậy gọi là Sáng Dạ, chia ra Sáng đại diện sáng dương, Dạ đại diện sáng âm, nên sau nho lấy chữ Dạ đại diện cho đêm. Sáng và “Trong Sạch” = Trạch. Đầm Dạ Trạch là đầm vừa sáng vừa trong sạch. Bức hoành ở chùa Ông Bổn ( hội quán Phúc Kiến tại tp HCM) có viết bốn chữ từ phải sang trái (ý là người xưa dặn dò) là Trạch Cập Lân Phong 澤 及 鄰 封, nghĩa là đem (tấm lòng) trong sạch mà cập bến của vùng láng giềng gần. Chữ “Láng giềng Gần” = Lân 鄰. Chữ “Phát cho đất trong một vùng=Vòng” = Phong (Chữ Phong 封 gồm hai bộ Thổ 土 , ý là được nhiều đất, và bộ Thốn 寸 , ý là có đo đạc đàng hoàng, chữ Phong 封 dùng làm đại diện cho Vùng, nên còn biến ý là “vòng kín, niêm phong”. Phong là Vùng nên mỗi Phong có tục lệ riêng (“đất lề quê thói”) gọi là Phong Tục, về sau họ chỉ căn cứ vào cái âm “phong” nên dùng chữ Phong 風 nghĩa là gió để ghép từ Phong Tục, nghĩa là “tục của gió”? sai cả biểu ý . Người dương sẽ đọc từ trái sang phải là Phong Lân Cập Trạch, nghĩa là “(đến ở) vùng láng giềng gần (thì nguyện) theo kịp cái sáng”, nói lên tâm nguyện đến ở vùng láng giềng gần thì phải tích cực hướng tới cái sáng. Người Kinh tự xưng là Mình, cũng tự xưng là Ta. Ở câu ca dao “Mình về có nhớ Ta chăng. Ta về Ta nhớ hàm răng mình cười” thì biết ngay là có hai người đang nói với nhau. “Ta với Mình tuy hai mà một. Mình với Ta tuy một mà hai”, bởi mỗi người đều có ở trong Mình hai cái Minh. Ở trong Mình có cái “Ta Âm”= Tâm. Tâm Linh nghĩa là cái Tâm ấy nó cũng sáng. Ở trong Mình có cái “Ta Dương”= Tướng (Tướng=Tượng=Tạng=Dáng). Tướng là sự thể hiện trí tuệ của người trên nét mặt người đó, tức trên “Mặt Tao”= Mạo, nên còn gọi là Tướng Mạo. VD: “Anh coi giùm cái Tướng cho tôi với” hay “Anh coi giùm cho tôi cái Tướng Mạo”. Con người là Sáng Dạ, cho nên nó Sáng Giá, vì nhấn ý Dạ là “Dạ Dạ”= Giá, 0+0=1. Mà nhấn ý Sáng thì “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Sáng Giá là Sang (0) và có Giá (1) cũng là đủ cân bằng âm dương như 0 và 1. Tại sao người Kinh đã tự xưng là “Một Kinh”= Mình rồi lại còn tự xưng là Ta? Bởi người Kinh đã có nền Đông Y cổ đại, bao gồm cả thuật châm cứu, từ thời Thần Nông (Kênh Lạch = Kinh Lạc). Nền y học ấy cho rằng con người là một tiểu vũ trụ, tức con người là Tất Cả đuợc gói gọn thu nhỏ lại: “Tất Cả”=Ta (= Nhà = Ngã 我 = Gia 家 = Giả 者, là những từ xuất hiện sau). Sự sống nhờ Nước và Không Khí. Cái NÔI khái niệm bản chất Trong Sáng = Trong Suốt của Nước (H2 O) và Không Khí chủ yếu là dưỡng khí (O 2) là: Nước=Nuột (nuột nà)=Suốt=Sáng=Sóng=Trong=Thong (thong dong) = Thấu = Thanh = Thông = =Không=Khí=Khuổi=Huổi=Hơi. Riêng Nước còn có thể sờ thấy được, Không Khí thì không thể. Nhìn vào H2O thấy ngay Nước có hai cái minh là H2 không sờ thấy được, cũng như trong dưỡng khí cũng có hai cái minh và đều không sờ thấy được, là O2. Vậy bản chất hai cái Minh trong Ta và trong Nước hay trong Không Khí là như nhau, làm ô nhiễm Nước hay Không Khí thì Ta cũng chết. Ngôn từ Việt đã chỉ rõ Tất Cả. Vậy mà hai cái Minh cân bằng nhau trong Mình lại là tên của hai tộc người là Kinh và Thái, con cháu của Rồng và Tiên (của Lạc Long Quân và Âu Cơ). “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh. Kinh tự xưng là Ta (ngôi Một). “Ta sinh ra Hai”= “Ta sinh ra Hay”= Tày (đó là dòng thứ đầu). Ta lại sinh ra dòng “Thứ Hai”= Thái. Ta sinh ra dòng “Thứ Ba”= Tha. (Thường dùng từ “tha nhân”. Hán ngữ dùng chữ Tha chỉ ngôi thứ ba, phát âm chính xác là “tha”). Xưng Ta là ngôi Một thì chính trong Ta có hai cái sáng là “Minh Sáng”= Mạng. Ta là ngôi Một thì chính Ta đã sinh ra cái “Mạng Hai”= “Mạng Hay”= Mày; khẳng định thì nói Ta đã sinh ra “Mày Chứ!”