-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 10/06/2014 in Bài viết
-
Thông Báo
N.H.G and 8 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Ban Kỹ thuật và anh chị em cùng quí vị quan tâm thân mến. Diễn đàn đã mở cửa trở lại, nhưng chỉ giới hạn trong mục "Trao đổi học thuật", nay tôi với tư cách là người chịu trách nhiệm và quản lý diễn đàn, đề nghị anh chị em phụ trách kỹ thuật, cho mở tiếp tất cả các phần còn lại của diễn đàn. Tuy nhiên, chỉ những thành viên đã có trong danh sách viết bài trong chuyên mục "Trao đổi học thuật", trước khi diễn đàn đóng cửa sẽ tiếp tục viết bài trong tất cả các mục của diễn đàn. Ngoài danh sách này thì còn : 1/ Tất cả anh chị em đang tham khảo và học tập ở lớp Phong Thủy Lạc Việt cao cấp. 2/ Ban giáp đốc TT. 3/ Những thành viên tích cực của diễn đàn, gồm các nick trực tiếp gửi qua BQT KT bằng email. Diễn đàn vẫn tiếp tục ngưng kết nạp thành viên và chỉ sinh hoạt rất hạn chế. Xin cảm ơn BQT Kỹ thuật và sự cộng tác của quí vị và anh chị em. Nguyễn Vũ Tuấn Anh9 likes -
Tuần báo Bắc Kinh: Phải buộc Việt Nam lệ thuộc về kinh tế, văn hóa?! Hồng Thủy 10/06/14 07:05 Thảo luận (1) (GDVN) - Đúng! Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, quan trọng hơn rất nhiều một thứ "quan hệ hữu nghị viển vông" giả cầy nào đó. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Ảnh: tienphong.com.vn Tuần báo Bắc Kinh ngày 9/6 tiếp tục có bài xuyên tạc, vu cáo trắng trợn Việt Nam trong vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam bằng việc bóp méo nội dung công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958. Tờ báo Trung Quốc vu cáo rằng căng thẳng trên Biển Đông xuất phát từ...những vấn đề trong nước của Việt Nam?! Thật nực cười, "do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với áp lực giảm phát, tỉ lệ thất nghiệp cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng", đây là lý do, đúng hơn là cái cớ để Trung Quốc kéo giàn khoan 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam? Ngoài việc đổ tội cho "khủng hoảng kinh tế", Tuần báo Bắc Kinh còn vu cáo "các nhóm nhân quyền ủng hộ dân chủ trong và ngoài Việt Nam thông đồng, kích động bạo loạn chống Trung Quốc bằng cách lợi dụng lòng yêu nước của Việt Nam"?! Người Việt đủ tỉnh táo để biết ai là bạn ai là thù, một kẻ láng giềng to xác kéo giàn khoan án ngữ ngay trước cửa nhà mình lẽ nào có thể ngồi yên? Hơn ai hết, Trung Quốc thừa hiểu lòng yêu nước của người Việt như thế nào qua các bài học lịch sử. Hoạt động gây rối của một số đối tượng lợi dụng các cuộc tuần hành yêu nước, phản đối Trung Quốc bành trướng Biển Đông, xâm phạm vùng biển chủ quyền Việt Nam để gây tổn hại cho một số doanh nghiệp nước ngoài đã bị nhà nước Việt Nam nghiêm trị, đồng thời động viên và giúp đỡ kịp thời các doanh nghiệp ổn định sản xuất. Đây đâu phải chỗ để tờ báo Trung Quốc nói lời ly gián, chia rẽ người Việt. Kéo giàn khoan, tàu chiến sang vùng biển nước khác ngang nhiên, trắng trợn là hành động của kẻ cướp. Không những tìm cách ly gián người Việt với nhau, người dân với chính phủ Việt Nam mà Tuần báo Bắc Kinh còn tiếp tục chiêu bài kích động, tạo hiểu nhầm trong dư luận về cái gọi là "sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Việt Nam" trong quan hệ với Trung Quốc, bất chấp thực tế các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã lên tiếng phản đối các hành vi gây hấn của Trung Quốc với Việt Nam trên Biển Đông. "Những gì làm phức tạp vấn đề là quan điểm về quan hệ Việt - Trung khác nhau rất nhiều giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam", Tuần báo Bắc Kinh kích động. Với luận điệu xuyên tạc, đâm bị thóc chọc bị gạo hòng chia rẽ người Việt, tờ báo Trung Quốc vu cáo trắng trợn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: "Trong khi những người ủng hộ Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ hữu nghị Việt - Trung thì một số lãnh đạo cấp cao mà đại diện là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bám vào giáo điều, đặt lợi ích quốc gia lên trên tất cả mọi thứ khác, một quan điểm kích thích chủ nghĩa dân tộc và những người trẻ tuổi"?! Đúng! Lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, quan trọng hơn rất nhiều một thứ "quan hệ hữu nghị viển vông" giả cầy nào đó. Đây là bài học người Việt đã rút ra sau rất nhiều biến cố, mà trong số đó có phần "đóng góp không nhỏ" của gã láng giềng lớn xác nhưng chơi bẩn, thường tìm cách đâm sau lưng đồng chí, bạn bè. Và không chỉ Việt Nam, trong quan hệ quốc tế ngày nay, quốc gia nào cũng đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên. Điều khác nhau ở chỗ, những nước văn minh thì bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp, trong khi những kẻ ngụy quân tử thì chỉ thích vơ vào, biến của người khác thành của mình và bất chấp mọi thủ đoạn, kể cả đâm bạn sau lưng. Bất chấp thực tế những nỗ lực không ngừng của chính phủ Việt Nam và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để ổn định tình hình, hỗ trợ doanh nghiệp, đồng thời tiếp tục chỉ đạo mặt trận đối phó với dã tâm, thủ đoạn bành trướng của Bắc Kinh trên Biển Đông, Tuần báo Bắc Kinh tiếp tục vu cáo Thủ tướng Việt Nam "chỉ đạo, xử lý không hiệu quả" cái gọi là "bạo loạn chống Trung Quốc"?! Vu cáo Việt Nam xong, tờ báo quay ra buộc tội Hoa Kỳ. Nó cho rằng sự "trỗi dậy" của Trung Quốc đã khơi dậy nỗi sợ hãi đối với rất nhiều người Mỹ, những người cảm nhận thấy sức mạnh đang lên của Bắc Kinh như một mối đe dọa. Washington đã tuyên bố sẵn sàng giải quyết sự khiêu khích của Trung Quốc với chiến lược trục châu Á của mình. Hoa Kỳ đã san bằng những chỉ trích của Trung Quốc về tranh chấp của họ với các nước láng giềng ở Biển Đông, Hoa Đông. Chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam ngày đêm chắc tay súng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Tuần báo Bắc Kinh lý luận rằng, mặc dù Việt Nam không phải là đồng minh của Mỹ, nhưng sự hỗ trợ của Washington cho Nhật Bản và Philippines đã khuyến khích người Việt, áp dụng lập trường "ngày càng khó khăn và khiêu khích với Trung Quốc"?! Theo ý kiến của Mỹ, Trung Quốc nên tập trung lo đổi mới đất nước và không dùng vũ lực để chống lại Việt Nam ở Biển Đông, do đó Việt Nam cảm thấy bị thôi thúc tận dụng tối đa khoảng thời gian này để củng cố lợi ích của mình trong khu vực, tờ báo Trung Quốc nói. Tờ báo này lật lọng rằng, việc chính phủ Việt Nam nhanh chóng xử lý một số đối tượng gây rối, ổn định tình hình là do "áp lực từ Trung Quốc", trắng trợn hơn, nó vu cáo Việt Nam tiếp tục "quấy rối giàn khoan Trung Quốc". Trong khi các tàu Việt Nam, Trung Quốc tiếp tục đương đầu nhau ngoài Biển Đông, Tuần báo Bắc Kinh cho rằng "ít có khả năng leo thang xung đột vì Việt Nam sẽ không thể chiến thắng trong cuộc chiến bất đối xứng, cũng không đủ khả năng để kéo dài nó". Tuần báo Bắc Kinh đúng ở chỗ, về sức mạnh cơ bắp trên biển đúng là bất đối xứng khi Trung Quốc liên tục huy động hơn 100 tàu lớn, gồm nhiều chiến hạm hiện đại nhất của hải quân và máy bay quân sự, nhưng nó quên mất rằng Việt Nam mới là bên có chính nghĩa còn những kẻ kéo tàu chiến giàn khoan sang vùng biển nước khác lộng hành là những kẻ cướp. Thế giới văn minh sẽ không để cho bọn kẻ cướp thích làm gì thì làm. Tuần báo Bắc Kinh còn lo sợ Việt Nam sẽ làm gương cho Philippines chống lại tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông và việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố sẽ dùng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, trong đó bao gồm biện pháp pháp lý đã khiến tờ báo này lo sợ sẽ "ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị Việt - Trung", thật nực cười! Nguy hiểm hơn, tờ báo này cho rằng về lâu dài Trung Quốc cần tăng cường "sự lệ thuộc của Việt Nam về kinh tế và văn hóa" mới là giải pháp khả thi nhất?! Tuần báo Bắc Kinh cho rằng, thực tế mặc dù giao lưu thanh niên 2 nước diễn ra thường xuyên, hợp tác gần gũi về văn hóa "nhưng Việt Nam không chỉ cho phép hùng biện chống (sự bành trướng, xâm lược của) Trung Quốc chiếm ưu thế, mà còn cố tình miêu tả Trung Quốc như kẻ mạnh ức hiếp người yếu dẫn đến kết quả hầu hết người trể tuổi ở Việt Nam không muốn chơi với Trung Quốc"?! Một thái độ trịch thượng, kẻ cả muốn đồng hóa cả các nước láng giềng thành "chư hầu" của Trung Quốc, điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Mời quý độc giả theo dõi tình hình Biển Đông, các hoạt động gây hấn của Trung Quốc và phân tích, bình luận TẠI ĐÂY. ========================= Qua đó mới thấy rất rõ rằng: Một dân tộc tồn tại, độc lập và tự cường thì cội nguồn văn hóa dân tộc là điều quan yếu đặc biệt cần thiết. Việt sử 5000 năm văn hiến đúng trong mọi hệ quy chiếu và trong cả những sự kiện từ vi mô đến vĩ mô. Kẻ nào còn mơ hồ chuyện này thì thật là ngu xuẩn.5 likes
-
Trung Quốc và thảm họa tự tạo 10/06/2014 05:45 Thanh Niên Theo giới chuyên gia, Trung Quốc đã tính toán kỹ những hành vi ngang ngược trên biển Đông nhưng kết quả cuối cùng vẫn sẽ phản tác dụng. Tàu Trung Quốc (phải) hung hãn lao về phía tàu VN gần giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) - Ảnh: Hoàng Sơn Trong bài phân tích đăng trên chuyên san The National Interest (Mỹ), chuyên gia Richard Javad Heydarian tại Đại học Ateneo De Manila, cũng là cố vấn về chính sách cho Hạ viện Philippines, khẳng định giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) của Trung Quốc (TQ) đã cắm sâu vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của VN. Ông nêu rõ: “Căn cứ theo các diễn giải của những điều khoản của Công ước LHQ về luật Biển (UNCLOS), VN có quyền chủ quyền đối với nguồn khí hydrocarbon mà giàn khoan Hải Dương-981 đang thăm dò. Do đó, TQ vi phạm đặc quyền về EEZ của VN”. Giới quan sát cũng chỉ ra rằng tình hình càng phức tạp khi có rất nhiều cơ quan, lực lượng của TQ cùng phối hợp nhúng tay trong vụ giàn khoan, từ dầu khí, chấp pháp trên biển cho tới ngoại giao và truyền thông. Điều này chứng tỏ đây là hành động đã được tính toán kỹ và có sự điều phối tập trung ở cấp cao nhất. “Chín con rồng” Theo tờ The Wall Street Journal, cho đến gần đây, cộng đồng quốc tế đánh giá những hành động gây căng thẳng trên biển của TQ một phần xuất phát từ sự kèn cựa của nhiều cơ quan chính phủ với phần thắng thường thuộc về phe “diều hâu” nhất. Từ hải giám, ngư chính đến tập đoàn dầu khí, quân đội hay thậm chí cả bộ công an, các phe đua nhau tiến hành hoạt động gây sóng gió ở biển Đông và Hoa Đông nhằm mở rộng ảnh hưởng chính trị hay giành thêm ngân sách. Tình trạng này được mô tả một cách hình tượng là “9 con rồng hung dữ quấy phá trên biển”. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra trên biển Đông, cụ thể là vụ giàn khoan, giới quan sát nhận thấy “9 con rồng” không còn “mạnh con nào con nấy phá”. Tờ The Wall Street Journal chỉ ra rằng TQ đã thống nhất các cơ quan chấp pháp trên biển thành một lực lượng hải cảnh duy nhất và thành lập một siêu ủy ban an ninh mang tên Ủy ban An ninh quốc gia dưới sự điều hành của các lãnh đạo cao cấp nhất. Trên thực tế, kể từ khi ủy ban này ra đời, tình hình an ninh tại các vùng biển quanh TQ càng bất ổn hơn so với thời “9 con rồng” còn ganh đua nhau. Theo các chuyên gia, đó là vì ban lãnh đạo mới của nước này đã tương đối khuất phục được các thế lực ganh đua nhau để đẩy mạnh các hành động được tính toán kỹ nhằm hiện thực hóa cái gọi là “giấc mơ Trung Hoa”. Trong các mục tiêu mà nước này hướng đến có việc thu hồi “lãnh thổ quốc gia đã mất vào tay Nhật Bản” và độc chiếm biển Đông. Điều này khiến tình hình khu vực càng trở nên nguy hiểm và không loại trừ nguy cơ nổ ra xung đột. Tự gây họa Viết trên The National Interest, chuyên gia Heydarian cho rằng TQ đã tự tạo ra thảm họa cho chính mình khi gây căng thẳng ở biển Đông. Ông chỉ ra đối mặt với một TQ ngày càng ngang ngược, nhiều nước có tranh chấp chủ quyền ở biển Đông như VN và Philippines càng xích lại gần nhau hơn. Ngay cả những bên không có tranh chấp cũng đang tăng cường nỗ lực nhằm đối phó hậu quả từ các hành động của TQ đối với ổn định khu vực và tự do đi lại trong vùng biển quốc tế. Ngoài ra, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và Ấn Độ đang tăng cường vai trò của họ trong việc ổn định ở biển Đông vì các tuyến đường biển quốc tế ở đây rất quan trọng đối với lợi ích thương mại và an ninh năng lượng của họ. Tờ Want China Times dẫn lời chuyên gia Úc Harry White nhận định Mỹ cần lập “lằn ranh đỏ” để Bắc Kinh từ bỏ suy nghĩ rằng Washington không sẵn sàng cho một cuộc chiến bảo vệ đồng minh. Từ đó, ông Heydarian kết luận chính sự cứng rắn về lãnh thổ của TQ đã khiến nước này ngày càng bị cô lập và dẫn đến quốc tế hóa các tranh chấp, đi ngược lại ý đồ của Bắc Kinh là đàm phán song phương nhằm tận dụng thế nước lớn để chèn ép bên kia. Trùng Quang -Văn Khoa ======================== Cái ngu của Tàu nó nằm ở sự phân tích của nghịch lý Cantor và học thuyết thống nhất Âm Dương Ngũ hành như sau: Trong giới hạn cục bộ của một tập hợp con thì mọi tính toán đều có thể đúng. Nhưng ở một tập hợp lớn hơn thì nó sai. Thí dụ: Một thằng ăn trộm quán xét một ngôi nhà rất kỹ và tính toán một phương án hoàn chỉnh để thực hiện một phi vụ ăn trộm hoàn hảo. Nhưng toàn bộ hành vi ăn trộm này chỉ là một tập hợp con trong một tập hợp lớn hơn là Tất cả mọi người và luật pháp trừng trị ăn trộm. Thằng ăn trộm có thể thành công trong phạm vi tập hợp của nó và thực hiện phi vụ hoàn hảo. Nhưng sau đó nó bị bắt vì hành vi của nó chỉ là một tập hợp con của pháp luật. Trong thuyết AD NH thì hành vi của thằng ăn trộm thuộc tập hợp con Kim, bị tập hợp lớn hơn Hỏa khắc. Sai lầm của người Trung Quốc không chỉ giới hạn ở biển Đông - dù tính toán kỹ lưỡng. Mà là ở trong ngay tổng thể sách lược phát triển của "giấc mơ Trung Hoa". Biển Đông là hình tướng thể hiện sự sai lầm dốt nát nhất trong tổng thể sách lược của họ. Nghĩ đến viễn cảnh của họ Lão gàn cũng buồn cho họ. Nhưng biết làm sao bây giờ?Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thi đừng trách lẫn trời gần đất xa.5 likes
-
Lý Học & Khoa Học Hiện Đại
