• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 07/04/2014 in Bài viết

  1. Em đợi đến tháng 5 âm lịch này em có cơ hội đi làm nhé
    2 likes
  2. Thước Lỗ Ban Trích (Phạm Hưng):“ Lỗ Ban tên thật là Công Thâu Ban”. Ba chữ nho Công Thâu Ban chỉ là ký âm của cụm từ Ông Thầu Bạn. Từ Bạn xưa hơn, có nghĩa là “thợ” nên sau có từ đôi là Bạn Thợ (chỉ chung những người cùng nhau làm việc trong một tổ, đi rừng hay đi biển người ta đều phải rủ nhau mà cùng làm, gọi là Bạn Thợ). Từ Bạn nghĩa là “thợ” này thì nho viết thành chữ Biện, nghĩa là “làm” (“Biện tửu dị, thỉnh khách nan”- Làm tiệc dễ, mời khách khó). Từ Thầu trong tiếng Lào - Thái nghĩa là Ông (Nguyễn Ái Quốc thời ở Thái Lan lấy tên là Thầu Chín – Ông Chín). Từ Ông thì nho viết bằng chữ Công. Hán văn viết Công Kê 公 雞 nghĩa là gà trống, nhưng Việt văn như Việt ngữ (tiếng Quảng Đông – của người Việt Đông) thì đến nay vẫn viết là Kê Công 雞 公, có nghĩa là gà trống. Tiếng Tày và tiếng Quảng Đông gọi gà là “cáy” vì nôi khái niệm của tiếng Việt là Ga=Gà=Cà=Kê=Cáy (tiếng Hà Tĩnh gọi gà là “Ga”, gọi cây là “cơn” mà nho viết từ “cơn” bằng chữ Căn 根, (Hán ngữ dùng chữ Căn 根 để chỉ cái rễ, cái que dù là que tre hay que sắt, kể cả dùng cho “cây” viết). Nôi khái niệm tiếng Việt là: Ông = “Cụ Ông”= Công = “Trai Ông = Trống= “Trống Dương” = Trượng (trượng phu) = =“Trượng Chàng” = Trang (trang nam nhi) = Chàng = “Chàng Ông” = Chồng = Trống = Công = Ông. Công Thâu Ban có từ nguyên là Ông Thầu Bạn chứ không phải là họ, tên lót và tên. Lỗ Ban (viết theo Hán văn) là ông thợ người nước Lỗ. Nước Lỗ ở đâu? Theo Sử thuyết họ Hùng thì nước Lỗ ở vị trí của nước Lào ngày nay (sắc dân đa số ở nước Lào gọi là người Lào Lùm. Um tùm = Lùm = Lớn = Lang = Lãnh). Chỗ người Lào ở gọi là Lào Ở = “Lào Ổ”= Lỗ. Trong tiếng Việt từ Lào còn có nghĩa là phía Tây, gió Tây gọi là “gió Lào”. Do cái nôi khái niệm “phía tây” là cái nôi diễn tả quá trình đang lặn (đắm) dần của mặt trời từ trưa đến chập tối, đó là: Thá=Tà= ”Tà Đấy!”= Tây 西 = ”Tây Thụt”= Tụt = ”Tụt Hoài” = =Toài (xuống) = ”Đắm Toài” = Đoài 兑 = ”Đoài Ạ!” = Đọa (xuống)= ”Sẩy (xuống) Đọa” = Sa (xuống) = Sà (xuống) = “Sà Mãi”= Sài 西 (tiếng Việt Đông)= Lài (S=L) = Lao = Lào = Lặn. Cụm từ Lào Ở nho viết bằng hai chữ Lão Sở 老 處, cũng như từ Kinh Ở nho viết bằng hai chữ Kinh Sở 京 楚,(Hán thư: “Nước Sở, xưa gọi là Kinh Sở 京 處,荊 楚”). Ổ=Chỗ. Chỗ, nhấn mạnh là “Chỗ Chi 之!”= Chỉ 址 (từ Chỗ Giữa nho viết bằng hai chữ Chỉ Giao 址 交 , viết theo Hán văn là Giao Chỉ 交 址). Chỗ, nhấn mạnh là “Chỗ Chứ!”= Chữ (nơi chứa)= Trữ (nơi chứa)= Xứ = “Xứ Chớ!”= Xở = ”Sân Ở” = Sở = Xở = “Xở Nơi” = Xới (xới vật, xới võ). Chuyển chỗ tức chuyển nhà ở, nôm na gọi là Bán Xới, ý là bán chỗ cũ đi chỗ mới (“vợ chồng nhà chúng nó Bán Xới đi đâu không biết, từ lâu rồi”), nho viết từ Bán Xới bằng hai chữ Ban Sở 搬 所. Tại sao cụm từ Kinh Sở thì Hán văn không gọi tắt là Kinh, mà lại gọi tắt là Sở. Đó là do cú pháp theo Hán văn là từ phụ trước, từ chính sau (ngược với Việt văn) nên từ Kinh Sở của Việt văn thì Kinh là từ chính, đất Kinh Sở mà gọi tắt theo Việt văn thì gọi theo từ chính là đất Kinh. Hán khi đọc từ Kinh Sở là từ viết theo Việt văn lại nghĩ theo Hán văn là từ Sở mới là từ chính, nên gọi tắt theo từ chính là đất Sở, nước Sở (giống như cụm từ Công Ty là viết theo Hán văn nên họ gọi tắt theo từ chính là Ty). Người Việt dù khi dùng cụm từ đã bị Hán hóa tức viết theo Hán văn thì vẫn hiểu ngầm theo Hán văn là cái từ sau mới là từ chính, nên khi nói tắt thì dân vẫn nói đúng theo từ chính. Ví dụ Cửu Long là viết theo Hán văn có nghĩa là con Rồng có Chín thân kèm chín cái đầu (ám chỉ vùng sông Mê Công ở Nam Bộ, chín đầu rồng là chín cửa sông, trong đó ba cửa là thuộc Bến Tre là cửa Cổ Chiên, cửa Ba Lai và cửa Hàm Luông), nên nói tắt đất Cửu Long thì người ta gọi là đất Rồng (theo từ chính) chứ không gọi tắt là “đất Cửu” (nghe vô duyên). Tương tự, Hạ Long là viết theo Hán văn (nghĩa là Rồng Đẻ, Đẻ = Sẻ = Sản = Sinh = Sạ = Hạ), nếu nói tắt thì phải gọi theo từ chính, gọi là vịnh Rồng, không thể gọi tắt vịnh Hạ Long là “vịnh Hạ” được (nghe vô nghĩa). Ngày xưa cụm từ “công sở của ủy ban hành chính huyện” được viết theo Hán văn là Huyện Phủ, phủ (nghĩa đen là cái nhà) là từ chính, nên dân vẫn nói tắt khi đi lên cái cơ quan đóng nơi cụ thể đó gọi là “đi lên Phủ”. Ngày nay do từ Huyện Phủ viết theo Hán văn bị người ta nghĩ theo Việt văn nên người ta lại nói tắt theo Việt văn là “đi lên Huyện” thì làm sao biết cái địa chỉ cụ thể nào trong cái vùng huyện mênh mông ấy. Trích: “Lỗ Ban tên thật là Công Thâu Ban, người nước Lỗ, được xem là ông tổ của nghề mộc và xây dựng”. “Lỗ Ban là người nước Lỗ có tên thật là Công Thâu, thụ giáo nghề mộc với một vị tổ sư ở trong núi Chung Nam”. Công Thâu là chữ nho viết của từ đôi Ông Thầu . Kiểu từ ghép đôi Việt-Lào này có rất nhiều trong tiếng Việt, ví dụ Ông Thầu thì Ông: Ông tiếng Việt, Thầu: Ông tiếng Lào; Chó Má thì Chó: Chó tiếng Việt, Má: Chó tiếng Lào; Gà Qué thì Gà: Gà tiếng Việt, Qué: Gà tiếng Lào. Núi Chung Nam tức núi “Chung Nam”= Cham , do Hán văn viết phiên thiết cái từ Cham. Cũng giống như từ Chèm thì Hán văn viết phiên thiết nó thành Từ Liêm. Huyện Từ Liêm ngày nay tách thành hai quận thì lại được Hà Nội đặt tên theo Hán văn là “quận Bắc Từ Liêm” và “quận Nam Từ Liêm”, chứ cần gì phải “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Tại sao không gọi tên theo Việt văn là quận Chèm Bắc và quận Chèm Nam? Đơn giản gần gũi như tên Ấp Bắc, Ấp Nam ở Nam Bộ, mà Ấp Bắc còn ghi tiếng thơm muôn đời vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Tục ngữ xưa về ba làng liền nhau ở tổng Chèm: “Làng Chèm là em làng Vẽ, làng Vẽ là mẹ Kẻ Noi”, Kẻ Noi viết bằng chữ Cổ Nhuế, nay chỉ còn tên cái cầu gọi là cầu Noi. Tên Vẽ là do “Việt Đẻ” = Vẽ. Tên Chèm là do “Chàm Em” = Chèm. Vùng xung quanh thành Đại La xưa đã có nhiều làng Chàm ở xen lẫn với các làng Việt (di tích gốm Chăm ở lớp niên đại thời Lý tại di chỉ hoàng thành Thăng Long). Cham = “Chung Nam”. Vùng Núi Cham là vùng miền trung Đông Dương (gồm cả Cham-pa-xắc của Lào), cụm từ Núi Cham thì chữ nho viết theo Hán văn là Lam Sơn. Trích: “Theo thần sách tỉnh Hà Tĩnh thì ở làng mộc Thái Yên có ngôi đền Thánh thợ thờ Lỗ Ban được xếp vào loại công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị. Phường mộc ở đây cũng như ở nơi khác đều thờ cúng tổ sư Lỗ Ban”. Cái nước Lỗ xưa nó là vùng của dân Kẻ La = "Kẻ Lả" = Cả, là dân Bản Cả = Bàn Cổ, ở miền trung Đông Dương vậy.
    2 likes
  3. Hơn 5.000 người mất nhà vì 1 cây nến Chủ Nhật, 06/04/2014 17:55 (NLĐO) – Giới chức Philippines cho biết hơn 1.000 ngôi nhà tại khu ổ chuột của thành phố Davao đã bị thiêu rụi trong một đêm khiến hàng ngàn người mất nhà cửa. Các nhân chứng cho hay lực lượng cứu hỏa đã phải chiến đấu hơn 5 tiếng đồng hồ mới dập tắt được đám cháy lan nhanh tại một khu ổ chuột tại khu vực ven biển Isla Verde thuộc thành phố Davao tối 4-4. Một người đàn ông đã thiệt mạng do lên cơn đau tim trong lúc vụ cháy xảy ra. Nhà chức trách sau đó cho biết vụ cháy bắt nguồn từ một cây nến ở nhà một người dân địa phương. Hàng ngàn người vô gia cư chỉ sau 1 đêm. Ảnh: Rex Norayna Serad, chủ một cửa hàng tạp hóa cho biết: “Tôi trở lại con số không và không biết làm gì để khôi phục lại mọi thứ”. Đám cháy đã lan rất nhanh bởi các ngôi nhà ở đây được xây dựng bằng gỗ nằm rất gần nhau nên rất dễ cháy. Người dân đang thu gom những vật dụng còn sót lại. Ảnh: EPA Nhân viên dân phòng địa phương cho biết đám cháy cuối cùng đã được dập tắt nhưng hơn 5.000 người đã bị mất nhà cửa. Tất cả những gì còn lại sau cơn hỏa hoạn là những cây cột bị cháy đen. Hơn 1.000 hộ gia đình đang trú ẩn tại một trường tiểu học. Ảnh:EPA Trẻ em ở đây đi thu gom những tấm tôn và vật dụng kim loại còn sót lại để bán phế liệu. Jimmy Martinez, nhân viên địa phương cho hay: “Những ngôi nhà này đều lam từ vật liệu nhẹ và mọi thứ ở đây đều đã bị san bằng”. Hơn 1.000 hộ gia đình đang trú ẩn tại một trường tiểu học gần đó. Xuân Mai (Theo Daily Mail) ================ Nguyên nhận trực tiếp và cụ thể là cây nến. Nhưng nguyên nhân sâu xa là " Thái Tuế chiếu cung Bình Ngọ", theo Huyền Không Lạc Việt. Chỉ cần một cú mất điện thì tất cả khu ổ chuột này cũng phải thắp nên. Và cuối cùng thì nhân một dịp nào đó, sẽ có một cây nên gây cháy. Thế gian luôn có hai cách giải thích hiện tương: 1/ Giải thích trực quan, khi sự việc xảy ra. Trong trường hợp này là do cây nến. Với cách giải thích này, không cần đến tri thức của một nền văn minh phát triển 2/ Giải thích trên cơ sở một hệ thống lý thuyết có khả năng tiên tri. Thí dụ: Thái Tuế chiếu phương Bình Ngọ. Chủ về cháy nổ. Mọi tập hợp đều nằm trong một tập hợp lớn hơn hàm chứa nó. "Thái tuế chiếu phương Bính Ngọ" chính là một tập hợp hàm chứa về lý thuyết cho tất cả mọi sự kiện cháy nổ trên trái Đất năm nay, so với các năm khác.
