• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 19/06/2014 in Bài viết

  1. Táng Kinh là một cuốn sách cổ từ cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ thư 1II AC, làm gì có chuyện mô tả "Tuế Tính chính là sao Mộc với chu kỳ quay quanh mặt trời 11.86 năm ". của kiến thức khoa học hiện đại.Trong "Tìm Về cội nguồn Kinh Dịch" tôi đã chứng minh Thái Tuế trong cổ thư chính là sao Mộc khi sắp xếp các sao tình từ Mặt Trời - Trung Cung thuộc thổ - ra bên ngoài. (Nguyên lý quái Cấn ở trung cung"). Sao Mộc là sao lớn nhất trong hệ thống hành tinh của Mặt trời gần trái đất. Nên sự tương tác của nó rất mạnh. Trong Tử Vi, cũng như trong Phong thủy Lạc Việt, không quan tâm đến sao này là một sai lầm lớn.
    5 likes
  2. Chạy Vạy Chạy Vạy,VD: “Chạy vạy khắp nơi cố kiếm cho đủ vốn mà mở công ty”. Sách của Ngôn ngữ học giải thích: “Chạy Vạy là một từ láy trong đó từ “chạy” là từ rõ nghĩa, từ “vạy” là từ mờ nghĩa, còn gọi là “từ chờ” chưa sử dụng (sai!), ý nghĩa chạy vạy diễn tả sự vất vả (đúng!)”. Từ Chạy Vạy không phải là động từ nói về hình thức di chuyển, mà là từ nói về phương hướng di chuyển, nghĩa đen của Chạy Vạy là Dọc Ngang, chuyển nghĩa thành đại diện cho mọi hướng, diễn đạt sự vất vả trong tìm tòi. Dọc = Dài = Chải = =Chảy = Chạy = Chuyển = Chuyến = Tuyến 線. Từ Tuyến 線 chuyển nghĩa thành chỉ cái vạch, sợi dây, đường đi, đường lối. Nôi khái niệm này nói về xu thế của Giọt nước, bao giờ nó cũng theo hướng của trọng lực mà chảy thẳng xuống, tức nó “Dọc Chọt” = Giọt. Trong câu Giọt Nước thì Giọt là danh từ, trong câu Nước Giọt thì Giọt là động từ. Nước nó “Chảy Dọc” = Chạy (lướt lủn), chạy liên tục là “Chạy Chạy” = Chảy, 0+0=1, gọi là chảy cuồn cuộn, đó chính là sự Chải theo chiều Dài, như ”thuyền bơi chải”. Dài = =Dòng = Dõng 涌 (tiếng Phiên Ngung) = Dũng 涌 = Giang 江 = Kang 江 ( tiếng Triều Châu) = Kinh 泾,經. Nối với nôi khái niệm trên ta có nôi khái niệm đầy đủ hơn nói về di động của nước: Kinh=Kang=Giang=Dũng=Dõng=Dòng=Dọc=Dài=Chải=Chảy=Chạy=Chuyển = Chuyến = =Tuyến. Do đó mà có từ Kinh 經 Tuyến 線 chỉ cái vạch dọc trên bản đồ. Ngang = Ngáng = Ngăn = Ngay = Vạy = ”Vạy Chi!” = Vĩ 緯. Thường nói “ngay trước mặt” tức bị chắn ngang trước mặt. Do nôi khái niệm “ngang” này mà có từ Vĩ 緯 Tuyến 線 chỉ cái vạch ngang trên bản đồ. Dài = Dọc = Dõng 涌 = Dũng 涌 = Vùng = Tung 縱 (1). Vùng = Dũng = Dọc , nghĩa là tư thế đứng thẳng, nên có từ Vùng Lên là đứng thẳng lên và từ Dũng 勇 Cảm 敢 là dám đứng thẳng (“Có Dám” = Cảm 敢, viết khác với Cảm 感 động là từ đồng âm dị nghĩa). TVGT: Dũng 勇, đọc thiết “Dư 余 Long 隴” = = Dõng (đó chính là Dõng = Dòng = Dăng = Căng = Thẳng như sợi dây căng khi dăng nó ra thì nó rất thẳng). TVGT: 勇 Dũng, 气 khí 也 dã; 气 khí, 雲 vân 气 khí 也 dã (Dũng là khí ; khí là hơi nước) . Như vậy Dũng là cái tính cách bốc thẳng lên như khí, như hơi nước , do vậy mà người có tính thẳng gọi là người có Dũng Khí. Dũng Khí là cụm từ ghép tắt kiểu Việt, nêu ý "Dọc thẳng đứng như Khí bốc