• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 20/05/2014 in all areas

  1. Chỉ có Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử là chân lý. Sai lầm của các nhà nghiên cứu là thường lấy biên giới hiện tai để xác định cội nguồn xuất xứ. Trong khi đó nghiên cứu lịch sử phải đặt hoàn cảnh lịch sử vào thời gian lịch sử. Cách đây 2300 năm, biên giới của Hán tộc chỉ ở Bắc Động Đình hồ. Bởi vậy, phương pháp nghiên cứu sai thì làm sao mà có một kết luận đúng được. Vớ vẩn cả.
    4 likes
  2. Tàu chiến lớn Trung Quốc có thể bị tiêu diệt ở Biển Đông (Vietnam+) lúc : 23/10/12 05:20 Ảnh minh họa. (Nguồn: Reuters) Tạp chí Affaires Stratégiques (Pháp) số ra mới đây đăng bài trả lời phỏng vấn của ông Eric Frecon, giáo viên Trường Hải quân, về khả năng tạo thế cân bằng giữa các cường quốc ở Biển Đông - một vùng biển giàu tài nguyên và có vai trò địa chiến lược quan trọng - trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc và Nhật Bản ở Biển Hoa Đông, giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á ở Biển Đông ngày một gia tăng. Theo ông Eric Frecon, ít có khả năng Trung Quốc đẩy cao xung đột với Nhật Bản và các nước có liên quan vì một thế cân bằng mới đang hình thành trong khu vực. Mặc dù Trung Quốc được cho là một cường quốc hải quân, tự trang bị cho mình nhiều phương tiện, song nước này phải đối mặt với một loạt quốc gia nhỏ ở Đông Nam Á cũng đang tự trang bị các phương tiện hải quân như tàu cao tốc nhỏ có khả năng chống lại các chiến dịch triển khai hải quân lớn ở trong vùng. Hơn nữa, Biển Đông có những đặc trưng riêng, là một vùng biển hẹp gần như khép kín, có nhiều eo biển khiến các đội tàu chiến lớn không thể xoay xở dễ dàng. Thêm vào đó, các nhóm tàu này có thể bị tiêu diệt bởi tên lửa chống hạm đặt dọc đường bờ biển. Các giàn tên lửa này cộng với các tàu nhỏ cao tốc của hải quân các nước trong vùng là mối đe dọa đối với Trung Quốc nếu họ tiến xuống phía Nam. Can dự vào khu vực này không chỉ có Trung Quốc, ngoài Mỹ và Nhật Bản còn có Ấn Độ cũng bắt đầu quan tâm và can dự vào khu vực. Như vậy đã xuất hiện một thế cân bằng nhất định giống như ở châu Âu trước đây với rất nhiều kênh trao đổi và thảo luận cho phép giữ trạng thái cân bằng đó. [Tàu Trung Quốc lại xuất hiện gần quần đảo Senkaku] Về khả năng Trung Quốc sử dụng sức mạnh quân sự trong cuộc xung đột với Nhật Bản ở biển Hoa Đông và hậu quả của nó, chuyên gia Eric Frecon khẳng định Trung Quốc không sẵn sàng đẩy xung đột lên cấp độ cao hơn. Hiện Trung Quốc đang phải đối mặt với hai mặt trận, phía Bắc với Nhật Bản và phía Nam với một số nước Đông Nam Á. Tình hình dường như căng thẳng hơn ở phía Bắc nhưng có vẻ lắng dịu hơn ở phía Nam. Như vậy, Trung Quốc phải cân nhắc xem xung đột với Nhật Bản phải giải quyết như thế nào để tạo được ảnh hưởng với các cuộc thảo luận ở Biển Đông và từ đó có thể gây sức ép với các nước ven biển. Chuyên gia Eric Frecon cho biết ông hoàn toàn tin rằng sáng kiến của Indonesia, Singapore có thể tạo động lực kích hoạt trở lại sự năng động của khu vực trong bối cảnh Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không tạo được động lực cần thiết. Các nước thứ ba có thể có tác động tới tình hình khu vực thì có thể là Australia, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Theo chuyên gia Eric Frecon, EU có ảnh hưởng đáng kể với tư cách là đối tác thương mại thứ hai của ASEAN. Đặc biệt, EU có kinh nghiệm về kiểm soát xung đột biển, tranh chấp biển, kiểm soát giao thông đường biển, các nước có tranh chấp biển có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ các nước EU. Hơn nữa, tất cả các nước châu Âu đều có trong kho lưu trữ của mình những tấm bản đồ, các bản báo cáo có thể giúp ích cho việc giải quyết xung đột biển./. ============== Địa chiến lược thì đúng. Còn giàu tài nguyên là nguyên nhân thì cũng có thể, nhưng không phải yếu tố quyết định. Người Mỹ là quốc gia đầu tiên phát hiện ra các mỏ dầu trên thềm lục địa ở biển Đông và gõ phèng phèng rùm beng về việc này, trước năm 1975. Nhưng sau đó vài năm thì rút khỏi Nam Việt Nam, nơi mà họ cho là giàu tài nguyên đó. Vào thời gian đó, Lão Gàn còn nhớ một tờ báo nhớn ở Hanoi, có đăng tải một thông tin đại ý như sau: "Một số doanh nghiệp dầu khí Ca Na Đa đề nghị bộ trưởng Thương mai của họ giúp đỡ để đầu tư vào các mỏ dầu ở bể Đông. Câu trả lời của vị bộ trường là: "Các anh là những thằng ngu!" . Cái này thì Lão Gàn nhớ nguyên văn. Hì.
    2 likes
  3. Có thể so sánh như thế này: Tất cả các enzim, sư tương tác lý hóa của các axit amin thông qua các giác quan và đến các tế bào thần kinh vận động tác động trở lại ý thức hoặc sự nhận biết, đều chỉ là sự tương tác vận động của những phương tiện nhận biết. Nó cũng như phương tiện thu hình ảnh một sự kiện là cái máy quay phim, sau đó chuyển tín hiệu ánh sáng thành tìn hiệu số và chuyển thành sóng đến các máy thu. Các máy thu chuyển đến các máy phát và thể hiện trên màn hình tivi những hình ảnh. Tất cả đều là những phương tiện nhận biết. Cuối cùng vẫn phải có một chủ thể nhận biết tất cả các tín hiệu hình ảnh trên tivi nó là cái gì. Thế thì chúng ta cũng thấy rằng: Sự hoạt động hóa lý của những axit amin tác động lên các tế bào thần kinh và chuyển hóa thành những tín hiệu thông tin , cũng chỉ là những phương tiện nhận biết và nó cần một chủ thể nhận biết trong chính con người. Cái "Tôi" chính là sự tổng hợp những cái "của tôi". Cái tôi đích thực không tồn tại. Hì! Cũng như thế này. Có một quả cầu tròn tuyệt đối đặt trên một mặt phẳng tuyệt đối. Về lý thuyết nó phải tiếp xúc với nhau ở 1 điểm. Nhưng trên thực tế điểm không tồn tại. Đây là sự xác định của Lý học Đông phương , nhân danh nền văn hiến Việt. Vậy thì quả cầu tiếp xúc với mặt phẳng như thế nào? Đây là sự xác định về lý thuyết của vấn đề được mô tả trong bộ phim này , khi nó xác định rằng: thực tế không có hai vật thể cham nhau. Tri thức khoa học hiện đại càng phát triển, càng thấy rõ rằng: Nó không nằm ngoài những tri thức của Lý học Đông phương, mà nền tảng là thuyết Âm Dương Ngũ hành, - Tất nhiên phải có bổ đề là: Nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, một thời huy hoàng bên bờ nam sông Dương Tử từ hơn 2300 năm trước.
    2 likes
  4. Về lý thuyết - suy cho cùng là như vậy - nhưng ngoài những hoạt chất có tác động lý hóa kết nối các giác quan với các tế bào thần kinh thì còn qua những tương tác của khí và các mối liên hệ tương tác rất phức tạp khác mới đến sự nhận biết cuối cùng của "Tính thấy". "Tính thấy" có trong vạn vật và con người. Đức Phật giảng rất rõ về vấn đề này (Kinh Phật Thủ Lăng Nghiêm), trong Thiên Chúa Giáo cũng nói đến dưới một hình thức khác: "Chúa ở cùng Cha và ở cùng anh chị em", Hoặc Đức Giesu nói:" Cha ta (Thái cực), sinh ra ta (Lưỡng nghi) , Ta ở trong Cha ta". Chúa Giesu nói: Ta là sự bắt đầu và là sự kết thúc". Đây chính là điều được mô tả trong bài viết: "Việt Dịch trên bãi đá cổ Sapa". Tiêu chí khoa học xác định rằng: "Một lý thuyết thống nhất phải giải thích được cả vấn đề tôn giáo và tâm linh". Chỉ có thuyết Âm Dương Ngũ hành giải thích được điều này. Vì đó chính là Lý thuyết thống nhất - nhân danh Việt sử 5000 năm văn hiến.
    2 likes
  5. Hòn đá khắc chữ cổ ở Gia Lai lại gây chú ý Thứ Tư, 11/12/2013 23:50 Tại thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện Đắk Pơ, tỉnh Gia Lai, người dân vừa tìm thấy một hòn đá có khắc những ký tự lạ. Hòn đá nằm giữa rẫy ngô của người dân địa phương, có hình trụ, cao gần 2 m, bề rộng dưới chân hơn 1,5 m, trên đỉnh khoảng 80 cm. Mặt trước có 8 dòng chữ, mặt sau có 3 dòng, tất cả đều được khắc chìm, bên ngoài phủ một lớp rêu xanh mỏng. Ông Nguyễn Quang Tuệ, Trưởng Phòng Nghiệp vụ văn hóa, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai, cho biết cách đây mấy năm, khi phát hiện hòn đá nói trên, sở nhờ một số nhà nghiên cứu giải mã những ký tự được khắc trên hòn đá thì một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm cho biết đây là một bia đá sử dụng ngôn ngữ Phạn - Chăm cổ, niên đại vào khoảng thế kỷ XI-XII. Hòn đá có khắc nhiều ký tự lạ Bà Nguyễn Thị Kim Vân,Trưởng Phòng Di sản văn hóa, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai, cho biết đã đề nghị Bảo tàng Văn hóa tỉnh di chuyển hòn đá khỏi rẫy của dân về làm hiện vật trưng bày tại bảo tàng nhưng do một số khúc mắc nên tới nay vẫn chưa thể thực hiện được. Cách đây ít ngày, một số người đưa máy cẩu vào định lấy hòn đá đi nhưng khi biết không phải là người của chính quyền, người dân đã ngăn chặn.Tin-ảnh: H.Thanh ============== Chữ Phạn, chữ Miên, Lào, Thái Lan, chữ của người Tày/ Thái trên đất Việt hiện nay và cả chữ Ả Rập...Thậm chí cả chữ Nhật Bản, đều có những ký tự tương ứng với chữ "Khoa đẩu" của Việt tộc. Đây là "cơ sở khoa học".