    2 likes
  4. Tiếng Việt 1. Các Qui Tắc tạo Từ của Tiếng Việt (viết tắt là QT) Cái Nền để nghiên cứu lời Nói của giống Nòi là cái Nôi khái niệm. Thủa bé , một lần đọc báo thấy nêu một nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Pháp (thời thuộc địa) nhận xét rằng: “Tiếng Việt là mẹ của các ngôn ngữ trên thế giới”, và đưa ra nhiều ví dụ. Như trường hợp giục phu kéo xe tay đi nhanh, người Việt lệnh “Mau lên!”, người Madagatsca ở Ấn Độ dương lại lệnh “Gao len!”(hay là muốn nói “gâu” lẹ! ?). Qui tắc tạo từ của tiếng Việt (QT) trình bày bằng 5 mục dưới đây: 1/ NÔI khái niệm: Đặt tên là NÔI vì: 1.NÔI=Nôi. Nôi là vật dụng để đặt đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru mà biết nói. 2.NÔI là cái Ổ (chữ Ô ở giữa) sinh ra ngôn từ tính Âm (N-Negative) và ngôn từ tính Dương (I-Innegative), (theo đúng “Nam tả, Nữ hữu”) 3.NÔI=Hội=Hột=Một. Nôi là một hột giống sinh ra muôn vàn hột giống khác (Tất cả đều trong Một. Một=1 là Dương. Dương sinh ra Âm; Dương có trước, Âm có sau). Hội=Hột=Một: Một hột cây hội tụ tất cả các gen của một loài cây. 4.NÔI=Nở. NÔI là NÔI mẹ ắt nở ra muôn vàn Nôi con. Nôi con sinh ra nhiều từ sắc thái khác nhau nhưng ý nghĩa của chúng là cùng nôi khái niệm. Chính là NÔI đã làm ra QT Nở. 5.NÔI=Nở=Vỡ=Vỏ=Vo. Quá trình nảy mầm của hột giống là Nở cho Vỡ cái Vỏ (Vỏ=Giỏ=Da, bọc ngoài mầm hột) để vỏ ấy bị Vo (tự tiêu rã) mất. Chính là NÔI đã làm ra QT Vo. 6.NÔI=Nối=Lối=Lướt. NÔI đã sinh ra lối (cách thức, đường lối) nối cái phụ âm đầu hay cái vắng phụ âm đầu của từ đầu câu với cái âm vận của từ cuối câu thành một từ mới. Chính là NÔI đã làm ra QT Lướt. 7.NÔI=Nõn=Nộn=Lồn=Lời=Rỡi (“Ruột Lời”=Rỡi). NÔI=Cội=Cọc=Tóc=Tay=Tơi (“Tay Lời”=Tơi). Tơi là cái áo của lời. Bản thân Tơi không làm nên lời, cũng như bản thân áo không làm nên người. Lời=Ngời (sáng)=Người. Một lời nói ra thể hiện một cái sáng của con người (“Văn là người”. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh=Mình). Rỡi thuộc âm vì nó là cái Vần, nó có công tạo ra lời lớn hơn công của Tơi (Âm=Vâm=Vần). Tơi thuộc dương vì nó là cái áo, giúp một phần vào tạo ra lời (Dương=Giúp, vì “Dương nằm Úp”=Giúp, nên trai bao giờ cũng giúp đỡ gái). (Tiếng Tây còn gọi thân mật là “Cái áo của em ơi!”, nhưng khi chồng nát rượu, bà vợ đá cho một cú lăn cù xuống cầu thang gỗ, khuất mắt. Hàng xóm cùng tầng nghe động, sang hỏi có gì mà ồn chuyện vậy, bà vợ trả lời tỉnh queo: “ Xin lỗi ạ, tôi lỡ tay làm rớt cái áo ấy mà”). Chính là NÔI đã làm ra QT Tơi-Rỡi. 2/ QT Vo: Là vò rụng đầu rụng đuôi một từ đa âm tiết, còn lại cái lõi thành từ đơn âm tiết. VD: Ha-Na-Xư ( tiếng Nhật nghĩa là nói), rụng còn lõi Na (tiếng Việt nghĩa là nói). Pnom (tiếng Khơ Me nghĩa là núi), rụng còn Non (tiếng Việt nghĩa là núi. Đến m dài còn bị vò rụng đuôi còn n ngắn). Blơi (tiếng Mường nghĩa là trời), rụng còn Lời=Trời (Mà lời là do trời cho thật, những loài sống ngầm dưới đất như loài giun, không hưởng trời nên không có tiếng kêu). Vo còn dẫn tới hậu quả là Vo cả câu. VD: “vuông Chữ Nho nhỏ” vo rụng đầu “vuông” và đuôi “nhỏ” thành còn cái lõi là Chữ Nho. “Trong ấy” vo thành Trỏng. “Bên ấy” vo thành Bển. “Anh ấy” vo thành Ảnh. 3/QT Nở: Một từ trong NÔI sẽ nở ra hai từ, một từ là tính âm (0) và một từ là tính dương (1). VD: Từ Mỗi nở ra từ Mô (0) và từ Một (1). Từ In nở ra từ Uống (0) và từ Ăn (1). Từ Túc nở ra từ Tấn (0) và từ Tay (1). Nguyên tắc là hai từ mới phải cùng Tơi (hay cùng Vắng Tơi) với từ cũ. 4/ QT Lướt: 1.Lướt hai từ: Lướt để chắp Tơi của từ đầu với Rỡi của từ sau thành từ mới có ý nghĩa logic với ý nghĩa tạo bởi hai từ trên. VD: “Hai Yêu”=Hiếu (Hai thế hệ già và trẻ phải yêu thương nhau. Nho viết bằng chữ Lão ở trên và chữ Con ở dưới, thành chữ Hiếu). 2.Lướt cả câu: Lướt để chắp Tơi của từ đầu câu với Rỡi của từ cuối câu thành từ mới có ý nghĩa logic với nội dung của câu. VD: “Làm gia công cho lưỡi cưa cùn sắc lại như Mới”=Lỡi (thợ Lỡi, máy Lỡi). 3.Lướt từ lặp: Thành từ mới có ý nghĩa như mục đích của từ lặp là nhấn ý “nhiều”, nhưng thanh điệu thì là tổng phép cộng số học nhị phân của hai từ đồng âm đồng nghĩa trên. Ví dụ “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1 (Nhiều cái chung ở một nơi thành đông là Chúng: Chúng tao, Chúng mày, Chúng nó, “Chúng Qua”=Choa). “Quân Quân”=Quần, 0+0=1 (ghép thành từ đôi Quần Chúng, chỉ số đông người). “Đông Đông” lúa = Đồng lúa. “Mai Mai”=Mải, 0+0=1. “Mải Mải”=Mãi, 1+1=0. (“Lâu Mãi”=Lai, là tương lai). Sáu thanh điệu của tiếng Việt chia ra hai nhóm: Nhóm âm (0) gồm “không”, “ngã”, “nặng”. Nhóm dương (1) gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền”. 4.Lướt Lủn hai từ: Từ đầu giữ nguyên và lướt tới lấy dấu thanh điệu của từ sau thay cho thanh điệu của mình. VD: “Việt Nói” = “Viết sắc Viết”=Viết (Viết= Van=Văng=Vân=Vân Vân=Và=Na=Nói=Nài, dần dần Viết chuyển sắc thái là “nói bằng văn bản” rồi dùng đại diện cây Viết). “Bụt Nói”= “Bụt sắc Bút”=Bút (tháp Bút ý là ở đó ngự lời của Bụt, sau Bút dùng đại diện cho cây viết, gọi là cái Bút. Bút dùng để “Pút”- post lên, và “Pút Lên”=Pen, tiếng Anh). Lướt Lủn tức là lướt cụt lủn hai từ (“Lời ngắn Ngủn”=Lủn) 5.Lướt Lỏn hai từ: Từ đầu lướt tới lấy Tơi của từ sau ghép vào Rỡi của mình thành từ mới có Rỡi mới. VD: “Hai Mươi”=Hăm. “Ba Mươi”=Băm. “Nghỉ Một” tí = Nghỉm tí. Lướt Lỏn tức là lướt gọn lỏn hai từ thành một từ (“Lời nói Gọn”=Lỏn). 5/ QT Tơi-Rỡi: Thay Tơi hay Rỡi của một từ đều tạo ra từ mới cùng nôi khái niệm với chính từ đó. VD: Hò=Hú=Hô=Hét=Hót=Hớt=Hát=Hỏi=Gọi=Gí (tiếng Đài Loan)=Gô (tiếng Nhật)=Gọi=Nói=Nài=Na=La=Và (tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Mắng=Mách=Mạ=Nhả=Nhắn=Vắn=Vấn=Vân= Vân Vân = Ngân Nga = Thả= Thỏ Thẻ = Thưa =Thốt =Thuyết =Thoại = =The Thot = Thi Thâm =Ngâm=Ngợi=Ngữ=Ngôn=Ngỏ=Ngả=Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quang Quác = Cáo = =Quảng=Giảng. Kết luận: Từ Điển mà giải thích như nôi khái niệm về “nói” vừa nêu trên thì còn ai kêu ca hay van nài gì nữa? Mắc mớ gì cứ thấy từ nào có viết bằng chữ nho thì giải thích đó là “từ gốc Hán”, “từ Hán Việt”. (Hán ngữ “Shuo” nghĩa là nói, “Yu Yan” nghĩa là ngôn ngữ, “Yáo Lán” nghĩa là cái nôi, “Jiang” nghĩa là giảng). Ngỏ là từ có sắc thái rất lịch sự, Ngỏ lời hay thư Ngỏ là yêu cầu phải có trả lời, nếu không trả lời là bất lịch sự, như “Ngỏ lời xin cưới”. Ngỏ = Thỏ Thẻ = Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”= Thuyết. Tiếng=Thiêng=Thanh. Sáng=Láng=Linh. Dân tộc ta có Tiếng nói là mượt mà và con người là Sáng Dạ, đó là cái thiêng liêng nhất. Câu đối trong đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm Hà Nội: “Sơn Bất Tại Cao, Hữu Tiên Tắc Thanh. Thủy Bất Tại Thâm, Hữu Long Tắc Linh”. Nổi Tiếng và Sáng là Thanh Linh = Thiêng Liêng. Thiêng Liêng vì trong Ta có cả “Sáng Âm”= Sấm, là khả năng tiên tri. Có khả năng tiên tri là do biết bói quẻ: Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch, của người Việt. Câu Sấm: “Song Ngư liền địa, Nghi Lộc phát vương”. Nghi Lộc là Ngộc Ly. “Người Gốc” = Ngộc. Ly là Lửa. Người=Ngời=Ngọc=Ngộc. Trời=Trưa=Lửa. “Dân Lửa” = Giữa. Giữa Chỗ = Giao Chỉ = Giao Chứa = Gieo Chữ. Giao=Gieo (gieo lúa là giao hột lúa cho đất). Chỗ là vị trí bất động, tức “Chẳng Đi”=Chỉ止. Chứa=Chữ=Trữ=Tự字=Tự嗣 (Chứa=Chữ=Tự 字nghĩa là nối dòng văn hóa, Chứa=Chửa=Tựa=Tự 嗣nghĩa là nối dòng huyết thống. Có cùng Gien thì mới Giống như Tựa hay giống như Tạc. Tiếng Nhật “O-Na-Di Đếx Né” nghĩa là “Nó - Na Ná - Giống Đấy Nhé”) . “Kinh Gieo” = Keo. Dân Kinh = Cần Keo (tiếng Tày Thái). “Dân Kinh” = Dinh=Dính. Keo Dính = Keo Dán = Keo Gắn. Gắn=Đặn(Đầy Đặn)=Đám=Đàn=Đoàn. Gắn Keo = Gắn Kết = Đoàn Kết. Trong Mình của người Việt có hai cái Sáng. Một cái Sáng là cái “Ta Dương”=Tướng, là cái thể hiện ra ngoài, có thể nhìn thấy bằng mắt, đó chính là cái “Sáng Mắt”=Sắt. Một cái Sáng là cái “Ta Âm”=Tâm, là cái sáng bên trong không thể hiện ra ngoài, không thể nhìn thấy được, Tâm=Tấm=Tỏng=Lòng=Trong (biết “Tường tận trong Lòng”=Tỏng), đó chính là cái “Sáng Lòng”=Sóng=Son (sóng ở đây là cái sóng ánh sáng, nó là vi ba, bước sóng cực nhỏ, nên gọi là “Sóng Con”=Son). Rõ ràng từ Sắt Son là một cấu trúc Dương (Sắt) Âm (Son) cân bằng, bởi vậy nó rất bền vững, không bao giờ thay đổi. Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 , trang 675, giải thích Sắt Son: Thủy chung trước sau như một trong tình yêu, vd “Nào lời non nước, nào lời sắt son”. Giải thích như vậy mới chỉ là giải thích một ứng dụng của từ Sắt Son trong một lĩnh vực cụ thể là tình yêu, chưa phải là giải thích bổn nghĩa của từ Sắt Son ở nguyên do của nó. Cái Sáng của người Việt lại là do Trời cho bằng chính cái ánh sáng của Trời (và Trời chỉ chọn Người để cho chứ không cho các loài khác): Trời=Ngời=Người= “Người có Óc”=Ngọc (“Ngọc chưa mài chưa thành quí. Người chưa học chưa tri lý”). Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật đều là ánh sáng của Trời, phần Nguyệt thì Trời đem cho Trăng, Nguyệt thành ánh sáng của Trăng, nhưng vẫn là của Trời. Vậy chính xác thì Trời mới chính là kẻ “đã cho ta Sáng Mắt, Sáng Lòng”. Bởi vậy người Việt Sắt Son nhất là Sắt Son với Trời, luôn biết nói “Nhờ Trời”, “Ơn Trời” và kêu “Trời Ơi”. Bởi vì: 1. Trời đã cho Ta cái tên bằng ánh sáng của Trời: Trời=Ngời=Người (=Ngài=Ai= “Thể Ai”=Thai) 2. Trời đã cho Ta cái khả năng tư duy: Trời=Ngời=Nghĩ (=Ý=Chí=Trí=Tri=Bì=Biết=Biệt) 3. Trời đã cho Ta cái khả năng thị giác: Trời=Ngời=Ngắm (=Nhằm=Nhòm=Nom=Dòm=Nhòm=Nhìn=Nhãn=Khán=Khám) 4. Trời đã cho Ta cái khả năng thính giác: Trời=Ngời=Nghe (=Ngóng=Thông=Thính) 5. Trời đã cho Ta cái khả năng khứu giác: Trời=Ngời=Ngửi (=Khui=Khứu) 6. Trời đã cho Ta cái khả năng xúc giác: Trời=Ngời=Ngậm (=Cầm=Chạm=Nắm=Nã=Xoa=Xát=Sát=Sờ) 7. Trời đã cho Ta cái khả năng tiên tri: Trời=Ngời=Sới=Sấm Tên riêng của mỗi cá nhân cũng là cái sáng, của Trời cho, gián tiếp qua ánh sáng của con Đom Đóm. Trẻ con rất thích bắt Đom Đóm chơi. Đom Đóm=Tóm=Tên=Tánh=Danh (ra đời mới thành Tên hay lớn lên làm ăn đã thành Danh đều bị Tóm vào “sổ hộ khẩu” và vào sổ Nam Tào tất). Tên gọi những nơi cần quảng cáo cũng đều xuất xứ từ cái sáng của con Đom Đóm: Đom Đóm=Điểm=Điếm=Tiệm=Tên. Trời đã cho Ta cái khả năng tiên tri: Trời=Ngời=Sới=Sấm. Ngoài các khả năng của 5 giác quan (thường gọi là Ngũ quan) là của Trời cho. Trời còn cho thêm giác quan thứ Sáu (nó ở rất Sâu và tồn tại rất Lâu theo con người, kể cả khi xác đã trả về đất chỉ còn lại cái hồn, giác quan thứ Sáu đó vẫn còn. Sáu=Sâu=Lâu=Lục=Lão=Luôn Luôn= “Lâu Mãi”=Lai, tức đến các “Kế Tiếp”=Kiếp sau vẫn còn). Giác quan thứ 6 đó là cũng từ cái Sáng của Trời (“Sáng danh Chúa ở côi Lời”): Trời =Ngời=Sới=Sấm (lời Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều câu còn ứng nghiệm vào 500 năm sau). Sấm là cái “Sáng Âm”=Sấm. Sới là chỉ địa điểm, là cái “Sáng Nơi”=Sới, địa điểm đó phải chọn theo PTLV, là nơi Sáng tức nơi Linh, gọi là Địa Linh (như nơi đặt mồ mả, nơi xây Sới võ, nơi xây công trình v. v. Sới phải phù hợp với cái Sáng Âm thì mới phát huy được cái “Sáng Tới”=Sới (“Âm phù Dương trợ”). Chúa Nguyễn Hoàng đã nghe theo Sấm của Trạng Trình mà chọn được Sới là nơi “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, biết đường đi “Ta theo hướng Mới”=Tới, đó là cái “Tới Dương”=Tương nên được “Lâu Mãi”=Lai. (Tương Lai là từ hoàn toàn thuần Việt). Tương Lai kể cũng quan trọng thật, nhưng Hạnh Phúc là cái xài liền, không phải là chờ đợi đến tương lai mới được hưởng. “Dân dĩ Thực vi Thiên”, cái “Thật Đức”=Thực là cái Thực có trên thực tế, và là Thực là đủ ăn (“Thức Thức”=Thực, 1+1=0, các thức để “ăn” đây bao gồm cả ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn ở, ăn làm, ăn nằm), mới là cái dân cần “Thấy đầu Tiên”=Thiên. Nguyên hai câu là “Nhân dĩ Hòa vi Qúi. Dân dĩ Thực vi Thiên” nó có hai nghĩa cho cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, vì Hòa là lúa, Hòa lại là Hòa Hiếu; Thực là nhiều Thức, Thực lại là sự Thực, mà sự thực thì chỉ có “Thật Đức”=Thực, xã hội đạo đức giả thì không thể có sự thực. Quán nhậu treo hai câu trên chỉ mong người ta hiểu phiến diện có một nghĩa là ăn nhậu sướng bằng Trời-Thiên. Chữ nho Hòa 和 là cây Lúa 禾 và Mình 口,“Em xinh là xinh như cây lúa” (lời hát chèo), cũng lấy chữ Hòa 和 ấy ghép với chữ “Hai Yêu”=Hiếu 孝 thành từ ghép Hòa Hiếu 和 孝 cho cả hai nghĩa: yêu tôn trọng thiên nhiên (Mình 口yêu cây Lúa 禾 và cây lúa yêu mình, như Hiếu 孝: thế hệ Lão 老 yêu thế hệ Con 子, và thế hệ con yêu thế hệ lão, chữ Con 子 đặt ở dưới có nghĩa là con phải gánh vác di sản và đề cao truyền thống mà thế hệ Lão 老 để lại). Rõ ràng dân trồng lúa (nền văn minh lúa nước) là dân Hiền Lành nhất trên đời này. Nhưng đừng thấy người ta Hiền Lành mà tới hiếp đoạt của người ta, sẽ bị người ta Hành Liền, cái hàm ý này chỉ có trong ngôn từ rất mượt mà của Tiếng Việt mà thôi. (Vụ án “Máu thắm đồng Nọc Nạn” ,năm 1928 ,tòa án thuộc địa cùng luật sư người Pháp đã xử cho những người nông dân trồng lúa Hiền Lành đã phải vùng lên Hành Liền, khi bọn cường hào tới hiếp đoạt ruộng đất mà họ đã bỏ công khai phá, được trắng án như tòa tuyên: “vô tội”). Cho nên người đời trên thế giới rất biết tôn trọng người dân Việt vốn Hiền Lành. Ngôn từ Việt đã hàm ý rõ tất cả rồi, không hề nói dóc. Tìm bao giờ cho thấy Hạnh Phúc?. Đơn giản, phải tìm nhiều. Tìm nhiều thì “Hạnh Hạnh”= Hành, 0+0=1; “Phúc Phúc”= Phục, 1+1=0, tìm nhiều để đến được Hạnh Phúc là phải Hành Phục. Hạnh Phúc theo dấu thanh điệu là 0+1 (là cân bằng âm dương, cho kết quả là 0+1=1 là kết quả tích cực). Hành Phục theo dấu thanh điệu là 1+0=1 (là cân bằng dương âm, cho kết quả là 1+0=1 là kết quả tích cực). Hành Phục có nghĩa đen là “làm lại như cũ” (phục hồi), quay lại sống tôn trọng thiên nhiên (như Cụ Sáu = Cụ Lâu = Cụ Lão=Tử Lão=Lão Tử từng nói), nghĩa bóng là Phục Thiện (theo dấu thanh điệu là 0+0=1 là kết quả tích cực). Điều Hành Phục để luôn có Hạnh Phúc, người nông dân Việt đã biết từ thời cổ đại. Chính họ nói: “ Hiền như Đất. Thật như Ruộng”. Cho nên ăn hoa màu được hạnh phúc rồi là họ lo ngay Hành Phục lại sức khỏe cho đất: Cày phơi ải để làm tiệt trùng ( làm “Tới Diệt”=Tiệt. Cũng như “Hố chôn xác Chết”=Huyệt, “Tới Chót”=Tót, “Tới Hết”=Tuyệt, Tót Vời=Tuyệt Vời, Vời=Vợi=Viễn), rồi bón phân hữu cơ trả lại các vi lượng cho đất. Đất nó “Hiền Thiệt!” nên đối xử với nó lại phải “Hiệt Thiền” . Hiệt là “Hồn Việt”=Hiệt. Chữ Hiệt 黠 là “chất xám”( chữ Đen=Hoẻn=Hắc 黑) và “lòng tốt” (chữ Tốt= Cốt= “Cốt Đạt”=Cát 吉). Từ “chất xám” ngày nay giới khoa học nông nghiệp gọi bằng từ đại diện là “biện pháp khoa học kỹ thuật”, còn từ “lòng tốt” thì phải chịu tiếng Việt, không lấy từ gì làm đại diện nổi. Thiền là “Thật Hiền”=Thiền. Vì đất “Hiền Thiệt!” nên đối xử với đất phải “Hiệt Thiền”, tức phải có ánh sáng KHKT và tấm lòng “Thật Hiền”=Thiền ( theo thanh điệu thì cũng cân bằng âm dương 0+1=1 là kết quả tích cực) đối với mọi việc đụng tới đất: canh tác, khai khoáng, thủy điện v.v. Cứ thế tích cực Phục Thiện nhiều thì sẽ đạt Phúc Thiền, 1+1=0, là cái Tâm trống rỗng, lúc đó đạt được tót đỉnh của Phúc. QT Tơi-Rỡi đã cho ra một nôi khái niệm về “nói”: Hò=Hú=Hô=Hét=Hót=Hớt=Hát=Hỏi=Gọi=Gí (tiếng Đài Loan)=Gô (tiếng Nhật)=Gọi=Nói=Nài=Na=La=Và (tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Mắng=Mách=Mạ=Nhả=Nhắn=Vắn= =Vấn= Vân=Vân Vân=Ngân Nga=Thả=Thỏ Thẻ =Thưa=Thốt =Thuyết =Thoại =The Thot=Thi Thâm=Ngâm=Ngợi=Ngữ=Ngôn= =Ngỏ=Ngả =Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quang Quác=Cáo=Quảng=Giảng. Ngỏ mang sắc thái lịch sự: Ngỏ=Thỏ Thẻ=Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”=Thuyết. “Thốt Noái”=Thoại. Nói nghĩa là Nêu ra bằng lời. Viết nghĩa là Nêu ra bằng chữ. Tiếng Việt đơn giản là cái do người “Kinh Nêu”=Kêu, và “Việt Nói”= “Việt sắc Viết”=Viết. Theo nôi khái niệm về “nói” ở trên mà hiểu thì Tiếng là “Tự người việt đưa ra lời từ Miệng”= “Tự một âm phát ra có ý nghĩa Riêng”= Tiếng. Tiếng của người Việt, gọi là Tiếng Việt. Ngôn Ngữ Việt là Nói Nói (của) Việt. Việt Ngữ là Việt Nói, tất cả các từ ghép trên đều đúng văn phạm Việt, và không có từ nào gọi là “từ Hán Việt”. Hán ngữ (còn gọi là tiếng Quan Thoại) thì “Shuo” nghĩa là nói. Từ “Shuo” không có trong nôi khái niệm về “nói” ở trên. Con người là Âm/Dương=Đất/Trời= “Tất/Cả”= “Tạo/Hóa”=Ta. Cái do Đất làm và cái làm cho người ở Đất thì gọi là Tạo. Cái do Trời làm và cái làm cho vong ở trên Trời thì gọi là Hóa. Hai yếu tố âm dương trong Ta là hai cái Minh nên Ta là “Kẻ Mình”=Mình= “Minh Minh”=0+0=1= =“Một Kinh”=Mình. Hai cái Minh đó là Sáng và Dạ nên ta có tên là Sáng Dạ. Theo sinh lý học thì Sáng thuộc Dương, gọi là “Sáng Dương”=Sướng; Dạ thuộc Âm, gọi là “Dạ Âm”=Dâm. Về sinh lý thì Sướng và Dâm đều là sướng cả. Vì Ta là Minh, là Sáng nên bản chất nó là trong trẻo. Cái trong trẻo đó trong Ta dù là thuộc dương hay thuộc âm đều là khởi nguồn cho óc tưởng tượng: “Minh Dương”= Mường (mường tượng được ra những cái chưa từng có); “Minh Âm”= Mầm (mầm mộng được ra những cái chưa từng có). Một từ của tiếng Việt cũng có cấu tạo bằng hai cái minh, thuộc dương và thuộc âm, y như cấu tạo của một con người. Vì bản chất là Sáng nên nó cũng là trong trẻo (“Giọng nói trong trẻo”, “Trong như tiếng hạc bay qua”). Hai nửa mang bản chất Sáng dương và Sáng âm đó của một từ chính là cái Tơi và cái Rỡi của từ. Cấu tạo của từ là Tơi-Rỡi (Cái Vắng Tơi cũng giá trị như là Tơi. Vắng Tơi không có nghĩa là không, mà nó vẫn là có, vì đây là khái niệm của ngôn ngữ, không phải là khái niệm vật chất: cái “lỗ trống” vẫn là có vì vẫn đếm được có bao nhiêu lỗ trống, không như vật chất thì lỗ trống là không có gì). Cấu trúc Tơi-Rỡi của từ là cấu trúc Dương-Âm theo cấu trúc của vũ trụ, vì Lời cũng chính là cái sáng của Trời cho (Trời=Ngời=Lời). “Tay của Lời”= “Tay Lời”= Tơi. “Ruột của Lời”= “Ruột Lời”= Rỡi. Trước kia, khi nghiên cứu tiếng Việt, người ta đứng trên nền của ngôn ngữ phương Tây mà người ta đã học để nghiên cứu, nên họ gọi Tơi là “phụ âm đầu” nhưng lại quên mất còn có cái “vắng phụ âm đầu” (Mô=Vô=0, Chăng=Chẳng=0, lướt từ đôi “Vô Chẳng”= Vắng); họ gọi Rỡi là “âm vận”. Lời là cái ý nghĩa nhờ “Lưỡi đưa tiếng từ miệng ra ngoài Trời”= Lời, nó trong trẻo bởi bản chất nó là sáng: Trời=Ngời=Lời. Tơi= “Tay của Lời” là Nòng thì như cái Nòng súng, còn Rỡi= “Ruột của Lời” là Nọc thì như viên đạn (cái Nọc của con ong hay của con rắn chính là viên đạn của nó vậy). Cấu trúc một từ là Tơi-Rỡi chính là cấu trúc Nòng-Nọc (bởi chữ ký âm thời tiền sử cổ xưa gọi là chữ Nòng-Nọc, mỗi chữ cái đều có nét ngoằn nghoèo như con nòng-nọc). Tiếng Hán “Khoa Đẩu” nghĩa là con nòng-nọc, về sau Hán thư dịch theo nghĩa mà gọi chữ Nòng Nọc là “Khoa Đẩu tự”. Con Nòng-Nọc là ấu trùng đang sống trong Nôi nước, từ Nòng-Nọc là một từ dính, nên có gạch nối ở giữa, và tuyệt đối không được đảo là nọc nòng, vì như vậy sẽ không còn hiểu là con gì nữa. Cái Tế của từ dính Nòng-Nọc chính là cái tế bào Nòi. Theo QT Nở thì Nòi tách đôi thành Nòng/Nọc. Nhưng Nòng-Nọc muốn “nở” thì trước hết nó phải dùng QT Vo mà vò cho rụng đuôi đi đã. Vậy là “Cắt N của nòng và N của Nọc”= “Cắt…Nọc”= Cóc (rất logic: nó đồng thời còn phải dùng cả QT Lướt). Cóc gắn bó với người nông dân trên ruộng từ thủa ban đầu của nền nông nghiệp trồng trọt cách nay hàng vạn năm. Con Cóc nó “Thật Hiền”= Thiền, đó là một tên khác của con Cóc, sau Thiền phiên thiết ra gọi là con Thiềm Thừ (Thiềm=Thêm là tên thêm, Thừ=Thứ=Chư, là cái tên thứ hai). Một cái Nòi thì theo QT Nở mà ra Nòng (1) và Nọc (0); một cái Cồi thì theo QT Nở mà ra Có (1) và Cóc(0), cặp đối 1/0=Có/Cóc = Cộc/Cái = Đực/Đẻ. Cóc=0, số Không là tuyệt đỉnh của trí tuệ, là cái vòng luân hồi. Tên con Cóc ám chỉ đúng như vậy: “Có Óc”= Cóc (“Con Cóc là cậu ông Trời”. “Thầy đồ Cóc”) . Lời là ý nghĩa của một Từ. Từ gồm Tơi-Rỡi, bản chất lời là trong trẻo do Tơi-Rỡi mang bản chất trong trẻo: Tơi thuộc Dương, nên có từ đôi “Tơi Dương”=Tường. Rỡi thuộc Âm nên có từ đôi “Rỡi Âm”=Râm(mát mẻ)=Rõ=Tỏ=Tường, do vậy ý nghĩa của Từ (tức Lời) là Tỏ Tường = Rõ Ràng=Rạng=Sáng, tức như bản chất nó là trong trẻo. (Tường=Ràng cũng giống như Đương=Đang, Đường=Đàng, Giường=Sàng). Lời là do Trời cho, đương nhiên Tơi-Rỡi cũng là do Trời cho: Tơi=Tống=Nòng=Nắng=Nường=Dương. Rỡi=Rốn=Nõn=Nọc=Nước=Nậm=Âm (nọc ong, nọc rắn đều là chất nước độc để tiêm vào thịt đối thủ). Kết cấu Dương-Âm là: Dương/Âm= Tơi/Rỡi = Nường/ Nõn = Nắng/Nước (là kết cấu của vũ trụ,là của Trời cho. Ở đất thì