• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 21/06/2014 in Bài viết

  1. Đây là một tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất. Chí có thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt mới thỏa mãn tất cả những tiêu chí mà các nhà khoa học hàng đầu nghĩ ra, bây giờ và trong cả tương lai. * Đức Giesu nói: Cha ta sinh ra ta, ta ở trong cha ta. Cựu Ước viết: Chúa đã lấy cái xương sườn của Adam (Dương trước) làm ra người nữ là Eva (Âm sau). Tương ứng với Thái cực là cái có trước trở thành Dương khi sinh ra cái không phải nó và đối đãi với nó (Âm sau), trong Lý học Việt. Lý học Việt nói: Thái cực sinh lưỡng nghi. Thái cực sinh ra cái không phải nó và từ nó, bởi nó. Ngay khái niệm "Tự Do" của nền văn minh nhân loại, chính là xuất phát từ nguyên nghĩa này của vũ trụ: Tự là từ; do là bởi. Từ nó và bởi nó, chính là Tự do. Một dân tộc Tự Do là dân tộc tự quyết định tương lai của mình. Cho nên, ngay từ buổi bình minh của nhân loại, nền văn minh Hy La đã có nữ thần Tự Do. * Kinh thánh viết: Đức chúa Cha sinh Đức Chúa con và các thánh thần. Lý học Việt nói: Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng.... Đạo Đức Kinh (Hàm chứa trong Lý học Việt) viết: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. * Chúa Giesu nói: Ta là khởi đầu và cũng là sự kết thúc. Việt Dịch trên bãi đá cổ Sapa cũng đã nói đến điều này.... * Lời nguyện viết: Chúa ở cùng Cha và ở cùng anh chị em. Lý học Việt xác định: Thái cực - tính thấy từ nguyên thủy vô thủy vô chung, hiện hữu trong tất cả vạn vật trong vũ trụ. .......
    4 likes
  2. Thế trận tự hình thành và ngày càng nóng trên Biển Đông (Quan hệ quốc tế) - Trung Quốc ngày càng hung hăng, dồn ép Việt Nam, trong khi Mỹ và đồng minh đang hình thành những liên minh kép sẵn sàng dùng vũ lực Trung Quốc lại thêm mối lo ngại ở Tây Tạng Trung Quốc bất lực nhìn Mỹ-Ấn-Nhật tập trận trên Thái Bình Dương Việt Nam trước quyết định sống còn Tháng 6/2014, cả thế giới đang chú ý đến World Cup ở tận miền Nam Mỹ thì một cái giàn khoan Hải Dương 981 mà Trung Quốc đem vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại vùng biển quần đảo Hoàng Sa máu thịt đã khiến dư luận cả nước sôi sục. Giờ còn thêm chiếc giàn khoan Nam Hải 09 đã lò dò xuống biển Đông. Hải Dương 981 có khả năng khoan thăm dò và khai thác ở vùng nước sâu, vì thế nó có thể di chuyển chỗ này chỗ khác. Còn cái giàn khoanNam Hải 09, nó lạc hậu, cũ kỹ, nó chỉ biết có khai thác và khai thác. Một khi nó đã di chuyển thì chắc chắn, nó phải mang sứ mệnh đem dầu về cho Bắc Kinh chứ không phải đám chuyên viên dầu khí đi du lịch Biển Đông. Ngày 18/6/2014, Trung Quốc đưa ra “Sách Xanh” về năng lượng, cho thấy họ đang đứng trước những vấn đề sống còn, thậm chí dự báo khủng hoảng nếu nguồn cung năng lượng không được đảm bảo. Cuốn sách với cái màu hòa bình ấy như một thứ biện minh khốn kiếp cho cái giàn khoan Nam Hải 09 kia. Bắc Kinh muốn nhắn với cả nước họ rằng “chúng ta hết năng lượng rồi, chúng ta không thể đi mua mãi, ngoài kia có rất nhiều và ra đó mà lấy đi thôi”. Trung Quốc điều thêm tàu quân sự quét mìn lớp 6610 (T43) đến khu vực giàn khoan Hải Dương 981 Hiện cái Nam Hải 09 vẫn đang ở trong vùng biển của Trung Quốc, nhưng một ngày đẹp trời nào đó, nó xuất hiện ở cửa Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam thì sao? Chúng ta sẽ phải xử lý như thế nào? Việt Nam còn đủ tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư để đưa ra nói chuyện phải quấy với bọn Trung Quốc nơi giàn khoan Nam Hải 09? Phải nhìn nhận thẳng