thanhdc and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Thưa quí vị. Trong tiểu luận: "Định mệnh có thật hay không?", tôi đã chứng minh và xác định rằng: Đã có một nền văn minh tồn tại trên Địa cầu này trước lịch sử nền văn minh của chúng ta. Tôi gọi là văn minh Atlantic. Chính nền văn minh này là chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Nhưng nền văn minh này đã bị hủy diệt. Người Lạc Việt chính là hậu duệ còn sống sót của nền văn minh này và kế thừa những di sản của nó. Do đó, trong lịch sử văn minh hiện tại, người Việt là chủ nhân đích thức của những tri thức nền tảng của văn minh Đông phương. Nhưng tư liệu khảo cổ học được công bố trong bài viết dưới đây, tìm được ở Hoa Kỳ - nếu có thật - chính là sự bổ sung sắc sảo cho luận điểm của tôi và hiện tượng khảo cố này hoàn toàn được giải thích bằng lý thuyết mà tôi đã trình bày ở trên. ==================================== Di tích Ai Cập cổ đại tại Grand Canyon, Hoa Kỳ Arius Ngọc Trần Bản quyền tiếng Việt ©Zeronews Nguồn https://sites.google.com Tượng thần Anubis tại Động Kincaids Zero: với phát hiện này chúng ta thấy nền văn minh Ai Cập không chỉ được bó hẹp tại Châu Phi mà còn vượt đại dương sang Châu Mỹ. Điều này có nghĩa là trước khi Colombo tìm ra Châu Mỹ thì người Ai Cập đã làm điều đó từ 3000 năm trước đây. Vậy câu hỏi đặt ra là: người Ai Cập đã dùng phương tiện nào để di chuyển giữa 2 lục địa xa xôi đến vậy trong thời điểm mà công nghệ về tàu thuyền còn thô sơ? Đây là một thành phố trong hang của người Ai Cập cổ được gọi là Động Kincaids được đặt theo tên của G.E. Kincaid, người đầu tiên tìm ra nó lúc còn làm việc cho S. A. Jordan. G. E Kincaid phục vụ trong quân đoàn thuỷ binh. Sau khi nghỉ hưu, ông đã làm việc cho S. A. Jordan trong vị trí một nhà khảo cổ. S. A Jordan được Viện Smithsonian cử đến Grand Canyon để điều tra các thông tin cung cấp bởi John Westly Powell. Hệ thống hang động này toạ lạc tại Cliff Wall, cao hơn 120 mét so với sông Colorado ở Grand Canyon. Những nhà khảo cổ dự đoán hang động nhân tạo này có tuổi thọ khoảng 3000 năm với chiều cao khoảng 152 mét và hệ thống đường hầm dẫn tới sảnh lớn. Ngày nay vị trí củathành phố hang động này đã xuống thấp hơn nhiều so với khi mới khởi công, vì mực nước sông Colorado thời đó được dự đoán là thấp hơn hiện nay khoảng 91 mét. > Đây là một bức tượng bằng vàng của vị vua Ai Cập tên là Khyan (một số cách gọi khác là Khian hoặc Khayan), được tìm thấy trong hang, trên tay cầm hai đoá hoa sen. Hoa Sen là một biểu tượng quốc gia của Ai Cập cổ. Bức tượng được đặt ở vị trí giao điểm đầu tiên của các đường hầm, đúng với cách sắp xếp các bức tượng vua chúa Ai Cập trong các hang động ở Thung Lũng Của Các Vị Vua. Thung lũng này là nơi các vị vua Ai Cập đã từng sinh sống trước khi các kim tự tháp và các thành phố cổ trên mặt đất được xây dựng ở Ai Cập. Những chùm ánh sáng quyền lực toả ra từ ký hiệu tượng hình đặc trưng của vua Khyan cho thấy ông là một vị vua rất có quyền lực trong thế giới giới Ai Cập cổ đại. Theo ghi chép thì Khyan là hiện thân của Zaphanath (Josepth), người đã thống trị toàn Ai Cập tại thủ đô Avaris năm 1610 đến năm 1580 trước công nguyên. Tất cả các vị vua Ai Cập và các Pharaoh đều có một ký hiệu tượng hình cho riêng mình để nhận diện. Biểu tượng và cả tên của vua Khyan đã được tìm thấy trên bệ của bức tượng. Bên góc cao bên trái của biểu tượng chính khắc trên bệ cho thấy vua Khyan là Người Con “tay phải” của dân tộc Hebrew Semitic có nghĩa là người con trai đầu lòng. Còn biểu tượng ở trung tâm bệ là biểu tượng tượng hình đặc trưng của vua Khyan với chùm ánh sáng quyền lực của mình và ông đang nắm giữ cây gậy của Chúa trong tay. Không còn nghi ngờ gì nữa. Khyan chính là hiện thân của vua Zaphnath ở Ai Cập, người được nhắc đến trong kinh thánh với tên Joseph. Bức phù điêu bằng vàng này được tìm thấy trong thành phố hang động ở Grand Canyon. Nó là một cuốn sách sử ghi lại những cái tên bắt đầu từ sự kiện vua Zaphnath đến Aztlan và thông tin về sự kiện hiện thân của ông, vua Khyan đến, Grand Canyon. Ký hiệu cho vùng đất thứ 2 của Ai Cập được cai quản bởi vua Zaphnath có tên là Memphis được tìm thấy ở góc dưới bên trái của bức phù điêu. Bên góc trái có chữ F, theo ngôn ngữ Do Thái Mỹ (cũng là ngôn ngữ của vua Khyan), nghĩa là Family. Các ghi chep lịch sử của Aztlan cũng được tìm thấy ở mặt sau của bức tượng. Đây là một bức phù điêu khác tìm thấy trong Động Kincaids. Mặc dù nó nhỏ hơn so với những phù điêu khác được tìm thấy tại Grand Canyon nhưng bức này được xem là có kích cỡ cũng như tầm vóc lịch sử lớn nhất đối với những nhà khảo cổ Smithsonian. Nó ghi chép lại thông tin của vua Akhenaten, nữ hoàng Nefertli cũng như tổ tiên và con cái của họ, trong đó có vua Zaphnath. Một trong những sự kiện được ghi chép lại là vua Akhenaten đã khôi phục giáo phái Amon Semitic tại Saqqare Ai Cập. Vua Akhenaten trị vì Ai Cập trong khoảng năm 1353 đến 1336 trước công nguyên. Theo ghi chép, con trai của ông là Seteprene, vừa là người cai quản Grand Canyon, vừa là vua của Saqqare Ai Cập. Những thông tin này cho thấy các vị vua Ai Cập cổ đại đã có những hành trình qua lại giữa Grand Canyon và Ai Cập. Những mẫu vật bằng vàng này từ Động Kincaid là những mẫu vật duy nhất từ Grand Canyon được trưng bày tại viện Smithsonian ở Washington DC. Hai tượng ở phía sau là Vua Akhenaten và Hoàng Hậu Nefertli. Còn đây là mẫu vật đại diện cho vua Aperanat, một vị vua tại Saqqara Ai Cập, cũng được tìm thấy tại Grand Canyon. Tại Ai Cập, vua Aperanat rất có quyền lực. Ông cai quản cả những người không phải là dân Ai Cập. Bức tượng đồng này được tìm thấy trong Động Kincaids, được xác định là bức tượng của Anubis. Không thể tưởng tượng được là ông ta cũng đến Grand Canyon. Anubis là một xác ướp ai cập nổi tiếng, người tin vào “cõi âm”. Con đường mòn Seth là một điểm du lịch nổi tiếng ở Grand Canyon. Người Ai Cập cổ có các chốt khai thác đồng, bạc và vàng tại Grand Canyon. Có rất nhiều các tàn tích của của các lò nung và lò luyện kim Ai Cập ở Grand Canyon. Những lò nung và lò luyện kim này toạ lạc ở cao nguyên thứ 2 của Grand Canyon, nơi đây nhiều hầm khai và các thành phố hang động của người Ai Cập cũng được tìm thấy tại các vách núi ở tầng 2 của cao nguyên Grand Canyon. Còn tiếp Mặc dù đền thờ Iris ở Grand Canyon ngày nay đã hư hại nhiều, chúng ta vẫn có thể thấy các chữ tượng hình của người Ai Cập cổ trên vách của ngôi đền. Đền Iris có một lối vào rõ ràng nhưng chỉ vào sâu chừng vài mét, nó đã bị đóng kín. Công viên quốc gia sẽ không cho phép bất kỳ ai khai quật khu đền thờ kim tự tháp. Bức tượng vàng này được tìm thấy tại Động Kincaids. Nó tượng trưng cho thần Iris và hiện đang được trưng bày tại Viện Smithsonian ở Washington DC. [Theo truyền thuyết Ai Cập, Iris là vị nữ thần của sức mạnh và tình yêu]. Bà là con gái đầu lòng của thượng đế, mà theo người Ai Cập, là vị thần đầu tiên trên trái đất. Tình yêu tràn ngập trong tim Iris. Hình dạng của Iris trong tấm hình này thể hiện trái tim của bà. Còn bức tượng vàng này là của Amunet, Thần Bí Ẩn [Theo truyền thuyết Ai Cập, Amaunet là một vị thần bí ẩn và là nữ thần của thiên đường]. Amaunet đã sinh ra một quả trứng sáng óng ánh như vàng và là tia nắng mặt trời đầu tiên của Ai Cập. Sau đó Amaunet nhận ra bà đang sở hữu một đôi cánh và bay từ thiên đường đến Ai Cập. Rồi tất cả mọi người đều biết đến Amaunet nên bà không còn là thần bí ẩn nữa. Người da đỏ bản xứ đã nói với kiểm lâm ở khu công viên quốc gia Gran Canyon rằng địa điểm trên là một toà tháp của Ra. Chỉ một số ít văn tự cổ Ai Cập được tìm thấy tại đây do toà tháp do đã bị hư hại nặng. Người Ai Cập cổ cũng xây dựng nhiều khu vực giải trí tại Grand Canyon. Những khu nhà này ngày xưa có mái gỗ nhưng nay đã không còn giữ được nữa. Ở đây có nhiều sân lớn cho các môn chạy đua, các trò chơi, khu tắm vòi sen và nhà nghỉ dưỡng cho các đội thể thao. Ngoài ra, khu vực này còn có cả nhà hát rộng lớn cho các buổi hòa nhạc và bếp để chế biến thức ăn cho các vua Ai Cập, các vận động viên và các nhạc công. Khu đường hầm phức hợp này được G.E. Kincaid tìm thấy là một lăng mộ tổng hợp. Những xác ướp ở đây được chôn âm tường hoặc trên các tảng đá lớn. Thời gian mà người Ai Cập đến Grand Canyon được xác định bằng phương pháp tính tuổi carbon của các xác ướp này. Xác ướp có tuổi tho lớn nhất là từ khoảng năm 1600 trước công nguyên. Đây là hình chụp lối vào của hang Powell ở Grand Canyon, được đặt theo tên người khám phá ra nó là John Westly Powell. Theo báo cáo của John Westly Powell gửi cho chính phủ và phát hành trong sách của ông, những hang này là hang nhân tạo. Ông đã lần theo khe nứt ở phía bên trái của vách núi và leo lên những khứa dài để tìm ra nó. Có một lối đi nhỏ dọc theo vách núi đã bị bào mòn đến nỗi trở thành hình dạng của khối đá tự nhiên. Các khe vàng phần nào đã cắt ngang con đường. Các con đường đã bị bỏ hoang trong một thời gian dài, không có dấu vết nào của con người. Khi trở về trại, họ tìm thấy thêm một vài ký tự Ai Cập cổ trên vách đá gần hang động. Thông tin cua John Westly Powell có thể được tìm thấy trong tư liệu “Người Ai Cập ở Mỹ và những khám phá”. Những nhà khảo cổ Smithsonian đã nghiên cứu những ký tự Ai Cập cổ trên các vách dẫn tới hang nhân tạo này. Nghiên cứu cho thấy hang này có liên quan đến một vài vị vua của Ai Cập và chứa đựng nhiều thông tin chưa từng được biết đến trước đây về họ. Bức tượng cổ này được tìm thấy ở hang Powells, trên tay cầm một đoá sen Ai Cập. Theo John Westly Powell, đây chỉ là một trong những mẫu vật được tìm thấy tại đây. Đêm hôm đó nhóm của ông đã lập tức thông báo cho Viện Simithsonian. Sau đó nhóm của ông tiếp tục tìm thấy nhiều thành phố hang động khác. Ông cho rằng có khoảng 50 000 người Ai Cập đã cư trú Grand Canyon trong cùng một thời điểm. Bức tượng này đại diện cho vua Seteprene (một số cách gọi khác là Smenkhare Seti hoặc Smenkare). Vua Seteprene là con trai của vua Akhenaten tiếp quản khu Saqqara Ai Cập từ năm 1336 trước công nguyên nhưng chỉ vỏn vẹn trong 10 năm. Ông đã qua đời trong chuyến đi cuối cùng đến Saqqara Ai Cập. Có thể đây là lý do mà tượng của ông không được phủ một chiếc mũ được mạ vàng. Bình đựng cốt của người Ai Cập được tìm thấy trong hang Powells, hiện được trưng bày tại Viện Smithsonian, Washington DC. Bản biểu này là một phát hiện quan trọng của các nhà khảo cổ Smithsonian tại hang Powells, là bảng chữ viết cổ của người Ai Cập dùng để dạy đọc và viết chữ cho những đứa trẻ. Những biểu tượng chim thú trên vách núi ở Grand Canyon miêu tả cấp bậc của các vị vua Ai Cập cổ. Điều thú vị là ở phía trên, hàng thứ hai từ trái qua, ta thấy biểu tượng Rương Giao Ước của người Do Thái và tiếp theo trên cùng hàng là biểu tượng hộp không đáy tượng trưng cho người con “tay phải” của Do Thái. Khi những người Ai Cập đến Grand Canyon khoảng năm 1700 trước công nguyên, họ bắt đầu xây dựng các thành phố hang động từ vách núi Vermillion đi sâu vào rìa phía bắc của hẻm núi Grand Canyon. Trước tiên, những người Ai Cập chọn những vách núi có phần đá nhô ra vì các vị vua có thể đứng tại đây nhìn xuống các đồng ruộng và khu mỏ khai thác ở vị trí thấp hơn. Tất cả các vị vua đều khắc dấu ấn của mình trên vách núi xung quanh thành phố hang động. Cao nguyên Kiabab cao khoảng 2 438 mét so với sông Colorado. Những vách núi này là những vách núi cao nhất tại cao nguyên Kiabab rộng lớn ở Grand Canyon. Tất cả những đền đài Ai Cập đều toạ lạc ở phía bắc của Grand Canyon. Đây là cao nguyên Kiabab. Trong khu vực cao nguyên, các mạch nước chảy chậm vào trong những đồng cỏ giúp giữ ẩm cho đất canh tác. Thực phẩm trên các cánh đồng cỏ này ước tính nuôi sống được khoảng 500 000 người trong khi số lượng người Ai Cập tại Grand Canyon chỉ có khoảng 50 000 người. Có vẻ như lượng lương thực còn lại được chuyển đến Ai Cập. Đây là tàn tích Walhalla ở cao nguyên Kaibab đã được khai quật. Do nạn trộm cướp mẫu vật quá phổ biến, thậm chí là trong nội bộ những nhà khảo cổ của Smithsonian, FBI đã cử các điệp vụ tham gia vào đội khai quật tại Grand Canyon và ngày nay họ có mặt ở tất cả các nhóm khai quật của Hoa Kỳ. Grand Canyon được chính thức trở thành công viên quốc gia năm 1919. Chính sách của công viên quốc gia là để bảo tồn nền văn hoá bản địa của thổ dân Mỹ. Họ sinh sống ở rìa phía bắc của cao nguyên Kiabab, cũng là nơi các kim tự tháp Ai Cập được tìm thấy. Họ biết rõ tên của những đền thờ kim tự tháp này. Thổ dân da đỏ thờ một vị thần tên là Taawa. Vị thần này có một khuôn mặt người luôn tươi cười và một trái tim nhân hậu. Ngôn ngữ bản địa của thổ dân da đỏ ở Mỹ cũng sử dụng một lượng lớn các từ các từ có gốc gác Ai Cập. Seth Tanner, một tín đồ giáo phái Mormon, sinh sống tại Grand Canyon và làm người dịch thuật cho dân da đỏ. Ông ta có 2 người vợ da đỏ. Ông cho rằng người da đỏ cũng là những tín đồ của giáo phái Mormon. Họ tự gọi mình là dân tộc của cùng một trái tim. Ông là mục sư của dân da đỏ và cũng là một nông dân. Toà tháp Set (kim tự tháp Seteprene) là tên được người da đỏ đặt cho vùng này. Toà tháp Set là kim tự tháp đầu tiên được xây dựng ở Grand Canyon như là một lăng mộ của vua Seteprene. Tất cả các ký tự Ai Cập cổ đã bị bào mòn. Đây là một kim tự tháp hình chữ nhật, tương tự như các kim tự tháp đầu tiên ở Ai Cập. Còn đây là Đền Zoroaster ở Grand Canyon theo cách gọi của người da đỏ. http://4.bp.blogspot.com/-hcQBXWBpweE/U02BOlA4vGI/AAAAAAAAM0w/qIVc-8cp1fU/s1600/Joseph_Pharaoh_Thebes%2520197.jpg [Truyền thuyết Zoroaster của Ai Cập] Zoroaster sống ở Ai Cập trong khoảng thời gian đất nước đang gặp khó khăn và đất nước đang trở thành một quốc gia nghèo. Tên dùng của Zoroaster là Joseph vì ông thờ một thần có địa vị cao hơn thần mặt trời Ra trên thiên đường, người biết về giấc mơ của Pharaoh. Ông xây một chiếc thuyền có cánh (mái chèo) có sức chứa lớn để chở người và tìm ra hạt giống cũng như vàng bạc cho người Ai Cập. Khi ông ta trở về Ai Cập, chiếc thuyền của ông chở đầy vàng và hạt giống. Pharaoh phong cho ông làm người cai quản Ai Cập và gọi ông là Zaphenat – Pa’aneah. Pharaoh cũng giống như một người cha của vua Zaphanath Paaneah. http://3.bp.blogspot.com/-SujowV3zeIc/U02BLEhUT6I/AAAAAAAAMz4/0t6wOlDVjl4/s1600/ALAW0ES%2520430.jpg Những nhà khảo cổ của Smithsonian nghĩ rằng kim tự tháp đang được xây dở dang này là một lăng mộ vì lối vào của nó chỉ sâu vài mét và bị bịt kín. Nhưng công viên quốc gia không cho phép họ khai quật mộ này. http://4.bp.blogspot.com/-jmr8QU48wOI/U02BS3R2eoI/AAAAAAAAM2E/dPGuntMCaec/s1600/egyptian-mummies344.jpg Một quan tài được mở nắp để kiểm tra xem có xác ướp hay không, trước khi được chuyển từ Grand Canyon về kho lưu trữ của viện Smithsonian. Arius Ngọc Trần Bản quyền tiếng Việt ©Zeronews Nguồn https://sites.google.com3 likes -
