-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 31/03/2014 in Bài viết
-
Quyền lực Mỹ đến hồi suy vong sau 1/4 thế kỉ thống trị? Tại sao Mỹ có phản ứng quyết liệt trước việc sáp nhập có tính điều kiện lịch sử của Crimea vào Nga? Nó cho thấy một điều, gần 1/4 thế kỉ thống trị nền chính trị quốc tế của Washington đã chấm dứt. Thế giới ngày một tự do hơn. Đó là phần 2 nội dung bài phỏng vấn của Tổng Biên tập tờ Pravda (Sự thật) Inna Novikova đối với nhà ngoại giao Alexander Panov, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao LB Nga. Hỏi: Ông có đồng ý với quan điểm rằng lịch sử được tạo hình bởi chính sách của các đế chế? Trả lời: Có thể đúng, nhưng hiện giờ chỉ duy nhất một đế chế đang tồn tại – đế chế Mỹ, đó là một đế chế đặc biệt - đế chế mềm. Hỏi: Đặc biệt là liên quan đến tình hình Syria, Libya, Iraq – những nước mà người dân thực sự thấu hiểu sự “mềm “này? Quyền lực Mỹ đang bị đặt nhiều câu hỏi lớn. Ảnh: Financetwitter.com Trả lời: Tôi không có ý nói đến những biểu hiện hiếu chiến, mà là những nguyên tắc tổ chức và thực tiễn điều hành. Thế giới này được điều khiển bởi NATO, bởi công cụ kinh tế, tài chính. Ở phía Đông, Nhật Bản là một đồng minh, còn Hàn Quốc là một hệ thống của đế chế. Nhưng đó là một đế chế có sự điều hành khác biệt. Hãy nói về khái niệm đế chế mà người ta từng gắn cho Liên Xô. Ví dụ như, quá trình chinh phục Trung Á diễn ra vào giữa thế kỉ 19. Thu phục đất đai chỉ là tầm nhìn ngắn hạn. Đối với Nga, sau này là Liên Xô, người ta thường cho là: Nếu có lãnh thổ, thì buộc phải nuôi sống và phát triển nó. Đó là sự đặc biệt của đế chế cũ. Hỏi: Tại sao Anh lại không nuôi dưỡng bất kì nước nào, mà chỉ đi khai thác? Trả lời: Đế chế đó đã sụp đổ. Hỏi: Vậy Liên bang Xô Viết có nuôi sống các vùng lãnh thổ của mình? Trả lời: Tốt nhất là không nên làm điều đó, bởi những minh chứng thực tiễn cho thấy là đế chế nào thì cũng đến lúc suy tàn. Ngay cả các đế chế Byzantine và La Mã cũng sụp đổ thôi, những đế chế xưa cũ. Dù có vẻ như họ rất thịnh vượng và dùng đến tất cả những kẻ man rợ nhất. Hỏi: Do nó phát triển quá lớn và đánh mất đi không chỉ giá trị đạo đức, mà cả khả năng quản lý? Trả lời: Chính cô đã đưa ra câu trả lời rồi đó. Đế chế mấy khi tồn tại được lâu. Nga từng mở rộng trong suốt nhiều thế kỉ, nhưng rồi cũng quá sức. Hỏi: Alexander, ông nói là chỉ còn sót lại duy nhất một đế chế, có thể gọi đó là siêu cường. Thế giới đơn cực rất bất ổn và nguy hiểu, như đã thể hiện qua nhiều biến cố trong vài thập kỉ gần đây? Trả lời: Về nguyên tắc, Mỹ không phải là siêu cường có thể làm bất cứ thứ gì mình muốn. Mỹ đang đánh mất ảnh hưởng và các cơ hội trong các vấn đề chính trị thực thụ. Ngày nay, Mỹ ưa thích hành động qua bàn tay người khác - đó