kết cấu phồn thực là ngược lại, là cặp Nõn/Nường, ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Một Tiếng gồm Tơi-Rỡi = Nắng-Nước thì nó trong trẻo là phải thôi. Tiếng=Thiêng=Thương=Trường=Đương(để mà đương đầu)= Đùng Đùng=Súng, thì đúng Tiếng=Từ=Lời là khẩu súng Trời cho (chữ Thương 搶 nghĩa là cây súng trường, rồi thương trường cũng là súng trường vậy, nên người ta nói “thương trường là chiến trường” ?, nói vậy chẳng qua là do giọng hiếu chiến, tỷ như “cuộc vận động trồng cây gây rừng” thì người ta còn tương lên báo là “chiến dịch trồng cây gây rừng”. Thương trường không phải là chiến trường, bởi trên thương trường chỉ có “súng xịt nước”, sẽ thấy tiếp sau). Viên đạn do nòng súng tống ra mới là cái để đạt mục đích, còn cây súng chỉ đứng tại chỗ. Tơi=Tời=Tải=Tống=Nòng=Nắng (phải dùng lửa mới đúc được nòng súng). Rỡi=Râm=Rốn=Nõn=Nọc=Nước (viên đạn này là bằng nước mà lại còn râm mát). Đúng là Trời cho cái Tiếng=Thiêng chỉ là một cây súng xịt nước (lễ hội xịt nước của người Lào và người Thái Lan). Trời cho tiếng Việt chứa hàm ý như vậy thì đúng là Trời muốn qua tiếng Việt mà dạy cho loài người phải biết đối thoại chứ không dùng bạo lực. Nhưng đối thoại thì vẫn có Tơi=Tường=Tướng (là “nói tướng lên” tức to tiếng, nói thẳng) và Rỡi=Râm (là “nói mát nói mẻ”, nhiều khi giọng còn chua cay). Dẫu sao thì vẫn chỉ là đối thoại chứ không dùng bạo lực. Ngôn từ Việt đã chỉ ra Tất Cả. 5000 năm trước mà thế giới biết học chữ Nòng-Nọc và tiếng Việt để hiểu được văn hiến của Văn Lang Lạc Việt thì thế giới đã đại đồng từ lâu rồi chứ còn ai sản xuất vũ khí làm gì . (Hiếu với Thiên hạ gọi là “Hiếu Thiên” = Hiến. Thời tiền sử chỉ có Văn Lang mới có văn hiến). Đất/Trời=Tất/Cả=Tạo/Hóa=Ta. Người Kinh tự xưng “Ta” (ngôi Một) và tự xưng “Một Kinh” = Mình (ngôi Một), “Mình Hai” = ”Mình Hay” = Mày (ngôi Hai). Khẳng định ngôi hai là “Mày Chứ” = Mừ (Mừ là ngôn xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái). Chứ=Chư=Thứ (là dòng thứ, con thứ, dòng hai, sau dòng đầu). Trong các dòng Thứ = dòng Chư (tức dòng hai) xếp thứ tự lại có một dòng “Hai Đầu” = Hầu. Đây chính là tước Hầu thời nhà Chu phong đất. Chư Hầu = =Thứ Hai. Các tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam chính là Rộng (rộng đất nhất), Hai, Ba, Tư, Năm. Vậy thời nhà Chu toàn dân nói tiếng Việt. Đất/Trời=Tất/Cả=Ta. Đất và Trời (đều là thiên thể) xa nhau nhất mà cũng là gần nhau nhất (chưa thấy tốc độ nào nhanh hơn tốc độ ánh sáng, mà cái Sáng lại là do trời cho Ta). Chính Ta (con người) là cầu nối Đất và Trời (“đứng giữa đất trời”), hễ sáng là Trời Đất nối liền nhau ngay bằng chính “Ta Kia” = =Tia (sáng) chứ không phải bằng loài vật nào khác. Ngôn ngữ thì Tiếng chính là cái Sáng vì Tiếng=Từ=Tơi+Rỡi. Do “Ruột Thiêng” = Riêng của Ta, mà loài vật không thể có, Ta có cái độc đáo hơn loài vật là có cái “Ta Riêng” = Tiếng. Do Tiếng là cái Sáng (tiếng trong trẻo) nên Tơi và Rỡi cũng đều là cái Sáng. “Tơi Rỡi”=Tời=Tải, là nó tải cái Lời (ý nghĩa của tiếng) đi ra. “Rỡi Tơi”=Rời=Rạng=Sáng=Láng=Linh=Lìa=Ly=Lửa=Lả=Hỏa=Hồn. Kẻ Sống=Kẻ Sáng luôn có Hồn, nhưng Hồn không dính cứng ở cơ thể sống, mà linh hoạt, lúc đi ra là tải Lời (có khi Hồn còn đi lạc, phải hú Hồn về). Hồn còn chuyển tải cái Sáng sang người khác (Sáng=Sang=Hàng=Hướng=Hành, hàng dọc là hướng sang dọc, hàng ngang là hướng sang ngang; hành là thi hành; “Thấy Đi”=Thi; cái Sáng làm chức năng của nó bằng cái Thấy). Cụ Trưởng Cần chỉ dùng lời của Cụ (nghe được) và cái ý nghĩ của Cụ (ẩn kín) mà chữa được bệnh nan y cho người khác, bởi Cụ đã dùng cái Thấy. “Tất Cả”=Ta, từ người Kinh xưng (ngôi Một), tức Ta là một người Kinh, là một con người. Từ đôi Người Ta có nghĩa là nhiều người (“Người ta nói thế” tức “Nhiều người nói thế”, đó là một cái thông điệp do nhiều người cùng phát như vậy, mà bản chất là cái Sáng của chúng nó nói ra, tức của “Hồn chúng Nó” = =Họ nói ra, tức “Họ nói thế”. Như vậy khi đã nói đến Họ của “Ta Gốc”=Tộc là nói Họ Tộc . “Người Kinh họ nói thế” bởi họ còn “nhớ như In” (tiếng Kinh thì In là từ chung cho Ăn hay Uống, ăn uống là cái bản năng của Con, hễ khát nhớ uống, hễ đói nhớ ăn, cho nên mới có thành ngữ “Nhớ như In”). Người “Kinh họ nói là In” = Kin (tiếng Tày-Thái thì Kin là từ chung chỉ ý ăn hay uống, đến nay vẫn dùng chung như vậy, kể cả bên Thái Lan). Vậy thì đúng là Kinh đã Gieo tiếng. Tiếng là do “Kinh Gieo” = Keo. Tiếng Tày-Thái gọi “Dân Kinh” là “Cần Keo”. Kinh là dòng Rồng (Lạc Long), Thái là dòng Tiên (Âu Cơ).Ta=Giả nên nho viết chữ Giả 者 gồm Tia Sáng nối Đất 土 (đại diện bằng cái sáng của Đất là “Thấy Ổ”= Thổ, chữ Thổ 土) với Trời 日 (đại diện bằng cái sáng của Trời là chữ Nhật日), đúng như Ta=Tất Cả. Ta và Mình đều là ngôi Một, chỉ số đông thì dùng Chúng Ta hay chúng Mình, nhân Dân chúng Ta thì nói tắt là Dân Ta. Còn khi đứng riêng thì Dân hay Ta đều là chỉ một người, dùng từ đôi để nhấn ý cho trịnh trọng thì “Dân Ta” = Gia (chỉ một người), nhấn cho thêm trịnh trọng nữa thì “Gia Gia” = Giả, 0+0=1(chỉ một người). Do khẳng định Ta không phải là loài nào khác mà là “Ta Kia” = Tia, phản ánh đúng Ta là cái Tia sáng nối Trời với Đất. Do vậy chữ nho viết biểu ý cái tia sáng ( Tia=Phía=Phẩy) bằng một nét phẩy xiên từ phải sang trái (ý là mặt trời mọc đàng đông) từ trên xuống dưới (ya là từ trời xuống đất). Chữ Việt bộ mễ nhiều người cứ thắc mắc còn một gạch xiên trên đầu là ý gì. Đỗ Thành (blog Nhạn Nam Phi) đã giải thích đó là tia sáng, bộ phận của chữ Thái 采 nghĩa là ánh sáng (còn viết Thái 彩). Chữ Việt 粤 gồm chữ Thái 采, bọc bằng chữ Vuông 口=Vành Vạnh=Mảnh=Mình= “Một Kinh”, dưới có hình cái Cày. Cày là cái công cụ quan trọng thứ Hai sau bàn Tay của dân nông nghiệp lúa nước. Nếu Một là cái phát hiện cũ thì cái phát hiện thứ hai đương nhiên phải là Hay hơn (“Hai đánh Một không chột cũng què”). Cho nên cái công cụ “Kinh Hay” = Cày (tiếng Kinh gọi cái cày là Cày); cái công cụ “Thái Hay” = =Thay (tiếng Thái gọi cái cày là Thay, nó cũng đồng với từ Thay của tiếng Kinh, nghĩa là thay cho sức của bàn tay cuốc đất). Cái Hay là cái văn minh, vì nó mới hơn cái cũ là cái một. “Thấy Hay” = Thay, nên người Việt rất nhạy với cái mới, Thay đời xe máy, ô tô, điện thoại di động như Thay áo. Bởi cái Mới là Hay, nên có “Mới Hay” = May. Người Việt hễ Thấy Hay là “Thấy Hay” = Thay liền, là làm Mới Liền = Mô Đên. Ta=Giả, nên chữ Giả 者 nho viết biểu ý gồm tia sáng nối Đất 土(chữ Thổ 土. Ổ=Tổ=Thổ) với Trời 日(chữ Nhật 日), đúng như Ta = Tất Cả. 2. Con người là một tiểu vũ trụ Người Việt khi bắt đầu khai thác bề mặt Trái Đất để làm lúa nước bằng những mảnh Ruộng=Vuông (cách nay vạn năm , như di tích hột lúa ở Hòa Bình VN và ở Hà Mẫu Độ, Triết Giang TQ), người Việt đã đứng trên mặt đất mà nhìn để hiểu rằng cái kết cấu Âm/Dương là Đất/ Trời = Tất/ Cả = Tạo /Hóa = Ta (= Ngã 我 = Ngộ 我). Để làm được nông nghiệp trồng trọt, Ta phải nghiên cứu thiên văn, chủ yếu bằng con mắt quan sát (ngày nay vẫn còn phải dùng kính viễn vọng). Quan sát bằng mắt nên cái bầu trời như cái Vòm Ủ, gọi là “Vòm Ủ”= Vũ (nghĩa là không gian). Sau nho viết chữ Vũ bằng bộ thủ “Mái Hiên”= Miên 宀và bộ thủ Ư 于 thành chữ Vũ 宇 (Ủ = Ở = Ư 于 = U =Vu 于 = Du 游 = Do 由 - sự Ủ cũng là một sự chuyển động như lên men vậy). Cái “Trời Ủ” = Trụ (nghĩa là thời gian - ấn định bằng mặt trời) viết bằng bộ thủ Miên 宀 và bộ thủ Do 由 thành chữ Trụ 宙. Đứng ở vị trí Vũ Trụ mà nhìn xuống thì kết cấu Dương/Âm là Cả/Tất = Còn/ Khuất = Càn /Khôn. Gọi là Càn /Khôn vì quan sát vũ trụ bằng mắt, thấy có những thiên thể thì mắt người nhìn thấy “Có luôn luôn và trong trạng thái chuyển động Tròn” = Còn= “Còn miên Man” = Càn. Có những thiên thể là “Không thể nhìn thấy toàn bộ được bằng Mắt” = Khuất = “Khuất luôn Luôn” = Khôn. Ghép lại, từ Càn Khôn dùng chỉ chung vũ trụ. Càn dùng riêng thì ám chỉ Mặt Trời (mắt thường nhìn thấy toàn bộ mặt trời và cái cảm giác chuyển động tròn của nó trong ngày và đêm). Khôn dùng riêng ám chỉ Trái Đất, con người đứng trên mặt đất nhưng không thể nhìn thấy toàn bộ Trái Đất (vì thời cổ đại chưa có tàu vũ trụ) nên vẫn coi Đất là Khuất. Chỉ vài từ gốc của tiếng Việt nêu trên, vẫn dùng nguyên vẹn trong tiếng Kinh ngày nay, đủ để chứng minh rằng: Âm Dương, Bát Quái, Kinh Dịch là của người Việt. Đông Y cổ đại, Y học hiện đại, Khoa học nghiên cứu tiềm năng con người đều kết luận rằng con người là một vũ trụ thu nhỏ. Vậy mà kết luận trên lại hiển hiện tự nhiên trong ngôn từ Việt ở ngôn xưng của dân tộc Kinh: Dương / Âm = Còn / Khuất = Càn / Khôn = Trời / Đất = Tròn Vuông = Trọn Vẹn = Hoàn Toàn = Cả Tất. Đó là kết cấu theo vũ trụ, dương trước âm sau, dương sinh ra âm. Con người sinh ra ở Đất, do vậy kết cấu theo con người thì phải ngược lại, viết âm trước dương sau, “Sinh ra ở giữa Đất Trời”, bởi vậy người Việt gọi “thuyết Âm Dương”, Hán ngữ giữ nguyên kết cấu đó là Yin Yang. Kết cấu theo vũ trụ thì gọi là Trời Đất, mà kết cấu theo con người thì gọi là Đất Trời, và Đất Trời = Tất Cả. Tất Cả có nghĩa là vũ trụ, cái vũ trụ ấy cô đặc thành một con người, đó là “Tất Cả” = Ta. Ta là ngôn xưng của tiếng Kinh chỉ Mình = “Một Kinh”. Ta=Tui=Tôi=Tao= Cao (tiếng Vân Kiều)=Cau (tiếng Philippin) = =Coong(tiếng Khơ Me)= Cò (tiếng Thái) =Con=Qua=Cán 干 = Quan 官 = Quân 軍 = Quân 君,đều là ngôn xưng ngôi một. Một hướng phát triển khác của ngôn xưng Ta của người Kinh là: Ta=Nhà= Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Ngô 吾 = Ngộ 我 (tiếng Việt Đông). Chứng minh vũ trụ đã cô đặc thành một con người chỉ cần dùng có bốn từ tiếng Kinh của ngôi xưng thứ nhất: (1) KẺ, là chỉ con người, (dùng que cứng kẻ một Kẻ – là tượng trưng tính dương hay đàn ông, kẻ hai Kẻ – – nối cách nhau là tượng trưng tính âm hay đàn bà), từ Kẻ về sau phiên thiết thành hai âm tiết là Cơ Thể, trả lại như cũ, tức lướt thì “Cơ Thể”= Kẻ. (2) KINH = “Kẻ Minh”, Minh nghĩa là sáng: Sáng = Choang = Quang = Láng = Lượng = Linh = Minh. (3) MÌNH = “Một Kinh”, một Kinh tức một Kẻ thuộc dân tộc Kinh, thành từ tự xưng là “Một Kinh” = Mình. Trong một kẻ, là một con người, có hai cái Sáng (trí tuệ) , tức hai cái Minh, cân bằng nhau, là Minh dương và Minh âm, “Cân bằng hai cái Minh” = Kinh. Vì có hai Minh nên “Minh Minh” = Mình, 0+0=1, tự xưng là Mình. (4) TA = “Tất Cả”. Vũ trụ chỉ có dương và âm mà vũ trụ sinh ra tất cả. Trong con người có âm và dương nên con người là tất cả, được thu nhỏ lại, “Tất Cả”= Ta, tự xưng là Ta (Ta=Ngã=Ngộ). Hai từ tự xưng ghép lại thành từ đôi thì cũng như hai cái sáng ghép lại thì thành tố chất càng sáng: Mình Ta, nói lái là Mà Tinh; Ta Mình, nói lái là Tinh Mà. Nhưng trong nội tại nó luôn có mâu thuẫn: Mình Ta, nói lái là Tà/Minh; Ta Mình, nói lái là Minh/Tà. Giống như tương tác trong vũ trụ cho ra những kết quả Minh và Tà. Tương tác trong cơ thể cũng cho ra những kết quả Minh và Tà. Hán thư viết rằng: “Cái tên Việt và Bách Việt xuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc”. Nhưng thời Xuân Thu có 7 nước, đến thời Chiến Quốc đã thành 140 nước. Nước nào cũng có Kinh Đô riêng. Mà Kinh Đô tức là nơi người Kinh “Đông Hộ”. “Đông Hộ” = Đô. Chữ Đô 都, nghĩa biểu ý của nó là chữ: Ta 者(ở thành) Ấp 阝. Chữ Ta 者 viết biểu ý là một Tia sáng (nét Tia=Phía=Phẩy từ trên xuống dưới, hơi xiên từ phải sang trái, Phải ý là trời, Trái ý là trái đất; Tia ấy nối Đất – đại diện bằng cái sáng của đất là chữ Thổ 土, với Trời – đại diện bằng cái sáng của trời là chữ Nhật 日, thành chữ Ta=Giả 者). Ta (= Gia 家 = Giả 者 = Ngã 我 = Ngô 吾 = Ngộ 我, là những từ có sau, đều dùng để xưng “Tôi”). Ấp thì phải là “Đông Hộ”. Họ là nhiều người, “Nghe họ nói thế” tức là “Nghe nhiều người nói thế”. “Họ chung một Ổ”= Hộ (dù những người ấy không nhất thiết phải là thân thuộc của nhau). Việt mà chỉ “thời Xuân Thu mới xuất hiện”(?) thì người Kinh có từ khi nào? Tra về người thì tư liệu TQ nói: Kinh là dân tộc thiểu số trong 56 dân tộc của TQ, trong lịch sử họ từ VN di cư sang vài hòn đảo thuộc Quảng Tây TQ vào thời nhà Lê, thế kỷ 17. Tư liệu VN nói: Kinh là dân tộc đa số của VN (Từ Điển Tiếng Việt nxb KHXH 1977, trang 443). Kinh là người Kinh chỉ đơn giản vậy thôi sao? Thời cổ đại cách nay 5000 năm, đã có vua thì vua nào dân nấy. Vua là Kinh Dương Vương thì dân là Dân của Kinh, hay gọi là Dân Kinh. Nhưng “Dân Kinh” = Dinh, dân ấy là dinh lũy bền vững cho vua Kinh Dương Vương. Vua là Khan thì dân là Dân của Khan, hay gọi là Dân Hãn. Nhưng “Dân Hãn” = Dãn = Dấn = Lấn = “Lấn Trước” = Lược, vì họ sống du mục, (ngô ngoài đồng của dân trồng trọt mới ra bắp non thì cả bầy ngựa của dân du mục đã ào đến gặm sạch), từ đó mà có từ xâm lấn, xâm lược. Thời Kinh Dương Vương, quan hệ xã hội là “Kinh với Dân” = Cân = Công = Đồng = Đẳng = Bằng = Bình = “Cân Bình” = Kinh (còn “Dân với Kinh” = Dinh = Dính, là dinh lũy bền vững). Về biểu ý của chữ nho thì “Cân Bình” = Kinh, nên chữ Kinh 京 viết rất cân đối theo chiều bổ dọc đôi, nó gồm ba phần là Đầu 亠, Mình 口, và Túc 小. Đầu là cái chui ra trước tiên khi con người ra đời, nó là cái Trước (về thời gian), nó có Óc ở trong Ốc sọ, nên còn gọi là “Trước Ốc” = Trốc, che ngoài Trốc có Toóc (như “vỏ ngoài của thân cây lúa” = “Toóc”, tiếng Huế). “Toóc che cho ốc sọ và Óc” = Tóc. Mình 口, viết bằng Vuông 口, tiếng Việt Đông đọc Vuông 口 là Mảnh, Mảnh=Mình. Vuông=Văn, “Văn bằng” hay “Mảnh bằng” cũng thế cả. “Mảnh thân này có sá chi” hay “Mình này có sá chi” cũng thế cả. Câu đầu trong sách dạy nhân thể học là “Cơ thể người ta gồm có ba phần: Đầu 亠, Mình 口, và Chân Tay 小”. Chân Tay có từ chung là Túc (cũng như Ăn Uống có từ chung là In = Ẩm). Túc đã theo QT Nở mà nở ra Tay và Tấn. Đứng Tấn là một thế võ đứng không động, tức “Chỉ Tấn” = Chân. Chỉ là “Chẳng Đi” = Chỉ止. Đứng “Chẳng Đi” đã cho ra từ viết bằng chữ nho là Đình Chỉ, vì người Kinh họ nói như thế. “Đứng của tiếng Kinh”= Đình 停 (dấu = ở đây thay cho “còn gọi là”). Túc=Tiểu, nên trong chữ Kinh 京 ý Túc được đại diện bằng chữ Tiểu 小, vì thực tế Tay Chân là cái nhỏ của cơ thể (Nick không có tay chân mà còn làm nên cái vĩ đại cho thế giới thấy). Mình=Mảnh=Vành Vạnh=Vuông=Văn. Chữ Kinh chỉ rõ là một cơ thể con người, đó là một Kẻ. Kẻ ấy có hai cái Minh trong trí tuệ, nên gọi là “Kẻ Minh” = =Kinh. Nó xưng là “Một Kinh”= Mình, vì trong mình nó có hai cái Minh, “Minh Minh” = Mình, 0+0=1. Minh ấy là Sáng, do Sáng = Láng (=Lượng 亮) =Linh, “Kẻ Linh” = Kinh. Hai cái Minh ấy là Minh dương và Minh âm. Minh dương là Sáng Lâu, viết biểu ý bằng cái ánh sáng gọi là Nhật 日 là của Trời và cái ánh sáng gọi là Nguyệt 月 là của Trăng (Trời đã cho ra những cái tên chỉ ánh sáng của Trời là: Trời=Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật, nó là cái còn mãi mãi), thành chữ Minh 明. Minh dương là Sáng Lâu thì lái ngược lại Minh âm là Sâu Láng = Mầu Linh (Sâu=Mầu, Láng=Linh), “Mầu và Linh” = Minh 冥, vì là âm, nên viết phải lái ngược là “Mịch 冖 Viết 曰 Lâu 六”= “Mầu Viết Linh”. Viết 曰 = Van=Vân Vân = Và = Na = Nói = Nài. Có là người Việt thì mới gọi Nói là Viết, khi lướt hai từ “Việt Nói” mà không lấy rỡi của từ sau, chỉ lấy thanh điệu của từ sau (gọi là Lướt Lủn) thì có “Việt Nói” = “Việt sắc (dấu sắc của Nói) là Viết” = Viết. Viết nghĩa là “tiếng nói chung của nhiều người Việt”, vì “Việt Việt” = Viết, 0+0=1. (Từ điển của Viện ngôn ngữ giải thích từ Việt 越 là “từ gốc Hán”, trang 476). (Tương tự như “Giết Giết” = Diệt, 1+1=0. Diệt 滅 nghĩa là “Giết hết, làm cho không còn tồn tạị” như Từ Điển Yếu Tố Hán Việt Thông Dụng , Viện Ngôn Ngữ học, NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 100. Giải thích như LM: Diệt nghĩa là Giết Sạch, do lướt lủn, tức chỉ lấy dấu nặng của từ sau nên “Giết Sạch”= “Giết nặng Diệt”= Diệt (như là đánh vần), kết quả sau cùng của Giết và Diệt đều là -Ết = Chết = Hết. Giết thì chưa chắc đã chết hết, nhưng giết nặng tay thành ra Diệt thì chết sạch sành sanh. Vậy mà từ điển trên xếp chữ Diệt 滅 là “từ gốc Hán” (vì nhìn thấy có viết bằng chữ nho), lại không thấy bố mẹ đẻ ra từ Diệt là từ Giết ( Giết của Hán ngữ là “Sha 殺”, Diệt của Hán ngữ là “Mie 滅”, Sha với Mie có logic gì với nhau bằng Giết với Diệt không? Kể cả đúng với toán học nhị phân: Giết Giết = Diệt, 1+1=0, là không còn một mống). Nôm Na là Vuông 口 Nam 南 (= 喃)Nói = Vuông Lam Nói = Văn Lang Nói. Pạc Và là tiếng Việt Đông. Pạc Và = Bạch Nói ( Dân tộc Bạch từng rút lui về nam lập nước Đại Lý tồn tại 400 năm ở Vân Nam, đất xưa Văn Lang, sau bị Nguyên diệt. Người Bạch có phải là hậu duệ của Bách Việt không? Có học giả TQ nghiên cứu về ngôn ngữ nói: nhiều từ gốc của người Bạch giống từ gốc của dân vùng đồng lầy Vân Mộng , bắc Động Đình Hồ. Có người Bạch ở Đại Lý thì nói: dân tộc tôi không có chữ viết - hay đã bị mất? - nên chúng tôi bị mất mát rất nhiều bản sắc). Sáng=Láng=Lượng=Linh=Minh, cái “Kẻ Minh”= Kinh ấy gọi là Kinh ( chú giải của Thuyết Văn Giải Tự: “ Kinh là cái tuyệt cao của con người”- Đoạn Ngọc Tài 段 玉 裁, đời Thanh. Tuyệt cao đây không phải là cao mấy mét hay cao chức cao quyền, tuyệt cao đây là cái trí tuệ, thì đích thị nó là “Cao Minh” = “Cân Minh” = “Kẻ Minh”= Kinh. Người Kinh tự xưng là “Một Kinh”= Mình, tự gọi cơ thể mình là “Một Sáng”= Mạng, và “Mạng Sống”= Mống. VD “Nhà mày đẻ được mấy Mống rồi?”, “ Diệt cái thói xâm lược cho nó chết sạch không còn một Mống”. Trong Từ Điển Tiếng Việt đã dẫn, không có từ Mống = ”Mạng Sống” này, nhưng có từ Mống cụt, được giải thích là Mống cầu vồng cụt , VD “Mống vàng thì nắng, Mống trắng thì mưa”, trang 519, đủ thấy Từ Điển đã không biết rằng nông dân cổ đại đã lướt cái “Móng cầu Vồng”= Mống, để có từ Mống ở trường hợp này, cũng như khi hột lúa bị ướt thì nhú cái mầm sống của nó ra, nông dân cổ đại đã lướt “Mầm Sống”= Mộng, cho trường hợp đó, gọi là lúa lên mộng. Người Kinh khi thưa thì nói Dạ! “Tôi Dạ!”= Tạ, “Tôi Rõ!”= Tỏ, “Dạ Rõ” = “Dạ Tỏ” nên Dạ ấy nghĩa là Sáng. Con người có hai cái Sáng vì vậy gọi là Sáng Dạ, chia ra Sáng đại diện sáng dương, Dạ đại diện sáng âm, nên sau nho lấy chữ Dạ đại diện cho đêm. Sáng và “Trong Sạch” = Trạch. Đầm Dạ Trạch là đầm vừa sáng vừa trong sạch. Bức hoành ở chùa Ông Bổn ( hội quán Phúc Kiến tại tp HCM) có viết bốn chữ từ phải sang trái (ý là người xưa dặn dò) là Trạch Cập Lân Phong 澤 及 鄰 封, nghĩa là đem (tấm lòng) trong sạch mà cập bến của vùng láng giềng gần. Chữ “Láng giềng Gần” = Lân 鄰. Chữ “Phát cho đất trong một vùng=Vòng” = Phong (Chữ Phong 封 gồm hai bộ Thổ 土 , ý là được nhiều đất, và bộ Thốn 寸 , ý là có đo đạc đàng hoàng, chữ Phong 封 dùng làm đại diện cho Vùng, nên còn biến ý là “vòng kín, niêm phong”. Phong là Vùng nên mỗi Phong có tục lệ riêng (“đất lề quê thói”) gọi là Phong Tục, về sau họ chỉ căn cứ vào cái âm “phong” nên dùng chữ Phong 風 nghĩa là gió để ghép từ Phong Tục, nghĩa là “tục của gió”? sai cả biểu ý . Người dương sẽ đọc từ trái sang phải là Phong Lân Cập Trạch, nghĩa là “(đến ở) vùng láng giềng gần (thì nguyện) theo kịp cái sáng”, nói lên tâm nguyện đến ở vùng láng giềng gần thì phải tích cực hướng tới cái sáng. Người Kinh tự xưng là Mình, cũng tự xưng là Ta. Ở câu ca dao “Mình về có nhớ Ta chăng. Ta về Ta nhớ hàm răng mình cười” thì biết ngay là có hai người đang nói với nhau. “Ta với Mình tuy hai mà một. Mình với Ta tuy một mà hai”, bởi mỗi người đều có ở trong Mình hai cái Minh. Ở trong Mình có cái “Ta Âm”= Tâm. Tâm Linh nghĩa là cái Tâm ấy nó cũng sáng. Ở trong Mình có cái “Ta Dương”= Tướng (Tướng=Tượng=Tạng=Dáng). Tướng là sự thể hiện trí tuệ của người trên nét mặt người đó, tức trên “Mặt Tao”= Mạo, nên còn gọi là Tướng Mạo. VD: “Anh coi giùm cái Tướng cho tôi với” hay “Anh coi giùm cho tôi cái Tướng Mạo”. Con người là Sáng Dạ, cho nên nó Sáng Giá, vì nhấn ý Dạ là “Dạ Dạ”= Giá, 0+0=1. Mà nhấn ý Sáng thì “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Sáng Giá là Sang (0) và có Giá (1) cũng là đủ cân bằng âm dương như 0 và 1. Tại sao người Kinh đã tự xưng là “Một Kinh”= Mình rồi lại còn tự xưng là Ta? Bởi người Kinh đã có nền Đông Y cổ đại, bao gồm cả thuật châm cứu, từ thời Thần Nông (Kênh Lạch = Kinh Lạc). Nền y học ấy cho rằng con người là một tiểu vũ trụ, tức con người là Tất Cả đuợc gói gọn thu nhỏ lại: “Tất Cả”=Ta (= Nhà = Ngã 我 = Gia 家 = Giả 者, là những từ xuất hiện sau). Sự sống nhờ Nước và Không Khí. Cái NÔI khái niệm bản chất Trong Sáng = Trong Suốt của Nước (H2 O) và Không Khí chủ yếu là dưỡng khí (O 2) là: Nước=Nuột (nuột nà)=Suốt=Sáng=Sóng=Trong=Thong (thong dong) = Thấu = Thanh = Thông = =Không=Khí=Khuổi=Huổi=Hơi. Riêng Nước còn có thể sờ thấy được, Không Khí thì không thể. Nhìn vào H2O thấy ngay Nước có hai cái minh là H2 không sờ thấy được, cũng như trong dưỡng khí cũng có hai cái minh và đều không sờ thấy được, là O2. Vậy bản chất hai cái Minh trong Ta và trong Nước hay trong Không Khí là như nhau, làm ô nhiễm Nước hay Không Khí thì Ta cũng chết. Ngôn từ Việt đã chỉ rõ Tất Cả. Vậy mà hai cái Minh cân bằng nhau trong Mình lại là tên của hai tộc người là Kinh và Thái, con cháu của Rồng và Tiên (của Lạc Long Quân và Âu Cơ). “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh. Kinh tự xưng là Ta (ngôi Một). “Ta sinh ra Hai”= “Ta sinh ra Hay”= Tày (đó là dòng thứ đầu). Ta lại sinh ra dòng “Thứ Hai”= Thái. Ta sinh ra dòng “Thứ Ba”= Tha. (Thường dùng từ “tha nhân”. Hán ngữ dùng chữ Tha chỉ ngôi thứ ba, phát âm chính xác là “tha”). Xưng Ta là ngôi Một thì chính trong Ta có hai cái sáng là “Minh Sáng”= Mạng. Ta là ngôi Một thì chính Ta đã sinh ra cái “Mạng Hai”= “Mạng Hay”= Mày; khẳng định thì nói Ta đã sinh ra “Mày Chứ!”