• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 22/06/2014 in all areas

  1. Thiên tai tăng nặng.... ==================== TƯ LIỆU THAM KHẢO Lục Ngạn được mùa vải 21/06/2014 09:15 Những ngày này, ở H.Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, đâu đâu cũng thấy những xe chất đầy vải thiều chín đỏ. Theo người dân Lục Ngạn, năm nay vải thiều được mùa lớn. Tạm tính từ đầu mùa, đến hôm qua (20.6), H.Lục Ngạn đã thu hoạch xấp xỉ 15.000 tấn vải. Đặc biệt, dù được mùa, vải thiều Lục Ngạn năm nay vẫn được giá. Vải ngon đầu mùa có lúc giá trên 30.000 đồng/kg. Hiện vải có giá 13.000 – 15.000 đồng/kg. Tuy nhiên, thị trường vẫn đang phụ thuộc nhiều vào lái buôn Trung Quốc. Đặc biệt, năm nay Bộ NN-PTNT cùng Bộ Công thương giúp người trồng vải tổ chức đường dây tiêu thụ ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ... Đây là những hình ảnh chụp hôm qua ở vùng vải Lục Ngạn. Được mùa, nhưng vải thiều Lục Ngạn năm nay vẫn không mất giá Người hái vải có thu nhập 150.000 – 170.000 đồng/ngày Đường qua thị trấn Chũ có lúc tắc vì vải Vải chất thành đống, chờ thương lái cất hàng Xếp hàng chờ đến lượt giao hàng Lã Anh (thực hiện) ====================Theo các lão nông thì những năm nào được mùa vải thì năm đó thiên tai do bão tố, mưa lớn sẽ rất nặng. Kết hợp các phương pháp dự báo của chúng tôi thì năm nay có nhiều siêu bão hơn tất cả các năm trước đây trên cả thế giới và Tây Thái Bình Dương - tính từ khi diễn đàn lyhocdongphuong bắt đầu hoạt động.
    3 likes
  2. Đây là một tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất. Chí có thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt mới thỏa mãn tất cả những tiêu chí mà các nhà khoa học hàng đầu nghĩ ra, bây giờ và trong cả tương lai. * Đức Giesu nói: Cha ta sinh ra ta, ta ở trong cha ta. Cựu Ước viết: Chúa đã lấy cái xương sườn của Adam (Dương trước) làm ra người nữ là Eva (Âm sau). Tương ứng với Thái cực là cái có trước trở thành Dương khi sinh ra cái không phải nó và đối đãi với nó (Âm sau), trong Lý học Việt. Lý học Việt nói: Thái cực sinh lưỡng nghi. Thái cực sinh ra cái không phải nó và từ nó, bởi nó. Ngay khái niệm "Tự Do" của nền văn minh nhân loại, chính là xuất phát từ nguyên nghĩa này của vũ trụ: Tự là từ; do là bởi. Từ nó và bởi nó, chính là Tự do. Một dân tộc Tự Do là dân tộc tự quyết định tương lai của mình. Cho nên, ngay từ buổi bình minh của nhân loại, nền văn minh Hy La đã có nữ thần Tự Do. * Kinh thánh viết: Đức chúa Cha sinh Đức Chúa con và các thánh thần. Lý học Việt nói: Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng.... Đạo Đức Kinh (Hàm chứa trong Lý học Việt) viết: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. * Chúa Giesu nói: Ta là khởi đầu và cũng là sự kết thúc. Việt Dịch trên bãi đá cổ Sapa cũng đã nói đến điều này.... * Lời nguyện viết: Chúa ở cùng Cha và ở cùng anh chị em. Lý học Việt xác định: Thái cực - tính thấy từ nguyên thủy vô thủy vô chung, hiện hữu trong tất cả vạn vật trong vũ trụ. .......
    3 likes
  3. Trung Quốc đòi giải quyết song phương tranh chấp biển Chủ nhật, 22/6/2014 | 13:27 GMT+7 Trung Quốc cho rằng các tranh chấp hàng hải trong khu vực chỉ nên được giải quyết thông qua đàm phán trực tiếp với các nước liên quan và bác bỏ sự can thiệp của một bên thứ ba. Học giả nước ngoài phê phán hành động của Trung Quốc Trung Quốc dùng nhiều giàn khoan để lấn những bước dài Tàu kiểm ngư Việt Nam bị tàu hải cảnh Trung Quốc áp sát mạn, phun vòi rồng tại vùng biển gần nơi hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981. Ảnh: Nguyễn Đông Phát biểu tại Diễn đàn Hòa bình Thế giới ở Bắc Kinh cuối tuần qua, Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc Dương Khiết Trì nói rằng nước này "sẽ không bao giờ đánh đổi những lợi ích cốt lõi" và "ngậm bồ hòn" trước những hành động "làm suy yếu chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển" của mình. Theo Washington Post, ông Dương cho rằng các tranh chấp cần được giải quyết thông qua đàm phán trực tiếp giữa các bên và không nên có sự can dự của một bên thứ ba nào. Dù ông Dương không đề cập trực tiếp trong phát biểu của mình, Trung Quốc đã nhiều lần phản đối chính sách xoay trục về châu Á của Mỹ và cáo buộc Washington làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông. Trong cuộc phỏng vấn bên lề diễn đàn sau đó, ông Wu Shicun, chủ tịch và là nhà nghiên cứu cấp cao ở Viện Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc, cho rằng "một số nước đang sử dụng ảnh hưởng từ bên ngoài để quốc tế hóa các vấn đề Biển Đông". Bắc Kinh dường như đang nỗ lực tìm cách ngăn cản sự hiện diện quân sự của Mỹ ở những vùng biển xung quanh Trung Quốc, ông Stephen Hadley, cựu cố vấn an ninh quốc gia dưới thời cựu tổng thống George W. Bush, phát biểu tại diễn đàn. Theo ông, sự hiện diện quân sự của Mỹ ở châu Á rất vững chắc và dù không có điều đó, các nước láng giềng của Trung Quốc vẫn có thể đoàn kết để đối phó với Bắc Kinh. Trung Quốc đang ngày một gia tăng các hoạt động nhằm thực hiện tham vọng bá quyền ở Biển Đông và biển Hoa Đông. Nước này từ chối các nỗ lực quốc tế nhằm giải quyết căng thẳng và đầu tháng này lặp lại luận điệu rằng không công nhận vụ kiện của Philippines ở tòa án quốc tế liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông. Tuy nhiên, Manila khẳng định sẽ tiếp tục giải pháp pháp lý, dù Bắc Kinh có chấp nhận ra tòa hay không. Giới chức Việt Nam cũng đang cân nhắc các lựa chọn, trong đó có đấu tranh pháp lý, để phản đối những yêu sách và hành động xâm phạm của Trung Quốc trên những vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Anh Ngọc =========== Buồn cười bỏ mựa! Đàm phán thì phải có chuẩn mực. Ngay cả hai con mẹ hàng cá ở chợ Bắc Qua cãi nhau to tiếng cũng vì mục đích để mọi người nghe thấy chân lý thuộc về họ. Tức là cũng cần sự quan tâm của cộng đồng bán cá và những người đi chợ. Huống chi là chủ quyền quốc gia. Chuẩn mực là luật quốc tế về chủ quyền biển đảo được các quốc gia công nhận thì song phương trên chuẩn mực nào? Chuẩn mực nước lớn à?!