IV. LỜI CUỐI SÁCH. Thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, chính là ứng cử viên duy nhất của "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" - mà nhà tiên tri vĩ đại Vanga, người Bungari đã nói tới. Nếu như bạn đọc cho rằng: lời tiên tri của bà Vanga là mơ hồ thì người viết cũng chia sẻ với ý tưởng của bạn và chỉ coi lời tiên tri của bà Vanga như là một hiện tượng khách quan đã phổ biến và tồn tại trên thực tế, làm đoạn dẫn cho lời cuối sách. Do giới hạn của cuốn sách, người viết chỉ có thể trình bày được những nội dung căn bản. 1/ Qua việc xác định cấu trúc và nội hàm đích thực câu trong Hệ từ Thượng truyện: "Thị cố dịch hữu Thái cực. Thị sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng biến hóa vô cùng". Mô tả một thực tại diễn biến lịch sử và những qui luật vũ trụ, từ khởi nguyên của thuyết Âm Dương Ngũ hành, từ những di sản văn hóa truyền thống Việt. 2/ Mô tả nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương ngũ hành: "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt", cùng với những nguyên lý và những khái niệm căn bản những nguyên lý, danh từ căn bản và những khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành. 3/ Từ những hệ thống luận cứ trên - chứng minh sự phù hợp với tiêu chí khoa học của một lý thuyết nhân danh khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi từ nền văn hiến Việt - trong việc liên hệ với mọi vấn đề liên quan đến nó thuộc nội hàm học thuyết này. Người viết hy vọng rằng: Mặc dù đó chỉ là những giá trị nền tảng ban đầu, nhưng có tính định hướng cho việc phục hồi toàn diện hệ thống học thuyết này, trong mọi lĩnh vực bao trùm của nó. Tuy nhiên, để phục hồi một cách toàn diện, còn là cả một công việc đồ sộ, cần sự đóng góp của rất nhiều bậc trí giả tâm huyết. Mặc dù vậy, với tất cả nhiệt tình của mình, chúng tôi hy vọng góp phần làm sáng tỏ chân lý đích thực về một nền văn hiến Việt khởi nguồn từ miền nam sông Dương tử với gần 5000 năm lịch sử - chủ nhân đích thực của những gía trị nền tảng của nền văn minh Đông phương. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng điều này. Chúng tôi cho rằng: chính sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại cho đến ngày hôm nay là điều kiện cần và đủ để minh chứng cho một chân lý bị khuất lấp hàng thiên niên kỷ trong kho tàng kiến thức của nhân loại. Một trong những câu truyện kể dân gian Việt Nam đã mô tả có tính tiên tri cho sự phục hồi những giá trị của nền văn hiến Việt, hoàn toàn phủ hợp với kết quả tiên tri của bà Vanga: đó chính là câu truyện "Trê Cóc" nổi tiếng trong nền văn hiến Việt. Câu chuyện kể rằng: Cóc mẹ xuống đầm đẻ trứng và nở ra một đàn nòng nọc. Vợ chồng nhà Trê, không có con, thấy đàn nòng nọc giống mình bèn bắt đem về nuôi. Cóc mẹ trở lại đầm thì không thấy con đâu. Biết Trê lấy cắp con mình, bèn đâm đơn đi kiện quan Cá Chép. Nhưng quan Cá Chép xử thắng cho vợ chồng nhà Trê, vì thấy nòng nọc giống Trê hơn giống Cóc. Mẹ Cóc buồn bã thì cụ đồ Nhái khuyên mẹ Cóc không cần phải lo nghĩ nhiều. "Sự phát triển của tự nhiên, đến một lúc một thời điểm thích hợp thì nòng nọc sẽ phát triển thành cóc và trở về với Mẹ Cóc. Quả nhiên, sau này, khi đàn nòng nọc lớn lên lại trở thành cóc và về với mẹ Cóc. "Trê Cóc" .Tranh dân gian Đông Hồ trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Đây là một câu chuyện mang tính minh triết Việt: Nền văn minh Hán đã Hán hóa những di sản của nền văn hiến Việt tử hơn 2000 năm trước. Bởi vậy, những di sản ấy mang một hình thức bằng văn tự Hán, làm mọi người cứ tưởng nó thuộc về nền văn hóa Hán. Điều này được mô tả trong câu chuyện bằng hình thức giống Trê của đàn nòng nọc. Đã hơn hai ngàn năm trôi qua, chính sự phát triển tự nhiên - theo quy luật tiến hóa của nền văn minh nhân loại - là điều kiện cần và đủ để thẩm định một chân lý cổ xưa sẽ quay trở lại với con người. Đây chính là nội dung của thầy Nhái Bén khuyên mẹ Cóc cứ yên tâm; quy luật phát triển của tự nhiên sẽ làm đàn nòng nọc tiến hóa thành Cóc và trở về với nguồn cội. Chỉ đến ngày hôm nay - đã hơn 2000 năm trôi qua - nền văn minh nhân loại đã phát triển và hình thành những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học, mới đủ cơ sở để chứng minh cho nền văn minh Việt chính là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Đàn nòng nọc - biểu tượng của nền văn minh Khoa Đẩu - trở về với nguồn cội. Sự mở đầu và nội dung của toàn bộ cuốn tiểu luận này, mô tả những giá trị minh triết Việt, chứng minh cho toàn bộ những giá trị của nền văn minh Đông phương thuộc về Việt tộc, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, mà hậu duệ chính là các dân tộc ở đất nước Việt Nam hiện nay. Cho nên, khi kết thúc cuốn tiểu luận này, chúng tôi cũng xin mô tả một nội dung minh triết của một câu truyện nổi tiếng trong di sản văn hóa truyền thống Việt - truyện "Trê Cóc" - để chia sẻ với bạn đọc một thông điệp của tổ tiên về sự phục hồi những giá trị văn hiến Việt, như là một quy luật tất yếu của sự phát triển trong tương lai của nền văn minh hiện tại. Chân thành cảm ơn sự quan tâm, chia sẻ và đóng góp của bạn đọc. Viết xong tại T/p HCM Giờ Tý. Ngày 28. Tháng 10. Năm Quý Tỵ Việt lịch. Nhằm ngày 30. 11. 2013 Nguyễn Vũ Tuấn Anh3 likes
-
Người ta có thể nói tất cả mọi thứ, từ chổi cùn giẻ rách cho tới những quyết định của những chính khứa làm thay đổi thế giới với những lời bình luận gọi là "đa chiều", nhưng không ai nói về cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến??? Còn Lão Gàn thì chỉ nói mỗi chuyện này. Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý đúng trong mọi hệ quy chiếu. Kể cả việc giàn khoan của Tàu. Có gì bí ẩn ở đây thế nhỉ?2 likes
-
TƯ LIỆU THAM KHẢO ========================== “Sợ nhất giàn khoan 981 lẳng lặng rút đi... rồi mọi chuyện chìm“ (Kienthuc.net.vn) - Nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc sợ nhất là giàn khoan Hải Dương 981 trái phép của Trung Quốc… lẳng lặng rút đi và mọi sự lại rơi trở lại trạng thái cũ. Sức nóng của giàn khoan Hải Dương 981, mà Trung Quốc ngang ngược hạ đặt trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử... chính là chủ đề Cafe đầu tuần của Kiến Thức với nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc. Một cơ hội để không còn phụ thuộc - Tâm tư của người VN đã ít nhiều xáo trộn kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Xin ông chia sẻ những tâm tư của mình với tư cách một tri thức, một công dân của VN? Nói rằng tâm tư người Việt “ít nhiều xáo trộn” vì vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc là nói quá nhẹ. Người Việt Nam nói “đất nước” để chỉ cái mà các dân tộc khác gọi là quốc gia. Một tấc đất, một tấc biển bị xâm phạm có thể khiến cả dân tộc này bừng bừng đứng dậy. Trải nghiệm bi tráng hàng nghìn đời cũng đã để lại trong óc và trong máu người Việt ý thức và tình cảm sâu sắc rằng nguy cơ lớn nhất, dai dẳng nhất, thậm chí mãi mãi không bao giờ dứt đối với chủ quyền của đất nước là đến từ phương bắc, từ bành trướng tham lam không đáy và không bao giờ dừng lại của tất cả các triều đại Trung Hoa. Nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc (Ảnh: ST) Chuyện Trung Quốc có những âm mưu xâm lấn biển đảo nước ta là chuyện không mới, tuy nhiên lần này có hai điểm nổi bật: Một: Trong âm mưu lấn chiếm lâu dài đó, đây là một bước chuyển có tính đột phá: Trung Quốc bộc lộ rõ mà không cần che giấu. Đây là lúc, đúng như thời Trần cách đây tám thế kỷ đối mặt với quân Nguyên từng dày đạp cả nửa thế giới văn minh, khi cần chúng ta sẽ cùng cất lên lời khẩn báo“sơn hà nguy biến!”. Hai: Nguy biến, hầu như bao giờ cũng vậy, như một quy luật kỳ lạ và tuyệt diệu của cuộc sống, lại mở ra thời cơ cho dân tộc Việt Nam. Thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc, một nước lớn ở ngay cạnh chúng ta mà lại không hề đàng hoàng luôn luôn muốn nhòm ngó đất đai của chúng ta. Hàng nghìn năm trước cha ông ta đã giữ trọn non sông đất nước bằng tư tưởng và hành động sống kiên định, thông minh và anh hùng ấy. - Hiểm nguy sống còn đồng thời lại là cơ hội lớn từng trằn trọc chờ đợi, ông có thể nói rõ hơn? Hiểm nguy chết người thì rõ rồi. Còn thời cơ ư? Số phận đã đặt đất nước ta đứng sát cạnh một đế quốc khổng lồ và là một đế quốc cực kỳ tham lam. Suốt lịch sử lâu dài từng là vậy, ngày nay càng là vậy: ráo riết hơn, hung hăng tàn bạo hơn, hấp tấp nôn nóng hơn. Cách đây hơn thế kỷ trên thế giới người ta đã từng nói đến cái gọi là “họa da vàng” (péril jaune). Không phải chuyện phân biệt chủng tộc đâu. “Da vàng” đây cụ thể là đế quốc Trung Hoa. Nhân loại văn minh đã từng lo lắng về hiểm họa ấy. Hãy tưởng tượng đến một ngày cái đế quốc đó - mà là người Việt, dân tộc dày dạn kinh nghiệm nhất với đối tượng quái đản này, chúng ta càng hiểu thấm thía hơn ai hết – đến một ngày cái đế quốc ấy sẽ làm chủ toàn thế giới! Vậy mà đó chính là ý đồ ngày càng không cần quá che giấu nửa của nó và không phải hoàn toàn không là khả năng hiện thực! Còn sống ngày nào, nhất thiết không được quên điều đó, viễn cảnh kinh hoàng đó. Tôi nghĩ đã đến lúc cần bình tĩnh và sáng suốt nhìn lại: con đường chúng ta đã bắt buộc phải chọn trong chiến tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, éo le một cách tất yếu, đã khiến ta xao lãng, đến ảo tưởng, về “người hàng xóm hữu nghị” nhưng lại là nguy cơ lâu dài không bao giờ hết đối với tồn vong của dân tộc. Cho đến sự kiện Hoàng Sa năm 1974, chiến tranh biên giới 1979, vụ Trường Sa 1988 và bây giờ là sự kiện giàn khoan Hải Dương 981… đã đủ để đánh thức chúng ta. Giàn khoan của TQ lại đánh thức lòng tự tôn của dân tộc Việt - Nhiều học giả và tri thức trong và ngoài nước thậm chí cho rằng, việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép lần này lại mang đến một cơ hội mới cho người Việt. Ông đánh giá ý nghĩa của “sự hỗn xược” đó thế nào, trong bối cảnh nhìn lại lịch sử về lòng tự tôn của người Việt? Theo tôi, chính họ đã “giúp” ta và là một cú giúp rất căn bản. Sự nôn nóng do tham vọng ngông cuồng đã khiến họ đi một nước cờ sai. Với vụ giàn khoan trái phép, nó đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay. Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng lần đầu tiên đã phải nói đến cái thứ “hữu nghị viễn vông” đó. Tất cả những điều đó, diễn ra từ khi có chuyện giàn khoan, do chuyện giàn khoan, theo tôi là khá ngoạn mục. Tôi nói thời cơ vì rõ ràng con đường đã rộng mở. Vấn đề bây giờ là có đủ can đảm dấn bước lên con đường mới đã mở, thoát ra khỏi sự phụ thuộc vào Trung Quốc, tự lập tự cường hay không? Theo NV Nguyên Ngọc, giàn khoan Hải Dương 981 đã dại dột đánh thức lòng tự tôn của người Việt. - Ông có dự kiến cụ thể gì về chuyện giàn khoan sắp tới? Nói thì có thể lạ: tôi sợ nhất là nó … lẳng lặng rút đi, và ở ta mọi sự lại rơi trở lại trạng thái cũ. Điều quan trọng nhất lúc này là nhận thức rõ đã diễn ra một bước ngoặt, sự thật đã được bày ra và quyết không quay lại tình trạng bí bức trước nay. - Làm sao để không quay lại? Cho tôi nói điều này: Thủ tướng đã nói một câu rất quan trọng: “Không đánh đổi chủ quyền vì một thứ hữu nghị viển vông và lệ thuộc”. Cho tôi được phép nói thêm: muốn không viển vông và không lệ thuộc nữa (cả hai từ này đều quan trọng) thì theo tôi, Việt Nam và Trung Quốc sống cạnh nhau - tốt nhất vẫn là bạn tốt láng giềng tốt nhưng phải trên cơ sở tôn trọng nhau và như chúng ta thấy rất rõ họ đâu có làm như thế! Kim Sen (thực hiện) ========================== Dương Trung Quốc: “Không mong Điện Biên Phủ trên biển, muốn hòa với Thiên hạ“ (Kienthuc.net.vn) - Chúng ta không mong có thêm một Điện Biên Phủ nào nữa, chỉ muốn hoà hợp với Thiên hạ, nhất là Trung Quốc. Nếu vì hoàn cảnh bắt buộc, chúng ta sẽ làm những gì như Cha Ông đã làm. Ông cũng nhấn mạnh: “Khi nào chúng ta đồng tâm nhất trí đoàn kết thì chúng ta sẽ giữ được nước và ngược lại, nếu chúng ta mất đoàn kết thì sẽ mất nước”. Nhà sử học Dương Trung Quốc. Trung Quốc đang thực hiện "ngoại giao pháo hạm" - Vụ việc Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương981 (HD981) trái phép trên vùng biển Việt Nam trong những ngày qua đang nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận trong nước và quốc tế. Trên phương diện của một người nghiên cứu lịch sử, ông đánh giá sự việc này như thế nào? NSH Dương Trung Quốc: Vụ việc phải được xem là nghiêm trọng vì tính trắng trợn của nó. Bằng cách hành xử này, Trung Quốc đã bất chấp mọi luật pháp quốc tế, mọi cam kết với các quốc gia trong khu vực có liên quan đến Biển Đông như ASEAN, trực tiếp là những cam kết với Việt Nam ở các cấp lãnh đạo cao nhất của hai đảng và hai nhà nước. Đánh mất lòng tin trong quan hệ quốc tế sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng. Hình ảnh một Trung Quốc trỗi dậy hoà bình nay đã thay bằng hình ảnh một quốc gia muốn thực hiên tham vọng bằng mọi cách. Một quốc gia vốn gắn với một nền văn minh lớn luôn nói đến việc đề cao tính quân tử và trọng chữ tín nay đã hành xử ngược lại với những giá trị ấy. Trong chính giới ASEAN đã có nhà lãnh đạo nhắc đến biểu hiện của “chính sách ngoại giao pháo hạm” trong sự kiện này. - Hiện, Trung Quốc ngày càng tỏ rõ thái độ hung hăng trên Biển Đông. Ngày 9/5, Trung Quốc đã sử dụng 79 tàu bảo vệ khu vực giàn khoan, trong đó có 3 tàu quân sự, 39 tàu chấp pháp, 14 tàu vận tải, 6 tàu dịch vụ dầu khí... Ngoài ra, TQ còn điều hàng chục tốp máy bay hoạt động trên khu vực. Ông đánh giá thế nào về hành động bành trướng của Bắc Kinh? NSH Dương Trung Quốc: Diễn biến trong tương lai chắc sẽ ngày càng phức tạp, vì Trung Quốc luôn muốn tỏ ra rằng mình là nước lớn. Với nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, với tiềm lực đầu tư mạnh cho quân sự chắc không đơn giản Trung Quốc sẽ xuống thang. Nhưng nếu tiếp tục hành xử như thế này, Trung Quốc tự đánh mất mình. Hành xử như đối với Việt Nam, Trung Quốc đã không thể hiện trách nhiệm đối với an ninh ở khu vực, không tuân thủ luật pháp và tập quán văn minh của thế giới hiện đại và hẳn sẽ không ít quốc gia tự đặt câu hỏi: sau Việt Nam sẽ đến nước nào. Rõ ràng trong vụ việc này không chỉ lợi ích của Việt Nam bị xâm hại. Và thế giới sẽ càng bất ổn hơn nếu cách hành xử của Trung Quốc không bị chặn lại. Lo lắng nhưng đoàn kết... sẽ chiến thắng - Lịch sử giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc VN đã chứng tỏ, chúng ta không đứng yên khi tổ quốc lâm nguy. Chúng ta vẫn thường nói về “lòng dân” trong những câu chuyện tương tự. Ông đủ thời gian để lắng nghe tiếng dân trong những ngày qua, ông thấy điều gì thực sự đang bức bách trong trái tim triệu người. Và theo ông, mỗi người VN cần làm gì ở lúc này? NSH Dương Trung Quốc: Đúng là nhìn vào hiện tại chúng ta rất lo lắng, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta sẽ an lòng vì hiểu rằng, một khi nền độc lập tự chủ của dân tộc bị đe doạ thì sự đoàn kết dân tộc và sức mạnh của nó sẽ tăng lên. Dân tộc ta đã từng phải đương đầu những thế lực hung hãn, đã từng đánh bại các triều đại và chiếm đóng Trung Hoa, cũng như nhiều đế quốc từ nhiều phương tới xâm lược mà chúng ta vẫn giữ vững được nền tự chủ cho tới ngày nay. Chúng ta cũng thấm thía những thời kỳ dân tộc bị rơi vào thảm cảnh mất nước, bị kẻ xâm lăng đô hộ. Cả hai trạng huống đó đòi hỏi chúng ta phải biết phát huy những bài học lịch sử mà điều sâu sắc nhất đã được đúc kết: khi nào chúng ta đồng tâm nhất trí đoàn kết thì chúng ta sẽ giữ được nước và ngược lại, nếu chúng ta mất đoàn kết thì sẽ mất nước. Đúng là trên bước đường phát triển, chuyển đổi và hội nhập đã có lúc chúng ta đau lòng thấy những rạn nứt, những tiêu cực và sự tha hoá. Nhưng những ngày vừa qua, khi đất nước lâm nguy, chúng ta đã thấy biểu hiện của sự đồng tâm hiệp lực, củng cố khối đoàn kết để cùng hành động một cách tỉnh táo mà điều quan trọng nhất như ông cha ta đã đúc kết từ thực tiễn của sự nghiệp giữ nước là: trên dưới phải đồng lòng vì nghĩa lớn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chắc chẳn sẽ lâu dài mà tất cả mới chỉ là bước đầu. - Nền kinh tế thị trường đã và đang chi phối vào rất nhiều mặt của đời sống người Việt. Theo quan sát của ông, điều đó có làm thay đổi “cục diện tình yêu” đối với dân tộc của người Việt như thế nào? NSH Dương Trung Quốc: Trả lời câu này xin mọi người hãy biết rằng “kinh tế thị trường” đâu phải là cái gì mới mẻ. Ngay trong thời nước ta còn là thuộc địa thì “cơ chế thị trường” đâu có hạn chế người Việt Nam giàu cũng như nghèo thể hiện lòng yêu nước của mình. Rõ ràng nhất là trong Cách mạng giải phóng dân tộc, ngay sau ngày độc lập, Chủ tịch hồ Chí Minh trong lời kêu gọi yêu nước đã nhắc đến mọi tầng lớp, thành phần xã hội đều có thể biểu thị lòng yêu nước phù hợp với hoàn cảnh của mình. Tuần Lễ Vàng là một ví dụ... Vấn đề là đừng để những truyền thống ấy bị thui chột vì những toan tính của một bộ phận bị tha hoá bởi những lợi ích ích kỷ, mà nay ta hay gọi là “lợi ích nhóm” mà thời nào cũng có thể có, không cứ chỉ có với “kinh tế thị trường”. - Vài ngày sau diễn biến trên Biển Đông, thị trường chứng khoán rớt thê thảm so với hơn chục năm qua. Ngay cả những công ty có chỉ số tài chính tốt cũng chứng kiến giá chứng khoán sặc màu đỏ chạm tới sàn. Diễn tiến đó cho thấy, chúng ta ít nhiều thiếu sự bình tĩnh, nhiều người đang bị “ảnh hưởng mạnh” từ sự việc này. Trong khi đó, trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta có thể nhận thấy, kinh tế là một mặt trận sinh tử. Ông có suy nghĩ gì về thực trạng này? Trung Quốc và Việt Nam đấu vòi rồng trên biển Đông ngày 12/5. Việt Nam giữ vững ý chí và đã bắt Trung Quốc khuất phục. (Ảnh Tuổi Trẻ) NSH Dương Trung Quốc: Đây là tình huống hình như chưa có tiền lệ trong lịch sử nước ta, vả lại “chứng khoán” là một lĩnh vực cần có một sự phân tích thấu đáo hơn, cũng đừng nên vội quy chụp. Chỉ có điều là vận mệnh quốc gia không chỉ bị đe doạ ngoài Biển Đông. Vì sức mạnh bền vững, quyết định chính là trong đất liền. Để kinh tế yếu kém, nhất là bị phụ thuộc vào nước ngoài là một mối nguy cơ tiềm tàng và đáng để chúng ta lo lắng. Cần sớm có sự điều chỉnh để bảo đảm sự an ninh về kinh tế quan trọng không kém an ninh về quân sự và chính trị. Chúng ta không mong có thêm một Điện Biên Phủ nào nữa - VN vừa tổ chức kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và chúng ta lại nhớ về những chiến thắng lẫy lừng trên đất liền một thuở. Chúng ta cũng từng có một Điện Biên Phủ trên không. Nhiều người đặt vấn đề về một chiến thắng Điện Biên Phủ trên biển, ông nghĩ thế nào về giả thuyết này? NSH Dương Trung Quốc: Ý chí Điện Biên Phủ không chỉ có trong chiến tranh mà cần có ngay cả trong xây dựng hoà bình. Tôi cho bài học lớn nhất của Điện Biên Phủ là ý chí tự chủ, tự quyết định vận mệnh của mình nhưng vẫn biết huy động những nguồn lực của thời đại, nói cách khác là sự ủng hộ của bè bạn trên thế giới khi mục tiêu của chúng ta là chính nghĩa, hợp với lẽ phải. Và nói cho cùng thì mọi cuộc chiến tranh mà chúng ta đã trải qua chỉ nhằm hướng tới mục tiêu chúng ta mong ước, dám đánh đổi bằng máu là được hoà bình trong độc lập và toàn vẹn lãnh thổ để hoà hiếu với mọi quốc gia. Nói đến Điện Biên Phủ (1954) đừng quên những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam độc lập đã làm hết sức mình để vận động hòa bình, tránh đổ máu (1945-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tới hơn 4 tháng sang Pháp để vận động hoà bình và khi buộc phải cầm súng, ta đều nhớ tới câu mở đầu của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (20-12-1946): “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng...”