mà nói rằng Hải chiến rất khác chiến tranh trên bộ, đặc biệt trong chiến tranh hiện đại với các vũ khí tầm xa như ngày nay càng khó. Chưa kể đến sức ép về kinh tế mà đối phương sẽ gây ra. Chúng ta cần có nhiều hơn những sự giúp đỡ của nước ngoài. Không phải tự nhiên chúng ta thắng Mỹ, không phải tự nhiên B52 rụng như sung trên bầu trời Hà Nội. Từ lịch sử mà phải nhìn ra những bài học mà đời nào cũng đúng, luôn luôn cần có những người bạn, quan trọng là biết tùy từng lúc chọn bạn mà chơi. Thế trận Biển Đông tự hình thành Tạm gác những băn khoăn của Việt Nam sang một bên và nhìn vào khu vực. Trung Quốc hung hăng ở Biển Đông, nhưng cũng không quên gây hấn ở Hoa Đông với Nhật Bản. Ngày 20/6, lại thêm tàu hải cảnh, hải giám của Trung Quốc bén mảng vào Senkaku/Điếu Ngư khiến Nhật Bản phải điều lực lượng. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Thủ tướng Australia Tony Abbott Trung Quốc muốn nhắc cho Nhật Bản nhớ rằng đừng vì thấy họ bận ở Biển Đông mà quên rằng Senkaku/Điếu Ngư cũng là một phần trong lợi ích cốt lõi mà Bắc Kinh theo đuổi. Nhưng Trung Quốc cũng vô tình vạch áo cho người xem lưng khi tham vọng này đã thể hiện họ đang bị dàn trải, đồng minh không có mà kẻ thù thì vô số. Những ngày cuối tháng 6 cũng là thời điểm Nhật Bản đang gấp rút hoàn thiện việc gia tăng quyền hạn cho lực lượng phòng vệ, thậm chí đề đạt đến việc tái thiết quân đội trên đất nước này. Nhật Bản cũng thúc đẩy tiến độ việc thông qua luật “phòng vệ tập thể” để có thể cùng sát cánh với các đồng minh chống Trung Quốc. Philippines cũng chẳng ngán gì. Họ nhỏ nhưng có người lớn chống lưng. Trung Quốc không tham dự phiên tòa mà Philippines khởi kiện ra Trọng tài Quốc tế, vì thế quốc gia này đã thúc giục tòa án sớm ra phán quyết. Nếu Philippines thắng, thì chính nghĩa đã thuộc về phía họ, đẩy Trung Quốc thành quân kẻ cướp. Chính nghĩa chỉ là một việc vì quân kẻ cướp chắc chắn không nghe theo pháp luật. Và Philippines cũng không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự của mình. Sự kết liên giữa Nhật Bản – Philippines đã tạo thành một gọng kìm từ Đông xuống Đông Nam để vây ráp Trung Quốc vào giữa. Mỹ xoay trục, sợi xích nóng cắt phá đường lưỡi bò Còn vòng ngoài, Australia đang ráo riết gia tăng sức mạnh quân sự của mình. Các căn cứ của Mỹ trên Thái Bình Dương và Australia tạo thành một hàng rào phong tỏa thứ hai, có khả năng tác chiến tầm xa. Đồng thời, Nhật Bản – Australia ngày càng phối hợp chặt chẽ với nhau về quân sự. Có thể nói, những liên minh song phương này đang khiến vòng kim cô mà Mỹ muốn đeo vào cổ Trung Quốc ngày càng chắc chắn. Như vậy là chiến lược chuỗi đảo mà Mỹ đặt ra cho định hướng chuyển trục châu Á – Thái Bình Dương đã hoàn thành. Mà việc chiến lược này hoàn thành một cách thuyết phục như vậy cũng phải nhờ vào sự trợ giúp của Trung Quốc, bởi tham vọng của họ đã khiến ai cũng phải đề phòng. Hải quân Mỹ trong căn cứ trên Vịnh Subic của Philippines Trên Biển Đông, có hai vị trí đắc địa mà lực lượng hải quân nào có được đồng nghĩa với việc kiểm soát được hoàn toàn vùng biển này, thậm chí là cả tuyến hàng hải Đông – Tây, đó chính là Cam Ranh của Việt Nam và Subic của Philippines. Mỹ đã có Subic trong tay, nhưng Cam Ranh thì Việt Nam trấn giữ. Nhưng Nhật Bản lại có thể làm được điều đó, sự hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam thời gian qua vô cùng tốt đẹp. Việc Nhật Bản thông qua quyền “phòng vệ tập thể” là cái tem bảo hành uy tín nhất để bất kỳ ai cũng muốn làm đồng minh với họ. Nếu liên minh Nhật Bản – Philippines – Việt