= Mừ. Mừ là ngôn xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái. Vậy Tày-Thái là dòng Chứ=Chư=Thứ, so với Kinh là dòng “Kinh Ả”= Cả. Thủa tiền sử là thời mẫu hệ, Ả nghĩa là người đàn bà, tiếng Mường và tiếng bắc Trung Bộ vẫn gọi chị là Ả. (Tiếng Mường có Ả-Ún là Chị-Em, Eng-Ún là Anh-Em. Những từ trên đã QT Nở mà nở sinh đôi từ cái tế bào O, ở giữa từ Nòi của NÔI, O tiếng Trung Bộ nghĩa là cô gái “Ơi O chèo đò trên dòng sông Hương”, O nở ra Ả(1) / Ún (0) và đồng thời nở ra Anh(1)/Em(0) là hai cặp đối sinh đôi). Cái tên Kinh nghĩa là sáng: Kinh = Bình Minh. Cái tên Thái cũng nghĩa là sáng: vd câu “Hết thời bĩ cực đến ngày thái lai”. Nếu đọc báo miền Nam trước 1975 ắt gặp câu “Việt Nam và Thái Lan là hai dân tộc anh em ruột thịt”. Kinh và Thái là có trước rồi mới sinh ra Việt là con của Rồng Tiên. Chữ Việt 粤 bộ mễ đã chỉ rõ như vậy. Chữ Việt 粤 gồm bộ Vuông 口= Vành Vạnh = =Mảnh = Mình 口 = Kinh và bộ Thái 采, dưới có cái Cày. Chữ Thái 采 nghĩa là sáng, gồm Tia=Phía=Phẩy là nét phẩy xiên phải sang trái (mặt trời mọc đàng đông) từ trên xuống dưới (từ trời xuống đất), dưới là bộ Mễ 米, chính là các tia mặt trời trên trống đồng, mặt trời được tôn làm mẹ của dân Lửa là dân trống đồng, chính là Mẹ (Kinh)= Mế (Tày)= Mè (Lào)= Mệ (Huế)= Mễ 米, nho cũng dùng chữ Mễ 米 này ám chỉ Gạo (Kinh)= Khao (Thái) của dân lúa nước, vì mẹ là bầu sữa, là miệng nhai cơm sún cho con sơ sinh ( “Sẻ nhỏ giọt cho Ún” = Sún= Bún = Bột = Búng. Ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”). Bản thân thiên thể Mặt Trời cũng là hai cái sáng, gọi là Dương Sáng, tiếng các sắc tộc ở Tây Nguyên gọi là “Dương Sáng”= Giàng. Hán ngữ dịch ý Dương Sáng , đảo là Sáng Dương = Thái Dương, chỉ mặt trời. Ngày nay khai thác năng lượng mặt trời thì gọi là Thái Dương Năng. Nhưng Năng là cái tế bào của NÔI Việt nên tế bào Năng QT Nở mà thành Nắng (1) / Nước (0). Lưỡng Quảng xưa còn có tên là Lưỡng Việt, nói thứ ngôn ngữ gọi là Việt ngữ 粤 语 (tiếng Việt Đông, tiếng Quảng Đông, tiếng Canton), khác với tiếng Quan Thoại (tiếng Mandarin - do phiên âm chữ Mãn Thanh). Tiếng Quảng Đông , người Quảng Đông gọi là Pạc Và tức Bạch Nói (Bạch Thoại). Nhưng Bạch thì có nhiều lắm, còn gọi là bách tính tức trăm họ, “Bạch Bạch”= Bách, 0+0=1, nên Bạch Thoại cũng chỉ là một trong những ngôn ngữ hình thành do diễn biến của ngôn ngữ Bách Việt. 3. Định nghĩa người Kinh Thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Việt. Âm Dương là từ ghép xuôi dùng để nói về thế giới con người trên mặt đất, (“Con người đứng giữa Đất Trời”- có đất thì mới có chỗ đứng- khi nói ngang ngược thì “Vốn đã sinh ra trong Trời Đất” – ý là từ trên trời giáng thế). Nếu là nói về vũ trụ thì ghép là Dương/ Âm = Càn/ Khôn = Cả/ Tất = Còn/ Khuất = Trời/ Đất = Tròn/ Vuông = Trọn/Vẹn = Hoàn /Toàn. Con người sinh ra trên đất, nên ghép xuôi Âm/Dương = Tất/ Cả= Tạo/Hóa. Lướt thì “Tất Cả”=Ta hay “Tạo Hóa”=Ta. Người Kinh tự xưng là Ta (ý nói là đã gói gọn toàn bộ vũ trụ trong Mình). Cái Ta ấy là “Một Kinh”= Mình. Cái Ta ấy có “Ta Dương”= Tướng thì Sáng Lâu, và có cái “Ta Âm”= Tâm thì Sâu Láng. Cái Sáng Lâu là ánh sáng gọi là Nhật 日 của Trời và ánh sáng gọi là Nguyệt 月 của Trăng, ghép thành chữ Minh 明 dương. Cái Sâu Láng = “Mầu Linh”= Minh âm, viết bằng chữ lái ngược Mịch 冖 Và 曰 Lâu 六 (lái là Mầu Và Linh) thành chữ Minh 冥 âm. Hai cái Minh tức hai cái Sáng. Cái “Sáng Dương” = Sướng (là cái trí hanh thông). Cái “ Sáng Âm” = Sấm (là cái trí tuệ tiên tri). Sấm=Sới, Sới võ là nơi đấu võ bằng trí tuệ. Cái Ta ấy là “Ta Một”= Tốt (“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa). Một Kinh = Một Cây = One Kind = O.K. Kinh Dương Vương là Tổ của Bách Việt. “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” ( trích Ngọc Phả Hùng Vương, lưu tại đền Hùng, Phú Thọ). Ta một, là Kinh Dương Vương thì phải đẻ ra “Thành ta Hai”= Thái. “Ta Hai”= “Ta Hay”= =Tày. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta giống cả tâm lẫn Tướng”= Mường. “Giống Kinh Dương Vương đẻ ra dòng Tao”= =Dao. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta rất Giống”= Mông. Vân vân và vân vân. Còn Bé thì Bú, Bú hết rồi thì ăn Bột, rồi mới biết Bò, rồi mới biết Bước. Lớn lên mới có thể Bước=Vược=Vượt. Kinh=Canh=Oanh. Vượt của dân canh Lửa = =“Vượt của dân oanh Liệt” = Việt (“Con hơn cha là nhà có phúc” 4. Người Kinh và chữ nho Kinh 京 Chữ nho, còn gọi là chữ vuông, là loại chữ biểu ý của người Việt, viết gom các ký tự tượng hình và tượng thanh vào trong một ô vuông mường tượng (mường tượng là hình dung ra cái vô hình, “Tướng Tướng”=Tượng,1+1=0; “Mắt nhìn thấy nội dung thể hiện qua Tướng”= Mường), tức là cho các ký tự “Về Ổ”= Vô. Và “Vô cái ô vuông mường tượng như là In”= Vin. Để vin vào biểu ý đó mà hiểu nghĩa chữ. Cụm từ “vuông Chữ Nho nhỏ” ấy đã bị QT Vo làm vò rụng mất đầu “vuông” và đuôi “nhỏ” còn lại cái lõi là Chữ Nho. Chữ=Trữ 貯 =Tự 字 =Tự 嗣, một Tự 字 nghĩa là nối dòng văn hóa, một Tự 嗣 nghĩa là nối dòng huyết thống. Kinh nghĩa là “Cái đôi Minh”= Kinh, “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh, đó là “Kẻ Minh”= Kinh, là cơ thể một con người, gồm Đầu 亠 Mình 口 và Chân Tay 小, thành chữ Kinh 京. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh= “Mảnh của kẻ Minh”= Mình. Tiếng Việt Đông đọc chữ Văn 文 là Mảnh. Mảnh lại có nghĩa là một mình, “Ăn Mảnh” là ăn một mình không cho ai biết, VD: “Trình Văn Bằng làm gì, còn phải căn cứ vào năng lực thực tế chứ vin gì vào Mảnh Bằng”. Ấy vậy mà các vị hàn lâm cứ giải thích trong các Từ Điển rằng từ Văn 文 là một “từ gốc Hán”, là “từ Hán Việt”. Chẳng khác gì “Gắp (cắp) của mình bỏ sang tay người” hay là “Nối dáo cho xâm lăng văn hóa”. Cái Lõi văn hóa của một dân tộc không phải là cái “Ruột Rỗng”= Rống (“thùng rỗng kêu to”) mà là cái “Ruột Đặc”= Rặc. Xưa nay bọn ngoại xâm là bọn muốn diệt cái Rặc của một dân tộc, bọn ấy gọi là bọn “Diệt của kẻ khác cái Rặc” = Giặc. Hãy nghe câu thơ “phồn thực” của Hồ Xuân Hương: “Cọc nhổ đi rồi Lỗ bỏ không”. Và hãy lướt “Kẻ Rặc”= là cái gì, với “Lõi của giống nòi là cái nõn viết bằng chữ Nộn”= là cái gì. Lõi là cái Nõn, còn Cặc=Cương=Nường, là cặp sinh thực khí: Nõn/Nường = Âm/Dương (ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Chữ ký âm xưa là chữ Nòng/Nọc = Dương/Âm. Dùng cấu trúc theo vũ trụ là Dương/Âm, ghép ngược cấu trúc theo mặt đất là Âm/Dương, ghép theo cấu trúc vũ trụ vì chữ là do Trời cho (Hán sử gọi là Thiên Thư). Tùy tiện giải thích ngôn từ Việt thành “từ Hán Việt” có người cho rằng là để cho nó “sang”. Lại không thấy người Kinh thì mới là “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Và cái “Sáng Âm”= Sấm ( trí tuệ tiên tri, tiềm năng con người) của người Kinh mới là đem lại được bình an cho Đất Trời = Tất Cả (Cả=Còn=Tròn=Trời=Ngời=Người). Cái Ngời Ta = Sáng Tất Cả. Nâng cao dân trí mới là cái quan trọng nhất chứ không phải là đua nhau khoe cái Mảnh Bằng. Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng, Giáo sư Cao Xuân Hạo trong cuốn sách “Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt” của ông có nêu: Cốt lõi của cú pháp tiếng Việt là Đề và Thuyết. Phân tích bốn từ Tiếng - Văn - Người - Việt: (1).Tiếng = Miệng = Miếng = Mẩu= Khẩu 口 = Mầu 妙 = Trầu = Giầu = Diệu 妙, nôi khái niệm này gói trọn cái nội dung “ăn nói” (Tục ngữ “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, có lẽ đã có cách nay 5000 năm, khi người Việt có tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Tứ đối Mun/Minh, Mun = Hun = Hôn 昏 = Hoen Hoẻn = Hắc 黑, em hôn anh một cái là em đã hoen một vết son lên má anh, son Hàn Quốc bây giờ còn có màu thâm, Đen = Hoen = “Hoen Tuyền”= Huyền 玄, “Răng đen nhưng nhức hạt huyền”). Cốt chuyện thì rất Mầu vì là chuyện cổ tích (như “Thị Mầu lên chùa”), và lời kể thì rất duyên, Chuyện = Duyên 緣 = Diệu 妙 = Điệu 窕, đó là cách biểu diễn văn học. (2,3,4).Vuông=Văn=Nhắn=Nhiệt=Nguyệt=Ngời=Người. Người Việt làm Ruộng (Vuông) , ở xứ nóng (Nhiệt), là cái Sáng (Ngời) do Trời cho (Trời=Ngời). Sáng = Choang = Quang = Láng = Lượng = Linh = Minh = Một Mình = Một Manh = Mảnh = Vành Vạnh = =Vuông = Văn = Nhắn = =Nhân = Dân = Cân = Canh = Kinh: Người Việt bắt đầu từ người Kinh. Ký ức của Nhân Dân từ vạn năm trước là cái Sáng = Sống =Sinh Động như cái Nhân của hột giống luôn Canh cánh trong lòng Nhắn (Nhắn=Gắn=Gen) lại cho các thế hệ sau tìm và chắp lại cho đủ cái Minh của người Kinh. Tư duy con người đã từ Phân Tích (thời chữ ký âm Nòng Nọc) đi đến Tổng Hợp (thời chữ Vuông biểu ý: Chứa = Chữ = Trữ 貯 = =Tự 字 = Tự 嗣, trong đó Chứa=Chữ=Tự 字 là nối dòng văn hóa, Chứa=Chửa=Tựa=Tự 嗣 là nối dòng huyết thống, cái Gen chính là điểm Tựa để di truyền nòi giống (có cùng Gien thì mới Giống như Tựa hay giống như Tạc, tiếng Nhật “O-Na-Di Đếx Né!” nghĩa là “Nó-Na Ná-Giống Đấy Nhé!”). Phân Tích đến Tổng Hợp là hết một vòng. Lại tiếp đến vòng mới bắt đầu bằng Phân Tích (chữ quốc ngữ bằng mẫu tự Latin, lịch sử lặp lại ở đỉnh cao hơn). Như ngày nay con cháu người Kinh (người Sáng), người Choang, người Thái, người Tày, người Mường, người Mông v.v. và v.v, đều là hậu duệ của Bách Việt, đang Phân Tích các ứng dụng của Âm Dương Ngũ Hành đến Kinh Dịch rồi Tổng Hợp để “Thấu Lấy”= Thấy được cái Minh của Tổ Tiên mình.