= Mừ. Mừ là ngôn xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái. Vậy Tày-Thái là dòng Chứ=Chư=Thứ, so với Kinh là dòng “Kinh Ả”= Cả. Thủa tiền sử là thời mẫu hệ, Ả nghĩa là người đàn bà, tiếng Mường và tiếng bắc Trung Bộ vẫn gọi chị là Ả. (Tiếng Mường có Ả-Ún là Chị-Em, Eng-Ún là Anh-Em. Những từ trên đã QT Nở mà nở sinh đôi từ cái tế bào O, ở giữa từ Nòi của NÔI, O tiếng Trung Bộ nghĩa là cô gái “Ơi O chèo đò trên dòng sông Hương”, O nở ra Ả(1) / Ún (0) và đồng thời nở ra Anh(1)/Em(0) là hai cặp đối sinh đôi). Cái tên Kinh nghĩa là sáng: Kinh = Bình Minh. Cái tên Thái cũng nghĩa là sáng: vd câu “Hết thời bĩ cực đến ngày thái lai”. Nếu đọc báo miền Nam trước 1975 ắt gặp câu “Việt Nam và Thái Lan là hai dân tộc anh em ruột thịt”. Kinh và Thái là có trước rồi mới sinh ra Việt là con của Rồng Tiên. Chữ Việt 粤 bộ mễ đã chỉ rõ như vậy. Chữ Việt 粤 gồm bộ Vuông 口= Vành Vạnh = =Mảnh = Mình 口 = Kinh và bộ Thái 采, dưới có cái Cày. Chữ Thái 采 nghĩa là sáng, gồm Tia=Phía=Phẩy là nét phẩy xiên phải sang trái (mặt trời mọc đàng đông) từ trên xuống dưới (từ trời xuống đất), dưới là bộ Mễ 米, chính là các tia mặt trời trên trống đồng, mặt trời được tôn làm mẹ của dân Lửa là dân trống đồng, chính là Mẹ (Kinh)= Mế (Tày)= Mè (Lào)= Mệ (Huế)= Mễ 米, nho cũng dùng chữ Mễ 米 này ám chỉ Gạo (Kinh)= Khao (Thái) của dân lúa nước, vì mẹ là bầu sữa, là miệng nhai cơm sún cho con sơ sinh ( “Sẻ nhỏ giọt cho Ún” = Sún= Bún = Bột = Búng. Ca dao: “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”). Bản thân thiên thể Mặt Trời cũng là hai cái sáng, gọi là Dương Sáng, tiếng các sắc tộc ở Tây Nguyên gọi là “Dương Sáng”= Giàng. Hán ngữ dịch ý Dương Sáng , đảo là Sáng Dương = Thái Dương, chỉ mặt trời. Ngày nay khai thác năng lượng mặt trời thì gọi là Thái Dương Năng. Nhưng Năng là cái tế bào của NÔI Việt nên tế bào Năng QT Nở mà thành Nắng (1) / Nước (0). Lưỡng Quảng xưa còn có tên là Lưỡng Việt, nói thứ ngôn ngữ gọi là Việt ngữ 粤 语 (tiếng Việt Đông, tiếng Quảng Đông, tiếng Canton), khác với tiếng Quan Thoại (tiếng Mandarin - do phiên âm chữ Mãn Thanh). Tiếng Quảng Đông , người Quảng Đông gọi là Pạc Và tức Bạch Nói (Bạch Thoại). Nhưng Bạch thì có nhiều lắm, còn gọi là bách tính tức trăm họ, “Bạch Bạch”= Bách, 0+0=1, nên Bạch Thoại cũng chỉ là một trong những ngôn ngữ hình thành do diễn biến của ngôn ngữ Bách Việt. 3. Định nghĩa người Kinh Thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Việt. Âm Dương là từ ghép xuôi dùng để nói về thế giới con người trên mặt đất, (“Con người đứng giữa Đất Trời”- có đất thì mới có chỗ đứng- khi nói ngang ngược thì “Vốn đã sinh ra trong Trời Đất” – ý là từ trên trời giáng thế). Nếu là nói về vũ trụ thì ghép là Dương/ Âm = Càn/ Khôn = Cả/ Tất = Còn/ Khuất = Trời/ Đất = Tròn/ Vuông = Trọn/Vẹn = Hoàn /Toàn. Con người sinh ra trên đất, nên ghép xuôi Âm/Dương = Tất/ Cả= Tạo/Hóa. Lướt thì “Tất Cả”=Ta hay “Tạo Hóa”=Ta. Người Kinh tự xưng là Ta (ý nói là đã gói gọn toàn bộ vũ trụ trong Mình). Cái Ta ấy là “Một Kinh”= Mình. Cái Ta ấy có “Ta Dương”= Tướng thì Sáng Lâu, và có cái “Ta Âm”= Tâm thì Sâu Láng. Cái Sáng Lâu là ánh sáng gọi là Nhật 日 của Trời và ánh sáng gọi là Nguyệt 月 của Trăng, ghép thành chữ Minh 明 dương. Cái Sâu Láng = “Mầu Linh”= Minh âm, viết bằng chữ lái ngược Mịch 冖 Và 曰 Lâu 六 (lái là Mầu Và Linh) thành chữ Minh 冥 âm. Hai cái Minh tức hai cái Sáng. Cái “Sáng Dương” = Sướng (là cái trí hanh thông). Cái “ Sáng Âm” = Sấm (là cái trí tuệ tiên tri). Sấm=Sới, Sới võ là nơi đấu võ bằng trí tuệ. Cái Ta ấy là “Ta Một”= Tốt (“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa). Một Kinh = Một Cây = One Kind = O.K. Kinh Dương Vương là Tổ của Bách Việt. “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” ( trích Ngọc Phả Hùng Vương, lưu tại đền Hùng, Phú Thọ). Ta một, là Kinh Dương Vương thì phải đẻ ra “Thành ta Hai”= Thái. “Ta Hai”= “Ta Hay”= =Tày. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta giống cả tâm lẫn Tướng”= Mường. “Giống Kinh Dương Vương đẻ ra dòng Tao”= =Dao. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta rất Giống”= Mông. Vân vân và vân vân. Còn Bé thì Bú, Bú hết rồi thì ăn Bột, rồi mới biết Bò, rồi mới biết Bước. Lớn lên mới có thể Bước=Vược=Vượt. Kinh=Canh=Oanh. Vượt của dân canh Lửa = =“Vượt của dân oanh Liệt” = Việt (“Con hơn cha là nhà có phúc” 4. Người Kinh và chữ nho Kinh 京 Chữ nho, còn gọi là chữ vuông, là loại chữ biểu ý của người Việt, viết gom các ký tự tượng hình và tượng thanh vào trong một ô vuông mường tượng (mường tượng là hình dung ra cái vô hình, “Tướng Tướng”=Tượng,1+1=0; “Mắt nhìn thấy nội dung thể hiện qua Tướng”= Mường), tức là cho các ký tự “Về Ổ”= Vô. Và “Vô cái ô vuông mường tượng như là In”= Vin. Để vin vào biểu ý đó mà hiểu nghĩa chữ. Cụm từ “vuông Chữ Nho nhỏ” ấy đã bị QT Vo làm vò rụng mất đầu “vuông” và đuôi “nhỏ” còn lại cái lõi là Chữ Nho. Chữ=Trữ 貯 =Tự 字 =Tự 嗣, một Tự 字 nghĩa là nối dòng văn hóa, một Tự 嗣 nghĩa là nối dòng huyết thống. Kinh nghĩa là “Cái đôi Minh”= Kinh, “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh, đó là “Kẻ Minh”= Kinh, là cơ thể một con người, gồm Đầu 亠 Mình 口 và Chân Tay 小, thành chữ Kinh 京. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh= “Mảnh của kẻ Minh”= Mình. Tiếng Việt Đông đọc chữ Văn 文 là Mảnh. Mảnh lại có nghĩa là một mình, “Ăn Mảnh” là ăn một mình không cho ai biết, VD: “Trình Văn Bằng làm gì, còn phải căn cứ vào năng lực thực tế chứ vin gì vào Mảnh Bằng”. Ấy vậy mà các vị hàn lâm cứ giải thích trong các Từ Điển rằng từ Văn 文 là một “từ gốc Hán”, là “từ Hán Việt”. Chẳng khác gì “Gắp (cắp) của mình bỏ sang tay người” hay là “Nối dáo cho xâm lăng văn hóa”. Cái Lõi văn hóa của một dân tộc không phải là cái “Ruột Rỗng”= Rống (“thùng rỗng kêu to”) mà là cái “Ruột Đặc”= Rặc. Xưa nay bọn ngoại xâm là bọn muốn diệt cái Rặc của một dân tộc, bọn ấy gọi là bọn “Diệt của kẻ khác cái Rặc” = Giặc. Hãy nghe câu thơ “phồn thực” của Hồ Xuân Hương: “Cọc nhổ đi rồi Lỗ bỏ không”. Và hãy lướt “Kẻ Rặc”= là cái gì, với “Lõi của giống nòi là cái nõn viết bằng chữ Nộn”= là cái gì. Lõi là cái Nõn, còn Cặc=Cương=Nường, là cặp sinh thực khí: Nõn/Nường = Âm/Dương (ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Chữ ký âm xưa là chữ Nòng/Nọc = Dương/Âm. Dùng cấu trúc theo vũ trụ là Dương/Âm, ghép ngược cấu trúc theo mặt đất là Âm/Dương, ghép theo cấu trúc vũ trụ vì chữ là do Trời cho (Hán sử gọi là Thiên Thư). Tùy tiện giải thích ngôn từ Việt thành “từ Hán Việt” có người cho rằng là để cho nó “sang”. Lại không thấy người Kinh thì mới là “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Và cái “Sáng Âm”= Sấm ( trí tuệ tiên tri, tiềm năng con người) của người Kinh mới là đem lại được bình an cho Đất Trời = Tất Cả (Cả=Còn=Tròn=Trời=Ngời=Người). Cái Ngời Ta = Sáng Tất Cả. Nâng cao dân trí mới là cái quan trọng nhất chứ không phải là đua nhau khoe cái Mảnh Bằng. Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng, Giáo sư Cao Xuân Hạo trong cuốn sách “Tiếng Việt - Văn Việt - Người Việt” của ông có nêu: Cốt lõi của cú pháp tiếng Việt là Đề và Thuyết. Phân tích bốn từ Tiếng - Văn - Người - Việt: (1).Tiếng = Miệng = Miếng = Mẩu= Khẩu 口 = Mầu 妙 = Trầu = Giầu = Diệu 妙, nôi khái niệm này gói trọn cái nội dung “ăn nói” (Tục ngữ “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, có lẽ đã có cách nay 5000 năm, khi người Việt có tục ăn trầu và nhuộm răng đen. Tứ đối Mun/Minh, Mun = Hun = Hôn 昏 = Hoen Hoẻn = Hắc 黑, em hôn anh một cái là em đã hoen một vết son lên má anh, son Hàn Quốc bây giờ còn có màu thâm, Đen = Hoen = “Hoen Tuyền”= Huyền 玄, “Răng đen nhưng nhức hạt huyền”). Cốt chuyện thì rất Mầu vì là chuyện cổ tích (như “Thị Mầu lên chùa”), và lời kể thì rất duyên, Chuyện = Duyên 緣 = Diệu 妙 = Điệu 窕, đó là cách biểu diễn văn học. (2,3,4).Vuông=Văn=Nhắn=Nhiệt=Nguyệt=Ngời=Người. Người Việt làm Ruộng (Vuông) , ở xứ nóng (Nhiệt), là cái Sáng (Ngời) do Trời cho (Trời=Ngời). Sáng = Choang = Quang = Láng = Lượng = Linh = Minh = Một Mình = Một Manh = Mảnh = Vành Vạnh = =Vuông = Văn = Nhắn = =Nhân = Dân = Cân = Canh = Kinh: Người Việt bắt đầu từ người Kinh. Ký ức của Nhân Dân từ vạn năm trước là cái Sáng = Sống =Sinh Động như cái Nhân của hột giống luôn Canh cánh trong lòng Nhắn (Nhắn=Gắn=Gen) lại cho các thế hệ sau tìm và chắp lại cho đủ cái Minh của người Kinh. Tư duy con người đã từ Phân Tích (thời chữ ký âm Nòng Nọc) đi đến Tổng Hợp (thời chữ Vuông biểu ý: Chứa = Chữ = Trữ 貯 = =Tự 字 = Tự 嗣, trong đó Chứa=Chữ=Tự 字 là nối dòng văn hóa, Chứa=Chửa=Tựa=Tự 嗣 là nối dòng huyết thống, cái Gen chính là điểm Tựa để di truyền nòi giống (có cùng Gien thì mới Giống như Tựa hay giống như Tạc, tiếng Nhật “O-Na-Di Đếx Né!” nghĩa là “Nó-Na Ná-Giống Đấy Nhé!”). Phân Tích đến Tổng Hợp là hết một vòng. Lại tiếp đến vòng mới bắt đầu bằng Phân Tích (chữ quốc ngữ bằng mẫu tự Latin, lịch sử lặp lại ở đỉnh cao hơn). Như ngày nay con cháu người Kinh (người Sáng), người Choang, người Thái, người Tày, người Mường, người Mông v.v. và v.v, đều là hậu duệ của Bách Việt, đang Phân Tích các ứng dụng của Âm Dương Ngũ Hành đến Kinh Dịch rồi Tổng Hợp để “Thấu Lấy”= Thấy được cái Minh của Tổ Tiên mình.