Nam hình thành, về mặt chiến lược, Trung Quốc đã thua ngay trên sân nhà. TQ xây đảo nhằm lập ADIZ, hiện thực hóa 'đường lưỡi bò' Lựa chọn của Việt NamQuay trở lại vấn đề về việc chọn bạn của Việt Nam. Trước hết, nước Nga ngày nay không phải là Liên Xô hào phóng trước đây. Họ đơn thuần hoạt động vì lợi ích. Sự gây hấn của Trung Quốc đã khiến Đông Nam Á đổ xô chạy đua vũ trang, và Nga cũng đã kiếm được một mớ ở đó. Còn hiện tại, Nga và Trung Quốc đang cần nhau ở một số vấn đề, việc Nga trở thành kỳ đã cản mũi ở Biển Đông dù trong mơ cũng không thể xảy ra. Với Mỹ, dù quan hệ giữa hai quốc gia đã có nhiều cởi mở, tuy nhiên cánh cửa đó vẫn chưa phải là thông thoáng hoàn toàn. Người Mỹ hàng chục năm ở ngôi số một thế giới, họ đã quen với sự áp đặt, để trở thành một đồng minh của Washington, Hà Nội sẽ phải hi sinh nhiều về lợi ích mà trong bài viết không tiện nói ra. Còn Nhật Bản, nếu hữu sự, Nhật có thể coi là tối lửa tắt đèn có nhau, không phải lo “nước xa khó cứu lửa gần”. Hoặc ở cái vị trí của Nhật Bản, thì hoàn toàn có thể sử dụng kế Vây Ngụy Cứu Triệu để ứng phó cho Việt Nam. Sức mạnh hải quân của Trung Quốc hoàn toàn bị dàn trải và yếu thế. Nhưng đó chỉ là những phương án phân tích mang tính chủ quan, còn điều cần làm nhất của Việt Nam lúc này là giành lấy sự chính nghĩa cho mình, theo cách như Philippines đang làm. Đồng thời, muốn tư chủ được về chủ quyền thì nền kinh tế nuôi dưỡng sức mạnh đất nước cũng cần phải được tự chủ. Ukraine đang khốn đốn với Nga vì không tự chủ được về kinh tế và năng lượng. Đó là một bài học nhãn tiền.Việt Nam căm ghét chiến tranh, nhưng khi bị dồn vào bức đường cùng, cả dân tộc này luôn sẵn sàng. Điều quan trọng là phải có một sự chuẩn bị thật kỹ lưỡng cho mọi tình huống. Bởi đã không còn nữa cái tình đồng đội, đồng chí khi tham vọng bá quyền của Trung Quốc ngày càng khó kiểm soát. Trung Quốc lộ tử huyệt, thêm bất chính tham vọng Biển Đông Đỗ Minh Tú================ Từ thời gian hưng quốc vào thế kỷ thứ X đến nay, Việt Nam chiến thắng tất cả các siêu cường xâm lược với tinh thần Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Kể cả thời gian chiến tranh kết thúc năm 1975. Cuộc chiến cam go, khiến Hoa Kỳ phải có hẳn một ban nghiên cứu về tinh thần chiến đấu của người Việt (Đã đưa lên diễn đàn). Nhưng bây giờ chúng ta có thể chiến thắng với sức mạnh tổng hợp, một cách hoàn hảo, trong đó thiếu đi hẳn sức mạnh của "4000 năm cùng chúng ta ra trận"(*) được không? Bởi vì sự phủ nhận truyền thống Việt sử với quan niệm phổ biến rằng: cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố " đã làm suy nhược tinh thần này. Cách đây hơn 10 năm trước, khi tôi viết cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", có người nói thẳng vào mặt tôi: "Cuốn sách này được in thì sẽ xảy ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung quốc" . Cuối cùng là gần 20 nhà XB từ chối không in.Trong lịch sử văn minh nhân loại, chiến tranh đã xảy ra dưới mọi hình thức, kể cả vì gái - như cuộc chiến thành T'roa. Nhưng chưa bao giờ có một cuộc chiến tranh vì một cuốn sách cả. Cuốn sách in từ 2001. Đến nay đã hơn 10 năm, mâu thuẫn Việt Trung căng thẳng nhất, vẫn chưa thấy dấu ấn của "Tìm về cội nguồn kinh Dịch". ===============* Thơ Tố Hữu. PS: Trung Quốc đã rêu rao rằng: "Đi đâu trên đất Việt cũng thấy dấu ấn văn hóa Trung Quốc", và rằng : "Việt Nam là phụ thuộc quốc từ hơn 2000 năm trước". Nhưng tôi tin rằng đến giờ này những cái đầu đất đó vẫn chưa biết rằng cấu trúc đất sét trong não bộ của họ, nó thực sự như thế nào!