    2 likes
  4. Khái niệm tự do đích thực và duy nhất đúng nghĩa là "Thái cực sinh Lưỡng nghi" của Lý học Đông phương: Tự nó và bởi chính nó. Còn tất cả mọi sự vận động, tương tác sau giây "O" theo Lý học Đông phương ("Thái cực sinh Lưỡng nghi") đều chịu ảnh hưởng của tương tác đa chiều - Nên không có thể gọi là tự do đích thực, đúng nghĩa như trạng thái khởi nguyên vũ trụ. Bởi vậy, trong "Định mệnh có thật hay không?", tôi xác định: Đạt tới trạng thái Thái cực là tự do cuối cùng của con người. Khái niệm tự do dù có ra đời muộn thì nó vẫn bắt nguồn từ thần thoại cổ xưa và sự giải thích từ vũ trụ theo Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt. ============ PS: Tôi cho rằng Thần Tự Do là biến thể của nữ thần Athena, con của chúa tể các vị thần. Nữ thần Athena tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ và chiến tranh chính nghĩa, thuộc thần thoại Hy Lap. Tượng Nữ Thần Tự Do ở Hoa Kỳ ra đời năm 1886. Nhưng từ năm 1830, trong cuộc cách mạng Pháp, đã có bức tranh nổi tiếng: "Tự Do hướng dẫn nhân dân". Như vậy ý tưởng về Thần Tự Do phải có từ trước đó. Xét thấy những hình tượng liên quan với ảnh hưởng của văn minh Hy La với văn minh Tây phương, tôi xác định như vậy. Topic này không nghiên cứu sâu về khái niệm Tự do và xuất xứ nữ thần Tự Do. Nên tôi chỉ xin phép bàn tóm tắt như vậy. Chủ yếu của bài viết so sánh sự giải thích của thuyết Âm Dương Ngũ hành liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng và thần thoại, nhân danh lý thuyết thống nhất. .
    1 like
  5. Cái tên gọi của quẻ Khôn 坤 Khôn 坤, Hán ngữ phát âm là “Khun” [ 坤 pinyin: Kun] mang nghĩa là “tên một quẻ trong bát quái”, biến cách dùng thành từ để chỉ nữ giới. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Anh trai (thời cổ) cũng gọi là “Khun” ( đây là từ cổ, gốc do từ Phò Khun của tiếng Lào, dùng chữ nho Khôn 坤 để phiên âm từ Khun của tiếng Lào), sáng sủa (thời cổ) cũng gọi là “Khun” (đây là do phát âm lơ lớ từ Khôn của TV, “trí sáng sủa người khôn ngoan”), côn trùng cũng gọi là “Khun” ( đây là do dùng âm “Khun” của chữ nho Khôn 坤 để phiên âm từ Con , rồi “Khun” phiên âm từ Trùn của TV, mà từ Con Trùn thì nho viết bằng hai chữ Côn Trùng). Tiếng Việt có nôi khái niệm: Dĩn=Gián=Giun=Trùn=Trùng=Sùng=Khùng=Khuẩn nói chung đều thuộc họ côn trùng. Cái quẻ tượng trưng Đất, người Việt đặt tên nó là Khôn, là khôn ngoan, như nôi khái niệm Khôn = Khoe = Khỏe = Khang = ”Khỏe Làm” = Kham (giỏi chịu đựng) = Ham = Lam = =Làm = Tham Lam = “Làm Nặng” = Lạm = Lụng = Lượng = Láng = Sáng = Hoàng = Hừng. Ngược với Khôn là Dại = “Dại Ạ!” = Dã = Dấm = =Dúi = Túi = Tối = Hối. Cặp đối Dại/Khôn = Hối/Hửng. Thế giới của Khôn là thế giới văn minh, sáng sủa, làm ra của cải, nuôi dưỡng sự sống. TVGT: 坤 Khôn, 地 địa 也 dã (Khôn là Đất)。《易 dịch》 之 chi 卦 quái 也 dã (là một quẻ trong Dịch) , là cổ văn, đọc thiết “Khổ 苦 Côn 昆” = Khôn 坤. TVGT: 土 thổ 位 vị 在 tại 申 thân 也 dã (chỗ của thổ xếp ở Thân)。 