    1 like
  8. Việt Nam ký Hiệp định nước chủ nhà với Tòa trọng tài thường trực Thanhnien Online 23/06/2014 19:50 Ngày 23/6, tại Nhà khách Chính phủ, thay mặt chính phủ Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn ký Hiệp định nước chủ nhà và Thư trao đổi về hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tòa trọng tài thường trực (PCA) với ông Hugo Hans Siblesz, Tổng thư ký Tòa trọng tài thường trực. Với việc ký kết Hiệp định nước chủ nhà với PCA, Việt Nam chính thức công nhận PCA có tư cách pháp lý cần thiết để tiến hành các hoạt động giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế thông qua trọng tài, trung gian, hòa giải và ủy ban điều tra, cung cấp các hỗ trợ thích hợp khác liên quan đến hoạt động giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế do PCA tiến hành tại Việt Nam, cũng như tiến hành các hoạt động hợp tác với Việt Nam. Chính phủ Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động này của PCA tại Việt Nam. Với việc ký kết Thư trao đổi về hợp tác, Việt Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ của PCA trong việc đào tạo cán bộ pháp lý. PCA sẽ cung cấp cho Chính phủ Việt Nam các thông tin chung hoặc tư vấn về các vấn đề thủ tục thuộc quy trình trọng tài quốc tế do PCA điều hành. Sau Lễ ký, Phó Thủ tưởng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh tiếp Tổng thư ký Tòa trọng tài thường trực. Tại buổi tiếp, Phó Thủ tướng đánh giá cao vai trò của PCA trong việc hỗ trợ các quốc gia giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế bằng thủ tục trọng tài. Phó Thủ tướng cũng hy vọng rằng việc ký kết Hiệp định nước chủ nhà và thư trao đổi về hợp tác giữa Việt Nam và PCA sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai bên và bày tỏ mong muốn nhận được sự hỗ trợ của PCA trong việc đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ pháp lý Việt Nam để phục vụ đất nước trong quá trình hội nhập. Theo TTXVN
    1 like
  9. Alaska rung chuyển vì động đất 7,9 độ Richter 24/06/2014 08:31 (GMT + 7) TTO - Sáng nay 24-6 theo giờ VN, người dân quần đảo Aleutian ở Alaska (Mỹ) đã phải di tản tới vùng cao sau khi một trận động đất mạnh tới 7,9 độ Richter xảy ra, dẫn tới cảnh báo sóng thần. Khu vực quần đảo Aleutian ở Alaska - Ảnh: WIkipedia Theo hãng tin AFP, trận động đất có tâm chấn ở độ sâu 112 km, cách hòn đảo hoang vắng Little Sitkin khoảng 24 km về phía đông nam. Ngay sau đó hàng loạt đợt dư chấn mạnh xảy ra, trong đó có một đợt mạnh 6 độ Richter. Trận động đất không gây thiệt hại đáng kể. Tuy nhiên sau đó Trung tâm Cảnh báo sóng thần quốc gia Mỹ vẫn đưa ra cảnh báo sóng thần ở các khu vực duyên hải từ Nikolski trên đảo Umnak tới đảo Attu ở phía tây quần đảo Aleutian. Ông Lockett cho biết người dân địa phương luôn có sự chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với động đất và sóng thần. Đây là trận động đất mạnh nhất tại Alaska kể từ năm 1965. NGUYỆT PHƯƠNG ================ Chưa tới 100 ngày kể từ khi bức xạ mặt trời phóng xuống trái Đất. Nhưng thiên tai năm nay không phải chỉ lệ thuộc vào bức xạ mặt trời. Sẽ còn những trận tương tự hoặc mạnh hơn.
    1 like
  10. Cho dù tay hướng dẫn viên phát biểu vậy và ngay cả tất cả những người dân Hồng Kông cùng phát biểu như thế.thì ít nhất nó không phải tính chính thống của lời phát biểu. Nhưng chắc chắn tay phụ trách du lịch Hồng Kông không phát biểu như vậy.