    3 likes
  3. Cái tên gọi của quẻ Cấn 艮 Hán ngữ phát âm chữ Cấn 艮 là “Cân” [艮 pinyin: Gen] , chỉ có một nghĩa là “tên một quẻ trong bát quái”. Một từ đồng âm dị nghĩa khác là: Hằng cũng gọi là “Cân”. Đây là do phiên âm lơ lớ từ Cắng của TV: “Kéo Thẳng” = Căng, Căng nhiều là “Căng Căng” = Cắng, 0+0=1, Cắng có nghĩa là “Kéo dài mãi lằng Nhằng” = Cắng, và nho viết từ Cắng bằng nhấn mạnh hơn nữa là “Hẳn Cắng” = Hằng, nghĩa là cứ kéo dài mãi gọi là vĩnh hằng. Quẻ Cấn tượng Núi. Cái tên Cấn là tên Việt, chính là Cồn, do nôi khái niệm : Núi=Non=Hòn=Cồn=Cấn. Núi là do đất đá “Cao Tôn” = =Cồn (do núi lửa phun trào chẳng hạn) nhô lên hơn với mặt bằng xung quanh, nếu mặt bằng đó là mặt biển hay mặt sông thì Cồn chính là chỗ “Đất tôn Cao” = Đảo. Ở mặt bằng đất liền thì Cồn là núi, ở mặt bằng nước của sông hay biển thì Cồn là Đảo, như các địa danh Cồn Cỏ hay Côn Đảo. Từ đôi Cồn Đảo = Cù Lao = Pu Lao (tiếng Mã Lai). Núi dài thì nó Ngăn thành cái Ngấn, Ngang nền trời, Ngăn tầm mắt nhìn, gọi là “Cồn Ngấn” = Cấn 艮. Nho viết chữ Cấn 艮nghĩa là Cồn, là Núi. Cấn chuyển nghĩa thành Ngang =Ngấn. Nho viết biểu ý chữ “Hẳn Cấn” = Hấn 很 bằng “Hành 行 Cấn 艮” = Hấnb 很, nghĩa là Ngang, chuyển nghĩa trừu tượng là ngang bướng, bất phục tùng. TVGT: 艮 Cấn, 很 hấn 者 giả,不 bất 聽 thính 從 tùng 也 dã ( Cấn là Hấn, là không nghe theo, không phục tùng). Đây là chuyển nghĩa của Cấn vốn nghĩa đen là Núi. Nhiều địa danh ở TQ còn giữ tên đặt theo kiểu Việt của thời xa xưa như Cấn Nhạc 艮 岳 (tức Cồn Nhạc, Hòn Nhạc ở tỉnh Hồ Nam, Hán ngữ gọi là Nhạc Sơn 岳 山), Cấn Sầm 艮 岑 (tức Cồn Sầm, Hòn Sầm) ở vùng Đông Bắc TQ, nếu viết theo Hán văn phải gọi là Sầm Sơn 岑 山; Cấn Phong 艮 峯 (tức Cồn Phong, Hòn Phong) nếu viết theo Hán văn phải gọi là Phong Sơn 峯 山. Chữ Cấn 艮 còn dùng để phiên âm nhiều từ Việt khác: (1) Phiên âm cho từ Con như từ Nho Cấn 儒 艮 (tức là Con Nho, một loài động vật có vú thuộc họ rái cá, từ này viết kiểu Hán văn nhưng không viết là Nho Tử 儒 子 mà lại là Nho Cấn儒 艮). Vì Con = Kô (tiếng Nhật) = Cò (tiếng Thái) = Cu (tiếng Thanh Hóa) = Tu (tiếng Tày và tiếng Quảng Đông) = Tủa (tiếng Hmông) = Tử 子 (chữ nho) = “Tử 子 Chi 之!” = Tí 子 (nhấn mạnh); (2) Phiên âm cho từ Cẳng như từ Cấn Chỉ 艮 止 (tức là Cẳng 艮 + “Chẳng Đi” = Chỉ 止), có nghĩa là Dừng, từ Cấn Chỉ hay dùng trong thành ngữ Việt là “quết trầu cấn chỉ” tức ăn trầu và để cho vệt nước trầu đỏ thắm Dừng thành ngấn ngang trên vành môi, từ này cũng viết là Chỉ Cấn 止 艮 (tức “Chững Chi!” = Chỉ 止 + Cẳng 艮); (3) Phiên âm cho từ Cứng như từ Cấn Đầu 艮 头 (tức Cứng Đầu) chuyển nghĩa chỉ người phác thực thẳng thắn. Do chức năng vị trí trong dịch học nên tên Cấn của quẻ Cấn 艮 còn dùng chỉ hướng Đông Bắc. Rồi cũng do người xưa chia nhạc ra bát âm, lấy tên mỗi quẻ của Bát Quái để đặt cho một loại âm của một loại nhạc khí nên Cấn Âm 艮 音 là chỉ âm của nhạc khí ống thổi, Chấn Âm là chỉ âm của trống, Đoài Âm là chỉ âm của chuông, Ly Âm là chỉ âm của huyền cầm v.v. Bản