    1 like
  5. 1 like
  6. Tài liệu còn chương 4 (Các ví dụ) và Phụ lục, vì phải soạn thảo trên excel mà chúng tôi không biết làm cách nào để hiển thị vào đây được ! Xin độc giả vui lòng bấm vào dòng chữ dưới để xem tiếp. Bấm vào đây để xem tiếp Chương 4 và Phụ lục
    1 like
  7. Nghi lạm dụng trẻ em, Philippines bắt nhà ngoại giao Ý Thứ Hai, 07/04/2014 19:54 (NLĐO) – Cảnh sát Philippines hôm 7-4 cho biết đã bắt giữ một nhà ngoại giao Ý về tội buôn người và lạm dụng trẻ em sau khi nhìn thấy ông này đang ở cùng với 3 thiếu niên trong một khu nghỉ mát. Sĩ quan cảnh sát Romulo Sapitula cho biết người đàn ông bị bắt giữ là đại sứ Ý tại Turkmenistan, tên Daniele Bosio. Các thành viên của nhóm quyền trẻ em Bahay Tuluyan khi đang đi du lịch ở khu nghỉ mát ở tỉnh Laguna, phía nam thủ đô Manila thì bắt gặp ông đang ở cùng 3 bé trai nên tỏ ý nghi ngờ và thông báo cho cơ quan chức năng. Catherine Scerri, thành viên nhóm Bahay Tuluyan, cho hay cô đang cùng các đồng nghiệp nhìn thấy một người đàn ông ngoại quốc với 3 đứa trẻ tuổi từ 9-12 rõ ràng không có mối quan hệ gì với nhau. Cảnh sát Philippines thông báo về trường hợp bắt giữ nhà ngoại giao Ý về tội lạm dụng trẻ em. Ảnh: AP Theo một thông cáo báo chí từ nhà chức trách, đại sứ Ý ở Philippines, ông Massimo Roscigno, đã tới đồn cảnh sát Binan ở tỉnh Laguna để hỗ trợ pháp lý cho ông Daniele Bosio. Khai với cảnh sát, ông Daniele Bosio cho biết 3 đứa trẻ ông ta gặp ở Manila và đưa tới khu nghỉ mát, đồng thời cho biết chúng đã thông báo với cha mẹ về chuyến đi. Trong khi đó, 3 đứa trẻ khai với cảnh sát chúng được nhà ngoại giao “tắm và cọ rửa trong tình trạng khỏa thân rồi được cho tiền bạc và thực phẩm”. Luật pháp Philippines quy định tội buôn bán trẻ em có thể chịu án phạt tù chung thân và phạt tiền ít nhất 44.500 USD, tội lạm dụng trẻ em bị phạt tù đến 40 năm. P. Nghĩa (Theo AP) ========================= Nước Ý Đại lợi không coi hành vi lạm dụng tình dục trẻ em của nhà ngoại giao đại diện cho nước Ý ở Phi Luật Tân là làm nhục quốc thể. Bởi vì luật pháp nước Ý sẽ không dung túng cho hành vi này. Hay nói rõ hơn: Hình thái ý thức của nước Ý chống lại hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Chính vì vậy, hành vi của ông đại diện ngoại giao Ý trở thành hành vi cá nhân. Vì nó không đại diện cho hình thái ý thức xã hội của nước Ý. Hành vi này chỉ bị coi là đại diện cho quốc thể của nước Ý, nếu nước Ý dưới hình thức này, hay hình thức khác tìm cách bao che cho ông ta, Hoặc trực tiếp, hay gián tiếp thừa nhận hành vi của ông ta là tiêu biểu cho nước Ý. Tương tự như vậy, hành vi của cô Thị Mẹt nào đó bị Nhật Bản bắt truy tố về tội ăn cắp, ít nhất không đại diện cho tôi. Còn ai nhận thấy là ảnh hưởng đến thể diện quốc gia thì đó là chuyện của họ.
    1 like
  8. Chị nghĩ em sinh giờ Tỵ. Vợ chồng cưới xin dễ dàng. Trên mặt có sẹo, tì vết hay nốt ruồi gần vạnh mắt hay miệng, KN không đều, hay bị đứt tay chảy máu. Là người cũng thích đọc sách.
    1 like
  9. Bức xúc vì chồng bất lực, vợ dùng… đồ giả 06/04/2014 13:01 GMT+7 Cách đây 6 năm, tôi và Hiên cưới nhau từ một tình yêu đẹp. Khi ấy, cả hai người đều không còn trẻ. Vậy mà khi gặp nhau, chúng tôi như bị cú sét ái tình. Chỉ sau thời gian ngắn, đám cưới được tổ chức. Chúng tôi ấn định sẽ kéo dài tuần trăng mật và chọn Sa Pa là điểm đến, bởi cảnh sắc thiên nhiên và khí hậu nơi đây tuyệt diệu. Cứ tưởng đó là những ngày thiên đường nhưng không ngờ tôi đã “lực bất tòng tâm”. 3 đêm đầu, tôi hoàn toàn bất lực. Cứ hì hục suốt đêm đến vã mồ hôi (giữa căn phòng mát lạnh, phải đắp chăn) mà tôi vẫn không sao hoàn thành được sứ mạng. Tôi bèn bấm điện thoại hỏi một trung tâm tư vấn. Người ta nói trường hợp của tôi bình thường, chỉ là do yếu tố tâm lý. Họ khuyên hãy bình tĩnh, tự tin, chớ bị ám ảnh bởi việc “không thành” và cần sự hỗ trợ, gíúp sức của vợ, sẽ thành công. Hiên cũng động viên tôi là không có gì đáng ngại. Cô còn nói rằng mấy người bạn thân kể chuyện đêm tân hôn cũng bị trục trặc, phải tới dăm bảy lần sau mới… thành công. Khi đầu xuôi thì đuôi sẽ lọt. Tôi có phần yên tâm. Thế rồi đến đêm thứ 4, “việc lớn” đã có kết quả... Nhưng cũng chỉ được chừng 1 phút, “binh lính” đã hỗn loạn ùa ra tung tóe, mặc dù tôi cố sức ghìm chúng lại. Đó là một thứ nước loãng toẹt, hơi trắng, giống như nước gạo. Và ngay lập tức, báu vật của tôi bẹp dí như lốp xe đạp bị xì hơi, dặt dẹo, rũ ra như một tên nghiện đang ngủ gật. Những ngày “trăng mật” sống ở Sa Pa sau đó, tôi đều “thành công” nhưng chỉ nửa vời, hời hợt như thế. Tôi hết sức bối rối và lo lắng. Nhưng vợ tôi thì luôn động viên và nói hãy bình tâm. Tôi thấy Hiên không buồn phiền, không tỏ ra thất vọng. Cô chăm sóc tôi ân cần hơn. Mỗi lần vào cuộc, cô tận tụy thực hiện mọi thao tác mà chính tôi cũng thấy…. “ngượng” với hy vọng tôi sẽ có được hứng thú cao nhất để vượt qua… “ vũ môn”. Tôi càng băn khoăn không hiểu có phải vì tế nhị, thương tôi mà cô cố thể hiện như vậy? Ảnh minh họa Nửa tháng ở Sa Pa qua đi, về Hà Nội, việc đầu tiên là tôi tìm đến một trung tâm tư vấn, trực tiếp hỏi kỹ. Người ta nói rằng mới có nửa tháng, chưa có gì đáng lo ngại và dặn tôi thực hiện một số việc và cần tự tin, không được có mặc cảm thất bại mỗi khi “xung trận”. Thực hiện đúng lời tư vấn, sau đó, “sinh hoạt” của chúng tôi diễn ra lần nào cũng “trót lọt”. Tôi chỉ không hài lòng về việc không kéo dài được lâu, thường chỉ 1-2 phút. Được những người bạn thân đi trước có kinh nghiệm mách nước, tôi đã biết “bổ sung” sự yếu kém cuả mình bằng những hỗ trợ khác. Hy vọng vợ tôi đạt được “yêu cầu”. Nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng: Tôi thì rất nhanh chóng lên được đỉnh, còn Hiên thì hình như vẫn cứ chơi vơi ở lưng chừng, có khi mới chỉ mon men dưới chân dốc. Tuy nhiên, Hiên là một cô gái trí thức, đôn hậu và tế nhị, luôn thể hiện sự âu yếm dành cho tôi nên tôi không thể biết sự thực, vợ tôi cảm thấy thế nào, có hạnh phúc không. Chỉ biết rằng trong những lần như thế, cô cũng run rẩy và sau đó không có biểu hiện gì khiến tôi phải lo lắng. Tôi tạm thời yên tâm. Một năm trôi qua, kể từ ngày cưới, Hiên vẫn không có thai, mặc dù chúng tôi gần như đêm nào cũng “sinh hoạt”. Chúng tôi quyết định đến bệnh viện khám. Kết quả là tôi vô sinh. Nhưng bác sỹ vẫn dặn là chưa vội thất vọng, hãy nhẫn nại, chịu khó chữa chạy, có thể thành công. Hiên buồn nhưng thương tôi nên đã an ủi, động viên và thể hiện quyết tâm kiên trì tìm thầy, tìm thuốc. Thời gian trôi đi, mặc dù đã vào Bệnh viện Từ Dũ ở TP.HCM chữa, vẫn không có kết quả. Tôi chủ động nói chuyện chia tay rất nghiêm túc với Hiên để cô không bị thiệt thòi. Nhưng Hiên đã gạt đi và khóc. Cô nói sẽ quyết tâm còn nước còn tát. Cuối cùng, nếu không chữa được, sẽ kiếm con nuôi. Tôi rất cảm động trước biểu hiện của Hiên, không nhắc lại chuyện chia tay vì cảm thấy có phần phũ phàng và xúc phạm đến vợ. Cô chăm sóc tôi ân cần, chu đáo hơn cả trước. Chuyện của chúng tôi đến đây tưởng chẳng có gì đáng kể nữa. Nhưng… một lần, lúc Hiên đi làm vắng, do tìm một tài liệu cần thiết bị thất lạc nên buộc phải lục, kiếm ở mọi chỗ trong nhà, tình cờ tôi nhìn thấy một vật giấu dưới đáy ngăn kéo tủ, nơi chỉ để quần áo, đồ dùng riêng của Hiên. Tôi vô cùng sửng sốt trước một vật lạ mà trong đời chưa bao giờ nhìn thấy. Nhưng tôi biết ngay nó dùng để làm gì. Đó là đồ… giả, làm bằng cao su đúc, màu hồng hồng, đen đen, cả kích cỡ lẫn màu sắc, độ rắn đều giống hệt “của quý” của đàn ông lúc cương cứng. Vật này chỉ có thể được sản xuất ở nước ngoài, chắc là để phục vụ những phụ nữ không chồng. Từ phút ấy, tôi cứ bị ám ảnh mãi về cái đồ vật làm bằng cao su kia. Vợ tôi có nó để làm gì? Có từ bao giờ? Cô kiếm được ở đâu? Tự cô đi tìm mua hay được ai tặng?... Rất nhiều câu hỏi xung quanh cái “vật thể lạ” này cứ quay cuồng trong đầu tôi. Và tôi đã nghĩ ra ngay: Vậy là cô đã dùng nó để tự thỏa mãn, bởi tôi không làm được điều đó cho cô. Cảm giác cay đắng, tủi hổ xen lẫn tự ái, bực tức trào lên trong tôi. Tôi cất vật đó vào chỗ cũ, coi như không có chuyện gì xảy ra để Hiên không thể biết chồng mình đã nhìn thấy. Sau lần đó, tôi lại trỗi dậy ý nghĩ ly hôn bởi thấy mình hoàn toàn vô dụng, không làm nổi vai trò người chồng khiến vợ phải tìm cách thay thế bằng vật “nhân tạo”. Thưa các anh chị. Tôi đang vô cùng bức xúc, không biết nên xử sự thế nào? Tôi có nên ly hôn không? Khi đặt lại vấn đề này, hẳn là vợ tôi phải hỏi lý do (vì tôi đã dập tắt ý định này). Tôi biết nói với vợ tôi ra sao? Có thể nói thẳng chuyện liên quan đến cái vật kỳ dị kia không? (Theo ANTĐ) ====================Chuyện nhỏ như con thỏ. Nếu ở Hanoi thì ra Lãn Ông; nếu ở Sài Gòn thì ra phố Trang Tử, hoặc quanh quẩn đâu đó, mua chừng 2 đến 300. 000 đ Dâm Dương hoắc, ngâm ngập rượu trong 21 ngày. Sau đó mỗi ngày uống một ly (Cốc) uống trà. Uống vừa vừa thôi, không đi tù đấy. Thấy khỏe rồi thì ngưng lại. Đây là vị thuốc nổi tiếng đã được mô tả trong truyện Kim Bình Mai mà cả Tây Môn Khánh và Phan Kim Liên- vợ Võ Đại Lang dùng - khi vào .....khách sạn. Kỹ nữa thì mần thêm cái Phoengshui. Chắc ăn.
