-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 08/06/2014 in all areas
-
Thưa quí vị. Người viết hân hạnh giới thiệu một phần trong đoạn kết của cuốn sách: ========== CHƯƠNG IV. THAY LỜI KẾT PHẦN III. Sự phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - một lý thuyết bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực, từ lịch sử vũ trụ ngay từ giai đoạn khởi nguyên, đến tất cả mọi lĩnh vực của thiên nhiên, cuộc sống và con người - chính là một món quà của nền văn hiến Việt chia sẻ với những giá trị tri thức của nền văn minh hiện đại. Nhưng sự phục hồi học thuyết này hoàn toàn không đơn giản. Người viết lặp lại nhận xét của Giáo sư Lê Văn Sửu - một học giả có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương - đã nhận xét trong tác phẩm "Nguyên lý thời sinh học cổ Đông phương" của ông, như sau: Gần đây có rất nhiều nhà khoa học ở đủ mọi ngành và ở nhiều nơi trên thế giới, với các phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác trong tay. Họ đã và đang nghiên cứu nền tảng của những di sản văn minh Đông phương này. Thế nhưng sự tiếp cận thực chất của nó còn đang là một khó khăn to lớn. Nhưng những "phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác" lại không phải là phương pháp đúng để phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vì, mặc dù những phương tiện đó hoàn toàn có đầy đủ khả năng tìm hiểu bản chất của những dạng tồn tại của vật chất. Nó cũng có thể là công cụ để thẩm định một lý thuyết mô tả một thực tại có thể kiểm chứng một hiện tượng được mô tả trong lý thuyết đó. Như trường hợp về sự tương tác của khối lượng với ánh sáng trong thuyết Tương đối của Einstein, khi những phương tiện kỹ thuật hiện đại xác định: ánh sáng bị biến dạng cong khi vượt qua một tinh cầu. Nhưng những phương tiện kỹ thuật hiện đại - mà thực chất là một phương pháp hỗ trợ nhận thức trực quan đó - lại không phải công cụ để thẩm định cả một hệ thống lý thuyết mô tả bản chất của những quy luật tương tác trong vũ trụ. Để thẩm định một hệ thống lý thuyết cần một sự đặc thù trong phương pháp. Vì chính sự phục hồi một lý thuyết đã có sẵn, tự nó đã là một trường hợp đặc thù trong lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - trong giới hạn thời gian lịch sử hạn chế từ 10. 000 năm trở lại đây. Chính tính đặc thù đó của sự phục hồi một hệ thống lý thuyết. Cho nên một yếu tố cần, là phải lấy chuẩn mực thẩm định là tiêu chí khoa học cho một hệ thống lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Người viết với sự cố gắng trong một khả năng hạn chế, đã chứng tỏ với bạn đọc sự hoàn chỉnh, tính hệ thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành, như là một sự khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý, chủ nhân đích thực của những tri thức thuộc văn minh Đông phương, trong cuộc hội nhập toàn cầu. Sự phát triển của nền văn minh hiện đại mà nền tảng chính là những tri thức khoa học hiện đại đã bế tắc. Những nhà khoa học hàng đầu như SW Hawking đã phải thốt lên: "Hai trăm năm nữa, con người phải đi tìm hành tinh khác để ở".3 likes
-
Giới hạn tốc độ Vũ trụ bằng vận tốc ánh sáng là sai lầm nhưng không phải duy nhất mà còn nhiều sai lầm khác của vật lý hiện đại. Nhưng chủ yếu là vật lý hiện đại không biết đến một thông số vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp khi mô tả mọi quá trình vận động trong Vũ trụ và không nhận thức được giới hạn của định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Chính vì vậy, mọi phương trình vật lý hiện đại chỉ đúng trong miền giới hạn khi ảnh hưởng của thông số kia đủ nhỏ. Nhưng các nhà khoa học lại tìm cách áp dụng những phương trình của họ cho mọi quá trình vật lý, do đó, sai lệch và mâu thuẫn là không thể tránh khỏi. Nhưng quan trọng hơn, phương pháp luận, quan điểm tư duy của giới khoa học ngày nay không thể giải quyết được vấn đề này mà khi giải quyết mâu thuẫn nào đó sẽ lại dẫn đến một mâu thuẫn khác nghiêm trọng hơn. Nói cách khác, khoa học hiện đại đang trong giai đoạn giống như trước năm 1905 khi thuyết tương đối ra đời. Các tương tác mà khoa học hiện đại gọi là tương tác hấp dẫn, tương tác mạnh, tương tác yếu thực chất chỉ là phản ứng của vật chất với không gian mà trong đó nó tồn tại mà thôi chứ không phải là tương tác giữa hai đối tượng vật chất (trường khí âm dương). Trong tự nhiên, chỉ có hai tương tác của trường khí âm dương: Thứ nhất là tương tác trực tiếp dựa trên qui tắc quân bình âm dương (ví dụ là lực hút, đẩy tĩnh điện …). Thứ hai là tương tác cảm ứng (ví dụ: lực cảm ứng điện từ …). Các nhà khoa học hợp cà hai lại thành tương tác điện từ mà không thấy được sự khác biệt về bản chất giữa chúng. - Tương tác trực tiếp thay đổi xu thế vận động của vật chất (lực F) bằng cách thêm vào một xu thế ngoại lai (công thêm lực P: F’ = F + P). Tốc độ giới hãn của tương tác này là tốc độ truyền năng lượng chính là vận tốc ánh sáng. Bản chất của tương tác này là quá trình lập lại trạng thái quân bình âm dương khi dương, âm quá lớn. - Tương tác cảm ứng làm xu thế vận động của vật chất tự thay đổi theo một chiều hướng khác (F --- > F’), hoàn toàn không có sự truyền năng lượng trong quá trình cảm ứng. Đó là lý do lực cảm ứng điện từ luôn vuông góc với phương chuyển động của điện tích. Do không có quá trình truyền năng lượng nên tốc độ truyền tương tác cảm ứng không bị cái gì giới hạn nên nó là vô cùng. Nói cách khác, tương tác cảm ứng là ngay lập tức trong toàn Vũ trụ. Đó là bản chất của cái mà các nhà khoa học gọi một cách mơ hồ (vì không hiểu được bản chất, tuy thấy được hiện tượng) là “rối lượng tử” hay “vướng lượng tử”. Tương tác cảm ứng có tốc độ vô cùng lớn cho chúng ta hiểu tại sao một niệm phát sinh lại có thể chấn động ba ngàn thế giới, các linh hồn giao tiếp như thế nào? … Tất cả những luận điểm trên tôi đều rút ra trong quá trình nghiên cứu học thuyết ADNH của Việt tộc (Chứ không phải Hán tộc) mang ra chia sẻ cùng các ACE trên diễn đàn Thân ái!2 likes
-
Thầy Lang Việt Nam
ATN liked a post in a topic by Hà Châu
THẦY LANG BA NA CHỮA VIÊM GAN, SUY THẬN BẰNG THUỐC RỪNG Ở nơi bốn bề núi dựng mây che, thế nhưng tên tuổi già La Chí Thái (SN 1937) được rất nhiều người trong và ngoài tỉnh biết đến với tài năng chữa nhiều bệnh nan y bằng thuốc cây rừng. Ngôi nhà của lão y người dân tộc Ba Na nằm khuất sâu trong buôn Xí Thoại, xã Xuân Lãnh, huyện miền núi Đồng Xuân (Phú Yên). Tôi vượt gần 100km đường trường để tìm đến nhà thầy thuốc La Chí Thái trong một buổi sáng mùa đông. Con đường đến buôn Xí Thoại không khó nhưng sương mù phủ dày đặc, che khuất chập chùng núi non và vực sâu hiểm trở. Qua vài lần hỏi thăm, tôi được mọi người chỉ cho một ông già to khỏe, mái tóc hoa râm đang ngồi dưới hiên nhà với nhiều bó rễ cây. Sau cái bắt tay nồng ấm, ông bắt đầu kể cho tôi nghe những câu chuyện chữa bệnh cứu người thông qua cuốn sổ dày cộm ghi tên những bệnh nhân đã từng nhờ ông chữa trị. Già Thái với những loại thuốc quý trên dãy Chư PanThuốc quý trên dãy Chư Pan Già Thái đi bộ đội tham gia kháng chiến từ năm 1960 - 1975. Nhờ học được những bài thuốc quý chữa bệnh từ cây rừng của cha và bác ruột, ông đã có hơn 10 năm làm y tá tại nhà thương Trúc Bạch (Bệnh viện tỉnh Phú Yên thời chống Mỹ đóng bí mật ở vùng núi cao - PV). Lúc bấy giờ thuốc Tây quá hiếm, anh y tá La Chí Thái đã vận dụng những bài thuốc gia truyền kết hợp với Tây y cùng các y, bác sĩ ở đây chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người. Đất nước giải phóng, La Chí Thái về lại buôn làng sống bằng nghề lao động và hái thuốc chữa bệnh cho dân. Già Thái kể: “Cách đây 30 năm, buôn Xí Thoại được coi là vùng heo hút, đường sá cách trở, cuộc sống còn lạc hậu. Người dân trong xã bị bệnh thì đến tôi lấy thuốc uống chứ làm gì biết đến bệnh viện với thuốc Tây”. Lật giở cuốn sổ ghi tên hàng ngàn bệnh nhân khỏi bệnh Thời bấy giờ, ông Thái chữa bệnh làm phước cứu người chứ không hề lấy tiền bạc. Ai nhớ ơn ông thì đem cho con gà, trái bí, bó củi... Mấy chục năm trôi qua, được nhiều người khen ngợi về tài năng và y đức nên tên tuổi ông vang xa. Trong những cuốn “bệnh án” ghi tên hàng ngàn người từ khắp các tỉnh, thành trong cả nước đến nhờ ông bốc thuốc thì bệnh nhân mắc chứng viêm gan và suy thận là nhiều nhất. Già Thái ghi chép cẩn thận tên tuổi, địa chỉ, chứng bệnh, thời gian điều trị và cả điện thoại liên lạc của người bệnh. Có người ở trong tỉnh, có người ở tận Hà Nội, Hải Dương, Đà Nẵng, Đồng Nai, Sài Gòn… Đa số họ đến đây vì đi xét nghiệm máu biết mình bị viêm gan, viêm thận, uống thuốc Tây dài ngày mà bệnh không giảm. Thuốc từ trăm loại cây rừng Qua kinh nghiệm bản thân, ông Thái cho rằng, những người sống ở vùng biển thường đau khớp, đau lưng, đái tháo đường, đau thần kinh tọa, tê nhức. Những người sống ở vùng nông thôn thường mắc bệnh gan, phổi, bướu cổ, hen suyễn, ngộ độc thức ăn, sỏi thận… Dù bất kỳ bệnh nào, với điều kiện là đến sớm, ông cho uống thuốc lá từ trăm loại cây rừng trong khoảng thời gian từ 5 - 30 ngày tùy theo bệnh là có thể khỏi. Chỉ nhìn sắc diện, sờ bụng, bấm mạch là già Thái chẩn đoán được bệnh. Phác đồ điều trị 2 căn bệnh này khác nhau nhưng có điểm giống là dùng thuốc tổng hợp nhiều loại rễ cây do chính ông lặn lội đến vùng núi Chư Pan giáp ranh tỉnh Đắk Lắk lấy về. Ông cho biết: “Già rồi nhưng mỗi tháng tôi phải đi núi ít nhất 2 lần để lấy thuốc quý. Còn các loại thuốc bình thường khác, có thể thuê người trong làng lấy rồi trả tiền công cho họ”. Nỗi lo người nối nghiệp Thuốc quý sau khi được lấy về, phải vạt nhỏ, phơi khô và chế biến theo công thức gia truyền. Thuốc này rất đắng, thường mỗi bệnh nhân chỉ uống khoảng 10 thang trong 30 ngày sẽ hết bệnh, ai nặng hơn có thể bổ sung 5 thang nữa. Cách pha chế thuốc cũng rất đơn giản. Thuốc được bỏ vào ấm rồi đun sôi. Ngày đầu đun sôi 10 phút, ngày thứ hai đun sôi 20 phút và ngày thứ ba đun sôi 30 phút rồi uống thay nước trắng hàng ngày. Trong thời gian uống thuốc, không được ăn măng tre, trứng và không uống rượu. Xắt nhỏ thuốc phơi khô trước khi chế biến Ông Thái khẳng định: “Làm đúng công thức trên là khỏi bệnh”. Minh chứng cho điều này, ông Thái chỉ cho chúng tôi xem hàng loạt bút tích ghi lời cảm ơn của những nhân chứng sống ở khắp các nơi. Những bệnh nhân được già Thái cứu sống thường trở lại hậu tạ bằng cân trà, hoặc túi cá khô hay chai nước mắm… Nổi tiếng thế nhưng già Thái không bắt chẹt bệnh nhân bao giờ. Hiện tại, mỗi thang thuốc, ông chỉ lấy khoảng 20.000 đồng. Những bệnh nhân nghèo khổ ông không lấy tiền. Nhà của già Thái không rộng nhưng nhiều người ở xa lỡ đường, già cũng cho ở lại và mời cơm nước miễn phí. Chính vì tài năng, đức độ của già mà mỗi ngày có ít nhất vài bệnh nhân tìm đến vùng núi xa xôi này để bốc thuốc. Khỏi gan còn khỏe rượu Ông So Dun Linh và ông Mang H cùng làng tấm tắc ngợi khen: “Thầy Thái giỏi lắm. Chúng tôi bị bệnh gan vàng da, vàng mắt sắp chết, nhờ thầy trị mà sống đến giờ. Không những khỏi bệnh, giờ đây chúng tôi còn uống được nhiều rượu, khỏe mạnh và đi làm suốt ngày cũng không thấy mệt”. Thầy lang La Chí Thái hiện đang ở tại buôn Xí Thoại, xã Xuân Lãnh, huyện miền núi Đồng Xuân, Phú Yên. Ngoài "độc chiêu" chữa viêm gan, suy thận, lão y Ba Na cho biết còn có những bài thuốc quý để chữa bệnh cho phụ nữ sau sinh. Từ thời phụ nữ các dân tộc thiểu số còn đẻ ở chòi, ở suối cho đến nay đẻ ở trạm y tế, bệnh viện thì họ vẫn nhờ ông hái thuốc cho uống. Sau khi sinh 3 ngày, mỗi người đun thuốc uống 2 lần, pha nước tắm 2 lần thì 5 - 6 ngày sau đã có thể ra đồng lao động bình thường mà không mắc các bệnh như sản hậu, huyết trắng, sa tử cung... Gia đình già Thái là tấm gương văn hóa của làng Xí Thoại. Cha ông là liệt sĩ, hai vợ chồng ông là người có công với Cách mạng. Gia đình già Thái có 3 người con đều thành đạt, công việc ổn định. Đây là niềm hạnh phúc của lão y này. Tuy nhiên, khi hỏi về việc chọn người nối nghiệp thì già Thái có vẻ lo lắng. Ông cho biết: “Trong 3 người con, anh La Chí Những là người chịu khó học nghề gia truyền, đến giờ đã biết nhiều loại thuốc rừng nhưng lại bận công tác ở cơ quan nhà nước nên không có thời gian ở nhà chữa bệnh. Tôi đã từng chọn một số người trong họ để truyền nghề nhưng đến nay vẫn không có ai làm được. Khi nào còn chưa tìm được người nối nghiệp gia truyền bốc thuốc cứu người thì tôi còn chưa thể yên lòng về với các vị thần linh". Theo Dân Việt1 like -
Giới thiệu: MINH TRIẾT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG Trích =============== CHƯƠNG IV. THAY LỜI KẾT PHẦN III. Sự phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - một lý thuyết bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực, từ lịch sử vũ trụ ngay từ giai đoạn khởi nguyên, đến tất cả mọi lĩnh vực của thiên nhiên, cuộc sống và con người - chính là một món quà của nền văn hiến Việt chia sẻ với những giá trị tri thức của nền văn minh hiện đại. Đây cũng chính là sự xác định việc phục hồi nền văn hiến Việt, không phải chỉ là việc phục dựng một tượng đài lịch sử nhằm tôn vinh một quá khứ. Mà đó chính là sự xác định và minh chứng cho một nền văn minh với danh xưng văn hiến, trải gần 5000 năm lịch sử , một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử. Nó có một tác dụng rất lớn trong việc hội nhập giữa các nền văn minh và sự phát triển trong tương lai của con người. Nhưng sự phục hồi học thuyết này hoàn toàn không đơn giản. Người viết lặp lại nhận xét của Giáo sư Lê Văn Sửu - một học giả có nhiều công trình nghiên cứu văn hóa cổ Đông phương - đã nhận xét trong tác phẩm "Nguyên lý thời sinh học cổ Đông phương" của ông, như sau: Nhưng những "phương tiện hiện đại có nhiều đặc tính ưu việt, như: tinh vi, nhanh chóng, chính xác" lại không phải là phương pháp đúng để phục hồi thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bởi vì, mặc dù những phương tiện đó hoàn toàn có đầy đủ khả năng tìm hiểu bản chất của những dạng tồn tại của vật chất. Nó cũng có thể là công cụ để thẩm định một lý thuyết mô tả một thực tại có thể kiểm chứng một hiện tượng được mô tả trong lý thuyết đó. Như trường hợp về sự tương tác của khối lượng với ánh sáng trong thuyết Tương đối của Einstein, khi những phương tiện kỹ thuật hiện đại xác định: ánh sáng bị biến dạng cong khi vượt qua một tinh cầu. Nhưng những phương tiện kỹ thuật hiện đại - mà thực chất là một phương pháp hỗ trợ nhận thức trực quan đó - lại không phải công cụ để thẩm định cả một hệ thống lý thuyết mô tả bản chất của những quy luật tương tác trong vũ trụ. Để thẩm định một hệ thống lý thuyết cần một sự đặc thù trong phương pháp. Vì chính sự phục hồi một lý thuyết đã có sẵn, tự nó đã là một trường hợp đặc thù trong lịch sử văn minh nhân loại nhận thức được - trong giới hạn thời gian lịch sử hạn chế từ 10. 000 năm trở lại đây. Chính tính đặc thù đó của sự phục hồi một hệ thống lý thuyết. Cho nên một yếu tố cần, là phải lấy chuẩn mực thẩm định là tiêu chí khoa học cho một hệ thống lý thuyết nhân danh khoa học được coi là đúng. Người viết với sự cố gắng trong một khả năng hạn chế, đã chứng tỏ với bạn đọc sự hoàn chỉnh, tính hệ thống và nhất quán của thuyết Âm Dương Ngũ hành, như là một sự khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến là một chân lý, chủ nhân đích thực của những tri thức thuộc văn minh Đông phương, trong cuộc hội nhập toàn cầu. Sự phát triển của nền văn minh hiện đại mà nền tảng chính là những tri thức khoa học hiện đại đã bế tắc. Những nhà khoa học hàng đầu như SW Hawking đã phải thốt lên: "Hai trăm năm nữa, con người phải đi tìm hành tinh khác để ở". =============== Chưa nói đến thiên tai, chiến tranh tranh giành ngôi vị bá chủ thế giới trong việc hội nhập toàn cầu. Chỉ cần sự phá hủy môi trường thiên nhiên, cũng đủ là một tai họa cho sự sống trên trái Đất này.1 like
-
Thầy Lang Việt Nam
ATN liked a post in a topic by Thiên Đồng
Bệnh xương khớp bị viện trả về, tìm đến bài thuốc Nam này là khỏi Gia đình có truyền thống lâu đời lấy các cây, lá thuốc Nam chữa gãy xương cho người dân quanh vùng. Đến đời ông đã 6 đời làm nghề này. Hơn 30 năm qua ông Lê Phi Tiều (thôn Chiềng Khạc, xã Đồng Lương, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa) chữa các bệnh về xương khớp cho người dân trong vùng bằng cây lá rừng. Ông Tiều bảo, rất nhiều bệnh nhân đến nhờ ông chữa vì bị bệnh viện trả về. Bài thuốc thông mạch, bổ gân, chắc xương Chúng tôi đến gia đình ông Tiều vào buổi sáng, ông vừa đi bó thuốc cho những người ở lại gia đình ông điều trị. Nhâm nhi chén trà nóng trên tay, ông kể: Gia đình ông có truyền thống lâu đời lấy các cây, lá thuốc Nam chữa gãy xương cho người dân quanh vùng. Đến đời ông là 6 đời làm nghề này. Từ nhỏ ông đã được ông nội đưa lên những cánh rừng trong vùng để tìm các loại cây, lá mang về chữa bệnh. Ông nội ông Tiều trước đây có rất nhiều bài thuốc chữa bệnh cho dân bản, nhưng ông chỉ dạy cho ông duy nhất bài thuốc chữa các bệnh về xương. Ông Tiều bảo để học bài thuốc này không khó, nhưng phải người có tâm chữa bệnh, coi bệnh nhân cũng như người thân của mình chữa mới nhanh khỏi. Trước đây thấy ông là người tháo vát, khỏe mạnh lại hiền lành nên ông nội mới truyền lại nghề để ông nối dõi. "Thuốc chữa các bệnh về xương của gia đình chúng tôi có 5 loại, là những cây lá thuốc Nam trên rừng. Tôi đã đi lấy nhiều năm nhưng thú thực để gọi tên chính xác của loại cây lá đó tôi không biết. Lên rừng biết loại đó chữa khỏi bệnh thì lấy về. Hằng ngày tôi vẫn lên rừng lấy thuốc về cho bệnh nhân chữa bệnh. Có người bắt chước tôi lấy loại thuốc đó về chữa gãy xương nhưng bệnh không khỏi. Cũng loại thuốc đó, nhưng khi đi lấy chúng tôi phải căn giờ, sao tẩm đúng cách thì mới khỏi bệnh", ông Tiều cho biết. Theo ông Tiều, thuốc Nam khi lấy về rửa sạch, băm nhỏ và chia làm hai loại: Loại thứ nhất trộn lẫn với nhau để bó vào vết thương của người bệnh. Loại thứ hai bỏ thuốc vào nồi nấu lên để cho bệnh nhân tắm. Tắm để bệnh nhân thông huyết mạch, bổ gân và xương được rắn chắc. Thuốc đó còn được bó trực tiếp vào vết thương giúp cho liền xương, vết thương được lành lặn. Người bị gãy chân, gãy tay chỉ cần bó thuốc của ông hơn một tháng là khỏi. Bệnh viện trả về đến nhờ ông chữa Ông Tiều bảo, những người đến nhờ ông chữa phần nhiều đã đi chữa trị nhiều nơi không khỏi. Bà Hồ Thị Tiến, 75 tuổi ở khu 1 xã Nguyệt Ấn, huyện Ngọc Lặc cho biết: Trong một lần bà được người cháu chở đi chơi không may bị xe tải đâm gãy chân. Sau đó người nhà đã đưa đi bệnh viện khám, các bác sĩ kiểm tra và kết luận bà bị gãy chân phải. Xương bị dập nát phải đóng đinh mới có thể đi lại được. Gia đình bà Tiến thấy bà tuổi cao sức yếu, không biết đóng đinh vào xương có lành lặn không nữa. Sau khi họp bàn, mọi người trong gia đình quyết định đến nhờ ông Tiều bó thuốc Nam. Bà Tiến kể: "Tôi đến nhờ ông Tiều chữa đến nay được hai tháng, trước khi đến đây tôi chỉ ngồi một chỗ, mọi sinh hoạt đều phải nhờ con cháu giúp. Nhưng giờ tôi đã có thể dùng nạng đi lại trong nhà được rồi. Hằng ngày ông Tiều mang những vị thuốc đã được giã nhỏ, cho vào nồi xào lên rồi bó vào vị trí chân bị gãy. Những vị thuốc này cũng được ông chặt nhỏ, rửa sạch cho vào nồi đun sôi để cho tôi uống. Có khi ông lại dùng nước này cho tôi tắm nữa. Ông ấy bảo phải kết hợp các phương pháp đó thì vết thương mới nhanh khỏi, xương mới nhanh liền. Quả thực sau một thời gian nhờ ông Tiều chữa trị chân của tôi đã đỡ nhiều. Mai là ông Tiều cắt thuốc cho tôi về nhà điều trị". Cũng trong dãy phòng dành cho bệnh nhân nặng điều trị, chúng tôi gặp anh Phạm Văn Lai (xã Thạch Lập, huyện Ngọc Lặc). Anh Lai cho hay, do những năm trước đây anh làm việc nặng, thời gian gần đây anh thấy lưng bị đau nhức. Vì thế, anh đã nhờ người thân đưa đi bệnh viện kiểm tra. Sau khi chụp cộng hưởng từ bác sĩ chẩn đoán anh bị viêm tủy cắt ngang lưng. Anh đã đi chữa trị nhiều nơi không khỏi, nhờ người thân giới thiệu gia đình đưa lên nhờ ông Tiều điều trị. "Khi tôi lên đây, vừa xuống xe phải nhờ hai người dìu vào nhà, từ ngang lưng xuống dưới chân, cơ thể đau nhức. Người đau đớn, mệt mỏi đến mức cơm ăn chỉ được nửa bát. Nhờ thầy Tiều chữa trị mà giờ tôi mới có thể ngồi dậy, chống gậy đi lại được. Hằng ngày thầy giã thuốc đắp vào lưng cho tôi, lấy thuốc cho tôi tắm. Vì thế, lưng tôi giờ đỡ đau nhiều rồi. Sau khi bóp xong thầy cho tắm thuốc lá, cơ thể thấy nhẹ nhõm, dễ chịu. Đặc biệt ở đây điều trị, nhưng thầy không bao giờ lấy tiền ở, chỉ lấy chút ít tiền thuốc thang", anh Lai kể. Thuốc của ông Tiều chữa gãy xương là cây thuốc Nam. Ân nhân của người nghèo Ông Tiều bảo, một nguyên tắc bất di bất dịch của ông khi chữa cho bệnh nhân là họ phải trực tiếp đến để kiểm tra, phải đưa phim đã chụp ở bệnh viện cho ông xem. Khi đã xác định được bệnh cụ thể, nếu chữa được ông mới dám nhận. Hơn 30 năm qua, ông chữa bệnh cho người dân trong vùng không phải để thu tiền mà vì muốn mọi người được khỏe mạnh. "Gia đình tôi từng cưu mang nhiều người đến đây ăn ở để chữa bệnh. 7 năm về trước, cháu Lò Anh Đức quê ở huyện Bá Thước được mẹ cõng sang nhờ tôi chữa. Qua lời kể của mẹ Đức thì cháu bị bệnh viêm xương chậu, gia đình nghèo không có tiền đi viện chữa. Nhìn thấy tình cảnh đó tôi rất thương cháu, cho mẹ con cháu ở lại để chữa bệnh. Suốt hai tháng trời tôi chăm sóc chữa trị cho cháu Đức miễn phí. Mới hôm qua mẹ con Đức đến nhà tôi mang con lợn cỏ 5kg, cùng 100.000đ để tạ lễ", ông Tiều kể. Đó chỉ là một trong những trường hợp ông Tiều nhận chữa miễn phí. Nhiều người ở xa ở lại nhà ông chữa bệnh, khi nào chữa khỏi thì ông mới lấy chút tiền thuốc thang, còn tiền ở thì ông hoàn toàn miễn phí. "Khi ông tôi truyền nghề đã nói rằng, làm nghề này không phải để làm giàu mà chủ yếu làm phúc. Dân trong vùng còn nghèo, bình thường đã khổ. Vì thế, khi họ bị bệnh tôi thương họ lắm", ông Tiều tâm sự. Hiện nay, niềm vui nhất của ông Tiều là ba người con của ông đều biết lấy thuốc về chữa bệnh. Nhưng phương pháp bí truyền chữa khỏi các bệnh về xương thì ông vẫn giữ lại. Ông cần phải có thời gian để kiểm chứng bản lĩnh của từng người con. Vì theo ông làm nghề cứu người phải là người thực sự có bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức. Nếu như cả ba người con ông thấy không đủ các yếu tố cần và đủ để làm nghề thì buộc ông phải chờ đợi thế hệ cháu chắt. http://www.baomoi.co...82/13469085.epi1 like -