. Chắc chắn hơn ai hết chúng ta không mong có thêm một Điện Biên Phủ nào nữa trong trận chiến dù trên biển hay trên cạn. Giống như Tổ tiên, chúng ta luôn mong hoà hợp với Thiên hạ nói chung, nhất là với Trung Quốc “núi liền núi, sông liền sông, biển liền biển”. Nhưng nếu vì hoàn cảnh bắt buộc, chúng ta cũng sẽ làm những gì như Cha Ông ta đã làm. Hiện, có rất nhiều đoàn thể, cá nhân đã lên tiếng về vấn đề Biển Đông. Nhưng theo ông, điều chúng ta đang cần nhất là gì? NSH Dương Trung Quốc: Cần nhất là đoàn kết nhất trí. Vẫn là bài học của lịch sử cần được nhắc lại: Khi nào chúng ta đoàn kết chúng ta giữ được nước, khi nào chúng ta mất đoàn kết, chúng ta sẽ mất nước. Đương nhiên đoàn kết không chỉ là lời nói mà phải là hành động, nhân dân sẽ là nguồn lực mạnh mẽ nhất, nhưng sự gương mẫu và tài năng của những người lãnh đạo là quyết định, là lực lượng chịu trách nhiệm trứơc lịch sử. Xin ông chia sẻ thêm những quan điểm của mình về sự kiện thời sự đặc biệt này! NSH Dương Trung Quốc: Nếu dám nhìn thẳng vào hiện tại thì đáng lo lắng, nhưng nếu biết nhìn vào lịch sử thì chúng ta tin tưởng... Xin cảm ơn NSH Dương Trung Quốc! Kim Sen (thực hiện) ================ Lão Gàn luôn lấy cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử làm chuẩn mực để xem xét tất cả mọi thứ tư duy, cảm xúc của mọi sự kiện và vấn đề. Kể cả những gì đang xảy ra và mô tả trong topic này. Không thể có một tư duy đúng mực khi không đặt vấn đề cội nguồn dân tộc. Bởi vì, gía trị cốt lõi và làm nên sức mạnh của một dân tộc chính là dân tộc đó phải hiểu rõ cội nguồn văn hóa, lịch sử của mình. Lão Gàn không chỉ trích ai sai. Nhưng rất cần một tư duy hoàn chỉnh.2 likes
-
Thưa quí vị. Người viết hân hạnh giới thiệu một phần trong đoạn kết của cuốn sách: ========== CHƯƠNG IV. THAY LỜI KẾT PHẦN III. Sự phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - một lý thuyết bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực, từ lịch sử vũ trụ ngay từ giai đoạn khởi nguyên, đến tất cả mọi lĩnh vực của thiên nhiên, cuộc sống và con người - chính là một món quà của nền văn hiến Việt chia sẻ với những giá trị tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng sự phục hồi học thuyết này hoàn toàn không đơn giản. Người viết lặp lại nhận xét của Giáo sư Lê Văn Sửu - một học giả có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương - đã nhận xét trong tác phẩm "Nguyên lý thời sinh học cổ Đông phương" của ông, như sau: Gần đây có rất nhiều nhà khoa học ở đủ mọi ngành và ở nhiều nơi trên thế giới, với các phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác trong tay. Họ đã và đang nghiên cứu nền tảng của những di sản văn minh Đông phương này. Thế nhưng sự tiếp cận thực chất của nó còn đang là một khó khăn to lớn. Nhưng những "phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác" lại không phải là phương pháp đúng để phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vì, mặc dù những phương tiện đó hoàn toàn có đầy đủ khả năng tìm hiểu bản chất của những dạng tồn tại của vật chất. Nó cũng có thể là công cụ để thẩm định một lý thuyết mô tả một thực tại có thể kiểm chứng một hiện tượng được mô tả trong lý thuyết đó. Như trường hợp về sự tương tác của khối lượng với ánh sáng trong thuyết Tương đối của Einstein, khi những phương tiện kỹ thuật hiện đại xác định: ánh sáng bị biến dạng cong khi vượt qua một tinh cầu. Nhưng những phương tiện kỹ thuật hiện đại - mà thực chất là một phương pháp hỗ trợ nhận thức trực quan đó - lại không phải công cụ để thẩm định cả một hệ thống lý thuyết mô tả bản chất của những quy luật tương tác trong vũ trụ. Để thẩm định một hệ thống lý thuyết cần một sự đặc thù trong phương pháp. Vì chính sự phục hồi một lý thuyết đã có sẵn, tự nó đã là một trường hợp đặc thù trong lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - trong giới hạn thời gian lịch sử hạn chế từ 10. 000 năm trở lại đây. Chính tính đặc thù đó của sự phục hồi một hệ thống lý thuyết. Cho nên một yếu tố cần, là phải lấy chuẩn mực thẩm định là tiêu chí khoa học cho một hệ thống lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Người viết với sự cố gắng trong một khả năng hạn chế, đã chứng tỏ với bạn đọc sự hoàn chỉnh, tính hệ thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành, như là một sự khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý, chủ nhân đích thực của những tri thức thuộc văn minh Đông phương, trong cuộc hội nhập toàn cầu. Sự phát triển của nền văn minh hiện đại mà nền tảng chính là những tri thức khoa học hiện đại đã bế tắc. Những nhà khoa học hàng đầu như SW Hawking đã phải thốt lên: "Hai trăm năm nữa, con người phải đi tìm hành tinh khác để ở".2 likes
-
Thưa quí vị. Dưới đây là toàn văn bài viết của tiến sĩ Nguyễn Đồng ở Califonia nhận xét về cuốn: "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương". Tác giả đã đề nghị công khai đưa vào tác phẩm bài bài viết của tiến sĩ Nguyễn Đồng. Hân hạnh giới thiệu với quí vị và anh chị em. ==================== NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ TÁC PHẨM “MINH TRIỂT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG” CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN VŨ TUẤN ANH. TS NGUYỄN ĐỒNG. Thật là hân hạnh được lưa chọn để duyệt bản thảo tác phẩm “MINH TRIỂT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG (MTVTVMĐP)” của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh (NVTA). Niềm vinh dự này càng lúc càng tăng trưởng khi chúng tôi tiếp tục đọc và suy ngẫm những tài liệu căn bản giới thiệu trong tác phẩm. Chúng tôi đã đọc đi đọc lại bản thảo ba bốn lần để thấm nhuần dòng tư tưởng của tóc giả trước khi viết vài dòng nhận xét này. Tác phẩm MTVTVMĐP đòi hỏi người đọc có một số kiến thức căn bản về Dịch, từ đó quyển sách đã dẫn chúng tôi từng bước đến những chân trời mới lạ có sức thu hút rất kỳ diệu. Chúng tôi duyệt tác phẩm MTVTVMĐP qua lăng kính một nhà khoa học, Cái nhìn của chúng tôi sẽ bi giới hạn bởi các phạm trù khoa học này. Tuy nhiên, hy vọng là những điều chúng tôi đề nghị có thể tăng sức thuyết phục khi tác phẩm này được đưa ra bàn cãi trước các diễn đàn quốc tế. Không sớm thì muộn tác phẩm này cũng sẽ gây nhiều tranh cãi và phải đối đẩu với các lý luận khen chê không nhân nhượng của các trường phái quốc tế, nhất là khi một quốc gia vì lý do nào đó cảm thấy căn bản nền văn hiến của họ bị đe doạ. Cách bố cục quyển sách rất độc đáo. Tác giả cho biết kết luận tổng quát ngay từ phần dẫn nhập, rồi sau đó qua bốn phần chính, tác giả đưa ra thứ lớp các bằng chứng biện minh cho mô hình từ căn bản khai sinh ra vũ trụ cho đến sự biến hoá tiếp diễn từ giản đơn đến phức tạp qua tổng hợp Dịch với Âm Dương Hà Đồ. Người đọc có cảm giác như đang phiêu lưu đi tìm một kho tàng cổ vô giá đã bị vùi lấp dưới lau sậy của hàng ngàn năm vô tri thức. Giá trị của kho tàng không phải để tôn vinh một niềm kiêu hãnh dân tộc xuông, mà còn có tiềm năng cống hiến những giải pháp quý giá cho các bế tắc khoa học hiện đại. Với những thành công vượt bực trong các khoa học chuyên ngành, khoa học hiện đại vẫn lúng túng khi đi tìm sự thống nhất giữa khoa học vi mô và khoa học vỹ mô, điển hình là sự thiếu dung hoà giữa lý học lượng tử (quantum mechanics) và lý học tương đối (relativity physics). Trong khi đó lý học Dich Âm Dương Đông Phương đã có tham vọng lý giải tổng quát những tương tác phức tạp giữa các yếu tố thiên nhiên, từ hạt lượng tử đến các giải ngân hà, và con người với vũ trụ. Thật là khó hiểu khi thấy kho tàng tri thức vĩ đại này vẫn tồn tại như một huyền bí với tiến bộ loài người hàng nghìn năm nay, mặc dầu tiềm năng áp dụng không chỉ giới hạn trong khoa học thuần tuý, mà còn lan đến khoa học nhân văn (xã hội học, tâm lý học, triết học…) và cả những ngành liên quan đến nhân sinh như nghệ thuật hay tâm linh học. Cảm nhận điều này còn dẫn đến một nghi vấn lớn cho khoa học hiện nay: Động lực nào đã thúc đẩy loài người trong giai đoạn bị coi là bán khai từ năm sáu nghìn năm trước đi tìm và giải quyết những vấn đề mà nhân loại hiện nay mới bắt đầu phải đối đầu? Đây cũng là điểm đánh giá cao nhất của tác phẩm MTVTVMĐP vì đã góp phần rất lớn vào việc gây dựng phong trào “duy tân” cho nền văn minh cổ kính vĩ đại này. Xây dựng trên nền tảng một tri thức khách quan và nhất quán về nguồn gốc vũ trụ tiền không gian, tiền thời gian và vô số lượng, nền văn minh này có thể còn trổi vượt trên nền văn minh hiện đại về một số phương diện. Hiện nay khoa học hiện đại vẫn còn tranh cãi sự hiện diện một quyền uy tối cao có quyền thưởng phạt vào thời điểm O, thì tri thức tối cổ này đã minh triết một quy luật khách quan, nhất quán và phổ quát về vận hành của vũ trụ. Hơn thế, tri thức này còn có thể hàm ẩn một giải pháp phổ quát cho những học giả muốn áp dụng những quy luật khách quan này vào việc giải quyết những bế tắc lớn ngày nay của nhân loại. Đe doạ cho sự sống còn của nhân loại ngay trước mắt phải kể hiểm hoạ ô nhiễm môi trường và mất thăng bằng phân bố của cải trong xã hội. Nhà bác học Stephen W. Hawking đã tiên đoán là với trình độ khoa học hiện tại, nhân loại không thể giải quyết kịp những hậu quả do chính khoa học gây ra. Chìa khoá để mở kho tàng này, lạ thay đã luôn luôn hiện diên trong nền văn minh Đông Nam Á, chỉ bị che phủ bởi một bức màn u minh nhân tạo. Công trình đặc sắc của tác giả NVTA là chứng minh một cách hệ thống rằng bức màn vô minh này có thể bị soi thủng bởi minh triết văn chương bình dân truyền khẩu tại Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Qua những lý luận đầy sáng tạo, tác giả NVTA đã nhiệt thành chứng minh và kết luận rằng Lý Học Dịch Âm Dương phải có nguồn cội chính từ Việt Nam. Tác giả NVTA cũng ứng dụng hết sức sắc sảo tinh tuý văn hoá dân gian Việt Nam vào việc thanh lọc những bế tắc phi lý của logic Lý học Dich Âm Dương tồn tại những thư tịch bác học cổ. Sau khi đọc hết phần I, II, và III, câu hỏi hiển nhiên là tại sao vấn đề rõ ràng là sai như thế mà không học giả Hoa Hạ nào tìm hiểu để giải quyết trong suốt mấy ngàn năm? Không những ở Hoa Hạ, mà cả ở Việt Nam biết bao nhân tài kiệt xuất trong nền văn minh bác học cũng đã bất lực khi tình hiểu căn bản Lý Học Dich Âm Dương qua kiến thức chắp nối từ thư tịch cổ. Vấn nạn như thế để hiểu phần nào trí tuệ vĩ đại của tiền nhân. Hầu như biết trước được sự suy tàn của nền văn minh Lý Học Dich Âm Dương, các ngài đã để lại di chúc cho đời sau bằng nhứng ẩn dụ truyền khẩu như ca dao, tục ngữ, truyện kể, những tranh dân gian mộc mạc mầu sắc, những món ăn thiêng liêng hương vị, những trò chơi hồn nhiên cho trẻ em, những phong tục tập quán lễ nghĩa, v..v… để đợi ngày tinh tuý được phục hưng. Tuổi thơ của chúng ta có lẽ đã trải qua bao lần bâng quơ tự hỏi tại sao lại có những dấu hiệu huyền bí trong tranh dân gian, câu cú đầy ẩn ý trong Lĩnh Nam Trích Quái, hay đời cô Tấm tại sao lại phong ba đến thế so với cô gái Lọ Lem? Tác phẩm MTVTVMĐP giúp chúng ta hiểu rằng cái tinh tuý của Lý Học tiền nhân đã cẩn thận gói ghém để trao truyền. Điều kiện lưa chọn truyền nhân đích thực lại đơn giản đến tuyệt vời. Chỉ có những học giả có lòng trân trọng văn hoá thuần tuý dân dã Việt- một văn hoá bát ngát với câu Kiều bờ tre, mái dạ (thơ Chế Lan Viên)- mới có thể có được cái trực giác thẳng vào trọng tâm của lý học Dịch Âm Dương để tìm ra nhứng tương tác căn bản. Tiền nhân đã bỏ qua những tiêu chuẩn hạn hẹp như chủng tộc, mầu da, tôn giáo, hay giai cấp xã hội trong việc lựa chọn truyền nhân. Các ngài hiểu rằng qua bao thăng trầm của lịch sử, những yếu tố đó đều là phụ và khó bền vững. Tương tự như xây dựng một Kim Tự Tháp với chân đứng vững chãi bên Ai Cập, tinh tuý của một nền triết học huyền vỹ được bồi đắp trong tâm khảm người Việt bắng những ứng dụng nhuần nhuyễn phổ biến xâu rộng trong quần chúng nông thôn và hạ tầng cơ sở. Bài học này khiến chúng ta càng phải trân trọng giữ gìn những truyền thống xưa, vì biết đâu chúng còn chứa đựng những tinh hoa để lại mà chúng ta chưa tìm hiểu hết. Tác phẩm MTVTVMĐP kết thúc bằng câu truyện ngụ ngôn Trê Cóc đầy ý nghĩa. Cóc là linh vật của văn minh Văn Lang, thường hay thấy trên đỉnh các trống đồng. Cóc được tôn vinh là cậu ông Trời hay cội nguồn vũ trụ trong văn chương truyền khẩu. Cóc sinh ra nòng nọc: Danh từ Nòng (tròn rỗng) và Nọc (sẵc nhọn như cọc) là tượng hình nôm na nhất của yếu tố âm dương. Vũ trụ vận hành dẫn đến âm dương tương tác. Trong truyện, cá trê đầy tham vọng hão huyền như Lý Ngư Vọng Nguyệt tượng trưng cho văn hóa Hoa Hạ, nhận lầm nòng nọc làm con. Cá trê mang nòng nọc về nuôi, hay mang Lý Học Dich Âm Dương về nhận làm văn hoá riêng, vì thế sau bao năm cọc cạch vẫn không hiểu được tinh tuý. Nòng Nọc đến ngày khôn lớn, mọc hai chân, lại trở về với Cóc là cha đẻ đích thực, tượng trưng cho sự phục hồi nền văn minh Văn Lang. Ẩn dụ tuyệt vời này đã được truyền khấu bao đời, đến bây giờ ta mới thấm thía chiều sâu của nó. Tác giả NVTA đã dùng một số lớn tài liệu thư tịch cổ Trung Hoa để minh chứng cho lý luận của mình. Nội dung phần lớn của Lý Học Dịch Âm Dương, nhất là các kiên thức áp dụng đều được ghi chép kỹ lương trong những thư tịch cổ xưa này. Ngày nay, nếu còn có thể phục hưng lại Lý Học Dịch Âm Dương, cũng phải dựa trên những tài liệu sách vở còn lưu truyền lại. Truyền