    1 like
  10. Đại gia Trầm Bê bỏ 600.000 USD xây ngôi chùa thứ 9 04/04/2014 09:34 GMT+7 Ông Trầm Bê đã cho khởi công xây dựng một ngôi chùa tại tỉnh Prắc- Huy-Hia, Campuchia, trị giá 600.000 USD. Đây là ngôi chùa thứ 9 mà vị đại gia này bỏ tiền ra xây dựng, cúng dường... Trầm Bê, ván cờ 3 năm ‘luộc’ xong Sacombank Chánh Tín sắp mất nhà: Chỉ cần ông Trầm Bê lên tiếng? Ván bài ngửa và thế trận khó lường của Trầm Bê Xem bài khác trên Vef.vn Kỹ sư xây dựng Thạch Cao Minh, người đảm nhận trọng trách thiết kế kiểu dáng và xây dựng 9 ngôi chùa cho ông Trầm Bê nói: “Ước nguyện của ông Trầm Bê là sẽ xây dựng 9 ngôi chùa cho dân nghèo thờ cúng Đức Phật. Và ông đã toại nguyện về điều đó khi tiến hành khởi công xây dựng ngôi chùa thứ 9 tại tỉnh Prắc-Huy-Hia, Campuchia. Số tiền ông Trầm Bê phải bỏ ra để xây dựng ngôi chùa khổng lồ, có khuôn viên rộng gần 2000 m2 này trị giá 600.000 USD”. Vị kỹ sư gốc Khơ-me, quê ở Trà Vinh này cho biết: “Tôi gặp ông Trầm Bê vào năm 2005. Lúc đó, ông Trầm Bê đã cho người tìm tôi, khi biết tôi là người đã từng vẽ kiểu, xây dựng hầu hết 141 ngôi chùa Khơ-me ở Trà Vinh. Ông Trầm Bê đã bày tỏ ý muốn phát tâm xây dựng chùa chiền. Từ đó đến nay, tôi đã thực hiện xây dựng 9 ngôi chùa theo ý muốn tốt đẹp của vị đại gia này”. Kỹ sư Thạch Cao Minh - người xây 9 ngôi chùa cho đại gia Trầm Bê phát tâm cúng dường Theo ông Thạch Cao Minh tiết lộ chi tiết, số tiền mà đại gia Trầm Bê đã bỏ ra để xây dựng 9 ngôi chùa có con số hơn trăm tỷ. Cụ thể như sau: Chùa Vàm Ray (50 tỷ), chùa Cà Hom (10 tỷ), chùa Ba Sát (6 tỷ), chùa Bến Có (4 tỷ), chùa Mới (7 tỷ), chùa Phnô Đôn (còn gọi là chùa Cò - 7,5 tỷ), chùa Tà Điêu (6 tỷ)... 7 ngôi chùa vừa kể đều tọa lạc tại tỉnh Trà Vinh, quê hương của đại gia Trầm Bê. Ngoài ra, vị đại gia này còn bỏ ra 6 tỷ để xây một ngôi chùa ở Vũng Liêm, Vĩnh Long. Chùa Vàm Ray tọa lạc tại xã Hàm Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, một trong 9 ngôi chùa mà ông Trầm Bê đã phát tâm cúng dường. Và ngôi chùa mới nhất, cũng là ngôi chùa thứ 9 mà vị đại gia này đã cho khởi công xây dựng vào mồng 9 tết năm nay, có giá trị 600.000 USD (hơn 12 tỷ đồng) là chùa Prắc-Huy-Hia, tọa lạc tại tỉnh Prắc-Huy-Hia, Campuchia. Theo một người dân gần gũi chia sẻ: “Trầm Bê là người gốc Hoa, từ nhỏ đến lớn sống giữa cộng đồng Khơ-me nên luôn hướng về nguồn gốc của mình”. Chính vì vậy, vị đại gia đã bỏ ra số tiền hàng trăm tỷ để xây dựng chùa chiền, làm nơi thờ cúng Phật cho bà con Khơ-me nghèo, xây hẳn ngôi chùa lớn có giá trị 600.000 USD bên đất bạn Campuchia. Còn nhớ, vào năm ngoái, khi 7 ngôi chùa đã xây dựng xong và ngôi chùa thứ 8 (ở Vũng Liêm, Vĩnh Long) đang xây dựng dang dở, rộ lên thông tin, rằng ông Trầm Bê cho treo hình mình và các thành viên gia đình... giữa chánh điện. Vị đại gia này im lặng, không lên tiếng thanh minh. Và do buồn chán, ông đã ngừng các hoạt động từ thiện, trong đó có việc xây dựng tiếp hai ngôi chùa còn lại. Việc ông cho xây dựng hai ngôi chùa thứ 8, thứ 9 sau những “sóng gió”, là một tin vui cho bà con Phật tử, đặc biệt là Phật tử Khơ-me. Chùa Cà Hom- ngôi chùa mà đại gia Trầm Bê đã bỏ tiền ra xây dựng. Nhân dịp trò chuyện với phóng viên, kỹ sư Thạch Cao Minh khẳng định: “Là người cầm trịch việc xây dựng 9 ngôi chùa, tôi dám lấy uy tín ra xác nhận, không có tấm ảnh nào của ông Trầm Bê hay các thành viên của gia đình ổng được treo ở chánh điện. Chùa Khơ-me khác chùa Việt, ở chánh điện chùa hoàn toàn không có hình ảnh hay thần thánh nào khác, ngoài tượng Đức Phật Thích Ca. Bảng ghi công đức của ông Trầm Bê đặt ở bên ngoài chánh điện là do bà con Phật tử và Ban quản trị chùa yêu cầu tôi đặt, thể hiện sự biết ơn của họ dành cho ông Trầm Bê”. “Còn việc ai nói ông Trầm Bê bỏ tiền xây dựng chùa chiền, phá nát di tích, thì nên nhớ rằng: Một di tích muốn sửa chữa, đầu tiên phải làm một tờ trình lên Ủy Ban Nhân Dân tỉnh, sau đó trình lên Ban Tôn Giáo Tỉnh. Đợi cho đến khi Ban Tôn Giáo Chính Phủ đồng ý, di tích đó mới được xây dựng. Những ngôi chùa mà ông Trầm Bê phát tâm cúng dường đều đã mục nát, sửa chữa chắp vá nhiều lần, không thể nào nâng cấp được nữa, đành phải xây mới thôi” – Ông Thạch Cao Minh nói. “Ông Trầm Bê là người gây dấu ấn rất sâu đậm tại Trà Vinh, đặc biệt là tại xã Hàm Giang, Trà Cú. Ông đã bỏ rất nhiều tiền xây hàng ngàn căn nhà cho dân nghèo, hàng trăm trường học, chợ, cũng như xây dựng hàng trăm con đường đất lầy lội thành đường nhựa khang trang... Mỗi năm, vào dịp tết, lễ, ông Bê về Trà Vinh phát hàng ngàn tấn gạo cho dân nghèo. Đặc biệt, ông đã giúp hàng ngàn con em nghèo quê ở Trà Vinh có công ăn, việc làm tại hai ngân hàng Phương Nam và Sacombank mà ổng làm chủ” – Kỹ sư Thạch Cao Minh cho biết. (Theo Công lý) ====================== Ít nhất thì ông Trầm Bê cũng đem tiền của ông phục vụ cộng đồng và không mua siêu giường để ngủ cho nó sướng cái thân già. Ngay cả trường hợp người ta có tiền mua siêu giường ngủ cho sướng và đem khoe, cũng chẳng có gì đáng phê phán. Tiền của người ta, người ta có quyền sử dụng theo mục đích của họ. Miễn không trộm cắp của ai thì thôi. Bởi vậy, nếu như ông Trầm Bê có ghi trên bia đá đặt trước cổng chùa công đức của ông ta thì điều đó cũng không có gì để phải phê phán ông ta cả. Huống chi ông ta cũng chưa làm chuyện này.
    1 like
  11. Bởi vậy, "nước" không phải đơn giản là do hai nguyên tử Hydro kết hợp với một nguyên tử Oxy thành ra nước. Tất nhiên nó cũng không hoàn toàn đơn giản là chỉ cần sự tồn tại của H & O là nước có thể tồn tại trên Mặt trăng và cả vệ tinh sao Thổ, như các nhà khoa học Nasa và ở một số nước khác quan niệm. Cũng như hiện nay, Nasa đang tưởng tượng ra "nước" đã tồn tại từ hàng tỷ năm trước trên sao Hỏa. Tôi luôn xác định: Không thể có "nước" theo dạng tồn tại giống như "nước" trên trái Đất ở bất cứ nơi đâu trong vũ trụ ngoài trái Đất. Anh chị em có thể tham khảo thêm trong topic: "Lý học và khoa học", hay các topic liên quan trong "Trao đổi học thuật". Tôi xác định rằng (Không chứng minh, không tranh luận mà anh chị em tự suy ngẫm, nếu quan tâm): Bản chất của thời gian là không có thật. Nó là sự quy ước của con người trong tương quan tỷ lệ vận động giữa các phần tử vật chất nhận thức được - từ sự vận động của các Thiên hà đến sự tồn tại của các dạng vật chất nhỏ nhất. Bản chất của thời gian tùy thuộc vào tương quan vận tốc giữa các trạng thái tồn tại. Tổ tiên ta mô tả là "các cõi" khác nhau. Nói theo ngôn ngữ hiện đại là nó tùy thuộc vào "hệ quy chiếu" trong mối tương quan vận tốc giữa các dạng tồn tại.Tạm thời do những trí thức của nền khoa học hiện đại chưa đạt được nhận thức thực tế để có thể ví dụ thực tế, tôi đành phải lấy thần thoại, chuyện cổ tích của Việt Nam làm ví dụ: Ở "cõi tiên", với tương quan vận động giữa các phần tử nhận thức được có tốc độ rất nhanh. Cho nên khái niệm thời gian ở "cõi tiên", khác hẳn ở "hạ giới". Do đó, một ngày trên "Thiên Thai" bằng một năm ở "cõi trần gian". Khái niệm vận tốc gắn liền với thời gian thì hiện nay tri thức khoa học hiện đại mới mô tả một cách chập chững trong thuyết Tương đối. Trong Thuyết này , ngài Einstein đã chứng minh rằng: nếu tốc độ bằng tốc độ ánh sáng thì thời gian sẽ thay đổi. Nhưng hạn chế của thuyết này là giới hạn tốc độ vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng. Tuy nhiên giới hạn lớn nhất cản trở sự nghiên cứu về mối quan hệ Không/ Thời gian, chính là tính chấp vào thời gian là một đại lượng có thật. Thực chất, thời gian là khái niệm quy ước của con người mà tôi đã nói ở trên. Sinh vật nói chung gồm cả thực vật và động vật, đều là sản phẩm duy nhất của trái Đất. Đó là nguyên nhân để tôi luôn xác định rằng: "Không có sự sống ngoài trái Đất". Tất nhiên, sao Hỏa là một phần tử bền ngoài trái Đất thì phải nằm trong quy luật chung là "không có sự sống trên sao Hỏa". Thực tế được kiểm chứng qua con tàu Tò Mò của Nasa đã chứng minh tôi đúng. Sự tồn tại của những sinh vật trên trái Đất là kết quả của cả một qúa trình tiến hóa tương tác cực kỳ phức tạp trong lịch sử phát triển của vũ trụ liên quan đến Địa cầu. Do đó, thực vật cũng là một hiện tượng tiến hóa của vũ trụ, cho nên cấu trúc của chúng tất nhiên phải có mối liên hệ tương tác để nhận biết mối liên hệ đồng loại. Trong Lý học Đông phương - nhân danh nền văn hiến Việt - còn phát triển mang tính lý thuyết cao cấp hơn nhiều - Đó là: Không chỉ ở thực vật, mà tất cả mọi trạng thái tồn tại tương ứng đều có mối liên hệ tương tác đồng loại. Lý học không chỉ dứng lại ở lý thuyết mà đã ứng dụng trên thực tế - ít nhất trong ngành Phong thủy để trấn yểm. Anh chị em lưu ý rằng: Chỉ có hệ thuật toán Nhị phân mới có thể xác định một cách nhanh chóng bất cứ con số nào đằng sau dấu phẩy của số Pi. Hệ thuật toán Nhị Phân đó chính là ký hiệu trong Bát quái. Đây lại là một giới hạn của tính "chấp" trong tư duy khoa học hiện đại, do nhầm lẫn giữa thực tại và khái niệm qui ước. Điều này tương tự như tính chấp của tư duy khoa học vào khái niệm "thời gian" - thực chất vốn là khái niệm quy ước từ mối tương quan sự vận động nhận thức đươc của con người, mà tôi đã trình bày ở trên. Ba chiều không gian là khái niệm quy ước từ một thực tại nhiều chiều của không gian thực. Anh chị em bắt đầu suy nghiệm từ khái niệm "điểm" trong toán học. Đây là một khái niệm quy ước hoàn toàn do chủ quan của con người và là yếu tố cấu thành nên toàn bộ nền tảng tri thức của khoa học hiện đại. Nhưng trong khái niệm "Điểm" không mang tính định lượng trên thực tế. Do đó, mô hình mô tả không gian 3 chiều với các đường mô tả không gian ba chiều này hoàn toàn mang tính quy ước của chính con người dùng làm hệ quy chiếu để quán xét không gian vũ trụ. Sự nhầm lẫn giữa khái niệm quy ước và thực tại đã dẫn tới một vấn đề ngớ ngẩn được đặt ra: Có không gian nhiều chiều trên thực tế so với không gian ba chiều. Nên tặng cho cách đặt vấn đề này giải Ig Nobel. Trong nghiên cứu Lý học - sau khi văn minh Việt sụp đổ từ thế kỷ thứ III BC - một trong những yếu tố cục bộ, khiến cho sự nghiên cứu bị bế tắc chính là do nhầm lẫn khái niệm. Anh chị em hãy suy ngẫm vấn đề của tri thức khoa học hiện đại, mà giáo sư Chu Hảo trình bày trong Đại hội tổng kết 10 năm hoạt động của Tổng Cty DTT: Khái niệm "Tri thức đột phá" có nội hàm tương tự như tính "phá chấp" trong ngôn ngữ Phật Giáo. Nhưng khái niệm "Phá chấp" trong ngôn ngữ Phật giáo bao trùm hơn
    1 like
  12. Tại sao ấn vào lá số của cháu nó không hiện ra ?
    1 like
  13. - Lá số này thân vượng và là cách chuyên vượng nên dụng thần chính là thân. Những đại vận, lưu niên sinh thân hoặc cùng hành với thân thì tốt và ngược lại. - Lá số này cha ông có thời quý hiển nhưng bản thân không được nhờ. - Có tài lãnh đạo, có năng lực nhưng tính nóng. - Gương mặt dễ nhìn nhưng không vui, thích chỗ yên tĩnh, thích nghiên cứu các vấn đề thần bí. - Không thích hợp kinh doanh nên làm công tác nghiên cứu.
    1 like
  14. Sao lại phải ghi danh? Tôi đã đưa Bài 1 và Bàì 2 lên đây rồi còn gì nữa, có gì không hiểu (thắc mắc) thì cứ hỏi tại chủ đề này, có vậy thôi. Tôi định mỗi tuần đưa lên đây một bài, không biết thời gian như vậy có hợp lý không ? Hy vọng mọi người sẽ cho biết ý kiến. Thân chào.
    1 like