IV. LỜI CUỐI SÁCH. Thuyết Âm Dương Ngũ hành, nhân danh nền văn hiến Việt, chính là ứng cử viên duy nhất của "Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" - mà nhà tiên tri vĩ đại Vanga, người Bungari đã nói tới. Nếu như bạn đọc cho rằng: lời tiên tri của bà Vanga là mơ hồ thì người viết cũng chia sẻ với ý tưởng của bạn và chỉ coi lời tiên tri của bà Vanga như là một hiện tượng khách quan đã phổ biến và tồn tại trên thực tế, làm đoạn dẫn cho lời cuối sách. Do giới hạn của cuốn sách, người viết chỉ có thể trình bày được những nội dung căn bản. 1/ Qua việc xác định cấu trúc và nội hàm đích thực câu trong Hệ từ Thượng truyện: "Thị cố dịch hữu Thái cực. Thị sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh tứ tượng. Tứ tượng biến hóa vô cùng". Mô tả một thực tại diễn biến lịch sử và những qui luật vũ trụ, từ khởi nguyên của thuyết Âm Dương Ngũ hành, từ những di sản văn hóa truyền thống Việt. 2/ Mô tả nguyên lý căn để của học thuyết Âm Dương ngũ hành: "Hà đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt", cùng với những nguyên lý và những khái niệm căn bản những nguyên lý, danh từ căn bản và những khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành. 3/ Từ những hệ thống luận cứ trên - chứng minh sự phù hợp với tiêu chí khoa học của một lý thuyết nhân danh khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi từ nền văn hiến Việt - trong việc liên hệ với mọi vấn đề liên quan đến nó thuộc nội hàm học thuyết này. Người viết hy vọng rằng: Mặc dù đó chỉ là những giá trị nền tảng ban đầu, nhưng có tính định hướng cho việc phục hồi toàn diện hệ thống học thuyết này, trong mọi lĩnh vực bao trùm của nó. Tuy nhiên, để phục hồi một cách toàn diện, còn là cả một công việc đồ sộ, cần sự đóng góp của rất nhiều bậc trí giả tâm huyết. Mặc dù vậy, với tất cả nhiệt tình của mình, chúng tôi hy vọng góp phần làm sáng tỏ chân lý đích thực về một nền văn hiến Việt khởi nguồn từ miền nam sông Dương tử với gần 5000 năm lịch sử - chủ nhân đích thực của những gía trị nền tảng của nền văn minh Đông phương. Chúng tôi hy vọng và tin tưởng điều này. Chúng tôi cho rằng: chính sự tiến hóa của nền văn minh nhân loại cho đến ngày hôm nay là điều kiện cần và đủ để minh chứng cho một chân lý bị khuất lấp hàng thiên niên kỷ trong kho tàng kiến thức của nhân loại. Một trong những câu truyện kể dân gian Việt Nam đã mô tả có tính tiên tri cho sự phục hồi những giá trị của nền văn hiến Việt, hoàn toàn phủ hợp với kết quả tiên tri của bà Vanga: đó chính là câu truyện "Trê Cóc" nổi tiếng trong nền văn hiến Việt. Câu chuyện kể rằng: Cóc mẹ xuống đầm đẻ trứng và nở ra một đàn nòng nọc. Vợ chồng nhà Trê, không có con, thấy đàn nòng nọc giống mình bèn bắt đem về nuôi. Cóc mẹ trở lại đầm thì không thấy con đâu. Biết Trê lấy cắp con mình, bèn đâm đơn đi kiện quan Cá Chép. Nhưng quan Cá Chép xử thắng cho vợ chồng nhà Trê, vì thấy nòng nọc giống Trê hơn giống Cóc. Mẹ Cóc buồn bã thì cụ đồ Nhái khuyên mẹ Cóc không cần phải lo nghĩ nhiều. "Sự phát triển của tự nhiên, đến một lúc một thời điểm thích hợp thì nòng nọc sẽ phát triển thành cóc và trở về với Mẹ Cóc. Quả nhiên, sau này, khi đàn nòng nọc lớn lên lại trở thành cóc và về với mẹ Cóc. "Trê Cóc" .Tranh dân gian Đông Hồ trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Đây là một câu chuyện mang tính minh triết Việt: Nền văn minh Hán đã Hán hóa những di sản của nền văn hiến Việt tử hơn 2000 năm trước. Bởi vậy, những di sản ấy mang một hình thức bằng văn tự Hán, làm mọi người cứ tưởng nó thuộc về nền văn hóa Hán. Điều này được mô tả trong câu chuyện bằng hình thức giống Trê của đàn nòng nọc. Đã hơn hai ngàn năm trôi qua, chính sự phát triển tự nhiên - theo quy luật tiến hóa của nền văn minh nhân loại - là điều kiện cần và đủ để thẩm định một chân lý cổ xưa sẽ quay trở lại với con người. Đây chính là nội dung của thầy Nhái Bén khuyên mẹ Cóc cứ yên tâm; quy luật phát triển của tự nhiên sẽ làm đàn nòng nọc tiến hóa thành Cóc và trở về với nguồn cội. Chỉ đến ngày hôm nay - đã hơn 2000 năm trôi qua - nền văn minh nhân loại đã phát triển và hình thành những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học, mới đủ cơ sở để chứng minh cho nền văn minh Việt chính là chủ nhân đích thực của nền văn minh Đông phương. Đàn nòng nọc - biểu tượng của nền văn minh Khoa Đẩu - trở về với nguồn cội. Sự mở đầu và nội dung của toàn bộ cuốn tiểu luận này, mô tả những giá trị minh triết Việt, chứng minh cho toàn bộ những giá trị của nền văn minh Đông phương thuộc về Việt tộc, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, mà hậu duệ chính là các dân tộc ở đất nước Việt Nam hiện nay. Cho nên, khi kết thúc cuốn tiểu luận này, chúng tôi cũng xin mô tả một nội dung minh triết của một câu truyện nổi tiếng trong di sản văn hóa truyền thống Việt - truyện "Trê Cóc" - để chia sẻ với bạn đọc một thông điệp của tổ tiên về sự phục hồi những giá trị văn hiến Việt, như là một quy luật tất yếu của sự phát triển trong tương lai của nền văn minh hiện tại. Chân thành cảm ơn sự quan tâm, chia sẻ và đóng góp của bạn đọc. Viết xong tại T/p HCM Giờ Tý. Ngày 28. Tháng 10. Năm Quý Tỵ Việt lịch. Nhằm ngày 30. 11. 2013 Nguyễn Vũ Tuấn Anh1 like
-
Muốn tìm hiểu "Hóa" phải quay về bộ môn Tứ Trụ: Thiên địa nhân của tứ trụ I – Thiên địa nhân Các Can và Chi trong tứ trụ tượng trưng cho khí âm dương của ngũ hành của trời và đất. Thiên tức là thiên can chủ về trời, là Thiên nguyên (tức là các nguyên nhân này do ông trời quyết định – tức bởi 10 vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời gây ra). Chúng chính là các can đã lộ ra trong tứ trụ của từng người. Địa tức là địa chi chủ về xã hội mà con người đang sống trên mặt đất, là Địa nguyên. Nhân tức là con người được tạo ra trong trời và đất, do vậy trong mỗi địa chi của tứ trụ có chứa từ 1 đến 3 can, đó chính là các thần đặc trưng cho khả năng chủ quan của người có tứ trụ, là Nhân nguyên. Sự dự đoán tổng hợp của tam nguyên (Thiên Địa Nhân) là một thể thống nhất trong mệnh lý học, nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi vì nó có thể chỉ ra toàn bộ tiền đồ, cát, hung, họa, phúc ....của cả một đời người. Nếu kết hợp tứ trụ với tướng tay và tướng mặt để dự đoán thì điều dự đoán có thể đạt đến sự chính xác, chi tiết đến kỳ diệu. II – Thiên nguyên Thiên nguyên trong tứ trụ chính là các can của trụ năm, tháng và giờ, đó là ba thần. Đối với tứ trụ có một tổ hợp trong sáng và đẹp thì ba thần này thường sẽ là : Thực hay Thương sinh Tài, Tài sinh Quan hoặc Sát, Quan hay Sát sinh Ấn, Thực thần chế Sát, Thương quan hợp Sát, Thương quan hoặc Thực thần mang Ấn, Tài Quan Ấn đều có... Những tổ hợp này thường là các yếu tố báo hiệu những mệnh phú quý. 1 – Ngũ hợp của thiên can Vì các thiên can là khí của ngũ hành nên chúng có hai tính chất tương sinh và tương khắc với nhau (như đã nói ở trên) ngoài ra chúng còn có các tính chất hợp và biến đổi để tạo ra các hóa cục. Thiên can chỉ có thể hợp với nhau khi chúng ở gần nhau. Gần ở đây có nghĩa là can trụ năm với can trụ tháng, can trụ tháng với can trụ ngày, can trụ ngày với can trụ giờ, các can trong tứ trụ với can đại vận và lưu niên, can đại vận và can lưu niên với can tiểu vận. 2 – Tính chất của ngũ hợp Giáp hợp với Kỷ, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp trung chính. Ất hợp với Canh, tức là hợp với người hay sự việc là hợp nhân nghĩa. Bính hợp với Tân, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp có uy lực để chế ngự. Đinh hợp với Nhâm, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp dâm loạn. Mậu hợp với Quý, tức là hợp với người hay sự việc là sự hợp vô tình. 5 tổ hợp này được gọi là ngũ hợp. 3 - Thiên can hợp với nhau có thể hóa cục Giáp hợp với Kỷ có thể hóa được thành Thổ. Ất hợp với Canh có thể hóa được thành Kim. Bính hợp với Tân có thể hóa được thành Thủy. Đinh hợp với Nhâm có thể hóa được thành Mộc. Mậu hợp với Quý có thể hóa được thành Hỏa. Các hóa cục này có khả năng sinh, phù hay khắc chế Thân. 4 – Quy tắc hợp và hóa của các thiên can trong tứ trụ Các thiên can trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi chúng ở gần nhau. Cần phân biệt hai trường hợp, các can hợp với nhau hóa được hay chỉ hợp mà không hóa. a – Can ngày chỉ hợp được với can tháng và can giờ. Nếu can ngày chỉ hợp với can tháng hay can giờ thì chúng không thể hóa được cục nếu trong tứ trụ xuất hiện hành quan-sát của hóa cục này (nghĩa là hành khắc hành của hóa cục này, kể cả hành quan-sát này chỉ có các can tàng phụ (?)) mặc dù có hành của chi tháng hay hành của hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa, còn nếu 2 can hợp với 1 can thì ngũ hợp này không bao giờ có thể hóa được cục. b – Ngũ hợp của can trụ năm với can trụ tháng có thể hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay hành hóa cục của chi tháng là hành dẫn hóa hay còn được gọi là thần dẫn (nó giống như chất xúc tác trong các phản ứng hóa học). Ví dụ : Mậu ở trụ năm hợp với Quý ở trụ tháng hóa thành Hỏa cục chỉ khi chi tháng (chi của trụ tháng) là Tị, Ngọ (vì hành của Tị và Ngọ là Hỏa) hay chi tháng đã hóa thành Hỏa cục, vì vậy các chi Tị, Ngọ hay Hỏa cục ở chi của trụ tháng được gọi là các thần dẫn cho các hóa cục của các thiên can. 5 – Quy tắc hợp và hóa của các can giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận a – Ngũ hợp chỉ có 2 can 1 - Ngũ hợp của các can trong tứ trụ (kể cả can ngày bởi vì khi nó hợp với tuế vận, nó được xem như các can khác và nó không làm cho hành của Thân thay đổi khi nó hóa thành các hành khác nếu hành của Thân chỉ có can ngày) với can đại vận hóa cục chỉ khi hành của chi tháng hay chi đại vận (mặc dù các chi này đã hóa cục có hành khác với hành của các chi này) cũng như hành của hóa cục của chi tháng hay chi đại vận (nếu chúng hóa cục) có khả năng dẫn hóa cho ngũ hợp này (nghĩa là hành của thần dẫn giống với hành của ngũ hợp này). 2 - Ngũ hợp của can trong tứ trụ với can lưu niên hóa cục...nó tương tự như câu trên khi thay đại vận thành lưu niên, chỉ có khác là hành của chi lưu niên cũng có khả năng dẫn hóa nếu chi lưu niên là động (khi nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 3 – Ngũ hợp của can đại vận với can tiểu vận hóa cục.... nó tương tự như can trong tứ trụ hợp với can đại vận nhưng có thêm chi tiểu vận (nghĩa là hành của chi tiểu vận) cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là động (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác). 