    1 like
  6. Minh triết Việt trong sự tích Ông Táo Giờ Sửu - 22 tháng Chạp - Mậu Tý Nguyễn Vũ Tuấn Anh . Cứ mỗi khi năm hết Tết đến thì nhà nhà Việt Nam theo phong tục lại làm lễ cúng Ông Táo về trời. Đây là một phong tục thuần Việt có từ thời Hùng Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn hóa Việt đến ngày nay. Bẳng chứng cho điều này là từ thời Hùng vương thứ VI, vua Hùng đã chấm giải nhất cho hoảng tử Lang Liêu là người kế vị và bánh chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liêu được đạc biệt dùng cúng trong ngày Tết. Từ đó, chúng ta dễ dàng suy ra rằng: Lễ Tết nguyên đán có từ thế kỷ XV BC - tương đương thời vua Bàn Canh của Ân Thương. Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ cúng Ông Táo về trời liên hệ đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt từ thời xa xưa. Văn hóa Hán hiện nay cũng có tục cúng ông Táo, nhưng nó thuần túy là một nghi lễ và thiếu tính minh triết liên hệ đến phong tục này. Bởi vì nền văn minh Hoa Hạ khi tiếp quản được nền văn minh ở Nam Dương Tử đã Hán hóa những giá trị văn hóa Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang xưa. Chúng ta hãy xem lại truyền thuyết có dấu ấn cổ xưa nhất về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa Việt, tóm lược như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo. Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ. Ngọc Hoàng cảm động trước mối chân tình của cả ba người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái chết trong lửa nóng của họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi mãi bèn cho ba người hóa thành “ba đầu rau” hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa. Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân, trông coi và giữ lửa cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom mọi việc lành dữ, phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi là Táo Công, là vị thần bảo vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Theo tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá chép bay về trời để trình báo mọi việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến đêm Giao thừa Táo Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi sóc bếp lửa của mình. Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên biết hết mọi chuyện hay dở tốt xấu của mọi người, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa Ông Táo về chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể. Người ta thường mua hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời. Ông Táo sẽ tâu với Ngọc Hoàng về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn ra trước 12h trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ lễ, nếu có cá sống thì sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo khu vực họ sinh sống. Càng tiến dần vào trong Nam thì tục cúng ông Táo về trời có một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở miền Bắc với một nghi lễ không thể thiếu là Cá Chép là mang tính nguyên thủy hơn cả. Qua truyền thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng hình ảnh hai ông một bà - tức một Âm hai Dương hoàn toàn trùng khớp với quẻ ly - - trong Kinh Dịch. Trong bức tranh dân gian Việt mà các bạn thấy ở trên táo bà ngồi giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện dân gian "cả ba người cùng chui trong đống lửa" đấy chính là hình tượng của ba ông đầu rau trong bếp mỗi nhà. Nội dung tương tự như vậy tôi đã viết từ lâu trên tuvilyso.com (Bây giờ là tuvilyso.net). Nhưng hồi đó, tôi cũng mới chỉ dừng lại đây. Nhưng trong bài viết này, tôi xin được giải mã thêm một hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính là con cá chép. Tại sao về trời mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao không phải là cưỡi chim? Ông cha ta có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn không! Khi mà tổ tiên người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con cá chép thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể là những bức tranh dân gian Việt chúng ta thấy trang đàn lợn với một lợn mẹ và năm lợn con. Đây chính là hình tượng của "Thiên Nhất sinh thủy - Địa lục thành chi". Chúng ta cũng thấy hình tượng này trong tranh cá chép làng Đông Hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con. Và hình tượng Táo quân cưỡi cá chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế (-) trong kinh Dịch. Đây là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ Dịch. Biểu tượng cho chu kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết thúc và chuyển sang một chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới tốt lành. Đó là tinh thần của quẻ Vị Tế. Còn một vài chi tiết nữa liên quan đến truyền thuyết Táo Quân lưu truyền trong dân gian, như: Táo Quân không mặc quần.....Hy vọng rằng trong những ngày đầu Xuân, trà dư, tửu hậu sẽ có dịp bàn với các bạn. Vài lời mạn đàm về một phong tục truyền thống liên quan đến lý học Đông phương. Thiên Sứ tôi không bao giờ coi giải mã truyền thuyết là cơ sở minh chứng cho truyền thống văn hóa sử của dân tộc Việt trải gần 5000 văn hiến. Ít nhất trong lúc này. Cảm ơn sự quan tâm của các bạn.
    1 like
  7. Cháu có thể thắc mắc trong mục Mạn đàm.Vấn đề không phải là thể hiện ở đâu. Mà là thể hiện như thế nào?
    1 like
  8. Trung Quốc đứng trước cơ hội có nguồn cung vũ khí mới (Tin tức 24h) - Tình hình bất ổn tại Ukraine khiến TQ thiếu tin tưởng vào nguồn cung vũ khí truyền thống.Thay vào đó là Nga-nguồn cung có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của TQ. Su-35 không thể giúp Trung Quốc chiếm ưu thế trên không Năm 2014, Trung Quốc sẽ đạt mong ước Su-35 Mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc trở nên nồng ấm chưa từng có. Bằng chứng cho mối quan hệ này là chuyến thăm của Tổng thống Nga Putin tới Trung Quốc ngày 20/5. Phát biểu trước chuyến thăm, Tổng thống Putin cho rằng thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc, người bạn tin cậy của Moscow, là ưu tiên vô điều kiện trong chính sách đối ngoại của Nga. Ông Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Putin Khi trả lời câu hỏi rằng liệu Trung Quốc và Nga có giúp đỡ lẫn nhau để hiện thực hóa mục tiêu trở thành các cường quốc trên thế giới (bao gồm cả lĩnh vực quốc phòng), Tổng thống Putin cho rằng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác thân thiện gần gũi giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với lợi ích của cả Nga và Trung Quốc, không có bất kỳ vấn đề chính trị nào có thể cản trở việc tăng cường hợp tác toàn diện của hai bên.Bằng chứng cho mối quan hệ tốt đẹp Nga-Trung là việc Moscow đã đồng ý bán cho Bắc Kinh hệ thống phòng không hàng đầu thế giới hiện nay là S-400. Quyết định này được ông Putin đưa ra ngày 11/4 vừa qua. Theo kênh truyền hình Nga RBK, Tổng thống Nga Putin đã thông qua thỏa thuận bán từ 2 tới 4 hệ thống tên lửa phòng không S-400 cho Trung Quốc. Quyết định này đồng nghĩa với việc Trung Quốc là khách hàng nước ngoài đầu tiên mua được hệ thống phòng thủ tiên tiến này. Hệ thống phòng không S-400 Nga vừa quyết định bán cho Trung Quốc Trước đó, một số chuyên gia quốc phòng cho rằng vì một số lý do, Nga sẽ không bán S-400 cho Trung Quốc. Nguyên nhân quan trọng nhất là Nga lo ngại Trung Quốc sẽ mua một vài hệ thống để ăn cắp công nghệ và kĩ thuật, sau đó sẽ tự xây dựng các phiên bản 'nhái" ở trong nước. Ngoài việc đồng ý bán hệ thống S-400, việc đàm phán về thương vụ tàu ngầm Lada, tiêm kích Su-35 theo chiều hướng tích cực và đang đi đến hồi kết. Đặc biệt do mối quan hệ căng thẳng giữa Nga với phương Tây có thể thúc đẩy quá trình này tăng tốc nhanh chóng. Su-35 được giới thiệu là loại máy bay tiêm kích đa năng có sức chiến đấu cao, khả năng của nó không thua kém đáng kể so với các loại máy bay tiêm kích hiện đại thế hệ 5 của Mỹ, trong khi đó giá thành lại rẻ hơn rất nhiều. Tàu ngầm Lada với các tính năng được giới thiệu là sẽ dẫn đầu thế giới trong số các tầu ngầm cùng chủng loại trong tương lai gần. Ngoài ra, trong bối cảnh Mỹ đang cắt giảm chi tiêu quốc phòng ngày càng mạnh, thi ngược lại Nga và Trung Quốc không ngừng gia tăng chi tiêu quốc phòng trong thời gian gần đây. Do đó sẽ vô cùng dễ hiểu khi Nga muốn chấm dứt tham vọng của Mỹ ở châu Á bằng việc tăng cường hợp tác với Trung Quốc trong vấn đề vũ trang. Theo kế hoạch ngày 20/5, Tổng thống Nga Vladimir Putin thực hiện chuyến thăm Trung Quốc và lãnh đạo 2 cường quốc này sẽ ký đến 30 văn kiện các loại, bao gồm cả các “thỏa thuận quan trọng” về thương mại và hợp tác khí đốt. Trong số 30 văn kiện được ký kết, nhiều khả năng các hợp đồng hệ thống phòng không S-400, tiêm kích Su-35 và tàu ngầm Lada sẽ được ký kết. Không chỉ vậy, theo cố vấn tổng thống Yuri Ushakov, Tổng thống Putin sẽ cùng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dự lễ khai mạc cuộc tập trận chung trên biển Hoa Đông, kéo dài từ ngày 20 đến 26/5. Theo các chuyên gia, với Nga, đây là cơ hội cho Mỹ và phương Tây thấy nước này không đơn độc giữa vòng vây trừng phạt. Còn Bắc Kinh có thể “dằn mặt” liên minh Mỹ - Nhật xung quanh tranh cãi về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. T.Thành ======== Trung Quốc hợp tác với Hoa Kỳ và trở thành siêu cường sau Hoa Kỳ. Nay Nga hợp tác với Trung Quốc để trở thành siêu cường hạng mầy? Choán nhể!
    1 like
  9. Bé 2007 Đinh Hợi có mệnh bị cha mẹ, rồi thiên can cũng tương khắc với cha mẹ. Chính vì vậy gia đình khó khăn. Năm tốt gần nhất để anh chị sinh con út là 2016 Bính Thân. Con có mệnh tương sinh với cha mẹ, Thiên can cũng hợp với cha nên người cha sẽ phát triển sự nghiệp dần khả quan tốt lên và về lâu dài sẽ khá tốt
    1 like
  10. Người Việt quan niệm con người là đứng giữa, ngẩng lên thấy Trời=Trên, ngó xuống thấy Đất=Đáy. Con người là đứng thẳng, “đầu đội trời, chân đạp đất”. Phần dưới cùng của cơ thể Chạm đất gọi là cái bàn Chân như bám rễ xuống đất, nho viết từ Bám=Chạm đất bằng chữ Trạm 站 (Hán ngữ dùng chữ Trạm 站 với nghĩa là đứng), nho viết từ bàn Chân bằng chữ Căn 跟,根 (chữ Căn 跟 vnày sau dùng chỉ ý “đi theo”, chữ Căn 根 này sau dùng chỉ ý “rễ”). Phần trên cùng của cơ thể thì cái bằng xác thịt của cái đầu chẳng bao giờ chạm được tới trời, dù có đi bằng tàu vũ trụ cũng vậy, nhưng cái ý tưởng của nó thì cứ mặc sức mà vươn cao lên mãi gọi là “Đi 辶 Đầu 首” = Đạo 道, lên mãi thành “Chót vót Đầu”= Chậu = Chủ = =Chúa = Vua.Đế Vương hay Vương Đế đều như nhau vì Đế Vương là từ đôi, Đế và Vương đều có cùng nguồn gốc là Đi Đầu (theo hàm nghĩa là đi đầu về tư tưởng, tức có tư tưởng tiên tiến của thời đại, là cái chân lý). Gọi cái chân lý ấy bằng hai chữ Đi Đầu thì gộp lại là “Đi 辶 Đầu 首” = Đạo 道. Phân tích ra hai phần thì Đi= “Đi Hề!”= Đế 帝; Đầu=Chậu (tiếng Lào) = Chủ = =Chúa = “Vị Chúa” = Vua = “Vua Dương”= Vương 王. Sau người ta chia ra, coi Đế là chức vị to hơn Vương. Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ XB 1991 (TĐ) coi từ Đế 帝 và từ Vương 王 đều là những cái “tố gốc Hán” rồi lấy ví dụ thay cho giải thích. Theo TĐ là: Đế 帝 (trang 121), 1/ vua, 2/ đế quốc. Trong đó có thêm hai từ đồng âm “đế” nữa (trang 122) là Đế 締 nghĩa là kết chặt (đây là do “Đặc Hề!”= Đế 締); và Đế 蒂 , ví dụ thâm căn cố đế (đây là do “Đáy Hề!”= Đế 蒂 = “Đài Hề”= Đế 蒂, là cái đài hoa hay cuống hoa). Nhưng lại không có từ Đế 諦 mà Phật giáo dùng, nghĩa là chân lý (Chân Đế 真 諦, Diệu Đế 妙 諦), vậy chữ Đế 諦 có bộ ngôn 言 này không phải là cái “tố gốc Hán” à ?, thì nó là cái tố gốc Việt vậy. TVGT: “Đế 帝, Đế 諦 dã 也” (Đế 帝 là Đế 諦). Theo TĐ là: Vương 王 (trang 480), vua, vương bá, vương cung, vương miện, vương giả, quốc vương, diêm vương v.v. TVGT: “Đế 帝, Vương 王 Thiên 天 Hạ 下 Chi 之 Hiệu 号 Dã 也” (Đế là cái danh hiệu chỉ Vua của thiên hạ). Vậy theo như Hứa Thận 許 慎, tác giả của Thuyết Văn Giải Tự 說 文 解 字, giải thích hơn hai ngàn năm trước, thì Đế và Vương là như nhau. Hai từ ấy đều dùng để chỉ một cá nhân, nhưng hàm ý tiếng Việt của chúng không phải là ở cái quyền chức của cá nhân đó, mà là ở cái Chân Lý, cái tư tưởng tiên tiến của thời đại ở cá nhân đó. Đế hay Vua phải là người xuất chúng, người có tư tưởng tiên tiến của thời đại. Tiếc thay nhiều ngàn năm sau, lúc nào đó, nơi nào đó, do hiểu Vua chỉ là cái quyền, quyền có thể là do cướp được (“được làm Vua, thua làm Giặc”) hay do cha truyền con nối mà có, nên người làm Vua chẳng hề có tư tưởng tiên tiến gì, mà chỉ có cái quyền, nên tha hồ lộng quyền và lạm quyền, cho nên nước lớn vào hạng nhất thế giới mà vẫn lẹt đẹt không hiện đại bằng cái nước bé chỉ có vài triệu dân.