là NATO, EU. Đây là dấu hiệu đầu tiên của việc quá tải, chúng ta không nói về sự thống trị trong quá khứ. Đặc biệt, lúc nào cũng phải để ý đến Trung Quốc. Tôi không có ý nói rằng Mỹ đang làm bất kể điều gì mà họ cho là phù hợp. Dĩ nhiên, một tổng thống khác có thể khai mào việc khôi phục lại nền tảng thông qua việc áp dụng các chính sách hiếu chiến. Hỏi: Mỹ hiện hỗ trợ tài chính chiến lược cho tiến trình mà họ gọi là dân chủ ở Nga, Trung Quốc và nhiều vùng biên giới có vấn đề khác, chi rất nhiều tiều. Liệu Mỹ có quá sức không? Trả lời: Cô cũng biết đấy, tiền không phải quan trọng, nhưng ảnh hưởng của nó thì rõ. Các cuộc cách mạng Arập đã được tạo lập dưới thời ông Bush trong những năm 1990, khi Mỹ lên tiếng về dân chủ hóa Trung Đông. Cá nhân tôi tin rằng vụ khủng bố nhằm vào nước Mỹ năm 2001 là sự phản ứng của thế giới Hồi giáo, với thông điệp: “Đừng có chơi trò nhúng mũi dân chủ; dĩ nhiên, chúng tôi không thể thắng, nhưng chúng tôi có thể gây hủy hoại các ông”. Tại sao các quốc vương Arập, Saudi Arabia cần thứ dân chủ này? Mỹ nghĩ là mình đã phá hủy Liên Xô và phải tiếp tục reo mầm dân chủ toàn cầu. Hỏi: Thông qua các cuộc cách mạng sắc màu? Trả lời: Đúng, thông qua các cuộc cách mạng sắc màu không sản sinh dân chủ. Mỹ rơi vào cãi bẫy khi không loại bỏ Mubarak sớm hơn, bởi lẽ sau khi ông này ra đi thì lại xuất hiện những người theo đường lối chính thống. Mỹ đã làm được gì trong cái mà họ gọi là lấp các lỗ hổng dân chủ? Mỹ hơn ai hết nhận rõ điều này, vì hành động của Mỹ được mọi người nhìn nhận rõ nét hơn. Đó là lời giải thích tại sao cộng đồng quốc tế có phản ứng mạnh mẽ hơn còn Mỹ thì đang đánh mất danh tiếng ở một cấp độ thảm họa. Đó là tất cả những dấu hiệu cho thấy quyền lực Mỹ đang dần đi tới hồi kết. Theo HT Baotintuc.vn/Pravda.ru ======================== Hoa Kỳ có thể không phải là bá chủ thế giới. Cái này cũng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố tương tác. Bài báo trên coi như là một giả thuyết. Nhưng có điều chắc chắn rằng: Thế giới này đang trong tiến trính toàn cầu hóa. Nó phải có một quyền lực thống trị. Hoặc là một quốc gia bá chủ hoặc là một tổ chức quốc tế. Đấy là một yếu tố cần trong tương lai. Yếu tố thứ hai chính là một lý thuyết thống nhất.1 like
-
Người đàn ông Mông từ Mèo Vạc "băng qua" Himalaya, lạc sang... Pakistan Chuyện hy hữu xảy ra khi một người đàn ông Mông ở Mèo Vạc đi lạc gần 6.000km đến Pakistan. Hiện anh bị tạm giữ ở đồn cảnh sát thị trấn Athmuqam vùng Neelum từ tháng 10.2013 đến nay vì không thể xác minh được nhân thân. Vừ Già Pó, một người đàn ông Mông ở Mèo Vạc (Hà Giang) bị cho là mất tích cách đây 2 năm, không hiểu bằng cách nào lưu lạc hơn 5.800 km băng qua Himalaya đến tận bang Azad Kashmir (Pakistan). Anh