坤 Khôn 正 chính 在 tại 申 thân 位 vị (Khôn xếp tại chỗ của thân), ở vị trí của Thân trong địa can. Địa can Thân tượng trưng cho “tu Linh” (tiếng Tày là con khỉ) hay “tủa Lính” (tiếng Hmông là con khỉ). Linh là cái tên chung xưa nhất của loài động vật họ linh trưởng đó. Từ Linh là tên con Linh ấy đã theo QT Nở mà nở ra từ dính chỉ tính cách của nó là Linh-Lợi = Lanh-Lẹ. Do quẻ Khôn 坤 nằm ở vị trí của địa can Thân 申, nhấn mạnh Khôn là “Khôn Chi!” = Khỉ, thành ra Khỉ trở thành cái tên mới của tu Linh. Thân 申 từ chỗ tượng trưng cho tu Linh trở thành tượng trưng cho con Khỉ. Người xưa của các dân tộc khác tiếp thu Bát Quái của người Việt cổ, chỉ biết rằng chữ Khôn 坤 là tên quẻ Khôn 坤, phải bắt chước phát âm giống như thế khi đọc nó, là “Khôn”, “Khun”, hiểu nó là tượng trưng Đất, còn tại sao lại gọi là Khôn (Nghệ An phát âm là “Khun” giống như Hán ngữ phát âm “Khun”[ 坤 pinyin: Kun] ) thì không biết. TVGT: 坤? Khôn 特 đặc 造 tạo 之 chi (Khôn là gì? Đây là một từ đặc biệt được tạo ra). Chẳng có gì đặc biệt cả. Chẳng qua là Bát Quái là của người Việt, người Việt đã lấy từ Khôn của khái niệm Khôn trong tiếng Việt mà đặt tên cho cái quẻ tượng Đất là quẻ Khôn 坤, viết biểu ý là đất (chữ Thổ 土) phô bày ra (chữ Thân 申) Các chuyển nghĩa của từ Khôn: 1/ Do Khôn tượng đất, đất thuộc âm, nên Khôn Trạch 坤 宅 chỉ nhà gái, Càn Trạch 乾 宅 chỉ nhà trai. 2/ Khôn Linh 坤 伶 xưa chỉ người con gái làm nghề biểu diễn. Khôn 坤 chỉ phái nữ, Linh 伶 là “tu Linh” (tiếng Tày là con khỉ), hay nuôi nó làm trò. 3/ Bổ Xuyết Càn Khôn 补 缀 乾 坤là vá thêu trời đất ngụ ý là trị lý quốc gia. 4/ Càn Phù Khôn Trân 乾 符 坤 珍 nói cái quí hiệu của Trời Đất 5/ Tụ Lí Càn Khôn 袖 里 乾 坤 ý nói giấu cả Trời Đất trong tay áo, ngụ ý ảo thuật biến hóa vô cùng. 6/ Khôn Dục 坤 育 ngụ ý cái đức của người Mẹ, như Trái Đất nuôi nấng vạn vật. 7/ Khôn Nguyên 坤 元 là nói cái đức của Trái Đất là sinh ra vạn vật. 8/ Khôn Hậu 坤 厚 là cách văn vẻ chỉ đất dày 9/ Điên Càn Đảo Khôn 颠 乾 倒 坤 là đảo lộn trời đất
    1 like
  6. Cái tên của quẻ Càn 乾 Càn 乾, Hán ngữ phát âm là “Can” [ 乾 pinyin: Gan], dùng chữ Can 乾 nghĩa là khô, rỗng, không thật, phớt lờ để phiên âm từ Càn là quẻ Càn. Các từ đồng âm dị nghĩa là: Quấy rối cũng gọi là “Can”, cây cột cũng gọi là “Can”, lá gan cũng gọi là “Can”, ngọt cũng gọi là “Can”, quả cam cũng gọi là “Can”. Tiếng Việt có nôi khái niệm: Khô=Khan=Khản=Cạn=Hạn-Hán=Hơi=Hời-Hợt=Hổng=Rỗng=Rời Rạc. Chữ “Can” này được mượn để phiên âm nhiều từ Việt như Cạn chén, Cán cuốc, lá Gan, trái Cam, Gượng Gạo. Tất cả đều không liên quan gì đến từ Càn 乾 chỉ quẻ Càn 乾 tượng trưng Trời. Chỉ có Trời = Tròn = Còn = ”Còn Chán” = Càn = Càng = Giàng = Dương, mang nghĩa là bất diệt, nên tiếng Việt còn có từ làm càn, càn quấy; muốn làm Càn còn gọi là “muốn làm Trời gì thì làm!”.Cái đòn Xóc hai đầu để gánh hai bó lúa đã gặt còn gọi là cái đòn Càn, vì nó tượng trưng cho Dũng (Xóc=Dọc=Dũng="Dũng Làm"=Dám="Có Dám"=Cảm, thành từ đôi Dũng Cảm, chỉ cái đòn Càn, là công cụ lao động thời bình, là vũ khí diệt giặc xâm lăng thời chiến), Càn trong tên cái đòn càn chỉ là sự chuyển nghĩa của chữ Càn 乾, chỉ sự dám làm trong mọi tình huống. Càn 亁 có hai cách đọc là [qián “Txén”] Kiền = Càn [gān “Can”] và cũng có hai “dị thể tự” là 乹、亁. TVGT: 亁 Càn, 上 thượng 出 xuất 也 dã (càn là hiện ra bên trên)。此 thử 乾 càn 字 tự 之 chi 本 bổn 義 nghĩa 也 dã (đây là bổn nghĩa của chữ càn)。