    1 like
  11. Putin: Phát triển quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên vô điều kiện Nguyễn Hường 19/05/14 06:17 Thảo luận (0) (GDVN)- Putin cho rằng thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc, người bạn tin cậy của Moscow, là ưu tiên vô điều kiện trong chính sách đối ngoại của Nga Nga biết ơn "lập trường khách quan" của Trung Quốc về Ukraine Cựu Ngoại trưởng Philippines: Nguy cơ Biển Đông thành Crimea của TQ Hàn Quốc lo Bắc Kinh áp dụng "mô hình Crimea" nếu Triều Tiên bạo loạn Hợp tác Nga-Trung đang ở mức độ cao chưa từng thấy, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho biết trong cuộc phỏng vấn với một loạt đài truyền hình và truyền thanh Trung Quốc trước chuyến thăm tới Thượng Hải, nơi Moscow và Bắc Kinh dự kiến sẽ ký kết một loạt các văn bản hợp tác giữa hai quốc gia. Theo Russia Today, Tổng thống Putin đã có cuộc phỏng vấn với Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), thông tấn Tân Hoa xã, China News Service, Nhân Dân Nhật báo, Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc và đài truyền hình Phoenix. Tổng thống Nga Vladimir Putin Trong cuộc phỏng vấn, Tổng thống Putin cho rằng thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc, người bạn tin cậy của Moscow, là ưu tiên vô điều kiện trong chính sách đối ngoại của Nga. Hiện hợp tác Nga-Trung đã được đẩy lên một mức độ mới của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và ở mức cao nhất trong lịch sử quan hệ giữa hai nước. Putin nhấn mạnh rằng ông và Chủ tịch Tập Cận Bình có quan hệ ngoại giao và cá nhân rất tốt, đồng thời bày tỏ hy vọng rằng các cuộc đàm phán sắp tới ở Thượng Hải sẽ cung cấp thêm động lực để tiếp tục tăng cường mạnh mẽ quan hệ hợp tác song phương trong tất cả các khu vực và phối hợp sâu hơn trong các vấn đề quốc tế. Theo Putin, Nga và Trung Quốc chủ trương thành lập một kiến trúc an ninh mới và phát triển bền vững khu vực châu Á-Thái Bình Dương trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng luật pháp quốc tế, bất khả phân của an ninh, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa mà Hội nghị về các biện pháp tương tác và xây dựng lòng tin ở châu Á (CICA) dự kiến sẽ góp phần giải quyết nhiệm vụ này. Trả lời câu hỏi rằng liệu Trung Quốc và Nga có giúp đỡ lẫn nhau để hiện thực hóa mục tiêu trở thành các cường quốc trên thế giới, Tổng thống Putin cho rằng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác thân thiện gần gũi giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với lợi ích của cả Nga và Trung Quốc, rằng không có bất kỳ vấn đề chính trị nào lại có thể cản trở việc tăng cường hợp tác toàn diện của hai bên. Theo Putin, kinh ngạch thương mại giữa Nga và Trung Quốc năm 2013 đạt 90 tỷ USD. Hai bên đang cố gắng tăng cường trao đổi hợp tác mới mục tiêu tăng lên 100 tỷ USD vào năm 2015 và 200 tỷ USD trong năm 2020. Các thỏa thuận xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Nga sang Trung Quốc đã gần hoàn tất. Thỏa thuận này được cho là sẽ giúp đa dạng hóa các tuyến đường ống cấp khí đốt tự nhiên của Nga. Nga và Trung Quốc đang hướng tới việc thành lập đặc khu kinh tế tiên tiến ở Vùng Viễn Đông của Nga. ================ Trong cái "cộng đống khoa học thế giới" phủ nhận truyền thống lịch sử văn hiến trải gần 5000 năm của người Việt, không có một học giả Nga nào tham gia. Bởi vậy, Lão Gàn rất có cảm tình với nước Nga. Nhưng ngài Putin đã sai lầm khi hợp tác với Trung Quốc. Điều này sẽ đẩy lịch sử thế giới theo một chiều hướng khác, mà cuối cùng là nó vẫn kết thúc bởi sự hội nhập toàn cầu, nhưng với những diễn biến căng thẳng để đến mục đích của nó. Có vẻ như ngài Putin quên mất bài học lịch sử của Liên Xô khí Trung Quốc từ bỏ liên minh Xô Trung và hợp tác với Hoa Kỳ. Điều này đã khiến cho Liên Xô từ siêu cường trở thành một nước Nga như hiện nay và ngài phải giảnh giật từng vùng đất ở Ucraine, mà đáng nhẽ không cần thiết. Để đạt mục đích có nhiều phương pháp. Tất nhiên trong đó có những phương pháp tối ưu mang lại kết quả và những phương pháp sai lầm dẫn đến thất bại. Lựa chọn phương pháp đúng hay sai, nó phụ thuộc vào tầm nhìn.
    1 like
  12. Rất cảm ơn Văn Lang có lời chúc lành. Hiện nay bệnh của tôi đã giảm, nhưng chưa khỏi hẳn. Từ trước đến nay tôi luôn phân tích sự việc một cách khách quan và mang màu sắc tiên tri của Lý học. Tính nghiệm đúng của kết quả phân tích có tính tiên tri, xác định tính khách quan của sự phân tích. Tôi cũng đang cố gắng hết sức để chữa bệnh, tôi hy vọng sang đầu tháng 5 Việt lịch sẽ khỏi. Nhưng mọi việc còn tùy thuộc vào số phận. Một lần nữa cảm ơn Văn Lang.
    1 like
  13. Mấy bài viết của bác THIÊN SỨ phân tích rất hay.
    1 like
  14. Bài viết mà tôi đưa lên trong topic này có vẻ như không liên quan đến Chữ Việt cổ. Nhưng tôi hy vọng quí vị còn ghé qua topic này so sánh di vật tìm được ở Jerusalem với bảng chữ Việt cổ mà bác Xuyền phát hiện được, chúng ta sẽ thấy có nhiều nét tương đồng. ======================= Tìm thấy bút tích lời nguyền ma thuật 1700 năm tuổi Thứ Tư, 30/10/2013 - 01:48 (Dân trí) - Các nhà khảo cổ vừa tìm thấy một tấm bảng khắc lời nguyền hơn 1700 năm tuổi trong một khu nhà La Mã ở thành phố David, Jerusalem. Một tấm bảng chì có niên đại cách đây 1700 năm và có thể được viết bởi một thầy phép vừa được tìm thấy trong một khu nhà đổ nát ở Jerusalem. Tấm bảng chì khắc lời nguyền có niên đại 1700 tuổi được tìm thấy tại Jerusalem. Địa điểm này được khai quật ở khu vực được gọi là "Thành phố của David", Jerusalem, nơi con người đã sinh sống ít nhất từ 6000 năm nay. Khu nhà tại thành phố Jerusalem, nơi tìm thấy bút tích ghi lại lời nguyền cổ xưa. Các đoạn chữ được viết bằng tiếng Hy Lạp, trong đó một phụ nữ tên là Kyrilla đã gọi tên 6 vị thần để đặt lời nguyền lên người có tên Iennys: "Ta đánh xuống và đóng đinh lưỡi, đôi mắt, cơn giận dữ, sự chống đối của Iennys", một phần lời nguyền được dịch ra. Kyrilla xin các vị thần bảo đảm "hắn không chống lại, và không thể nói hay làm gì bất lợi cho Kyrilla ..." Nội dung của tấm bảng là lời nguyền rủa viết bằng tiếng Hy Lạp Để hoàn thành mục đích, Kyrilla đã kết hợp các yếu tố từ 4 tôn giáo khác nhau- Robert Walter Daniel ở Đại học Cologne cho biết. Trong 6 vị thần, có bốn vị thần Hi Lạp (Hermes, Persephone, Pluto và Hecate), một vị thần Babylon (Ereschigal) và một vị thần Gnostic (Abrasax). Ngoài ra, các đoạn chữ còn có những từ ngữ ma thuật như "Iaoth" có nguồn gốc từ tiếng Do Thái. Lời nguyền này có thể đã được tạo ra bởi một thầy phép chuyên nghiệp, người đã sử dụng búa và đinh để thực hiện các nghi lễ nhằm tăng tính hiệu quả cho lời nguyền. "Việc đóng đinh là một cách điều khiển người bị nguyền rủa", Daniel cho biết thêm. Kyrilla và người bị nguyền rủa đều là những người trong tầng lớp trung lưu hay thượng lưu của La Mã. Nhiều khả năng là họ đã dính vào một vụ kiện cáo do tấm bảng này có những đặc điểm giống các tấm bảng được tìm thấy ở đảo Síp, vốn là vật dụng đã từng được sử dụng trong các vụ kiện. Thêm vào đó, từ ngữ trong đoạn văn bản này gợi tới các vấn đề kiện tụng. Tấm bảng được khai quật ở phía Tây Bắc một khu nhà. Căn phòng đặt tấm bảng đã bị sập hoàn toàn, nhưng các hiện vật khai quật được quanh đó có thể cho biết về nội thất của căn phòng khi nó còn được sử dụng. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa được rõ mục đích của căn phòng này. Tuy nhiên, nhân vật Iennys có thể có liên quan nhiều tới mức tấm bảng nguyền rủa này được cố tình đặt trong chính căn phòng đó. "Do lời nguyền nhắm tới Iennys, nó có thể được giấu ở nơi ông ta hay tới", Daniel cho biết thêm. Có thể Iennys sống hoặc làm việc ở khu nhà này hoặc ở gần khu vực có căn phòng đó. Phan Hạnh Theo News Discovery ======================= Bài viết mà tôi đưa lên trong topic này có vẻ như không liên quan đến Chữ Việt cổ. Nhưng tôi hy vọng quí vị còn ghé qua topic này so sánh di vật tìm được ở Jerusalem với bảng chữ Việt cổ mà bác Xuyền phát hiện được, chúng ta sẽ thấy có nhiều nét tương đồng: Nội dung của tấm bảng là lời nguyền rủa viết bằng tiếng Hy Lạp Đây là một bằng chứng nữa cho thấy mối liên hệ của nền văn minh Việt cổ với một nền văn minh toàn cầu đã tồn tại trên trái Đất này. Do đó, nền văn minh đó đã để lại nhưng dấu ấn trên những ký tự ngôn ngữ trong những nền văn minh cổ xưa trong lịch sử văn minh nhận thức được của của tri thức khoa học hiện đại. Nếu không thì chỉ còn cách giải thích là: Người Hy Lạp đã sử dụng ký tự của người Việt cổ làm phong phú cho chữ viết của họ. Bởi vì những ký tự có nét tương đồng này có sau chữ Việt cổ đến 500 năm. Híc!