4 - Can lưu niên hợp với can tiểu vận hóa cục tương tự như can trong tứ trụ hợp với can lưu niên hóa cục nhưng có thêm chi tiểu vận cũng có khả năng dẫn hóa như chi đại vận nếu nó là đông (tức là nó bị xung, khắc hay hợp hóa cục hay không hóa cục bởi các chi khác. 5 – Can đại vận hợp với can lưu niên hóa cục chỉ khi hành của các chi trụ tháng, đại vận hay lưu niên (riêng chi lưu niên phải động) cũng như hóa cục của các chi này (nếu chúng hóa cục) là thần dẫn. b – Ngũ hợp có từ 3 can trở lên Các ngũ hợp này được gọi là tranh hợp nên chúng không có khả năng hóa cục. Do vậy các can của chúng luôn luôn khắc nhau nếu là tranh hợp giả và không khắc được nhau nếu là tranh hợp thật. 1 - Tranh hợp thật của thiên can chỉ xẩy ra khi có 2 can giống nhau có hành là chủ khắc ở tuế vận hợp với can tiểu vận hay hợp với 1 hay nhiều can giống nhau trong tứ trụ hoặc hợp với can tiểu vận và các can giống với can tiểu vận ở trong Tứ Trụ. 2 - 2 can là chủ khắc giống nhau ở trong tứ trụ hợp với 1 can của tuế vận hay 2 can của tuế vận nếu chúng giống nhau. Giải thích về tranh hợp thật của thiên can giống như tranh hợp thật của địa chi (xem phía dưới). Khi các thiên can hợp với nhau hóa cục có hành mới thì ta phải lấy hành mới này để luận, như vậy thì hành cũ của các can trong hóa cục này đã hoàn toàn mất đi tác dụng của chúng, còn nếu chúng hợp với nhau mà không hóa thì chỉ có các can trong tổ hợp mới có khả năng tác dụng được với nhau nhưng chúng không có khả năng tác dụng với các can khác ngoài tổ hợp này (trừ các chi cùng trụ với chúng sẽ nói sau). III - Địa nguyên Các địa chi trong tứ trụ là địa nguyên. Địa nguyên đại diện cho xã hội của con người nên rất phức tạp. Đủ thứ phát sinh trong cái xã hội này, như đâm, chém, giết nhau... người ta gọi là xung, khắc. Tụ tập thành từng nhóm, từng hội thành các đảng phái, tôn giáo... khác nhau người ta gọi là hội, hợp. Người này lừa đảo, hãm hại người kia người ta gọi là hình, hại. Tự mình làm khổ mình người ta gọi là tự hình,…..Sự hình, xung, khắc, hại, hội và hợp của các địa chi có ảnh hưởng rất lớn đối với Thân. Giữa các địa chi với nhau các sách cổ chỉ nói đến hình, xung, khắc, hóa, hội, hợp và hại mà không nói đến sự tương sinh (phải chăng địa chi không có khả năng sinh cho nhau (?)). Tôi đã chứng minh được thiên can và địa chi trong cùng trụ có thể sinh cho nhau và một ví dụ có thể chứng minh được các thiên can cũng có thể sinh được cho nhau (?) (xem ví dụ số 148). 1 - Lục hợp của địa chi Tý....hợp với Sửu có thể hóa thành Thổ cục. Ngọ...........Mùi..................Thổ cục. Dần...........Hợi..................Mộc cục. Mão...........Tuất.................Hỏa cục. Thìn..........Dậu..................Kim cục. Tị............Thân.................Thủy cục. Sáu tổ hợp trên được gọi là lục hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau (gần của địa chi tương tự như gần của thiên can). Lục hợp chủ yếu đại diện cho quan hệ vợ chồng hay giữa nam với nữ. 2 – Tam hợp của địa chi Thân Tý Thìn hợp với nhau có thể hóa thành Thủy cục. Hợi..Mão Mùi ..........................................Mộc cục. Dần..Ngọ Tuất..........................................Hỏa cục. Tị..Dậu Sửu............................................Kim cục. Tam hợp không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức, đoàn thể, đảng phái chính trị.... 3 - Các bán hợp của địa chi Thân bán hợp với Tý hay Tý bán hợp với Thìn có thể hóa thành Thủy cục. Hợi......................Mão hay Mão............Mùi.......................Mộc cục. Dần......................Ngọ hay Ngọ............Tuất......................Hỏa cục. Tị.........................Dậu hay Dậu............Sửu.......................Kim cục. Bán hợp chỉ có khi các chi của chúng ở gần nhau. Bán hợp chủ yếu đại diện cho các tổ chức nhỏ phi chính trị. Trong tứ trụ có lục hợp, tam hợp hay bán hợp là chủ về người đó có dung nhan đẹp, tính cách thanh lịch, thần khí ổn định, yêu cuộc sống, lòng dạ thẳng thắn, linh lợi, thông minh hoạt bát (xét về hợp). Nếu các tổ hợp này hóa thành (cục) hỷ dụng thần là tốt (trừ chúng gây ra Đại Chiến), còn hóa thành kỵ thần là xấu (xét về hành của hóa cục). 4 – Tam hội của địa chi Tam hội của Dần Mão Thìn..về phương Đông có thể hóa thành Mộc cục. Tam.............Tị Ngọ Mùi....về phương nam..có thể hóa thành Hỏa cục. Tam.............Thân Dậu Tuất.về phương Tây..có thể hóa thành Kim cục. Tam.............Hợi Tý Sửu....về phương Bắc..có thể hóa thành Thủy cục. Tam hội không cần các chi của chúng phải gần nhau. Tam hội chủ yếu đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Vì khí của tam hội cục sẽ hội tụ về một phương (tôn thờ một vị thánh), cho nên khí âm dương ngũ hành của nó là vượng nhất, sau đó mới đến tam hợp, bán hợp rồi mới đến lục hợp. Các sách cổ thường nói trong tứ trụ có từ 3 tổ hợp trở lên thường là người có tài đối với nam, còn là dâm loạn đối với nữ (thời nay câu này là sai với nữ). 5 - Lục xung của địa chi Tý....với..Ngọ...là tương xung Mão........Dậu................ Dần........Thân............... Tị...........Hợi................ Thìn.......Tuất............... Sửu.........Mùi................ Trong đó: Tý với Ngọ, Tị với Hợi là sự xung-khắc của Thủy với Hỏa. Dần với Thân, Mão với Dậu là sự xung-khắc của Kim với Mộc. Duy chỉ có thìn với Tuất và Sửu với Mùi là giống nhau về hành, vì vậy chỉ nói đến xung không nói đến khắc. Trong đó: Các lực xung-khắc của Tý với Ngọ và Dậu với Mão là các lực xung-khắc mạnh nhất, vì chúng đại diện cho các lực xung-khắc chính phương là Đông (Mão) với Tây (Dậu) và Nam (Ngọ) với Bắc (Tý). Sau đó mới đến lực xung-khắc của Dần với Thân và Tị với Hợi vì phương xung-khắc của nó không đúng chính phương, cuối cùng mới là lực xung của Thìn với Tuất và Sửu với Mùi. 6 – Tương hại của địa chi a - Tý.....và...Mùi...hại với nhau, tức là Tý....hại...Mùi, .Mùi...hại...Tý b - Sửu...............Ngọ........................Sửu.........Ngọ, .Ngọ.........Sửu c - Dần.................Tị...........................Dần...........Tị,.....Tị..........Dần d - Mão................Thìn.......................Mão.........Thìn, Thìn........Mão e - Thân...............Hợi........................Thân........Hợi,..Hợi.........Thân f - Dậu.................Tuất.......................Dậu ........Tuất,.Tuất........Dậu Lục hại trên được sinh ra từ lục hợp : Ví dụ 1: Lục hợp (gia đình) của Ngọ với Sửu bị phá tan khi có Tý đến xung Ngọ, vì vậy Tý đã hại Mùi (làm cho gia đình của Ngọ với Mùi bị tan vỡ). Ví dụ 2 : Lục hợp của Tý với Sửu có thể bị phá tan khi có Mùi đến xung Sửu, vì vậy Mùi đã hại Tý (làm cho gia đình của Tý với Sửu có thể bị tan vỡ)..... Người gặp các hại trên, sợ nhất ở trụ ngày và trụ giờ. Thường đối với người như vậy thì về già hay bị tàn tật hoặc không có nơi nương tựa. Nếu còn gặp Kình dương thì không chúng phải mũi tên, hòn đạn cũng dễ gặp phải hổ (?). Hình, tự hình và hại nói chung là xấu nhưng nếu bị hợp hóa cục, hoặc bị khắc có thể giải được, còn bị xung (kể cả thổ) thì chỉ giảm đi một phần. 7 – Tương hình của địa chi Tý hình Mão, Mão hình Tý là hình phạt do vô lễ mà dẫn đến. Dần hình Tị, Tị hình Thân, Thân hình Dần là hình phạt do đặc quuyền đặc lợi dẫn đến. Sửu hình Mùi, Mùi hình Tuất, Tuất hình Sửu là hình phạt do cậy quyền cậy thế gây lên . Tương hình chủ yếu được gây ra từ tam hợp, nó nghĩa là những người trong cùng hay khác các đoàn thể, đảng phái chính trị lừa đảo, hãm hại nhau. 8 - Tự hình của địa chi Thìn tự hình Thìn, Dậu tự hình Dậu, Ngọ tự hình Ngọ, Hợi tự hình Hợi là do tự mình gây lên. Các sách cổ có viết: “Tự hình sợ nhất là năm và tháng lại có thêm sát thì nhất định bị tổn thương, hoặc không bị giam cầm thì cũng bị chết cháy, hay gặp nạn binh đao mất đầu “. 9 - Tứ hình của địa chi Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi được gọi là tứ hình. Trong tứ trụ phải có ít nhất 3 chi khác nhau của tứ hình và đến năm có thái tuế là chi thứ 4 thiếu thì tứ hình này mới được coi là xấu, còn ngoài ra cho dù tứ trụ với tuế vận có đủ tứ hình cũng không có tác dụng gì cả. 10 - Tứ trự hình của địa chi Tứ Tự Hình là phải có ít nhất 4 chi giống nhau của Tự Hình là Thìn, Dậu, Ngọ hay Hợi. (Cách giải cứu cho tất cả các loại hình, tự hình và hại này là giống nhau.) 11 – Quy tắc hợp và hóa của các địa chi trong tứ trụ Ta gọi các tổ hợp của các can chi trong tứ trụ chưa có tuế vận vẫn hóa được cục là hóa cục có từ khi mới sinh. a - Các bán hợp hay lục hợp của các địa chi trong tứ trụ hợp được với nhau chỉ khi 2 chi này phải ở gần nhau trong tứ trụ, trừ tam hợp và tam hội. Các bán hợp, lục hợp, tam hợp hay tam hội hóa thành cục chỉ khi trong tứ trụ hay ở tuế vận có thần dẫn. Các thần dẫn cho các tổ hợp của các địa chi hóa cục chính là các can lộ trong tứ trụ hay ở tuế vận cũng như các hóa cục của thiên can có hành giống với hành của hóa cục mà các tổ hợp của các địa chi đó sẽ hóa thành (chú ý can tiểu vận chỉ dẫn hóa được cho tổ hợp của chi tiểu vận). Ví dụ: Trong tứ trụ có Tý trụ năm và Sửu trụ tháng ở gần nhau, vì vậy chúng có thể hợp được với nhau và tổ hợp này được gọi là lục hợp, nhưng lục hợp này hóa được Thổ cục chỉ khi có thần dẫn là các can lộ xuất hiện trong tứ trụ hay ở tuế vận như Mậu, Kỷ hoặc các Thổ cục của các can (nếu gặp Tý hay Sửu ở tuế vận thì Thổ cục này được xem là mạnh hơn). b - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau mà 2 chi bên ngoài giống nhau hợp với chi ở giữa thì được coi là tranh hợp nên không thể hóa cục được (trừ khi 1 liên kết của chúng bị phá). c - Nếu bán hợp hay lục hợp có 3 chi liền nhau trong đó 2 có chi liền nhau là giống nhau thì chỉ có chi ở gần chi thứ 3 mới có thể hợp với nó và hóa cục. 12 – Quy tắc hợp và hóa giữa các địa chi giữa Tứ Trụ với tuế vận và tiểu vận a - Tất cả các tổ hợp của các địa chi giữa tứ trụ, tuế vận và tiểu vận có thể hợp được với nhau và hóa cục nếu có thần dẫn. b – Các chi trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế (được xem như hợp gần) nhưng chúng không thể hợp trực tiếp được với chi tiểu vận. c – Chi tiểu vận chỉ hợp được với chi đại vận và thái tuế (cũng được xem là hợp gần) hay nó cùng với các chi giống nó ở trong tứ trụ hợp với các chi tuế vận thì can tiểu vận cũng có thể làm thần dẫn cho tổ hợp này hóa cục, nhưng chi tiểu vận không thể hợp trực tiếp được với các chi trong tứ trụ. f – Địa chi tranh hợp thật : 1 - Nếu chỉ có 2 chi giống nhau mang hành chủ khắc cùng ở trong tứ trụ hợp với chi đại vận hay thái tuế hoặc hợp với cả chi đại vận và thái tuế (nếu chúng giống nhau) thì tổ hợp này được gọi là tranh hợp thật nên chúng không thể hóa được cục. 2 – Nếu chi đại vận và thái tuế giống nhau có hành là chủ khắc hợp với chi tiểu vận hay hợp với một hay với nhiều chi giống nhau trong Tứ Trụ cũng như hợp với chi tiểu vận và các chi trong Tứ Trụ giống với chi tiểu vận thì tổ hợp này cũng được gọi là tranh hợp thật nên nó cũng không thể hóa được cục. Giải thích : Nếu trong tứ trụ có 2 Thìn hợp với Tý ở đại vận hay thái tuế thì 2 Thìn là Thổ khắc được Tý là Thủy nên 2 Thìn mang hành chủ khắc, còn chi Tý mang hành bị khắc. Hiểu đơn giản như 2 ông làm sao lấy chung một bà bao giờ đâu. Nhưng 2 Tý trong tứ trụ hợp với Thìn ở đại vận hay Thìn thái tuế vẫn có thể hóa Thủy được (nếu có thần dẫn), vì thực tế có nhiều bà vẫn lấy chung 1 ông. Vì sao 2 chi chủ khắc này phải cùng ở tuế vận hay cùng ở trong Tứ Trụ ? Bởi vì chỉ có như vậy thì thế lực của chúng mới tương đương với nhau để cho cuộc chiến mới không phân thắng bại, chính vì vậy mà chúng mới không có thì giờ rảnh để hợp với cô gái kia hòng tạo ra được sản phẩm (hóa cục). 