自 tự 有 hữu 文 văn 字 tự 以 dĩ 後 hậu (kể từ sau khi có chữ viết)。乃 nãi 用 dụng 爲 vi 卦 quái 名 danh (vẫn dùng làm tên quẻ)。而 nhi 孔 Khổng 子 Tử 釋 thích 之 chi 曰 viết (mà Khổng Tử giải thích là do người Việt nói). Chữ Viết 曰 có nghĩa là nói, nhưng cụ thể là người Việt 越 nói, vì lướt lủn “Việt Nói” = Viết 曰(tương tự như lướt lủn “Giết Sạch” = Diệt 滅, “Văn 聞 Lắm” = Vắn nghĩa là nghe nhiều, như mục quảng cáo Tin Vắn trên báo là tin nghe nhiều, tin tào lao, khác với Tân Văn 新 聞 là mới nghe, của Hán ngữ dùng dịch chữ News). Chữ Việt 越 và chữ Viết 曰 thì Hán ngữ đều phát âm là “Yue”, nhưng trong Hán ngữ khẩu ngữ không có khái niệm “yue” nghĩa là nói, chỉ có người Hán đọc cổ văn thấy trích “Khổng 孔 Tử 子 viết 曰…, Mạnh 孟 Tử 子 viết 曰… thì mới hiểu qua chú giải Viết 曰 nghĩa là nói (là tiếng của người đời xưa, khi đó không phải là người Hán mà là người Việt). Qua chú giải của TVGT nêu trên, đủ rõ chữ Càn 亁 và cái âm tiết Kiền = Càn là của tiếng Việt, thoạt ban đầu chỉ là một từ mới (kể từ khi có xuất hiện văn tự chữ nho – như TVGT chú giải ở trên) dùng để chỉ Trời là từ đã có sẵn từ xửa từ xưa (được TVGT hàm ý là “thượng xuất”) và duy nhất dùng làm tên của quẻ Càn = Kiền trong Bát Quái. Mọi nghĩa về sau chỉ là những chuyển nghĩa của chữ Càn 亁 mà thôi. Nhưng đâu là nguyên do trong tiếng Việt của cái âm tiết Càn = Kiền ? Đó là người Việt muốn chỉ cái ở trên Cao (“thượng xuất”) là bầu trời, nó Lan rộng và Liền tù tì: lướt “Cao Lan” = Càn, “Cao Liền” = Kiền. TVGT: 亁 Càn, 健 Kiện 也 dã (Càn là Kiện)。健 Kiện 之 chi 義 nghĩa 生 sinh 於 ư 上 thượng 出 xuất (nghĩa của Kiện sinh ở bên trên)。上 thượng 出 xuất 爲 vi 乾 Càn (bên trên là Càn)。下 hạ 注 chú 則 tắc 爲 vi 溼 thấp (bên dưới ắt phải là Thấp) 。 故 cố 乾 Càn 與 dũ 溼 Thấp 相 tương 對 đối (xưa vẫn thế, Càn với Thấp là ngược nhau). Trong đoạn chú giải này chữ Kiện 健 (nghĩa là sức khỏe) chỉ là chữ dùng để mượn âm mà phiên âm từ Kiền của tiếng Việt vốn là một cách đọc khác của người Việt đối với chữ Càn 亁. Trời thì cao ráo, Đất thì ẩm thấp. Thể hiện rất rõ trong tiếng Việt ở nôi khái niệm: Trời=Trên=Thiên=Kiền=Càn=Can=Cao=Ráo=Táo. Đó là thuộc tính dương, thấy rõ ở nôi khái niệm bên trên (“thượng xuất”) là: Cao=Càn=Giàn (chuyển nghĩa chỉ cái lan rộng bên trên cụ thể như giàn bầu giàn mướp) = Giàn = Giàng (tiếng Tây Nguyên chỉ trời) = Dương ( 陽,chữ nho chỉ trời). Ngược lại bên dưới (“hạ tắc thấp”) là đặc trưng của Đất: Thấp 溼 = Ấp = Ẩm 濕 = Âm 陰. Những chuyển nghĩa của chữ Càn: 1/ chuyển nghĩa thành chỉ vua, Càn Cơ 乾 基 chỉ đế nghiệp 2/ chuyển nghĩa thành Can=Cạn chỉ sự khô ráo, chữ Càn 乾 đọc là Can, như từ Can Táo 乾 燥, như thành ngữ Thôi Can Tựu Thấp 推 乾 就 湿 (đẩy cái khô đi, ở chỗ ướt). Lấy là Vơ = Vớ = Vội, không lấy là “Chẳng Vớ” = Chớ (“được chăng hay chớ”) = “Chẳng Vội” = Chối = Thôi 推, nghĩa là khước từ, đẩy đi . 3/ mượn âm từ Càn 乾 chỉ cái Cành (“Can Nhánh” = Cành, là đã trụi lá, Nhánh cây thì mới là còn lá, bẻ nhánh cây để che ngụy trang; Cành cây là đã trụi hết lá rồi, dùng cành cây để làm hàng rào v.v.). Cành thì Hán ngữ phải dùng hai từ là Càn Điều 乾 条 nghĩa là cái Cành ( đương nhiên trụi lá rồi), Điều nghĩa là nhánh cây, Càn chuyển nghĩa là khô rụng hết lá, không còn lá đậu.
