• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 17/06/2014 in all areas

  1. Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng 24/05/2014 18:26 (GMT + 7) TTO - Tuổi Trẻ Online xin giới thiệu nội dung phỏng vấn thạc sĩ Hoàng Việt - một nhà nghiên cứu lâu năm về biển Đông - để bạn đọc hiểu rõ các vấn đề về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14-9-1958. Hình ảnh tàu Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu Việt Nam - Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam Tin bài liên quan Sự thật Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng (24/05) * Xin ông cho biết về bối cảnh ra đời cũng như mục đích của công thư ngày 14-9-1958 mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Tổng lý Quốc vụ viện Chu Ân Lai? - Trong thời gian từ năm 1956 đến năm 1965, lúc này sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam ngày càng lên cao, Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH) phải tận dụng tất cả mọi nỗ lực để giành chiến thắng trên chiến trường. Với sức mạnh hạn chế của mình, VNDCCH đã phải tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia khác, đặc biệt là từ Trung Quốc, một quốc gia vốn nằm cạnh Việt Nam, và cũng là một trong các “anh cả” của chủ nghĩa cộng sản. Đã có nhiều sự phối hợp từ quân đội VNDCCH và Giải phóng quân Trung Quốc. Năm 1949, lực lượng quân sự của VNDCCH đã giải phóng Trúc Sơn (thuộc lãnh thổ của Trung Quốc) từ tay của Quốc dân đảng và sau đó trao lại cho Giải phóng quân Trung Quốc. Rồi năm 1957, Hồng quân Trung Quốc đã chiếm đảo Bạch Long Vĩ rồi sau đó trao trả lại cho phía VNDCCH. Phía Trung Quốc còn nhắc là Việt Nam chiến đấu không chỉ bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam, mà còn đối với cả lãnh thổ Trung Quốc trước sự đe dọa của Hoa Kỳ. Lúc này trật tự thế giới được chia thành hai phe: tư bản chủ nghĩa do Hoa Kỳ đứng đầu và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô, Trung Quốc đứng đầu. Sau khi CHND Trung Hoa chiến thắng Quốc dân đảng, Quốc dân đảng phải chạy sang Đài Loan, CHND Trung Hoa muốn giải phóng Đài Loan bằng vũ lực, nhưng Hoa Kỳ đã trợ giúp cho Đài Loan, từ đó đã dẫn đến cuộc chiến giành các đảo Kim Môn, Mã Tổ. Năm 1958 cũng là năm đầu tiên của Hội nghị công ước luật biển lần thứ nhất nhóm họp, các quốc gia tranh cãi các quan điểm pháp lý về các vùng biển khác nhau. Phía Hoa Kỳ cho rằng lãnh hải chỉ bao gồm 3 hải lý, còn Trung Quốc và một số quốc gia khác ủng hộ quan điểm lãnh hải có chiều rộng 12 hải lý. Chính vì vậy, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã đưa ra một công hàm để khẳng định chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý mà ta thấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nhắc đến trong công thư ngày 14-9-1958 của mình. Trong tinh thần ủng hộ Trung Quốc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có thư phúc đáp cho việc đồng ý công nhận “hải phận” - tức lãnh hải của Trung Quốc là 12 hải lý. Như vậy, công thư này cho thấy nó mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý, đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường hay sử dụng để thể hiện tình đoàn kết trong tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế. * Vậy tại sao Trung Quốc lại có lập luận khác về giá trị pháp lý của công thư này? - Sau này, phía Trung Quốc hay sử dụng công thư này để biện minh rằng Việt Nam đã chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Họ cũng biện minh rằng khi CHXHCN Việt Nam bác bỏ điều này và cho rằng Việt Nam có đầy đủ chủ quyền một cách hợp pháp đối với Hoàng Sa, Trường Sa tức là Việt Nam đã vi phạm tới nguyên tắc estopel (tức là Việt Nam không thể đã thừa nhận lúc năm 1958 rồi sau này lại không thừa nhận, như vậy là mâu thuẫn trong lập luận của mình). Để phân tích về giá trị pháp lý của công thư, ta thấy như sau: Thứ nhất, công thư này nhằm trả lời cho một công hàm của Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai ký về việc “công nhận hải phận 12 hải lý” là một tuyên bố đơn phương. Yếu tố chủ yếu trong tuyên bố đơn phương là việc thể hiện sự mong muốn. Sự thể hiện mong muốn này cần phải được giải thích bằng cách phân tích đối tượng và mục tiêu của tuyên bố đơn phương này trong các diễn biến lịch sử. Việc giải thích ý chí của một quốc gia trong một tuyên bố đơn phương như vậy cần phải được diễn giải một cách thận trọng, và đối tượng của sự cam kết trong tuyên bố đơn phương đó phải được xác định chính xác. Lịch sử hình thành và ra đời của công thư như đã được trình bày ở trên. Vậy công thư này có thể được hiểu là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền của phía VNDCCH không? Đối với các yêu sách về lãnh thổ trong luật quốc tế, cũng như sự từ bỏ các yêu sách đó phải được trình bày một cách rõ ràng và không có suy diễn. Tuy nhiên, công thư do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký này không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ rõ ràng nào về chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nội dung công thư không thể hiện một sự bắt buộc từ bỏ chủ quyền. Và thêm nữa, đối với các sự chuyển nhượng lãnh thổ, thì Thủ tướng VNDCCH không có thẩm quyền quyết định việc ấy, mà phải là cơ quan quyền lực tối thượng ở Việt Nam là Quốc hội. Và cuối cùng, VNDCCH không thể quyết định hoặc chuyển giao một thứ mà VNDCCH không có thẩm quyền quản lý theo công pháp quốc tế, và cũng không kiểm soát nó trong thực tế. ===================== Về vấn đề này nhiều người bàn rùi. Lão Gàn chỉ là gọi là góp ý kiến nhỏ bé vào công việc chung thôi. Trước hết chúng ta xem lại toàn bộ nội dung công thư này: Như vậy, công thư này có hai phần trong nội dung: 1/ Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. 2/ Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”. Trung Quốc ra sức khai thác nội dung công thư này theo cách hiểu của họ, để minh chứng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của họ. Nhưng Lão Gàn xem đi xem lại thì nội dung của công thư này chẳng có một chữ nào nói về Trường Sa và Hoàng Sa là của họ cả?! Thế họ khai thác cái gì ở đây? Cuối cùng thì té ra là cái tuyên bố của họ có nói đến Tây Sa và Nam Sa là của Tung Cóoc (Tức Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam). Cho nên khi công thư này ghi nhận và tán thành tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của họ thì họ vin vào đấy coi như Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền ở Tây Sa và Nam Sa. Vấn đề nó ở chỗ này, theo cách diễn giải nội dung công thư nói trên từ phía Trung Quốc để giành phần phải về họ. Nhưng theo cách nhìn từ Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử - thì mỗi một hành trong Ngũ hành đều chỉ là một tập hợp con của một hành khác bao trùm lên nó. Đây chính là một vế trong "nghịch lý Cantor". Bởi vậy, tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền lãnh thổ của họ là một chuyện. Vấn đề còn là luật pháp quốc tế về chủ quyền biển đảo. Không thể Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và có ủng hộ thì chủ quyền đó là của họ. Và thực tế từ năm 1958 cho đến trước cuộc chiến Hoàng Sa 1974, Trung Quốc chưa hề thực thi chủ quyền trên cái gọi là Tây Sa và Nam Sa , như họ công bố. Bởi vì lúc đó, cái gọi là Tây Sa và Nam Sa thuộc quyền quản lý của chính phủ Việt Nam Công Hòa và là đồng minh của Hoa Kỳ. Như vậy, rõ ràng từ lúc họ tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thì hai quần đảo này được luật pháp quốc tế xác nhận là Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Tất nhiên tuyên bố chủ quyền của họ là vô giá trị với hai quần đảo này và không được cộng đồng quốc tế công nhận theo chuẩn mực quốc tế. Cho dù công thư của ngài Phạm Văn Đồng có ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc thì không có nghĩa là nó là chuẩn mực quốc tế. Thực tế đã xác định điều này là: Sau tuyến bố của họ vào ngày 4. 9. 1958 họ chưa hề thực thi chủ quyền ở hai quần đảo này. Sau năm 1958, chính quyền Trung Quốc luôn bày tỏ sự ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Công hòa thống nhất đất nước, có thể nói hàng tá tuyên bố, công hàm, nghị định...vv... của nước Công hòa Nhân dân Trung Hoa xác định điều này; tất nhiên trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hòa. Nếu căn cứ vào các nội dung văn bản - như họ suy luận - từ công thư của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng , thì cũng căn cứ vào việc ủng hộ thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Trung Hoa với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào thời điểm sau tuyến bố của họ, thì có thể xác định rằng họ đã công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam thống nhất. Thêm một bằng chứng nữa: Khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền biển là 12 hải lý vào năm 1958 thì lúc đó Hoa Kỳ chỉ công nhận 3 hải lý, cho đến ít nhất là hết chiến tranh Việt Nam. Và với chuẩn mực 3 hải lý này thì Hoa Kỳ mới căn cứ vào đấy để đưa tàu Ma Đốc vào vùng biển Việt Nam năm 1964 (Tức là sau năm 1958 đến 6 năm), mở đầu cho một cuộc không chiến ác liệt trên lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy, ngay cả vế thứ hai - chủ quyền 12 hải lý vào lúc bấy giờ (1958) chưa phải nước nào cũng thừa nhận. Tức là nó không phải chuẩn mực quốc tế. Như vậy, chính chuẩn mực quốc tế về chủ quyền biển đảo là một tập hợp lớn hơn bao trùm lên mọi bản văn tuyên bố chủ quyền của một quốc gia. Những bản văn này không phủ hợp với chuẩn mực quốc tế sẽ vô gía trị. Tóm lại, mọi chủ quyền biển đảo của mỗi quốc gia, phải do chuẩn mực quốc tế xác định, không thể căn cứ vào cái gọi là "tuyên bố chủ quyền" của một quốc gia nào đó, được ủng hộ của đồng minh. Bởi vậy, tuyên bố ngày 4. 9. 1958 của Trung Quốc là vô giá trị với luật pháp quốc tế. Do đó, nội dung phần I công thư của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc không có nghĩa nó có giá trị như một chuẩn mực quốc tế vào thời điểm ra đời. Xét về mặt đạo lý: Trung Quốc đã lợi dụng quan hệ đồng minh của Việt Nam Dân chủ Công hòa ủng hộ họ, để lấy cớ lấn chiếm lãnh thổ của nước Việt Nam thống nhất. Trong khi Việt Nam chưa hề sử dụng những tuyên bố, công hàm... của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa làm bằng cớ xác định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ , trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa. Đây là một sai lầm nghiêm trọng của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa khi họ lợi dụng ngay chính quan hệ đồng minh của họ. Hậu quả sẽ là họ sẽ bị xa lánh và cô lập trên toàn thế giới. Đương nhiên họ không đủ tư cách gì để làm bá chủ, dù chỉ là khu vực, chưa nói đến tầm quốc tế. Pháp lý quốc tế không dung, đạo lý trong quan hệ đồng minh không có, Trung Quốc sắp mạt đến nơi. Xét về mặt lịch sử chủ quyền Việt Nam ở Trường Sa và Hoàng Sa. Lịch sử chủ quyền của một quốc gia với một vùng lãnh thổ phải được xác định bằng những mệnh lệnh hành chính của quốc gia đó với vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền. Đây là điều hiển nhiên. Chính phủ và các triều đại Trung Hoa từ hàng ngàn năm trước chưa hề có một mệnh lệnh hành chính nào với cái mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa - tức Trướng Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, cho đến khi họ cưỡng chiếm những hòn đảo này bằng vũ lực từ 1974. Ngược lại, các triều đại Việt Nam cho đến chính phủ Việt Nam hiện nay, liên tục thể hiện chủ quyền bằng những mệnh lệnh hành chính và các bản đồ xác nhận lãnh thổ từ hàng trăm năm trước. Đã gọi là lịch sử xác định chủ quyền, phải căn cứ vào các pháp lệnh hành chính và bản đồ hành chính trong lịch sử thể hiện chủ quyền trên vùng lãnh thổ có chủ quyền, chứ không phải xác định qua "di vật khảo cổ" (Viết đến đây Lão Gàn muốn lên tăng xông vì đám tư duy "Ở trần đóng khố").
    6 likes
  2. Giấu báu vật văn hóa trên mặt trăng khoahoc.com.vn Cập nhật lúc 08h20' ngày 03/06/2014 Mặt trăng đang trở thành “đảo châu báu”, nơi được chọn là địa điểm cất giấu những tài liệu cổ quý hiếm của các nền văn hóa trong trường hợp xảy ra tận thế. Vào đêm Giáng sinh năm 1968, Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã làm bùng nổ cơn giận dữ của những người vô thần khi các phi hành gia trên tàu con thoi Apollo 8 đọc những dòng trên sách Sáng thế trong lúc bay quanh quỹ đạo mặt trăng. Gần 50 năm sau, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Israel đang lên kế hoạch gửi Ngũ thư Do thái giáo (kinh Torah) lên bề mặt chị Hằng. Cuộn giấy cói nổi tiếng ghi lại kinh Hebrew của người Do Thái có thể sẽ được phi thuyền mang lên mặt trăng cùng với các đồ vật quan trọng khác của nền văn minh trái đất, theo một phần nội dung của dự án Google Lunar Xprize. Đây là cuộc so tài giữa các công ty tư nhân trong nỗ lực gửi phi thuyền lên vệ tinh tự nhiên của địa cầu. Theo trang tin New Scientist, nhóm chuyên gia tại Tel Aviv hy vọng sẽ gửi cuộn giấy cổ Sefer Torah lên bề mặt chị Hằng, và sau đó là bản kinh Vệ Đà của đạo Hindu và kinh Dịch. Chúng có thể sẽ lần lượt đổ bộ mặt trăng trong các khoang bảo vệ, cho phép những tài liệu quý này tồn tại hơn 10.000 năm nữa. “Đó là dự án tuyệt vời và hết sức ấn tượng”, trưởng nhóm Paul Aouizerate nói, “Chúng là những tài liệu cổ xưa nhất của trái đất, được tạo ra hơn 3.000 năm trước”. Để gây quỹ cho sứ mệnh, nhóm của ông đang hy vọng sẽ quyên được 20,5 triệu USD bằng việc sao chép lại từng chữ trong số 304.804 chữ trên kinh Torah và bán đấu giá cho các môn đồ. Cuộn giấy cói ghi lại kinh Hebrew của người Do Thái - (Ảnh: mjaa.org.au) Mục tiêu cuối cùng của dự án trên là đảm bảo một phần tinh túy của văn hóa trái đất có thể tồn tại trên mặt trăng trong tương lai lâu dài. Nếu địa cầu bị hủy diệt, chẳng hạn như chiến tranh hạt nhân hoặc tiểu hành tinh đâm vào bề mặt hành tinh xanh, phần di sản quan trọng của nhân loại sẽ không bị biến mất. Trước đây, nỗ lực trên đã từng được cân nhắc ở những mức độ khác nhau, với nhiều cơ quan và tổ chức lý luận rằng nhân loại cần tạo ra các “két sắt thời gian”, gìn giữ các nền văn hóa và xã hội trên trái đất. Trên thực tế, hai phi thuyền Voyager của NASA, hiện tiến đến không gian giữa các vì sao, đều mang theo cái gọi là “hồ sơ vàng”. Ống nhựa này chứa nhiều mẩu khác nhau của cuộc sống và văn hóa địa cầu, từ âm thanh của tự nhiên đến hình ảnh con người. Nếu được tìm thấy, nó sẽ là di sản của loài người trong vũ trụ xa xôi. Trong khi đó, sứ mệnh lần này được lên kế hoạch sẽ theo một trong những tàu du hành tham gia cuộc thi Google Lunar XPrize lên mặt trăng. Ban đầu, nhóm của ông Aouizerate dự định chọn tàu đổ bộ do SpaceIL của Israel chế tạo, nhưng hợp tác thất bại. Mới đây, họ thử liên lạc với Đội mặt trăng Barcelona tại Tây Ban Nha nhưng vẫn chưa có thỏa thuận chính thức. Một thách thức khác nằm ở chỗ làm sao chế tạo được một khoang kín có thể duy trì nguyên trạng trong điều kiện khắc nghiệt trên mặt trăng. Ở phần có ánh sáng mặt trời, bề mặt chị Hằng có thể đạt đến 123°C vào ban ngày nhưng tụt xuống đến -173°C vào ban đêm. Nỗ lực của Cơ quan Không gian châu Âu để tạo ra khoang cất giữ kinh Torah trên mặt trăng đã thất bại, do thiết bị không chịu đựng nổi tình trạng thời tiết thay đổi quá nhanh và với tần suất cao. Đây cũng không phải là lần đầu tiên thế giới chứng kiến sự hòa hợp giữa tôn giáo với không gian. Như đã đề cập ở trên, các phi hành gia Apollo 8 đã đọc kinh Sáng thế khi trên quỹ đạo mặt trăng. Trong khi đó, Buzz Aldrin, phi hành gia trên tàu Apollo 11, đã thực hiện một nghi thức của Thiên Chúa giáo trước khi đặt chân xuống bề mặt chị Hằng vào tháng 7/1969. Và các nhà phi hành trên tàu Apollo 15 đã để lại kinh thánh trên thiết bị đáp khi rời khỏi mặt trăng vào tháng 7/1971. Theo Thanh Niên ============== Giả sử nhân loại bị hủy diệt vì Ngày Tận thế, sau 10. 000 năm nữa, ai lên mặt trăng để lấy về? Còn về kinh Dịch - nếu quả thật cần được bảo vệ thì việc đầu tiên là hãy bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt. Chính nền văn hóa truyền thống Việt, hậu duệ của nền văn minh thứ V ở miền Nam sông Dương tử sẽ giải mã những bí ẩn của bộ kinh Dịch này. Thiên Sứ tôi có trách nhiệm với sự xác định điều này công khai ở đây.