lên", chứ không phải là "từ H-V" (!). "Dọc thẳng Đứng" = Dứng = Dựng = Dũng. Cọc tre làm cốt vách khi dựng vách nhà bằng cách đắp rơm nhồi bùn gọi là cây Dứng. Từ dân gian trong lao động chỉ cái cọc tre cắm “Dọc Đứng” = Dứng, là cây Dứng (từ kỹ thuật chuyên môn đấy !) rồi mới sinh ra từ hàn lâm có viết bằng chữ nho là chữ Dũng 勇 ( có bộ Lực 力 chỉ cái cọc chịu lực của bức vách) nghĩa đen là đứng thẳng, nghĩa chuyển là thẳng tính; hay ngược lại như tinh thần là: “người Việt đã Việt hóa hoàn toàn chữ Dũng 勇 là cái tố gốc Hán để đặt ra từ Dứng chỉ cái cọc tre làm cốt vách đắp bằng rơm nhồi bùn cho cái “nhà tranh vách đất” của mình”, như Từ điển Yếu tố Hán-Việt của Viện ngôn ngữ (NXB KHXH HN 1991) giải thích (trang 104, “Dũng 勇: có sức mạnh thể chất và tinh thần hơn hẳn bình thường, dám làm những việc thấy nên làm”). Thưa, đấy chỉ là chuyển nghĩa của chữ Dũng thôi ạ. Quan thoại đã mượn chữ Dũng 勇 của Nhã ngữ và chỉ dùng nó với cái chuyển nghĩa này, vậy sao lại coi cái chuyển nghĩa là cái tố gốc được ? . Dũng nghĩa đen là Dọc, tức chiều thẳng đứng, đã chuyển nghĩa để chỉ tính cách thẳng tính nên chữ Dũng viết biểu ý có bộ Tâm 心 (Dũng 恿) hoặc bộ Lực 力 (Dũng 勇) hoặc xưa hơn là bộ Qua 戈 (Dũng 㦷), do đó mà sinh ra chuyển nghĩa là "dám làm những việc thấy nên làm". Ngang = Ngáng = Ngay = Vạy = Vẫy, Ngang = Hàng 行 = Hoành 橫 (2). Do hai nôi khái niệm (1) và (2) này mà có từ đối Vẫy Vùng = =Ngang Dọc và từ đối Dọc Ngang = Tung Hoành. Dân đánh cá ngoài biển nói “dọc ngang biển khơi” = “tung hoành biển khơi”, hay nói “ngang dọc biển khơi” = “vẫy vùng biển khơi”. Vẫy Vùng Biển Khơi là bốn chữ nôm na, gọn lại chỉ còn là hai chữ Bơi Biển. Vì Vẫy đã chuyển nghĩa thành “bơi” (nho viết từ Vẫy bằng chữ Du 游, nghĩa là bơi, vì Vẫy = Dẫy = ”Dẫy Chứ!”= Du 游), Vùng đã chuyển nghĩa thành “bơi” (nho viết từ Vùng bằng chữ Vịnh 泳, nghĩa là bơi, vì “Vùng là tiếng Kinh” = Vịnh 泳), Biển Khơi đã lướt thành “Biển Khơi” = Bơi. Hán ngữ dùng từ đôi bằng hai chữ nho Du Vịnh 游 泳 để chỉ ý bơi, phát âm lơ lớ là “You Yong 游 泳”. Cá (là “Pá” tiếng Thái-Lào, là “xa-Ca-na” tiếng Nhật) thì biết Bơi trong Bầu nước (tức biết Bước = ”Bước Chớ!” = Bộ 步 = ”Bộ trong bầu Cối” = Bơi, vì nó có Vi = Vây = Vạy = Vẫy nằm ngang hai bên thân nó. Chim thì biết Bay trong Bầu trời (tức biết “Bộ trong bầu Chày” = Bay. Bay = Phay (cắt thẳng, như máy phay) = “Phay Chi!” = Phi 飛. Dân Việt là dân Chày/Cối tức là dân mà phải có Trời/Biển thì mới sống được. Cả thế giới chỉ có mỗi Việt Nam gọi là Đất/Nước, vì lãnh thổ của nó là có hai nửa, một nửa là dải đất hình chữ S và một nửa là Biển Đông, phải giữ trọn cả hai nửa thì mới cân bằng D/Â để mà Sống/Mái (cặp từ đối Đực/Cái này đã chuyển nghĩa thành đấu tranh cương quyết một sống một chết, gọi là "cương quyết sống mái với quân xâm lược", để giữ đất nước mà tồn tại như một dân tộc của người Việt trong hàng nghìn năm lịch sử). Đoạn viết trên là LM viết theo cảm tính, thấy rằng cặp từ đối Ngang/Dọc = Vẫy/Vùng = Hoành 横/ Tung 縱, để chứng minh ngôn từ dân gian Việt (viết bằng chữ khoa đẩu) là có trước ngôn từ hàn lâm Việt (viết bằng chữ nho). Bây giờ mới tra mạng Thuyết Văn Giải Tự [ 说文解字在线查询-词典网 ] để xem hơn hai nghìn năm trước học giả sử dụng chữ nho đã giải thích như thế nào, thì thấy cũng đúng như LM cảm nhận: 1.1 / Hoành (Ngang) TVGT: Hoành 横 (cổ viết là 衡), đọc thiết “Hộ 戸 Manh 盲” = Hành. (Như vậy đúng nôi khái niệm Ngang = Hàng 行 = Hành 行 = Hoành 横, từ đôi Hoành Hành 横 行 là để nhấn mạnh cái sự ngang tức là phá ngang, tức phá cái Ngay. Ruộng lúa đang xanh mơn mởn đó là một sự Ngay, sự chính đáng, bỗng bị bầy châu chấu đến “hoành hành”, tức đến phá ngang cuộc sống chính đáng của lúa). TVGT: Hoành 横 là chữ giả tá. (Như vậy là Hoành 横 có bộ Mộc 木 biểu ý tấm ván cửa chắn “ngang” và mượn âm chữ Hoàng 黄 là vàng để có âm của “ngang” .TVGT: 横 Hoành, 闌 lan 木 mộc 也 dã (Hoành là ván ngang), 闌 lan, 門 môn 遮 giá 也 dã (lan là cửa che). Chữ Lan 闌 viết biểu ý là cái Cửa (bộ thủ Môn 門), mượn âm chữ Giản 柬, đọc lướt hai chữ là “Cửa 門 Giản 柬” = Cản, là chức năng của cái cửa ấy là che, tức nó có chức năng “Làm cái việc Cản” = Lan 闌, âm tiết Giản có nghĩa là giản lược tức giảm bớt, cửa che chắn ngang là giảm bớt sự đi lại vì nó có lúc mở lúc đóng, không phải lúc nào cũng mở thông thống, đến như cái “Cửa Thông” = Cổng cũng còn có cánh nữa là. Chữ Giản 柬 được chuyển nghĩa để chỉ “thư tín” vì thư tín chỉ là sự giao tiếp giản lược khi cách xa, không thể nói đầy đủ như khi giao tiếp gặp mặt được. Ngang là chỉ hướng vị trí, vd: Ván Ngang (Ngang chỉ vị trí của tấm Ván, lúc này Ngang là tính từ). Nhưng nhấn mạnh “Ngang Ngang” = Ngáng, 0+0=1, thì Ngáng thành động từ, vd: Ván Ngáng (Ngáng chỉ chức năng của tấm Ván). Hàng rào bằng cây để chắn bảo đảm an toàn gọi là cái Lan 欄 Can 桿, nhưng người Nam Bộ phát âm là cái Lang Cang cũng hoàn toàn đúng vì “Làm Ngáng” = Lang và “Cây Ngáng” = Cang, hoàn toàn tương đương với “Làm Cản”= Lan và “Cây Cản”= =Can. Đứng chắn ngay trước mặt gây vướng, người Bắc Bộ gọi là đứng “Láng Cháng” (tức là đứng làm ngáng cho ngang, thật là khó coi, gây vướng mắt người khác, “Làm Ngáng” = Láng, “Cho Ngang” = =Cháng). Chữ Môn 門 thì Hán ngữ dùng chỉ cái Cửa, đó là cách dùng khi chữ Môn 門 đã chuyển nghĩa thành Cửa. Nguyên gốc Môn 門 chỉ có nghĩa là Nghe, là từ gốc Việt do lướt “Mó Ồn” = Môn, tức là tiếp xúc với tiếng ồn để mà nhận biết (tức là nghe). TVGT: 門 Môn, 聞 văn 者 giả (Môn là nghe), 謂 vị 外 ngoại 可 khả 聞 vắn 於 ư 內 nội, 內 nội 可 khả 聞 vắn 於 ư 外 ngoại 也 dã (là nói ngoài có thể nghe ở trong, trong có thể nghe ở ngoài). Chính cái ý trong ngoài có thể nghe nhau mà “Mó Ồn” = =Môn 門 đã chuyển nghĩa thành đồng nghĩa với cái Cửa thông thống. Do vậy mà chữ Môn 門 cũng còn đọc là Cửa. Còn chữ Lan 闌 thì rõ ràng là như đọc nó: “Cửa 門 Giản 柬” = Cản = “Làm Cản” = Lan 闌, diễn đạt cái sự hạn chế, ngăn cản, như từ Lan 欄 Can 桿. (Nếu là Hán ngữ đọc thiết thì là “Mấn 門 Chẻn 柬” = Mẻn thì không thể ra được âm tiết “Lán” lơ lớ như của họ vẫn đọc chữ Lan 闌 là từ gốc Việt). Nôi khái niệm của sự hạn chế là: Ngang=Ngáng=Ngạch=Ngưỡng=Ngàm=Ngăn=Chặn=Chắn=Che=Chế=Chuồng==Ruồng=Ràng=Càng=Còng=Cùm=Căn=Cản=Hạn==Lan=Can=Càn=Cũi=Kìm=Kẹp=Cạm=Hãm=Giam=Giá. Hãm Che bớt ánh sáng là viết bằng chữ Hạn 限 Chế 制 bớt ánh sáng. Che ngọn đèn sáng lại tức Giam 監 ngọn đèn sáng lại, không cho nó lọt ánh sáng ra ngoài, nho viết từ Che bằng chữ nhấn mạnh là “Giam Ạ!” = Giá 遮. Hán ngữ dùng chữ Giá 遮 với nghĩa là Che, nhưng đọc phát âm từ Che thì lơ lớ là “Trưa” [Zhe 遮]. Nếu không có TVGT cách nay hơn hai ngàn năm giải thích Môn 門 có nghĩa gốc là Nghe thì không lần ra được cái gốc Việt của nó là “Mó Ồn” = Môn (tức là nghe), rồi Môn 門 chuyển nghĩa thành đồng nghĩa với từ Cửa đã có sẵn. Mó nghĩa là dùng một cơ quan nào đó của cơ thể Chạm vào vật thể hay môi trường ngoài nhằm so sánh để cảm nhận được nó, Mó = Cọ = So = Sờ = Súc = Xúc 觸 = Tục 續 = Tiếp 接, nghĩa là như từ đôi Tiếp Xúc 接 觸; (hai vật hay hai thời kề nhau mà chạm nối với nhau thì gọi là Kế Tục 繼 續). Mó có mục đích là tìm tòi, nguyên gốc của nó là từ Mo (tiếng Việt đã chuyển từ không có thanh điệu thành có thanh điệu). Mo nghĩa là tìm tòi, chuyển nghĩa thành chỉ người tìm tòi để dự đoán sự việc, gọi là thày Mo, tức thày phù thủy, trong xã hội mẫu hệ xưa thường là những bà Mo: Mo = Mụ = U = Vu 巫, nên nho viết từ Mo bằng chữ Vu 巫 (“Viết U” = Vu 巫). Công việc tìm tòi thì phải nhiều tìm tòi, nhấn mạnh là “Mo Mo” = Mó, 0+0=1, và “Mo Mo” = Mò, 0+0=1, (biến thanh điệu theo nhị phân cho ra ba đáp số bằng 1 như nhau, đáp số thứ ba là “Mo Mo” = Mỏ, được dùng chuyển nghĩa chỉ cái Mỏ con chim là công cụ tìm tòi thức ăn của nó, “Mỏ tìm Tòi” = Moi), nho viết từ Mó (hay Mò) bằng nhấn mạnh thành chữ “Mó Ạ!” = Ma 摸 (sau có từ đôi Ma Sát đồng nghĩa Cọ Sát, vì Sờ = Sát). Mo nghĩa là tìm tòi cũng đã theo QT Nở nở ra từ dính Mò-Mẫm, nho viết từ Mò-Mẫm bằng chữ Ma 摸 Môn 門, nghĩa đen là vừa sờ (Mó = Ma 摸) vừa nghe (Mẫm = Môn 門, vì ”Mó Ồn” = Môn cũng là “Mó Âm 音” = Mẫm). Từ dính Mò-Mẫm không phải là từ láy như Ngôn ngữ học giải thích, rằng Mò là rõ nghĩa còn Mẫm thì đang còn mờ nghĩa (!). Mẫm không phải là không có nghĩa, Mẫm có nghĩa là “Mó Âm” = Mẫm, nghĩa là nghe, như là “Mó Ồn” = Môn. Từ dính Mò-Mẫm nghĩa là vừa sờ vừa nghe, chuyển nghĩa thành tìm cách giải quyết (lao động tư duy) chứ không chỉ còn ở chỗ chỉ động tác dùng cái gậy dò của người mù đi đường. Từ hàn lâm thường là từ đã được chuyển nghĩa. 1.2 / Vĩ (Ngang). TVGT: Vĩ 緯, đọc thiết “Vân 云 Qúi 貴” = Vĩ. TVGT: 緯 Vĩ, 織 chức 衡 hoành 絲 ti 也 dã ( Vĩ là dệt sợi tơ ngang). Như vậy đúng Vĩ là Ngang như cái vi cá: Vây = Vẫy = Vi = Vĩ. 2.1 / Tung (Dọc). TVGT: Tung 縱, đọc thiết “Túc 足 Dụng 用” = Tung. TVGT: 縱 Tung, 緩 hoãn 也 dã (Tung là hoãn). Hoãn 緩 có nghĩa là kéo Dài, chữ Hoãn 緩 có bộ 系 Tơ = “Tơ Chi” = Ti nghĩa là sợi, dùng trong nghề dệt, sợi kéo dài là sợi dọc tức sợi kinh, nho viết là Kinh Tuyến 經 線, chuyển nghĩa thành đường vạch Kinh Tuyến 頸 線 trên bản đồ là đường vạch dọc. TVGT: 緩 Hoãn 也 dã, 一nhất 曰 viết 舍 Xả 也 dã. Từ đôi Dọc Dài còn chuyển nghĩa thành Xa, mà từ đôi “Xa Xa” = Xả , 0+0=1,(nho viết chữ Xả 舍, 捨) đã chuyển nghĩa nữa thành bỏ đi, “dài tít mù xa”. Làm thì gặp thời cơ là phải làm liền, cứ Hoãn mãi thì thành trì hoãn rồi cũng thành bỏ đi, vô dụng, mất thời cơ, gọi là “để lâu cứt trâu hóa bùn”. 