    1 like
  7. Cái tên gọi của quẻ Li 離 Hán ngữ phát âm là “Lí” [ 離 pinyin: Li]. Nghĩa (1): Rời , Lìa, “ Lìa Chi!” = Li. Nghĩa (2): Có trong từ ghép Li Kì 離 奇. Nghĩa (3): Tên một quẻ trong bát quái là quẻ Li . Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: họ Lê gọi là “Lí” [ 黎 Li], quả lê gọi là “Lí” [梨 Li ], cái cày gọi là “Lí” [ 犁 Li ], hàng rào gọi là “Lí” [ 篱 Li ] Đây chỉ là do Hán ngữ mượn chữ nho Li 離 nghĩa là rời để phiên âm từ Li là tên quẻ Li mà tiếng Việt vốn đã viết bằng chữ ký âm khoa đẩu. Quẻ Li tượng trưng Lửa, cũng có nghĩa là lửa , vì nhấn mạnh “Lửa Chi!” = Li. Tiếng Việt còn có từ “Lửa Nhiệt 热” = Liệt 烈, nghĩa là sức nóng mạnh mẽ, chuyển nghĩa thành sục sôi. Hán ngữ chỉ có một từ nghĩa lửa phát âm là “Hủa” (chữ Hỏa 火). Hán ngữ thiết Lửa Nhiệt là “Hủa 火 Rưa 热” = Hưa, thì trật, không thể ra từ “Lia” như họ đọc chữ Liệt 烈. Vậy chữ nho là của Việt. Tiếng Việt có từ Lửa và nhấn mạnh bằng lướt “Lửa Cháy Đi!” = “Lửa Chi 之!” = Li (rất logic ý nghĩa, quẻ Li nghĩa là Lửa). Nghĩa (1) mà Hán ngữ dùng cũng bắt nguồn từ tiếng Việt, vì nhấn mạnh “Lìa Đi!” = Li. Nghĩa (2) mà Hán ngữ dùng cũng là mượn của tiếng Việt, vì Li Kì là từ đôi trong tiếng Việt, do nôi khái niệm: Lạ = ”Lạ Chi!” = Li = “Có Li” = Kì, Lạ = Li = Kì vì đều chỉ có một nghĩa chung là Lạ, Lạ Kì hay Kì Lạ hay Li Kì đều là những từ đôi đồng nghĩa của một nôi khái niệm. TVGT: 借 tá 離 li 爲 vi 離 li 别 biệt 也 dã (là mượn chữ Li để ghi từ Li biệt). Tức chữ Li 離 này là mượn để ghi từ “Lìa Chi!” = Li, là li biệt, là chia lìa. Cũng là mượn chữ Li 離 để ghi tên quẻ Li là “Lửa Chi!” = Li, là lửa. Còn chữ Li 離 này chính nghĩa gốc của nó là từ tiếng Việt chỉ con chim Ri, vì nó có bộ “Chim Chi!” = Chuy, là bộ thủ Chuy 隹 (Hán ngữ gọi chim là “Niẻo” nên không có bộ thủ Chuy 隹). Từ Ri viết bằng chữ Li 離 cũng giống như từ Rậm viết bằng chữ Lâm 林, từ Rạn viết bằng chữ Lạn 爛 v.v. , tiếng Trung Bộ “mần (có) Ri!” nghĩa là “làm (có) Lí 理 !”(” Làm Chi!”= = Lí 理, Lí nghĩa là Làm, như Xử Lí là làm cái việc “Xem xét Chứ!” = Xử, Thanh Lí là làm cái việc dọn sạch sẽ, Quản 管 Lí 理 là làm cái việc quản trị – tiếng Nhật gọi là Kan Ri 管 理 ). TVGT: ”Cổ xưa con chim Ri có tới bốn tên gọi khác nhau”. Cho nên mới có câu chỉ trường hợp tương tự: “chim Ri (1) là dì Sáo (2) sậu, sáo sậu là cậu sáo đen, sáo đen là em Tu Hú (3), tu hú là chú Bồ Các (4), bồ các là bác chim ri”. Đây là bốn giống khác nhau nhưng vẫn là một loài Chim, tức cùng một bộ Chuy 隹. Chữ Li 離 chỉ con chim Ri (1) ngoài mượn để phiên âm chữ “Lìa Chi!” = Li 離 nghĩa là rời (2), phiên âm chữ “Lạ Chi!” = Li 離 nghĩa là lạ kì (3) và phiên âm chữ “Lửa Chi!” = Li 離 nghĩa là lửa (4) của tên quẻ Li (cũng là bốn trường hợp như bốn tên cổ của chim ri) thì Li 離không có chuyển nghĩa nào nữa cả. Tên quẻ Li 離 hoàn toàn là một từ của Việt mà Hán ngữ đã mượn là rõ ràng, chính Hứa Thận 許 慎 trong TVGT 說 文 解 字 (thuyết văn giải tự)đã nói: “ Tá Li 離 vi li biệt dã” (mượn Li 離 làm li biệt ạ).
    1 like
  8. Cái tên gọi của quẻ Khảm 坎 Hán ngữ không có âm ngậm môi, không phát âm được vần “am”, nên muốn phiên âm vần “am” thì Hán ngữ phải mượn vần “an” mà Hán ngữ có. Do vậy Hán ngữ đọc chữ Khảm 坎 là “Khản” [ 坎 pinyin: Kan]. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Bậc cửa cũng gọi là “Khản” (do phiên âm lơ lớ từ Cản của tiếng Việt), chặt cây cũng gọi là Khản (do phiên âm lơ lớ từ Đẵn của tiếng Việt, từ nôi khái niệm: Chặt=Chém=Trảm=Đâm=Đẵn. Quẻ Khảm 坎 tượng trưng Nước, cái tên Khảm xuất xứ từ nôi khái niệm : Nác = Nước = Nậm (tiếng Tày) = Nam (tiếng Thái Lan) = ”Khe Nam” = ”Khuổi Nam " = “Khẳm Nam” = Khảm, nước đầy khi nó dồn vào hố trũng, gọi là đầy khẳm. Từ Khe có nghĩa nguyên thủy là Té . Nôi khái niệm: Té = Tức (tiếng Khơme) = Đức = Đác = Nác = Nước = Nậm (tiếng Tày) = Nam (tiếng Thái Lan) . Té nghĩa là nước, đi Té Re là đi Nước Ra (nhấn mạnh “Ra Hè!” = Re). Nhấn mạnh “Té Hề!” = Tế. Muốn tế gì cũng phải có nước ( tế lễ có té nước thánh). Té chuyển nghĩa thành trợt ngã gọi là Té vì tính của nước là Ướt = Trượt = Trợt = Rớt, Té nguyên là từ của dân sông nước, đã nói là Té có nghĩa là rớt xuống nước, dùng quen rồi, khi lên bộ vẫn gọi là “Té xe Hon Da”. Chữ Khảm 坎 viết biểu ý là đất (Thổ 土) thiếu (Khiếm 欠), tức là chỗ bị sụt lún thành cái Hố, cái Huyệt, nếu rơi vào đó thì sẽ bị Giam, bị Ám, bị Yểm mà nằm yên tại đó chứ không thoát ra được. Nó là cái “Hố Yểm” = Hiểm 險, là cái “Hố Giam” = Hãm 陷. Bị hãm trong cái hố nguy hiểm ấy thì đành phải chịu “Bị Ám” = Bám ở đấy thôi, không thể thoát ra được, tức bị “Khép Hãm” = Khảm 坎 tại đó, giống như sơn ta hay vỏ trai bị “Khảm” chặt vào bề mặt đồ gỗ, không bong đi được. Nước chảy đầy hố là do tự nhiên “nước chảy chỗ trũng”, rồi bị “Khép Hãm” = Khảm 坎 trong giới Hạn của cái hố đó, giống như nước sôi đổ vào giới hạn cái ấm để Hãm ấm trà, không chảy đi đâu được nữa. Chính vì vậy mà Quẻ Khảm 坎 được dùng để tượng trưng Nước, bởi tính cách của nước là rất Bám = Khảm, chảy trên đá nó bám đến mức bào mòn trơn cả đá. Trong “Chu Dịch” có nói quẻ Khảm mang nghĩa là Hãm 陷, là Hiểm 險 v.v. Cái tên gọi là Khảm 坎 đó là từ tiếng Việt ở nôi khái niệm “nước chảy chỗ trũng”: Nước=Nậm=Nam=Bám=Khảm=Hãm=Hiểm=Huyệt=Hố. Ở vùng trũng mùa lụt thì như trong cái hố nước, sẽ cảm nhận được là Khảm nó Hãm và Hiểm như thế nào. Nôi khái niệm trên so sánh với phát âm của Hán ngữ: Nước(1)=Nậm(2)=Nam(3)=Bám(4)=Khảm(5)=Hãm(6)=Hiểm(7)=Huyệt(8)=Hố(9) Shui(1)=Shui(2)=Shui(3)=Nian(4)=Kan(5)=Xian(6)=Xian(7)=Xue(8)=Keng(9) Nôi khái niệm trên từ Nậm(2) là nước tiếng Tày, từ Nam(3) là nước tiếng Thái Lan. Chỉ có một từ số (5) phát âm giống nhau giữa Việt và Hán mà thôi, là từ Khảm 坎 = “Khản” [ Kan 坎 ], do Hán ngữ mượn từ Khảm 坎, nhưng không phát âm được âm ngậm “am” do Hán ngữ không có, nên phải thay thế bằng âm mở “an” thành ra lơ lớ là “Khản”. Những chuyển nghĩa của chữ Khảm 坎: 1/ Cái khe hiểm gọi là “Khe Hiểm” = Khiếm 堑, ghép Khiếm Khảm 堑 坎 để chuyển nghĩa chỉ cái hố sâu. 2/ Nước Đầm phiên âm bằng chữ Khảm Đảm 坎 窞, chuyển nghĩa thành chỉ nơi nguy hiểm. 3/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm từ lướt “Khó Làm” = Khảm, chuyển nghĩa thành chỉ lúc thời cơ gấp rút hoặc chỉ nơi hiểm yếu, gọi là Khảm Nhi 坎 儿 (Khó Làm Nhỉ) 4/ Loại sơn dùng để khảm cái quan tài viết bằng chữ Khảm Hậu Tất 坎 侯 漆 5/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm từ lướt “Khỏi Làm” = Khảm, chuyển nghĩa chỉ sự bất đắc chí , do vậy mà Lẩn tránh Khỏi Làm, bằng chữ Lận Khảm 凛 坎 6/ Người đánh xe hay người khiêng kiệu là bị “Khép Hãm” = Khảm dính với cái xe hay cái kiệu, gọi là cái nghề Hiệu Khảm 号 坎, tức là vừa có số má vừa bị gắn chặt vào đó. 7/ Từ Nước Sâu viết bằng chữ Khảm Thâm 坎 深 chuyển nghĩa thành ngụ ý là nơi chốn nguy hiểm. 8/ Từ Khảm Chỉ 坎 止 chuyển nghĩa thành gặp nguy Hãm thì “Chẳng Đi” = Chỉ, tức dừng lại khi gặp nguy. 9/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm tên cái Khèn, là nhạc khí bằng ống tre có họng thổi, gọi là cái Khảm Hầu 坎 侯
    1 like