bị tạm giữ ở cơ quan phòng chống tội phạm ở Muzaffarabad rồi chuyển sang đồn cảnh sát thị trấn Athmuqam vùng Neelum từ tháng 10.2013 đến nay vì không thể xác minh được nhân thân. Trước đó, anh bị Lực lượng Quân báo Pakistan bắt được khi đang lơ ngơ xâm nhập biên giới từ phía bang Jamu & Kashmir của Ấn Độ. Đây vốn dĩ là vùng tranh chấp căng thẳng, được bảo vệ an ninh nghiêm ngặt giữa 2 quốc gia Nam Á. Kẻ đột nhập nói ngôn ngữ lạ lùng Dựa vào cách phát âm khi được bàn giao từ Lực lượng Tình báo quân đội Pakistan (MI - Military Intelligence), anh được cảnh sát phòng chống tội phạm ở Muzaffarabad đặt tên là Wu Ta Puma. Trên người anh không một mảnh giấy tờ tùy thân, không biết một thứ tiếng nào để giao tiếp ngoài ngôn ngữ rất lạ lùng của mình. Sau thời gian kiểm tra an ninh, đơn vị tình báo quân đội bàn giao người đàn ông cho cơ quan cảnh sát phòng chống tội phạm của tiểu bang (CIA - Crime Investigation Agency) đóng ở Muzaffarabad tiếp nhận để điều tra tiếp vì tội xâm nhập bất hợp pháp. Theo thông tin đăng tải trên một tờ báo địa phương, dẫn lời của ông Raja Yasir, một điều tra viên cho biết: “Ban đầu chúng tôi nghĩ anh ta bị câm vì chả nói năng gì cả, có lẽ do quá hoảng loạn. Tuy nhiên sau khoảng 10 đến 12 ngày, anh ta bắt đầu nói chuyện bằng thứ tiếng kỳ lạ của mình mà chúng tôi hoàn toàn không thể hiểu được”. Già Pó vượt qua quãng đường từ Mèo Vạc đến Pakistan dài khoảng 5.800 km - Ảnh: Na Sơn Ông Raja Yasir sau đó đã mời một số công nhân người Trung Quốc, Hàn Quốc đang làm việc tại một số công ty xây dựng ở Muzaffarabad đến để thử giao tiếp và “giám định” xem nhưng cũng không một ai hiểu được ngôn ngữ của anh cả. Ông Yasir cũng cho biết thêm là cơ quan điều tra cũng không nhốt anh vào buồng giam có khóa hay gửi anh ta vào nhà tù trung tâm vì e ngại “anh ta sẽ ở đó đến cuối đời mất”. Không khai thác, điều tra được gì từ kẻ đột nhập nói thứ ngôn ngữ lạ lùng ngoài cái tên mà dựa theo phát âm là: Wu Ta Puma, cơ quan cảnh sát phòng chống tội phạm tiểu bang đành gửi Wu Ta Puma về đồn cảnh sát thị trấn nhỏ Athmuqam vùng Neelum cách đó 75 km về phía bắc, nơi gần với biên giới chỗ anh bị Lực lượng Quân báo Pakistan bắt được vào trung tuần tháng 11.2013.Mừng rỡ khi nhìn thấy cờ Việt Nam, tiền Việt Nam Ở Đồn cảnh sát thị trấn Athmuqam, Wu Ta Puma cũng không bị giam giữ. Anh được bố trí ở khu nhà đổ trong khuôn viên, sau lưng trụ sở đồn. Sự xuất hiện của anh ở thị trấn nhỏ cũng là một sự kiện gây xôn xao cho cư dân nơi đây với rất nhiều tò mò. Amiruddin Mughal, một phóng viên ảnh tự do, cộng tác viên của Reuters và EPA tại Neelum và cũng là một biên tập viên của Đài truyền hình địa phương Saama TV đã đến đưa tin. Trả lời người viết, anh cho biết: “Tôi gặp anh ta ở Đồn cảnh