    3 likes
  3. Đoạn viết trên là LM viết theo cảm tính thấy rằng cặp từ đối Ngang/Dọc = Vẫy/Vùng = Hoành 横/ Tung 縱, để chứng minh ngôn từ dân gian Việt (viết bằng chữ khoa đẩu) là có trước ngôn từ hàn lâm Việt (viết bằng chữ nho). Bây giờ mới tra mạng Thuyết Văn Giải Tự [ 说文解字在线查询-词典网 ] để xem hơn hai nghìn năm trước học giả sử dụng chữ nho đã giải thích như thế nào, thì thấy cũng đúng như LM cảm nhận: 1.1 / Hoành (Ngang) TVGT: Hoành 横 (cổ viết là 衡), đọc thiết “Hộ 戸 Manh 盲” = Hành. (Như vậy đúng nôi khái niệm Ngang = Hàng 行 = Hành 行 = Hoành 横, từ đôi Hoành Hành 横 行 là để nhấn mạnh cái sự ngang tức là phá ngang, tức phá cái Ngay. Ruộng lúa đang xanh mơn mởn đó là một sự Ngay, sự chính đáng, bỗng bị bầy châu chấu đến “hoành hành”, tức đến phá ngang cuộc sống chính đáng của lúa). TVGT: Hoành 横 là chữ giả tá. (Như vậy là Hoành 横 có bộ Mộc 木 biểu ý tấm ván cửa chắn “ngang” và mượn âm chữ Hoàng 黄 là vàng để có âm của “ngang” . TVGT: 横 Hoành, 闌 lan 木 mộc 也 dã (Hoành là ván ngang), 闌 lan,門 môn 遮 giá 也 dã (lan là cửa che). Chữ Lan viết biểu ý là cái Cửa (bộ thủ Môn 門), mượn âm chữ Giản 柬, đọc lướt hai chữ là “Cửa 門 Giản 柬” = Cản, là chức năng của cái cửa ấy là che, tức nó có chức năng “Làm cái việc Cản” = Lan 闌, âm tiết Giản có nghĩa là giản lược tức giảm bớt, cửa che chắn ngang là giảm bớt sự đi lại vì nó có lúc mở lúc đóng, không phải lúc nào cũng mở thông thống, đến như cái “Cửa Thông” = Cổng cũng còn có cánh nữa là. Chữ Giản 柬 được chuyển nghĩa để chỉ “thư tín” vì thư tín chỉ là sự giao tiếp giản lược khi cách xa, không thể nói đầy đủ như khi giao tiếp gặp mặt được. Ngang là chỉ hướng vị trí, vd: Ván Ngang (Ngang chỉ vị trí của tấm Ván, lúc này Ngang là tính từ). Nhưng nhấn mạnh “Ngang Ngang” = Ngáng, 0+0=1, thì Ngáng thành động từ, vd: Ván Ngáng (Ngáng chỉ chức năng của tấm Ván). Hàng rào bằng cây để chắn bảo đảm an toàn gọi là cái Lan 欄 Can 桿, nhưng người Nam Bộ phát âm là cái Lang Cang cũng hoàn toàn đúng vì “Làm Ngáng” = Lang và “Cây Ngáng” = Cang, hoàn toàn tương đương với “Làm Cản” = Lan và “Cây Cản”= = Can. Đứng chắn ngay trước mặt gây vướng, người Bắc Bộ gọi là đứng “Láng Cháng” (tức là đứng làm ngáng cho ngang, thật là khó coi, gây vướng mắt người khác, “Làm Ngáng” = Láng, “Cho Ngang” = =Cháng). Chữ Môn 門 thì Hán ngữ dùng để chỉ cái Cửa, đó là cách dùng khi chữ Môn 門 đã chuyển nghĩa thành Cửa. Nguyên gốc Môn 門 chỉ có nghĩa là Nghe, là từ gốc Việt do lướt “Mó Ồn” = Môn, tức là tiếp xúc với tiếng ồn để mà nhận biết (tức là nghe). TVGT: 門 Môn, 聞 văn 者 giả (Môn là nghe), 謂 vị 外 ngoại 可 khả 聞 vắn 於 ư 內 nội, 內 nội 可 khả 聞 vắn 於 ư 外 ngoại 也 dã (là nói, ngoài có thể nghe nhiều ở trong, trong có thể nghe nhiều ở ngoài). Văn 聞 nghĩa là nghe, chữ Văn 聞 biểu ý là cái Nghe = Nhe = ”Nhe Chi!” = Nhĩ 耳 đứng giữa hai Hộ 户 (đối nhau tạo nên chữ Môn 門) nên nghe được một bên hộ này Văng, một bên hộ kia Vẳng mà tổng hợp lại thì thành Vắn là nghe được nhiều tin tức; nghe nhiều là nhấn mạnh “Văn Văn” = Vắn, 0+0=1, cụm từ Tin Vắn là tin nghe nhiều, Vắn Tắt là nghe nhiều rồi tóm tắt lại. Văn là nghe do gốc của nó là từ cái nôi khái niệm Việt: Nghe = Ngóng = Vọng = Văn = Vắn = Văng Vẳng = Lắng = Thắng = Thính 聽. (Thắng nghĩa là hãm tiếng động lại, để mà nghe, đã chuyển nghĩa thành hãm chuyển động lại, vì tiếng động cũng lan truyền như chuyển động, nên mới có câu nói "thắng cái xe lại"). Nghe = Nhe = ”Nhe Chi!” = Nhĩ. Cái cơ quan Nghe nó quan trọng để mà nghe cha mẹ Việt vẫn dặn con là: “Nghe con!” = “Nhe con!” = = “Nha con!” hoặc dặn “con Nhé!” = “con Nhá!” = “con Nhỉ!” (“con Nhĩ”) = “con Hỉ!”. Cái lỗ Nhĩ, cái màng Nhĩ,"nghe tiếu lâm sướng cái lỗ nhĩ", nhưng lại có cái vành Tai, là cái “Tơi nghe Ngoài” = Tai. Tai và Nhĩ là hai bộ phận của cơ quan Nghe, chứ không phải như Từ điển Viện ngôn ngữ giải thích: “Nhĩ 耳 là từ gốc Hán đồng nghĩa với Tai là từ thuần Việt” (!). Hán ngữ dùng chữ nho Thính 聽 để biểu đạt ý là Nghe, nhưng trong Hán ngữ không có mệnh lệnh thức dặn con là “con Thính!” như “con Nghe!” hay “con Nhĩ!” trong tiếng Việt, mà các mệnh lệnh thức dặn dò của Hán ngữ chỉ dùng từ A! đặt cuối câu. Chính cái ý trong ngoài có thể nghe nhau mà “Mó Ồn” = Môn 門 đã chuyển nghĩa thành đồng nghĩa với cái Cửa thông thống. Do vậy mà chữ Môn 門 cũng còn đọc là Cửa. Còn chữ Lan 闌 thì rõ ràng là như đọc nó: “Cửa 門 Giản 柬” = Cản = “Làm Cản” = Lan 闌, diễn đạt cái sự hạn chế, ngăn cản, như từ Lan 欄 Can 桿. (Nếu là Hán ngữ đọc thì thiết là “Mấn 門 Chẻn 柬” = Mẻn thì không thể ra được âm tiết “Lán” lơ lớ như của họ vẫn đọc chữ Lan 闌 là từ gốc Việt). Nôi khái niệm của sự hạn chế là: Ngang=Ngáng=Ngạch=Ngưỡng=Ngàm=Ngăn=Chặn=Chắn=Che=Chế=Chuồng=Ruồng=Ràng=Càng=Còng=Cùm=Căn= =Cản=Hạn=Lan=Can=Càn=Cũi=Kìm=Kẹp=Cạm=Hãm=Giam=Giá. Hãm Che bớt ánh sáng là viết bằng chữ Hạn 限 Chế 制 bớt ánh sáng. Che ngọn đèn sáng lại tức Giam 監 ngọn đèn sáng lại, không cho nó lọt ánh sáng ra ngoài, nho viết từ Che bằng chữ nhấn mạnh là “Giam Ạ!” = Giá 遮. Hán ngữ dùng chữ Giá 遮 với nghĩa là Che, nhưng đọc phát âm từ Che thì lơ lớ là “Trưa” [Zhe 遮]. Nếu không có TVGT cách nay hơn hai ngàn năm giải thích Môn 門 có nghĩa gốc là Nghe thì không lần ra được cái gốc Việt của nó là “Mó Ồn” = Môn (tức là nghe), rồi Môn chuyển nghĩa thành đồng nghĩa với từ Cửa đã có sẵn. Mó nghĩa là dùng một cơ quan nào đó của cơ thể Chạm vào vật thể hay môi trường ngoài nhằm so sánh để cảm nhận được nó, Mó = Cọ = So = Sờ = Súc = Xúc 觸 = Tục 續 = Tiếp 接, nghĩa là như từ đôi Tiếp Xúc 接 觸;(hai vật hay hai thời kề nhau mà chạm nối với nhau thì gọi là Kế Tục 繼 續). Mó có mục đích là tìm tòi, nguyên gốc của nó là từ Mo (tiếng Việt đã chuyển từ không có thanh điệu thành có thanh điệu). Mo nghĩa là tìm tòi, chuyển nghĩa thành chỉ người tìm tòi để dự đoán sự việc, gọi là thày Mo, tức thày phù thủy, trong xã hội mẫu hệ xưa thường là những bà Mo: Mo = Mụ = =U = Vu 巫, nên nho viết từ Mo bằng chữ Vu 巫 (“Viết U” = Vu 巫). Công việc tìm tòi thì phải nhiều tìm tòi, nhấn mạnh là “Mo Mo” = Mó, 0+0=1, và “Mo Mo” = Mò, 0+0=1, (biến thanh điệu theo nhị phân cho ra ba đáp số bằng 1 như nhau, đáp số thứ ba là “Mo Mo” = Mỏ, được dùng chuyển nghĩa chỉ cái Mỏ con chim là công cụ tìm tòi thức ăn của nó, “Mỏ tìm Tòi” = Moi), nho viết từ Mó (hay Mò) bằng nhấn mạnh thành chữ “Mó Ạ!” = Ma 摸 (sau có từ đôi Ma Sát đồng nghĩa Cọ Sát, vì Sờ = Sát). Mo nghĩa là tìm tòi cũng đã theo QT Nở nở ra từ dính Mò-Mẫm, nho viết từ Mò-Mẫm bằng chữ Ma 摸 Môn 門, nghĩa đen là vừa sờ (Mó = Ma 摸) vừa nghe (Mẫm = Môn 門, vì ”Mó Ồn” = Môn cũng là “Mó Âm 音” = =Mẫm). Từ dính Mò-Mẫm không phải là từ láy như Ngôn ngữ học giải thích, rằng Mò là rõ nghĩa còn Mẫm thì đang còn mờ nghĩa (!). Mẫm không phải là không có nghĩa, Mẫm có nghĩa là “Mó Âm” = Mẫm, nghĩa là nghe, như là “Mó Ồn” = Môn. Từ điển Hán-Việt phiên nghĩa chữ Ma Môn 摸 門 sang tiếng Việt là Mò Mẫm nhưng lại phải chú đó là "khẩu ngữ", khẩu ngữ vì nó là tiếng Việt chữ nho Việt, tức tiếng dân thoại chứ không phải tiếng quan thoại. Từ dính Mò-Mẫm nghĩa là vừa sờ vừa nghe, chuyển nghĩa thành tìm cách giải quyết (lao động tư duy) chứ không chỉ còn ở chỗ chỉ động tác dùng cái gậy dò của người mù đi đường. Từ hàn lâm thường là từ đã được chuyển nghĩa. 1.2 / Vĩ (Ngang). TVGT: Vĩ 緯, đọc thiết “Vân 云 Qúi 貴” = Vĩ. TVGT: 緯 Vĩ, 織 chức 衡 hoành 絲 ti 也 dã ( Vĩ là dệt sợi tơ ngang). Như vậy đúng Vĩ là Ngang như cái vi cá: Vây=Vẫy=Vi=Vĩ. 2.1 / Tung (Dọc). TVGT: Tung 縱, đọc thiết “Túc 足 Dụng 用” = Tung. TVGT: 縱 Tung, 緩 hoãn 也 dã (Tung là hoãn). Hoãn 緩 có nghĩa là kéo Dài, chữ Hoãn 緩 có bộ 系 Tơ = “Tơ Chi” = Ti nghĩa là sợi, dùng trong nghề dệt, sợi kéo dài là sợi dọc tức sợi kinh, nho viết là Kinh Tuyến 經 線, chuyển nghĩa thành đường vạch Kinh Tuyến 頸 線 trên bản đồ là đường vạch dọc. TVGT: 緩 Hoãn 也 dã, 一 nhất 曰 viết 舍 Xả 也 dã. Từ đôi Dọc Dài còn chuyển nghĩa thành Xa, mà từ đôi “Xa Xa” = Xả , 0+0=1,(nho viết chữ Xả 舍, 捨) đã chuyển nghĩa nữa thành bỏ đi, “dài tít mù xa”. Làm thì gặp thời cơ là phải làm liền, cứ Hoãn mãi thì thành ra trì hoãn rồi cũng thành bỏ đi, vô dụng, mất thời cơ, gọi là “để lâu cứt trâu hóa bùn”. 2.2/ Kinh (Dọc). TVGT: Kinh, đọc thiết “Cư 居 Sính 郢” = Kinh. TVGT: 經 Kinh, 織 chức 縱 tung 絲 ti 也 dã (Kinh là dệt Dọc sợi). TVGT: 東 đông 西 tây 耕 canh 曰 viết 橫 Hoành, 南 nam 北 bắc 耕 canh 曰 viết 由 do (cày hướng đông tây gọi là hoành, cày hướng nam bắc gọi là do). Do 由 đây là nhấn mạnh “Dọc Đó!” = Do 由(cũng như “Dọc Đấy!” = Dây, Dây: Sợi: Tuyến; “Dọc Đích” = Dịch, nghĩa là cứ đi dài xa mãi). TVGT: 南 nam 北 bắc 曰 viết 經 Kinh, 東 đông 西 tây 曰 viết 緯 Vĩ (hướng nam-bắc gọi là Kinh-dọc, hướng đông-tây gọi là Vĩ-ngang). Khi dùng viết Kinh Tuyến của bản đồ thì dùng chữ Kinh 頸 này, Kinh Tuyến 頸 線. Qua đoạn giải thích trên của TVGT đủ thấy văn phong xưa viết theo kiểu Việt: Nam trước Bắc sau, gọi là hướng Nam-Bắc (chứ không phải gọi là hướng Bắc-Nam như từ thời có nước Đại Thanh gọi); Đông trước Tây sau, gọi là hướng Đông-Tây. Văn minh xuất hiện ở đâu trước thì lấy đó làm đầu để bắt đầu hướng truyền bá hay phát triển . Người Kinh 京 đã cày từ Nam ra Bắc, hai con trâu cày đôi là con Dí bên Đông Di và con Thá bên Tà = Tây,cùng kéo chung một cái ách cày, bên Dí=Dập=Thấp là bên đất thấp hơn, còn bên Thá=Tháp=Thắp=Chắp=Đắp là bên đất cao hơn, do đất theo lưỡi cày mà lật úp lên. Dù khi cày bằng một con trâu thì người ta vẫn theo thói quen gọi tên hai con trâu hai bên ách cày đó mà quát nó quẹo sang bên Dí! (Rì!)hay quẹo sang bên Thá! (Tắc!), còn quát nó đứng lại là Họ! ("Hãm Đó!" = Họ!). Chữ Kinh 頸 chỉ hướng dọc Nam-Bắc, tức bắt đầu là từ Nam. La Kinh là cái "làm ra dọc", dù xoay kiểu nào thì kim của nó vẫn làm ra dọc, là hướng Nam-Bắc (“Làm Ra” = La, Dọc=Kinh), Khổng Tử nói: “Chúng ta học cái văn minh của phương Nam”)
    3 likes