  9. Cái tên gọi của quẻ Cấn 艮 Hán ngữ phát âm chữ Cấn 艮 là “Cân” [艮 pinyin: Gen] , chỉ có một nghĩa là “tên một quẻ trong bát quái”. Một từ đồng âm dị nghĩa khác là: Hằng cũng gọi là “Cân”. Đây là do phiên âm lơ lớ từ Cắng của TV: “Kéo Thẳng” = Căng, Căng nhiều là “Căng Căng” = Cắng, 0+0=1, Cắng có nghĩa là “Kéo dài mãi lằng Nhằng” = Cắng, và nho viết từ Cắng bằng nhấn mạnh hơn nữa là “Hẳn Cắng” = Hằng, nghĩa là cứ kéo dài mãi gọi là vĩnh hằng. Quẻ Cấn tượng Núi. Cái tên Cấn là tên Việt, chính là Cồn, do nôi khái niệm : Núi=Non=Hòn=Cồn=Cấn. Núi là do đất đá “Cao Tôn” = =Cồn (do núi lửa phun trào chẳng hạn) nhô lên hơn với mặt bằng xung quanh, nếu mặt bằng đó là mặt biển hay mặt sông thì Cồn chính là chỗ “Đất tôn Cao” = Đảo. Ở mặt bằng đất liền thì Cồn là núi, ở mặt bằng nước của sông hay biển thì Cồn là Đảo, như các địa danh Cồn Cỏ hay Côn Đảo. Từ đôi Cồn Đảo = Cù Lao = Pu Lao (tiếng Mã Lai). Núi dài thì nó Ngăn thành cái Ngấn, Ngang nền trời, Ngăn tầm mắt nhìn, gọi là “Cồn Ngấn” = Cấn 艮. Nho viết chữ Cấn 艮nghĩa là Cồn, là Núi. Cấn chuyển nghĩa thành Ngang =Ngấn. Nho viết biểu ý chữ “Hẳn Cấn” = Hấn 很 bằng “Hành 行 Cấn 艮” = Hấnb 很, nghĩa là Ngang, chuyển nghĩa trừu tượng là ngang bướng, bất phục tùng. TVGT: 艮 Cấn, 很 hấn 者 giả,不 bất 聽 thính 從 tùng 也 dã ( Cấn là Hấn, là không nghe theo, không phục tùng). Đây là chuyển nghĩa của Cấn vốn nghĩa đen là Núi. Nhiều địa danh ở TQ còn giữ tên đặt theo kiểu Việt của thời xa xưa như Cấn Nhạc 艮 岳 (tức Cồn Nhạc, Hòn Nhạc ở tỉnh Hồ Nam, Hán ngữ gọi là Nhạc Sơn 岳 山), Cấn Sầm 艮 岑 (tức Cồn Sầm, Hòn Sầm) ở vùng Đông Bắc TQ, nếu viết theo Hán văn phải gọi là Sầm Sơn 岑 山; Cấn Phong 艮 峯 (tức Cồn Phong, Hòn Phong) nếu viết theo Hán văn phải gọi là Phong Sơn 峯 山. Chữ Cấn 艮 còn dùng để phiên âm nhiều từ Việt khác: (1) Phiên âm cho từ Con như từ Nho Cấn 儒 艮 (tức là Con Nho, một loài động vật có vú thuộc họ rái cá, từ này viết kiểu Hán văn nhưng không viết là Nho Tử 儒 子 mà lại là Nho Cấn儒 艮). Vì Con = Kô (tiếng Nhật) = Cò (tiếng Thái) = Cu (tiếng Thanh Hóa) = Tu (tiếng Tày và tiếng Quảng Đông) = Tủa (tiếng Hmông) = Tử 子 (chữ nho) = “Tử 子 Chi 之!” = Tí 子 (nhấn mạnh); (2) Phiên âm cho từ Cẳng như từ Cấn Chỉ 艮 止 (tức là Cẳng 艮 + “Chẳng Đi” = Chỉ 止), có nghĩa là Dừng, từ Cấn Chỉ hay dùng trong thành ngữ Việt là “quết trầu cấn chỉ” tức ăn trầu và để cho vệt nước trầu đỏ thắm Dừng thành ngấn ngang trên vành môi, từ này cũng viết là Chỉ Cấn 止 艮 (tức “Chững Chi!” = Chỉ 止 + Cẳng 艮); (3) Phiên âm cho từ Cứng như từ Cấn Đầu 艮 头 (tức Cứng Đầu) chuyển nghĩa chỉ người phác thực thẳng thắn. Do chức năng vị trí trong dịch học nên tên Cấn của quẻ Cấn 艮 còn dùng chỉ hướng Đông Bắc. Rồi cũng do người xưa chia nhạc ra bát âm, lấy tên mỗi quẻ của Bát Quái để đặt cho một loại âm của một loại nhạc khí nên Cấn Âm 艮 音 là chỉ âm của nhạc khí ống thổi, Chấn Âm là chỉ âm của trống, Đoài Âm là chỉ âm của chuông, Ly Âm là chỉ âm của huyền cầm v.v. Bản thân Cồn là Hòn núi, tính Cứng nên chữ Cấn 艮 làm đại diện cho nghĩa là Cứng, là bất phục tùng, ngang bướng, “Hẳn Cấn” = Hấn 很, chữ này còn đọc là Ngận (Ngận = Ngăn = Ngáng = Ngang, vì núi thì nó che - chắn – ngăn - ngáng - ngang đường đi, dãy núi còn làm thành Ngấn ngang đường chân trời che tầm mắt nhìn), có nghĩa là không thuận theo, là bất phục tùng (“lì bướng như núi”, như trong từ Gây Hấn 衅 nghĩa là gây ra những việc trái ngang, hoặc từ Gay Cấn nghĩa là gay ngang xương rồi đây , Ngang=Ngay=Gay=Gây, như là mắc xương nó ngáng ngang cuống họng thì thật là Gay). Hán ngữ dùng chữ Cấn 艮 của quẻ Cấn, phát âm là “Cân” [ Gen 艮], dùng chữ Hấn 很 phát âm là “Hẩn” [Hen 很] với chuyển nghĩa là “rất”, vd: “Hẩn Hảo” là rất tốt.