    1 like
  15. Những kẻ sinh ra chỉ cần học hết lớp một, đọc và học 24 chữ cái,lên lớp ba là đọc báo, đọc truyện thiều nhì....cứ tưởng để thiết lập một hệ thống chữ Viết cho cả một dân tộc là chuyện - dễ như hồi học lớp 1. Xin lỗi. Đấy là thứ tư duy của con ếch. Bác Xuyền không phải là thiên tài khi tạo ra cả một hệ thống chữ viết cho dân tộc Việt dựa vào hệ thống chữ Viết của dân tộc Tày Thái - nếu như hệ thống chữ viết mà bác Xuyền công bố không phải của chính dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước. Tôi thí dụ: Ngay bây giờ Bộ Giáo Dục VN có ra quyết định: Tất cảc các chữ có "ng" đổi thành "nh" và ngược lại, thì nó có thể bị bắt buộc phải thực hiện ở trong lớp học và ở các quan hệ văn bản hành chính. Nhưng nó sẽ không thể trở thành phổ biến trong vòng vài chục năm. Vậy thì một hệ thống chữ Viết phù hợp với tất cả những tiêu chí cho ngôn ngữ của cả một dân tộc, không phải là điều bác Xuyền có thể tự nhiên chuyển dễ dàng từ chữ Tày Thái sang chữ cổ Việt.
    1 like
  16. Chắc quí vị còn nhớ vào thời 1945/ 1946. Cả nước xuất hiện phòng trào "Bình dân học vụ" - phong trào này lặp lại vào năm 1954 - 1958. Đại để vậy. Nguyên nhân: 80% dân số Việt Nam mù chữ. Vấn đề đặt ra: Dân tộc Việt vào thời điểm đó có 25.000. 000 người. 80% Tức là có khoảng 20T người mù chữ. Cả một dân tộc vào thời đại văn minh và thuộc dân tộc văn minh như vậy, mà có đến 20T người mù chữ - hay nói cách khác: Họ không sử dụng chữ trong sinh hoạt đời sống. Vậy dân tộc Thái - mà một số người "nhảy dựng" dẫn chứng phản biện, khi có người phát hiện Chữ Việt cổ - xuất phát từ nhu cầu gì để thanh lập riêng cho mình cả một hệ thống ký tự ngôn ngữ "giông " hệ thống chữ của bác Xuyền? - Khi mà những sinh hoạt trên vùng cao của đồng báo Thái - đơn giản hơn so với sinh hoạt của dân tộc Kinh.Bởi vậy, hiện tượng chữ Khoa Đẩu của đồng báo Thái chỉ có thể giải thích rằng: Đấy là hệ thống chữ Việt cổ của một quốc gia còn lại trong dân tộc Thái - chưa bị xóa sổ, sau hàng ngàn năm thăng trầm của Việt sử. Một giả thuyết khoa học được coi là đúng khi so sánh với tiêu chí khoa học cho một giả thuyết nhân danh khoa học. Tiêu chí khoa học là chuẩn mực để xác định tính chân lý của hệ thống chữ Việt cổ của bác Xuyền,trong hệ thống luận cứ của bác Xuyền chứng minh điều này. Bởi vậy, muốn chứng minh bác Xuyền sai - thì - phải chi ra cái sai trong hệ thống luận cứ của bác ấy, Chứ không phải nhảy dựng như cháy nhà khi có người chứng minh Việt tộc có chữ viết từ thời thương cổ. và áp đặt một sự hiểu biết chủ quan của mình, phủ nhận gần như trắng trợn. "Thiên tài không đi lẫn với đàn cừu". Đấy là hẳn giáo sư Ngô Bảo Châu nói. Còn tôi thì hồi nhỏ hay xem chuyện thiếu nhi với những con vật được nhân cách hóa - cho nên phát biểu có tính hình tượng rằng: "Những con ếch luôn có chứng lý khi mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó". Tất nhiên trong đám ếch đó, cũng có con to, con nhỏ.
    1 like
  17. Bác Xuyền đã chứng minh rằng: Bộ mẫu tự Khoa Đẩu chính là bộ mẫu tự phân loại thuộc nhóm Hebrew . Tính gần gũi của những ký tự ghép âm này giữa hệ thống Latin và Hebrew là cơ sở để chuyển đổi giữa ký âm latin cho tiếng Việt. Bác Xuyền đã chứng minh rằng: Trong một cuốn sách cổ là cuốn tự điển của một giáo sĩ phương Tây truyền đạo ở Việt Nam thê kỷ thứ XV, có những ký tự Khoa Đẩu cùng với ký hiệu chữ Latin. Những kẻ chưa xem hết những luận cứ của bác Xuyền đã nhảy dựng lên phản đối - làm như cháy nhà họ đến nơi, khi "chẳng may" có người chứng minh được dân tộc Việt có chữ Viết từ thời Hùng Vương. Muốn phản biện bác Xuyền phải chỉ ra cái sai trong mối liên hệ giữa các luận cứ của chính bác ấy. Tôi đang chờ cái "cơ sở khoa học" của ông Phan Huy Lê quan niệm thế nào. Nếu tôi trong hoàn cảnh của ông ta, có người chất vấn và đối thoại thì ít nhất tôi cũng phải viết một tiểu luận làm sáng tỏ nội hàm ý nghĩa của điều mà tôi đã nhân danh để phủ nhận người khác. Tức là làm sáng tỏ nội hàm khái niệm "cơ sở jkhoa học". Còn như ông An Chi, tôi chưa bao giờ coi ông ta là người siêu việt trong ít nhất topic này và trong web này.
    1 like
  18. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước khác đã thất bại khi rất muốn La tinh hoá chữ viết của họ chỉ có Việt Nam là thành công trong việc La tinh hoá chữ viết của mình. Tại·sao chỉ có Việt Nam đổi hệ·thống chữ·viết biểu·ý sang hệ·thống chữ·viết dùng chữ·cái La·tinh? Tại sao chỉ có Việt Nam đổi hệ thống chữ viếtbiểu ý (ký tự – character) từ Nôm tự (quốc ngữ xưa) sang hệ thống chữ viết biểuâm (chữ cái – letter) dùng chữ cái La tinh (quốc ngữ nay) trong khi các quốcgia đồng văn khác như Trung Hoa, Nhật Bản và Cao Ly (Triều Tiên hay Hàn Quốc)thì không? A. Trước hết, tôi xin được điểm qua một cáchkhái quát về hệ thống chữ viết. Trên thế giới, có nhiều hệ thống chữ viết khácnhau, nhưng tựu chung lại chỉ có hai hệ thống: chữ biểu âm và chữ biểu ý. Trong hệ thống chữ biểu âm, mỗi biểu tượng(symbol) hoặc ký hiệu (notation) còn được gọi là ký tự (character), nhưng cácký tự in được (printable character) được sử dụng để đại diện cho mỗi âm hay âmvị còn được gọi là chữ cái (letter). Chẳng hạn như chữ Latin, chữ Ả Rập, chữHindu, hiragana (平假名 Bình giả danh) và katakana (片假名 Phiến giả danh) của Nhật Bản. Bảng chữ cái (alphabet) của một số hệ thốngchữ viết biểu âm là cơ sở để dựa vào đó con người diễn đạt tiếng nói thành từ(word), cụm từ (phrase). Sau đây là các bảng chữ cái tiêu biểu của một số hệ thống: Latinh: A, B, C, D, E, F, G, H, I, J, K, L, M,N, O, P, Q, R, S, T, U, V, W, X, Y, Z. Hy Lạp: Α, Β, Γ, Δ, Ε, Ζ, Η, Θ, Ι, Κ, Λ, Μ, Ν,Ξ, Ο, Π, Ρ, Σ, Τ, Υ, Φ, Χ, Ψ, Ω. Hebrew: (đọc từ phải sang trái) א, ב, ג, ד, ה, ו, ז, ח, ט, י, כ, ל, מ, נ, ס, ע, פ, צ, ק, ר, ש, ת. Trong hệ thống chữ biểu ý, mỗi biểu tượng(symbol) hoặc mỗi ký hiệu (notation) còn được gọi là ký tự (character) đại diệncho một từ, hình vị hay đơn vị ngữ nghĩa. Chẳng hạn như chữ Ai Cập, chữ Hán, chữMaya và kanji (漢字Hán tự) của Nhật Bản. Bảng bộ thủ (部首) của hệthống chữ viết biểu ý Trung Hoa, có thể được coi như Bảng Mẫu tự Trung Hoa(Chinese Main Character Table) bởi lẽ 80% toàn bộ chữ Hán được tạo ra bằngphương thức Hình Thanh (形聲), (hay tượng thanh, hài thanh).Mượn phần âm thanh (聲) của một chữ có sẵn rồi ghép vào mộtbộ (phần hình 形) chỉ ý nghĩa, để tạo ra chữ mới. Bảng bộ thủ được phân loại thành 214 bộ (mẫu tự). Mỗi bộ thủ mẹ (mẫu tự) này được kếthợp với bộ thủ khác hoặc thêm một số nét để tạo thành một ký hiệu mới (newnotation) hay ký tự (character) mới hay chữ con mới (sub-character). Mẫu tựTrung Hoa được tạo ra dựa theo tám dạng nét cơ bản: 1. Nét ngang: hoành 一 (viết từ trái sang phải) như trong chữ [一 , nhất], (một) 2. Nét sổ thẳng: trực 丨 (viết từ trên xuống dưới) như trong chữ [十 , thập], (mười) 3. Nét phẩy: phiệt 丿(viếttừ trên-trái xuống phải-dưới) như trongchữ [八 , bát],(tám) 4. Nét mác: phật 乁 (viếttừ trên-trái xuống phải-dưới) như trong chữ [入, nhập],(vào) 5. Nét móc câu với 5 dạng khác nhau và khônghoán đổi nhau được: 乛, 亅, 勹, 乚 [hoành câu] nét ngang móc 乛 như trong chữ [字 , tự] (chữ) [sổ câu] nét đứng móc 亅 như trong chữ [小 , tiểu] (nhỏ) [loan câu] nét cong với móc 勹 như trong chữ [狗 , cẩu], (chó) [tiết câu] nét mác với móc 乚 như trong chữ [我 , ngã], (tôi) [bình câu] nét cong đối xứng với móc nhưtrong chữ [忘 ,vong], (quên) 6. Nét gãy: chiết フ 7. Nét xốc: khiêu 冫 như trong chữ [跳 , khiêu], (nhảy) 8. Nét chấm: điểm 丶 (viếttừ trên xuống dưới-phải hoặc trái) như trong chữ [六, lục],(sáu) Ngoài ra còn một số nét kết hợp không theo chuẩncơ bản. Bao gồm các dạng nét như sau: [sổ bình câu] nét đứng kết hợp với bình câu và móc như trong chữ [也 ,dã], (cũng) [phiệt điểm] nét phẩy về trái kết thúc bởi chấm như trong chữ [女 , nữ],(con gái) [sổ triệp triệp câu] nét sổ với 2 lần gập và móc như trong chữ [馬 ,mã], (ngựa) Tuy phân chia chúng ra thành 8 dạng nét cơ bảncho tiện sắp xếp, nhưng trong đó một số nét cơ bản lại có nhiều tiểu dạng khácnhau và các dạng đó không hoán đổi với nhau được. Do vậy, dựa vào thực tế ta cóthể nói Mẫu tự Trung Hoa được tạo ra dựa theo 23 dạng nét (shape) cơ bản.Phương thức Hình Thanh (形聲) gây ra rất nhiều từ đồng âm,người ta phải xem hoặc đọc thêm bằng mắt (vì phần nghĩa do phần hình 形 chỉ định) mới hiểu rõ nghĩa. Bảng bộ thủ dựa theo số nét (number ofstrokes): 1. 一 丨 丶 丿 乙 亅 2. 二 亠 人 儿 入 八 冂 冖 冫 几 凵 刀 力 勹 匕 匚 匸 十 卜卩 厂 厶 又 3. 口 囗 土 士 夂 夊 夕 大 女 子 宀 寸 小 尢 尸 屮 山 巛 工己 巾 干 幺 广 廴 廾 弋 弓 彐 彡 彳 4. 心 戈 戶 手 支 攴 文 斗 斤 方 无 日 曰 月 木 欠 止 歹 殳 毋 比 毛 氏 气水 火 爪 父 爻 爿 片 牙 牛 犬 5. 玄 玉 瓜 瓦 甘 生 用 田 疋 疒 癶 白 皮 皿 目 矛 矢 石 示禸 禾 穴 立 6. 