  4. Chiến tranh Trung-Mỹ: Nỗi kinh hoàng của châu Á-Kỳ cuối Thứ Hai, 16/06/2014 - 17:25 Châu Á hiện đang xuất hiện mầm mống của sự ngộ nhận lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc. Hai bên đang có nguy cơ lao vào một cuộc đối đầu khi những hành vi gây hấn của Trung Quốc trở nên trắng trợn hơn nhằm vào các nước láng giềng, thách thức những cam kết của Mỹ. Cả hai đều nghĩ rằng bên kia sẽ nhượng bộ để tránh một cuộc đụng độ, nhưng nhiều tín hiệu cho thấy Mỹ và Trung Quốc đang sai lầm với suy nghĩ này. Giáo sư Robert Farley cho rằng viễn cảnh về một cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc vào sự đánh giá cơ bản về sự cân bằng đang thay đổi trong sức mạnh kinh tế và chính trị. Trong quá khứ, Chiến tranh thế giới lần thứ I không thể thay đổi hiện thực rằng Đức vẫn là quốc gia mạnh nhất và lớn nhất ở trung tâm của châu Âu. Tương tự như vậy, chiến tranh giữa Washington và Bắc Kinh không thể thay đổi đường đi trong dài hạn về sự phát triển và khẳng định của Trung Quốc. Chìa khóa đối với hòa bình trong khu vực liên quan tới việc tái lập mối quan hệ kinh tế hiệu quả giữa Trung Quốc, Mỹ và phần còn lại của Thái Bình Dương. Nếu chiến tranh nổ ra, chắc chắn nó sẽ cản trở thương mại và đầu tư trên toàn thế giới. Nếu cả hai bên quyết định tấn công các tàu thương mại, thì ảnh hưởng của nó khó có thể tính toán hết được, tác động đến cả những nước không có lợi ích trực tiếp trong cuộc chiến. Tuy nhiên, chính phủ của cả Mỹ và Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những sức ép mạnh mẽ nhằm tạo điều kiện thuận lợi phục hồi các mối quan hệ thương mại, ít nhất là đối với các hàng hóa thiết yếu. Máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ. Trung Quốc sẽ không mấy khó khăn cho việc tái thiết sau chiến tranh. Thậm chí nếu Mỹ có hủy diệt hiệu quả Hải quân (PLAN) và Không quân Trung Quốc (PLAAF), thì nền công nghiệp đóng tàu và hàng hải Trung Quốc, có thể với sự giúp đỡ từ phía Nga, sẽ bổ sung hầu hết những mất mát đó trong vòng một thập kỷ. Trên thực tế, những tổn thất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh có thể giúp khôi phục cả ngành công nghiệp hàng hải và đóng tàu của Nga. Hơn nữa, nếu cần chiến tranh sẽ hiện đại hóa PLAN và PLAAF bằng cách phá hủy những di sản cũ kỹ. Một hạm đội tàu và máy bay mới sẽ thay thế cho lực lượng cũ.Mỹ có thể phải mất nhiều thời gian và khó khăn hơn trong thời kỳ hậu chiến, không chỉ vì tàu chiến và máy bay Mỹ có giá trị cao hơn của Trung Quốc. Việc sản xuất máy bay F-15 và F-16 gần như đã kết thúc, và Mỹ không còn sản xuất F-22. Hơn nữa, nền công nghiệp đóng tàu của Mỹ đã suy giảm tới mức để thay thể những tàu bị thiệt hại trong chiến tranh sẽ phải cần rất nhiều thời gian. Điều này cũng đặt ra một vấn đề nan giải là, hiện Mỹ đang có kế hoạch đưa F-35 vào phục vụ và trở thành lực lượng nòng cốt của Lầu Năm Góc, nếu chiến tranh nổ ra và F-35 bộ lộ những điểm hạn chế thì coi như kế hoạch của Mỹ bị sụp đổ hoàn toàn. Dù chiến thắng hay thất bại, Mỹ sẽ phải hứng chịu những thiệt hại đáng kể về kinh tế và quân sự. Thậm chí nếu Mỹ giành chiến thắng, nó cũng không giải quyết được vấn đề Trung Quốc. Xét về tiềm năng, chiến thắng sẽ củng cố hệ thống đồng minh do Mỹ lãnh đạo, khiến cho chi phí trong chính sách ngăn chặn Trung Quốc của Washington sẽ giảm đi. Giả sử rằng chiến tranh bắt đầu với việc Trung Quốc khẳng định yêu sách của mình trên biển Đông và biển Hoa Đông, Mỹ sẽ “tô vẽ” Trung Quốc như một kẻ xâm lược và tự xem mình là tiêu điểm để cân bằng các hành vi trong khu vực. Sự gây hấn của Trung Quốc cũng có thể thúc đẩy các đồng minh trong khu vực (đặc biệt là Nhật Bản) tăng chi tiêu quốc phòng. Một cuộc chiến có thể tiếp thêm sinh lực cho chính phủ và xã hội Mỹ trong việc kiềm chế Trung Quốc lâu dài. Mỹ có thể đáp trả bằng cách tăng cường nỗ lực nhằm vượt xa quân đội Trung Quốc, mặc dù điều này sẽ kích động một cuộc chạy đua vũ trang mà có thể phương hại tới cả hai bên. Cuối cùng, Mỹ có thể lựa chọn bằng cách tự tách mình ra khỏi chiến trường châu Á, ít nhất là về mặt quân sự. Sự lựa chọn này có thể là rất khó khăn đối với nhiều người Mỹ, khi mà những những nhà hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ ở những thế hệ tiếp theo buộc phải "che giấu" tham vọng bá chủ của mình. Khả năng về một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn bỏ ngỏ. Để ngăn chặn cuộc chiến đòi hỏi kỹ năng bao quát và sự nhạy cảm về mặt ngoại giao của những nhà hoạch định chính sách tại Washington và Bắc Kinh. Tương tự như vậy, vấn đề ai thắng ai sẽ tiếp tục đè nặng lên nền ngoại giao, quân sự và những nguồn lực công nghệ của hai nước trong tương lai gần. Tuy nhiên, không được quên rằng Trung Quốc và Mỹ là trung tâm của một trong những khu vực kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới. Đó là những gì cần phải được duy trì và bảo vệ. Theo Công Thuận Baotintuc.vn/N.I ==================== Đang viết bài "Ngôn Ngữ Việt", căng thẳng quá! Chuyển đề tài sang cái Tô Bic của Lão Say để thư giãn. Thực ra cái này Lão Gàn đã nói cũng lâu rùi, về khả năng "Canh bạc cuối cùng" sẽ kết thúc bằng một cuộc chiến. Mãi đến bây giờ mới thấy bài viết này, mặc dù của một vị giáo sư nghiêm chỉnh, nhưng cái nhìn lại đơn giản quá! Thí dụ như luận điểm này: Nếu đã gọi là chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc thì nó không đơn giản là đánh nhau xong thì huề, để Hoa Kỳ hoặc Trung Quốc có cơ hội phục hồi lại. Lão gàn nhắc lại là đụng tới Việt Nam là hình tướng của sự sai lầm nghiêm trọng của Trung Quốc. Cụ tỷ: Người ta đã công khai nói về một cuộc chiến tranh có khả năng sẽ xảy ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, là điều Lão Gàn đã nói từ năm nẳm. Lão Gàn thì hơi cổ điển theo Lý học Đông phương: "Thánh nhân bất đắc dĩ dụng binh". Từ lâu, Lão Gàn đã nói rồi: Nhược đài sư tử thượng Thiên hạ Thái Bình phong. Sư tử tức là Hà Đồ đấy. Còn Thiên hạ (Hạ: Đất. Khôn) và Phong tức là Tốn đấy. Đổi chỗ tức là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ, một lý thuyết thống nhất vũ trụ, mới hy vọng cứu vãn được vấn đề. Âu cũng là cái số! "Nếu quả thật có một lý thuyết thống nhất thì chính nó sẽ quyết định chúng ta tìm ra nó hay không!". - SW Hawking. Tìm ra nó hay không là một định mệnh không phải chỉ của một con người qua lá Tử Vi. Mà nó sẽ quyết định tương lai của cả một nền văn minh.
    3 likes
  5. 'Hiện tượng con người' - sách hòa giải khoa học và tôn giáo Thứ hai, 16/6/2014 | 18:00 GMT+7 Tác phẩm nằm trong danh sách "100 cuốn sách tâm linh hay nhất" vừa được phát hành tại Việt Nam, trình bày một quan điểm độc đáo về vũ trụ. Nhóm tác giả Việt Nam làm sách kỷ yếu về hạt Higgs Cha đẻ của Hiện tượng con người là Pierre Teilhard de Chardin - một học giả người Pháp. Ông vừa là một nhà cổ sinh vật học nổi tiếng (tham gia khám phá vượn người Bắc Kinh), vừa là một nhà nghiên cứu triết học, thần học, đồng thời là một linh mục dòng Tên. Bìa sách Hiện tượng con người. Hiện tượng con người trình bày một quan điểm độc đáo về vũ trụ. Quan điểm này mở rộng thuyết tiến hóa đến lĩnh vực tinh thần, và được coi là bước tiến quan trọng trong sự hòa giải giữa khoa học hiện đại và tôn giáo. Nghiên cứu trong sách khởi đầu từ một nghịch lý con người, thể hiện qua việc: khoảng cách hình thái học giữa con người và khỉ giống người là không đáng kể. Trong khi con người lại khác những động vật đó nhiều. Để giải thích nghịch lý này, tác giả lần theo quy trình tiến hóa trong quá khứ và nhận ra sự cần thiết của việc đưa vào quy trình một biến số mới - đó là tâm thần. Tác giả Teilhard xem tiến hóa là quá trình dẫn tới sự phức tạp càng lúc càng tăng. Từ một tế bào tới một động vật có khả năng tư duy, đó là quá trình của sự tập trung tâm linh dẫn đến nhận thức tốt hơn. Một tập thể đồng nhất bắt đầu phát triển khi sự giao thiệp và sự truyền tải ý kiến, quan điểm ngày càng tăng lên. Kiến thức được tích tụ lại và truyền tải đi với cấp độ ngày càng cao dần, phức tạp và có chiều sâu hơn. Nhận thức tăng dần, hình thành "lớp vỏ" tư duy bao phủ trái đất. Teilhard gọi lớp vỏ này là "trí quyển". Trí quyển chính là nhận thức tập thể của con người. Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật khiến ảnh hưởng của con người càng ngày càng mở rộng. Một hệ quả quan trọng là sự tiến hóa hướng đến thống nhất ngày càng cao; và hơn thế nữa, con người chính là mũi tên chỉ hướng của sự tiến hóa. Dù thế giới vật chất có phân rã đến những trạng thái thấp nhất, thì những hy vọng cho tương lai của vũ trụ, nằm trong chính con người chúng ta, tức là trong nỗ lực của con người cùng đồng lòng xây dựng tinh thần của trái đất. Cuốn sách Hiện tượng con người được hoàn tất vào thập niên 1930, nhưng đến năm 1955 mới được xuất bản, lúc đó Teilhard đã qua đời. Tác phẩm gây một tiếng vang lớn trong nhiều năm tiếp đó và những âm hưởng mạnh mẽ của nó vẫn còn cho đến ngày nay. Một buổi hội thảo về các vấn đề cuốn sách đưa ra sẽ được tổ chức lúc 14h ngày 20/6 tại Hội trường Trung tâm Văn hóa Pháp, 24 Tràng Tiền, Hà Nội. Diễn giả tham dự gồm giáo sư Chu Hảo và nhà giáo Phạm Toàn. Lam Thu ============= Nếu hóa giải được mâu thuẫn giữa con người và tâm linh (tôn giáo, tín ngưỡng) thì nó đã trở thành một bộ phận của Lý thuyết thống nhất. Cuốn sách này không có khả năng làm được điều đó. Vì nền tảng tri thức của nền văn minh hiện đại vào những năm 30 của thế kỷ trước, chưa thể làm được điều này (Ngay cả bây giờ cũng chưa).Lão Gàn chắc chắn như vậy. Đây chỉ là sự ngộ nhận. Bởi vì, nếu khoa học và tâm linh hòa giải được thì các lý thuyết và tri thức khoa học phải giải thích được các tương tác của tâm linh với những hiện tượng tồn tại khách quan của vật chất. Nhưng tiếc thay! Làm gi có cái gọi là "tâm linh " mà tương tác.Sai lầm ngay từ khái niệm. Lão Gàn sẽ tìm mua cuốn sách này và chỉ ra sai lầm của nó. Mặc dù chưa xem. Lão Gàn không chém gió vấn đề này. Khi có và xem xong cuốn này, thì Lão Gàn sẽ đưa vào mục "Lý học và khoa học hiện đại" để phân tích chủ đề và luận cứ của cuốn sách sai, chứng tỏ Lão Gàn rất nghiêm túc. ================= PS: Vào những năm 30 của thế kỷ trước, ngay cả Viện Hàn Lâm Pháp quốc còn trao bằng tiến sĩ cho Lưu Tử Hoa, khi ông này dùng Kinh Dịch dể xác định "Có hành tinh thứ X". Nhưng thực tế qui ước đến nay thì ông Lưu Tử Hoa sai: Hành tinh thứ IX còn hoài nghi thì lấy đâu ra hành tinh thứ X?! Điều này chứng tỏ kiến thức về vũ trụ vào những năm 30 của thế kỷ trước chưa hoàn chỉnh - thì cuốn sách này của một tác giả Pháp không thể đúng được, khi mô tả tính chân lý trong chủ đề của cuốn sách vào cùng thời kỳ này. Cũng như cuốn "Thượng Đế và Khoa học" của ba vị viện sĩ Hàn lâm khoa học Pháp. Bàn thì rất rộng, cuối cùng kết luận lại mơ hồ. Ba vị viện sĩ này viết cuốn sách sau tác giả Pierre Teilhard de Chardin ngót 30 năm. Vậy mà còn chưa thể hòa giải giữa tôn giáo và khoa học. Tôi tin rằng tác giả Pierre Teilhard de Chardin chắc chỉ mới đặt vấn đề và giải quyết chưa hoàn chỉnh.