    1 like
  10. Cái tên gọi của quẻ Chấn 震 Hán ngữ phát âm chữ Chấn 震 là “Trân” [ 震 pinyin: Zhen], chỉ có hai nghĩa là rung động và là “tên một quẻ trong bát quái”. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Mặt trận cũng gọi là “Trân"[ 陣 pinyin: Zhen], thị trấn cũng gọi là “Trân” [ 鎮 Zhen], trấn áp cũng gọi là “Trân” [鎮 Zhen] ,phát chẩn (Phát 發 + “Cho Dân” = Chẩn 賑) cũng gọi là “Trân” [ 賑 Zhen]. TVGT: Chấn 震, đọc thiết “Chương 章 Nhẫn 刃” = Chấn 震. TVGT: 震 Chấn, 劈 phách 歷 lịch 振 chấn 物 vật 者 giả (văn viết theo kiểu xuôi của Việt, nghĩa: là cú đánh lướt qua, làm rung động mọi vật). Chấn 震 chuyển nghĩa thành Chấn 振 là rung động. Chữ Phách 劈nghĩa là cú đập, còn có từ Gõ Phách, Phách 劈 có gốc do bộ thủ Phốc 攵 của tiếng Việt nghĩa là đập, như con châu chấu nhảy “phốc” một cái, như con gà trống đá “phóc” một cú, của nôi khái niệm: Đập = Đốc 督 (đốc thúc) = Phốc 攵 = Phang = Phảng (cái phảng phát cỏ của Nam Bộ) = Phách 劈 = Phát 發 = Tát (tát tai) = Tạt (tạt a xít) = Bạt (bạt tai) = Phạt 罰 = Phá 破 = Đả 打 = Đánh = Phanh (“thề phanh thây…”) = Phẫu 剖 = Phóc = Xọc = Xóc (“đòn xóc hai đầu”) = Hóc (hóc xương, gai góc) = Húc (“trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”). Chữ Phách 劈 đã có các chuyển nghĩa: (1) Bổ, xẻ (bổ củi, xẻ gỗ); (2) Nhằm vào, đâm vào; (3) Sét đánh hỏng hay chết; (4) Lưỡi rìu. Do đó mà có quan niệm “thần sét hay ông thiên lôi dùng lưỡi tầm sét làm vũ khí wuýnh người một cú là chết thẳng cẳng”. Chữ Lịch 歷 nghĩa là : “Lướt qua Đó!” = Ló = “Lướt qua Đấy!” = Lấy = “Lướt qua Đích!” = Lịch 歷, lịch sử dù một trăm năm hay một nghìn năm cũng chỉ là một cái Ló thoáng lướt qua trong vũ trụ nhưng đã có thể Lấy đi biết bao sự kiện và sinh mạng, nên mới gọi là Lịch 歷 + “Sờ sờ sự thật ra đó Chứ!” = Sử 史, thành ra Lịch Sử 歷 史. TVGT: Chấn 震 viết biểu ý bằng chữ Vũ 雨( ý nói xảy ra trong cơn mưa), tá âm bằng chữ Thần 辰 (là để mượn vần “ân”), thành chữ Chấn 震. TVGT: 震 Chấn, 疾 tật 雷 lôi 之 chi 名 danh (Chấn, là tên gọi cú Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi nhanh mạnh mẽ). Chữ Tật 疾 nghĩa là nhanh mạnh mẽ vì nó là “Tốc 速 Thật實” = Tật 疾 (Nếu thiết theo Hán ngữ thì là “Su 速 Shi 實” = Ji 疾, thì trật, không thể thành đẳng thức “Su Shi” = Si được, dù đó là logic về ý nghĩa giữa ba từ khi thiết hai từ có sẵn thì tạo nên từ mới thứ ba. Vậy cái âm Việt của đọc chữ nho Việt là từ thuần Việt, chứ không thể vì thấy nó có viết bằng chữ nho mà gọi nó là “từ Hán-Việt” hay là cái “tố gốc Hán” được, như Từ điển của Viện ngôn ngữ giải thích). Chữ Lôi 靁 là do Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi (nghĩa đen tiếng Việt đều là cú đấm rất nhanh). TVGT: 疾 tật 靁 lôi 爲 vi 霆 đình, nghĩa: cú đấm nhanh (Lôi 靁) nhanh mạnh mẽ (Tật 疾) là (Vi 爲) cú “Đấm thình Lình” = Đình 霆 (trời đấm thì đố ai biết được là khi nào, đều rất nhanh và bất ngờ nên gọi là thình lình: “Thiên Rình” = Thình, “Lọi cho thất Kinh” = Lình. Thiên rình thiên lọi thất kinh, thành ra hai chữ thình lình đó thôi), nên khi chuyển nghĩa Lôi thành sấm thì còn có từ Lôi Đình 靁 霆 và thành ngữ “nổi trận lôi đình”. Vậy Chấn 震 và Lôi 靁 đều xuất xứ từ tiếng Việt, nghĩa đen của Lôi 靁 là cú đấm nhanh: Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi, Lôi 靁 được Hán ngữ dùng để sử dụng cái chuyển nghĩa của nó là để chỉ sấm. Còn Chấn 震chính là từ Sấm, trong cái nôi khái niệm “cú đấm rất nhanh cũng như quả đấm để thụi rất nhanh làm vật rung động có thể dẫn đến chết chóc”: Chết = Giết = Sét = Sát 殺 = Sấm = Đấm = Đâm = Châm 針 (chuyển nghĩa thành châm cứu là làm rung động huyệt thần kinh) = Chấn 震 = Chọc = Chóc = Chưởng 掌(cú đấm, chuyển nghĩa của quả đấm bằng nắm tay) = Choảng (choảng nhau) = Chết, tất cả mọi từ trong nôi khái niệm này đều có thể gây ra chết chóc. Sấm sét nó đánh thì đồng thời nó nổ to, tức là nó “Choảng nghe nổ rần Rần” = Chấn 震 (chữ Chấn 震 này nghĩa là Sấm), chuyển nghĩa thành rung động là dùng chữ Chấn 振 này. Về sau chữ Chấn 震 là tên quẻ Chấn được Hán ngữ ghép với nhiều từ khác thành nhiều chuyển nghĩa khác nữa trong khoa học hiện đại như Địa Chấn 地 震, Chấn Cấp 震 级 ;trong văn học chuyển nghĩa thành sợ hãi như Chấn Cụ 震 惧,chuyển nghĩa thành nổi tiếng như Danh Chấn Nhất Thời 名 震 一 时 (không “Nổ như Sấm” thì làm sao mà Nổi tiếng một thời được, tuy nhiên chỉ được “nhất thời” thôi, sang thời khác thì hết nổi tiếng).
    1 like
  11. Tôi nói rõ thêm rằng: Việc đặt vấn đề "sự thành công, hay thất bại của con người là do gen?" của tri thức khoa học hiện đại, chưa phải là một hệ thống lý thuyết. Nhận thức này vẫn mang tính trực quan bằng quan sát thông qua phương tiện kỹ thuật. Và từ đó phát hiện cấu trúc gen với những ảnh hưởng của nó với con người. Nhưng Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - đã phát triển thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, mô tả tính cách con người và cả quy luật tương tác từ vũ trụ, thể hiện qua mô hình biểu kiến hóa, thành phương pháp coi Tử Vi Đông phương qua lá số Tử Vi, dự đoán có hiệu quả số phận, đến từng hành vi của con người qua ngành học này, từ hàng ngàn năm trước.
    1 like