thống bảo tồn các tư liệu văn hoá từ ngàn xưa của người Hoa Hạ rất là uyên bác. Mặc dầu không nắm được phần tinh tuý của lý thuyết, người Hoa Hạ cũng cảm nhận được giá trị vĩ đại của Lý Học Dich Âm Dương nên họ đã gia công gìn giữ. Khi thôn tính Văn Lang, họ đã không thô bạo như Mã Viện sau này, mang hết những trống đồng chiếm được ra đun chảy để đúc đồng trụ Giao Chỉ. Như thế, người Hoa Hạ có thể không có công sinh nhưng chắc chắn đóng góp lớn lao vào công dưỡng Lý Học Dịch Âm Dương. Lý Học Dịch Âm Dương là tài sản tinh thần cao quý chung của cả nhân loại. Trên con đường phục hưng giá trị cao quý này, chúng ta phải công tâm thừa nhận tất cả mọi đóng góp trong hằng ngàn năm qua. Một điều quan trọng là cờ quẻ LY của Đại Hàn cũng không có thiếu Âm thiếu Dương. Chúng ta cần tìm hiểu văn hoá bình dân của nước này để tìm thêm những tư liệu mới. Có thể Đại Hàn cũng góp phần vào việc phục hồi tinh tuý của Lý Học Dịch Âm Dương. Người Lạc Việt biết đâu cũng thừa hưởng Lý Học Dich Âm Dương từ một cội nguồn trước đó và cũng không phải là chủ nhân ông. Vinh dự là truyền nhân đích thực của hệ thống tư tưởng này trong một giai đoạn lịch sử nào đó đã là quá lớn. Giới nghiên cứu Dịch hiện đại phải chuẩn bị hết sức chu đáo về mặt logic để công bố giả thuyết này, nếu không có thể bị xuống cấp trên diễn đàn quốc tế. Trong thời gian hiện nay, nếu có thể được nên tránh những kết luận có tính cách đoan chắc. Tất cả những suy diễn từ một chứng cớ nào đó nên để dưới dạng giả thuyết. Trong tác phẩm MTVTVMĐP, kết luận Lạc Việt là chủ nhân ông đích thực của Lý Học Dịch Âm Dương được lập đi lập lại rất nhiều lần. Chúng tôi đề nghị nên thu tóm những kết luận này trong vài chương chính, còn để chỗ cho phần suy diễn. Kết luận này cũng nên coi là giả thuyết chứ chưa phải là sự thật hiển nhiên đã được chứng minh. Phần miêu tả về phương pháp suy diễn dựa trên các tiêu chuẩn khoa học hiện đại, cũng được lập lại quá nhiều lần. Nếu có thể được, mong tác giả NVTA tạo một chương hay một mục về phương pháp luận chung. Khi cần thì trích ra là đủ, không cần phải lập lại. Một khái niệm so sánh trong phần II chương V về Thái Cực với Kiến Tánh có thể gây tranh cãi không cần thiết. Thái Cực là thực thể vật chất mặc đầu không chi phối bởi không gian, thời gian hay số lượng của bất cứ hê thống vật lý nào của khoa học hiện đại. Sau thời điểm O, Thái Cực bất chợt biến hoá nhường chỗ cho Lưỡng Nghi. Kiến tánh là một hiện tương tâm thức thường hằng tồn tại với Thái Cực và bất cứ biến hoá nào sau đó của Thái Cực. Đối với Kiến Tánh, hiện tượng Thái Cực biến thành Lưỡng Nghi cũng chỉ là Không (Không đây có nghĩa là không thường hằng chứ không phải là không có hiện hữu). Mặc dầu hai khái niệm đều không bị chi phối bởi không thời gian và số lượng, nhưng theo thiển ý người đọc, chúng hỗ trợ cho nhau nhưng không tương tự. Hình như trong phần ba, tác phẩm có chương đề cập đến nền văn minh Atlantic và phân loại thời đại số V cho văn minh Văn Lang. Theo thiển ý chúng tôi, những suy diễn này quá xa với những tài liệu nêu ra, và không làm sáng tỏ thêm chủ đề. Nếu có thể được, xin tác giả gác lại những chi tiết này để dùng cho một tác phẩm khác. Cũng xin tác giả cho một chương về phần định nghĩa các từ quan trọng dùng trong sách chẳng hạn như: tiêu chí, minh triết, căn để, mệnh đề , định đề, v…v… để người đọc không hiểu lầm. TS Nguyễn Đồng, 22 Tháng Năm, Năm 2014 Orange, California2 likes
-
Tiếng Việt
thanhdc liked a post in a topic by Lãn Miên
Yểu Điệu Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng, Viện ngôn ngữ XB 1991 không có giải thích mà chỉ cho từ ví dụ: Yểu (trang 492), vd Yểu Điệu; Điệu (trang 128), vd Yểu Điệu. Dù Từ điển liệt chúng là những “tố gốc Hán”, nhưng lại không nêu được nguồn gốc của chúng mà chỉ nêu có một ứng dụng của chúng là: “(người con gái) thùy mị xinh xắn” (!). Đây chỉ là một ứng dụng cái chuyển ngữ của từ Yểu Điệu thôi ạ. Yểu và Điệu là từ gốc Việt (Hán ngữ hiện đại, như chú giải của thời nhà Thanh, gọi chúng là “cổ văn”). Yểu Điệu là từ đôi, do “Đẹp Yểu”= Điệu. Yểu có nghĩa đen là kín đáo. Kín đáo và đẹp cách kín đáo thì gọi là Yểu Điệu. “Điệu cái Dáng”= =Đàng, nên còn có từ đôi Điệu Đàng. Yểu Điệu mà dùng cho con gái thì cái kín đáo tương đương từ Thùy Mị, cái đẹp tương đương từ Xinh Xắn, nên Từ điển giải thích đúng cái ứng dụng của từ Yểu Điệu là “thùy mị và xinh xắn (của người con gá)i”. Cả hai chữ Yểu Điệu 窈 窕 đều có biểu ý bằng bộ Huyệt 穴 (Huyệt là cái “Hố sâu Tuyệt”= Huyệt 穴, biểu ý kín đáo, sâu xa). Yểu mang nghĩa kín đáo bởi gốc của nó do từ Ủ của nôi khái niệm: Ủ = U 幽 = Ẩn 隐 = “Làm Ẩn” = Lẩn = Nẩn = Náu = Đáo = Dấu = Dấm = Diếm = Yểm 掩 = Yểu 窈 (nói chung là đưa sâu vào trong tối, là Ủ = U 幽 = In = Kín = Câm = Âm 阴 = Ám 暗 = U 幽 = = Tù 囚 = Mù = “Mù Tối” = Muội 昧; các từ đôi Kín Đáo, Dấu Diếm, Ám 暗 Muội 昧; từ chuyển nghĩa Dấm là “Dấu kín và ủ Ấm” = Dấm, là Dấm trái cây xanh cho nó mau chín, thường bọc kín có kèm gói vôi cục hay đất đèn để tạo nhiệt). TVGT: ”Yểu Điệu là phương ngôn (tức là từ của tiếng địa phương, chứ không phải của Hán). 方 phương 言 ngôn 。美 mĩ 狀 trạng 爲 vi 窕 Điệu (đẹp trạng là Điệu – cái đẹp kín đáo)。美 mĩ 心 tâm 爲 vi 窈 Yểu (đẹp lõi là Yểu – sự kín đáo)”. Từ ngữ dân gian sinh ra từ ngữ hàn lâm, đó là logic phát triển của ngôn ngữ. Những từ có viết bằng chữ nho (gọi là từ hàn lâm của tiếng Việt) đều có xuất xứ do những từ dân gian của tiếng Việt (mà trước thời Tần Hán, cũng gọi là thời tiên Tần, đã từng được ký âm bằng chữ Việt cổ, còn gọi là chữ Nòng Nọc hay chữ Khoa Đẩu). Người nguyên thủy đã học tập bản năng của loài vật để chế tạo ra nhiều thứ cho chính mình, kể cả ngôn từ. Ví dụ từ Ủ và từ Ấp là để chỉ cái việc con chim nó phải làm đối với những cái trứng mà nó đã đẻ ra trong Ổ = Tổ của nó, để cho đủ ngày thì trứng nở ra chim con; Ủ = Ấp , hay dùng từ đôi Ấp Ủ là việc cụ thể của con chim đối với trứng của nó (nhưng “con người Ấp Ủ ước mơ” thì đã thành từ trừu tượng của văn học). Những từ chỉ bản năng cụ thể của động vật đã sinh ra những từ chỉ những thứ cụ thể của con người, mà có nhiều từ được viết bằng chữ nho, nên dần dần chuyển nghĩa thành từ hàn lâm thâm thúy , được cho là cao sang: Ủ = = Vu 於 = U 幽 = Ư 於 = Ổ = Tổ 祖 = Ô 烏 = Ấp 邑 = “Làm Ấp” = Lấp = Nấp = Nắp = Nốc = Ốc 屋 = Ở = Sở 處 = ”Xóm Ở” = Xở = Xứ = Trữ 貯 = Tự 字 = Chữ = Chỗ = Chứa. Cái nôi khái niệm này là do hai lúa căn cứ vào QT Tơi-Rỡi của Lãn Miên nêu mà xếp ra, thứ tự sắp xếp không mang nghĩa từ có trước có sau, chỉ biết rằng từ dân gian là có trước từ hàn lâm, vì logic nó là thế. Không có chuyện như Từ điển Yếu tố của Viện ngôn ngữ giải thích “người Việt tiếp thu Hán tự rồi Việt hóa nó đi, đến mức thành ra từ Việt hoàn toàn” (!). Giải thích như vậy mà cũng nghe được, chẳng hóa ra con người ta biết chữ trước rồi mới biết nói? Đứa trẻ con ở vùng sâu vùng xa, chữ nho thì một chữ Nhất ( 一 ) bẻ đôi nó cũng không biết, kể cả chữ quốc ngữ ngày nay thì cả bản nó cũng mù chữ luôn, mà nó vẫn biết kể chuyện vanh vách bằng tiếng Việt với câu cú đàng hoàng bao gồm nhiều từ dân gian và nhiều từ hàn lâm, chẳng lẽ năm ngàn năm trước Viện ngôn ngữ đã phổ cập “Việt hóa từ Hán - Việt” đến tận mọi bản toọc hay mọi hóc bò tó trong cả nước? Nôi khái niệm trên về nghĩa đen ban đầu chỉ là để chỉ cái bản năng con chim ấp ủ cái ổ trứng của nó cho nở thành chim con. Thân mình với hai cánh rộng của chim mẹ nó thu gọn lại như cái “Mái Hiên” = Miên để che ủ kín ổ trứng, tạo nên sự tối đen kín đáo cho toàn bộ các trứng trong ổ, vì nếu lỡ có trứng nào bị “Ủ Vụng” = Ung, sẽ không nở được thành con, mà bị chết ngay trong vỏ trứng, gọi là cái trứng ung. Những từ có viết bằng chữ nho đều là do Ủ = Ở (= Yên = An) đã chuyển nghĩa: Ủ = U 幽 (U 幽 chuyển nghĩa thành sâu tối, còn ghép thành từ đôi U 幽 Huyền 玄, do Mun = Mèn = Đen= = Hoẻn = ”Hoẻn Tuyền” = Huyền 玄). Ủ = “Ủ Chứ!” = Ư 於 (Ư 於 chuyển nghĩa thành ở), Ủ = = Vu 於 (Vu 於 chuyển nghĩa thành ở). Ổ = Tổ (Tổ 組 là cái Tổ 組 do chim tự đan bằng sợi rác, Tổ Chim chuyển nghĩa thành Tổ Chức 組 織 là ý sắp xếp mạng lưới mọi sợi của một cái ổ mà mỗi sợi có một vị trí chức năng bổn phận của nó, Tổ 祖 chuyển nghĩa thành Tổ Quốc 祖 國 là Tổ của Nước ( "Của Nước" = Quốc, Gia Quốc là cái nhà của Nước tức cái phủ của Nước, gọi là chính phủ, cổ văn viết "Trung Quốc 中 國" phải hiểu là "Trong của Nước",chứ thời đó chưa có tên gọi nước TQ như ngày nay, mà chỉ có tên gọi nước Đại Tống,nước Đại Minh hay nước Đại Việt), thành ngữ “con chim có Tổ, con người có Tông”, cho nên muốn dạy con lớn lên biết yêu Tổ Quốc thì khi nó còn bé hãy dạy nó biết yêu tổ cò, như bà nó vừa bồng nó ra sân vừa chỉ cho nó thấy mà dạy rằng: “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai”, tức phải biết tôn trọng giá trị riêng dù nhỏ của mỗi vật trong vạn vật kể cả cái tư duy riêng, quan điểm riêng của mỗi con người. Cách bà dạy cháu kiểu như câu đồng dao ấy thì Viện nghiên cứu máy lạnh gọi là “giáo cụ trực quan”. Ổ = Ô 烏 (Ô 烏 chuyển nghĩa thành thiếu ánh sáng, thành màu đen, ngựa đen gọi là ngựa ô, vết đen bẩn nhiều gọi là vết “Ô Ô”= Ố, 0+0=1, nhấn mạnh “Ố Chớ!”= Ơ = Dơ = Nhơ = Nhớp, từ đôi Nhơ Nhớp lại chuyển nghĩa tiếp thành từ trừu tượng của văn học chỉ sự xấu xa). Cái Tổ là để chim nó Ấp trứng, lô trứng trong ổ là một “Tổ Ấp” = Tập là một tập thể. Ấp 邑 chuyển nghĩa thành chỗ ở của một tập thể cộng đồng, gọi là Ấp 邑, đại diện cho một xóm. Con chim Ấp trứng là nó đang “Làm việc Ấp” = Lấp, là dùng mình nó che lấp ủ kín cho trứng khỏi bị rọi sáng, các trứng Nấp dưới bụng nó, nó như là cái Nắp che. Thuyền có mui che mà dân sông nước vẫn dùng chui ở trong đó gọi là cái Nốc (tiếng Nghệ An), tiếng Nhật gọi là cái Nô-ê. Ổ cho người ngụ chính là cái buồng, cũng gọi là cái Ốc 屋, như cái vỏ Ốc là nhà của con ốc trú ngụ, chữ Ốc 屋 này người Việt Nam và người Việt Đông (Quảng Đông) đều đọc là Ốc 屋, Hán ngữ hiện đại là đọc là “Vu” (屋), như chữ Vu 於 là Ở. Ổ là cái Chỗ, là chỗ ở , là cái "Sẵn để mà Ở"= sỞ nên mới gọi là Sở 處, là chỗ chứa, là nơi bỏ vào "Trong để mà Giữ" = Trữ nên mới gọi là Trữ 貯, chữ Trữ 貯 chuyển nghĩa thành chứa đồ có giá trị có thể qui thành tiền nên chữ Trữ 貯 viết biểu ý bằng bộ thủ Bối 貝 (là tiền bằng vỏ sò) với chữ Ninh 宁 là nằm yên như trứng nằm trong ổ, đây là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, chẳng mượn âm của chữ nào mà lại đọc là Trữ, bởi nó có gốc là Ủ, nhấn mạnh “Ủ Chứ!” = Ư = Trữ. Cũng như chữ Ninh 宁 (寧)là chữ nho Việt hoàn toàn biểu ý, chẳng mượn âm chữ “inh” nào mà lại đọc là Ninh, nghĩa thì là nằm yên, bởi nó như cái trứng được ấp là cái trứng đang “Náu Mình” = Ninh 寧 dưới cánh của chim mẹ như cái “Mái Hiên” = Miên 宀 che cho “Đứa con của Mình” = Đinh 丁 được yên Tâm 心 mà nằm trong Bồn 盆 (tức cái Ổ = Bồ = “Bồ Tồn” = Bồn, đều là những thứ để đựng dự trữ bảo tồn). Chữ nho Tự 字 cũng vậy, là biểu ý của cái ổ chứa trứng, gồm cái “Mái Hiên” = Miên 宀 che cho Con 子 ở dưới bụng chim mẹ. Con = Kô (tiếng Nhật) = Cò (tiếng Thái) = Cu (tiếng Thanh Hóa) = Tu (tiếng Tày và tiếng Quảng Đông) = Tủa (tiếng Hmông) = Tử 子 (chữ nho), từ biểu ý là "chứa con" đã chuyển nghĩa thành nhấn mạnh từ Chứa là “Chứa Chứ!” = Chữ = Tự 字 là sự "chứa thông tin" (thông tin ở đây là cái ý nghĩa của một Từ, dùng để giao tiếp, đọc được qua ký hiệu của nhiều nét ghi). Trứng chim trong ổ mà nở ra thì thành chim con, biết kêu. Ngôn ngữ thì Ổ chính là cái lõi của NÔI khái niệm, có một bên là N (Negative – tức Âm) và bên kia là I (Innegative – tức Dương), cho nên đúng logic là Nôi = Nở = Nói, bởi vậy mới gọi là nôi khái niệm, cũng là cái Nôi để ru con cho nó nghe mà tập biết nói. Chỉ có tiếng Việt mới có cái Nôi để đặt con nằm, các ngôn ngữ khác có từ tương ứng chắc cũng chỉ là như Hán ngữ gọi cái Nôi là cái “Làn Lắc”, thậm chí từ văn học thì “quê hương cách mạng” gọi là “cái Nôi cách mạng”, Hán ngữ gọi quê hương cách mạng là "cái Làn Lắc cách mạng". Vậy mà người ta thì lại cứ sính gọi “từ Hán Việt”.1 like -
"Trung Quốc cấm đấu thầu tại Việt Nam, gây áp lực kinh tế" Hồng Thủy 09/06/14 09:31 Thảo luận (0) (GDVN) - Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang sử dụng thủ đoạn kinh tế. Nhưng hiệu quả của nó sẽ ra sao thì còn phải chờ. Hình minh họa. Bưu điện Hoa Nam ngày 9/6 đưa tin, chính phủ Trung Quốc đã cấm các doanh nghiệp nhà nước tham gia đấu thầu các hợp đồng mới tại Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng giữa 2 nước tăng cao (kể từ khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, gây hấn với lực lượng chức năng và đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam - PV). Một quan chức doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc yêu cầu giấu tên nói với Bưu điện Hoa Nam, các doanh nghiệp nhà nước đã được Bộ Thương mại Trung Quốc thông báo về việc này. 3 nhà thầu Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam cũng đã được thông báo. Theo một nhân viên làm việc tại bộ phận cấp phép của Bộ Thương mại Trung Quốc, việc đình chỉ hoạt động đấu thầu là có thật và cho biết thêm, không biết lệnh cấm này sẽ kéo dài bao lâu. Hứa Lợi Bình, một chuyên gia về quan hệ Trung Quốc - Đông Nam Á từ viện Chiến lược quốc tế thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng Bắc Kinh đang cố gắng gây áp lực kinh tế đối với chính phủ Việt Nam. "Bất kỳ biện pháp nào để tăng cường đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đều không phù hợp với sự căng thẳng chính trị hiện nay. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang sử dụng thủ đoạn kinh tế. Nhưng hiệu quả của nó sẽ ra sao thì còn phải chờ", Hứa Lợi Bình cho biết. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam từ năm 2004, nhưng họ chỉ đứng thứ 11 về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2012. Có khoảng 113 doanh nghiệp Trung Quốc bao gồm cả các công ty về kỹ thuật công nghệ điện lực, hóa học đang hoạt động tại Việt Nam, theo hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc. Trương Kiệt, một chuyên gia về quan hệ đối ngoại tại Viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho rằng, tác động lệnh cấm đấu thầu của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ chỉ có ảnh hưởng giới hạn. "Trung Quốc không có khả năng đe dọa sự phát triển kinh tế của Việt Nam bởi số lượng công việc phát triển của chúng tôi là quá nhỏ", Trương Kiệt cho biết. Theo học giả này, ngay cả khi doanh nghiệp Trung Quốc tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam trong điều kiện hiện nay cũng khó có thể giành phần thắng. ================== . Hừm!Cấm chưa? Hay mới chỉ dọa vậy? Ngày xưa, trong chiến tranh Việt Nam Hoa Kỳ, một nhà chiến lược Hoa Kỳ phát biểu - Đại ý: "Thật khó làm tan nát nền kinh tế Việt, khi tất cả tài sản của người Việt có thể chất lên cái xe đạp và di chuyển đến nơi sơ tán".1 like
-