    2 likes
  6. NGÔN NGỮ VIỆT Tôi xin được mở đầu bài viết thể hiện cái nhìn của tôi về ngôn ngữ Việt, qua sự trích dẫn quan điểm của ông Phạm Công Thiện trên thư viện mở Wikipedia: Cái nhìn của ông Phạm Công Thiên đúng hay sai, được "khoa học công nhận" chưa thì chưa bàn vội. Tôi giới thiệu đoạn trích dẫn này chỉ như là một hiện tượng xác định sự minh triết của ngôn ngữ Việt từ ông Phạm Công Thiện - một nhân vật được giới thiệu trên thư viện mở - chắc hẳn phải thông minh hơn nhiều so với Thiên Sứ tôi. Một hiện tượng thứ hai tôi dẫn ra đây là cái tên cổ của đường Thanh Niên bên Hồ Tây và hồ Trúc Bạch ở Hanoi. Cái tên ấy bây giờ người ta gọi là "Cố (cố gắng) - Ngự (phòng ngự)". Nhưng trước đây từ đời cụ kỵ của tất cả những người dân Hanoi sinh ra ở cõi Tràng An, đều gọi là "Cổ (Cổ xưa) Ngư (Cá)". Vậy tại sao nó là thành "cố ngự"? Cái sự tích nó là thế này: Vào cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, có một vị sĩ phu Bắc Hà nào đó (lâu quá tôi quên mất tên vị này) phán rằng: Cổ Ngư thực ra là hiểu nhầm từ văn bản tiếng Pháp vốn ghi âm tiếng Việt không có dấu nên ghi là "Co ngu" và các cụ Nho nhà ta đã phiên âm là "Cổ Ngư". Chứ thật ra nó là "Cố Ngự" . Căn cứ vào một số nhà ngâm cứu thì cái đường gọi là "Cổ Ngư" đó, thực chất ngày xa xưa là một quãng đê. Vậy chắc chắn nó là "Cố ngự" rồi. Tức là quãng đê này cố gắng chống lại Hà Bá sông Hồng , mỗi khi ngài dâng nước nổi cơn thịnh nộ. Chà! Có lý! Thế là từ đó người ta cứ thế mà phang khi nói đến tên cổ của đường Thanh Niên là "cố ngự" như là một sản phẩm của kiến thức hàn lâm, đã được "khoa học công nhận". Ngày ấy, tôi chỉ là một gã thanh niên mới lớn, đọc báo thì biết vậy, chứ cũng chẳng đủ hiểu biết để ý kiến , ý cò gì. "Cổ Ngư" hay "cố ngự" thì cũng chẳng làm phai mờ mối tình đầu dang dở của tôi. Lúc ấy, như nhiều gã thanh niên mới lớn, tôi quan tâm đến mối tình của tôi hơn nhiều thứ trên đời. Nhưng bây giờ, tình đã nhạt phai, ngồi ngẫm lại về ngôn ngữ Việt, tôi mới thấy tính hệ thống và nhất quán của ngôn ngữ cao cấp nhất trong văn minh nhân loại, chính là ngôn ngữ Việt. Và phải bắt đầu từ một địa danh này. Tôi xin bắt đầu từ "Co Ngu". "Co ngu" là phiên âm tiếng Tây từ tiếng Việt thì đúng quá rồi. Nhưng nếu thêm dấu để nó thành "Cố Ngự" thì có thế thêm dấu thành rất nhiều chữ khác. Thí dụ: "Cò (Con cò) ngủ"; "Cỗ Ngự"; "Có Ngu" và tất nhiên là có cả "Cổ Ngư" nữa. Bây giờ, theo cái nhìn của tôi thì cần đặt lại vấn đề đường Thanh Niên bây giờ có phải ngày xửa, ngày xưa là con đê chắn nước không? Theo tôi hoàn toàn không! Bởi vì đê chắn sóng sông Hồng thì phải chạy dọc theo sông Hồng. Cho dù ngày xưa, rất xưa Hồ Tây được coi là một nhánh của sông Hồng thì cũng chằng ai mần một con đê chắn ngang Hồ Tây và chia đôi nó thánh Hồ Trúc Bạch cả. Khi mà con đê sông Hồng chạy sờ sờ bên kia Hồ Tây. Hơn nữa, tôi nhận thấy rằng: Chùa Trấn Quốc có từ trước cả thế kỷ XV. Trước đây nó vốn là hành cung của vua Lê. Sau này, dùng làm nơi để đưa những cung nữ có lỗi ra đấy. Cuối cùng nó mới thành chùa (Theo Doãn Kế Thiện - "Cổ tích và thắng cảnh Hanoi" Nxb Văn Hóa 1959). Vậy thì cái đê "cố ngự" ấy lập nên để làm gì khi con đường vào chùa Trấn Quốc phải có từ rất lâu, ít nhất từ hàng trăm năm trước vào thời Lê Trịnh. Chứ không lẽ bơi thuyền vào cung? Giả sử nó thật sự là con đê gì đó thì nó cũng chỉ là đê phụ sau đê sông Hồng, Nhưng đê phụ thì phải trước mặt đê chính chứ không thể sau đê chính để "cố ngự" cả. Hơn nữa, cái vô lý nó ở chỗ này: chẳng bao giờ cùng một danh từ mô tả một địa điểm, lại nửa nôm, nửa Nho như cái tên "Cố Ngự" cả. Vấn đề này tôi xin liên hệ với một hiện tượng là nữ sĩ Hồ Xuân Hương khi lập am ở Hồ Tây thì bà lấy tên là "Cổ Nguyệt" - Trăng xưa. Những địa danh ở quanh vùng đất Thăng Long xưa, có rất nhiều địa danh mang chữ đầu là "Cổ", như: Cổ Bi, Cổ Lễ, Cổ Nhuế, Cổ Mễ.... Vậy vùng đất Thăng Long xưa có dịa danh "Cổ Ngư" hoàn toàn hợp lý trong sự nhất quán và tính hệ thống với các địa danh gần gũi liên quan. Và quan trọng hơn cả, khi cụ Doãn Kế Thiện - người sống qua hai thế kỷ XIX và XX - trong tác phẩm của mình vẫn gọi là "Cổ Ngư". Vậy Tây nó phiên âm tiếng Việt từ chữ "Cổ Ngư" hay "cố ngự"? Khi chính cụ - một học giả cổ xưa vẫn gọi là "Cổ Ngư". Tức là địa danh Cổ Ngư đã có từ trước cả thời Tây xâm lược nước ta và "co ngu" không thể là "Cò ngủ", "có ngu", hoặc "Cố ngự", mà chính là "Cổ Ngư" Với địa danh "Cổ Ngư" vừa mang tính nhất quán về tính hệ thống của chữ Nho trong địa danh "Cổ" - xưa cũ, "Ngư" - cá. Chứ không như cái địa danh suy luận không có "cơ sở khoa học" là "cố ngự", nửa nôm, nửa Việt Nho - Thói quen gọi là từ Hán Việt - này. Vấn đề được đặt ra mà tôi muốn trình bày với bạn đọc là: tính nhất quán và tính hệ thống của tiếng Việt - ngôn ngữ cao cấp nhất trong lịch sử nhận thức được của văn minh nhân loại mà tôi xin tiếp tục trình bày dưới đây, để chứng tỏ rằng: Ngôn ngữ Việt trong đó bao hàm chữ Việt, không phải thích thì đổi loạn cào cào. Còn tiếp
    1 like
  7. NGÔN NGỮ VIỆT Tiếp theo. Vì là người Việt, tiếp xúc với ngôn ngữ Việt, nên học bất cứ một ngoại ngữ nào thì cảm nhận đầu tiên là: các bài tập dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt đều rất dễ. Nhưng từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài rất khó. Nhưng vì đang học tiếng nước ngoài chưa thật thông thạo, nên cứ nghĩ là tại mình chưa hiểu hết, nên khó dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước ngoài. Tuy nhiên, tôi cần phải xác định với bạn đọc về một chân lý hiển nhiên là: một ngôn ngữ cao cấp có thể dịch tất cả các ngôn ngữ khác ra ngôn ngữ đó. Ngược lại, một ngôn ngữ kém phát triển hơn thì rất khó dịch từ ngôn ngữ đó ra ngôn ngữ cao cấp hơn. Đó là nguyên nhân chính để dịch từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt rất dễ. Ngược lại thì rất khó là vậy. Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt có khả năng dịch tất cả các văn bản từ các ngôn ngữ trên thế giới ra ngôn ngữ Việt, ngược lại không phải các ngôn ngữ nào cũng có thể dịch một cách hoàn hảo các bản văn tiếng Việt ra ngôn ngữ đó. Thực tình lúc đầu khi tìm hiểu về cội nguồn Việt sử, tôi cũng chưa nghĩ đến điều này. Nhưng vào đầu năm 2000, hay 2001 gì đó, tôi làm một trang web để trình bày những luận điểm của tôi. Tôi đặt cái tựa là Việt sử 5000 năm văn hiến. và yêu cầu bên làm web có câu tiếng Anh kèm theo. Họ nói với tôi: Trong tiếng Anh không có từ văn hiến. Lúc đầu tôi cũng hơi ngạc nhiên. Bởi vì không lẽ một ngôn ngữ quốc tế bao trùm mọi lĩnh vực mà lại không có từ này? Nhưng cho đến tận ngày hôm nay, quả là tiếng Anh không có từ này thật. Cuối cùng, để dịch thoát ý từ "văn hiến", tôi đề nghi dùng thuật ngữ là "nền văn hóa hướng thượng". Ngay cả tiếng Hán, một nền văn hóa mà rất không ít người ra rả như ve sầu rằng: Nền văn hóa Việt chịu ảnh hướng từ văn hóa Hán, Hay tệ hơn, họ coi là nền văn minh Hán là chủ thể của văn hóa Việt. Cả thế giới tin điều đó. Nhưng thực ra, vấn đề hoàn toàn ngược lại: Chính nền văn hóa Việt là chủ thể của nền văn hóa Hán, sau khi nền văn minh Văn Lạng sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử. Tất nhiên, nó thể hiện ngay trong ngôn ngữ Việt. Trước hết tôi xin nói về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Có thê nói cả thế giới tin rằng nó có cội nguồn từ văn minh Hán. Nhưng sự thực hiển nhiên và sờ sờ ra đấy , là các nhà nghiên cứu Hán hiện đại - tức là tri thức của họ tồng hợp cả một qúa trình lịch sử của một nền văn minh - lại không thể chứng minh được thuyết Âm Dương Ngũ hành ra đời vào lúc nào trong lịch sử văn minh Hán. Chưa hết, trong tất cả các bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - tính từ khi nền văn minh Việt sụp đổ ở Nam Dương Tử - chưa hề có một cuốn sách Hán ngữ nào mô tả - dù chỉ là tóm tắt sơ lược nội dung của học thuyết này?! Mặc dù hệ thống phương pháp luận của nó lại thể hiện rộng khắp trên tất cả các phương pháp ứng dụng: Dự báo, gồm Tử Vi, Bốc Dịch, Thái Ất, Độn giáp....vv...hoặc kiến trúc xây dựng (Phong thủy; Y học (Đông Y)....?! Tất cả đều rất mơ hồ và bí ẩn. Cho nên cả thế giới hiện đại đã coi nền văn minh Đông phương vốn mặc định từ văn minh Hán, hoàn toàn là huyền bí! Ngay cả khi hai nền văn minh Tây phương và Đông phương giao tiếp thì trí thức của cả hai nền văn minh này - gồm có nền văn minh Đông phương được mặc định từ văn minh Hán với những bản văn chữ Hán từ hơn 2000 năm nay - cũng không thể phục hồi được của cái mà chính nền văn minh Hán tự nhận là của mình. Về vấn đề này, đã nhiều năm tôi đã chứng minh rằng: Cội nguồn văn minh Đông phương thuộc về nền văn hiến Việt, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử. Bởi vì, chỉ có nền văn hiến Việt với những di sản văn hoa truyền thống của người Việt - dù đã tan nát qua hơn 2000 năm lịch sử hiện đại - mới có khả năng phục hồi và làm sáng tỏ được học thuyết này. Chỉ có chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương, mới có thể làm sáng tỏ được sự bí ẩn huyền vĩ của nó. Đương nhiên, khi Việt tộc là chủ nhân đích thực của văn minh Đông phương thì có thể xác định rằng: ngôn ngữ Việt không thể là hệ quả của ngôn ngữ Hán. Đây là điều hiển nhiên. Bởi vì ngôn ngữ Việt khác hẳn ngôn ngữ Hán, ít nhất là cách phát âm hoàn toàn khác nhau, như tiếng Tây với tiếng Tàu vậy. Một ngôn ngữ cao cấp trong tất cả các ngôn ngữ hiện đại, nếu nó không phải là nguồn gốc của tất cả những ngôn ngữ liên quan đến nó thì nó cũng không thể có cái gọi là "nguồn gốc" từ bất cứ ngôn ngữ nào. Cho dù người ta có thể tìm thấy mối liên hệ gần giống giữa vài cách phát âm. Cũng không ít các học giả, nhà nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ Việt có nguồn gốc từ Mã Lai, Nam đảo gì đó, vì so sánh một vài hiện tượng cục bộ. Nếu giả thuyết về nguồn gốc Mã Lai, Nam Đảo là đúng, vậy thì cái ngôn ngữ Hán đóng vai trò gì trong việc ảnh hưởng đến ngôn ngữ Việt trong ngôn từ? Chẳng một học giả nào tìm thấy mối liên hệ giữa ngôn ngữ Việt từ ngôn ngữ Hán. Nhưng họ lại cho rằng 70% tiếng Việt có gốc là từ Hán Việt, như là một bằng chứng cho văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán. Thật là một sự mâu thuẫn đến ngược đời khi đem đặt lập luận của họ cạnh nhau. Cụ Lê Gia thống kê có 30. 000 từ tiếng Việt có gốc Hán Việt. Cụ Lê Gia rất giỏi chữ Nho, tôi rất quý và kính trọng cụ, nhưng tôi tin cụ không giỏi tiếng Tàu. Các nhà nghiên cứu cứ bám vào số lượng từ Hán Việt từ chữ Nho để xác định văn hóa Việt là hệ quả của văn minh Hán tộc. Nhưng rất tiếc! Cách phát âm của hơn 30. 000 chữ Nho trong ngôn ngữ Việt khác hoàn toàn ngôn ngữ Hán khi cùng đọc một ký tự, mặc dù có một số những từ gần giống. Ấy là khi dịch ra tiếng Việt thì phát âm lại càng khác hẳn. Tôi thí dụ như câu sau đây trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, đọc theo Việt Nho là: Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán * 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Tiếng Việt khi đọc từ Việt Nho như tôi đã trình bày. Nhưng tiếng Hán lại phát âm khi đọc các từ trên như sau: Lia lia sing khí xi xu giai shấu. 獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁 Zdén zdén xeo kủ xi shứ chha ooan. 喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨 Rõ ràng cách phát âm khác hẳn nhau giữa từ Việt Nho và tiếng Hán cho cùng một ký tự. Còn dịch ra tiếng Việt lại càng khác xa về phát âm: Lớp lớp sông cờ hề sầu ra ải Inh ỏi tiêu trống hề oán ly gia * Vậy với 30. 000 từ chiếm 70 % ngôn ngữ Việt thì người Việt sao không nói luôn tiếng Hán trong suốt 1000 năm đô hộ đó, mà phải mất công Việt hóa trên 30. 000 từ để phổ biến trong tiếng Việt làm gì?! Từ đây vấn đề được đặt ra: 1/ Ngay bản thân người Hán vào đầu thế kỷ XX - tức là một xã hội rất phát triển với mọi quan hệ xã hội phức tạp, bao gồm cả đời sống sinh hoạt xã hội và quan hệ xã hội - so với hàng ngàn năm trước đó; nhưng họ chỉ cần 1000 chữ phổ thông để xóa nạn mù chữ. Vậy xuất phát từ nhu cầu gì của người Việt để cần phải có cả một hệ thống hơn 30. 000 từ tiếng Việt Nho trong việc mô tả từ Hán? 2/ Chủ thể xuất xứ để tạo ra cả một hệ thống tiếng Việt Nho - quen gọi là từ Hán Việt ấy - là tổ chức nào trong lịch sử? Bởi vì, để tạo ra cả một hệ thống gần 30. 000 từ đó, cần phải có một tập hợp những tri thức cao cấp, chuyên ngành làm việc một cách qui mô và có tính hệ thống trong một cơ chế tổ chức chặt chẽ. Chưa hết, hệ thống gồm 30. 000 từ Việt Nho này còn cần những quyết định cấp quốc gia để phổ biến và lưu truyền đến ngày nay. Nó không phải chỉ vài chữ như "bánh dầy" hay "bánh giày", "Thúy" hay "Thúi" , "Cố Ngự" hay "Cổ Ngư" do vài nhà ngâm cứu đề xuất, mà còn rất chật vật. Đây là cả một hệ thống ngôn ngữ Việt Nho với cái mà chính những người phủ nhận truyền thống văn hiến Việt cho là : 70% tiếng Việt liên quan đến ngôn ngữ Hán. Híc! Trong lịch sử hơn 2000 năm nay của cả Trung Quốc và Việt Nam - tức sau khi nhà nước Văn Lang của Việt tộc sụp đổ ở bờ Nam Dương Tử - không hể nói tới một tổ chức quốc gia và một tập hợp qui mô của những nhà tri thức để có hệ thống 30. 000 từ Việt Nho này. Tất nhiên, vì nó không hề xảy ra vào thời Hán tộc xâm lược và cai trị Việt tộc ở Nam Dương tử. Chính tính qui mô của hệ thống Việt Nho và - xin lỗi - ngay thời hiện đại với tập hợp những nhà tri thức chuyên ngành với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cũng không thể thực hiện được một cách dễ dàng. Chưa nói đến từ hàng ngàn năm trước. Điều hiển nhiên này đã bác bỏ xuất xứ Hán của hệ thống Việt Nho, không thể do người Hán tạo nên trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt. mặc dù ngay từ đầu có thể không phải có ngay 30. 000 từ như vậy. Thưa quí vị. Nếu thời Hùng Vương chỉ là "một liên minh bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" và "địa bản sinh hoạt chỉ vỏn vẹn ở đồng bắng sông Hồng" thì không cần thiết phải Hán hóa ký tự Hán ra ngôn ngữ Việt. Còn tiếp ============================ * Theo wikipedia.org/wiki/Chinh_phụ_ngâm
    1 like
  8. Trung Quốc "nổi giận": triệu tùy viên quân sự Nhật 16/06/2014 08:50 (GMT + 7) TTO - Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã có phản ứng đáp trả “hiếm thấy” với Tokyo, theo hãng tin AFP, khi họ đưa ra hai văn bản phản đối chính thức trong vòng hai ngày. Một máy bay tuần tra của Nhật Bản trong không phận quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư - Ảnh: leaderpost.com Ngày 15-6, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đăng trên trang mạng chính thức của họ một thông báo nói họ đã triệu tập tùy viên quân sự tại đại sứ quán của Nhật Bản ở Bắc Kinh để phản đối vụ việc xảy ra giữa các máy bay chiến đấu của hai nước trên biển Hoa Đông. Căng thẳng leo thang ngày 11-6 khi Tokyo cáo buộc Bắc Kinh đưa các máy bay quân sự tiến quá gần máy bay chiến đấu của Nhật Bản trên biển Hoa Đông. Người phát ngôn Bộ quốc phòng Trung Quốc Cảnh Nhạn Sinh đã ra một tuyên bố ngày 12-6. Bộ Quốc phòng nước này đã triệu tập các quan chức ở sứ quán Nhật Bản một lần, đồng thời đăng hai đoạn video quay cảnh đụng độ trên không trên trang web của họ. Ngày 14-6, Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói “Tokyo đã cố tình phớt lờ thực tế và bóp méo sự thật với những lập luận sai trái”. Hai máy bay chiến đấu F-15 của Nhật Bản đã bay vào Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) do Trung Quốc đơn phương thiết lập ở biển Hoa Đông. Trung Quốc lớn tiếng tố chính các máy bay Nhật đã tìm cách bay quá gần một máy bay Tu-154 của họ, với khoảng cách gần nhất chỉ khoảng 30 mét. “Nhật Bản tiếp tục duy trì lập trường của họ và cho rằng họ không mắc lỗi gì hết”, Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói. Trong một cuộc họp báo ngày 13-6, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã trưng ra các video và ảnh mà họ cho là bằng chứng cho thấy các máy bay Nhật Bản đã tìm cách can thiệp vào hoạt động của máy bay Trung Quốc. Chánh văn phòng nội các Nhật Bản Yoshihide Suga và Bộ trưởng Quốc phòng Itsunori Onodera ngày 13-6 cũng đã yêu cầu Trung Quốc dỡ bỏ các đoạn video khỏi trang chủ của Bộ Quốc phòng. Nhà chức trách Nhật Bản cáo buộc Bắc Kinh “đã chọn sai đoạn băng”. Đáp lại, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói yêu cầu của Nhật Bản là “đáng xấu hổ” và “vô lý”. CHIÊU VĂN ===================== "Mọi chiện đều có thể giải quyết bằng con đường "ngoáy dao" - Í lộn - "ngoại giao". Khi chuần mực và chân lý không được tôn trọng và người ta dùng mọi thủ đoạn để giành lẽ phải về mình thi ngoại cái con khỉ. Khi ngoại giao đã không thể giải quyết được thì chỉ còn cách giải quyết bằng .....sức mạnh. Vấn đề là nó xảy ra vào lúc nào?
    1 like
  9. Tàu Trung Quốc bị nghi nhắm bắn tàu, máy bay Nhật Thanhnien Online 15/06/2014 02:00 Tờ Asahi Shimbun hôm qua dẫn các nguồn tin chính phủ Nhật tiết lộ một tàu chiến Trung Quốc bị nghi ngờ nhắm bắn một tàu khu trục và một máy bay tuần tra Nhật ở biển Hoa Đông. Cụ thể, vào buổi sáng ngày 29.5, một tàu hải quân Trung Quốc được cho là đã kích hoạt hệ thống radar kiểm soát khai hỏa nhắm vào tàu khu trục Sawagiri. Buổi chiều cùng ngày, chiếc tàu trên cũng bị nghi ngờ nhắm bắn một máy bay P-3C của Nhật đang thực hiện sứ mệnh tuần tra ở khu vực. Tuy nhiên, do chưa thu được bằng chứng dứt khoát về việc kích hoạt radar nên chính phủ Nhật vẫn chưa công khai vụ việc. Trong một diễn biến liên quan, Bộ Quốc phòng Trung Quốc hôm qua thông báo đã triệu tập tùy viên quốc phòng Nhật tại Bắc Kinh và cảnh báo sẽ áp dụng “các biện pháp bổ sung” không nói rõ sau vụ máy bay quân sự hai nước bay sát nhau ở biển Hoa Đông ngày 11.6. Sơn Duân ============== Bởi vậy. Lão Gàn nói nâu rùi: "Cái thùng thuốc súng ló lằm ở Hoa Đông cơ". Trung Quốc quậy cỡ nào thì cuối cùng cũng phải kéo nhau đến Hoa Đông sát phạt.