sát Athmuqam, anh ta được tự do đi lại trong khu vực đồn với sự cho phép của cảnh sát. Họ cung cấp cho anh ta 3 bữa ăn mỗi ngày. Thỉnh thoảng những người dân xung quanh còn mang cho anh ta một ít thức ăn và cho tiền tiêu vặt nữa”. Lần gặp gỡ ấy, Amiruddin thất bại trong việc làm tin tức vì không khai thác được thông tin gì từ Wu Ta Puma do chả ai hiểu ai nói gì, anh chỉ quay một đoạn video trong đó Wu Ta Puma nói hơn 2 phút rồi post lên trang cá nhân của mình kêu gọi mọi người ai hiểu được ngôn ngữ và biết thông tin gì thì báo về cho anh để giúp người đàn ông kia tìm được gia đình. Cảnh sát ở Athmuqam nhận định Wu Ta Puma chỉ đi lạc vào đất Pakistan chứ không có động cơ gì khác nên họ đối xử thoải mái với anh. Họ còn mua cho anh quần áo ấm, mũ len vì thời tiết ở vùng ven Himalaya này rất lạnh. Cảnh sát cũng nhờ các cơ quan, báo chí, truyền thông sở tại giúp tìm tông tích gia đình Wu Ta Puma để anh sớm đoàn tụ mặc dù đây thực sự là công việc “mò kim đáy bể”. Thật may mắn là vài ngày sau đó, có người đã giúp cảnh sát ở thị trấn Athmuqam xác định được quốc tịch của Wu Ta Puma. Đó là ông Mukhtar Qureshi, nhân viên của Tổ chức Trăng lưỡi liềm đỏ địa phương đến đồn cảnh sát. Ông mở mạng internet, tìm hình ảnh cờ và tiền giấy của những nước châu Á và cho Wu Ta Puma xem. Khi nhìn thấy ảnh cờ và tiền Việt Nam trên màn hình, “Anh ta rất phấn khích và hạnh phúc. Anh ta nói gì đó và ra dấu hiệu để nói rằng: những thứ này của tôi” - ông Mukhtar cho biết. “Sau đó, với sự nhẫn nại quan sát ngôn ngữ cử chỉ kết hợp với những gì anh ta nói, tôi có thêm một số thông tin là: anh ta có vợ và có 5 con, 2 con gái lớn và 3 con trai nhỏ. Bố mẹ anh ta đều đã chết. Và những ngày sau đó thì anh ta trở nên muộn phiền, khóc lóc thảm thiết cả ngày lẫn đêm” - ông Mukhtar trao đổi thêm. Mấy hôm sau, ông Mukhtar Qureshi đã viết thư, thông báo đến Đại sứ quán Việt Nam tại Islamabad về câu chuyện của Wu Ta Puma. Trong thư có đoạn viết: “Với lòng từ tâm của một con người và cũng là người đang làm việc cho một tổ chức nhân đạo, tôi gửi những thông tin này cho các ông để xem xét và có hướng giải quyết tiếp theo”. Bức thư gửi ngày 7.1.2014. Theo Thanh Niên ================================================================== Nếu đúng là người Hmong - Vietnam, thì mong Chính Phủ ra tay đón anh ấy trở về với Đất Mẹ1 like
-
Thôi cho qua phà đi, cũng chẳng cần tò mò khám phá làm gì, different culture oải lắm. Kiếm người Việt hay nửa Việt mà quen, culture của người mình dễ bị tổn thương hơn culture của người họ, hơn nữa em là nữ nên thiệt hại về tinh thần chỉ là mình thôi. Trong lá số trên vợ anh ta rất to, còn em rất nhỏ. Kiếm mối nào có thể ăn chắc mặc bền rồi hãy quen. Lo mà học thi đi.1 like
-
Quán vắng!