    1 like
  11. Cái tên gọi của quẻ Khôn 坤 Khôn 坤, Hán ngữ phát âm là “Khun” [ 坤 pinyin: Kun] mang nghĩa là “tên một quẻ trong bát quái”, biến cách dùng thành từ để chỉ nữ giới. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Anh trai (thời cổ) cũng gọi là “Khun” ( đây là từ cổ, gốc do từ Phò Khun của tiếng Lào, dùng chữ nho Khôn 坤 để phiên âm từ Khun của tiếng Lào), sáng sủa (thời cổ) cũng gọi là “Khun” (đây là do phát âm lơ lớ từ Khôn của TV, “trí sáng sủa người khôn ngoan”), côn trùng cũng gọi là “Khun” ( đây là do dùng âm “Khun” của chữ nho Khôn 坤 để phiên âm từ Con , rồi “Khun” phiên âm từ Trùn của TV, mà từ Con Trùn thì nho viết bằng hai chữ Côn Trùng). Tiếng Việt có nôi khái niệm: Dĩn=Gián=Giun=Trùn=Trùng=Sùng=Khùng=Khuẩn nói chung đều thuộc họ côn trùng. Cái quẻ tượng trưng Đất, người Việt đặt tên nó là Khôn, là khôn ngoan, như nôi khái niệm Khôn = Khoe = Khỏe = Khang = ”Khỏe Làm” = Kham (giỏi chịu đựng) = Ham = Lam = =Làm = Tham Lam = “Làm Nặng” = Lạm = Lụng = Lượng = Láng = Sáng = Hoàng = Hừng. Ngược với Khôn là Dại = “Dại Ạ!” = Dã = Dấm = =Dúi = Túi = Tối = Hối. Cặp đối Dại/Khôn = Hối/Hửng. Thế giới của Khôn là thế giới văn minh, sáng sủa, làm ra của cải, nuôi dưỡng sự sống. TVGT: 坤 Khôn, 地 địa 也 dã (Khôn là Đất)。《易 dịch》 之 chi 卦 quái 也 dã (là một quẻ trong Dịch) , là cổ văn, đọc thiết “Khổ 苦 Côn 昆” = Khôn 坤. TVGT: 土 thổ 位 vị 在 tại 申 thân 也 dã (chỗ của thổ xếp ở Thân)。 坤 Khôn 正 chính 在 tại 申 thân 位 vị (Khôn xếp tại chỗ của thân), ở vị trí của Thân trong địa can. Địa can Thân tượng trưng cho “tu Linh” (tiếng Tày là con khỉ) hay “tủa Lính” (tiếng Hmông là con khỉ). Linh là cái tên chung xưa nhất của loài động vật họ linh trưởng đó. Từ Linh là tên con Linh ấy đã theo QT Nở mà nở ra từ dính chỉ tính cách của nó là Linh-Lợi = Lanh-Lẹ. Do quẻ Khôn 坤 nằm ở vị trí của địa can Thân 申, nhấn mạnh Khôn là “Khôn Chi!” = Khỉ, thành ra Khỉ trở thành cái tên mới của tu Linh. Thân 申 từ chỗ tượng trưng cho tu Linh trở thành tượng trưng cho con Khỉ. Người xưa của các dân tộc khác tiếp thu Bát Quái của người Việt cổ, chỉ biết rằng chữ Khôn 坤 là tên quẻ Khôn 坤, phải bắt chước phát âm giống như thế khi đọc nó, là “Khôn”, “Khun”, hiểu nó là tượng trưng Đất, còn tại sao lại gọi là Khôn (Nghệ An phát âm là “Khun” giống như Hán ngữ phát âm “Khun”[ 坤 pinyin: Kun] ) thì không biết. TVGT: 坤? Khôn 特 đặc 造 tạo 之 chi (Khôn là gì? Đây là một từ đặc biệt được tạo ra). Chẳng có gì đặc biệt cả. Chẳng qua là Bát Quái là của người Việt, người Việt đã lấy từ Khôn của khái niệm Khôn trong tiếng Việt mà đặt tên cho cái quẻ tượng Đất là quẻ Khôn 坤, viết biểu ý là đất (chữ Thổ 土) phô bày ra (chữ Thân 申) Các chuyển nghĩa của từ Khôn: 1/ Do Khôn tượng đất, đất thuộc âm, nên Khôn Trạch 坤 宅 chỉ nhà gái, Càn Trạch 乾 宅 chỉ nhà trai. 2/ Khôn Linh 坤 伶 xưa chỉ người con gái làm nghề biểu diễn. Khôn 坤 chỉ phái nữ, Linh 伶 là “tu Linh” (tiếng Tày là con khỉ), hay nuôi nó làm trò. 3/ Bổ Xuyết Càn Khôn 补 缀 乾 坤là vá thêu trời đất ngụ ý là trị lý quốc gia. 4/ Càn Phù Khôn Trân 乾 符 坤 珍 nói cái quí hiệu của Trời Đất 5/ Tụ Lí Càn Khôn 袖 里 乾 坤 ý nói giấu cả Trời Đất trong tay áo, ngụ ý ảo thuật biến hóa vô cùng. 6/ Khôn Dục 坤 育 ngụ ý cái đức của người Mẹ, như Trái Đất nuôi nấng vạn vật. 7/ Khôn Nguyên 坤 元 là nói cái đức của Trái Đất là sinh ra vạn vật. 8/ Khôn Hậu 坤 厚 là cách văn vẻ chỉ đất dày 9/ Điên Càn Đảo Khôn 颠 乾 倒 坤 là đảo lộn trời đất