竹 米 糸 缶 网 羊 羽 老 而 耒 耳 聿 肉 臣 自 至 臼 舌 舛舟 艮 色 艸 虍 虫 血 行 衣 襾 7. 見 角 言 谷 豆 豕 豸 貝 赤 走 足 身 車 辛 辰 辵 邑 酉 釆里 8. 金 長 門 阜 隶 隹 雨 青 非 9. 面 革 韋 韭 音 頁 風 飛 食 首 香 10. 馬 骨 高 髟 鬥 鬯 鬲 鬼 11. 魚 鳥 鹵 鹿 麥 麻 12. 黄 黍 黑 黹 13. 黽 鼎 鼓 鼠 14. 鼻 齊 15. 齒 16. 龍 龜 17. 龠 Tuy nhiên, với việc giản thể hoá chữ Hán dochính quyền Trung Quốc khởi xướng sau này nên số bộ thủ tăng thêm 13 bộ nữa. Dođó, bảng bộ thủ (部首) ngày nay gồm 227 bộ thủ (mẫu tự TrungHoa). B. Tại sao các quốc gia như Trung Hoa, Nhật Bảnvà Cao Ly không đổi hệ thống chữ viễt biểu ý (ký tự – character) sang hệ thốngchữ viết dùng chữ cái La tinh, duy chỉ có Việt Nam? Tiếng Trung Hoa, Nhật, Cao Ly và Tiếng Việt Nồm(post-Nôm) là những tiếng đơn âm nên đều mắc phải một trở ngại chung là có nhiềuchữ đọc giống nhau nhưng nghĩa khác nhau xa (đồng âm dị nghĩa). Trung Hoa và NhậtBản không thể đổi sang hệ thống chữ viết dùng chữ cái La tinh mà chỉ để phiênâm cho người nước ngoài học ngôn ngữ bản địa được dễ dàng, chứ không thay thế hẳnnhư trường hợp Việt Nam vì số âm tiết của ngôn ngữ họ hạn hẹp. Tiếng Bắc Kinh, Phổ Thông hay Quan Thoại chỉcó 1.300 âm, để giải quyết vấn đề đồng âm dị nghĩa do số âm tiết hạn chế ngườiTrung Hoa phải chế ra vô số ký hiệu hay ký tự (character) khác nhau để phân biệtý nghĩa của chúng dựa vào phương thức Hình Thanh là chính. Chẳng hạn, một tiếnghay một âm “hoàng”, trong Hán tự có 17 ký tự (character) khác nhau để ghi 17nghĩa khác nhau (đồng âm dị tự dị nghĩa), âm “kỳ” có 22, âm “hoa” có 10… Họ cốgắng giải quyết vấn đề đồng âm bằng cách ghép hai hay ba ký tự với nhau — tuynhiên có rất nhiều từ mới gồm hai hoặc ba ký tự hợp thành này, lại cũng thườngcó nhiều nghĩa. Do đó với hệ thống chữ viễt biểu ý, Tiếng Trung Hoa phải dùng227 bộ thủ (部首) hay mẫu tự Hán để tạo ra 3.000 ký tự cơ bản (basic Chinese character) để ghi lại hơn 50.000 từ (word), trong khi đóTiếng Việt dùng 29 ký tự (chracter) hay chữ cái (letter) hoặc Tiếng Anh chỉdùng 26 ký tự hay chữ cái cũng để ghi một lượng từ tương đương. Do vậy nếukhông thuộc mặt chữ và biết rõ nghĩa của 3.000 ký tự cơ bản (basic Chinesecharacter) của mỗi thời đại thì không thể nói và hiểu rành rọt được Tiếng Hán củathời đại đó. Tiếng Nhật do chỉ có 120 âm, 5 nguyên âm, nênđồng âm dị nghĩa rất nhiều, nếu viết bằng La Tinh thì không rõ nghĩa. Nhật ngữhiện đại dùng ba thể Kanji, Hiragana, và Katakana. Kanji dùng diễn đạt ý nghĩacơ bản của từ. Hiragana dùng sau Kanji để bổ túc ý nghĩa và ngữ pháp Nhật.Katakana chỉ dùng để phiên âm hoặc tạo các từ vay mượn của nước ngoài (gairaigo外來語, ngoại lai ngữ). Người Cao Ly dùng chữ ký âm, được gọi làHangul (한글) hay Chosŏn’gŭl (조선글) của riêng họ, tuy thoạt nhìn có vẻ giống Hántự ở một khía cạnh nào đó, nhưng thật ra họ chỉ dùng 24 ký tự giống như bảng chữcái La Tinh để ký âm tiếng Cao Ly. Do đó, thực sự mà nói là chỉ có Trung Quốcvà Nhật Bản là sử dụng hệ thống chữ viễt biểu ý. Tiếng Việt có thể đổi sang hệ thống chữ biểuâm La tinh để ghi âm nhờ vào sự phong phú về phát âm. Mỗi tiếng nói là do mộtâm tiết kết hợp với một thanh mà tạo thành. Tiếng Việt có khoảng 15.000 âm nênít bị trường hợp chữ đọc giống nhau nhưng nghĩa khác nhau xa (đồng âm dịnghĩa). Để có thể ghi lại số lượng âm khổng lồ này, chưa kể f, j, w, z, chúngta dùng 29 ký tự (printable character) hay chữ cái (letter) bao gồm 12 nguyên âmgồm a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y; 17 phụ âm gồm b, c, d, đ, g (gh), h, k.l, m, n, p. q, r, s, t, v, x. Như vậy vẫn chưa đủ, ngoài ra ta còn có 3 bánnguyên âm đôi iê, ươ và uô; 9 phụ âm đôi (consonant digraph) gồm ch, gi, kh, ng(ngh), nh, ph, qu, th, tr, cộng thêm sáu thanh điệu (tone) được ghi bằng các dấuthanh (accent mark) gồm thanh ngang (không dấu), dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấusắc và dấu nặng. Thế mới thấy số lượng âm thanh của Tiếng Việt phong phú vàgiàu chất nhạc vô cùng. Do nhu cầu giao tiếp quốc tế cũng như ghi lại nhiều kiếnthức mới, khoa học mới. Khuynh hướng đưa thêm các chữ cái F, J, W, Z được dùngđể phiên âm tên, địa danh tiếng nước ngoài và dùng trong lĩnh vực khoa học nhưhoá học, vật lý học, toán học… dần dần được nhiều người ủng hộ. Ngoài ra, vấn nạn “đồng tự, đồng âm nhưng dịnghĩa” đối với Tiếng Hán là một bài toán nan giải, thế nhưng đối với Tiếng Việt,chúng ta có thể giải quyết một cách triệt để được vấn đề “chữ viết giống nhau,đọc giống nhau nhưng nghĩa khác nhau xa” nhờ thoát ra khỏi sự trói buộc, đóngkhung trong phép lục thư (六書) của Trung Hoa và thay vào đóbằng cách ghép các từ đơn căn bản thành nhiều từ kép mới, cũng như nhiều tiếngmới bằng những nguyên tắc, phương thức mới linh động: 1. Láy từ Ví dụ: Trắng tinh, trắng toát, trắng xoá Đen đúa, đen nghịt, đen ngòm, đen xì. 2. Đồng kết: ghép (kết hợp) từ thuần Việt vớitừ Nho Việt có cùng nghĩa (đồng nghĩa) Ví dụ: Hát xướng: hát (Việt), xướng (Nho). Trắng bạch: trắng (Việt) + bạch (Nho) 3. Dị tự: sử dụng chữ cái I hoặc Y tạo ra từ mới Ví dụ: Lí trong “lí nhí” khác với lý trong “lý tưởng” Kì trong “kì cọ” khác với kỳ trong “kỳ ngộ”,“kỳ tích” 4. Tạo tân từ hoàn toàn mới dựa vào dấu thanh Ví dụ: thẹ số: number tag, thẻ tín dụng: credit card siếu: meta, siêu: super Tóm lại, Tiếng Việt có thể đổi sang hệ thốngchữ biểu âm La tinh để ghi âm nhờ vào sự phong phú về phát âm và nhờ vào số lượngchữ cái dồi dào, 12 nguyên âm (a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y), 3 bánnguyên âm đôi (iê, ươ và uô), 17 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g (gh), h, k. l, m, n,p. q, r, s, t, v, x), 9 phụ âm kép (ch, gi, kh, ng (ngh), nh, ph, qu, th, tr),cộng thêm sáu thanh (thanh ngang (không dắu), dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấusắc và dấu nặng) để có thể ghi lại số lượng âm khổng lồ này. Hy vọng một ngàynào đẹp trời nào đó, các chữ cái F, J, W, Z được chính thức thêm vào bảng chữcái Tiếng Việt để phiên âm tên, địa danh tiếng nước ngoài và dùng trong lĩnh vựckhoa học như hoá học, vật lý học, toán học… thì quá tuyệt vời. Thêm vào đó nhờthoát ra được sự trói buộc trong phép lục thư (六書) củaTrung Hoa, chúng ta có thể tạo ra nhiều từ ghép mới bằng những nguyên tắc mớilinh động hơn, giảm thiểu được vấn đề đồng âm, đổng tự và góp phần làm trongsáng Tiếng Việt. Đặng Hải Nguyên http://thuatngu.tieng-viet.org/
    1 like
  19. 50 năm, 220 ngôn ngữ bị "xóa sổ" ở Ấn Độ khoahoc.com.vn Cập nhật lúc 11h02' ngày 12/08/2013 Ấn Độ đã mất khoảng 20% số lượng ngôn ngữ trong vòng 5 thập niên, theo khảo sát mới của Trung tâm Nghiên cứu và In ấn Bhasha. Sự biến mất của các ngôn ngữ tại Ấn Độ diễn ra với tốc độ chóng mặt - (Ảnh: Dreamstime.com) Quốc gia Nam Á này có khoảng 1.100 ngôn ngữ vào năm 1961, nhưng hiện gần 220 loại trong số đó đã biến mất, báo Times of India dẫn lời Ganesh Devy, đồng trưởng nhóm nghiên cứu cho biết. “Chúng tôi tìm được 780 ngôn ngữ, và có thể mất dấu khoảng 100 ngôn ngữ, nhưng gộp lại cũng được gần 880 loại. Phần còn lại đã biến mất hoàn toàn”, theo chuyên gia Devy. Hầu hết các ngôn ngữ bị xóa sổ thuộc về những cộng đồng du mục tản mác khắp nước. Lý do chính dẫn đến sự mất mát đáng tiếc trên là do thiếu sự công nhận, các cộng đồng thiểu số bị chiếm chỗ ở, cái nhìn kỳ thị đối với những dạng ngôn ngữ bị liệt vào loại kém phát triển… Cuộc kiểm tra vào năm 1961 đã ghi nhận tổng cộng 1.652 ngôn ngữ, nhưng sau đó con số này bị giảm xuống còn 1.100, do ban đầu các chuyên gia gộp luôn các biến thể của nhiều ngôn ngữ vào danh sách. Theo Thanh Niên ===================== Mới có năm mươi năm, có đến 220 ngôn ngữ của một số dân tộc bị xóa sổ. Đấy là những dân tộc tộc sống tự do trên đất Ấn Độ.Trong khí đó hàng ngàn năm Bắc thuộc ngôn ngữ Việt vẫn tồn tại chính vì sự phong phú trong nội hàm của nó, khiến nó không thể thay thế bằng một thứ ngôn ngữ từ một nền văn minh thấp hơn. Tất nhiên về mặt logic thì - khi các dân tộc có nền văn minh thấp hơn có chữ viết tất nhiên dân tộc Việt phải có chữ viết. Nhưng chính hơn 1000 năm Bắc thuộc đã xóa sổ văn tự Việt. Trong một đế quốc thống trị không thể tồn tại hai văn tự chính thống. Bác Xuyền đã có công tìm ra chữ Việt cổ, xác định một yếu tố căn bản này theo tiêu chí khoa học. Muốn phản biện bác Xuyền phải chỉ ra sự bất hợp lý ngay trong luận cứ của bác Xuyền. Rất tiếc! Họ không đủ khả năng để làm điều đó. Hầu hết thế giới này đang sử dụng chữ La Tinh. Nhưng người Việt dùng chữ La Tinh để ký tự hóa ngôn ngữ và truyền đạt ý tưởng thì chữ Quốc ngữ với ký tự La tinh - mà người Việt đang dùng này - không phải là ký tự mô tả tiếng Anh, hoặc La Mã. Đúng là những con ếch luôn có chứng lý khi mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó.