thân Cồn là Hòn núi, tính Cứng nên chữ Cấn 艮 làm đại diện cho nghĩa là Cứng, là bất phục tùng, ngang bướng, “Hẳn Cấn” = Hấn 很, chữ này còn đọc là Ngận (Ngận = Ngăn = Ngáng = Ngang, vì núi thì nó che - chắn – ngăn - ngáng - ngang đường đi, dãy núi còn làm thành Ngấn ngang đường chân trời che tầm mắt nhìn), có nghĩa là không thuận theo, là bất phục tùng (“lì bướng như núi”, như trong từ Gây Hấn 衅 nghĩa là gây ra những việc trái ngang, hoặc từ Gay Cấn nghĩa là gay ngang xương rồi đây , Ngang=Ngay=Gay=Gây, như là mắc xương nó ngáng ngang cuống họng thì thật là Gay). Hán ngữ dùng chữ Cấn 艮 của quẻ Cấn, phát âm là “Cân” [ Gen 艮], dùng chữ Hấn 很 phát âm là “Hẩn” [Hen 很] với chuyển nghĩa là “rất”, vd: “Hẩn Hảo” là rất tốt.
    2 likes
  4. Kính thưa quí vị quan tâm. Dưới đây là những bài viết của tôi và Mộc Công, từ năm 2006 có nội dung liên quan đến thước Lỗ Ban dùng trong Phong thủy. Vậy bản chất của thước Lỗ Ban là gì? Nó là một hiện tương "chưa được khoa học công nhận" & "Chưa được khoa học chứng minh" , một vấn đề "nhảm nhí", "mê tín dị đoan" "không có cơ sở khoa học" hay thực chất là một tri thức cao cấp của một nền văn minh cổ xưa đã bị hủy diệt - Nền văn minh Lạc Việt trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương tử? Để tìm hiểu vấn đề này, xin quý vị theo dõi loạt bài viết dưới đây của tôi và Mộc công ================================== ================================== ================================== ================================== ================================== Quí vị quan tâm thân mến. Trong Phong Thuỷ lưu truyền 4 cái thước Lỗ Ban. Hai loại thước sử dụng phổ biến nhất là 52 cm và 42 cm. Nay trên cơ sở những phát hiện của khoa học hiện đại, chúng ta thấy rằng: Có sự tương ứng một cách kỳ lạ giữa các con số này của các nền văn minh trong không - thời gian khác nhau. Tôi nghĩ rằng: Đây không phải la những con số ngẫu nhiên trùng hợp giữa một kết quả "mê tín dị đoan" của nền văn minh Đông phương và khoa học hiện đại. Bởi vì những con số này - PHI - và thước Lỗ Ban dùng trong phong thủy - đều là kết quả đo đạc trực quan từ tổng hợp những tỷ lệ có trong tự nhiên. Nhưng rõ ràng khoa Lý học của nền văn minh Đông phương đã ứng dụng một cách chi tiết trong Phong thủy - một ngành của Lý học. Còn nền văn minh hiện Đại chỉ dừng lại ở mức khám phá hiện tượng và sự ứng dụng hạn chế. Như vậy có những vấn đề đặt ra là: * Phải chăng, chúng có xuất phát từ một cội nguồn văn hóa duy nhất là nền văn minh Atlantic. * Những con số 42 và 52 trong phong thuỷ dùng vào những việc gì khi cả hai đều có sự trùng khớp trên. Điều này tôi cho rằng: Thước 42 cm trong Phong Thuỷ - Tức 4116 trong tỷ số vàng - dùng trong Âm trạch - Mà văn minh cổ đại gọi là "Thước của Sa Tăng". Tức Âm trạch. Thước 52cm - tức 51113 trong tỷ lệ vàng - dùng trong Dương trạch . Ngoài ra chúng tôi còn phát hiện được rằng con số 5.08 cm tương đương một chu kỳ bước sóng của Địa từ trường.