Thích Đủ Thứ liked a post in a topic by Thiên Sứ
Có tiêu cực trong tuyển tiếp viên, phi công! Chủ Nhật, 30/03/2014 21:40 Đó là nhận định của ông Lại Xuân Thanh, Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, sau khi tiếp viên của Vietnam Airlines bị bắt giữ ở Nhật vì mang hàng xách tay nghi có nguồn gốc trộm cắp * Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về việc tiếp viên của Vietnam Airlines Nguyễn Thị Bích Ngọc bị cảnh sát Tokyo - Nhật bắt giữ vì nghi liên quan đến đường dây tiêu thụ hàng trộm cắp? - Cục trưởng Lại Xuân Thanh: Đây là vụ việc nghiêm trọng vì ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của người Việt Nam nói chung cũng như các hãng hàng không trong nước, có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự và pháp luật về hàng không dân dụng. Vụ việc cũng là nguy cơ uy hiếp an toàn hàng không nội bộ. Đối với ngành hàng không, phải bảo đảm an ninh, an toàn tuyệt đối nên hành vi vi phạm của các nhân viên có nguy cơ rất lớn đến an ninh, an toàn. Khi nhân viên hàng không vi phạm, liên tục phục vụ cho đường dây ăn cắp để thu lợi bất chính thì có thể dễ dàng làm những việc khác như vận chuyển vật nguy hiểm hoặc tìm cách vận chuyển vật nguy hiểm… * Không ít lần tiếp viên hàng không bị bắt quả tang khi buôn lậu, vận chuyển hàng trái phép… trong khi đây là nghề có thu nhập cao, được nhiều người mong muốn, vì sao thưa ông? - Thực tế, tiếp viên hàng không là nghề có thu nhập cao so với mặt bằng chung nhưng lại làm việc trong môi trường rất nhiều cám dỗ và dễ bị cám dỗ. Tiếp viên trên các chuyến bay đi từ nước này qua nước khác khiến họ dễ dàng kiếm thêm thu nhập bằng con đường khác, giống như làm thêm. Môi trường làm việc có cơ hội để kiếm thêm thu nhập chứ không hẳn do thiếu tiền và tiếp viên không chống lại được các cám dỗ đó thì rất dễ vi phạm. Tiếp viên hàng không là nghề có thu nhập cao. (Ảnh chỉ có tính minh họa)Ảnh: Tấn ThẠnh * Dư luận đặt vấn đề phải chăng do đầu vào của nhân viên ngành hàng không phải “chung chi” nhiều, như muốn được tuyển vào làm tiếp viên phải mất 25.000 USD, phi công 50.000 USD, không lưu 15.000 USD… nên họ phải “làm thêm” để bù đắp chi phí? - Đúng là có dư luận xung quanh việc này và tôi cũng không loại trừ khả năng có tiêu cực trong tuyển chọn tiếp viên, phi công. Vấn đề đặt ra là phải chấn chỉnh, kiểm soát chặt khâu tuyển dụng nhưng không dễ ngăn ngừa. Về mặt tiêu chuẩn, cục sẽ giám sát chặt chẽ hơn đối với nhân viên hàng không nhưng các hãng hàng không, doanh nghiệp mới là đơn vị tuyển dụng. Tôi thấy tiêu cực thường xảy ra ở những trường hợp không đáp ứng được tiêu chuẩn nên phải dùng tiền để vượt qua. Hơn nữa, nhu cầu của doanh nghiệp chỉ cần 5 tiếp viên nhưng có 10 người nộp đơn nên việc chống tham nhũng phụ thuộc doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải minh bạch quá trình tuyển dụng. * Theo thông tư do Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa ban hành, các trường hợp vi phạm như buôn lậu, vận chuyển hàng xách tay trái phép, tiêu thụ đồ ăn cắp… của nhân viên hàng không sẽ bị tước giấy hành nghề vĩnh viễn. Đối với trường hợp tiếp viên của Vietnam Airlines bị Nhật bắt giữ thì sao, thưa