    1 like
  20. Vâng! Cái nhân cách bần tiện và dốt nát của đám học "giả" loại này - khi đắc chí - nó thể hiện ở chỗ: Luôn phản đối những quan điểm trái ý mình. Không cần đếm xỉa luận điểm học thuật. Đưa ra ý kiến chủ quan áp đặt. Giả dụ người Tày Thái như ông này nói - có chữ viết - và nó giống hệt chữ của bác Xuyền - thì điều đó không có nghĩa luận điểm bác Xuyền sai. Bởi vậy, muốn phản biện phải chỉ ra bác Xuyền sai từ ngay trong luận cứ của bác ấy. Xin lỗi! Loại này không có "chình độ". Web Lý học Đông phương có thể dung nạp tất cả những phát kiến nhân danh khoa học và có luận cứ. Đúng sai tính sau. Nhưng thật sự khó dung nạp thứ tư duy loại này!
    1 like
  21. Bởi vậy! Tầm nhìn của mấy học "giả" này chỉ giới hạn đến đây! Tôi cũng không buồn phản biện mấy người này. Cha nội này cũng khá nổi tiếng đây - tất nhiên là so với "chính độ "ve chai lông vịt, đồ nát bán"! Nhưng chưa đủ tầm để tôi quan tâm.Nói ra họ thấy ngu lại tự ái rồi lên tiếng ầm ầm phản đối. Mệt lắm. Nhưng nếu còn viết tiếp và ngu quá thì cũng cần nhắc nhở. Nếu có cuộc hội thảo về "Chữ Việt cổ" và do TTNC LHDP tham gia chủ trì thì những học "giả" như ông An Chi không thuộc hàng khách mời. Có thể những người mà bộ nhớ ít chữ hơn ông ta, nhưng có khả năng tư duy logic lại là khách mời quan trọng hơn. Dân tộc Việt Nam sau này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển của nền văn minh nhân loại trong tương lai. Mặc dù nó không phải một siêu cường bá chủ thế giới. Nhưng nền văn hiến Việt sẽ được trân trong, như một thành tố không thể thiếu được của tương lai. Tất nhiên, nó không phải bắt đầu từ những học "giả" đang qua lo lắng cho "học thuật nước nhà" như ông này và đám tư duy "Ở trần đóng khố".
    1 like
  22. Nhà đèn biết có bài thơ này chắc cảm kích lắm.
    1 like
  23. Đáng thương cho những người vì lòng tham mà tự dẫn bản thân làm những việc ngu xuẩn!Chúng ta là con Rồng cháu Tiên,xin hãy thức tỉnh,đừng để tâm ma của bản thân và mưu đồ ngọai bang làm u mê mà tự mình dẫn bản thân,dân tộc Lạc Việt và thế giới con người đi đến chỗ hủy diệt,đã mang thân làm con người-một tạo vật huyền diệu của vũ trụ thì xin hãy biết tri ân ơn trên mà sống cho đúng với hai tiếng " CON NGƯỜI"
    1 like
  24. Bài thơ " Lịch Sử nước ta " của Hồ Chủ Tịch Để khơi gợi lòng tự hào dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài kêu gọi "Lịch sử nước ta". Bài gồm 210 câu thơ lục bát, dễ thuộc, dễ hiểu, phù hợp với nhân dân Việt Nam lúc đó với trên 90% dân số mù chữ. Bác đã viết tác phẩm này năm 1941, tại rừng Pác Bó, khi Người đang hoạt động cách mạng tại căn cứ địa Cao Bằng Lịch sử nước ta Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà. Hồng Bàng là tổ nước ta Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang Thiếu niên ta rất vẻ vang Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời. Tuổi tuy chưa đến chín mười Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương. An Dương Vương thế Hùng Vương Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân. Nước Tàu cậy thế đông người Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam Quân Tàu nhiều kẻ tham lam Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi? Hai Bà Trưng có đại tài Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian Ra tay khôi phục giang san Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta Tỉnh Thanh Hoá có một bà Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi. Tài năng dũng cảm hơn người Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương. Phụ nữ ta chẳng tầm thường Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời. Kể gần sáu trăm năm giời Ta không đoàn kết bị người tính thôn. Anh hùng thay ông Lý Bôn Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người. Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền. Vì Lý Phật Tử ngu hèn Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta. Thương dân cực khổ xót xa Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu. Vì dân đoàn kết chưa sâu Cho nên thất bại trước sau mấy lần. Ngô Quyền quê ở Đường Lâm Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm. Đến hồi thập nhị sứ quân Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn. Động Hoa Lư có Tiên Hoàng Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh. Ra tài kiến thiết kinh dinh, Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời. Lê Đại Hành nối lên ngôi Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành. Vì con bạo ngược hoành hành Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương. Công Uẩn là kẻ phi thường Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta. Mở mang văn hoá nước nhà Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân. Lý Thường Kiệt là hiền thần Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành. Tuổi già phỉ chí công danh Mà lòng yêu nước trung thành không phai. Họ Lý truyền được chín đời Hai trăm mười sáu năm giời thì tan. Nhà Trần thống trị giang san, Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài, Quân Nguyên binh giỏi tướng tài: Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu, Tung hoành chiếm nửa Âu châu Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la, Lăm le muốn chiếm nước ta Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ, Hải quân theo bể kéo đi, Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm. Dân ta nào có chịu hèn Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu. Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu, Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang. Mênh mông một dải Bạch Đằng Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh, Hai lần đại phá Nguyên binh, Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời. Quốc Toản là trẻ có tài, Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền Mấy lần đánh thắng quân Nguyên Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung. Thật là một đấng anh hùng. Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo. Đời Trần văn giỏi võ nhiều Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh. Mười hai đời được hiển vinh, Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi. Cha con nhà Hồ Quý Ly, Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên. Tình hình trong nước không yên, Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu, Bao nhiêu của cải trân châu, Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn. Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn. Mấy phen sông Nhị núi Lam, Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng. Kìa Túy Động nọ Chi Lăng, Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành. Mười năm sự nghiệp hoàn thành, Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan. Vì dân hăng hái kết đoàn, Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng. Vua hiền có Lê Thánh Tôn, Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành. Trăm năm truyền đến cung hoàng, Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi. Bấy giờ trong nước lôi thôi, Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà, Bảy mươi năm vạn can qua Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi. Từ đời mười sáu trở đi, Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau, Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. Dân gian có kẻ anh hùng, Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn, Đóng đô ở đất Quy Nhơn, Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền Nhà Lê cũng bị mất quyền, Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương. Nguyễn Huệ là kẻ phi thường Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu, Ông đà chí cả mưu cao, Dân ta lại biết cùng nhau 1 lòng. Cho nên tàu dẫu làm hung, Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà. Tướng tây Sơn có một bà, Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân, Tay bà thống đốc ba quân, Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là. Gia Long lại dấy can qua, Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài. Tự mình đã chẳng có tài, Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây. Nay ta mất nước thế này, Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà, Khác gì cõng rắn cắn gà, Rước voi dầy mả thiệt là ngu si. Từ năm Tân Hợi trở đi, tây đà gây chuyện thị phi với mình. Vậy mà vua chúa triều đình, Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai. nay ta nước mất nhà tan Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn. Năm Tự Đức thập nhất niên, Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây. Hăm lăm năm sau trận này, Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan, Ngàn năm gấm vóc giang san, Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây ! Tội kia càng đắp càng đầy, Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng. Nước ta nhiều kẻ tôi trung, Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương. Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương, Cùng thành còn mất làm gương để đời. Nước ta bị Pháp cướp rồi, Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng; Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương. Mấy năm ra sức cần Vương, Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên, Giang san độc lập một miền, Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành. Anh em khố đỏ, khố xanh, Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa, Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa, Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn. Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu. Nam Kỳ im lặng đã lâu, Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây. Bắc Sơn đó, Đô Lương đây! Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn. Xét trong lịch sử Việt Nam, Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng. Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông, Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên. Ngày nay đến nỗi nghèo hèn, Vì ta chỉ biết lo yên một mình. Để người đè nén, xem khinh, Để người bóc lột ra tình tôi ngươi ! Bây giờ Pháp mất nước rồi, Không đủ sức, không đủ người trị ta. Giặc Nhật Bản thì mới qua; Cái nền thống trị chưa ra mối mành. Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh, Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà. Ấy là nhịp tốt cho ta, Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông. Người chúng ít, người mình đông Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên. Hỡi ai con cháu Rồng Tiên ! Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau. Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu, Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn. Người giúp sức, kẻ giúp tiền, Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta. Trên vì nước, dưới vì nhà, Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh. Chúng ta có hội Việt Minh Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh Mai sau sự nghiệp hoàn thành Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh ! Nguồn: hoangsa.org.