Mỹ - Nhật sẽ phong tỏa Biển Đông để "trị" hải quân Trung Quốc? (Kỳ 1) 09:37 | 06/06/2014 (PetroTimes) - Sau vụ Trung Quốc ngang ngược kéo giàn khoan 981 vi phạm chủ quyền Việt Nam, các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản cũng đã nhận ra được ý đồ của nước này. Liên minh Mỹ, Nhật đang đau đầu với câu hỏi: Làm thế nào để kiềm chế sức mạnh quân sự, trong đó có sức mạnh hải quân của Trung Quốc? Khi vừa nhậm chức, trong chuyến thăm hạm đội Tam Á, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã thị sát các tàu chiến mới nhất của hải quân Trung Quốc là các tàu khu trục lớp 052C, các tàu frigate lớp Tpye 054А, các tàu tên lửa lớp 022 và tàu sân bay trực thăng-đổ bộ lớp Type 071. Hải quân Mỹ và lực lượng Phòng vệ biển Nhật Bản thường xuyên luyện tập hiệp đồng tác chiến. Ông Tập cũng thăm tàu ngầm nguyên tử tên lửa Trường chinh 9 lớp Type 094. Tại đài chỉ huy của tàu ngầm này, Tập Cận Bình đã cho phép các phóng viên truyền hình ghi hình ông bên cạnh ống kính tiềm vọng. Chuyến thăm này đã đổ dầu vào lửa những cuộc thảo luận ở các nước phương Tây, Viễn Đông và Đông Nam Á về sự bành trướng gia tăng trên biển của Trung Quốc. Nhưng nếu như trong giới chức chính phủ và quân sự cao cấp, người ta nói về chuyện này thường là khá kiềm chế thì trong cộng đồng khoa học và giới phân tích thì không có hạn chế nào. Làm thế nào để kiềm chế sức mạnh quân sự, trong đó có sức mạnh hải quân của Trung Quốc - Đó chính là chủ đề thảo luận chính. Về vấn đề này, những ý kiến thường gặp khá cực đoan. Ví dụ, tạp chí uy tín của Anh-Mỹ The Journal of Strategic Studies đã đăng tải bài báo của Sean Mirski với tiêu đề không úp mở “Bóp nghẹt: Bối cảnh, ứng xử và hậu quả của một phong tỏa hải quân Mỹ đối với Trung Quốc” (Stranglehold: The Context, Conduct and Consequences of an American Naval Blockade of China) đã gây tiếng vang xã hội lớn. Tác giả coi phong tỏa hải quân đối với Trung Quốc là phương án tối ưu gây áp lực lên Bắc Kinh nhằm phá hủy tiềm lực kinh tế của họ, sẽ buộc Trung Quốc thừa nhận thất bại trong chiến tranh. Và bây giờ, khi mà cả thế giới đang căng thẳng theo dõi những dao động tốc độ tăng trưởng công nghiệp ở nước này và hy vọng Trung Quốc sẽ lại trở thành đầu tàu giúp thoát khỏi cuộc khủng hoảng thế giới. Tuy nhiên, những tính toán kinh tế không phải luôn luôn trùng với các tính toán địa-chiến lược, trong mọi trường hợp là về thời gian. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trên tàu ngầm nguyên tử Trường Chinh 9. Nếu nền kinh tế Trung Quốc trên thực tế sẽ bắt đầu dậm chân tại chỗ hay tồi tệ hơn là suy thoái thì quả thực khả năng Bắc Kinh động đến gươm đao nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội và nội chính là có thể xảy ra. Mà khả năng đó thì mỗi năm một nhiều hơn. Chính trường hợp đó được Sean Mirski xem xét. Ông ta cho rằng, việc phong tỏa là có thể khi giữa Mỹ và đồng minh với Trung Quốc bắt đầu nổ ra chiến sự “quy mô lớn”. Sean Mirski, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Chicago vào năm 2011 và học vị cử nhân kinh tế và khoa học chính trị, cũng như học vị thạc sĩ quan hệ quốc tế, nay đang tiếp tục học tại Đại học Tổng hợp Harvard và có lẽ cũng quen thuộc với học thuyết của Robert McNamara. Ông ta đã hiện đại hóa và điều chỉnh đôi chút để hướng vào chống Trung Quốc. Thuyết phong tỏa đường biển đối với Trung Quốc của Sean Mirski dựa vào cái gì và những bước đi cụ thể nào, theo ông ta, cần làm để thực hiện nó? Nhà khoa học trẻ người Mỹ này có lý khi chú ý vào sự phụ thuộc của kinh tế Trung Quốc vào vận chuyển đường biển. 90% ngoại thương của Trung Quốc đang được thực hiện bằng đường thủy. Trung Quốc buộc phải nhập khẩu gần 60% dầu mỏ tiêu thu, một phần đáng kể trong số đó được vận chuyển bằng tàu chở dầu. Tại 10 cảng lớn nhất Trung Quốc tập trung hơn 80% tổng lưu lượng container. Chính vì thể mà Sean Mirski cho rằng, việc phong tỏa dài và dù cho là không phải 100% cũng sẽ có những hậu quả chết người đối với kinh tế Trung Quốc. Về nguyên tắc thì có thể thực hiện được việc phong tỏa đường biển như thế. Mirski quan niệm nó gồm 2 vành đai. Vành đai ngoài là phong tỏa từ xa, nằm sau chuỗi đảo quốc bao quanh Trung Quốc từ hướng đông và chạy dài từ Hokkaido ở phía bắc đến Singapore ở phía nam. Các quốc gia này hoặc là đồng minh của Washington, hoặc là nghiêng về phía Mỹ. Bởi vậy, trong một cuộc xung đột Trung-Mỹ, họ sẽ đứng về phía Mỹ. Trong vành đai ngoài sẽ tiến hành chặn dừng, khám xét và bắt giữ tất cả các tàu hàng chạy đến các cảng Trung Quốc hoặc chạy ra từ đó. Nhiệm vụ này sẽ do các tàu chiến nổi của Hải quân Mỹ và đồng minh tiến hành bằng cách triển khai các binh đoàn tàu của mình tại các khu vực nằm ngoài tầm với của máy bay và các hệ thống tên lửa bờ biển Trung Quốc. Tàu ngầm nguyên tử tên lửa lớp Tấn Type 094 hiếm khi rời bến cảng Tam Á dù chỉ trong thời gian ngắn Vành đai trong là vành đai “sát thương” theo cách gọi của Mirski, liên quan đến các vùng biển tiếp giáp trực tiếp bờ biển Trung Quốc. Ở đó, luật “đánh chìm tất cả chúng đi!” sẽ có hiệu lực. Chức năng này được giao cho các tàu ngầm Mỹ và Nhật mà số lượng ở khu vực này hiện giờ có thể được tăng lên đến 71 chiếc, cũng như máy bay triển khai trên bờ và hoạt động rải thủy lôi tích cực. Quả thực là liên quan đến thủy lôi, Sean Mirski có nhấn mạnh “sự teo biến” thực tế về khả năng của Hải quân Mỹ trong việc thực hiện các hoạt động rải thủy lôi tiến công mà cụ thể là tính đến đầu tài khóa 2013, vẫn không có các loại thủy lôi có thể sử dụng từ tàu ngầm. Không thể không thấy là sự xuất hiện của tàu ngầm nước ngoài gần bờ biển Trung Quốc đang làm Bắc Kinh lo ngại. Trả lời phóng vấn đài truyền hình trung ương Trung Quốc, chuẩn đô đốc hải quân Trung Quốc Yin Zhuo đã nói rằng, sự cần thiết củng cố lực lượng chống ngầm ở Biển Đông do sự gia tăng hoạt động của tàu ngầm nước ngoài đã chín muồi. Tất cả là như thế. Nhưng mặt khác, hải quân Trung Quốc hôm nay hiển nhiên đang là người dẫn đầu thế giới về tăng cường sức mạnh chiến đấu. Họ đang ồ ạt đóng và đưa vào biên chế các tàu tên lửa, frigate, corvette, tàu ngầm thông thường và tàu đổ bộ. Các chuyên gia Trung Quốc rõ ràng đã hoàn thiện được các tàu khu trục lớp Type 052С với các hệ thống chỉ huy chiến đấu tương tự hệ thống Aegis của Mỹ và sắp tới, dường như họ sẽ triển khai đóng hàng loạt các tàu khu trục cải tiến lớp Type 052D. Trong biên chế hải quân Trung Quốc cũng đã xuất hiện cả tàu sân bay là tàu Liaoning được cải tạo từ tàu sân bay Varyag đóng dở của Liên Xô. Tàu mặt nước của hải quân Trung Quốc tập trận bắn đạn thật. Sự kiện này thu hút nhiều sự chú ý cả ở Trung Quốc và bên ngoài nước này vì nó dường như cho thấy sự nhảy vọt về chất trong sự phát triển của hạm đội Trung Quốc và sự mở rộng khả năng giành ưu thế trên đại dương thế giới của nó. Sự phấn khích này rõ ràng không đúng với thực tế. Một là, Liaoning sẽ không thể gia nhập lực lượng sẵn sàng chiến đấu trước năm 2017, nghĩa là còn khá lâu nữa. Hai là, phi đội máy bay trên tàu sẽ chỉ gồm 22 tiêm kích bom J-15, biến thể làm nhái tiêm kích Su-33 của Nga, tức là quá ít so với các máy bay tương tự triển khai trên các tàu sân bay Mỹ. Ba là, kể cả các tàu sân bay lớn hơn dự kiến đóng cho hải quân Trung Quốc trong tương lai cũng sẽ khó, nếu như là không thể, xông ra được không gian hoạt động đại dương vì như đã nói, Trung Quốc bị bao vây bởi một chuỗi “các tàu sân bay không thể đánh chìm” - đó là các quốc đảo đồng minh hoặc thân thiện với Mỹ, mà ở một số nước trong số đó hiện đã có các căn cứ không quân Mỹ. Có cảm tưởng Mỹ và các đồng minh gần gũi cố tình làm ồn ào về chuyện tàu sân bay Trung Quốc là để kích động Bắc Kinh. Để họ tiếp tục bỏ những nguồn lực tài lực và vật lực khổng lồ vào việc đóng các con tàu dễ dàng bị phát hiện và tiêu diệt. (Còn tiếp) Theo Vietnamdefence (Ảnh và tiêu đề do PetroTimes đặt lại) Chưa có phản hồi nào cho bài viết ============================= Hừm!1 like
-
Tiếng Việt
thanhdc liked a post in a topic by Lãn Miên
Yểu Điệu Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng, Viện ngôn ngữ XB 1991 không có giải thích mà chỉ cho từ ví dụ: Yểu 窈(trang 492), vd Yểu Điệu; Điệu 窕 (trang 128), vd Yểu Điệu. Dù Từ điển liệt chúng là những “tố gốc Hán” lại không nêu được nguồn gốc của chúng mà chỉ nêu có một ứng dụng của chúng là “(người con gái) thùy mị xinh xắn” (!). Đây chỉ là một ứng dụng cái chuyển ngữ của từ Yểu Điệu thôi ạ. Yểu và Điệu là từ gốc Việt (Hán ngữ hiện đại, như chú giải của thời nhà Thanh, gọi chúng là “cổ văn”). Yểu Điệu là từ đôi, do “Đẹp Yểu”= Điệu. Yểu có nghĩa đen là kín đáo. Kín đáo và đẹp cách kín đáo thì gọi là Yểu Điệu. “Điệu cái Dáng”= Đàng, nên còn có từ đôi Điệu Đàng. Yểu Điệu mà dùng cho con gái thì cái kín đáo tương đương từ Thùy Mị, cái đẹp tương đương từ Xinh Xắn, nên Từ điển giải thích đúng cái ứng dụng của từ Yểu Điệu. Cả hai chữ Yểu Điệu 窈 窕đều có biểu ý bằng bộ Huyệt 穴(Huyệt là cái “Hố sâu Tuyệt”= Huyệt, biểu ý kín đáo, sâu xa). Yểu mang nghĩa kín đáo bởi gốc của nó do từ Ủ của nôi khái niệm: Ủ = U 幽 =Ẩn 隐 = "Làm Ẩn " = Lẩn = Nẩn = Náu = = Đáo = Dấu = Dấm = Diếm = Yểm 掩 = Yểu 窈 (nói chung là đưa sâu vào trong tối là Ủ=U=In=Kín=Câm=Âm=Ám=U=Tù=Mù= “Mù Tối”= Muội; các từ đôi Kín Đáo, Dấu Diếm, Ám Muội; từ chuyển nghĩa Dấm là “Dấu kín và ủ Ấm” = Dấm, là Dấm trái cây xanh cho nó mau chín, thường bọc kín có kèm gói vôi cục hay đất đèn để tạo nhiệt). TVGT: ”Yểu Điệu là phương ngôn (tức là từ của tiếng địa phương, chứ không phải của Hán). 方 phương 言 ngôn 。美 mĩ 狀 trạng 爲 vi 窕 Điệu (đẹp trạng là Điệu – cái đẹp kín đáo )。美 mĩ 心 tâm 爲 vi 窈 Yểu (đẹp lõi là Yểu – sự kín đáo)”. Giời Già với Giăng Già Câu ca quan họ: “Giời bao nhiêu tuổi giời già? Giăng bao nhiêu tuổi gọi là giăng non?”. Mặt trời thì lúc nào cũng thấy tròn như vậy nên không có khái niệm già hay non. Mặt trăng thì thấy khi tròn khi khuyết, khi tròn thì có khái niệm trăng già, khi khuyết thì có khái niệm trăng non. Bình thường gọi là Trời và Trăng mà trong câu ca quan họ lại gọi Giời và Giăng ? Đó là bởi vì trong lời hát không phải là nói về cái hành tinh Trời và Trăng, mà là nói về cái ánh sáng của chúng, tức là nói về Nhật và Nguyệt. Cái ánh sáng ấy là luôn Rọi=Dọi, mà dọi vào đâu thì đó sáng lên một thứ sáng trắng, nho viết nhấn mạnh Rọi ánh sáng Vào = “Dọi ánh sáng Vào” = Giảo 皎. Chữ Giảo 皎 viết biểu ý bằng chữ Bạch 白 ý là ánh sáng trắng với chữ Giao 交 là để mượn âm. Tia sáng là truyền theo đường thẳng, nên từ Dọi (gốc là Rọi) đã chuyển nghĩa động từ thành tính từ của cái Dây Dọi và Con Dọi là cái vật nặng có đầu nhọn treo trên sợi dây làm công cụ dóng chiều thẳng đứng. Từ Giảo vốn là động từ (Rọi ánh sáng Vào = Dọi ánh sáng Vào” = Giảo 皎) đã chuyển nghĩa thành “ánh sáng trắng”. Ánh sáng trắng của Trời gọi là “Giảo Trời” = Giời. Ánh sáng trắng của Trăng gọi là “Giảo Trăng” = Giăng. (Giảo Trăng thì cổ văn viết bằng chữ Giảo Nguyệt 皎 月). Nhấn mạnh thì “Giời Ạ!” = Già, và “Giăng Ạ!” = Già, nên có các từ đôi Giời Già và Giăng Già dùng để gọi thân mật mặt Trời và mặt Trăng (với hàm ý là rất yêu quí cái ánh sáng của chúng). Từ Già này đồng âm dị nghĩa với từ Già = Tra . Tra là từ Việt cổ, tiếng Nghệ An còn dùng, do cặp đối nguyên thủy Trẻ/Tra; nhấn mạnh “Trẻ Chi 之!” = Trĩ 稚 (ấu trĩ) và “Tra Hề 兮!”= Trệ 滯 (trì trệ), nên lại có cặp đối Trĩ/Trệ = Trẻ/Tra, tiếng Việt hiện đại dùng cặp đối Trẻ/Già). Giăng hay Giăng Già là từ thân mật dùng để gọi Trăng dựa vào cái được chuộng là cái ánh sáng trắng của nó là Giảo. Trẻ con đêm trăng sáng thường rất thích chơi sáng trăng, đùa dỡn cùng trăng. Chơi = Nhởi = Nhởn = Lờn = Dỡn = Vờn = Vãn = Ngoạn 玩. Nhởn và “Nhởn Chớ!”= Nhơ, thành từ đôi Nhởn Nhơ, gần gũi với từ đôi Lờn Vờn = Lởn Vởn. Từ Đi Chơi nho viết bằng chữ Du Ngoạn 游 玩 (do Đi = Di 移 = Do 由 = Du 游). Chơi xem cảnh còn gọi là Vãn Cảnh. Lờn = Lìn (tiếng Lào). Ngạn ngữ Lào:”Lìn má má lề nạ. Lìn khạ khạ nhịp pua” (nghĩa là: “Lờn chó chó liếm mặt. Lờn tớ tớ sờ đầu”). Liếm là động từ của cái “Lưỡi dùng tìm Kiếm”= Liếm, nhấn mạnh “Liếm Hề 兮!”= Lề (tiếng Lào), “Liếm Hè 兮!”= =Le, nên có từ đôi Le Liếm. Tiếng Lào gọi Pua là cái đầu, Pua = Vua = Chúa = Chậu = Đầu = =Châu = Chủ = Chưởng = Trưởng = Trùm = Trò = Bọ = Sỏ = Sậu = Thẩu = Thủ = Tù = Têu, nghĩa là người cầm đầu, còn có các từ đôi: Trùm Sò, Đầu Trò, Đầu Sỏ, Đầu Têu, Bọ Sậu, Tù Trưởng, Thủ Trưởng. Trẻ con khi dỡn cùng trăng, chúng thân thiết mời ( “Miệng gọi Ơi” = Mời, tiếng Thái là “Mơi”), mời gọi: “Ông Giẳng ông Giăng, ông xuống đây chơi!” và chơi trò chơi với bài đồng dao: “Dung Giăng dung Giẻ, dắt trẻ đi chơi, đến cổng nhà Giời, lạy cậu lạy mợ, cho cháu về quê, cho dê đi học, cho cóc ở nhà, cho gà bới bếp, ngồi xệp xuống đây!”. (ở đây Dung là “Dỡn Cùng”= Dung; Giẻ là nhấn mạnh “Giăng Hè!”= Giẻ, cũng như nhấn mạnh “Giăng Ạ!”= Già)1 like -
Tổng thống Pháp tiếp riêng ông Obama và Putin Ngọc Thoa TP - Việc Tổng thống Pháp Hollande chiêu đãi riêng rẽ hai ông Obama và Putin vào cùng một buổi tối trước khi tham dự lễ kỷ niệm 70 năm sự kiện Normandy, miền bắc nước Pháp cho thấy không khí ngoại giao căng thẳng giữa Mỹ và Nga do tình hình Ukraine gây nên. Bữa đầu tiên ông Hollande chiêu đãi Tổng thống Mỹ Obama và bữa thứ hai là chiêu đãi Tổng thống Nga Putin.. Bữa tối ông Hollande chiêu đãi ông Obama diễn ra tại một căn phòng riêng của nhà hàng Le Chiberta trên quảng trường Elysée. Tham dự buổi chiêu đãi còn có Ngoại trưởng Mỹ Kerry và Ngoại trưởng Pháp Fabius. Các vị khách Mỹ được thết món xa lát làm bằng tôm hùm xanh, món cá rô biển vùng Normandie và món tráng miệng bằng cam và bưởi. Giám đốc nhà hàng cho biết thực đơn đó được soạn thảo có tính đến một thực tế quan trọng là ông Hollande phải để bụng dành cho bữa tối thứ hai với Tổng thống Nga. Bữa tối với ông Putin diễn ra sau đó 2 tiếng đồng hồ và được ông Hollande tổ chức ngay trong Điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp). Đại diện Điện Elysée từ chối tiết lộ thực đơn. Nhưng theo giới phóng viên Pháp, bữa tối trong Điện Elysée tất nhiên là sang trọng nhưng vẫn không thể bằng bữa tối tại nhà hàng Le Chiberta. Hơn thế nữa, đầu bếp của Điện Elysée lại mới vào làm và những món do người này nấu nướng không phải hợp khẩu vị của mọi người. Chẳng hạn, sau bữa chiêu đãi mà ông Hollande tổ chức để chào mừng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hồi tháng 3 năm nay, Bộ trưởng Ngoại thương Pháp đã không tiếc lời chê bai các món ăn trong buổi chiêu đãi đó. The New York Times ================ Lão Gàn đã xác định rằng: Không quá tháng 6 Việt lịch, khủng hoảng Ucraine phải chấm dứt.1 like
-