2.2/ Kinh (Dọc). TVGT: 經 Kinh, 織 chức 縱 tung 絲 ti 也 dã (Kinh là dệt Dọc sợi). TVGT: 東 đông 西 tây 耕 canh 曰 viết 橫 Hoành, 南 nam 北 bắc 耕 canh 曰 viết 由 do (cày hướng đông tây gọi là hoành, cày hướng nam bắc gọi là do). Do 由 đây là nhấn mạnh “Dọc Đó!” = Do 由(cũng như “Dọc Đấy!” = Dây, Dây: Sợi: Tuyến; “Dọc Đích” = Dịch, nghĩa là cứ đi dài xa mãi). TVGT: 南 nam 北 bắc 曰viết 經 Kinh, 東 đông 西 tây 曰 viết 緯 Vĩ (hướng nam-bắc gọi là dọc, hướng đông-tây gọi là ngang). Khi dùng viết Kinh Tuyến của bản đồ thì dùng chữ Kinh 頸 này, Kinh Tuyến 頸 線. Qua đoạn giải thích trên của TVGT đủ thấy văn phong xưa viết theo kiểu Việt: Nam trước Bắc sau, gọi là hướng Nam-Bắc (chứ không phải gọi là hướng Bắc-Nam như từ thời có nước Đại Thanh gọi); Đông trước Tây sau, gọi là hướng Đông-Tây . Văn minh xuất hiện ở đâu trước thì lấy đó làm đầu để bắt đầu hướng truyền bá hay phát triển . Người Kinh 京 đã cày từ Nam ra Bắc, hai con trâu cày đôi là con Dí bên Đông Di và con Thá bên Tà = Tây, bên Dí = Dập = Thấp là bên đất thấp hơn, còn bên Thá = Tháp = Thắp = =Chắp = Đắp là bên đất cao hơn. Dù khi cày bằng một con trâu người ta vẫn theo thói quen mà quát nó quẹo sang bên “Dí!” (“Rì!”) hoặc quẹo sang bên “Thá!” (“Tắc!”) và quát nó đứng lại là “Họ!” (“Hãm Đó!” = Họ!). Chữ Kinh 頸 chỉ hướng dọc Nam-Bắc, tức bắt đầu là từ Nam. La Kinh là cái "làm ra dọc", dù xoay kiểu nào thì kim của nó vẫn làm ra dọc, hướng Nam-Bắc (“Làm Ra” = La, Dọc = Kinh), Khổng Tử nói: “Chúng ta học cái văn minh của phương Nam”)
    2 likes
  3. Coi Trung cọng đòi dạy Việt cọng: (bài của Từ Hiểu Uy đăng trên Nhân Dân nhật báo bản hải ngoại) Dương Khiết Trì sang VN đàm phán biển Đông, khuyên VN hãy sớm quay đầu 杨洁篪访越谈南海 奉劝越南早日回头 372 字号:TT 2014-06-19 08:25:00 来源:人民日报海外版 责任编辑:徐晓威   在越南强力干扰中国公司在西沙群岛海域正常作业、导致紧张态势不断升级之时,中国国务委员杨洁篪前往越南,与越方举行中越双边合作指导委员会团长会晤。会谈中,中越双方均表示对双边关系的重视以及管控海上局势的意愿。一度剑拔弩张的南海局势稍稍得以缓解。 在当前中越关系出现波折、南海局势敏感紧张时期,中国高层官员借此平台与越南沟通,足见中方诚意和善意。中越双边合作指导委员会的成立,是基于 中越两国最高领导人在2006年达成的共识。双方委员会主席有举行年度会晤的做法。在当前越南单方面造成中越关系困局的背景,中国国务委员访越赴会,反 映出中国对两国合作历史、两党友谊以及人民感情的珍惜,也体现中方通过对话和沟通解决问题的意愿。   中国也是再次给越南提供悬崖勒马的机会。此前,中国已多次严正声明,西沙群岛是中国固有领土,不存在任何争议,要求越南停止对中方作业的干扰。 同时,中国反对越南将问题扩大化、复杂化、国际化。但越南一意孤行,在错误的道路上越走越远。此次杨洁篪在会谈中,再次对越南明确底线、晓以利害。中国希 望越南放弃不切实际的野心,停止制造新的争议,管控分歧,避免对双边关系造成更大伤害。   中国用心苦,奉劝越南“浪子回头”。但越南能否与中国相向而行仍是未知。就在杨洁篪访越前夕,越南总理阮晋勇要求国内减小对中国经济依赖。此 外,越南惯于利用与域外公司进行油气勘探合作的手段来“固化”其攫取的海洋权益,目前在此方面仍乐此不疲。而在国际仲裁问题上,越南也摩拳擦掌、跃跃欲 试。   尽管越方在委员会团长会晤中表示愿意遵守两国领导人就妥善处理双边关系中的敏感问题、避免使之干扰两党两国关系全局达成的重要共识,但 鉴于历史经验,越南仍让人心存疑虑。就在去年中国国家领导人访越之际,越南还与中国确认,将认真落实两国达成的指导解决中越海上问题的基本原则协议。一年 时间不到,越南就将承诺抛之脑后。更远些,在西沙主权问题上,越南出尔反尔的行径早将自己降格为“国际信誉等级极低”的国家。 