    1 like
  12. Cái tên của quẻ Càn 乾 Càn 乾, Hán ngữ phát âm là “Can” [ 乾 pinyin: Gan], dùng chữ Can 乾 nghĩa là khô, rỗng, không thật, phớt lờ để phiên âm từ Càn là quẻ Càn. Các từ đồng âm dị nghĩa là: Quấy rối cũng gọi là “Can”, cây cột cũng gọi là “Can”, lá gan cũng gọi là “Can”, ngọt cũng gọi là “Can”, quả cam cũng gọi là “Can”. Tiếng Việt có nôi khái niệm: Khô=Khan=Khản=Cạn=Hạn-Hán=Hơi=Hời-Hợt=Hổng=Rỗng=Rời Rạc. Chữ “Can” này được mượn để phiên âm nhiều từ Việt như Cạn chén, Cán cuốc, lá Gan, trái Cam, Gượng Gạo. Tất cả đều không liên quan gì đến từ Càn 乾 chỉ quẻ Càn 乾 tượng trưng Trời. Chỉ có Trời = Tròn = Còn = ”Còn Chán” = Càn = Càng = Giàng = Dương, mang nghĩa là bất diệt, nên tiếng Việt còn có từ làm càn, càn quấy; muốn làm Càn còn gọi là “muốn làm Trời gì thì làm!”.Cái đòn Xóc hai đầu để gánh hai bó lúa đã gặt còn gọi là cái đòn Càn, vì nó tượng trưng cho Dũng (Xóc=Dọc=Dũng="Dũng Làm"=Dám="Có Dám"=Cảm, thành từ đôi Dũng Cảm, chỉ cái đòn Càn, là công cụ lao động thời bình, là vũ khí diệt giặc xâm lăng thời chiến), Càn trong tên cái đòn càn chỉ là sự chuyển nghĩa của chữ Càn 乾, chỉ sự dám làm trong mọi tình huống. Càn 亁 có hai cách đọc là [qián “Txén”] Kiền = Càn [gān “Can”] và cũng có hai “dị thể tự” là 乹、亁. TVGT: 亁 Càn, 上 thượng 出 xuất 也 dã (càn là hiện ra bên trên)。此 thử 乾 càn 字 tự 之 chi 本 bổn 義 nghĩa 也 dã (đây là bổn nghĩa của chữ càn)。自 tự 有 hữu 文 văn 字 tự 以 dĩ 後 hậu (kể từ sau khi có chữ viết)。乃 nãi 用 dụng 爲 vi 卦 quái 名 danh (vẫn dùng làm tên quẻ)。而 nhi 孔 Khổng 子 Tử 釋 thích 之 chi 曰 viết (mà Khổng Tử giải thích là do người Việt nói). Chữ Viết 曰 có nghĩa là nói, nhưng cụ thể là người Việt 越 nói, vì lướt lủn “Việt Nói” = Viết 曰(tương tự như lướt lủn “Giết Sạch” = Diệt 滅, “Văn 聞 Lắm” = Vắn nghĩa là nghe nhiều, như mục quảng cáo Tin Vắn trên báo là tin nghe nhiều, tin tào lao, khác với Tân Văn 新 聞 là mới nghe, của Hán ngữ dùng dịch chữ News). Chữ Việt 越 và chữ Viết 曰 thì Hán ngữ đều phát âm là “Yue”, nhưng trong Hán ngữ khẩu ngữ không có khái niệm “yue” nghĩa là nói, chỉ có người Hán đọc cổ văn thấy trích “Khổng 孔 Tử 子 viết 曰…, Mạnh 孟 Tử 子 viết 曰… thì mới hiểu qua chú giải Viết 曰 nghĩa là nói (là tiếng của người đời xưa, khi đó không phải là người Hán mà là người Việt). Qua chú giải của TVGT nêu trên, đủ rõ chữ Càn 亁 và cái âm tiết Kiền = Càn là của tiếng Việt, thoạt ban đầu chỉ là một từ mới (kể từ khi có xuất hiện văn tự chữ nho – như TVGT chú giải ở trên) dùng để chỉ Trời là từ đã có sẵn từ xửa từ xưa (được TVGT hàm ý là “thượng xuất”) và duy nhất dùng làm tên của quẻ Càn = Kiền trong Bát Quái. Mọi nghĩa về sau chỉ là những chuyển nghĩa của chữ Càn 亁 mà thôi. Nhưng đâu là nguyên do trong tiếng Việt của cái âm tiết Càn = Kiền ? Đó là người Việt muốn chỉ cái ở trên Cao (“thượng xuất”) là bầu trời, nó Lan rộng và Liền tù tì: lướt “Cao Lan” = Càn, “Cao Liền” = Kiền. TVGT: 亁 Càn, 健 Kiện 也 dã (Càn là Kiện)。