    1 like
  5. Cái tên gọi của quẻ Khảm 坎 Hán ngữ không có âm ngậm môi, không phát âm được vần “am”, nên muốn phiên âm vần “am” thì Hán ngữ phải mượn vần “an” mà Hán ngữ có. Do vậy Hán ngữ đọc chữ Khảm 坎 là “Khản” [ 坎 pinyin: Kan]. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Bậc cửa cũng gọi là “Khản” (do phiên âm lơ lớ từ Cản của tiếng Việt), chặt cây cũng gọi là Khản (do phiên âm lơ lớ từ Đẵn của tiếng Việt, từ nôi khái niệm: Chặt=Chém=Trảm=Đâm=Đẵn. Quẻ Khảm 坎 tượng trưng Nước, cái tên Khảm xuất xứ từ nôi khái niệm : Nác = Nước = Nậm (tiếng Tày) = Nam (tiếng Thái Lan) = ”Khe Nam” = ”Khuổi Nam " = “Khẳm Nam” = Khảm, nước đầy khi nó dồn vào hố trũng, gọi là đầy khẳm. Từ Khe có nghĩa nguyên thủy là Té . Nôi khái niệm: Té = Tức (tiếng Khơme) = Đức = Đác = Nác = Nước = Nậm (tiếng Tày) = Nam (tiếng Thái Lan) . Té nghĩa là nước, đi Té Re là đi Nước Ra (nhấn mạnh “Ra Hè!” = Re). Nhấn mạnh “Té Hề!” = Tế. Muốn tế gì cũng phải có nước ( tế lễ có té nước thánh). Té chuyển nghĩa thành trợt ngã gọi là Té vì tính của nước là Ướt = Trượt = Trợt = Rớt, Té nguyên là từ của dân sông nước, đã nói là Té có nghĩa là rớt xuống nước, dùng quen rồi, khi lên bộ vẫn gọi là “Té xe Hon Da”. Chữ Khảm 坎 viết biểu ý là đất (Thổ 土) thiếu (Khiếm 欠), tức là chỗ bị sụt lún thành cái Hố, cái Huyệt, nếu rơi vào đó thì sẽ bị Giam, bị Ám, bị Yểm mà nằm yên tại đó chứ không thoát ra được. Nó là cái “Hố Yểm” = Hiểm 險, là cái “Hố Giam” = Hãm 陷. Bị hãm trong cái hố nguy hiểm ấy thì đành phải chịu “Bị Ám” = Bám ở đấy thôi, không thể thoát ra được, tức bị “Khép Hãm” = Khảm 坎 tại đó, giống như sơn ta hay vỏ trai bị “Khảm” chặt vào bề mặt đồ gỗ, không bong đi được. Nước chảy đầy hố là do tự nhiên “nước chảy chỗ trũng”, rồi bị “Khép Hãm” = Khảm 坎 trong giới Hạn của cái hố đó, giống như nước sôi đổ vào giới hạn cái ấm để Hãm ấm trà, không chảy đi đâu được nữa. Chính vì vậy mà Quẻ Khảm 坎 được dùng để tượng trưng Nước, bởi tính cách của nước là rất Bám = Khảm, chảy trên đá nó bám đến mức bào mòn trơn cả đá. Trong “Chu Dịch” có nói quẻ Khảm mang nghĩa là Hãm 陷, là Hiểm 險 v.v. Cái tên gọi là Khảm 坎 đó là từ tiếng Việt ở nôi khái niệm “nước chảy chỗ trũng”: Nước=Nậm=Nam=Bám=Khảm=Hãm=Hiểm=Huyệt=Hố. Ở vùng trũng mùa lụt thì như trong cái hố nước, sẽ cảm nhận được là Khảm nó Hãm và Hiểm như thế nào. Nôi khái niệm trên so sánh với phát âm của Hán ngữ: Nước(1)=Nậm(2)=Nam(3)=Bám(4)=Khảm(5)=Hãm(6)=Hiểm(7)=Huyệt(8)=Hố(9) Shui(1)=Shui(2)=Shui(3)=Nian(4)=Kan(5)=Xian(6)=Xian(7)=Xue(8)=Keng(9) Nôi khái niệm trên từ Nậm(2) là nước tiếng Tày, từ Nam(3) là nước tiếng Thái Lan. Chỉ có một từ số (5) phát âm giống nhau giữa Việt và Hán mà thôi, là từ Khảm 坎 = “Khản” [ Kan 坎 ], do Hán ngữ mượn từ Khảm 坎, nhưng không phát âm được âm ngậm “am” do Hán ngữ không có, nên phải thay thế bằng âm mở “an” thành ra lơ lớ là “Khản”. Những chuyển nghĩa của chữ Khảm 坎: 1/ Cái khe hiểm gọi là “Khe Hiểm” = Khiếm 堑, ghép Khiếm Khảm 堑 坎 để chuyển nghĩa chỉ cái hố sâu. 2/ Nước Đầm phiên