    1 like
  10. Tokyo đòi Bắc Kinh gỡ video cáo buộc F-15 Nhật "vờn" Tu-154 TQ Chí Quân (TH) - theo Trí Thức Trẻ | 14/06/2014 20:06 (Soha.vn) - Người phát ngôn chính phủ Nhật Bản khẳng định hình ảnh trong video không phải là máy bay của Nhật. Hình ảnh trong đoạn video mà TQ công bố. Nước này khẳng định chiếc F-15 Nhật Bản (phía sau) đã bay sát chiếc Tu-154 Trung Quốc (phía trước) chỉ cách 30m. Hôm 12/6, Trung Quốc đã cho đăng tải trên website Bộ Quốc phòng nước này một đoạn video mà nội dung được họ diễn giải là hai chiếc F-15 của Nhật Bản đã bay sát một chiếc Tu-154 của Trung Quốc ở khoảng cách chỉ có 30 mét, “ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của chuyến bay”. Thông tin trong video khẳng định vụ việc xảy ra tại nơi mà vùng nhận dạng phòng không của hai nước chồng lấn nhau ở biển Hoa Đông. Nhưng hôm qua, 13/6, người phát ngôn chính phủ Nhật Bản, Chánh văn phòng Nội các Yoshihide Suga cho biết, chiếc máy bay trong đoạn băng ghi hình mà Trung Quốc công bố không phải là máy bay của Nhật Bản. Ông Suga nhấn mạnh các thông tin do Trung Quốc đưa ra là không đúng sự thật, và hoàn toàn không có chuyện “máy bay chiến đấu Nhật Bản áp sát máy bay Trung Quốc và gây nguy hiểm cho an toàn hàng không”. Ông Suga cho biết, Tokyo đã gửi công hàm phản đối và yêu cầu Bắc Kinh rút bỏ đoạn video nói trên khỏi trang web của Bộ Quốc phòng Trung Quốc. Ông Suga nhắc lại yêu cầu của Tokyo về việc thiết lập một cơ chế thông tin khẩn cấp giữa hai nước để giải quyết những tình hình khủng hoảng. Trước đó, Tokyo đã phản đối việc hai chiến đấu cơ của không quân Trung Quốc bay “sát một cách bất thường” hai chiến đấu cơ của Nhật bên trên biển Hoa Đông. Thông tin từ phía Nhật Bản cho biết hai chiếc chiến đấu cơ Su-27 của Trung Quốc bay sát hai máy bay trinh sát của Nhật trên vùng biển mà hai nước có tranh chấp. Máy bay Trung Quốc có vẻ đã mang theo tên lửa. HOTThưởng đến 5 triệu, trả nhuận bút ngay 24h cho cộng tác viên. ================== "Mọi chuyện đều có thể giải quyết bằng con đường ngoại giao!". Đấy là câu nói trở nên thành ngữ của các chính khứa hạng nhất , nhằm thể hiện tinh thần yêu hòa bình, trong việc giải quyết các sự kiện nóng trên thế giới. Nhưng điều kiện cần và đủ để thực hiện giải pháp ngoại giao là chuẩn mực quốc tế phải được tôn trọng. Dzư dzậy, nó mới có cơ sở để đàm phán ngoại giao. Còn ở đây, người ta vu cáo, tạo chứng cớ giả....Tức là chỉ dùng thủ đoạn để nói chiện thì ngoại cái con khỉ . Lúc này, đúng nghĩa chỉ còn là thủ pháp ngoại giao để chứng tỏ chân lý thuộc về mình mà thôi.
    1 like
  11. Hé lộ nguyên nhân 50 máy bay biến mất bí ẩn khỏi màn hình radar theo Người lao động | 14/06/2014 20:34 Trung tâm kiểm soát không lưu của Áo, Đức, Cộng hòa Czech, Slovakia hôm 5 và 10-6 thông báo 50 chiếc máy bay đã mất liên lạc trong một thời gian ngắn mà không rõ nguyên nhân. 50 máy bay biến mất khỏi màn hình radar ở châu Âu hôm 5 và 10-6 vừa qua. Ảnh: Reuters Sự cố kỳ lạ: 13 máy bay biến mất bí ẩn Máy bay Nga bốc cháy dữ dội khi đang đỗ ở sân bay Máy bay Malaysia rơi ở nơi "kinh khủng nhất thế giới" Các bài tập trận quân sự điện tử được xác định là nguyên nhân khiến 50 chiếc máy bay biến mất khỏi màn hình radar ở châu Âu trong ngày 5 và 10-6 vừa qua, chính phủ Slovakia cho biết. Trung tâm kiểm soát không lưu của 4 quốc gia Áo, Đức, Cộng hòa Czech, Slovakia hôm 5 và 10-6 thông báo có tổng cộng 50 chiếc máy bay đã mất liên lạc trong một thời gian ngắn mà không rõ nguyên nhân. Ngay sau đó, chính phủ Slovakia lý giải các cuộc tập trận quân sự điện tử đã dẫn đến sự gián đoạn tần số liên lạc vô tuyến từ máy bay đến các trạm kiểm soát trên mặt đất, khiến chúng biến mất khỏi màn hình radar. Lúc phát hiện hệ thống radar gặp trục trặc, ban tổ chức cuộc tập trận quân sự - đang được thực hiện ở một số khu vực khác nhau ở châu Âu – đã lập tức ngưng lại. Những chiếc máy bay khi không còn bị tần số vô tuyến làm nhiễu loạn đã bắt lại được tín hiệu với trạm kiểm soát không lưu các nước và tiếp tục lịch trình bay như bình thường. Dù Slovakia không đề cập đến các lực lượng quân sự tham gia cuộc tập trận nhưng phương tiện truyền thông Áo tiết lộ các nước thành viên NATO có tham gia. Theo báo Telegraph của Anh, trong bài tập, NATO đã sử dụng thiết bị phá radar của đối phương, dẫn đến sự cố bí ẩn trong hai ngày 5 và 10-6. Trong khi đó, trạm kiểm soát không lưu của Đức vẫn đang tìm hiểu nguyên nhân vụ những chiếc máy bay biến mất một cách khó hiểu. “Máy bay bị biến mất khỏi màn hình trong một vài giây. Các trường hợp xảy ra lẻ tẻ và không nghiêm trọng. Nhưng chắc chắn phải có nguyên nhân cụ thể nào đó” – một phát ngôn viên hàng không của Đức tuyên bố. ===================== Từ lâu, ngay trong topic này, Lão Gàn đã phát biểu rằng thì là: Những máy bay tàng hình tối tân, tên lửa Tomahok, súng bắn laze, súng điện từ.....của Hoa Kỳ - Tức là những vũ khí hiện đại nhất mà tất cả đều nhìn thấy, vì nó được công bố công khai - thực chất chỉ là vũ khí hạng hai, sử dụng vào giai đoạn trung cuộc của một cuộc chiến hiện đại. Nay qua bài báo này - tuy mới chỉ là giả thuyết - nhưng có thể coi là một ví dụ cho nhận định của Lão Gàn. Cái tự hào về phát triển quân sự nhanh chóng của Trung Quốc , giống như sự tự hào về lực lượng quân sự của Sadam Hussen, trước khi xua quân chiếm Cô Oét và là nguyên nhân của cuộc chiến Vùng Vịnh I. . ===================== PS: Lão Gàn hay cầm đèn chạy trước ô tô, nên lắm lúc cũng phiền bỏ mựa. Nhưng nhiều khi Lão Gàn cũng tắt đèn ngậm ngùi cho ô tô chạy qua. Lúc ấy thì nhiều thằng trên thế gian lại rất phiền phức. Vì đường trần gian nan.
    1 like
  12. Mỹ xoay trục, Đức lên tiếng:Cửa thoát hiểm Ukraine đã mở? (Quan hệ quốc tế) - Những động thái gần đây giữa Nga, EU, Mỹ, Ukraine cho thấy một cánh cửa dần hé khi tất cả các bên đang nhắm tới mục đích chính của mình. Căng thẳng năng lượng được hóa giải Quá trình căng thẳng tại Ukraine, từ khi chính phủ lâm thời được lập lên sau khi lật đổ Tổng thống Yanukovych, song song với những hoạt động tranh quyền, giành đất của các bên, một hoạt động xuyên suốt đó là Nga không ngừng mệt mỏi đòi nợ Ukraine về những hợp đồng khí đốt. Đến thời điểm hiện tại, tổng số nợ của Ukraine đã lên đến 4,5 tỷ USD. Có ít nhất ba cuộc đàm phán cấp bộ trưởng và đại diện công ty quốc doanh năng lượng của hai nước được tổ chức mà chưa có hồi kết. Ukraine vẫn chưa chịu trả nợ, Nga không chịu giảm giá bán, và sức ép từ việc chấm dứt hợp đồng buôn bán khí đốt của Nga vẫn treo lơ lửng trên đầu quốc gia Đông Âu này. Vấn đề khí đốt được mang ra như một quân bài lợi dung kinh tế để thỏa mãn mục tiêu chính trị. Kinh tế ở đây, nga đòi được khoản nợ không nhỏ của Ukraine (dưới thời Yanukovych là 1,95 tỷ USD) và tranh thủ trong vài tháng của chính quyền mới, Nga nâng tổng mức nợ lên tới 4,5 tỷ USD. Còn chính trị, việc đòi nợ và "khóa van" dầu khí khiến Ukraine yếu thế trong việc mất bán đảo Crimea vào tay Nga, khiến miền Đông nước này thành lập một nhà nước có tên là "Nước Nga Mới" với đầy đủ ban bệ chính quyền và quân đội. Các giếng dự trữ ngoài trời và hệ thống đường ống dẫn khí tại nhà máy dự trữ khí đốt dưới lòng đất lớn nhất châu Âu Bilche-Volytsko-Uherske ở vùng Lviv, miền tây Ukraine ngày 11/6. Ngoài ra, cũng với chiêu đòi nợ, Nga sẽ chỉ công nhận chính quyền Kiev khi Ukraine trả hết nợ. Sức ép về việc can thiệp quân sự từ phía Nga cũng được giảm xuống khi những hợp đồng nợ nần được thanh toán. "Nhất tiễn hạ song điêu", Moscow sẽ vẫn ung dung chơi ván bài năng lượng với Kiev bởi càng kéo dài thì người có lợi ở đây chỉ có thể là bên bán. Kéo dài thì Ukraine sẽ phải mua với mức giá cao như trên trời, kéo dài thì mùa đông đến gần, sức mạnh của chiêu bài năng lượng càng được gia tăng đáng kể. Nhưng ngày 13/6/2014, Nga đã mở nước cho Ukraine. Có thể nói là chấm dứt cuộc chơi mèo vờn chuột tại ngày này. Bởi con mèo đã thỏa thuận được với con chuột về mức giá năng lượng là 326 USD/1.000m3 khí đốt tự nhiên trong thời gian trước mắt là 18 tháng. Mức giá này cao hơn mức Ukraine đề nghị, nhưng thấp hơn mức Nga tính toán, và được Đức tỏ ra ủng hộ. Đồng thời, thay vì cắt toàn bộ nguồn cung khí đốt cho Ukraine như "tối hậu thư" mà Tổng thống Putin tuyên bố hồi tuần trước, Moscow cho phép nới hạn thanh toán trước mắt 1,9 tỷ USD tiền nợ của Ukraine đến 10h (giờ địa phương) ngày 16/6/2014. Và nước Đức cho rằng Nga đã có thiện chí tạo điều kiện cho Kiev trả nợ cũng như mở ra cơ hội đàm phán cho một phương pháp giải quyết vấn đề Ukraine. Tổng thống Nga V.Putin và Tổng thống Ukraine Petro Poroshenko trước thềm cuộc hội đàm Nhưng việc trả một khoản tiền lớn trong khi ngân khố gần như trống rỗng, nhiệm vụ này là bất khả thi với Ukraine. Tuy nhiên, một sự tình cờ, cũng trong ngày 13/6, EU quyết định giải ngân 250 triệu USD trong số 1,61 tỷ USD để hỗ trợ bình ổn Ukraine. Số còn lại sẽ giải ngân sớm. Vậy là Ukraine đã có cơ hội trả nợ cho Nga. Nếu tiền có về chậm, chắc Nga cũng không nợ tiệt đường sống của láng giềng mà ân cần tiếp tục nới hạn trả nợ. Đến lúc này, nút thắt về nợ nần, năng lượng giữa Moscow và Kiev đã bước đầu được tháo gỡ. Kiev có cửa thoát hiểm cho khủng hoảng quốc gia? Bản chất của những động thái xuống nước Có thể nói rằng lời giải cho bài toán năng lượng của quốc gia này là kết quả của cuộc đàm phán ba bên giữa Nga, Đức, Ukraine, đại diện là nguyên thủ của ba nước: Ông V.Putin, bà A.Merkel, và ông P.Poroshenko. Tại đây, một điều đáng ngạc nhiên khi Tổng thống Nga đã gọi ông Petro Poroshenko là ngài Tổng thống Ukraine. Người lãnh đạo nước Nga còn đưa ra các kế hoạch phát triển song phương. Có thể nói Nga đã công nhận sự chính danh của chính quyền Poroshenko. Cũng từ cuộc hội đàm này, nhiều phương án cho việc giải quyết vấn đề Ukraine được bàn bạc, mà trong đó tiên quyết là thỏa thuận ngừng bắn giữa các bên để tạo điều kiện cho một cuộc đàm phán. Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov ngày 12/6 cho biết lực lượng ly khai ở miền Đông Ukraine sẵn sàng tham gia lệnh ngừng bắn, song yêu cầu Kiev phải đi tiên phong. Dù chiến sự tại Ukraine vẫn đang diễn ra hàng ngày, tuy nhiên một điều đáng ghi nhận, đã có sự cởi mở hơn giữa các bên và chỉ cần thêm những sự kìm chế, chắc chắn sẽ có một hiệp định ngừng bắn giữa các bên liên quan. Tuy nhiên, nhìn vào những diễn biến này, bản chất của những động thái này cho thấy cánh cửa giải quyết dứt điểm vấn đề Ukraine chỉ mới mở hé và còn rất nhiều rào cản. Bởi lẽ, lực lượng ly khai ở miền Đông đã thành lập một nhà nước mang tên Nouvo Russia (Nước Nga Mới) với đầy đủ ban bệ chính quyền và quân đội. Họ đang kêu gọi sự chấp thuận lập nước của mình từ phía Nga và một số quốc gia khác. Một tòa nhà bị cháy khi quân đội Ukraine pháo kích vào thành phố Slavyansk Một khi lệnh ngừng bắn đã được yêu cầu, và Kiev chấp nhận thỏa thuận này, đồng nghĩa với việc sẽ có những cuộc đàm phán tiếp theo giữa chính quyền Kiev và lực lượng ly khai. Như vậy có nghĩa Nước Nga Mới này đã có một vai trò mới, thay vì bị buộc tội là những phần tử tội phạm và khủng bố như trước đây, họ đã được trao cho quyền bằng vai phải lứa với những người miền Tây. Điều này cũng lý giải cho vì sao Nga bỗng dưng công nhận Petro Poroshenko là Tổng thống của Ukraine. Không gì có thể đảm bảo trước khi đàm phán diễn ra, ông Putin sẽ không công nhận một vị Tổng thống cho Nước Nga Mới. Quân đội Ukraine đang cạn trực thăng Vì sao lại là Đức?Đàm phán bốn bên vào hồi tháng 4/2014 giữa Nga, Mỹ, EU, Ukraine tại Geneva đã đạt được một thỏa thuận, tuy nhiên, thỏa thuận này đã chìm vào quên lãng ngay sau khi các lãnh đạo bước ra khỏi bàn đàm phán. Nhưng hiện tại, chỉ với ba quốc gia Nga, Đức và Ukraine, họ có thể đạt được nhiều bước tiến đầy tính thực tế. Vấn đề năng lượng đã có hướng giải quyết, và EU cũng đang rất vui mừng vì thông tin này, bởi EU phụ thuộc 30% như cầu khí đốt từ Nga, trong đó, 80% lượng khí đốt này thông qua các đường ống ở Ukraine. Cắt phần Ukraine, đồng nghĩa EU cũng đói năng lượng. Nhưng vì sao lại là nước Đức? Bởi lẽ, nếu thay nước Đức là nước Mỹ, cuộc đàm phán này sẽ chỉ dẫn đến cãi nhau. Nước Mỹ không bao giờ chịu kém phân Nga và nghiễm nhiên, họ áp đặt tư tưởng Nga phải thỏa hiệp với những yêu cầu của họ. Nếu không thỏa hiệp, nước Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi vấn đề cho đến khi Nga chịu nhượng bộ. Bằng không, hãy để vấn đề tiếp tục lùm xùm như vậy, Syria là một điển hình. Thủ tướng Đức Angela Merkel là người khiến Tổng thống Nga V.Putin nể phục và kính trọng Ngoài Đức ra, các thành viên EU khác có thể nói rằng "không đủ tầm" để thương nghị với Nga về một giải pháp. Bởi nền kinh tế Đức hiện đang là đầu tàu của châu Âu, quốc gia này kéo theo sau hàng loạt toa tàu đang đầm đìa nợ công. Không tính những nước nhỏ thì các nước lớn như Pháp, Tây Ban Nha... vẫn đang tìm cách khôi phục nền kinh tế. Lý do này khiến tiếng nói của Đức có uy thế trước các hội đồng châu Âu. Thứ hai, Đức có phần lãnh thổ nằm giữa Đông và Tây Âu, bản thân quốc gia này cũng có một cộng đồng không nhỏ những người nói tiếng Nga sinh sống. Tiếp đến, Đức và Nga có những sự hợp tác kinh tế chặt chẽ, quốc gia này cũng phụ thuộc một phần nhu cầu năng lượng của mình vào nguồn cung của Nga. Tuy nhiên, Đức cũng là đồng minh của Mỹ và là một thành viên trong liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO). Một điều cần chú ý, nữ Thủ tướng Đức Angela Merkel là một đối thủ đáng gờm với Tổng thống Putin, khiến cho ông Putin phải kính nể. Những điều kiện khách quan, chủ quan đó khiến quốc gia này có đủ khả năng đại diện cho EU để đàm phán với Nga và Ukraine về một diễn biến hòa giải cho vấn đề Ukraine. Và chắc chắn, những quyết sách của Đức trong hội đàm ba bên này cũng mang màu sắc của ý chí Mỹ. Bởi nước Đức đã từng ủng hộ Mỹ trong việc sẽ tăng hình thức trừng phạt nếu Nga không tích cực trong vấn đề hạ nhiệt điểm nóng Ukraine. Đỗ Minh Tú ======================= Các quí zdị phân tích, phân teo kiểu gì thì tháng 6 Việt lịch, cái tình hình ở U cờ rai nơ phải chấm dứt. Lằng nhằng, phức tạp . Cái này Lão Gàn nói rùi. Ở "Lời tiên tri 2014".