3 - Nếu 4 chi hợp với 1 chi, trong đó chỉ có 2 chi giống nhau ở trong tứ trụ hợp với chi ở đại vận hay thái tuế là tranh hợp thật thì tổ hợp của 5 chi này không hóa cục được (?) (ví dụ 155). 4 - Nếu có từ 3 chi giống nhau trở lên (trừ câu 2) là chủ khắc hợp với 1 hay nhiều chi giống nhau thì không phải là tranh hợp thật nên vẫn có thể hóa cục (?) (xem ví dụ 165). Giải thích : Bởi vì khi 2 thằng đàn ông đánh nhau thì thằng thứ 3 được tự do có thể “hợp” với cô gái đó..., vì vậy cả 3 thằng này đều có cơ hội để “hợp” được với cô gái đó tạo ra… (điều này khác với thiên can, vì người trần mắt thịt khác với các vị thần ở trên trời chăng ?) 13 - Thiên Khắc Địa Xung A - Thiên khắc địa xung Có 3 loại thiên khắc địa xung (TKĐX): 1 – TKĐK và TKĐX có chi không phải là Thổ. 2 – TKĐX có chi là Thổ. 3 – TKĐK* và TKĐX* có chi là Thìn và Tý chỉ khi các chi của chúng ở gần nhau. TKĐK là trong 1 trụ có cả can và chi đều là chủ khắc, còn TKĐX thì trong 1 trụ chỉ có can chủ khắc còn chi chỉ là chủ xung. B – Các can và chi là chủ xung hay chủ khắc 1 - Các can chủ khắc, nó nghĩa là can đó phải khắc được can khác như : Giáp....khắc...Mậu..............Ất......khắc....Kỷ Bính...............Canh.............Đinh............Tân Mậu................Nhâm.............Kỷ..............Quý Canh ..............Giáp.............Tân..............Ất Nhâm...............Bính.............Quý.............Đinh. 2 - Các chi chủ khắc, nó nghĩa là chi đó phải khắc được chi khác như: Tý.....khắc....Ngọ Dậu..............Mão Hợi...............Tị Thân..............Dần Thìn..............Tý 3 - Các chi chủ xung, nó nghĩa là chi đó chỉ xung được chi khác như : Ngọ....xung....Tý................Thìn....xung.....Tuất Mão...............Dậu...............Tuất.............Thìn Tị...................Hợi...............Sửu..............Mùi Dần...............Thân..............Mùi..............Sửu Tý...................Thìn. Ta thấy số trường hợp TKĐX nhiều hơn TKĐK, do vậy ở đây chúng ta gọi chung hai loại này là TKĐX và ở đây quy ước nói trụ nào trước cũng được vì lực của TKÐX được tính cả 2 chiều.1 like
-
Thưa quí vị. Dưới đây là toàn văn bài viết của tiến sĩ Nguyễn Đồng ở Califonia nhận xét về cuốn: "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương". Tác giả đã đề nghị công khai đưa vào tác phẩm bài bài viết của tiến sĩ Nguyễn Đồng. Hân hạnh giới thiệu với quí vị và anh chị em. ==================== NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ TÁC PHẨM “MINH TRIỂT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG” CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN VŨ TUẤN ANH. TS NGUYỄN ĐỒNG. Thật là hân hạnh được lưa chọn để duyệt bản thảo tác phẩm “MINH TRIỂT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG (MTVTVMĐP)” của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh (NVTA). Niềm vinh dự này càng lúc càng tăng trưởng khi chúng tôi tiếp tục đọc và suy ngẫm những tài liệu căn bản giới thiệu trong tác phẩm. Chúng tôi đã đọc đi đọc lại bản thảo ba bốn lần để thấm nhuần dòng tư tưởng của tóc giả trước khi viết vài dòng nhận xét này. Tác phẩm MTVTVMĐP đòi hỏi người đọc có một số kiến thức căn bản về Dịch, từ đó quyển sách đã dẫn chúng tôi từng bước đến những chân trời mới lạ có sức thu hút rất kỳ diệu. Chúng tôi duyệt tác phẩm MTVTVMĐP qua lăng kính một nhà khoa học, Cái nhìn của chúng tôi sẽ bi giới hạn bởi các phạm trù khoa học này. Tuy nhiên, hy vọng là những điều chúng tôi đề nghị có thể tăng sức thuyết phục khi tác phẩm này được đưa ra bàn cãi trước các diễn đàn quốc tế. Không sớm thì muộn tác phẩm này cũng sẽ gây nhiều tranh cãi và phải đối đẩu với các lý luận khen chê không nhân nhượng của các trường phái quốc tế, nhất là khi một quốc gia vì lý do nào đó cảm thấy căn bản nền văn hiến của họ bị đe doạ. Cách bố cục quyển sách rất độc đáo. Tác giả cho biết kết luận tổng quát ngay từ phần dẫn nhập, rồi sau đó qua bốn phần chính, tác giả đưa ra thứ lớp các bằng chứng biện minh cho mô hình từ căn bản khai sinh ra vũ trụ cho đến sự biến hoá tiếp diễn từ giản đơn đến phức tạp qua tổng hợp Dịch với Âm Dương Hà Đồ. Người đọc có cảm giác như đang phiêu lưu đi tìm một kho tàng cổ vô giá đã bị vùi lấp dưới lau sậy của hàng ngàn năm vô tri thức. Giá trị của kho tàng không phải để tôn vinh một niềm kiêu hãnh dân tộc xuông, mà còn có tiềm năng cống hiến những giải pháp quý giá cho các bế tắc khoa học hiện đại. Với những thành công vượt bực trong các khoa học chuyên ngành, khoa học hiện đại vẫn lúng túng khi đi tìm sự thống nhất giữa khoa học vi mô và khoa học vỹ mô, điển hình là sự thiếu dung hoà giữa lý học lượng tử (quantum mechanics) và lý học tương đối (relativity physics). Trong khi đó lý học Dich Âm Dương Đông Phương đã có tham vọng lý giải tổng quát những tương tác phức tạp giữa các yếu tố thiên nhiên, từ hạt lượng tử đến các giải ngân hà, và con người với vũ trụ. Thật là khó hiểu khi thấy kho tàng tri thức vĩ đại này vẫn tồn tại như một huyền bí với tiến bộ loài người hàng nghìn năm nay, mặc dầu tiềm năng áp dụng không chỉ giới hạn trong khoa học thuần tuý, mà còn lan đến khoa học nhân văn (xã hội học, tâm lý học, triết học…) và cả những ngành liên quan đến nhân sinh như nghệ thuật hay tâm linh học. Cảm nhận điều này còn dẫn đến một nghi vấn lớn cho khoa học hiện nay: Động lực nào đã thúc đẩy loài người trong giai đoạn bị coi là bán khai từ năm sáu nghìn năm trước đi tìm và giải quyết những vấn đề mà nhân loại hiện nay mới bắt đầu phải đối đầu? Đây cũng là điểm đánh giá cao nhất của tác phẩm MTVTVMĐP vì đã góp phần rất lớn vào việc gây dựng phong trào “duy tân” cho nền văn minh cổ kính vĩ đại này. Xây dựng trên nền tảng một tri thức khách quan và nhất quán về nguồn gốc vũ trụ tiền không gian, tiền thời gian và vô số lượng, nền văn minh này có thể còn trổi vượt trên nền văn minh hiện đại về một số phương diện. Hiện nay khoa học hiện đại vẫn còn tranh cãi sự hiện diện một quyền uy tối cao có quyền thưởng phạt vào thời điểm O, thì tri thức tối cổ này đã minh triết một quy luật khách quan, nhất quán và phổ quát về vận hành của vũ trụ. Hơn thế, tri thức này còn có thể hàm ẩn một giải pháp phổ quát cho những học giả muốn áp dụng những quy luật khách quan này vào việc giải quyết những bế tắc lớn ngày nay của nhân loại. Đe doạ cho sự sống còn của nhân loại ngay trước mắt phải kể hiểm hoạ ô nhiễm môi trường và mất thăng bằng phân bố của cải trong xã hội. Nhà bác học Stephen W. Hawking đã tiên đoán là với trình độ khoa học hiện tại, nhân loại không thể giải quyết kịp những hậu quả do chính khoa học gây ra. Chìa khoá để mở kho tàng này, lạ thay đã luôn luôn hiện diên trong nền văn minh Đông Nam Á, chỉ bị che phủ bởi một bức màn u minh nhân tạo. Công trình đặc sắc của tác giả NVTA là chứng minh một cách hệ thống rằng bức màn vô minh này có thể bị soi thủng bởi minh triết văn chương bình dân truyền khẩu tại Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Qua những lý luận đầy sáng tạo, tác giả NVTA đã nhiệt thành chứng minh và kết luận rằng Lý Học Dịch Âm Dương phải có nguồn cội chính từ Việt Nam. Tác giả NVTA cũng ứng dụng hết sức sắc sảo tinh tuý văn hoá dân gian Việt Nam vào việc thanh lọc những bế tắc phi lý của logic Lý học Dich Âm Dương tồn tại những thư tịch bác học cổ. Sau khi đọc hết phần I, II, và III, câu hỏi hiển nhiên là tại sao vấn đề rõ ràng là sai như thế mà không học giả Hoa Hạ nào tìm hiểu để giải quyết trong suốt mấy ngàn năm? Không những ở Hoa Hạ, mà cả ở Việt Nam biết bao nhân tài kiệt xuất trong nền văn minh bác học cũng đã bất lực khi tình hiểu căn bản Lý Học Dich Âm Dương qua kiến thức chắp nối từ thư tịch cổ. Vấn nạn như thế để hiểu phần nào trí tuệ vĩ đại của tiền nhân. Hầu như biết trước được sự suy tàn của nền văn minh Lý Học Dich Âm Dương, các ngài đã để lại di chúc cho đời sau bằng nhứng ẩn dụ truyền khẩu như ca dao, tục ngữ, truyện kể, những tranh dân gian mộc mạc mầu sắc, những món ăn thiêng liêng hương vị, những trò chơi hồn nhiên cho trẻ em, những phong tục tập quán lễ nghĩa, v..v… để đợi ngày tinh tuý được phục hưng. Tuổi thơ của chúng ta có lẽ đã trải qua bao lần bâng quơ tự hỏi tại sao lại có những dấu hiệu huyền bí trong tranh dân gian, câu cú đầy ẩn ý trong Lĩnh Nam Trích Quái, hay đời cô Tấm tại sao lại phong ba đến thế so với cô gái Lọ Lem? Tác phẩm MTVTVMĐP giúp chúng ta hiểu rằng cái tinh tuý của Lý Học tiền nhân đã cẩn thận gói ghém để trao truyền. Điều kiện lưa chọn truyền nhân đích thực lại đơn giản đến tuyệt vời. Chỉ có những học giả có lòng trân trọng văn hoá thuần tuý dân dã Việt- một văn hoá bát ngát với câu Kiều bờ tre, mái dạ (thơ Chế Lan Viên)- mới có thể có được cái trực giác thẳng vào trọng tâm của lý học Dịch Âm Dương để tìm ra nhứng tương tác căn bản. Tiền nhân đã bỏ qua những tiêu chuẩn hạn hẹp như chủng tộc, mầu da, tôn giáo, hay giai cấp xã hội trong việc lựa chọn truyền nhân. Các ngài hiểu rằng qua bao thăng trầm của lịch sử, những yếu tố đó đều là phụ và khó bền vững. Tương tự như xây dựng một Kim Tự Tháp với chân đứng vững chãi bên Ai Cập, tinh tuý của một nền triết học huyền vỹ được bồi đắp trong tâm khảm người Việt bắng những ứng dụng nhuần nhuyễn phổ biến xâu rộng trong quần chúng nông thôn và hạ tầng cơ sở. Bài học này khiến chúng ta càng phải trân trọng giữ gìn những truyền thống xưa, vì biết đâu chúng còn chứa đựng những tinh hoa để lại mà chúng ta chưa tìm hiểu hết. Tác phẩm MTVTVMĐP kết thúc bằng câu truyện ngụ ngôn Trê Cóc đầy ý nghĩa. Cóc là linh vật của văn minh Văn Lang, thường hay thấy trên đỉnh các trống đồng. Cóc được tôn vinh là cậu ông Trời hay cội nguồn vũ trụ trong văn chương truyền khẩu. Cóc sinh ra nòng nọc: Danh từ Nòng (tròn rỗng) và Nọc (sẵc nhọn như cọc) là tượng hình nôm na nhất của yếu tố âm dương. Vũ trụ vận hành dẫn đến âm dương tương tác. Trong truyện, cá trê đầy tham vọng hão huyền như Lý Ngư Vọng Nguyệt tượng trưng cho văn hóa Hoa Hạ, nhận lầm nòng nọc làm con. Cá trê mang nòng nọc về nuôi, hay mang Lý Học Dich Âm Dương về nhận làm văn hoá riêng, vì thế sau bao năm cọc cạch vẫn không hiểu được tinh tuý. Nòng Nọc đến ngày khôn lớn, mọc hai chân, lại trở về với Cóc là cha đẻ đích thực, tượng trưng cho sự phục hồi nền văn minh Văn Lang. Ẩn dụ tuyệt vời này đã được truyền khấu bao đời, đến bây giờ ta mới thấm thía chiều sâu của nó. Tác giả NVTA đã dùng một số lớn tài liệu thư tịch cổ Trung Hoa để minh chứng cho lý luận của mình. Nội dung phần lớn của Lý Học Dịch Âm Dương, nhất là các kiên thức áp dụng đều được ghi chép kỹ lương trong những thư tịch cổ xưa này. Ngày nay, nếu còn có thể phục hưng lại Lý Học Dịch Âm Dương, cũng phải dựa trên những tài liệu sách vở còn lưu truyền lại. Truyền thống bảo tồn các tư liệu văn hoá từ ngàn xưa của người Hoa Hạ rất là uyên bác. Mặc dầu không nắm được phần tinh tuý của lý thuyết, người Hoa Hạ cũng cảm nhận được giá trị vĩ đại của Lý Học Dich Âm Dương nên họ đã gia công gìn giữ. Khi thôn tính Văn Lang, họ đã không thô bạo như Mã Viện sau này, mang hết những