此次会晤后,国际社会且看越南能否言行一致。 Trong khi VN ráo riết quấy nhiễu cty TQ tác nghiệp bình thường trên biển khu vực Tây Sa dẫn đến xung đột ngày càng nâng cấp, Dương Khiết Trì đến VN đàm phán với phía VN, hai bên biểu thị tôn trọng quan hệ hai nước và kiềm chế cục diện trên biển, dần dần hạ nhiệt thế cục để giải quyết lâu dài. Trong sóng gió quan hệ hai nước trước mắt, thời kỳ nhạy cảm trong cục diện biển Đông, quan chức cấp cao TQ dùng diễn đàn này để trình bày với phía VN thiện ý và thành ý của phía TQ. Uỷ ban hợp tác song phương được thành lập là dựa trên thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước đã ký kết năm 2006. Chủ tịch ủy ban của hai bên đã có những cuộc họp hàng năm. Trong tình cảnh do VN đơn phương tạo nên khó khăn cho quan hệ hai nước hiện nay, việc sang VN của Dương Khiết Trì thể hiện lịch sử TQ luôn hợp tác với VN, thể hiện TQ luôn quí trọng hữu nghị giữa hai đảng và tình cảm giữa nhân dân hai nước, cũng thể hiện TQ luôn mong muốn đối thoại và hiểu nhau để giải quyết vấn đề. TQ cũng một lần nữa cho VN một cơ hội vàng. Trước đây TQ đã nghiêm khắc tuyên bố quần đảo Tây Sa là lãnh thổ cố hữu của TQ, không tồn tại bất kỳ tranh chấp nào, yêu cầu VN dừng ngay quấy nhiễu TQ tác nghiệp. Đồng thời TQ phản đối VN khuyếch đại hóa, phức tạp hóa, quốc tế hóa vấn đề. Nhưng VN vẫn cứ độc hành, càng đi càng trượt xa trong sai lầm. Lần này Dương Khiết Trì trong hội đàm một lần nữa vạch rõ cho VN nhìn thấy lợi hại. TQ mong VN hãy từ bỏ dã tâm không thiết thực, dừng ngay việc tạo mới các tranh chấp, biết kiềm chế, tránh tạo ra tổn thương càng lớn cho quan hệ hai nước. TQ dụng tâm lương khổ, phụng khuyên VN “lãng tử hồi đầu”. Nhưng VN có đi cùng hướng với TQ hay không thì chưa rõ. Ngay trước ngày Dương Khiết Trì sang VN, Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu trong nước hãy giảm bớt sự ỷ lại kinh tế vào TQ. Ngoài ra VN còn có thủ đoạn lợi dụng các cty nước ngoài hợp tác thăm dò dầu khí để củng cố quyền lợi trên biển, trước mắt vẫn không mệt mỏi trong chiều hướng này. Còn trong vấn đề kiện ra tòa quốc tế thì VN cũng đang tấp tểnh muốn thử chơi. Mặc dù trong hội đàm, phía VN biểu thị mong muốn tuân thủ thỏa thuận của lãnh đạo hai nước xử lý song phương những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ hai nước, tránh gây rối đến nhận thức chung đã đạt được về toàn cục quan hệ hai đảng hai nước, nhưng theo kinh nghiệm lịch sử thì VN vẫn làm cho người ta lo lắng. Thì chính vừa năm ngoái đây thôi, khi lãnh đạo TQ thăm VN, VN còn xác nhận với TQ rằng sẽ nghiêm túc thực hiện hiệp định đã thỏa thuận về nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển giữa hai bên. Chưa được một năm, VN đã vội vứt bỏ lời hứa đó khỏi đầu óc. Xa hơn tí nữa, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, VN thể hiện là một nước tự hạ thấp danh dự quốc tế của chính mình. Sau lần hội đàm này, để coi, dư luận quốc tế sẽ thấy là VN có thực làm như nói hay không.