    1 like
  13. Mỹ không để Trung Quốc khuấy đảo biển Đông dantri.com.vn Thứ Bẩy, 14/06/2014 - 09:57 Nhà chiến lược người Mỹ Ernest Bower, chuyên gia phân tích về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế ở Washington, cho rằng Trung Quốc đã sai lầm khi nhận định Mỹ sẽ không mạnh tay can thiệp để bảo vệ Việt Nam, trang tin Want China Times của Đài Loan đưa tin ngày 13/6. Tàu sân bay Mỹ gần đây thường xuyên hiện diện ở biển Đông. Ảnh: US Navy Ông Bower chỉ trích mạnh mẽ Trung Quốc kể từ khi nước này ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam. “Rõ ràng, sự hung hăng gần đây của Trung Quốc đã gây nên sự lo ngại tại các nước láng giềng”, ông Bower nói trong cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Đức Deutsche Welle. Tiếp đó, ông phát biểu trên tờ Washington Times (Mỹ): “Bắc Kinh nghĩ rằng Washington lúng túng và không có gan thực hiện một cuộc can thiệp nghiêm trọng, cho nên Trung Quốc mới có động thái địa chính trị là hạ đặt giàn khoan trong vùng thềm lục địa của Việt Nam”. Trong khi Mỹ lên án những hành động Trung Quốc ở biển Đông là “khiêu khích”, nhiều nhà phân tích chính trị nói rằng, không có lý do gì Mỹ lâm vào một cuộc chiến với Trung Quốc vì Việt Nam, do đây là xung đột song phương. Tuy nhiên, chiến lược gia Bower cho rằng, Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự cho Việt Nam tùy thuộc hoàn cảnh; Trung Quốc không nên nhận định sai tình hình. Theo ông, sẽ là sai lầm khi cho rằng Mỹ sẽ không hành động quân sự để cho Trung Quốc mặc sức muốn làm gì thì làm với Việt Nam. Liên minh chiến lược tứ cường Họp an ninh 2+2 Nhật Bản-Úc tại Tokyo ngày 12/6, Ngoại trưởng Úc Julie Bishop tuyên bố ủng hộ Nhật Bản cải tổ Hiến pháp, cho phép Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ với các nước đồng minh. Úc nêu rõ, tranh chấp chủ quyền tại biển Đông và biển Hoa Đông phải được giải quyết bằng con đường đối thoại và các bên phải tuân thủ luật pháp quốc tế. Ngoại trưởng Úc cho rằng, việc Tokyo tăng cường khả năng phòng thủ sẽ có lợi cho cả hai nước và điều đó sẽ giúp Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng hơn trong việc bảo đảm an ninh và hòa bình cho khu vực. Bộ trưởng Quốc phòng Úc David Johnston nhấn mạnh, vấn đề biển Đông “cần được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế”. Úc ngày càng bày tỏ quan điểm mạnh mẽ trong bối cảnh Trung Quốc hung hăng khẳng định chủ quyền tại biển Đông và Hoa Đông. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tích cực vận động cho việc sửa đổi hiến pháp, mở rộng phạm vi hoạt động của quân đội, cho phép Nhật Bản xuất khẩu vũ khí và hợp tác quân sự với các nước đồng minh. Nhật Bản đang từng bước xây dựng một liên minh quân sự rộng lớn bên trong lẫn bên ngoài hiệp ước song phương Mỹ-Nhật. Nhật và Úc tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng, với dự án trao đổi công nghệ tàu ngầm quân sự. Thủ tướng Úc Tony Abbott ủng hộ chính sách “phòng vệ tập thể của Nhật Bản”. Tân Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi dự kiến thực hiện chuyến công du đầu tiên tới Tokyo và tuyên bố sẽ “đối đầu” với Trung Quốc khi cần thiết. Tại Diễn đàn An ninh Shangri-La vừa qua ở Singapore, Thủ tướng Abe tuyên bố Nhật Bản sẵn sàng trợ giúp các nước Đông Nam Á để bảo vệ chủ quyền biển đảo, gián tiếp lên án Trung Quốc đối xử với các láng giềng theo kiểu “lấy thịt đè người” mà chính Nhật Bản cũng là nạn nhân. Giữa thập niên 2000, ý tưởng xây dựng một vành đai an ninh bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đã được ba vị thủ tướng khi đó là Junichiro Koizumi của Nhật Bản, John Howard của Úc và Atal Vajpayee của Ấn Độ phác thảo và được Tổng thống Mỹ George W.Bush ủng hộ. Hiện nay, giới quan sát cho rằng, yếu tố Trung Quốc đã thúc đẩy hình thành một “liên minh chiến lược” tứ cường Nhật-Úc-Ấn-Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Theo Thục Ninh Tiền phong =============== Bởi vậy, Lão Gàn mới phát biểu ý kiến rằng thì là Tung Cóoc sai lầm lớn khi đụng tới Việt Nam. Nếu bi wờ thời chiến tranh lạnh thì Tung Cóoc có thời. Mỹ có thể đi gam "lờ", như vụ chiếm Hoàng Sa 1974. Nhưng thật không may cho Tung Cóoc - "Thỏ hết, cung tên bỏ xó" - Hoa Kỳ đang nhiễm nhiên mần cái bá chửi trên thực tế. Bởi vậy, Hoa Kỳ phải cầm cân Ta, nảy mực Tàu - gốc Việt (Thực chất ngay cả mực gọi là "mực Tàu" cũng có xuất xứ từ Văn Lang) theo chuẩn mực quốc tế - để xứng đáng và chính danh với ngôi vị bá chủ. Họ không thể đi gam "lờ" như 1974 được. Đấy là bản chất của vấn đề. Có điều diễn biến cụ tỷ nó như thế nào thui. Cái này thì phải "xem bói" .
    1 like
  14. Cuộc chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa 40 năm trước - Kỳ 1: Thứ Sáu, 13/06/2014 - 11:55 Trinh sát Hoàng Sa phá mưu đồ “mộ giả” Với mưu đồ bành trướng, Trung Quốc đã nhiều lần xâm chiếm các đảo, quần đảo của Việt Nam. 40 năm trước, những người lính Hải quân của quân đội Sài Gòn đã phải trải qua cuộc chiến đấu hết sức cam go để chống lại âm mưu và hành động xâm lược của Trung Quốc. Kỳ 1: Trinh sát Hoàng Sa phá mưu đồ “mộ giả” Để đi tìm lẽ phải và vạch rõ mưu đồ của Trung quốc về việc đắp mộ giả ở hai đảo Vĩnh Lạc và đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo Hoàng Sa, với mục đích ngụy tạo người Trung Quốc sinh sống và chết tại hai đảo này hàng trăm năm trước, những người lính Hải quân ở hai chiến hạm HQ-4 và HQ-16 cùng “trung đội biệt hải” đã trinh sát, đào bới đưa ra khẳng định: Những nấm mộ mà Trung Quốc ngụy tạo không có xương cốt người. Mệnh lệnh khẩn cấp 40 năm về trước, ông Lữ Công Bảy là quân nhân đeo quân hàm thượng sĩ trên chiếm hạm Trần Khánh Dư có phiên hiệu HQ-4. “Lúc đó tui ở trên tàu HQ-4. Bản thân tui đã chiến đấu và tận mắt chứng kiến Hoàng Sa bị kẻ thù chiếm đóng như thế nào. Những gì tôi đã trực tiếp tham gia trong trận hải chiến với hải quân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974 vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi”, giọng ông Bảy xúc động. Đảo Vĩnh Lạc và các đảo Cam Tuyền, Duy Mộng, Quang Hà thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Ảnh: TL Câu chuyện về Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng được ông Bảy kể khá chi tiết. “Lúc bấy giờ tôi là thượng sĩ giám lộ (giám sát lộ trình - hàng hải) trên khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4. Tàu HQ-4 là chiến hạm tối tân nhất của hải quân Sài Gòn thời bấy giờ. Vừa làm giám sát lộ trình hàng hải, tui vừa phụ tá trưởng ngành giám lộ, kiêm hạ sĩ quan phụ tá trưởng khối hành quân. Với chức danh đó, tất cả các tình huống tác chiến tui đều có mặt để cùng anh em trong ban chỉ huy điều hành tàu”. Sau 14 ngày lênh đênh trên vùng biển Quảng Ngãi, từ Sa Huỳnh đến Cù Lao Ré thuộc đảo Lý Sơn, và chỉ còn 1 ngày nữa là tàu được trở về Đà Nẵng. Trước ngày tạm biệt biển nước mênh mông, tất cả thủy thủy trên tàu rộn ràng nhớ đất liền. Nhưng niềm vui ấy chưa kịp đến thì chiến sự xảy ra. Đó là trưa 16/1/1974, khi trên tàu chuẩn bị ăn cơm trưa thì có thông tin báo cáo công điện tối khẩn: “Tàu HQ-4 về Đà Nẵng khẩn cấp”. Chiến hạm HQ-4, một trong những chiến hạm bảo vệ Hoàng Sa năm 1974. Ảnh: TL Thuyền trưởng lệnh nhổ neo, thẳng hướng đất liền, tàu HQ-4 tăng tốc tối đa đến 17 giờ thì cặp cảng Tiên Sa Đà Nẵng. Thuyền trưởng Văn San và đại úy Diên - trưởng khối hành quân, được lệnh lên họp khẩn cấp ở trung tâm hành quân Bộ Tư lệnh Hải quân vùng 1 duyên hải. Tất cả các thủy thủ trên tàu chuẩn bị công tác sẵn sàng chiến đấu. “Lúc đó, chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra. Tôi phán đoán, nếu tiếp tục đi tuần tiễu, chúng tôi sẵn sàng”, ông Bảy chia sẻ.20 giờ ngày 16/1, thuyền trưởng Văn San về tàu, phát lệnh: “Toàn tàu nâng cấp báo động chiến đấu tăng cường, cấm trại 100%. Ban hậu cần tiếp nhận lương thực thực phẩm, ban quân khí tiếp nhận đạn được và xăng dầu”. Đến 21 giờ, hai chiếc xe GMC chở một trung đội với đầy đủ vũ khí đạn dược xuất hiện, trong các bộ quân phục lạ mắt. Sau một hồi dò hỏi, các thủy thủ mới vỡ lẽ, đó là “lực lượng biệt hải đi Hoàng Sa”. Lệnh hành quân ra Hoàng Sa khẩn cấp, ban chỉ huy tàu mở hải đồ xác định đường đi, dự kiến tình huống có thể xảy ra dọc đường và cách xử lý. Tàu HQ-4 xuất phát băng băng trong đêm tối. Lúc đó là 23 giờ ngày 16/1/1974. Những nấm mộ giả Ra đi trong đêm tối và gặp gió to, sóng lớn, 11 giờ 30 ngày 17/1, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 có mặt tại quần đảo Hoàng Sa. Lúc này, Tàu tuần dương Lý Thường Kiệt (HQ-16) do trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đã có mặt theo diện tăng cường tại Hoàng Sa để sẵn sàng bảo vệ đảo. HQ-4 tiến gần đảo Vĩnh Lạc (một đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). Lệnh từ cabin chiến hạm vang lên “Tất cả vào vị trí chiến đấu”. Một lực lượng đội biệt hải khẩn cấp rời tàu xuống 3 xuồng cao su, khẩn trương áp sát rìa đảo Vĩnh Lạc trinh sát thực địa. Sau 20 phút kiểm soát, các chiến sĩ báo cáo về: “Không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước”. Nhận định: Có thể đây là mộ giả, phía Trung Quốc tạo nên để ngụy trang. Ngay lập tức, các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ lên, hóa ra chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo để chứng tỏ có người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo mà thôi. Sau khi trinh sát kỹ càng, 16 giờ 30, lực lượng biệt hải được lệnh rút về tàu. Cuối chiều vùng biển Hoàng Sa ánh lên nhiều màu bạc của hoàng hôn. Một không gian bình yên giữa biển trời Tổ quốc. Bữa cơm chiều đang được chuẩn bị thì bộ phận radar báo cáo phát hiện 2 mục tiêu lạ từ xa đang tiến thẳng về Hoàng Sa, hướng đi không đổi, khoảng cách ngày một gần. Lệnh thuyền trưởng: Nhanh chóng ăn cơm, tăng cường quan sát bằng ống nhòm, cứ 5 phút báo cáo một lần về hướng đi của mục tiêu lạ, toàn tàu báo động chiến đấu khẩn cấp. Ngay sau đó, Tàu HQ-4 và HQ-16 nhận được điện tín từ sở chỉ huy “Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa của Việt Nam. Các tàu thực hiện theo phương án chiến đấu”. Càng về đêm, mục tiêu lạ càng rõ. Nắm được ý đồ xấu của đối phương, hai Tàu HQ-4 và HQ-16 dùng tín hiệu và loa tuyên truyền đặc biệt cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay”. Hai tàu Trung quốc không những không rời khỏi vùng biển Hoàng Sa, mà còn đáp trả “Hoàng Sa là của Trung Quốc”! Để tiếp tục làm rõ “trắng đen” và khẳng định mưu đồ ngụy tạo mộ giả của Trung Quốc, sáng 18/1, chiến hạm HQ-4 tiến về đảo Cam Tuyền. Lúc 8 giờ sáng, Trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ lên đảo. Sau khi lục soát, chỉ phát hiện những nấm mộ mới đắp không hài cốt y như ở đảo Vĩnh Lạc. Theo Mai Thắng Baotintuc.vn ======================= Lập mộ giả để chứng tỏ có "cơ sở khoa học" cho chủ quyền. Đấy là thứ tư duy của đám "Ở trần đóng khố" phủ nhận Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Lúc nào cũng chỉ chăm chăm vào việc có di vật khảo cổ chứng minh không. Xin lỗi! Có mộ thật Lão Gàn cũng thừa khả năng chứng minh Trung Quốc không hề có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa. Huống chi là mộ giả. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là một chuyện. Cái wan trong là trong tương lai rất gần, thế giới này sẽ gồm hai cực Mỹ Trung, hay ai là bá chủ thế giới , khi xu hướng hội nhập là tất yếu. Nếu Hoa Kỳ thừa nhận Trung Quốc là bá chú Tây Thái Bình Dương - tức bị tâm thần - thì chính người Nga và Ấn Độ sẽ chống lại Trung Quốc. Bởi vậy, Trung Quốc đã sai lầm về sách lược quốc gia một cách nghiêm trong khi đụng tới Việt Nam là vậy.