ông? - Từ đầu năm 2014, thông tư về kỷ luật đặc thù của ngành hàng không có hiệu lực. Theo đó, những hành vi vi phạm về kỷ luật, an ninh, an toàn hàng không, ăn cắp, sử dụng ma túy, cố ý gây ra tai nạn hoặc sự cố hàng không nghiêm trọng, lợi dụng vị trí làm việc để buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa… sẽ bị đuổi khỏi ngành và không đơn vị nào trong ngành hàng không được phép sử dụng lại lao động này. Đối với trường hợp của tiếp viên Nguyễn Thị Bích Ngọc, Cục Hàng không Việt Nam đang cân nhắc và tùy thuộc vào Vietnam Airlines. Nếu đúng như báo chí Nhật và Việt Nam đưa tin, vụ việc xảy ra vào tháng 9-2013, trong khi thông tư của Bộ GTVT có hiệu lực từ đầu năm 2014 nhưng không đề cập hồi tố nên cục chỉ khuyến cáo doanh nghiệp và phụ thuộc vào hợp đồng lao động của nhân viên này. * Từ vụ việc này, Cục Hàng không có biện pháp chấn chỉnh, tăng cường kiểm soát đối với các nhân viên, tiếp viên của các hãng hàng không? - Như tôi đã nói, từ đầu năm, với việc ban hành thông tư về kỷ luật đặc thù là một biện pháp răn đe, cảnh tỉnh có tác dụng rất lớn đối với người lao động trong ngành hàng không. Ngay cả việc uống rượu, có hơi men khi làm việc cũng bị xử lý nghiêm theo thông tư này thay vì chỉ xử lý kỷ luật nội bộ doanh nghiệp. Qua vụ việc này, cục tiếp tục có văn bản yêu cầu chấn chỉnh toàn hệ thống, tăng cường biện pháp kiểm soát nội bộ để loại trừ các hành vi vi phạm. Vừa qua, Đảng và nhà nước yêu cầu mỗi đơn vị phải có kế hoạch chống tham nhũng mà theo tôi, ngoài vấn đề giáo dục đạo đức, còn phải minh bạch trong công tác bổ nhiệm. Bộ GTVT đã triển khai nội dung này đến các đơn vị và yêu cầu phải xây dựng kế hoạch phòng chống tham nhũng. Đối với việc tuyển dụng tiếp viên, phi công cần phải có tiêu chuẩn rõ ràng, tiêu chí cụ thể để cơ quan quản lý kiểm tra, giám sát thay vì doanh nghiệp “âm thầm” làm. =========================Leo mựa! Hành vi của một con Thị Mẹt, một thứ culi tàu bay, nay thành thể diện quốc gia. Này! Hành vi ăn cắp nếu có của cô này - vì tòa Nhật chưa tuyên án - "léo" đủ tư cách đại diện cho tôi. Trong cuốn truyện "Những tấm lòng vàng", mô tả một cậu bé người Ý, lên một con tàu du lịch để ăn mày. Một vài du khách ngoại quốc cho tiền cậu ta. Nhưng sau đó họ tụ tập và nói xấu người Ý. Cậu ta nghe được - Chắc cậu ta được học tiếng Anh từ nhỏ (Theo phương pháp của ông chủ tịch hội Khuyến học Việt Nam) - bèn ném tất cả những đồng xu xin được vào đám du khách nước ngoài. Xong cậu ta bỏ xuống tàu ngồi khóc. Hành vi của cậu bé ăn mày người Ý không thể đại diện cho nền văn hóa và giáo dục của dân tộc Ý. Nó chỉ thể hiện lòng tự trọng của cá nhân trong hoàn cảnh cụ thể của cậu bé đó mà thôi. Lòng tự hào dân tộc là tối thiểu phải gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống. Chỉ khi một dân tộc bị mất nước thì không thể gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống, trước ý chỉ xóa sổ văn hóa của dân tộc thống trị. Tất cả người Hán phải dóc tóc trước trán, để đuôi sam vì dân tộc Mãn Thanh thống trị, là một ví dụ. Tất cả những ai phủ nhận những gia trị văn hóa sử truyền thống Việt, nhận văn hóa ngoại lại làm cha, không đủ tư cách để nói về lòng tự hào dân tộc. Resized to 73% (was 1024 x 768) - Bấm vào hình dể xem theo kích thước thật1 like -