    1 like
  4. “Quốc hội cần chỉ đạo việc khởi kiện Trung Quốc” Thứ Năm, 19/06/2014 - 11:26 (Dân trí) - Phiên thảo luật về dự án luật Căn cước công dân tại hội trường Quốc hội sáng 19/6, đại biểu Trương Trọng Nghĩa bất ngờ phát biểu… lạc đề. Ông Nghĩa nói về tình hình Biển Đông và yêu cầu cấp thiết cần một Nghị quyết của Quốc hội về nội dung này. Đại biểu đề nghị Quốc hội ra nghị quyết về biển Đông Vị đại biểu là luật sư trao đổi thêm với báo chí về đề xuất “lạc đề” của mình bên hành lang Quốc hội. Đại biểu Trương Trọng Nghĩa: "Khởi kiện Trung Quốc không dễ dàng nhưng có lợi hơn là không làm gì" (ảnh: Việt Hưng). Phần phát biểu của ông tạo ra một bất ngờ lớn tại phiên họp sáng nay. Dù “lạc đề”, nội dung ông đề cập vẫn nhận được sự ủng hộ, đồng tình, tạo điều kiện của Quốc hội. Động lực nào thôi thúc ông có lựa chọn phát biểu về vấn đề Biển Đông, khác với chương trình phiên thảo luận như vậy? Tôi thấy chương trình nghị sự của Quốc hội không có mục gì thể hiện quyết sách về Biển Đông. Từ đầu kỳ họp đến nay chỉ có một phiên thảo luận về tổ và thảo luận tại hội trường về việc này nhưng chưa có dự định về một nghị quyết hay một tuyên bố chính thức đối với những diễn biến trên biển. Do đó, không phải tôi mà chính là rất nhiều cử tri, nhiều tầng lớp đồng bào, từ những người dân bình thường đến cán bộ lão thành đều có ý kiến là Quốc hội không thể không có động thái gì chính thức. Tôi xem trong chương trình từ nay đến ngày bế mạc kỳ họp (thứ 3 tuần tới) thì không còn một nội dung gì về Biển Đông nữa. Vấn đề cần thiết bố trí chương trình bây giờ không phải để bàn, thảo luận nữa mà là để thống nhất một hành động cụ thể nào đó. Vậy nên hôm nay tôi phải nêu ý kiến xen vào giữa nội dung thảo luận về luật căn cước. So với vấn đề Biển Đông, vấn đề chủ quyền thì việc bàn hoặc thông qua một số luật như dự kiến không cấp thiết và có thể nói là không quan trọng bằng. Nếu Quốc hội ra Nghị quyết, ông mong muốn nội dung văn bản này thể hiện thế nào? Trước hết, Quốc hội phải nói rõ, Việt Nam có lập trường chính nghĩa ở Trường Sa và Hoàng Sa. Vừa rồi Trung Quốc tung ra thế giới, đưa cả lên Liên hợp quốc một cách chính thức những nội dung sai trái về cái gọi là chủ quyền của họ ở Trường Sa, Hoàng Sa. Vì vậy chúng ta phải có lời đáp lại một cách chính thức, từ cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Nghị quyết cũng phải lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, nêu rõ hành vi chiếm Hoàng Sa, Trường Sa bằng vũ lực và hành vi kéo giàn khoan vào vùng biển của Việt Nam là đi ngược lại với tất cả những điều đã cam kết, tuyên bố với Việt Nam và các nước ASEAN. Trung Quốc đã thể hiện ý định không từ bỏ âm mưu hiện thực hoá đường lưỡi bò vô lý, mưu toan độc chiếm Biển Đông, cả về tài nguyên lẫn tự do hàng hải trên biển. An ninh trên khu vực Châu Á – Thái Bình Dương vì vậy bị ảnh hưởng. Việc kéo giàn khoan đến là một bước đi trong tiến trình thực hiện âm mứu lâu dài hơn như thế. Sau nữa, trong tuyên bố của Quốc hội cần khẳng định tình hữu ghị của Việt Nam với