    1 like
  25. Kính chào bác Vô Trước, Cám ơn bác đã quan tâm, trả lời thắc mắc và chỉ trước ngõ cụt cho Nhật Tâm. Về trường hợp cụ Trạng Trình, Nhật Tâm cho là Cụ Trạng không gặp thời. Còn về Đạo Đức kinh của Đạo Lão, triết lý sâu xa, Nhật Tâm học trước quên sau chưa thể hiểu ngay được. Xin cám ơn bác Vô Trước giảng ạ. Trước đây Nhật TÂm có được học luật về sở hữu Trí tuệ. Thầy giáo có nói đến sự vượt lên của khoa học phương tây so với phương Đông. Một trong những nguyên nhân là phương tây đăng ký bản quyền và có chính sách bảo hộ hợp lý cho chủ sở hữu. Tác dụng của việc này là những người khác có thể thuận lợi tiếp cận những lý thuyết mới nhất từ đó nghiên cứu và phát triển lên mức cao hơn. Đương nhiên là người chủ sở hữu vẫn giữ cho mình “tuyệt học” kể duy trì lợi thế nhưng nhìn chung họ công bố hoàn chỉnh lý thuyết. Bằng cách đó, đời này qua đời khác họ hoàn thiện các lý thuyết bằng các phát minh và cải tiến hữu ích. Phương tây đã tạo ra cách để duy trì, phát triển một lý thuyết một cáchthống nhất và đều đặn. Trong khi phương Đông thì tập trung gìn giữ lý thuyết dưới dạng cha truyền con nối. Giữ làm của riêng. Các lý thuyết ít được phát triển, chỉ dậm chân tại chỗ, nhiều trường hợp còn thất truyền. Với trường hợp của học thuyết Âm Dương ngũ hành, Nhật Tâm cho rằng dù có xuất hiện người được coi là hiểu đạo (cụ Trạng Trình là một ví dụ) cũng không đủ sức mình phục hồi cả nền khoa học cổ lớn như vậy. Sau nỗ lực của người đó khoa học Đông phương lại theo đà suy thoái như trước mà thôi. Nhật Tâm bạo gan cho rằng việc phục hồi lý học Đông phương không nằm ở chỗ hiểu đúng đạo hay không mà nằm ở cách thức tổ chức, định hướng, phục hồi và phát triển lại bộ môn khoa học này một cách thống nhất và khoa học. Các tạp thuyết sẽ dần bị loại bỏ, lý học Đông phương sẽ rõ ràng và khoa học không thua gì khoa học phương tây hiện nay. Khoa học phương tây phát triển cực thịnh sẽ là động lực hồi sinh lý học Đông phương. Nhật Tâm mong rằng người Việt sẽ tự khôi phục được lịch sử, văn hóa và lý học Đông phương chứ không phải chờ đến khi người nước ngoài nhận ra giá trị thực của lý học Đông phương nghiên cứu phục hồi hộ (như trường hợp đã và đang xảy ra với nước Ai Cập vốn tự hào bề dày 8000 năm lịch sử). Vài điều băn khoăn, có gì chưa phải Nhật Tâm mong được đại xá. Trân Trọng. Nhật Tâm
    1 like
  26. Kính chào bác Thiên sứ và bác Vuivui, Nhật Tâm xin cảm ơn sự quan tâm của hai bác. Phản biện đều cần thiết và đáng trân trọng. Nhật Tâm nghĩ ai đúng ai sai không quan trọng bằng việc làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Nhật Tâm mong bác Vuivui có thể lập một mục riêng ngay trong diễn đàn con này để phản biện các vấn đề liên quan. Mọi người quan tâm sẽ dễ tìm và đối chiếu với bài viết và các bản biện khác. Như thế sẽ dể nhận ra lỗi của bài viết và làm sáng tỏ hơn vấn đề. Xin chân thành cảm ơn hai bác. Nhật Tâm
    1 like
  27. Bác Thiên Sứ kính mến, Cháu sẽ tìm đọc những sách bác giới thiệu. Cám ơn bác đã chỉ bảo. Trân trọng. Nhật Tâm
    1 like
  28. Đồ hình âm dương trên áo ngự lâm quân thời Nguyễn :rolleyes:
    1 like
  29. Chào anh, Liêm Trinh Nếu không ngại, anh có thể cho Sapa biết tứ trụ của anh được không để mở mang tầm mắt! Sapa
    1 like
  30. BÀI THAM KHẢO Kính thưa quí vị quan tâm. Bài viết dưới đây của Thiên Đồng, một học viên có học lực trung bình khá trong lớp Phong Thủy Lạc Việt, đã làm giúp cho một nhà Thờ Kito giáo. Có thể Thiên Đồng làm đúng theo các tiêu chí phong thủy, hoặc có thể đưa ra những giải pháp sai. Nhưng vấn đề mà chúng tôi muốn trình bày ở đây là: "Phong thủy không phải là một tôn giáo, hoặc tín ngưỡng". Nó là một phương tiện và chúng tôi đã ứng dụng điều này cho nhà Chùa từ lâu và bây giờ là nhà Thờ. Vì những lý do tế nhị, chúng tôi không thể công bố địa chỉ của nhà thờ này. Nhưng với những nhà nghiên cứu thật sự và được sự đồng ý của Đức Giám Mục chúng tôi có thể trao địa chỉ để kiếm chứng. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ---------------------------------------------- Phong Thủy Lạc Việt và Nhà Thờ Thiên Đồng. Ghi lại sau một Phong thủy giúp cho nhà thờ T vào những ngày cuối năm Kỷ Sữu 23 tháng chạp năm Kỷ Sữu Câu chuyện có nguyên do từ bốn tháng trước, đồng môn Phongphongthay than với tôi rằng con của anh đi học ở nhà trẻ nhưng sức khỏe của bé cũng như những trẻ khác đều không được tốt và anh cảm giác có sự khác lạ gì đó ở tại Trường mẩu giáo X về mặt phong thủy. Vốn cũng thường gặp gỡ cô hiệu trưởng trường nên anh cũng đề cập về chuyện phong thủy. Cô M, hiệu trưởng trường, tỏ vẻ quan tâm và cho biết mặc dù cô là người đạo Công Giáo nhưng vẫn tin phong thủy là vấn đề khoa học. Được sự gợi mở, anh Phongphongthay, sắp xếp một cuộc hẹn cho tôi và anh gặp cô M để bày tỏ ý định muốn giúp nhà trường về mặt phong thủy nhằm cải thiện sức khỏe các bé. Cô M liền bày tỏ sự nhiệt tình muốn cải tạo theo phong thủy. Và tôi đã đưa ra các phương án cải tạo, cô M triệt để làm theo ngoài mong đợi của tôi. Kết quả như ý, chỉ sau hơn 3, tuần các trẻ đều ổn định được sức khỏe rỏ rệt, mạnh khỏe và năng động, hơn nữa công việc của nhà trường cũng trở nên ổn định hơn trước. Từ hiệu quả này, cô M đã một lần nữa nhờ Thiên Đồng đến giúp Cha xứ nhà thờ T cải thiện về mặt phong thủy, sau khi đã thuyết phục Cha với bằng cớ hiệu quả phong thủy tại trường của mình. Tôi gặp Cha trong sự hoan hỷ, đón tiếp giản dị của người tu, kẻ tục. Qua câu chuyện tôi hiểu mục đích của việc cải tạo theo phong thủy nhằm một là cải thiện sức khỏe cho Cha Sứ, hai là sự bình an và ba là giải quyết về một vấn đề hơi nhạy cảm về tâm linh, đó là di chuyển nhà thờ hài cốt đến nơi mới sao cho thích hợp và an lạc. Theo lời cha thuật, các đời cha sứ đến đảm nhiệm ngôi nhà thờ này đều không được an lạc, luôn có chuyện bất thường xảy ra và các cha đều bị bệnh hoạn đau yếu, cũng như hiện nay Cha đang bị bệnh về tim mạch và huyết áp. Sau lời thuật như lời trần tình, tôi xem sơ đồ mảnh đất do Cha đưa, ngạc nhiên thay, rỏ ràng mảnh đất mang hình con dao phay và theo đúng quan niệm “Hình Lý Khí” thì chính hình thể đất là nguyên nhân cho cớ sự. Tuy mảnh đất đều có sổ đỏ sổ hồng, nhưng sự bất an luôn thường trực. Vậy là kế hoạch cải tạo theo phong thủy được vạch ra và “tổng đạo diễn” cũng như ngươi trực tiếp đưa tay chỉ việc, hướng dẫn thực hiện là cô M, được Thiên Đồng chỉ định và Cha xứ tinh tưởng giao “trong trách” cho, góp phúc thiện cho nhà thờ. Bởi, một mặt cô M đã có kinh nghiệm trong việc chỉnh sửa tại trường của cô, mặt khác cũng thể hiện phong thủy không phải là bùa chú, cúng kiến, hay lễ nghi tôn giáo phải do các thầy “thổi phù phù”, mà ngược lại, vấn đề ở đây đơn thuần chỉ là kiến trúc mà thôi. Tuy vậy, về phương diện “cộng đồng xã hội”, việc chỉnh sửa vài chổ trong nhà thờ cũng cần phải mang “lý do hợp lý” và có nhiều sự hạn chế, vì vậy việc thực hiện cũng rất nhẹ nhàng và có những vấn đề như chuyển hướng bếp, cải tạọ phòng ốc phải được sự đồng ý của “ý kiến chung” và phải có “lý do hợp lý” nên vài ý định không thực hiện được, cho nên chỉ giới giới hạn trong việc có thể và rất “kín kẻ”. Mặt khác, một lý do khách cũng gây khó khăn cho việc cải tạo sửa chữa nhà thờ là tài chánh. Khi đi quan sát một vòng nhà thờ, Thiên Đồng hỏi Cha: - Có phải sự đóng góp về tài chánh của giáo dân ở đây rất nghèo và giáo dân đến với nhà thờ cũng ít, mặc dầu nhà thờ tọa lạc nơi thành phố dân cư đông đúc, dân cư xung quanh cũng khá giả? Cha xác định: “Đúng vậy!”. Phân tích địa thế Nhà Thờ Nhà thờ được hướng Phúc Đức trạch theo trục Càn Khôn, Tây tứ trạch, theo Phong thủy Lạc Việt. Cha xứ mạng Khôn cũng chuẩn trạch Phúc Đức. Tuy nhiên Càn cung bị khuyết hãm, do trên thực tế từ cổng vào đến cửa nhà thờ đã trở thanh lối đi chung của khu phố, do vậy Càn cung bị khuyết, chứng tỏ sự ủng hộ hay trợ giúp của giáo dân hay những mạnh thường quân cũng như sự nâng đỡ của các Cha bề trên đối với nhà thờ rất kém. Hình thể của mảnh đất một cách vô tình đã tạo thành hình con dao phay, do vậy theo quan niệm “Hình nào khí đó” thì tính sát của con dao phay này đã và đang phát tác rất mạnh, vì vậy mà các đời Cha xứ đảm nhiệm ở đây đều vướng phải những chuyện không hay về tinh thần cũng như sức khỏe. Thêm nữa con dao phay này lại thêm một cán ở hông, tức hẽm hông, theo như Cha xứ cho biết thì đây cũng là một lối đi chính của giáo dân khi viếng lễ nhà thờ, tạo cho thế đất thêm phần xấu. Do vậy nhiều chuyện rối rấm là hợp lẽ. Ngoài ra, đất có hẽm hông đâm vào là chủ về việc dễ dính dán chuyện thị phi, quan sự hay kẻ tiểu nhân ám hại, có thể chính lẽ đó mà tuy nhà thờ có sổ hồng sổ đỏ nhưng vẫn vướng chuyện không yên. Khởi thủy khu đất có hình như trên ,nhưng dân cư phát triển đất đai thu hẹp lại, nhà thờ đành chừa một khoản sân làm lối đi chung cho khu phố để vào con hẻm bên hông tay Long của nhà thờ và vòng ra sau hậu sơn. Chính bởi cách này mà khu vực nhà thờ bị thoái khí qua con hẻm bên tay Long. Và cũng lại thêm con hẽm hong chọc nách nhà thờ cũng là một yếu làm thoái khí một lần nữa, từ lý do này mà Thiên Đồng xác định số lượng giáo dân ở đây không đông đúc và về mặt tài chánh cũng như quyên góp của giáo dân đều “bèo”, như đã khẳng định, bởi dương khí vận chuyển vào nhà thờ đều thoái đi hết qua các lối này. Toàn thể khu đất được thế nghiêng Càn Khôn nên được cách Phúc Đức theo Bát Trạch Lạc Việt, do vậy toàn khu đất xét trên mặt trệt, mặt sàn sẽ là thừa khí Phúc Đức Vũ Khúc Dương Kim tinh, theo quy luật Lạc Việt Bát Biến Phiên Tinh, khi lấy sơn phối hướng, bởi do tính chất công sở công cộng của công trình. Theo lẽ đó, tầng lầu một của công trình thừa khí Lục Sát Văn Khúc Thủy Tinh và tầng lầu 2 của nhà thờ là Sinh Khí Tham Lang Dương Mộc Tinh quản lý, vì vậy công trình nhìn chung được cách “Thượng hạ cát tinh, Phúc Đức bát trạch”, tuy nhiên về mặt Phiên Tinh tầng sàn từ ngoài vào tới hậu sơn thì không được tốt, bởi khu vực nhà nguyện và nhà việc là khối công trình liền kề thừa hưởng