âm bằng chữ Khảm Đảm 坎 窞, chuyển nghĩa thành chỉ nơi nguy hiểm. 3/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm từ lướt “Khó Làm” = Khảm, chuyển nghĩa thành chỉ lúc thời cơ gấp rút hoặc chỉ nơi hiểm yếu, gọi là Khảm Nhi 坎 儿 (Khó Làm Nhỉ) 4/ Loại sơn dùng để khảm cái quan tài viết bằng chữ Khảm Hậu Tất 坎 侯 漆 5/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm từ lướt “Khỏi Làm” = Khảm, chuyển nghĩa chỉ sự bất đắc chí , do vậy mà Lẩn tránh Khỏi Làm, bằng chữ Lận Khảm 凛 坎 6/ Người đánh xe hay người khiêng kiệu là bị “Khép Hãm” = Khảm dính với cái xe hay cái kiệu, gọi là cái nghề Hiệu Khảm 号 坎, tức là vừa có số má vừa bị gắn chặt vào đó. 7/ Từ Nước Sâu viết bằng chữ Khảm Thâm 坎 深 chuyển nghĩa thành ngụ ý là nơi chốn nguy hiểm. 8/ Từ Khảm Chỉ 坎 止 chuyển nghĩa thành gặp nguy Hãm thì “Chẳng Đi” = Chỉ, tức dừng lại khi gặp nguy. 9/ Dùng chữ Khảm 坎 để phiên âm tên cái Khèn, là nhạc khí bằng ống tre có họng thổi, gọi là cái Khảm Hầu 坎 侯
    1 like
  6. Cái tên gọi của quẻ Chấn 震 Hán ngữ phát âm chữ Chấn 震 là “Trân” [ 震 pinyin: Zhen], chỉ có hai nghĩa là rung động và là “tên một quẻ trong bát quái”. Các từ đồng âm dị nghĩa khác là: Mặt trận cũng gọi là “Trân"[ 陣 pinyin: Zhen], thị trấn cũng gọi là “Trân” [ 鎮 Zhen], trấn áp cũng gọi là “Trân” [鎮 Zhen] ,phát chẩn (Phát 發 + “Cho Dân” = Chẩn 賑) cũng gọi là “Trân” [ 賑 Zhen]. TVGT: Chấn 震, đọc thiết “Chương 章 Nhẫn 刃” = Chấn 震. TVGT: 震 Chấn, 劈 phách 歷 lịch 振 chấn 物 vật 者 giả (văn viết theo kiểu xuôi của Việt, nghĩa: là cú đánh lướt qua, làm rung động mọi vật). Chấn 震 chuyển nghĩa thành Chấn 振 là rung động. Chữ Phách 劈nghĩa là cú đập, còn có từ Gõ Phách, Phách 劈 có gốc do bộ thủ Phốc 攵 của tiếng Việt nghĩa là đập, như con châu chấu nhảy “phốc” một cái, như con gà trống đá “phóc” một cú, của nôi khái niệm: Đập = Đốc 督 (đốc thúc) = Phốc 攵 = Phang = Phảng (cái phảng phát cỏ của Nam Bộ) = Phách 劈 = Phát 發 = Tát (tát tai) = Tạt (tạt a xít) = Bạt (bạt tai) = Phạt 罰 = Phá 破 = Đả 打 = Đánh = Phanh (“thề phanh thây…”) = Phẫu 剖 = Phóc = Xọc = Xóc (“đòn xóc hai đầu”) = Hóc (hóc xương, gai góc) = Húc (“trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”). Chữ Phách 劈 đã có các chuyển nghĩa: (1) Bổ, xẻ (bổ củi, xẻ gỗ); (2) Nhằm vào, đâm vào; (3) Sét đánh hỏng hay chết; (4) Lưỡi rìu. Do đó mà có quan niệm “thần sét hay ông thiên lôi dùng lưỡi tầm sét làm vũ khí wuýnh người một cú là chết thẳng cẳng”. Chữ Lịch 歷 nghĩa là : “Lướt qua Đó!” = Ló = “Lướt qua Đấy!” = Lấy = “Lướt qua Đích!” = Lịch 歷, lịch sử dù một trăm năm hay một nghìn năm cũng chỉ là một cái Ló thoáng lướt qua trong vũ trụ nhưng đã có thể Lấy đi biết bao sự kiện và sinh mạng, nên mới gọi là Lịch 歷 + “Sờ sờ sự thật ra đó Chứ!” = Sử 史, thành ra Lịch Sử 歷 史. TVGT: Chấn 震 viết biểu ý bằng chữ Vũ 雨( ý nói xảy ra trong cơn mưa), tá âm bằng chữ Thần 辰 (là để mượn vần “ân”), thành chữ Chấn 震. TVGT: 震 Chấn, 疾 tật 雷 lôi 之 chi 名 danh (Chấn, là tên gọi cú Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi nhanh mạnh