nhân dân Trung Quốc, chỉ thị cho các cơ quan chức năng của Việt Nam dùng mọi biện pháp để bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Quốc hội cũng cần khẳng định trong Nghị quyết việc chỉ đạo các cơ quan nhà nước chuẩn bị, tiến hành việc khởi kiện Trung Quốc về việc chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực sai trái với luật pháp quốc tế. Ta làm thế để nhân dân ta, nhân dân toàn thế giới không bị đánh lừa bởi Trung Quốc, chỉ rõ họ nói một đằng làm một nẻo, họ vừa đấm vừa xoa. Họ nằm ở Biển Đông 2 tháng nay mà một mặt họ lại nói Đảng, Nhà nước Trung Quốc vẫn tôn trọng tình hữu nghị, đại cục… Họ nói những điều mà trước khi có giàn khoan đã nói rồi đến giờ vẫn nói như là chưa có cái giàn khoan đang nằm đó. Ta không chấp nhận lối lập luận và thái độ kiểu đó. Mới đây đã có thông tin về việc giàn khoan thứ 2 của Trung Quốc đang được nhăm nhe kéo vào Biển Đông. Sự cấp thiết của yêu cầu Quốc hội lên tiếng như ông nói càng cần xem xét? Đúng thế, thực ra thông tin họ kéo giàn khoan thứ 2, 3 nữa đến thì cũng đã có từ lâu, được phán đoán thế. Điều đó càng chứng minh họ nói một đằng làm một nẻo, nói thì tốt, làm thì xấu. Nhưng nói chung, không chỉ là vấn đề 1-2 giàn khoan mà các hành vi đó của Trung Quốc nằm trong hệ thống, chắc chắn sẽ tiếp tục và liên tục. Diễn biến mới đây, Trung Quốc còn tiến hành xây dựng trên đảo Gạc Ma. Có ý kiến cho rằng tính chất nguy hiểm của việc này còn cao hơn việc đặt giàn khoan? Hành động của Trung Quốc không thể xem chỉ ở khía cạnh họ xây thêm một công trình hay đặt thêm một giàn khoan trên biển mà ngiêm trọng ở chỗ, họ sẽ dùng sức mạnh kinh tế, quân sự để kiểm soát Biển Đông, chi phối tự do hàng hải ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, tác động vào lợi ích của các quốc gia khác để phục vụ lợi ích ích kỷ của họ. Vậy nên có xây thêm gì ở Gạc Ma thì cũng là hành động nhằm phục vụ ý đồ đó mà thôi. Về đề nghị khẳng định việc khởi kiện Trung Quốc trong Nghị quyết của Quốc hội như ông nêu ra, từ trước đến nay phương án này đã được cân đong đo đếm nhiều. Nhiều ý kiến cho rằng việc này sẽ khó khăn, không hề dễ dàng. Với tư cách là một luật sư, ông nhận định thế nào về việc này? Khởi kiện là bắt đầu một quá trình đấu tranh pháp lý mà lại về một đề tài phức tạp như thế, trong bối cảnh phức tạp như thế, tại một cơ quan tài phán quốc tế thì rõ ràng là không bao giờ dễ dàng, thậm chí là không thuận lợi. Vấn đề liên quan đến chủ quyền, khi nào cũng có những điểm yếu và những điểm mạnh. Nhưng các chuyên gia pháp luật của Việt Nam và quốc tế từng nghiên cứu đã nói Việt Nam có những điểm mạnh và có thể đạt được nhiều mục tiêu. Tóm lại khởi kiện sẽ có lợi hơn là không làm gì. Tất nhiên, chúng ta phải rất khôn ngoan, hành động chặt chẽ, chuẩn bị chu đáo. Không khó hình dung cảm giác của người dân nếu Quốc hội không có hành động tương xứng? Nếu Quốc hội không làm gì thì người dân chắc chắn sẽ thất vọng. Còn hiện tại, mọi người vẫn đang chờ đợi những động thái của Quốc hội. Xin cảm ơn ông! P.Thảo (ghi)
    1 like