    1 like
  15. Nhật thúc đẩy khả năng xuất quân bảo vệ đồng minh 13/06/2014 08:12 (GMT + 7) Tuổi trẻ - Thủ tướng Nhật Shinzo Abe quyết tâm sớm rũ bỏ các hạn chế trong Hiến pháp để Lực lượng phòng vệ Nhật (SDF) có thể bảo vệ các đồng minh nước ngoài nếu chiến tranh xảy ra. Theo báo Asahi, mới đây ông Abe tuyên bố muốn Chính phủ phê chuẩn “cách hiểu mới” về Hiến pháp hòa bình Nhật trước khi Quốc hội kết thúc kỳ họp hiện tại vào ngày 22-6. Sự thay đổi này sẽ cho phép Nhật thực thi quyền “phòng vệ tập thể”. Điều đó có nghĩa là SDF được phép tham chiến nếu các đồng minh của Nhật, chẳng hạn như Mỹ, bị tấn công. Đề xuất của Thủ tướng Abe hiện vấp phải phản ứng của Đảng Komeito Mới trong liên minh cầm quyền. Tuy nhiên báo Wall Street Journal dẫn lời một số nhà quan sát nhận định với tỉ lệ ủng hộ cao của dư luận dành cho ông Abe và vị thế mạnh mẽ của Đảng Dân chủ tự do (LDP) cầm quyền trong Quốc hội, Chính phủ Nhật có thể sẽ phê chuẩn kế hoạch này trong tuần tới. Sáu điều kiện cần thiết Điều 9 trong Hiến pháp Nhật không công nhận chiến tranh là phương tiện để giải quyết các xung đột quốc tế có liên quan đến nước này. Đã từ lâu, điều 9 được hiểu là quy định cấm Nhật sử dụng lực lượng vũ trang để hỗ trợ một quốc gia đồng minh bị tấn công. Tuy nhiên hồi tháng 5, một ủy ban tư vấn của Chính phủ công bố báo cáo nghiên cứu khẳng định cách hiểu này không giúp duy trì hòa bình và ổn định tại Nhật, trong khu vực và trên thế giới, “do các tình huống chiến lược liên tục thay đổi”. Ủy ban tư vấn cho rằng Tokyo cần hỗ trợ nước đồng minh bị tấn công “nếu cuộc tấn công đó dẫn tới một cuộc tấn công trực tiếp vào Nhật, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật, tới trật tự quốc tế, hủy hoại cuộc sống và quyền lợi của người dân Nhật”. Thủ tướng Abe cũng đánh giá quyền phòng vệ tập thể là cần thiết để đảm bảo sự an ninh, thịnh vượng của Nhật và hòa bình khu vực. Theo đề xuất của Thủ tướng Abe, việc Nhật thực thi quyền phòng vệ tập thể phụ thuộc vào sáu điều kiện. Thứ nhất, một quốc gia đồng minh thân cận của Nhật bị tấn công. Thứ hai, Nhật sẽ đối mặt với nguy cơ an ninh nghiêm trọng nếu không sử dụng vũ lực. Thứ ba, một quốc gia thứ ba bị tấn công đề nghị sự hỗ trợ quân sự của Nhật. Thứ tư, thủ tướng quyết định dùng vũ lực. Thứ năm, Quốc hội phê chuẩn quyết định của thủ tướng. Thứ sáu, một quốc gia thứ ba cho phép Nhật đưa quân vào lãnh thổ nước này để giải quyết xung đột. Một số nhà phân tích cho rằng ông Abe muốn sớm thúc đẩy quyền phòng vệ tập thể vì đang có dư vốn chính trị sau khi giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng nhờ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng. Trước đó ông cũng từng tuyên bố muốn cải tổ các quy định hướng dẫn hợp tác quốc phòng giữa Mỹ và Nhật vào cuối năm nay. Việc sớm đảm bảo quyền phòng vệ tập thể sẽ cho phép Tokyo có thêm thời gian để đàm phán với Washington. Nguy cơ từ Trung Quốc Trước Quốc hội Nhật, ông Abe khẳng định tình hình an ninh đang ngày càng trở nên bất ổn và nghiêm trọng tại châu Á - Thái Bình Dương, buộc Tokyo phải thực thi quyền phòng vệ tập thể. Hai mối đe dọa lớn nhất chính là tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc tại biển Đông và biển Hoa Đông cùng chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Xã luận của báo The Economist bình luận sau Thế chiến II, Nhật đã trở thành “công dân gương mẫu” của thế giới, có nhiều đóng góp to lớn cho hòa bình và thịnh vượng châu Á. Hiến pháp hòa bình của Nhật có công lớn đối với thành tựu đó. Tuy nhiên, cách hiểu cũ đối với điều 9 Hiến pháp Nhật đã trở nên lỗi thời khi bất ổn và căng thẳng đang leo thang tại khu vực, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng cường vũ trang dữ dội và liên tục gây hấn trên biển Đông. Bằng chứng mới nhất là việc Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines và đưa giàn khoan 981 cùng tàu chiến tới vùng thềm lục địa và EEZ của Việt Nam. Trong thời gian qua, chính quyền Trung Quốc chỉ trích kế hoạch phòng vệ tập thể của ông Abe là “đưa Nhật trở lại với chế độ quân phiệt”. Nhưng The Economist nhấn mạnh chính truyền thông Trung Quốc đang hô hào dùng vũ lực đối phó với Mỹ và các nước láng giềng. Chính phủ Bắc Kinh còn điều tàu chiến tới biển Đông và tàu tuần tra đến biển Hoa Đông. Hành động của Trung Quốc cũng đang trực tiếp đe dọa Nhật. Trong nhiều tháng qua, Bắc Kinh liên tiếp điều tàu tuần tra tới vùng biển quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Tokyo kiểm soát. Theo báo Japan Times, hôm qua Bộ Ngoại giao Nhật đã triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Tokyo để phản đối vụ Bắc Kinh điều hai máy bay chiến đấu Su-27 áp sát máy bay tuần tra Nhật trên bầu trời biển Hoa Đông hôm 11-6. Vụ việc tương tự cũng xảy ra ngày 25-5. HIẾU TRUNG ============== Anh Tung cóc lần nầy rất chi nà mệt, không biết nếu trận hội đồng này xẩy ra cô em Russia có quan tâm không - nếu không quan tâm thì đối tác chiến lược gì gì đó, mà cụ thể hợp đồng 400 tỷ USD khí đốt sẽ trở thành giấy lộn rồi?. Đúng là: Ma đưa lối , Quỷ đưa đường ... thật.
    1 like
  16. Lão Gàn đang rách việc , vì ế độ phoengshui, lang thang trên mạng thấy bài này. Dài thoòng, nhưng lại không có kết luận rõ ràng. Nên posd lên đây để quí vị tham khảo. ===================== Trung Quốc muốn thỏa thuận để chia đôi quyền thống trị châu Á với Mỹ? Lê Dũng Cường 12/06/14 14:18 (GDVN) - TQ thì thầm nói với Mỹ “chúng tôi sẽ là cường quốc thống trị toàn bộ phía Tây Thái Bình Dương còn các anh sở hữu từ quần đảo Hawaii kéo về...” Daniel Twining Ngày 11/6/2014, mục Quan điểm của Tuần báo điểm tình hình châu Á Nikkei của Nhật Bản đã đang tải bài viết ghi lại ý kiến của học giả Mỹ Daniel Twining về tình hình an ninh châu Á hiện nay, đặc biệt là sau khi Trung Quốc thực hiện các hành vi gây hấn với các quốc gia láng giềng trong khu vực châu Á trong có Nhật Bản, Phillippines và gần đây nhất là Việt Nam. Daniel Twining hiện là học giả cao cấp chuyên nghiên cứu về châu Á của quỹ German Marshall Fund của Mỹ. Hiện ông đang công tác với vai trò chuyên viên hoạch định chính sách cho Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry, đồng thời ông cũng là cố vấn chính sách đối ngoại cho Thượng nghị sỹ Mỹ đảng Cộng Hòa John McCain. Châu Á đứng trước thách thức nghiêm trọng từ cái gọi là "Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc" Dẫn lời một quan chức của Đông Nam Á từng phát biểu tại Hội nghị đối thoại an ninh Sangrila – một trong những diễn đàn thường niên quy tụ rất nhiều các chuyên gia và quan chức an ninh trên thế giới và khu vực vừa kết thúc cách đây không lâu ở Singapore, học giả Daniel Twining bình luận rằng “Chúng tôi không nghĩ rằng Trung Quốc muốn (đủ sức) thống trị thế giới. Trung Quốc chỉ muốn thống trị chúng ta (các nước trong khu vực châu Á”. Theo Daniel Twining, trong 2 ngày diễn ra Đối thoại an ninh thường niên Sangrila, người ta có thể quan sát thấy rằng các đại biểu đến từ tất cả các quốc gia châu Á, phương Tây và Mỹ đều đang muốn đặt ra và tìm câu trả lời đâu là giá trị thực cho cái gọi là “sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc”. Trên thực tế vấn đề này đã được các đại biểu đặt ra dưới nhiều hình thức khác nhau từ câu hỏi cho đến, bình luận. Chúng ta có thể hiển nhiên thấy rằng thái độ và hành động thù địch của của Bắc Kinh đang đe dọa nghiêm trọng hòa bình của khu vực châu Á, động chạm, làm tổn hại tới lợi ích cốt lõi của gần như tất cả các quốc gia trong khu vực. TQ dùng chiến thuật “Xúc xích Salami” để tạo ra cơn ác mộng cho Châu Á Thời gian gần đây, Trung Quốc đã sử dụng nhuần nhuyễn, công khai chiến thuật “ngoại giao pháo hạm” để thực hiện tuyên bố đòi hỏi quyền lợi đơn phương đối với gần như toàn bộ khu vực Biển Đông, đơn phương tuyên bố Khu vực nhận biết phòng không trên quần đảo Senkaku do Nhật Bản quản lý, dùng lực lượng, phương tiện chiếm quyền kiểm soát của Phillipines đối với bãi cạn Scarborough, hạ đặt dàn khoan, cho tàu thuyền, máy bay xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thậm chí vô nhân đạo đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam. Trung Quốc thường xuyên có các hành vi cản trở khi các tàu của Hải quân Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Phillipines và Việt Nam trong các khu vực biển quốc tế, thậm chí có lúc còn gây hấn với tàu bè một số nước khi chúng hoạt động trong vùng biển có chủ quyền. Daniel Twining nhấn mạnh lại rằng tại Hội nghị Sangrila 2014, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã có một bài diễn văn cơ bản đáp ứng được sự đón đợi của các đồng minh của Washington trong khu vực. Trong đó, quan chức đứng đầu quân đội Mỹ đã một lần nữa khẳng định vị thế cường quốc của Mỹ trong số các cường quốc quân sự, nêu cao vai trò đầu tàu lãnh đạo của Hoa Kỳ trong quan hệ đối tác với các đồng minh. Ông Chuck Hagel cũng đã phác thảo những hành động đang được Lầu Năm Góc thực hiện đi đối với các cam kết trước đó của mình về sự quay đổi trọng tâm sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó cụ thể là kế hoạch tiến hành các cuộc tập trận quân sự, cử tàu chiến du hành châu Á, chi tiêu quốc phòng và một loạt các hoạt động khác có giá trị tăng cường và củng cố quan hệ đồng minh, khẳng định vai trò của Hoa Kỳ đối với trật tự của khu vực “mở” sôi động này. Điều đáng chú ý nhất là Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã tuyên bố rằng Washington phản đối việc dùng vũ lực để thực hiện các tuyên bố đòi hỏi chủ quyền, giới hạn tự do hàng hải, không phận và yêu cầu Trung Quốc phải lựa chọn hoặc là tái cam kết chấp hành các quy tắc quốc tế vốn được tạo ra để đảm bảo hòa bình và tính đa dạng hoặc là tảng lờ chúng hòng tạo ra các nguy cơ chiến tranh, xung đột. Học giả Daniel Twining cho rằng rất nhiều quan chức an ninh, học giả châu Á đã nhận định rằng Bắc Kinh đang áp dụng và theo đuổi “chiến thuật Xúc xích salami” (tên một loại xúc xích của Italy) để thực hiện tham vọng chủ quyền (trái phép –PV) đã được Trung Quốc tuyên bố. Chiến thuật “Xúc xích salami” được học giả Daniel Twining cắt nghĩa đó là chính sách chia nhỏ, cắt lát để trị/salami-slice tactic hay được người châu Á cũng có khái niệm tương ứng là chiến thuật “bẻ từng chiếc đũa”. Xúc xích cắt lát Salami Theo Daniel Twining, trên thực địa hiện TQ đang thực hiện bằng việc Bắc Kinh dùng lực lượng, phương tiện để chiếm giữ các đảo đá, bãi cạn, bãi san hô không người, kém phòng thủ của nước khác trên cả khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông sau đó xây căn cứ, đánh dấu cái gọi là “chủ quyền của Trung Quốc” sau đó dùng sức mạnh quân sự, bán quân sự, cải trang dân sự tiến hành khai thác tài nguyên, khoan dầu trong vùng đặc quyền của nước khác bấp chấp việc phản đối. Trên vùng biển Hoa Đông, Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản phải xin phép khi máy bay của họ bay qua vùng không phận của Quần đảo Senkaku, đòi thống lĩnh và quản lý các vùng biển quốc tế như thể là vùng biển đó, khu vực đó thuộc về Trung Quốc (thế giới văn minh không thể chấp nhận thủ đoạn này-PV). Cần phải nói thêm rằng, trên mặt trận ngoại giao, kinh tế, chính trị, chiến thuật "Xúc xích Salami" cũng được Trung Quốc ráo riết tiến hành bằng các hoạt động ngấm ngầm như gây chia sẽ quan hệ ASEAN, chia sẽ giữa các nước đang bị Trung Quốc gây tổn hại chủ quyền, thậm chí cả những nước không có lợi ích cốt lõi tại khu vực. Trung Quốc vẫn muốn dùng ảnh hưởng kinh tế, sức mạnh quân sự và những lời dụ dỗ, thậm chí là đe dọa của mình để “bẻ từng chiếc đũa” để thực hiện cho kỳ được tham vọng của mình đã đặt ra. Biếm họa cạnh tranh giữa Trung Quốc, Mỹ Học giả Daniel Twining chỉ ra những thủ đoạn như vậy của chiến thuật “Xúc xíc Salami” “made in China” không đủ gây sự chú ý để buộc Mỹ phải hành động. Thiệt hại trên hết đó chính là an ninh về lâu dài đối với các nền tảng, trật tự của thế giới nói chung và khu vực châu Á nói riêng. Daniel Twining nhận định rằng “dường như Trung Quốc ngày càng cho mình có quyền hiến hành thực hiện các hành động đòi hỏi lợi ích trên khu vực Biển Hoa Đông và Biển Đông mà chúng ta (cộng đồng quốc tế) đã chứng kiến phiên bản tương tự là Nga ở khu vực Đông Âu sau khủng hoảng chính trị ở Ucraine. Theo Daniel Twining, chính quyền Trung Quốc coi các lỗ lực của Mỹ và các đồng mình của mình trong khu vực châu Á là hành vi gây “mất ổn định”. Trung Quốc cũng tuyên bố ra miệng rằng sẽ chỉ tự vệ với các hành vi khiêu khích của nước khác (Trung Quốc hiện là lực lượng khiêu khích mạnh nhất, chủ động và gian xảo nhất, Trung Quốc cũng đã thể hiện hành động tìm cách vu cáo, tạo cớ để đổ lỗi cho nước khác, lòe bịp thiên hạ hòng dễ bề hành động-PV) đặc biệt là từ Nhật Bản, quốc gia vẫn bị trói buộc bởi rào cản hiến pháp, chưa cho phép dùng quân đội để bảo vệ các đồng minh cùng Mỹ khi bị tấn công trực tiếp. “Chiếc bẫy Kissinger”/"Kissinger Trap" Theo học giả Mỹ, có lẽ Trung Quốc là người muốn tự cho mình quyền đặt ra luật chơi cho sự ổn định tại khu vực. Điều này được thể hiện qua cái mà các nhà lãnh đạo nước này gọi là “kiểu quan hệ mới giữa các cường quốc” và ngầm hiểu với Bắc Kinh rằng “ Mỹ đừng để những nước khó chịu như Nhật Bản, Philippines lôi kéo vào một chiến tranh xa nhà”. Thay vào đó Trung Quốc muốn Mỹ cùng xây dựng chế độ “quản lý kiểu Mỹ - Trung” để nâng cao cái gọi là “quan hệ giữa các cường quốc đang lên cũng như hiện tại”. Điều Trung Quốc mong muốn là cơ chế đó sẽ cho phép các cường quốc tôn trọng “lợi ích cốt lõi” của nhau (đương nhiên là không cần màng đến lợi ích của các nước khác, theo quan điểm của Bắc Kinh là “nằm chiếu dưới”). Tập Cận Bình - Chủ tịch nước Trung Quốc Mô hình thư tham vọng của Trung Quốc có lẽ tương tự như mối quan hệ giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong thế kỷ 15 với sự ra đời của Hiệp ước Tordesillas và khi đó Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cùng nhau chia đôi Thế Giới Mới. Học giả Daniel Twining nhận định một cách ví von rằng một Trung Quốc thì thầm nói với Mỹ “chúng tôi (TQ) sẽ là cường quốc thống trị toàn bộ phía Tây Thái Bình Dương còn các anh sở hữu từ quần đảo Hawaii kéo về phần còn lại– đây sẽ là địa bàn của Pax Mỹ”. Một cựu quan chức trong chính quyền của Tổng thống Obama gọi tư duy này là “Chiếc bẫy Kissinger” và theo Daniel Twining, quan chức này tin rằng một thỏa thuận cỡ bự giữa Mỹ và Trung Quốc, nơi mà trong đó sẽ hạ thấp tất cả quan hệ với các đồng minh và lợi ích phụ sẽ tạo ra được cái gọi là “nền tảng” cho “hòa bình giữa các cường quốc”. Tuy nhiên, Daniel Twining cho biết trên thực tế ý tưởng sách lược này thực tế là muốn làm sói mòn ảnh hưởng, làm yếu đi vai trò của Mỹ trong trung tâm thịnh vượng và quyền lực của thế giới. Dù thế nào đi nữa, các cường quốc còn lại của châu Á như Nhật Bản và Ấn Độ cũng không thể chấp nhật được kịch bản như vậy. Ấn Độ là một điển hình tiêu biểu, Ấn Độ sẽ không bao giờ chịu hạ mình trước đối thủ Trung Quốc. Đó cũng là lời được trích dẫn từ một phát biểu của một trong những chiến lược gia hàng đầu tại Ấn Độ. Trong Hội nghị đối thoại Sangrila 2014 vừa qua có lẽ Trung Quốc đã hậm hực vì người ta đã không giao cho Trung Quốc “vai trò lãnh đạo toàn châu Á”. Liệu những quốc gia bé nhỏ, thấp cổ bé họng có thể bị đặt dưới bàn đàm phán Mỹ - Trung? Cũng tại cuộc đối thoại an ninh mới vừa kết thúc tại Singapore này một quan chức cao cấp của châu Á cũng đã nhận định rằng Trung Quốc thực sự chỉ quan tâm đến Mỹ bởi hiện tại Mỹ vẫn là một chiếc trục xoay có vai trò quan trọng đối với an ninh tại toàn bộ khu vực Đông Á nói chung và châu Á nói riêng. Hầu hết các quốc gia ở châu Á đều mong muốn xây dựng được một mối quan hệ mang tính chất bằng mặt, bằng lòng, cả hai cùng có lợi thay vì đe dọa kiểu Trung Quốc. Đặc biệt là họ rất dị ứng với tuyên bố năm 2010 của cựu Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì rằng “Trung Quốc là nước lớn, các quốc gia khác rõ ràng là nước nhỏ. Đó là thực tế”. Vì thế, theo Daniel Twining, nếu đây tiếp tục là những gì mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đang và sẽ theo đuổi thì gần như tất cả các quốc gia láng giềng của Bắc Kinh sẽ đi theo quy đạo của người Mỹ. Hiệp ước Tordesillas là một hiệp ước giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, ra đời vào cuối thế kỉ XV nhằm mục đích chia Thế giới Mới, nơi được xem như terra nullius (đất vô chủ). Theo hiệp ước này, Thế giới Mới được phân chia bằng đường phân định là một kinh tuyến nam-bắc cách quần đảo Cape Verde (hồi đó thuộc về Bồ-đào-nha) 370 hải lí (1770 km), đường kinh tuyến này hiện ở 46° 37' tây. Hiệp ước này được soạn thảo tại Tordesillas, xứ Castille (nay là tỉnh Valladolid, Tây-ban-nha). Bản tiếng Castille của hiệp ước này được vua Ferdinand đệ nhị xứ Aragon và nữ hoàng Isabelle đệ nhất xứ Castille phê chuẩn ngày mồng 2 tháng bảy 1494 tại Castille. Bản tiếng Bồ-đào-nha được vua Jean đệ nhị của Bồ-đào-nha kí ngày mồng 5 tháng chín cùng năm tại Setúbal. Theo hiệp ước Tordesillas, vương quốc Castille cùng quần đảo Canaries thuộc về triều đình Tây-ban-nha, còn các đảo Madère (Madeira), quần đảo Cap-Vert cũng như quyền chinh phục vương quốc Fez hoặc Fès (vương quốc Maroc) và quyền đi lại bằng đường biển ở phía nam đường vĩ tuyến chạy qua quần đảo Canaries thuộc về triều đình Bồ-đào-nha. Vùng đất Brasil được khám phá trước khi hiệp ước này được kí kết, vì thế nó thuộc về chủ quyền của Bồ-đào-nha. Hiệp ước Tordesillas giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh từ việc khám phá ra Thế giới Mới. ===================== Còn thì thầm gì nữa, Trung Quốc đã nói toạc móng lợn điều này từ lâu rồi! Khoảng năm 2008, tướng phụ trách Hải Quân Trung Quốc đã nói với đô đốc tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, bày tỏ nhã ý chia sẻ việc "gìn giữ hòa bình và an ninh Tây Thái Bình Dương với Hoa Kỳ". Và vị đô dốc này đã thẳng thửng từ chối" Không! Không bao giờ". Bởi vậy, tác giả bài này thiếu tư liệu liên quan.Cón vấn đề "cái bẫy Kis Singer": Quên nhanh đi nhá! Thời lão Kis môi giới đưa Hòa Kỳ hợp tác với Trung Quốc, là vì quyền lợi của Hoa Kỳ trong việc hạ bệ Liên Xô để thành siêu cường thống trị thế giới. Còn nay Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở thành bá chủ thế giới trên thực tế. Mần răng mà có chuyện để Trung Cóoc sơi sương sương một nửa Tây Thái Bình Dương - mà thực chất là toàn lục địa Á Âu Phi trong tương lai. Tất nhiên trừ trường hợp chính phủ Hoa Kỳ hầu hết bị tâm thần phân liệt, dạng hoang tưởng. Tất cả những điều này Lão Gàn nói lâu rồi. Rất tiếc! Bà Vanga đúng (*). "Canh bạc cuối cùng" theo chiều hướng xấu sẽ xảy ra. Mọi cố gắng của Lão Gàn thật là vô tích sự. Thật là điều buồn cho cõi trần gian. ===================== * Bà Vanga xác định: "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại. Nhưng còn lâu lắm. Chỉ đến khi dân tộc Arxiry bị tiêu diệt". Lão Gàn hy vọng: Nếu lý thuyết cổ xưa xuất hiện sớm thì sẽ không có việc dân tộc Arxyri bị tiêu diệt.