Học giả Trung Quốc: Quá yếu không bảo vệ được lãnh thổ mới phải kiện?! Hồng Thủy 07/06/14 07:28 (GDVN) - Trong cơn mê sảng, giới học giả nước này đã thừa nhận rằng, mặc dù là một thành viên phê chuẩn UNCLOS, nhưng Trung Quốc sẵn sàng vứt bỏ nó vào sọt rác. Khúc Tinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quốc tế Trung Quốc. China Times xuất bản tại Đài Loan ngày 6/6 đưa tin, một số học giả Trung Quốc hôm qua đã lên tiếng cho rằng căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông khó có khả năng leo thang thành xung đột vũ trang thực sự. Sau khi Philippines nộp bản thuyết trình lập luận của mình bác bỏ đường lưỡi bò Trung Quốc ở Biển Đông theo yêu cầu của Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại igao Trung Quốc lại tiếp tục luận điệu Bắc Kinh từ chối tham gia. Khúc Tinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc nói với China News Service rằng Philippines không đủ sức mạnh và ảnh hưởng để có thể gây thiệt hại đến cái gọi là "lợi ích quốc gia" của Trung Quốc. Manila đang nỗ lực tìm kiếm sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế bằng cách khởi kiện đường lưỡi bò Trung Quốc, tuy nhiên ông Tinh cho rằng điều này chỉ chứng minh một mình Philippines quá yếu để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ?! Các nhà phân tích Trung Quốc cũng nói rằng Manila sẽ không tham gia vào một cuộc xung đột với Bắc Kinh, bởi vì họ sẽ không thể nhận được sự hỗ trợ chính trị nào từ Mỹ. Thật nực cười cho các nhà "học giả" Trung Quốc. Nói như Khúc Tinh, thì cứ trang bị thật nhiều vũ khí hiện đại, tàu chiến máy bay và thậm chí cả giàn khoan "khủng" như Trung Quốc mới có thể bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ? Chỉ mấy hôm trước đây, Trương Minh Lượng, một học giả từ đại học Kỵ Nam, Quảng Châu, Trung Quốc cũng nói với tờ Bưu điện Hoa Nam, Trung Quốc chẳng có gì phải lo về phán quyết của tòa án trong vụ kiện này, có chăng chỉ là mất "chút ít" uy tín quốc tế vì đã không tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)?! Từ những phát biểu của cánh học giả Trung Quốc có thể thấy Bắc Kinh thực sự đang rất sợ bị khởi kiện ra tòa. Trong cơn mê sảng, giới học giả nước này đã thừa nhận rằng, mặc dù là một thành viên phê chuẩn UNCLOS, nhưng Trung Quốc sẵn sàng vứt bỏ nó vào sọt rác để đạt được tham vọng bành trướng lãnh thổ của mình. Phát biểu của Khúc Tinh một lần nữa chứng minh điều ấy, và nó cũng thể hiện quan điểm hiếu chiến của một bộ phận lãnh đạo Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ, hàng hải với các nước láng giềng, mà thực tế là Bắc Kinh là kẻ đang nhảy vào tranh chấp. Lâu nay các bên liên quan trên Biển Đông, trong đó có Philippines và Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để giải quyết vấn đề thông qua hoạt động đàm phán hòa bình, nhưng Bắc Kinh không những né tránh, mà còn tranh thủ thời gian thay đổi hiện trạng, biến các vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp. Việc khởi kiện các hành động vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ra tòa là biện pháp cực chẳng đã, nhưng rõ ràng là một lựa chọn hòa bình, văn minh, phù hợp với xu thế thời đại và được dư luận đồng tình, ủng hộ - PV. ============= Đúng là học "giả" Tàu. Việt Nam không thể có tiềm lực quân sự bằng Trung Quốc, cái này không cần phải giáo sư tiến sĩ mới nhận ra. Bởi vậy, toàn lý sự cùn. Chính những lý sự cùn này càng thấy Trung Quốc bất chấp chuẩn mực quốc tế: Cho nên mới: Chưa hết! Các chính khách yêu chuộng hòa bình và công lý đều thừa nhận: "Mọi chuyện đều có thể giải quyết bằng con đường ngoại giao". Nhưng với con đường này thì chuẩn mực quốc tế phải được thừa nhận. Khi Trung Quốc đã vứt bỏ chuẩn mực quốc tế thì kết quả cuối cùng là phải đối đầu với một cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. "Canh bạc cuối cùng" sẽ diễn ra với một tình khúc buồn.1 like
-
Hình ảnh mây đen "rợn người" phủ Bắc Kinh 06/06/2014 16:06 GMT+7 Bầu trời tối sầm vì mây đen vần vũ đã khiến các nhà chức trách ở Bắc Kinh phải ban hành cảnh báo xanh về mưa lớn ở thành phố này trong ngày hôm nay (6/6). Thông tin trên vừa được hãng tin Tân Hoa đăng tải, kèm theo những bức ảnh cho thấy thành phố này sẽ hứng chịu một trận mưa như trút nước. Trung Quốc có một hệ thống cảnh báo thời tiết 4 cấp độ, với màu đỏ là nghiêm trọng nhất, theo sau là cam, vàng và xanh. Thanh Hảo ===================== Trước đây, Quảng Ninh của Việt Nam cũng mây đen kéo tối sầm và trải dài đến Ninh Bình. Đức Thánh Trần nói: Đây là điềm địch quốc gây họa và có âm mưu gây biến, nhưng mọi chuyện sẽ qua. Tất nhiên qua về mặt hiện tượng. Còn về lâu dài vẫn phải cẩn trọng. Nhưng Trung Quốc với đám mây này ở ngay Xủ đô Bê Canh. Nội loạn nổi lên đến nơi. Không qúa tháng 9 Việt lịch. Lão Gàn nói thật: Rút giàn khoan về đi quí zdị.1 like
-
TP xin được đăng toàn bộ bài này lên tường facebook cá nhân của mình. Nhưng hình như bài viết của bác Thiên Sứ vẫn chưa hoàn chỉnh ?!1 like
-
Lệ thuộc Trung Quốc không phải định mệnh của dân tộc VN 05/06/2014 22:32 (GMT + 7) TTO - “Làm sao để thoát Trung?”- Buổi tọa đàm do Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh, Nhà xuất bản Tri thức đồng tổ chức ngày 5-6 đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các chuyên gia, trí thức, SVHS. Chặn hàng Trung Quốc nhập lậu Siêu thị “lên đời” cho hàng Trung Quốc Hàng Việt sản xuất tại... Trung Quốc? BTC đã phải thay đổi địa điểm hội trường rộng hơn vào phút chót mà vẫn không đáp ứng đủ chỗ.Nhiều người sẵn sàng ngồi bệt xuống sàn hội trường và tràn ra ngoài hành lang để lắng nghe. Làm sao để thoát khỏi sự ảnh hưởng tiêu cực, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc ? Làm sao để phát triển? Làm sao để tự giải phóng mình, hầu tự bảo vệ mình và kiến tạo một thời kỳ phát triển mới? Với vai trò người dẫn đề, TS Giáp Văn Dương - người sáng lập và điều hành cổng giáo dục trực tuyến mở đại trà GiapSchool - cho biết thống kê năm 2010 cho thấy đến 90% dự án trong nước mà tổng thầu rơi vào tay công ty Trung Quốc. “Việc “thoát Trung”, thoát khỏi sự lệ thuộc kinh tế, văn hóa… đối với Trung Quốc chính là đòi hỏi để phát triển và lịch sử đang trao cho VN cơ hội tốt hơn bao giờ hết. “Vậy thoát Trung là thoát đi đâu, thoát cái gì, thoát để làm gì, thoát như thế nào? Thoát Trung chính là thoát ra thế giới để hội nhập quốc tế, thoát khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của Trung Quốc đến VN trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, quân sự, thoát Trung để được là chính mình. Song muốn thoát Trung thì phải phát triển. Nếu kinh tế cứ lẹt đẹt, nền sản xuất không tự chủ, đến cả sách thiếu nhi cũng chỉ toàn dịch từ Trung Quốc thì làm sao thoát Trung được?” - TS Dương đặt vấn đề. Theo TS Dương, nền kinh tế thua kém đến 60 lần so với Trung Quốc trong khi dân số chỉ kém 15 lần cho thấy VN phải nỗ lực rất nhiều để cán mốc GDP đạt 1.000 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người 10.000 USD. “Có ba tiên đề cần thiết để đạt mục tiêu phát triển: Đó là đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, phát triển bền vững dựa vào chất lượng thể chế, chất lượng nguồn nhân lực và phát triển để ổn định. Lâu nay ta cứ nghe nói ổn định để phát triển, nhưng việc cưỡng bức ổn định không thể mang lại phát triển mà chính phát triển mới là nền tảng để ổn định đất nước”. Dập tan sự nghi ngại về khả năng “thoát Trung” của đất nước khi nền kinh tế chưa thật sự mạnh, GS Trần Ngọc Vương- người có thâm niên 40 năm nghiên cứu VN, nghiên cứu Trung Quốc- khẳng định “lệ thuộc Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc VN”. “Đúng là có tư tưởng cho rằng nước họ to thế thì làm sao ta thoát được sự lệ thuộc, rồi “tâm lý nô lệ Trung Quốc” cũng còn nặng nề trong nhiều tầng lớp nhân dân. Song hãy nhìn cách mà Nhật Bản, Hàn Quốc đã thoát Trung một cách ngoạn mục. Vậy VN phải làm gì? Việc phải làm đầu tiên chính là thoát khỏi dã tâm của nhà cầm quyền Trung Quốc. 2.000 năm lịch sử trở lại đây, từ chính quyền nhà nước phong kiến cho đến những nhà cầm quyền đương đại, chưa bao giờ Trung Quốc muốn ở bên cạnh có một đất nước VN mạnh. Thứ hai là phải thoát khỏi tâm lý bị lệ thuộc của chính mình” - GS Vương nhấn mạnh. “Thoát Trung” là sự nghiệp của toàn dân, của đất nước” - TS Giao phân tích. NGỌC HÀ =========================== Trước việc Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou 981) vào khu vực thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dẫn đến những diễn biến phức tạp trong mối quan hệ giữa hai nước. Do đó, Việt Nam đứng trước những thách thức lớn trong nhiều lĩnh vực. Những thách thức này cũng là tiền đề cho một xu hướng phát triển độc lập tự chủ, không phụ thuộc vào bên ngoài về kinh tế, văn hóa và nhận thức. Do đó, đã có rất nhiều ý kiến của các chuyên gia bàn về vấn đề này. Bài báo trên TTO cho thấy sự kiện này. Là một người có nhiều năm nghiên cứu về Lý học Đông phương và cổ văn hóa sử, nên góc nhìn của tôi về vấn đề này mang chất Lý học nhiều hơn. Nhưng để có một khái niệm hoàn chỉnh về Lý học Đông phương, tôi thấy cần phải trình bày những vấn đề liên quan đến nó. Lý học Đông phương, mà nền tảng căn bản là thuyết Âm Dương Ngũ hành và kinh Dịch, là trí thức nền tảng của nền văn minh Đông phương, vốn tồn tại lâu đời nhất trong lịch sử văn minh nhân loại. Nhưng toàn bộ hệ thống lý thuyết này đã thất truyền cho nên rất mơ hồ. Có thể nói, cho đến ngày hôm nay với hơn 2000 năm trôi qua, chưa hề có một cuốn sách nào, bằng bất cứ một văn tự nào, mô tả dù chỉ là khái quát về thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mặc dù những dấu ấn phương pháp luận của thuyết này tồn tại trên thực tế thông qua các phương pháp ứng dụng. Trong đó kinh Dịch vốn là một trong tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo và cũng là tri thức nền tảng của toàn bộ tư tưởng văn minh Đông phương trong mọi lĩnh vực văn hóa, chính trị, xã hội và các mối quan hệ xã hội. Cũng như thuyết Âm Dương Ngũ hành, toàn bộ những gía trị tri thức nền tảng của nền văn minh Đông phương - quen gọi là Nho giáo này - cũng được mặc định là thuộc về nền văn minh Hán. Và trên thực tế, những giá trị tri thức được coi là gốc Hán này đã chi phối lịch sử nền văn minh Hán từ 2000 năm đến nay và ảnh hưởng đến toàn bộ nền văn minh phương Đông. Khi hai nền văn minh Đông Tây va chạm nhau từ thế kỷ XVI, thì nền văn minh Tây Phương với khoa học thực chứng, thực nghiệm và sự phát triển của những phương tiện kỹ thuật đã lấn át toàn bộ nền văn minh Đông phương, vốn bị coi là huyền bí, mơ hồ, mê tín dị đoan và lạc hậu. Đây cũng chính là nguyên nhân để tác giả Fukuzawa Yukichi viết tiểu luận nổi tiếng "Thoát Á" với nội dung phủ định những giá trị của nền văn minh Đông phương - vốn được mặc định có nguồn gốc Hán - chuyển sang hoàn toàn tư duy thực chứng, thực nghiệm và phát triển khoa học kỹ thuật ứng dụng của nền văn minh Tây phương, để phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở này, Nhật Bản từ một nước quen gọi là "phong kiến lạc hậu", đã vươn lên thành một siêu cường ở thế kỷ XX. Từ đó, nghiễm nhiên, qua thực tế phát triển của Nhật Bản, mọi người đã mặc định rằng: việc thoát khỏi những tư duy cổ hủ Đông phương có nguồn gốc Trung Hoa là yếu tố quyết định của sự phát triên Nhật Bản. Nhưng với cái nhìn từ góc độ Lý học của cá nhân tôi thì việc được coi là vượt thoát khỏi tư duy cổ hủ Đông phương chỉ là một yếu tố cần, có tính tương tác hỗ trợ và không phải yếu tố quyết định cho sự phát triển của Nhật Bản. Nó không phải yếu tố quan trọng. Bởi vì, để có một sự phát triển của đất nước Nhật, bắt đầu từ thế kỷ XVIII chính là quyết tâm và trách nhiệm của Nhật Hoàng Minh Trị, trong việc cải cách hệ thống giáo dục, mở các xí nghiệp, cơ sở sản xuất theo mô hình phương Tây, để tiếp thu và phát triển nước Nhật. Vào thời điểm canh tân của Nhật Hoàng Minh Trị, cấu trúc chính trị thượng tầng kiến trúc với mối quan hệ hạ tầng, về căn bản không hể thay đổi, cho đến khi nước Nhật thất bại trong thế chiến thứ II. Bởi vì, nước Nhật có một khoảng cách địa lý qua biển đủ lớn để không chịu ảnh hưởng nhiều của cái gọi là văn hóa Trung Hoa. Trong nước Nhật, cho đến bây giờ Thần Đạo vẫn là tín ngưỡng chủ yếu. Nho giáo vốn được mặc định thuộc về văn minh Trung Hoa, không phải tư tưởng thống trị nước Nhật. Trên cơ sở này, tôi xác định rằng: Không thể nhìn một cách hình thức (Lý học gọi là "hình tướng") của sự việc để kết luận qúa dễ dãi nguyên nhân thành công của Nhật Bản. Hay nói rõ hơn: Khi cuộc cải cách nổi tiếng của Nhật Hoàng Minh Trị thành công, chính là do nền tảng độc lập về văn hóa của dân tộc Nhật và sự sáng suốt của Nhật Hoàng Minh Trị. Từ tiền đề về sự độc lập văn hóa của Nhật Bản là một nguyên nhân quan trọng để nước Nhật vươn lên thành một siêu cường của thế giới trong lịch sử văn minh hiện đại. Từ tiền đề này, xét đến vấn đề được đặt ra cho Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Về văn hóa. Từ góc nhìn của tôi, về bản chất dân tộc Việt độc lập về văn hóa với Trung Hoa. Đây là một yếu tố cần yếu và hết sức quan trọng trong việc bảo hộ nền độc lập dân tộc. Từ lâu trong lịch sử Việt Nam đã có những yếu tố cho thấy bản chất độc lập này. Bình Ngô Đại cáo viết: Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Sự xác định "Phong tục Bắc Nam cũng khác" đã chứng tỏ những sự khác biệt hoàn toàn về văn hóa giữa Việt tộc và Hán tộc. Tất nhiên nó không phải bắt đầu từ thời Hậu Lê với bài Bình Ngô đại cáo của Nguyên Trãi. Và từ đó, vấn đề được đặt ra: Cội nguồn văn hóa truyền thống Việt bắt đầu từ thời điểm nào trong lịch sử dân tộc, để có sự khác biệt về văn hóa đó? Trong lĩnh vực này, từ trước đến nay có thể nói rằng: hầu hết mọi người kể cả các học giả thế giới và ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, đều mặc định cho rằng: Văn hóa Việt Nam là kết quả từ ảnh hưởng văn hóa Hán. Vì họ cho rằng nền văn hóa Hán là nền tảng của nền văn minh Đông phương. Và vấn đề "Thoát Á" là thoát khỏi những giá trị của văn hóa Hán và nền tảng tri thức của nền văn minh này chính là "Tứ thư", "Ngũ Kinh" của Nho giáo và thuyết Âm Dương Ngũ hành bao trùm khắp mọi lĩnh vực trong quan hệ xã hội Đông phương, thể hiện trong những phương pháp ứng dụng, như: Thiên nhiên, vũ trụ và sinh hoạt của con người (Các phương pháp dự báo - "Xem bói"); kiến trúc, xây dựng (Phong thủy), Y học sức khỏe (Đông y). Thực ra đây là một sai lầm, chính vì xuất phát từ những tư duy rất trực quan, hời hợt và thiếu chiều sâu trong vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc các vấn đề của văn minh cổ Đông phương. Như tôi đã trình bày ở phần đầu bài viết này: Tất cả những giá trị của nền văn minh Đông phương - vốn được mặc định có xuất xứ từ văn minh Hán - liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và Nho giáo - rất mơ hồ. Nền văn minh Hán cho đến ngày hôm nay, khi tôi đang gõ hàng chữ này - vẫn không thể phục hồi những giá trị đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành và những giá trị liên quan. Do đó, vấn đề được tiếp tục đặt ra - bên cạnh vấn đề cội nguồn văn hóa Việt bắt đầu từ thời điểm nào trong lịch sử dân tộc - là: Những giá trị đích thực những nền tảng tri thức của văn minh Đông phương xuất phát từ đâu? Từ hơn 15 năm nay, tôi đã chứng minh và xác định rằng: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử, chính là cội nguồn đích thực của những giá trị tri thức nền tảng của văn minh Đông phương. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và hệ thống Bát quái, chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại đang mơ ước. Nước Văn Lang, dưới sự trị vì của XVIII thời Hùng Vương: Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn; Đông giáp Đông hải (Biển Hoa Đông ngày nay). Đây chính là những điều được ghi nhận trong truyền thống vắn hóa sử Việt (Cách gọi cũ là "Hơn 4000 năm văn hiến); trong chính sử (Đại Việt sử ký toàn thư) và trong cả những văn bản Hiến Pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trước 1992. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phát biểu ở đây. Những luận cứ của cá nhân tôi nhân danh khoa học về cội nguồn văn hóa dân tộc, có thể bị coi là sai trong một sự thẩm định với những tranh luận, phản biện nghiêm túc của các nhà khoa học thực sự. Tuy nhiên, điều này chưa xảy ra. Nhưng trong điều kiện hiện nay, việc đặt vấn đề cội nguồn văn hóa dân tộc là một thành tố cấu thành rất quan trọng mà tôi đã chứng minh ở trên: Tính độc lập về lịch sử văn hóa là một yếu tố không thể thiếu trong vấn đề phát triển của dân tộc. Không chỉ của người Việt, mà của tất cả mọi dân tộc trên thế giới. Đây chính là một nguyên nhân nội hàm quan yếu trong việc canh tân thành công của Nhật Bản từ thế kỷ XVIII. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên - mới cách đây không lâu - khi một giáo sư lịch sử Nhật Bản, dựa vào "cơ sở khoa học" và bài trừ "mê tín dị đoan", đặt lại vấn đề "dân tộc Nhật không phải con của Thái Dương Thần nữ" thì lập tức bị chính phủ Nhật cho về đuổi gà và nước Nhật vẫn tiếp tục phát triển với tư cách con dân của Thái Dương Thần Nữ. Một dân tộc tồn tại được và hùng mạnh thì phải biết cội nguồn những giá trị tri thức văn hóa lịch sử thực sự của dân tộc đó. Bởi vậy, việc xác định và làm sáng tỏ cội nguồn dân tộc Việt với lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến là điều rất cần thiết. Nhưng, sự độc lập về cội nguồn văn hóa dân tộc không phải yếu tố duy nhất bảo đảm cho một dân tộc không bị lệ thuộc vào ngoại bang. Vấn đề tiếp theo là phải có một nền kinh tế đủ mạnh và ổn định.1 like