trống đồng chiếm được ra đun chảy để đúc đồng trụ Giao Chỉ. Như thế, người Hoa Hạ có thể không có công sinh nhưng chắc chắn đóng góp lớn lao vào công dưỡng Lý Học Dịch Âm Dương. Lý Học Dịch Âm Dương là tài sản tinh thần cao quý chung của cả nhân loại. Trên con đường phục hưng giá trị cao quý này, chúng ta phải công tâm thừa nhận tất cả mọi đóng góp trong hằng ngàn năm qua. Một điều quan trọng là cờ quẻ LY của Đại Hàn cũng không có thiếu Âm thiếu Dương. Chúng ta cần tìm hiểu văn hoá bình dân của nước này để tìm thêm những tư liệu mới. Có thể Đại Hàn cũng góp phần vào việc phục hồi tinh tuý của Lý Học Dịch Âm Dương. Người Lạc Việt biết đâu cũng thừa hưởng Lý Học Dich Âm Dương từ một cội nguồn trước đó và cũng không phải là chủ nhân ông. Vinh dự là truyền nhân đích thực của hệ thống tư tưởng này trong một giai đoạn lịch sử nào đó đã là quá lớn. Giới nghiên cứu Dịch hiện đại phải chuẩn bị hết sức chu đáo về mặt logic để công bố giả thuyết này, nếu không có thể bị xuống cấp trên diễn đàn quốc tế. Trong thời gian hiện nay, nếu có thể được nên tránh những kết luận có tính cách đoan chắc. Tất cả những suy diễn từ một chứng cớ nào đó nên để dưới dạng giả thuyết. Trong tác phẩm MTVTVMĐP, kết luận Lạc Việt là chủ nhân ông đích thực của Lý Học Dịch Âm Dương được lập đi lập lại rất nhiều lần. Chúng tôi đề nghị nên thu tóm những kết luận này trong vài chương chính, còn để chỗ cho phần suy diễn. Kết luận này cũng nên coi là giả thuyết chứ chưa phải là sự thật hiển nhiên đã được chứng minh. Phần miêu tả về phương pháp suy diễn dựa trên các tiêu chuẩn khoa học hiện đại, cũng được lập lại quá nhiều lần. Nếu có thể được, mong tác giả NVTA tạo một chương hay một mục về phương pháp luận chung. Khi cần thì trích ra là đủ, không cần phải lập lại. Một khái niệm so sánh trong phần II chương V về Thái Cực với Kiến Tánh có thể gây tranh cãi không cần thiết. Thái Cực là thực thể vật chất mặc đầu không chi phối bởi không gian, thời gian hay số lượng của bất cứ hê thống vật lý nào của khoa học hiện đại. Sau thời điểm O, Thái Cực bất chợt biến hoá nhường chỗ cho Lưỡng Nghi. Kiến tánh là một hiện tương tâm thức thường hằng tồn tại với Thái Cực và bất cứ biến hoá nào sau đó của Thái Cực. Đối với Kiến Tánh, hiện tượng Thái Cực biến thành Lưỡng Nghi cũng chỉ là Không (Không đây có nghĩa là không thường hằng chứ không phải là không có hiện hữu). Mặc dầu hai khái niệm đều không bị chi phối bởi không thời gian và số lượng, nhưng theo thiển ý người đọc, chúng hỗ trợ cho nhau nhưng không tương tự. Hình như trong phần ba, tác phẩm có chương đề cập đến nền văn minh Atlantic và phân loại thời đại số V cho văn minh Văn Lang. Theo thiển ý chúng tôi, những suy diễn này quá xa với những tài liệu nêu ra, và không làm sáng tỏ thêm chủ đề. Nếu có thể được, xin tác giả gác lại những chi tiết này để dùng cho một tác phẩm khác. Cũng xin tác giả cho một chương về phần định nghĩa các từ quan trọng dùng trong sách chẳng hạn như: tiêu chí, minh triết, căn để, mệnh đề , định đề, v…v… để người đọc không hiểu lầm. TS Nguyễn Đồng, 22 Tháng Năm, Năm 2014 Orange, California1 like
-
Chuyển dữ liệu thành công bằng công nghệ teleport trong phòng thí nghiệm Cập nhật lúc 15h24' ngày 05/06/2014 Bằng cách khai thác một hiện tượng lượng tử gọi là particle entanglement (rối hạt), nhóm nghiên cứu cho biết họ đã có thể chuyển dữ liệu trong khoảng cách 10m mà không cần bất kỳ kết nối nào. Các nhà khoa học nghiên cứu công nghệ nano tại đại học TU Delft, Hà Lan mới đây đã tuyên bố thành công bước đầu trong việc chuyển dữ liệu trong phòng thí nghiệm bằng công nghệ teleport. Bằng cách khai thác một hiện tượng lượng tử gọi là particle entanglement (rối hạt), nhóm nghiên cứu cho biết họ đã có thể chuyển dữ liệu trong khoảng cách 10m mà không cần bất kỳ kết nối nào. Giáo sư Ronald Hanson, người đứng đầu dự án nghiên cứu cho biết: “rối hạt là một hệ quả thú vị nhất của các định luật cơ học lượng tử. Khi hai hạt trở nên bị “rối”, chúng mất đi tính chất riêng của mình và trở nên giống nhau như một, ngay cả khi khoảng cách giữa hai hạt là rất lớn”. Khi một electron quay quanh hạt nhân, chính electron đó cũng quay quanh trục của mình (giống như Trái Đất quay quanh trục của mình). Khi 2 electron bị rối, tức là chúng tương tác với nhau và sau đó bị tách ra, thì chúng sẽ quay theo chiều giống hệt nhau. Về cơ bản, một electron sẽ là hình ảnh phản chiếu của electron còn lại. Nếu một trong số hai electron đó bị làm thay đổi chiều quay bằng một phương pháp nào đó, lập tức electron còn lại cũng sẽ đổi chiều quay tương tự. Khoảng cách giữa hai electron trong thử nghiệm của nhóm nghiên cứu là 3m, tuy nhiên về mặt lý thuyết khoảng cách này có thể tăng lên tới hàng trăm năm ánh sáng. Trong thử nghiệm của mình, các nhà khoa học đã di chuyển thông tin trong một bit lượng tử (qubit – tương tự một bit tiêu chuẩn trong máy tính) sang một bit lượng tử khác, sử dụng một chip máy tính thiết kế đặc biệt. Mỗi con chip này sử dụng một viên kim cương tổng hợp để chứa các electron rối và một số nguyên tử nitơ. Giáo sư Hanson giải thích thêm: “những con chip này sử dụng kim cương làm trung tâm vì đây là môi trường tốt nhất để giữ chân các electron tự do khi một nguyên tử nitơ chiếm vị trí của một trong các nguyên tử carbon. Chúng tôi có thể dễ dàng quan sát và nghiên cứu hoạt động của các electron và cả hạt nhân nguyên tử trong môi trường này. Đồng thời có thể điều khiển chiều quay của các electron và đọc dữ liệu”. Các electron sau khi tách ra, sẽ trở thành các cặp electron rối và được chuyển đến một con chip khác. Sau đó, với mỗi dữ liệu được mã hóa vào một con chip, các cặp electron rối sẽ phản chiếu chính xác và chuyển dữ liệu đến con chip còn lại một cách hoàn nguyên vẹn mà không cần bất kỳ kết nối nào. Với kết quả này, các nhà khoa học hy vọng sẽ tạo nên một mạng lưới lượng tử để liên lạc cũng như kết nối internet giữa các máy tính lượng tử. Điều này sẽ giúp truyền dữ liệu với tốc độ cực cao và đảm bảo an toàn, việc lấy trộm dữ liệu là hoàn toàn không thể xảy ra. Trong dự án tiếp theo, nhóm nghiên cứu sẽ thử nghiệm với khoảng cách lớn hơn, có thể lên đến 1.300m với các chip lượng tử đặt trong tòa nhà khác nhau của trường đại học TU Delft. Và trong tương lai, có thể chúng ta sẽ chế tạo được những cỗ máy có khả năng di chuyển cả vật chất. Biến công nghệ teleport trong các bộ phim khoa học viễn tưởng trở thành sự thật. Theo Genk ========================= Thuyết Tương đối của Eistein cho rằng: Giới hạn tốc độ vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng. Lý học Đông phương cho rằng: Đây là sai lầm duy nhất của học thuyết này. Bởi vì - về lý thuyết - nếu tốc độ vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng thì chúng ta sẽ không thể nhận thấy bất kỳ vật nào di chuyển bằng tốc độ ánh sáng. Bài báo khoa học trên với thí nghiệm Lượng tử trên hai hạt electron, cho thấy: Phải có một môi trường truyền hiệu ứng tương tác rất nhanh, để tác động gần như tức thời cho hai hạt electron với khoảng cách hàng trăm năm ánh sáng chịu tác động của nhau. Môi trường này đã chứng tỏ trên thực tế kết luận của Lý học cho rằng: Giá trị tuyệt đối - Thái cực - chính là giới hạn tốc độ của vũ trụ. Đây cũng chính là "cõi tuyệt đối".1 like
-
Học giả Trung Quốc: Quá yếu không bảo vệ được lãnh thổ mới phải kiện?! Hồng Thủy 07/06/14 07:28 (GDVN) - Trong cơn mê sảng, giới học giả nước này đã thừa nhận rằng, mặc dù là một thành viên phê chuẩn UNCLOS, nhưng Trung Quốc sẵn sàng vứt bỏ nó vào sọt rác. Khúc Tinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quốc tế Trung Quốc. China Times xuất bản tại Đài Loan ngày 6/6 đưa tin, một số học giả Trung Quốc hôm qua đã lên tiếng cho rằng căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông khó có khả năng leo thang thành xung đột vũ trang thực sự. Sau khi Philippines nộp bản thuyết trình lập luận của mình bác bỏ đường lưỡi bò Trung Quốc ở Biển Đông theo yêu cầu của Tòa án Quốc tế về Luật Biển, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại igao Trung Quốc lại tiếp tục luận điệu Bắc Kinh từ chối tham gia. Khúc Tinh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc nói với China News Service rằng Philippines không đủ sức mạnh và ảnh hưởng để có thể gây thiệt hại đến cái gọi là "lợi ích quốc gia" của Trung Quốc. Manila đang nỗ lực tìm kiếm sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế bằng cách khởi kiện đường lưỡi bò Trung Quốc, tuy nhiên ông Tinh cho rằng điều này chỉ chứng minh một mình Philippines quá yếu để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ?! Các nhà phân tích Trung Quốc cũng nói rằng Manila sẽ không tham gia vào một cuộc xung đột với Bắc Kinh, bởi vì họ sẽ không thể nhận được sự hỗ trợ chính trị nào từ Mỹ. Thật nực cười cho các nhà "học giả" Trung Quốc. Nói như Khúc Tinh, thì cứ trang bị thật nhiều vũ khí hiện đại, tàu chiến máy bay và thậm chí cả giàn khoan "khủng" như Trung Quốc mới có thể bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ? Chỉ mấy hôm trước đây, Trương Minh Lượng, một học giả từ đại học Kỵ Nam, Quảng Châu, Trung Quốc cũng nói với tờ Bưu điện Hoa Nam, Trung Quốc chẳng có gì phải lo về phán quyết của tòa án trong vụ kiện này, có chăng chỉ là mất "chút ít" uy tín quốc tế vì đã không tuân thủ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)?! Từ những phát biểu của cánh học giả Trung Quốc có thể thấy Bắc Kinh thực sự đang rất sợ bị khởi kiện ra tòa. Trong cơn mê sảng, giới học giả nước này đã thừa nhận rằng, mặc dù là một thành viên phê chuẩn UNCLOS, nhưng Trung Quốc sẵn sàng vứt bỏ nó vào sọt rác để đạt được tham vọng bành trướng lãnh thổ của mình. Phát biểu của Khúc Tinh một lần nữa chứng minh điều ấy, và nó cũng thể hiện quan điểm hiếu chiến của một bộ phận lãnh đạo Trung Quốc trong vấn đề lãnh thổ, hàng hải với các nước láng giềng, mà thực tế là Bắc Kinh là kẻ đang nhảy vào tranh chấp. Lâu nay các bên liên quan trên Biển Đông, trong đó có Philippines và Việt Nam đã nỗ lực rất nhiều để giải quyết vấn đề thông qua hoạt động đàm phán hòa bình, nhưng Bắc Kinh không những né tránh, mà còn tranh thủ thời gian thay đổi hiện trạng, biến các vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp. Việc khởi kiện các hành động vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc ra tòa là biện pháp cực chẳng đã, nhưng rõ ràng là một lựa chọn hòa bình, văn minh, phù hợp với xu thế thời đại và được dư luận đồng tình, ủng hộ - PV. ============= Đúng là học "giả" Tàu. Việt Nam không thể có tiềm lực quân sự bằng Trung Quốc, cái này không cần phải giáo sư tiến sĩ mới nhận ra. Bởi vậy, toàn lý sự cùn. Chính những lý sự cùn này càng thấy Trung Quốc bất chấp chuẩn mực quốc tế: Cho nên mới: Chưa hết! Các chính khách yêu chuộng hòa bình và công lý đều thừa nhận: "Mọi chuyện đều có thể giải quyết bằng con đường ngoại giao". Nhưng với con đường này thì chuẩn mực quốc tế phải được thừa nhận. Khi Trung Quốc đã vứt bỏ chuẩn mực quốc tế thì kết quả cuối cùng là phải đối đầu với một cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. "Canh bạc cuối cùng" sẽ diễn ra với một tình khúc buồn.1 like