健 Kiện 之 chi 義 nghĩa 生 sinh 於 ư 上 thượng 出 xuất (nghĩa của Kiện sinh ở bên trên)。上 thượng 出 xuất 爲 vi 乾 Càn (bên trên là Càn)。下 hạ 注 chú 則 tắc 爲 vi 溼 thấp (bên dưới ắt phải là Thấp) 。 故 cố 乾 Càn 與 dũ 溼 Thấp 相 tương 對 đối (xưa vẫn thế, Càn với Thấp là ngược nhau). Trong đoạn chú giải này chữ Kiện 健 (nghĩa là sức khỏe) chỉ là chữ dùng để mượn âm mà phiên âm từ Kiền của tiếng Việt vốn là một cách đọc khác của người Việt đối với chữ Càn 亁. Trời thì cao ráo, Đất thì ẩm thấp. Thể hiện rất rõ trong tiếng Việt ở nôi khái niệm: Trời=Trên=Thiên=Kiền=Càn=Can=Cao=Ráo=Táo. Đó là thuộc tính dương, thấy rõ ở nôi khái niệm bên trên (“thượng xuất”) là: Cao=Càn=Giàn (chuyển nghĩa chỉ cái lan rộng bên trên cụ thể như giàn bầu giàn mướp) = Giàn = Giàng (tiếng Tây Nguyên chỉ trời) = Dương ( 陽,chữ nho chỉ trời). Ngược lại bên dưới (“hạ tắc thấp”) là đặc trưng của Đất: Thấp 溼 = Ấp = Ẩm 濕 = Âm 陰. Những chuyển nghĩa của chữ Càn: 1/ chuyển nghĩa thành chỉ vua, Càn Cơ 乾 基 chỉ đế nghiệp 2/ chuyển nghĩa thành Can=Cạn chỉ sự khô ráo, chữ Càn 乾 đọc là Can, như từ Can Táo 乾 燥, như thành ngữ Thôi Can Tựu Thấp 推 乾 就 湿 (đẩy cái khô đi, ở chỗ ướt). Lấy là Vơ = Vớ = Vội, không lấy là “Chẳng Vớ” = Chớ (“được chăng hay chớ”) = “Chẳng Vội” = Chối = Thôi 推, nghĩa là khước từ, đẩy đi . 3/ mượn âm từ Càn 乾 chỉ cái Cành (“Can Nhánh” = Cành, là đã trụi lá, Nhánh cây thì mới là còn lá, bẻ nhánh cây để che ngụy trang; Cành cây là đã trụi hết lá rồi, dùng cành cây để làm hàng rào v.v.). Cành thì Hán ngữ phải dùng hai từ là Càn Điều 乾 条 nghĩa là cái Cành ( đương nhiên trụi lá rồi), Điều nghĩa là nhánh cây, Càn chuyển nghĩa là khô rụng hết lá, không còn lá đậu.
    1 like
  13. Thiên tai tăng nặng.... ==================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Lục Ngạn được mùa vải 21/06/2014 09:15 Những ngày này, ở H.Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, đâu đâu cũng thấy những xe chất đầy vải thiều chín đỏ. Theo người dân Lục Ngạn, năm nay vải thiều được mùa lớn. Tạm tính từ đầu mùa, đến hôm qua (20.6), H.Lục Ngạn đã thu hoạch xấp xỉ 15.000 tấn vải. Đặc biệt, dù được mùa, vải thiều Lục Ngạn năm nay vẫn được giá. Vải ngon đầu mùa có lúc giá trên 30.000 đồng/kg. Hiện vải có giá 13.000 – 15.000 đồng/kg. Tuy nhiên, thị trường vẫn đang phụ thuộc nhiều vào lái buôn Trung Quốc. Đặc biệt, năm nay Bộ NN-PTNT cùng Bộ Công thương giúp người trồng vải tổ chức đường dây tiêu thụ ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ... Đây là những hình ảnh chụp hôm qua ở vùng vải Lục Ngạn. Được mùa, nhưng vải thiều Lục Ngạn năm nay vẫn không mất giá Người hái vải có thu nhập 150.000 – 170.000 đồng/ngày Đường qua thị trấn Chũ có lúc tắc vì vải Vải chất thành đống, chờ thương lái cất hàng Xếp hàng chờ đến lượt giao hàng Lã Anh (thực hiện) ====================Theo các lão nông thì những năm nào được mùa vải thì năm đó thiên tai do bão tố, mưa lớn sẽ rất nặng. Kết hợp các phương pháp dự báo của chúng tôi thì năm nay có nhiều siêu bão hơn tất cả các năm trước đây trên cả thế giới và Tây Thái Bình Dương - tính từ khi diễn đàn lyhocdongphuong bắt đầu hoạt động.
    1 like