    1 like
  17. Bi vờ mới thấy các tác dụng của vấn đề. Tôi nghĩ ai đó có số điện thoại , hoặc i meo thì nên gợi ý cho cái cơ quan Liên Hiệp Quốc nào đó có đề nghị này, hãy họp để xem xét về những chứng minh chủ quyền của các quốc gia đã nộp hồ sơ. Trung Quốc chắc chắn chưa nộp. Hoa Kỳ nếu quả là siêu cường số một đang có trách nhiệm với thế giới - để cầm cân Ta, nảy mực Tàu - thì có lẽ cũng không cần phải gợi ý, mà nên tạo điều kiện để Liên Hiệp Quốc xem xét hồ sơ mô tả chủ quyền của những quốc gia liên quan , mà Việt Nam đã nộp lâu rùi. Tất nhiên, các nước có nộp hồ sơ phải có phái đoàn để bảo vệ luận điểm của mình đúng và nước khác sai. Cái này theo ngu ý của Lão Gàn thì cha nội kiện cáo, nhưng chả mât lòng thằng Tây , con đầm nào. Cá nhân Lão Gàn đề nghị Liên Hợp Quốc có trách nhiệm, khi đã yêu cầu các quốc gia liên quan đến việc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, nộp hồ sơ mô tả những bằng chứng chủ quyền. Cần mở một hội nghị quốc tế để phân xử chuyện này. Vì Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu và những chính phủ liên quan, trong đó có Việt Nam đã thực hiện, nên bất cứ công dân của những nước liên quan đều có quyền gửi imeo, hoặc đơn đến cơ quan có thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc yêu cầu họ phải có trách nhiệm trong chuyện này. Thế cho nó đơn giản vấn đề. PS: Lão Gàn thấy những luận điểm của Tung Cóoc về Hoàng Sa, Trường Sa toàn là vớ vẩn. Không có "cơ sở khoa học".
    1 like
  18. Hoàn Cầu: Việt Nam là phiên thuộc, cần đánh cựu binh cũng tham gia?! Hồng Thủy 12/06/14 10:11 Thảo luận (0) (GDVN) - Với gã hàng xóm bẩn tính ấy, người Việt vẫn chủ trương hòa hiếu, nhưng không vì thế mà để đối phương lấn lướt, muốn làm gì thì làm. Đa Chiều: "Trung Quốc điều thêm 2 chiến hạm, có ý ra tay với Việt Nam" Giàn khoan 981 là kế nghi binh, đảo hóa Gạc Ma mới uy hiếp ta thực sự? Tân Hoa Xã: Trung Quốc chuẩn bị dư luận để hành động chế áp Việt Nam?! Lính Trung Quốc, hình minh họa. Trong lúc căng thẳng trên Biển Đông đang liên tục leo thang sau một loạt hành động gây hấn đầy khiêu khích của Trung Quốc, Thời báo Hoàn Cầu, Tân Hoa Xã ngày 11/6 đã đăng bài tuyên truyền cực kỳ hiếu chiến và láo xược, không những xuyên tạc trắng trợn lịch sử mà còn liên tục hù dọa Việt Nam. 2 tờ báo này đã gọi Việt Nam là "phiên thuộc" của Trung Hoa trong suốt 2300 năm (?!), "cho đến ngày nay, đi bất cứ đâu trên đất Việt Nam cũng bắt gặp (cái gọi là) dấu ấn của người Hán". Sử Trung Quốc chép về Việt Nam, lúc thì là "cương vực phương Nam", khi lại gọi là "phiên thuộc", và đương nhiên cũng có giai đoạn "đồng chí anh em" hay "láng giềng hữu nghị"? Đúng là trong lịch sử, dân tộc Việt Nam từng nhiều lần chịu bất hạnh khi phải ở cạnh một gã láng giềng to xác và bẩn tính, đã từng phải chịu ngàn năm Bắc thuộc, nhưng chưa khi nào nguôi ngoai ý chí độc lập tự chủ và không hề bị Hán hóa bất chấp những thủ đoạn dã man, tàn độc của bọn phong kiến Trung Hoa cai trị. 1000 năm Bắc thuộc ấy cũng ghi dấu rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổi dậy quật cường của người dân đất Việt. Thời báo Hoàn Cầu hay Tân Hoa Xã hãy xem lại chính lịch sử của cha ông họ, quân nhà nhà Hán đã bị Hai Bà Trưng đánh cho tan tác khiến thái thú Tô Định phải cắt tóc cạo râu tìm đường tháo chạy thoát thân, Trấn Nam Vương Thoát Hoan nhà Nguyên phải chui ống đồng bắt lính khiêng chạy trốn khỏi Đại Việt hay thái thú Sầm Nghi Đống nhà Thanh phải treo cổ tự vẫn. Tân Hoa Xã nói mỉa, tuy nhiên sử sách Việt Nam lại là một bộ "dân tộc anh hùng truyện" với bề dày truyền thống chống xâm lăng từ phương bắc, chính nó đã củng cố khối đại đoàn kết của Việt Nam và khiến người Việt luôn cảnh giác với Trung Quốc. 20 năm nay quan hệ Trung - Việt không ngừng phát triển sâu sắc, nhưng "logic sinh tồn giữa nước nhỏ với nước lớn" vẫn không vì thế mà thay đổi?! Nhắc đến căng thẳng trên Biển Đông hiện nay, Thời báo Hoàn Cầu dẫn lời Ngô Thủ Cương, một cựu binh Trung Quốc tham gia xâm lược Việt Nam trong Chiến tranh Biên giới 1979 hùng hổ tuyên bố: "Nếu phải đánh, những người như chúng tôi sẽ đi hết"!? Thật là một thái độ hiếu chiến, xấc xược khó có thể tả hết. Từng trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, hơn ai hết người Việt thấu hiểu cái giá của hòa bình. Với gã hàng xóm bẩn tính ấy, người Việt vẫn chủ trương hòa hiếu, nhưng không vì thế mà để đối phương lấn lướt, muốn làm gì thì làm. Hầu hết người dân Trung Quốc cũng lương thiện, yêu chuộng hòa bình và không ai muốn chiến tranh, nhưng hàng ngày hàng giờ đang bị đầu độc bởi bộ máy tuyên truyền nhà nước có thể sẽ lại sẽ bị lừa, bị đẩy vào bị kịch, mất xương máu vô ích. =============== Đến giờ này thì đám tư duy "ở trần đóng khố" chắc cũng chưa nhận ra cấu trúc đất sét trong bộ não của họ, khi phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến.
    1 like
  19. Thái Lan chọn lại bạn sau đảo chính (Tin tức 24h) - Giới cầm quyền Thái Lan đang tăng cường quan hệ với Trung Quốc kể từ sau cuộc đảo chính của quân đội nước này. Quân đội Thái Lan nắm quyền, Mỹ hành động Thái Lan quyết thẳng tay với gia tộc Shinawatra? Đoàn đại biểu chỉ huy của quân đội Thái Lan, do tướng Surasak Kanjanarat dẫn đầu, đã có chuyến thăm đến Trung Quốc hôm 11/6 để thảo luận vấn đề an ninh khu vực và hoạt động huấn luyện chung. Tướng Surasak Kanjanarat cho biết mục đích cuộc gặp mặt nhằm lập ra “kế hoạch hành động tương lai” với quân đội Trung Quốc. Sau cuộc đảo chính hồi tháng 5 Thái Lan thân thiện hơn với Trung Quốc Quân đội Thái Lan cho hay nước này cũng đã nhận được sự ủng hộ từ chính phủ Trung Quốc. Ông Surasak nói: “Cuộc gặp này sẽ đề cập đến mối quan hệ hai bên và kế hoạch hành động tương lai cũng như trao đổi quan điểm về an ninh khu vực. Chúng tôi sẽ thảo luận về những khu vực có thể gia tăng huấn luyện quân sự. Chúng tôi cũng sẽ không nói về tình hình Thái Lan vì điều này không có liên quan”. Đại diện phía Trung Quốc tiếp phái đoàn Thái Lan là Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Vương Quán Trung. Thái Lan vốn là đồng minh lâu đời nhất của Mỹ ở châu Á đồng thời hỗ trợ đắc lực quốc gia phương Tây này trong các vấn đề quân sự. Đổi lại, Mỹ viện trợ 11,4 triệu USD cho Thái Lan mỗi năm, bao gồm 3,7 triệu USD dành cho quân sự. Tuy nhiên, ngay sau cuộc đảo chính quân sự tại Thái Lan hồi tháng 5 vừa qua, Mỹ quyết định ngừng viện trợ quân sự cho Bangkok. Washington cũng hoãn các cuộc tập trận với Thái Lan, hủy chuyến thăm của các quan chức cấp cao đã được lên kế hoạch trước. Chương trình huấn luyện vũ khí được chính phủ Mỹ tài trợ cho cảnh sát hoàng gia Thái Lan cũng dừng lại. Trong khi đó, trái ngược với Mỹ, Trung Quốc có thái độ hết sức ôn hòa với sự kiện đảo chính tại Thái Lan. Trung Quốc khẳng định rằng, cuộc đảo chính 22/5 là 'vấn đề nội bộ' của Thái Lan, Bắc Kinh không can thiệp đồng thời cam kết tiếp tục tăng cường hợp tác với chính quyền quân sự tại Bangkok. Trung Quốc cũng là nước đầu tiên công nhận cuộc đảo chính ở Thái Lan năm 2006, dẫn tới quan hệ hợp tác quân sự gần gũi hơn giữa hai nước. Nhiều nhà phân tích cảnh báo, động thái xích lại gần Trung Quốc của Thái Lan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chiến lược an ninh của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là kế hoạch sử dụng Thái Lan làm căn cứ chiến lược bao vây Trung Quốc. Trung Quốc "ẩn hiện" trong khủng hoảng Thái Lan Minh Triết ============== Cũng trò ảo thuật chính trị , chính em cả. Cái gia tộc gốc Tàu của ngài Thạt Sỉn, có lực lượng ủng hộ mạnh nhất là vùng Đông Bắc Thái Lan. Ngày xưa, thời chiến tranh lạnh, đây chính là vùng hoạt động của du kích Maoit với sự hỗ trợ của Tàu chống Hoàng gia Thái. Sau tiệc rượu Mao Đài ở Tử Cấm thành giữa Chủ tịch Mao và TT Nixon, đám du kích Maoit này bị tiêu diệt. Bởi zdậy, Hoàng gia Thái mới ủng hộ đảo chính và cho đi luôn (Thái Lan quyết thẳng tay với gia tộc Shinawatra?). Phương Tây lên án cũng chỉ để cho vui. Hoa Kỳ cắt 3,5 triệu Dol viện trợ cho Thái cũng chỉ để làm kiểu ("làm mẫu" - nói ra lối Bắc). Mựa, còn ít hơn nhiều lần đại gia Việt thua sàn chứng khoán vẫn cười hì hì. Bởi vậy, quân đội Thái có sang Tàu thì chẳng wa cũng lỡ đánh thằng con thì nói phải quấy với bố nó thôi. Thái Lan còn khuya mới theo Tàu. Ấy là cái chính trị nó vậy, Lão Gàn chịu.
    1 like
  20. Trung Quốc định xây dựng sân bay trái phép trên đảo Gạc Ma? (TNO) Chính quyền Trung Quốc có thể sớm xây dựng trái phép một sân bay trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Các chuyên gia quân sự cho rằng Trung Quốc có thể sớm xây dựng trái phép một sân bay trên đảo Gạc Ma nhằm tăng cường khả năng tham chiến tại khu vực quần đảo Trường Sa, trang tin Want China Times (Đài Loan) ngày 4.5 dẫn lại tin tức từ Duowei News, trang tin tức của người Trung Quốc ở hải ngoại. Theo thông tin này, Trung Quốc sẽ dùng sân bay trên để tăng cường sức mạnh không quân cho các tuyên bố chủ quyền phi lý của nước này ở quần đảo Trường Sa. Mới đây, các hình ảnh vệ tinh cho thấy Đài Loan cũng đang ngang ngược tiến hành xây dựng trái phép đê chắn sóng để xây cầu cảng ở đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đài Loan cũng đã xây dựng phi pháp một đường băng sân bay dài 1.150 m ở đảo Ba Bình. Phúc Duy Trường Sa tháng 4/2014 - 1. Gạc Ma 2 Tháng 5 2014 lúc 10:46 Theo thông tin của Hải quân Việt Nam, Trung Quốc đang huy động nhiều phương tiện, thiết bị để mở rộng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma, thuộc cụm đảo Sinh Tồn trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam, bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép. Họ đang nạo xúc đá san hô, mở một luồng lớn cho tàu vào đảo, đồng thời đổ cát tạo thành một bãi nổi dài 500m, rộng 200, cao 4 - 5m Trạm trộn bê tông tươi trên đảo Gạc Ma Chiến lược của Trung Quốc chính là đảo Gạc Ma, khi xây dựng được công trình quân sự ở đây rồi thì nó sẽ trở thành "bàn đạp" và "tháp canh" toàn bộ biển Đông, thế này giống như chiến tranh Tần tấn công Nam Việt, luôn luôn phải có bàn đạp vừa tiến công hoặc phòng thủ. Chúng ta có thể hình dung, một cao điểm chỉ cần vài trăm người có thể chống hàng vạn người là vậy. Khi các ngư dân Việt Nam hoặc/ và quốc gia (liên doanh quốc tế) khai thác dầu khí khu vực này, bạn sẽ không thể thực hiện được nếu bỏ qua đảo Gạc Ma. Tối nguy hiểm, cho nên bước kiện ra Quốc Tế là rơi vào thế "Triệt" - không cần suy nghĩ, chỉ có phải suy nghĩ là bước tiếp theo làm sao "bứng" đảo Gạc Ma đi mà thôi. LỊCH SỬ SẼ GHI TÊN AI VÀ BÔI XÓA AI TRONG THỜI KỲ NÀY.
    1 like