-
Hình ảnh mây đen "rợn người" phủ Bắc Kinh 06/06/2014 16:06 GMT+7 Bầu trời tối sầm vì mây đen vần vũ đã khiến các nhà chức trách ở Bắc Kinh phải ban hành cảnh báo xanh về mưa lớn ở thành phố này trong ngày hôm nay (6/6). Thông tin trên vừa được hãng tin Tân Hoa đăng tải, kèm theo những bức ảnh cho thấy thành phố này sẽ hứng chịu một trận mưa như trút nước. Trung Quốc có một hệ thống cảnh báo thời tiết 4 cấp độ, với màu đỏ là nghiêm trọng nhất, theo sau là cam, vàng và xanh. Thanh Hảo ===================== Trước đây, Quảng Ninh của Việt Nam cũng mây đen kéo tối sầm và trải dài đến Ninh Bình. Đức Thánh Trần nói: Đây là điềm địch quốc gây họa và có âm mưu gây biến, nhưng mọi chuyện sẽ qua. Tất nhiên qua về mặt hiện tượng. Còn về lâu dài vẫn phải cẩn trọng. Nhưng Trung Quốc với đám mây này ở ngay Xủ đô Bê Canh. Nội loạn nổi lên đến nơi. Không qúa tháng 9 Việt lịch. Lão Gàn nói thật: Rút giàn khoan về đi quí zdị.1 like
-
'Lỗ thủng' khổng lồ xuất hiện trên bầu trời gây xôn xao NDT 03.06.2014 | 12:40 PM Những bức ảnh chụp lại một lỗ thủng lớn trên bầu trời màu sáng xanh của Califonia hôm 9/5 sau khi lan truyền trên mạng xã hội Facebook và Twitter đã thu hút sự chú ý của rất nhiều người. Bức ảnh khiến những người tò mò ở bang California (Mỹ) và nhiều nơi đoán già đoán non. Nhiều người cho rằng đây là "điềm dữ" hoặc xuất phát từ nguyên nhân kỳ lạ nào đó. Theo nhiều cư dân mạng, đám mây có lỗ thủng sáng rực là một UFO (vật thể bay không xác định) hoặc do người ngoài hành tinh gây ra. Nhiều người thực tế hơn đưa ra giả thuyết rằng đám mây chỉ là dấu hiệu cảnh báo thời tiết xấu, trong khi một số khác có óc tưởng tượng phong phú đoán đây là “lỗ sâu” như trong phim kinh dị Donnie Darko. Tuy nhiên, hầu hết các ý kiến xác định đây là lỗ mây (Fallstreak), là một khoảng trống hình tròn lớn có thể xuất hiện trong các đám mây ti tích (Cirrocumulus) hoặc mây trung tích (Altocumulus). Còn mạng CBS13 cho rằng những hình ảnh như thế này không hiếm trên thế giới, đặc biệt ở những nơi ấm áp như TP Stockton, California. Lỗ mây hình thành khi nhiệt độ nước trong mây thấp hơn điểm đóng băng nhưng nước vẫn chưa đóng băng do thiếu các hạt mầm băng. Khi một phần đám mây bắt đầu đóng băng, nó sẽ gây ra hiệu ứng dây chuyền khiến hơi nước xung quanh cũng đóng băng và rơi xuống. Hiện tượng này gây ra một cái lỗ, thường là hình tròn, trong đám mây. Người ta tin rằng sự nhiễu động trong tầng mây, do máy bay chẳng hạn, có thể kích hoạt hiệu ứng bốc hơi dây chuyền và tạo ra lỗ mây. Cụ thể, không khí đi qua cánh quạt hoặc 2 cánh máy bay sẽ giãn nở và lạnh đi nhanh chóng. Các tinh thể băng bắt đầu hình thành rồi sau khi máy bay đi qua, các tinh thể này vẫn ở lại, rơi ra khỏi đám mây và tạo nên các lỗ tròn, đôi khi rất lớn. Thoa Nguyễn ============ Nước Mỹ sắp có một nhân vật rất nổi tiếng qua đời. Không quá tháng 6 Việt lịch. Rất có khả năng là Lão Kiss.1 like
-
Thầy Lang Việt Nam
ATN liked a post in a topic by Thiên Đồng
Bài thuốc thần kỳ cứu sống nhiều người bị chó cắn đã phát dại Nhiều người bị chó dại cắn đã sủi bọt mép, co giật, có người đã rên rỉ, cào cấu nhưng sau khi được uống thuốc thì chắc chắn khỏi. Nặng thì 1 tuần, còn nhẹ thì vài tiếng đồng hồ. Hơn 10 năm trong nghề là chừng ấy thời gian vị lương y này đã đem y đức của mình giúp biết bao bệnh nhân bị chó dại cắn khỏi bệnh. Hầu hết, họ, người bị chó dại cắn, tìm đến không chỉ ở tiếng tăm của ông với bài thuốc gia truyền “có một không ai” mà trên hết là tấm lòng, sự chu đáo, ân cần và cái nghĩa tình của một người thầy thuốc. Ông là lương y Lê Văn Sơn (SN 1965, ngụ tại thôn Thủy Tú 1, xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị). Lá mãng cầu xiêm - một trong 10 vị của bài thuốc chữa bệnh chó dại cắn. Theo lời đồn đại của người dân trong vùng, chúng tôi đã không quản ngại đường sá tìm về diện kiến vị lương y “thần thông quản đại” có tấm lòng bồ tát này. Vì là “bệnh viên” tại gia nên chỉ hoạt động vào buổi trưa và tối, còn lại thời gian với chức vụ Chủ tịch Hội Nông dân xã nên ông dành cho những người nông dân ngoài đồng ruộng. Hôm chúng tôi đến rất đông người bị chó dại cắn, nhưng họ không hề nao núng vì họ tin vào tài năng chữa bệnh của ông Sơn. Gặp chúng tôi, vẫn với nét mặt điềm tĩnh, ông Sơn rót nước mời khách rồi bắt đầu thăm khám cho bệnh nhân. Ông Sơn chữa bệnh cho một người bị chó dại cắn. Lật cuốn sổ ghi chép bệnh nhân đến thăm khám dày cộm, ông Sơn không sao đếm được mình đã cứu chữa cho biết bao con người bị chó dại cắn. Bài thuốc chữa bệnh chó dại cắn và tên tuổi của lương y Lê Văn Sơn đã nức tiếng khắp trong và ngoài tỉnh. Có nhiều người bệnh từ Hà Nội, Bắc Giang, Cà Mau, Vũng Tàu… cũng tìm đến nhờ ông cứu giúp. “Nhiều người đến đây đã sủi bọt mép, co giật, có người đã rên rỉ, cào cấu nhưng sau khi được uống thuốc thì chắc chắn khỏi. Nặng thì có thể một tuần, còn nhẹ thì vài tiếng đồng hồ sau là khỏi bệnh, nhưng tốt nhất nếu người đã phát dại thì nên ở nhà vì người phát dại rất sợ gió, ánh sáng. Vì thế, có thể nhờ người thân đến mang thuốc về nhà uống” – ông Sơn bộc bạch. Kể về cơ duyên đến với nghề này, ông Sơn cho biết, gia đình ông vốn có nghề thuốc đã lâu, ông là đời thứ năm được thừa hưởng bài thuốc quý này. Trước đó bốn đời, có người đàn ông người Trung Quốc trong lúc chạy loạn đã lạc vào nhà cụ tổ và được cụ cưu mang trong suốt 10 năm. Đến thời Pháp thuộc, người đàn ông ấy bỏ đi rồi không ai rõ tung tích ra sao. Trong thời gian ở nhờ, người ấy đã truyền lại một vài bài thuốc quý giúp chữa trị các bệnh thông thường, trong đó có cách chữa chó dại cắn. Nhà có sáu anh em nhưng chỉ mình ông Sơn được truyền lại bài thuốc quý. Đến năm 1987 cha ông mới quyết định cho ông theo chân lên rừng đi kiếm cây thuốc và học cách pha chế thuốc chữa bệnh chó dại cắn. Cứ thế, ông Sơn đã mất 7 năm học nghề mới được cha cho ra nghề. Rất nhiều người được ông Sơn chữa khỏi bệnh chó dại cắn. Càng về trưa trưa, căn nhà cấp bốn nhỏ hẹp của ông Sơn càng lúc càng đông. Trong đó có chị Đỗ Thị Tuyết Nhung (40 tuổi) lặn lội bắt xe khách vượt hàng trăm cây số đưa con trai mình đã Trần Đỗ Minh Hiếu (10 tuổi) từ tỉnh Đồng Nai ra nhà ông Sơn để chữa trị cho con. Chị Nhung cho hay, trên đường đi học về, con trai chị bị chó dại cắn ở chân phải. Người thân trong gia đình lo lắng bảo chị đưa con đi tiêm vắc xin nhưng chị sợ vắc xin sẽ gây những biến chứng, hại đến cơ thể của con mình nên không đưa đi viện. Trước đó, chị cũng bị chó dại cắn và được ông Sơn chữa khỏi, vì vậy nên quyết định đưa con mình ra nương nhờ ông Sơn chứ không dám tiêm vắc xin vì tiêm vắc xin ngừa chó dại rất có hại cho sức khỏe con tôi về sau. Vừa trò chuyện với chị Nhung xong, chúng tôi giật mình khi thấy một người thanh niên lực lưỡng nhưng gương mặt nhợt nhạt, bọt mép chải dài, quằn quại trong đau đớn đang được người nhà dìu xuống từ chiếc xe tắc xi. Vừa thở gấp, người thanh niên chỉ thì thào “cứu tui với bác Sơn ơi!”. Một lát sau, anh cho biết họ tên là Hoàng Quý Minh (28 tuổi, trú huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế) bị chó dại cắn nhưng để lâu ngày không chữa trị, đến lúc vào bệnh viện thì đã quá muộn nên bác sĩ bó tay. May mắn nghe bà con mách tiếng nên đã được người nhà đưa đến ông Sơn nhờ cứu giúp. Chưa kịp nghỉ ngơi, một cháu bé học lớp 2 ở huyện Đakrông (Quảng Trị) được cha mẹ mình chở đến nhà ông Sơn nhờ ông thăm khám. Nhìn đứa trẻ với ánh mắt trìu mến, ông Sơn nói nhỏ, yên tâm để ông khám cho. Nói rồi ông lấy trong tủ thuốc ra một nắm lá thuốc, dán sau gáy cháu nhỏ. Sau 10 phút, ông gỡ nắm lá thuốc ra và gọi cháu bé ra ngoài ánh sáng mặt trời để khám bệnh. Thật kì lạ, không hề nhìn vào vết thương của cháu nhỏ vì cháu mặc quần dài nhưng ông Sơn chuẩn đoán đúng 100%: “Vết thương nhẹ, chỉ sợt ngoài da nhưng có chảy máu. Chó này là chó lành nên không bị dại”. Cũng là cốc thuốc màu sẫm nhưng theo ông Sơn, loại thuốc này dùng để phòng ngừa, uống nó rồi thì trong vòng 10 tháng, dù có chó dại cắn cũng không sao. Còn về việc đắp lá thuốc sau gáy để thăm bệnh, theo ông Sơn đó là cách thử độc để nhận biết vết cắn là của chó dại hay chó lành. Ông Sơn tiết lộ, sau khi tháo thuốc ra, nếu trên da xuất hiện các tia tím, đỏ, hồng chứng tỏ người bệnh đã bị nhiễm độc, nhìn vào đó cũng cho thấy vết cắn có hình dáng ra sao, sâu cạn thế nào và xác định độ nặng nhẹ của bệnh nhân để đưa ra liều lượng chữa trị phù hợp. Nhưng để học được “tuyệt kỉ” thử độc này, ông Sơn đã mất thời gian khá dài. Có một kỷ niệm mà luôn ám ảnh trong trí nhớ của ông Sơn suốt hai mươi năm qua, ông chỉ nuối tiếc một ca bệnh đã tìm đến tay ông nhưng vì quá muộn. “Tôi còn nhớ lúc anh thanh niên ở tỉnh Kon Tum đó tới thì đã không ăn uống gì được, gan đã bị lầy, và sắp chết. Dù tôi cố gắng bao nhiêu thì anh ta cũng không thể qua khỏi. Giá như anh ta đến sớm hơn chút nữa thì… ” – ông Sơn trầm buồn. Cái tâm, cái tình của vị lương y Công việc bình dị của ông Sơn khi rãnh rỗi là làm cỏ quanh vườn tiêu để có thu nhập. Nhiều người đã nói về ông như vậy bởi cái tâm, cái tình ông dành cho những bệnh nhân. Ngần ấy năm chữa bệnh cứu người trong cơn thập tử nhất sinh nhưng ông Sơn chưa bao giờ nghỉ đến chuyện danh lợi cho mình. Đó cũng là lời răn dạy mà tổ tiên ông truyền lại “cấm lợi dụng việc làm thuốc chữa bệnh để làm tiền. Làm thầy thuốc là để giúp thiên hạ khỏi nguy nan”. Như minh chứng cho lời nói của ông, chị Nguyễn Kim Cúc quê ở tỉnh Gia Lai, người trước kia được ông Sơn chữa trị giờ ghé thăm nhà ông để thăm hỏi, tặng gói bánh tỏ lòng biết ơn. Chị Cúc cảm kích: “Trước đây tôi bị chó dại cắn, phát dại rồi, cứ tưởng không qua, gia đình tôi đã chuẩn bị sẵn hậu sự. May mà có thầy Sơn cứu giúp chứ không thì giờ đã xanh cỏ lâu rồi. Hồi đó nhà tôi nghèo, hai vợ chồng ra nhà thầy mà chỉ có một trăm nghìn. Được thầy Sơn chữa bệnh miễn phí, lại cho ăn ở, lành bệnh còn cho tiền xe để về. Gia đình tôi đội ơn thầy Sơn nhiều lắm”. Xem bảng giá thuốc chữa bệnh của ông chúng tôi mới biết mỗi gói thuốc chữa bệnh chó dại cắn trọn gói có giá 500 nghìn đồng hết bệnh và 200 nghìn đồng cho loại thuốc phòng ngừa bệnh dại có tác dụng trong 10 tháng. So với giá cả của Tây y thì còn còn khá “khiêm tốn”. Hành nghề chữa chó dại nhiều năm, ông Sơn thú thực: “Nhiều lúc tôi cũng sợ lắm, vì trong khi chữa trị, người bệnh lên cơn thường cào xé, cắn bậy, chỉ cần vô ý là có thể bị lây nhiễm độc dại qua nước bọt, vết máu người bệnh. Nhưng nhìn thấy người ta sắp chết mà không cứu thì lòng không yên nên cứ kệ, nguy hiểm cũng chấp nhận, miễn sao cứu được người”. Khi được hỏi về phương châm chữa bệnh cứu người của ông là gì?. Ông Sơn nhìn lên bàn thờ tổ tiên rồi đáp: “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp. Không màng danh lợi, không vì tiền mà chỉ vì mạng sống của con người”. Một đời chữa bệnh, ông Sơn luôn nhắc nhở bệnh nhân mỗi khi ra về đó là người bệnh đang điều trị độc chó dại, trong 24 giờ sau khi uống thuốc, tuyệt đối kiêng cử đám tang. Nếu phạm phải điều cấm kị này thì độc tố sẽ tăng lên gấp trăm lần, có thể dẫn đến mất mạng. Khi được hỏi tại sao như thế thì ông Sơn trả lời: “Chính tôi và tổ tiên cũng không giải thích được, nhưng đã là điều cấm kị thì phải tuyệt đối nghe theo”. Bài thuốc của ông Sơn có tổng cộng 12 loại lá cây, trong đó lá cây mãng cầu xiêm và lá cây hoa dẻ kết hợp lại có tác dụng chữa độc chó cắn. Ngoài ra nó cũng là thành phần chính để bào chế chữa độc rắn cắn. Chín loại lá khác cũng chỉ là cây cỏ trong vườn, ở đồng ruộng hay trên rừng, duy chỉ có một loại lá ở Việt Nam không có, ông phải đặt ở Trung Quốc đưa về, nếu không có loại lá thuốc này thì không thể bào chế thuốc được. Những loại lá cây này chỉ được hái trong những ngày vào dịp Tiết Thanh Minh. Và mỗi năm chỉ có thể chế biến thuốc duy nhất một lần vào đúng ngày Hạ chí. Mười lá cây được sao khô, sau đó tán thành bột dự trữ sẵn. Hai loại còn lại là lá cây mãng cầu xiêm và lá cây hoa dẻ đem lọc lấy nước rồi đóng chai. Khi có người bị chó dại cắn, chỉ cần trộn đều thứ bột thuốc và nước lá tươi rồi pha loãng vào nước lọc cho bệnh nhân uống. Phần xác lá xát nhẹ lên vùng da thâm quầng do răng chó tạo ra. Còn loại thuốc để phòng ngừa thì có thêm bớt một số vị thuốc nhưng cũng đủ 12 loại thảo dược. http://soha.vn/song-khoe/bai-thuoc-than-ky-cuu-song-nhieu-nguoi-bi-cho-can-da-phat-dai-20140323153633653.htm?mobile=true1 like -