-
DỊ NHÂN VÀ MINH TRIẾT VIỆT 12:00 | 02/06/2014 http://ktcatbd.com.v...-viet-1918.html Người ta biết đến ông vì những phát biểu ồn ào trong dịp Đại Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hanoi, khi ông xác định trước hai tháng, rằng: Bảo đảm trong 10 ngày Đại Lễ sẽ không có mưa ở khu vực Hanoi. Mặc dù chung quanh khu vực Hanoi vào thời gian đó, mưa bão ầm ầm, các đài khí tượng thủy văn tầm quốc tế xác định Hanoi sẽ có mưa bão lớn vào những ngày Đại lễ. Nhưng "chẳng may" ông đã đúng với sự xác định của mình: Trong Đại lễ chưa hề phải sử dụng phương án II; tức là phải tổ chức trong nhà nếu gặp trời mưa ở khu vực Hanoi. Mọi người gọi ông là "Dị nhân đuổi mưa". Nhưng có lẽ ít người biết đến ông còn là một nhà nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương với hàng chục đầu sách liên quan với những luận điểm nổi tiếng, khi ông xác định rằng: Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành thực chất là một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, có tính hệ thống với cội nguồn lịch sử thuộc về nền văn minh Bách Việt ở Nam Dương tử, mà hậu duệ chính là các dân tộc Việt Nam hiện nay với bộ phận chủ yếu là người Kinh. Luận điểm của ông còn được đẩy lên với những luận cứ xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất mà những tri thức hàng đầu của nền văn minh nhân loại đang mơ ước. Trong vòng 9 năm nghiên cứu ông cho ra đời gần cả chục đầu sách chứng minh Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và cội nguồn kinh Dịch với thuyết Âm Dương Ngũ hành. Chưa kể đến hàng vạn bài viết trên các diễn đàn mạng liên quan đến Lý học Đông phương, cùng đề tài này. Những cuốn sách của ông với luận điểm mới lạ, đảo ngược nếp nghĩ trở thành tiềm thức từ hàng ngàn năm qua của con người, khi mặc định rằng cội nguồn Lý học Đông phương thuộc về văn minh Hán. Bởi vậy, đã gây không ít tranh cãi trên các cộng động mạng . Nhưng từ năm 2006, sau khi xuất bản cuốn sách tâm đắc của ông: "Hà đồ trong văn minh Lạc Việt" (Nxb Tổng hợp T/p HCM), không thấy ông viết thêm cuốn sách nào. Và đã tám năm trôi qua, thời gian đủ để tạo ra những thay đổi trong một cuộc đời.... Nhưng đến năm nay, ông lại tiếp tục cho ra mắt cuốn sách mới của ông: "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương". Những dẫn chứng của ông thì có vẻ như không có gì mới. Vẫn là những di sản văn hóa phi vật thể Việt, được lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt Nam, mà hầu hết ông đã trình bày trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn và trong các sách đã xuất bản. Nhưng với sự tập hợp một cách có hệ thống và hướng tới một mục đích chứng minh rất rõ ràng: Nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử, mà hậu duệ là những dân tộc Việt Nam hiện nay, là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Nhà nghiên cứu Lý học Đông phương Nguyễn Vũ Tuấn Anh Những luận cứ của ông trong cuốn sách này, cũng như tất cả những cuốn sách đã xuất bản của ông hoàn toàn không mơ hồ và mang tính cảm quan. Nó luôn được tự thẩm định một cách chặt chẽ bằng những tiêu chí khoa học là những chuẩn mực trong việc mô tả và minh chứng cho những lập luận của mình. Tính khoa học của những luận điểm của ông chính là những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng . Điểm độc đáo trong nội dung cuốn "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương" của ông, chính là sự giải mã hoặc mô tả tính minh triết trong nội dung những di sản văn hóa phi vật thể trong văn hóa truyền thống Việt, nhưng trong một hệ thống nhất quán và chặt chẽ trong nội dung mô tả. Từ những giải mã hoặc từ nội dung trực tiếp của những di sản văn hóa truyền thống Việt, dẫn ông đến một giả thuyết xác định kết quả minh chứng về cội nguồn văn minh Đông phương. Những giả thuyết này được thẩm định và cũng là cơ sở để minh chứng qua những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học. Từ kết quả này lại là mối liên hệ hợp lý trong nội dung xác định những di sản văn hóa truyền thống Việt chính là hệ quả của một hệ thống lý thuyết đã được coi là nền tảng tri thức của nền văn hiến Việt. Do đó, sự nội dung giải mã những di sản văn hóa truyền thống Việt là một trong những sự thú vị bất ngờ trong cuốn sách của ông. Nhưng cần phải xác định rằng: tính hệ thống, nhất quán và sự mô tả hợp lý với những mối liên hệ từ đơn giàn đến phức tạp của sự liên hệ từ những nội dung rời rạc trong từng di sản văn hóa truyền thống Viết với cội nguồn tri thức của cả một nền văn minh Đông phương, được minh chứng với những dẫn chứng và luận cứ sắc xảo một cách rất hoàn chỉnh và xác định rằng: Thuộc về nền văn hiến Việt với 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử và thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ, mới là thành tựu của cuốn sách này. Nhà khoa học tên tuổi ở Việt Nam, giáo sư Viện sĩ Đào Vọng Đức đã viết lời nhận xét trong cuốn sách này: “Cuốn sách có nội dung phong phú với rất nhiều những bức tranh dân gian, những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao, đồng dao, … trong di sản văn hóa truyền thống Việt cùng với những luận giải sáng sủa, đầy tính thuyết phục, nhằm khai sáng các nội hàm ẩn chứa của thuyết Âm Dương Ngũ Hành và kinh Dịch. Ngoài ý nghĩa khoa học, cuốn sách còn có tác dụng hun đúc lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khích lệ ý chí phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của tổ tiên” Từ một góc nhìn khác, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đồng ở Orange, California, Hoa Kỳ cũng đặt vấn đề và ông đã viết: Thật là khó hiểu khi thấy kho tàng tri thức vĩ đại này vẫn tồn tại như một sự huyền bí với tiến bộ loài người hàng nghìn năm nay, mặc dầu tiềm năng áp dụng không chỉ giới hạn trong khoa học thuần tuý, mà còn lan đến khoa học nhân văn (xã hội học, tâm lý học, triết học…) và cả những ngành liên quan đến nhân sinh như nghệ thuật hay tâm linh học. Cảm nhận điều này còn dẫn đến một nghi vấn lớn cho khoa học hiện nay: Động lực nào đã thúc đẩy loài người trong giai đoạn bị coi là bán khai từ năm sáu nghìn năm trước đi tìm và giải quyết những vấn đề mà nhân loại hiện nay mới bắt đầu phải đối đầu? Đây cũng là điểm đánh giá cao nhất của tác phẩm "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương", vì đã góp phần rất lớn vào việc gây dựng phong trào “duy tân” cho nền văn minh cổ kính vĩ đại này. Xây dựng trên nền tảng một tri thức khách quan và nhất quán về nguồn gốc vũ trụ tiền không gian, tiền thời gian và vô số lượng, nền văn minh này có thể còn trổi vượt trên nền văn minh hiện đại về một số phương diện. Hiện nay khoa học hiện đại vẫn còn tranh cãi sự hiện diện một quyền uy tối cao có quyền thưởng phạt vào thời điểm O, thì tri thức tối cổ này đã minh triết một quy luật khách quan, nhất quán và phổ quát về vận hành của vũ trụ. Hơn thế, tri thức này còn có thể hàm ẩn một giải pháp phổ quát cho những học giả muốn áp dụng những quy luật khách quan này vào việc giải quyết những bế tắc lớn ngày nay của nhân loại. Đe doạ cho sự sống còn của nhân loại ngay trước mắt phải kể hiểm hoạ ô nhiễm môi trường và mất thăng bằng phân bố của cải trong xã hội. Nhà bác học Stephen W. Hawking đã tiên đoán là với trình độ khoa học hiện tại, nhân loại không thể giải quyết kịp những hậu quả do chính khoa học gây ra. Những luận điểm của tác giả có thể còn nhiều tranh cãi học thuật và nhận xét cuối cùng thuộc về bạn đọc. Trân trọng giới thiệu cuốn sách "Minh Triết Việt trong văn minh Đông phương" của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Hoàng Dung1 like
-
Thông Báo
Thích Đủ Thứ liked a post in a topic by Thiên Sứ
THÔNG BÁO Quản trị diễn đàn. Kính thưa quí vị và anh chị em. Do hoàn cảnh thiếu thốn về kinh phí duy trì diễn đàn, và quan trọng hơn cả là sức khỏe của cá nhân,nên diễn đàn tạm đóng cửa do không có người quản lý thường xuyên Hôm nay, sau một thời gian cân đối thu chi và căn bản là vấn đề sức khỏe tạm hồi phục, chúng tôi đã mở cửa diễn đàn vào 8 giờ sang nay: Giờ Thìn mùng 5. 5 Giáp Ngọ Việt lịch. Nhằm ngày 2. 6. 2014. Nhưng sẽ tạm thời ngưng kết nạp thành viên mới và cũng hạn chế khả năng viết bài, để tiện quản lý diễn đàn và chỉ những thành viên đã hoạt động trong chuyên mục "trao đổi học thuật", học viên lớp Phong thủy Lạc Việt cao cấp mới tiếp tục viết bài được ở tất cả các mục. Diễn đàn Lý học Đông phương đã hoạt động nhiều năm nay, trên quan điểm học thuật minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và là cội nguồn của văn minh Đông phương, nhân danh khoa học. Chúng tôi kiên trì quan điểm này và chứng minh hoàn toàn có luận cứ khoa học. Chúng tôi rất hoan nghênh tinh thần khoa học trao đổi về vần đề này, trước đây, bây giờ và cả sau này. Chúng tôi rất vinh dự và hân hạnh được sự công tác tiếp tục của quí vị và anh chị em. Xin chân thành cảm ơn quí vị và anh chị em đã ủng hộ diễn đàn. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.1 like -
Thông Báo
Thích Đủ Thứ liked a post in a topic by Thiên Sứ
THÔNG BÁO Quản trị diễn đàn. Kính thưa quí vị và anh chị em. Do hoàn cảnh thiếu thốn về kinh phí duy trì diễn đàn, và quan trọng hơn cả là sức khỏe của cá nhân,nên diễn đàn tạm đóng cửa do không có người quản lý thường xuyên. Chúng tôi sẽ mở lại diễn đàn Lý học Đông phương trong nay mai, nhưng sẽ tạm thời ngưng kết nạp thành viên mới và cũng hạn chế khả năng viết bài, để tiện quản lý diễn đàn. Tạm thời chỉ những thành viên đã hoạt động trong chuyên mục "trao đổi học thuật", học viên lớp Phong thủy Lạc Việt cao cấp mới tiếp tục viết bài được ở tất cả các mục. Diễn đàn Lý học Đông phương đã hoạt động nhiều năm nay, trên quan điểm học thuật minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và là cội nguồn của văn minh Đông phương, nhân danh khoa học. Chúng tôi kiên trì quan điểm này và chứng minh hoàn toàn có luận cứ khoa học. Chúng tôi rất hoan nghênh tinh thần khoa học trao đổi về vần đề này, trước đây, bây giờ và cả sau này. Chúng tôi rất vinh dự và hân hạnh được sự công tác tiếp tục của quí vị và anh chị em. Xin chân thành cảm ơn quí vị và anh chị em đã ủng hộ diễn đàn. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.1 like -
Vén sương mù phủ trên lịch sử Bách Việt Bài của 张天韵Trương Thiên Vận 张天韵01-08-2013 W: Quảng Tây tân văn 广西日报数字报刊 - 广西新闻网 (lược dịch) Vào những năm 70 thế kỷ trước tại huyện Điền Đông tỉnh Quảng Tây phát hiện được 8 ngôi mộ cổ thời Xuân Thu, cổ vật dưới mộ toàn là đồ đồng và đồ ngọc, chủ yếu là trống đồng và dao găm đồng. Trống đồng là totem của các tộc người vùng Tây Nam TQ và Đông Nam Ấ, có ngôn ngữ và tập tục gần gụi nhau, họ là hậu duệ cùng tông tộc của tiên nhân Bách Việt. Người Việt cổ đã từ Lĩnh Nam phát triển, đem ngôn ngữ và văn hóa đi bốn hướng Đông Tây Nam Bắc trong thời gian vài ngàn năm, hình thành nên Bách Việt.《汉书•地理志》曾说:“自交趾至会稽七八千里,百越杂处,各有种姓” Hán thư địa lý chí từng nói: Tự Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm, Bách Việt tạp ở, các hữu chủng tính. 广西、广东、云南、贵州、福建、台湾、浙江、安徽、上海、湖北、湖南、江西等地区,当年都生活着百越族人. Theo sử thư ghi chép, tại các nơi của TQ ngày nay như Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến, Đài Loan, Triết Giang, An Huy, Thượng Hải, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây v.v. thời đó đều là người dân tộc Bách Việt sinh sống. Giáo sư Phạm Hoằng Qúi 范宏贵 Đại học dân tộc Quảng Tây nghiên cứu khảo cổ nhiều năm cho rằng các tộc người có totem trống đồng là có cùng cội nguồn Bách Việt, hậu duệ của họ như ngày nay phân bố rất rộng 今,百越族的后裔分布非常广泛,从广西、广东、云南、贵州、湖南、海南等省区,到东南亚的越南、老挝、泰国、缅甸等国家,远至印度东北部的阿萨姆邦广大地区 từ Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Qúi Châu, Hồ Nam, Hải Nam v.v. đến các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, xa đến tận bang A Sam ở đông bắc Ấn Độ. Những năm 80 thế kỷ trước, khảo cổ Quảng Tây khai quật di chỉ thành cổ bằng đất tại thôn Bách Ngân, Tường Châu, huyện Điền Đông, gọi di tích đó là “thành cổ Bách Ngân”. Thành xây bằng đất, móng rộng 12 mét, đoạn di tích thành cao 4 mét, quanh thành có hào nước bảo vệ, đây là thành quân sự. Di tích này minh chứng cho cuốn sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp do Châu Khứ Phi soạn năm 1178 thời Nam Tống, kể rất kỹ về kinh tế, phong tục, sinh hoạt, sản vật , tài nguyên của vùng Lĩnh Nam tức Lưỡng Quảng ngày nay, là một trước tác quan trọng cho nghiên cứu lịch sử dân tộc 成书于1178年的《岭外代答》由南宋周去非所撰,记载了宋代岭南地区即今天两广一带的社会经济﹑少数民族的生活风俗,以及物产资源﹑山川﹑古迹等情况,成为民族历史研究非常重要的著作. Theo sách này ghi, đương thời vùng Quế Tây ngoài các con sông đường thủy còn có tất cả bốn con đường bộ, nối liền Vân Nam, Qúi Châu, Quảng Tây, Quảng Đông và vùng Đông Nam Á. Trong sách có địa danh Hoàng Sơn Trại, quyển ba viết: Trung Quốc thông đạo Nam Man tất phải từ Hoàng Sơn Trại. Năm 2011 giới khảo cổ Quảng Tây tiến hành khai quật một di tích cổ thành, thu được tiền bằng đồng thời Tống như Hoàng Tống Thông Bảo, Thánh Tống Thông Bảo, Nguyên Phong Thông Bảo…Sau đó ở khu vực lân cận còn thu được nơi tích tụ bát sứ chứng tỏ đây là khu phố buôn bán, đây chính là trung tâm thương mại mà trong sách Lĩnh Ngoại Đại Đáp nói cái tên Hoàng Sơn Trại. Giao thông thời đó đã khá phát triển, có bốn con đường qui tụ tại Hoàng Sơn Trại là đường từ Điền Đông đến Nam Ninh, đường đến Trinh Phong Qúi Châu, đường đến Miến Điện, đường qua Bảo Đức đến Việt Nam. Thời đó Tống Cao Tông đang chống kịch liệt quân Kim, lùi đến Hàng Châu khôi phục Tống triều, gọi là Nam Tống. Lịch sử Nam Tống chủ yếu là chống quân Kim xâm lăng, nhưng quân Tống thiếu ngựa chiến vì con đường lên Tứ Xuyên, Cam Túc, Thiểm Tây mua ngựa đã bị quân Kim chặn. Bởi vậy phải mua ngựa từ Đại Lý cách xa một nghìn km đưa lên, thời đó dân gian gọi ngựa đó là “quảng mã”. Lái ngựa dong được ngựa từ Vân Nam đến Điền Đông thì ngựa đã gầy còm. Họ buộc chân ngựa lại, cho ăn hai cân muối, rồi thả chăn vỗ béo lại rồi mới bán. Gần Hoàng Sơn Trại có thôn tên là Bình Mã chính là nơi xưa tập kết chọn ngựa. Lại có thôn Thượng Pháp mà tiếng Choang có nghĩa là Thợ Sắt, có di tích nhiều vũ khí, đó là nơi rèn khí giới và móng ngựa để giao cho quân đội nhà Tống. Sách trên có nói: ngựa Mán đến, rồi hàng hóa khác cũng đến ùn ùn. Hoàng Sơn Trại đúng là trung tâm giao dịch thương mại thời bấy giờ, nó tồn tại sầm uất được 300 năm. Đến năm 1259 vó ngựa kỵ binh Mông Cổ kéo đến, 6 vạn quân Tống ở Hoàng Sơn Trại chống quân Mông Cổ, thương vong nặng nề, thành phố nổi tiếng một thời Hoàng Sơn Trại bị san bằng thành bình địa, chỉ còn lại dấu tích ngày nay là những đoạn vỡ vụn rời rạc. Từ đó nó bị chôn vùi dưới lớp bụi đất. Nhưng con đường “Bách Việt cổ đạo” thì vẫn còn tồn tại. Ngày nay nó hồi sinh bằng hình thức mới, là hệ thống giao thông hiện đại kết nối các nền kinh tế, kết nối các dân tộc gần gụi huyết thống, ngôn ngữ, văn hóa.1 like