Hung tinh Ngũ Quỷ Liêm Trinh Dương Hỏa tinh tọa thủ, chủ hại chuyện phiền toái bất ổn và tai ương. Cải tạo nhà thờ theo Phong Thủy Lạc Việt. Do nhà thờ có hạn chế về mặt điều kiện khách quan nên các phương án cải tạo đưa ra cũng rất hạn chế. Về mặt xã hội thì việc sửa chửa phải sắp xếp bằng việc “ngụy trang kiểu…nhà thờ” sao cho bàng quan chỉ nhận biết đó là việc sửa chửa vụn vặt bình thường về mặt kiến trúc hay ý thích thẩm mỹ và về mặt tài chánh thì hạn chế mức thấp nhất trong kinh phí eo hẹp của một nhà thờ khó khăn. Do vậy các phương án đập phá, xây dựng hay thiết kế thêm đều không khả thi mà chỉ thực hiện 3 mục đích chính là sức khỏe Cha xứ được khá hơn, nhà thờ không bị xáo trộn nữa và chọn vị trí thích hợp để an vị nơi lưu hài cốt của giáo dân cho an ổn về mặt tâm linh. Đầu tiên, ưu tiên cho việc ổn định sức khỏe Cha xứ, Thiên Đồng cho điều chỉnh lại dòng khí vào nơi Cha ở và làm việc bằng các biện pháp chận các ngạch nơi thích hợp. Việc này khá đơn giản và không ai nhận ra rằng nhà thờ làm…phong thủy. Tiếp đến Thiên Đồng đưa ra một giải pháp bịt và bán đi phần đất hẽm hông nhà thờ. Nhưng chủ ý này không được vì theo Cha, đó là lối vào thường xuyên của giáo dân khi đi lễ nhà thờ và việc bán bỏ đi một phần đất công thì vượt quá khả năng trách nhiệm trong công việc nên ý định này là không khả thi. Do vậy Thiên Đồng đành sự dụng biện pháp khác nhằm tránh thoái khí. Để an ổn về chuyện nhà thờ, Thiên Đồng cho dùng cách án sát, gọi là “Tam sơn án sát đao”. Cuối cùng là chọn vị trí thích hợp để là nơi lưu hủ cốt của giáo dân. Việc này là phần quan tâm và lo lắng nhất của Cha vì liên quan đến mặt tâm linh mà Cha lại không muốn có chuyện chẳng lành. Đầu tiên tôi nghĩ đến việc di dới đến vị trí khu nhà việc, nhưng khi hỏi lại với Sư Phụ Thiên Sứ thì Sư Phụ bảo nơi ấy không được. Bởi vậy Thiên Đồng chọn phương án khác, cả đôi bề là không cần phải cơi nới hay xây mới gì thêm chỉ cần chuyển đến đó là gọn ghẽ. Vậy là các phương án đều đơn giản, kinh tế và ổn thỏa, riêng phần bếp cũng quan trọng, Thiên Đồng có gợi ý nhưng ý định không thực hiện được vì lại vướng đến chuyện phải hội ý trong nội bộ nhà thờ, vậy là thôi. Qua việc được may mắn tư vấn giải pháp phong thủy cho nhà thờ, có thể nói đây là việc ít có, Thiên Đồng nhận thấy rằng Phong thủy là một yếu tố độc lập đứng ngoài các niềm tin và tôn giáo, bởi yếu tố phong thủy là sự phản ánh thực tại khách quan tương tác trong vũ trụ với tính quy luật của nó, nằm ngoài ý thức chủ quan của con người và ngoài cả ý thức của thượng Đế, nếu có. Điều này đủ để nhận biết tính khoa học của phong thủy trong hiệu quả tương tác thường hằng của nó, dù muốn hay không. Và tiêu chí để xác định vấn đề là khoa học thì lý thuyết xác định cho vấn đề đó phải có tính khách quan, tính quy luật, có thể giải thích mọi hiện tượng liên quan và có khả năng tiên tri thì Phong Thủy Lạc Việt thỏa mãn hoàn toàn tiêu chí này. Thiên Đồng
    1 like
  31. Dịch học bài 52 ***** Lời Kết Dịch là sự chuyển biến, Dịch lý là lẽ chuyển biến hay quy luật chuyển biến . Đã gọi là lý thì phải sáng sủa rõ ràng, ở đây Dịch lý lại huyền ảo là trái lẽ thường. 1/ Việc đó có thể là do khách quan vì dịch học là tác phẩm của dân tộc Hùng, khi họ Hùng mất nước thì Dịch học cũng bị sang đoạt nhưng do trình độ văn minh của kẻ đã chiếm đoạt Dịch học quá thấp không thể hiểu nổi Dịch lý nên Dịch là suy tư khoa học, tính toán bị kéo xuống thành sách dùng để bói toán, sau gần ngàn năm mất chủ quyền dân họ Hùng dù đã phục hưng dân tộc nhưng quên luôn chủ quyền của mình đối với Kinh Dịch, coi đó là sản phẩm văn hóa ngoại lai và cũng đọc cũng học Dịch học y như người Tàu kết quả là Kinh Dịch trở thành tác phẩm huyền ảo, khó nuốt số một trên trần gian này, bóng khoa học thấp thoáng khắp cả cuốn kinh nhưng không tài nào nắm bắt được đích xác rõ ràng một chỗ nào để làm mấu chốt, đến độ trong ngôn ngữ dân gian việt hình thành từ “quỉ quái” để chỉ Dịch lý, quỉ là biến âm của quẻ, quái cũng là quẻ phát âm theo tiếng Tàu, 8 quẻ Đơn, 64 quẻ chồng của dịch học trở thành: cái “qủy quái” gì thế này? Biểu hiện não trạng của con người trước một sự kiện, sự vật… không hiểu nổi. 2/ Cũng có thể là do Hán tộc cố ý tạo ra sự huyền ảo đó; Dịch học là tinh túy tri thức, là nền tảng của khoa học nên với bản tính thâm hiểm sẵn có, họ đã cất giấu ém nhẹm Dịch học tinh tuyền- chân xác chỉ lưu truyền trong một thành phần đặc biệt nào đó, coi đó như bảo bối của dân tộc, còn với mọi người thì họ tung ra Dịch học giả hiệu đầu voi đuôi chuột chẳng ra sao cả, chính vì vậy nên Dịch mới huyền ảo, rõ ràng thấy có điểm sáng nhưng đi mãi chẳng tới… việc này tiền nhân người Việt đã nhắn cho con cháu biết..: đấy là cái nỏ thần giả mà Trọng Thủy đã tráo, còn nỏ thần thật hắn đã lấy đem đi rồi. Xưa Tây Bá Hầu tức ông Cơ Xương sau này là Văn Vương của nhà Chu hay Văn Lang của dân Âu Lạc cổ đã viết nên Chu dịch , sử Việt còn ghi chép rõ ràng về An Dương Vương lập nước Âu Lạc xây thành Cổ Loa làm Quốc đô, An Dương Vương chính là tên “Tam sao thất bổn” của Âm Dương Vương, vua Âm Dương thì rõ ràng còn ai khác ngoài Văn Vương người đã viết Chu Dịch. Quẻ Tỉnh viết : vua đã nạo bùn gạn đục khơi trong giếng để cho nước trở nên trong mát khiến mọi người có thể dùng được. Đấy cũng là tấm lòng và hoài bão của người viết sách này. Dịch học họ Hùng hết sức trong sáng và rõ ràng. Chứa đựng trong bản thân nó các qui luật của 3 tầng chuyển biến từ nông tới sâu. - Quy luật chuyển biến vật lý - Quy luật chuyển biến sinh học - Quy luật chuyển biến xã hội Chuyển biến vật lý được xác lập ở khối vật chất vô cơ, còn chuyển biến sinh học xảy ra trong khối vật chất hữu cơ; sự chuyển biến là kết quả của chuỗi phản ứng trực tiếp và khách quan. Còn sự chuyển biến xã hội luôn là phần giao của khách quan và chủ quan; hành động chủ quan, nỗ lực, cố gắng luôn là tâm điểm của chuỗi phản ứng vũ trụ con người. Bao la như vậy nhưng tinh túy của dịch học chỉ gồm 3 chữ: Nhân, Trung và Chính: - Nhân là con người, nhân cũng là trung tâm, cốt lõi; nhân là nơi xuất phát và quy về của mọi hành động chủ quan có ý thức - Nhân là đầu mối mọi giá trị không có con người thì không có gì là giá trị cả. Tất cả là con số không. Sau chữ nhân đến chữ Trung và Chính, trung không phải đơn thuần là ở giữa, trung còn là trúng hay đúng trong tiếng Việt, Dịch học chỉ cốt có một điều làm sao nắm được chữ Đúng. Đúng nơi, đúng lúc và đúng cách, nghe tưởng như đơn giản nhưng thực ra muốn đạt được điều đó là cả một quá trình tích lũy công sức của không biết bao nhiêu người, bao nhiêu đời để có một nền tảng khoa học, chữ đúng chính là cha đẻ của khoa học và chỉ có chữ đúng mới đưa đến thành công. Chữ Chính hay chánh là hành động theo lẽ phải hay làm điều phải, làm điều tốt cho mình và mọi người. Chữ Trung nằm trong phạm trù khoa học khách quan, còn chữ Chính lại thuộc phạm trù đạo đức chủ quan. Việc làm và chữ tâm khi làm việc đó là mấu chốt để bình xét chính hay bất chính, ở đời nổi cộm có 2 chữ quyền và lợi, nếu chủ tâm khi hành động chỉ nhắm đến lợi quyền cho mình thì bị coi là có tâm địa đen tối xấu xa, tức bất chính. Dịch học ra đời là cốt dạy cho ta làm sao đạt được sự dung hòa giữa bản ngã và tha nhân, giữa cái tôi và người khác, tuyệt đỉnh của sự dung hòa gọi là thái hòa. Tức trạng thái hòa hợp trọn vẹn mọi bề giữa ta, xã hội và trời đất tự nhiên. Dịch học rất xưa nhưng lại “hiện đại” 4 nguyên chuẩn của dịch học sau 3.000 năm vẫn còn y nguyên giá trị: 1/ Tính Nguyên = là khởi nguồn, mọi hành động đều khởi nguồn từ con người ngày nay gọi là tính nhân bản. 2/ Tính Hanh = hanh thông, thông suốt vì hợp lẽ, hay dựa trên khoa học mà hành động. 3/ Tính Lợi = lợi ích thiết thực không ăn bánh vẽ, phù du hư ảo. 4/ Tính Trinh = bền vững, lâu dài. Ích lợi trước mắt và cả mãi về sau Gọi là nguyên chuẩn vì nó là tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi con người, hành động thành công hay thất bại, trọn vẹn hay không tùy theo hành động đó phù hợp tới mức nào so với 4 nguyên chuẩn trên. Mục tiêu cao nhất của Dịch học là sự làm chủ của con người. Tự chủ, làm chủ xã hội, làm chủ giới tự nhiên, làm chủ để có thể đạt mục đích của Dịch học là hạnh phúc mãi mãi cho mọi người. 3.000 năm sau Văn Vương, hôm nay chúng ta lại phải cùng nhau gạn đục khơi trong vì nước giếng đã trở thành bùn. Tính toán khoa học đã bị hạ cấp thành bói toán mê tín khiến Dịch học trở nên vô ích đối với nhân loại. Mạnh dạn dám nghĩ dám làm, xới tung tất cả lên, không kiêng kỵ điều gì, rồi dùng đầu óc mình mà sắp xếp lại. Rất mong được sự giúp sức của mọi người vì tự biết tài hèn sức yếu một mình cùng lắm cũng chỉ đi được một quãng đường… mong rằng cuối cùng rồi nước của “giếng Dịch học” cũng trong mát trở lại làm ích cho mọi người. Sách Tham Khảo 1- Chu Dịch Sào Nam Phan Bội Châu, NXB Khai Trí – Saigon 1969 2- Chu Dịch Chính Kinh – Hoàng Thư, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2001 3- Chu Dịch Đại Truyện – Lê Anh Minh, NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006 4- Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm – Nguyễn Hồng Sinh – NXB TP.HCM 2002 5- Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc – Dương Ngọc Dũng – Lê Anh Minh – NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006 6- Kinh Dịch với Vũ trụ Quan Đông Phương – Nguyễn Hữu Lượng – NXB Sài Gòn 1971 7- Lạc Thư minh triết – Kinh dịch – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971 8- Nguồn gốc văn hóa Việt Nam – Kinh Dịch – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971 9- Nghiên cứu Chu Dịch – TT Quốc học Đại học sư phạm Hà Nội, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002 10- Tâm tư – Kinh Dịch NXB – Khai trí Sài Gòn 1970 11- Tìm về cội nguồn Kinh Dịch – Nguyễn Vũ Tuấn Anh – NXB Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002 12- Cội nguồn văn hóa Trung Hoa – Dương Đắc Dương, bản dịch Nguyễn Thị Thu Hiền, NXB Hội Nhà Văn, TP.HCM – 2003
    1 like