Thầy Lang Việt Nam
ATN liked a post in a topic by Thiên Sứ
Những lang y có bài thuốc quý dân gian từng đăng trên Lao Động & Đời sống (LĐĐS) - 5:1 PM, 02/12/2013 Sau khi Báo Lao Động & Đời sống đăng tải chuyên mục “Những bài thuốc quý dân gian”, rất nhiều bạn đọc đã liên hệ về tòa soạn để hỏi địa chỉ và cách thức liên lạc với những vị lang y này. Tòa soạn xin gửi tới độc giả và những người quan tâm thông tin liên lạc trực tiếp với các vị lang y. Hy vọng những thông tin dưới đây sẽ có ích với bạn đọc. Cám ơn sự quan tâm và tin cậy mà bạn đọc đã dành cho Lao Động & Đời sống. Dòng sự kiện Thầy lang và những bài thuốc bí truyền 1 Bà Bùi Thị Nhổ Chữa bệnh ung thư Xóm Tre, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, Hà Bình 0167 821 7532 2 Ông Hà Công Thầm Chữa bệnh vô sinh Xóm Chiềng Châu, xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, Hòa Bình 0976 277 058 3 Bà Hà Thị Tiến Chữa bệnh gan Xóm Ngõa, xã Mường Hịch, huyện Mai Châu, Hòa Bình 0169 836 9943 4 Bà Bùi Thị Di Chữa bệnh viêm xoang Xóm Hồng, xã Bảo Hiệu, huyện Yên Thủy, Hòa Bình 0165 767 0452 5 Ông Đỗ Chí Quyết Chữa bệnh tiểu đường Thôn Phú Sơn, xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, Hòa Bình 0917 239 676 6 Bà Trần Thị Thảo Chữa hiếm muộn Xóm Trung Thành A, xã Hợp Thịnh, huyện Kỳ Sơn, Hòa Bình 0165 998 0180 7 Ông Nguyễn Văn Lễ Chữa bệnh dạ dầy Thôn Cua Chù, xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Tây (nay là Tp. Hà Nội) 0167 7243 919 8 Ông Lương Huy Ngò Chữa bệnh thận yếu Số nhà 24, tổ 4, phố cổ, thị trấn Đồng Văn 0123 485 8173 9 Bà Bùi Thị Chiên Chữa bệnh gan, thận, đại tràng, dạ dày Xóm Sáng Ngoài, xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình 0168 347 5959 10. Bà Lê Thị Tình, Chữa bướu cổ, Xóm Vặn, Xã Vân Hòa, huyện Ba Vì, Hà Nội, 01638264865 11. Ông Lang Bùi Văn Tô, trị trĩ, Kim Bôi, Hòa Bình, 0978074729 12. Thầy Phùng Văn Anh, chữa vô sinh, Tây Sơn, Phú Thọ, 13. Bà lang Miến, chữa viêm cầu thận, xóm mỏ, xã Dân Hạ, Kỳ Sơn, Hòa Bình, ĐT: 01295179661 14. Cô Dương Thị Hải Yến, thôn Cao Đường, xã Cao Dương, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, chữa gút . Số điện thoại: 0969 434 476 15. Ông Nguyễn Minh Chu, thôn Tiền Đình, xã Quế Nham, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang chữa sỏi thận, SĐT: 016579368791 like -
Thầy Lang Việt Nam
ATN liked a post in a topic by Thiên Đồng
Bài thuốc trị bệnh gan giúp nhiều người trở về từ cõi chết Câu chuyện có thật về một thôn mắc căn bệnh gan, kết quả xét nghiệm là viêm gan A, đã được vị lương y nổi tiếng nhất Hà Giang dùng cây rừng để chữa trị hiệu quả. Lá dong rừng: Một vị dễ kiếm có mặt trong bài thuốc chữa gan của ông Cảnh. Nơi miền sơn cước với xung quanh là bốn bề núi rừng, mỗi khi có người bị bệnh gan là họ lại tìm đến ông, hàng trăm người từng gần kề với cái chết được ông cứu sống và trở về với cuộc sống thường ngày. Ông là Hoàng Ngọc Cảnh ở thôn Tân Trang, xã Tân trịnh, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang. Ông Hoàng Ngọc Cảnh. Ảnh T.G. Hành trình vái tứ phương tìm thầy trị bệnh "nan y" Những ngày rong ruổi nơi địa đầu tổ quốc, chúng tôi tình cờ nghe được câu chuyện về vị lương y nổi tiếng nhất Hà Giang. Chúng tìm đến ông Cảnh vào một buổi chiều ngoài trời mưa rả rích. Trong căn nhà nhỏ nằm hun hút trong khe núi, ông Cảnh thanh thoắt rót nước lá rừng mời khách rồi kể về chuyện nghề, chuyện đời. Khi nhắc đến con đường đưa ông đến nghề làm thầy lang, ông bảo đó là cái số trời quyết, nếu không vì ngày trước ông là bệnh nhân của căn bệnh nan y này thì giờ ông đã không được làm cái nghề phúc đức như bây giờ. Theo như ông Cảnh, thì năm 1985 ông mắc bệnh nặng, khắp người da vàng người phù lên như trái mọng nước, đến việc đi lại cũng khó khăn. Đi bói thì các thầy bảo, ngày xưa đi đốt nương không tránh mộ của người chết nên giờ hồn họ đến tìm, một số thầy khác lại cho rằng năm đó là năm gặp hạn nên cần dùng dê để giải, thế là gia đình lại đi tìm thầy về cúng suốt 3 ngày 2 đêm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Đi đến bệnh viện khám thì các bác sĩ nói là bị xơ gan cổ trướng giai đoạn cuối và khuyên về nhà chuẩn bị hậu sự…". Trong nỗi tuyệt vọng khi ấy, cứ ai rỉ vào tai ông có người chữa được bệnh gan bằng thuốc nam là ông lại tìm đến họ. Khi đó, nghe danh ở xã Yên Thuận (Hàm Yên - Tuyên Quang) có một người thầy thuốc tài ba chữa bệnh gan cực giỏi, với hy vọng chữa được căn bệnh nan y của mình ông lại cất công khăn gói ra đi với hy vọng sẽ tìm được nguồn ánh sáng mới. Lần này "thần may mắn" đã gõ cửa nhà ông khi gặp được một vị thầy thuốc bậc thầy trong chữa trị các bệnh về gan, khi ấy người đó yêu cầu muốn trị được bệnh này phải ở lại đó vài tháng để được trực tiếp quan sát tình trạng sức khỏe để chọn thuốc cho phù hợp, đặc biệt phải kiêng ăn đồ nóng như thịt gà, thịt trâu, thịt bò, rau bí, rượu, bia… Sau hai tháng ăn kiêng chữa trị, bệnh ông khỏi hẳn. Thấy ông Cảnh là người thật thà người thầy thuốc tên Bàn Văn Tráp đã nhận ông Cảnh làm con nuôi và truyền dạy bài thuốc chữa trị bệnh gan bằng lá cây rừng đặc biệt hiệu quả này. Xin bệnh nhân được chữa bệnh Sau khi căn bệnh vô phương cứu chữa của ông khỏi hẳn và trở về với cuộc sống đời thường, khi ấy ít ai biết và tin ông có thể trị được các bệnh về gan, đặc biệt là xơ gan cổ trướng. Hỏi về bệnh nhân đầu tiên, ông cho biết đó là một người phụ nữ tên Thơm ở xã bên, người này cũng đã từng rơi vào cảnh như mình trước đó, đi khắp nơi chữa trị mà vẫn không khỏi. Nghe vậy, ông Cảnh đã phải đến tận nơi đề nghị được chữa trị, ngày đầu gia đình bệnh nhân không tin tưởng nhưng sau nhiều lần năn nỉ mới được chấp thuận, chỉ sau vài tuần được ông sắc thuốc chị Thơm đã hoàn toàn bình phục. Từ đó trở đi cái tên Cảnh Huế (người Tày thường gọi tên bố gắn với tên con trai cả - PV) đã được người dân khắp trong và ngoài xã lân cận biết đến với biệt tài trị bệnh gan giỏi, lấy y đức làm trọng. Cũng sau năm ấy, cả làng ông bỗng nhiên mắc căn bệnh lạ từ đầu làng đến cuối xóm một không khí ảm đạm bao trùm lên ngôi làng vốn dĩ bình yên bỗng trở nên u ám. Theo ông Cảnh, lúc ấy sắc mặt ai nấy đều vàng, đi xét nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận là viêm gan A, thậm chí còn có một số tin đồn cho rằng do đường hóa học khi đó nhập khẩu bị nhiễm độc nên gây ra bệnh, lại có người cho rằng ngôi làng bị "ma ám" khiến nhiều người vô cùng hoang mang đi mời thầy cúng để hóa giải. Khi đó ông Cảnh được biết đến là người từng chữa được bệnh gan bằng cây lá rừng rất hiệu nghiệm, nên nhiều người trong làng đã tìm đến nhờ ông chữa trị. Quả nhiên bài thuốc bí truyền của người thầy thuốc luôn đặt y đức lên trên hết ấy đã giúp cho nhiều người tai qua nạn khỏi trở về với không khí vui vẻ rộn ràng như xưa, cũng kể từ đó tiếng tăm của ông lại càng được nhiều người biết và tìm đến. Anh Hoàng Hoàng Văn Huế dẫn PV đi xem cây thuốc. Ảnh T.G. Khi chúng tôi hỏi ông có thể chữa được những loại bệnh gan nào, ông Cảnh cho biết: "Bình thường là viêm gan A, sơ gan cổ trướng và gan lành tính. Thuốc có thể trị bệnh này là 6 loại cây rừng cực kì hiếm, đặc biệt khó trồng nên phải đi hàng chục km đường rừng mới có thể hái được những loại cây này. Chủ yếu dùng thân và lá cây đem về cắt nhỏ sau đó sắc uống có tác dụng chữa bệnh gan rất hiệu nghiệm, đặc biệt dùng tươi thì tốt nhất. Ông Cảnh cho biết hiện tại muốn có được thuốc cứu người ông phải lên tận chóp núi mới tìm được những loại cây này, cho đến giờ cạnh nhà ông chỉ có một cây duy nhất vì những loại cây này chủ yếu ưa lạnh và mọc ở rừng đầu nguồn. Anh Hoàng Văn Huế, con trai duy nhất trong gia đình được ông Cảnh truyền lại bài thuốc dẫn chúng tôi ra xem cây thuốc ở gần nhà bảo: "Cây thuốc thuốc này nhìn bề ngoài trông giống hoa hồng đỏ bình thường, mọc trên lưng chừng núi. Nhưng có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho các loại cây kia trị bệnh". Anh Huế cho biết thêm, ngoài loại cây này trong bài thuốc còn có một số vị như cây xổ cổ thụ hàng trăm năm, cây dứa nước, lá dong rừng… sau khi điều trị khỏi hẳn sẽ có một thang thuốc cắt sau cùng để bệnh không tái phát. Tâm đức của người thầy thuốc vì dân nghèo Chúng tôi tìm gặp chị Nguyễn Thị Thơm, ở thôn Lủ, xã Tân Bắc. Chị bảo, nếu không có ông Cảnh thì chắc chị đã không ở đây tiếp chuyện được với chúng tôi. Chuyện là năm ấy người chị bỗng nhiên khó chịu, sức khỏe giảm sút đi khám ở bệnh viện bác sĩ kết luận là xơ gan cổ trướng, rất khó chữa, gia đình đi bốc thuốc khắp nơi mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm, sau đó có một người đàn ông đã tự nguyện đến xin được chữa bệnh, khi ấy gia đình chị đồng ý nên chị mới có được như bây giờ. Gần đây nhất là ông lý Văn Chán (Bắc Quang - Hà Giang) và anh Lê văn Mạnh ở (Vĩnh Tường- Vĩnh Phúc) cũng bị bệnh gan được ông điều trị và hiện nay đã trở về cuộc sống bình thường. Năm nay đã quá ngưỡng ngũ tuần, nhưng ngày ngày ông Cảnh vẫn lên rừng làm nương, trồng sắn lúa ngô để nuôi đàn gà lợn, ông bảo: "Giờ mình vẫn còn khỏe mạnh, nuôi được gà vịt để khi khách đến còn mổ đãi khách, đời người ngắn ngủi sống được bao nhiêu nên phải sống cho thoải mái". Khi hỏi về thành tích chữa bệnh ông suy tư: "Từ trước đến nay không nhớ đã bao nhiêu người đến nhờ ông chữa, có những nhà sau khi chữa khỏi họ thường xuyên đến thăm hỏi gia đình vào những ngày lễ tết, thậm chí có người còn xin được nhận làm con nuôi". Ông bảo mỗi một ca chữa khỏi, tiền công, tiền biếu đối với ông là sự tùy tâm, tuyệt nhiên không đòi hỏi gì nhiều, tùy theo hoàn cảnh mà lấy, có khi chỉ là thóc gạo, con lợn con… ông vẫn vui lòng. http://soha.vn/song-khoe/bai-thuoc-tri-benh-gan-giup-nhieu-nguoi-tro-ve-tu-coi-chet-20140206110948905.htm1 like