mẽ). Chữ Tật 疾 nghĩa là nhanh mạnh mẽ vì nó là “Tốc 速 Thật實” = Tật 疾 (Nếu thiết theo Hán ngữ thì là “Su 速 Shi 實” = Ji 疾, thì trật, không thể thành đẳng thức “Su Shi” = Si được, dù đó là logic về ý nghĩa giữa ba từ khi thiết hai từ có sẵn thì tạo nên từ mới thứ ba. Vậy cái âm Việt của đọc chữ nho Việt là từ thuần Việt, chứ không thể vì thấy nó có viết bằng chữ nho mà gọi nó là “từ Hán-Việt” hay là cái “tố gốc Hán” được, như Từ điển của Viện ngôn ngữ giải thích). Chữ Lôi 靁 là do Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi (nghĩa đen tiếng Việt đều là cú đấm rất nhanh). TVGT: 疾 tật 靁 lôi 爲 vi 霆 đình, nghĩa: cú đấm nhanh (Lôi 靁) nhanh mạnh mẽ (Tật 疾) là (Vi 爲) cú “Đấm thình Lình” = Đình 霆 (trời đấm thì đố ai biết được là khi nào, đều rất nhanh và bất ngờ nên gọi là thình lình: “Thiên Rình” = Thình, “Lọi cho thất Kinh” = Lình. Thiên rình thiên lọi thất kinh, thành ra hai chữ thình lình đó thôi), nên khi chuyển nghĩa Lôi thành sấm thì còn có từ Lôi Đình 靁 霆 và thành ngữ “nổi trận lôi đình”. Vậy Chấn 震 và Lôi 靁 đều xuất xứ từ tiếng Việt, nghĩa đen của Lôi 靁 là cú đấm nhanh: Thụi = Thúc = Thoi = Lọi = Lôi, Lôi 靁 được Hán ngữ dùng để sử dụng cái chuyển nghĩa của nó là để chỉ sấm. Còn Chấn 震chính là từ Sấm, trong cái nôi khái niệm “cú đấm rất nhanh cũng như quả đấm để thụi rất nhanh làm vật rung động có thể dẫn đến chết chóc”: Chết = Giết = Sét = Sát 殺 = Sấm = Đấm = Đâm = Châm 針 (chuyển nghĩa thành châm cứu là làm rung động huyệt thần kinh) = Chấn 震 = Chọc = Chóc = Chưởng 掌(cú đấm, chuyển nghĩa của quả đấm bằng nắm tay) = Choảng (choảng nhau) = Chết, tất cả mọi từ trong nôi khái niệm này đều có thể gây ra chết chóc. Sấm sét nó đánh thì đồng thời nó nổ to, tức là nó “Choảng nghe nổ rần Rần” = Chấn 震 (chữ Chấn 震 này nghĩa là Sấm), chuyển nghĩa thành rung động là dùng chữ Chấn 振 này. Về sau chữ Chấn 震 là tên quẻ Chấn được Hán ngữ ghép với nhiều từ khác thành nhiều chuyển nghĩa khác nữa trong khoa học hiện đại như Địa Chấn 地 震, Chấn Cấp 震 级 ;trong văn học chuyển nghĩa thành sợ hãi như Chấn Cụ 震 惧,chuyển nghĩa thành nổi tiếng như Danh Chấn Nhất Thời 名 震 一 时 (không “Nổ như Sấm” thì làm sao mà Nổi tiếng một thời được, tuy nhiên chỉ được “nhất thời” thôi, sang thời khác thì hết nổi tiếng).
    1 like
  7. Tôi nói rõ thêm rằng: Việc đặt vấn đề "sự thành công, hay thất bại của con người là do gen?" của tri thức khoa học hiện đại, chưa phải là một hệ thống lý thuyết. Nhận thức này vẫn mang tính trực quan bằng quan sát thông qua phương tiện kỹ thuật. Và từ đó phát hiện cấu trúc gen với những ảnh hưởng của nó với con người. Nhưng Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - đã phát triển thành một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, mô tả tính cách con người và cả quy luật tương tác từ vũ trụ, thể hiện qua mô hình biểu kiến hóa, thành phương pháp coi Tử Vi Đông phương qua lá số Tử Vi, dự đoán có hiệu quả số phận, đến từng hành vi của con người qua ngành học này, từ hàng ngàn năm trước.
    1 like