Biết đang làm việc gì đâu mà biết trả lời tốt hay không?! Công việc hay thay đổi, hay phai đi tới đi lui. Nữ Mệnh Đà Là là cách Ám lệ trường. Lúc nào cũng bên gối khóc thầm.1 like
-
1 like
-
Gia đình cháu cần tư vấn về Phong Thủy để cuộc sống cả nhà được ỏn định tốt hơn. Mồ mả tốt thì nơi ở tốt, nơi ở tốt thì nơi làm việc tốt. nơi làm việc tốt thì công việc thuận lợi, thành đạt hơn. Cháu xem mục Phong Thủy cũng trong trang Tư Vấn này, tìm Cúc Tần ngày 19 vừa qua có Gmail của bác.1 like -
Tuổi 2 bạn có thể sinh ngay năm 2015 Ất Mùi hoặc Đinh Dậu 2017. Các năm sau đó thì có Quý Mão 2023 hoặc Giáp Thìn 2024! Thân mến.1 like
-
Cháu cho biết rõ giờ sinh, tại sao cháu khẳng định là giờ Tuất.?1 like
-
Mùa xuân Mộc vượng sinh Hỏa, Tốc hỷ khắc mạnh Tử. Quẻ độn Kinh Xích Khẩu là người này dùng tiền bạc và lời lẽ với cấp trên nên được ở lại, không bị thuyên chuyển. Tuy nhiên có gây bất bình trong nội bộ cơ quan do 2 Kim đấu nhau. Mình 0 biết nội tình nên đoán thử. Bạn xem có đúng 0?1 like
-
Chào tất cả mọi người. Tôi đã nhận lời mời làm giảng viên chính cho lớp học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp bên trang web Nhân Trắc Học. Chương trình dậy theo đúng từng chương của cuốn "Giải Mã Tứ Trụ" của tôi. Có thể vì vậy mà nhiều người đã ghi danh tham gia học (gần 500) nhưng chỉ có 151 người được học. Ðây là một bất đồng của tôi với ban điều hành khi tôi muốn cho tất cả mọi người đã ghi danh đều được học. Ðó là lý do vì sao tôi mở chủ đề này. Nội dung dậy như sau: Nội dung khóa học sơ - trung cấp Sơ cấp : Bài 1 : Vận mệnh và dự đoán vận mệnh Bài 2 : Sáu mươi năm Giáp Tý Bài 3 : Học thuyết Âm Dương và Ngũ Hành Bài 4 : Đặc trưng của Tứ trụ Bài 5 : Đại vận và tiểu vận của Tứ trụ Bài 6 : Thân và mười thần của Tứ trụ Bài 7 : Thiên địa nhân của tứ trụ Bài 8 : Thần sát của tứ trụ Bài 9 : Sơ đồ biểu diễn tứ trụ, tuế vận và tiểu vận Trung cấp : Bài 10 : Thân và vùng tâm Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái Bài 12 : Dụng thần của Tứ Trụ Bài 13 : Dụng thần của một số Tứ Trụ đặc biệt Bài 14 : Điểm hạn của ngũ hành Bài 15 : Sự xấu, tốt của đại vận và lưu niên Bài 16 : Cách tính điểm hạn cho từng năm Bài 17 : Các cách giải hạn cơ bản Bài 18 : Các ví dụ mẫu xây dựng lý thuyết Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc của mọi người về nội dung giảng dậy cũng như mọi trao đổi, tranh luận của mọi người trong chủ đề "Giải đáp thắc mắc" trong mục Tử Bình Bát Tự (ở phía dưới, vì ở đó mọi người mới được viết bài). Thân chào.1 like
-
Mymy1982 bên Nhân Trắc Học đã viết: "Các bạn mới học tứ trụ như mymy nên để ý đoạn này nhé, Thực Tài thấu lộ mà Sát đến thì có gọi là Thực chế Sát không? Đây chỉ là cơ bản mà thôi. Sang vận Đinh Mùi mệnh này rất kém thì rõ cả rồi, vận chuyển từ Tây (Kim) sang Nam (Hỏa) đi xuống trông thấy. Đinh hỏa Sát tinh đến, thân nhược không có chế nên kết quả có thể nhận thấy ngay ở đầu vận. Năm Kỷ Sửu, Ấn tinh hóa Sát, Sửu Mùi xung phá hỏa khí phùng hình thổ động, nhờ vậy mà được bình an. Đến năm Canh Dần thì kết quả đã thấy rõ..." Tôi đã trả lời: "Mymy luận theo đúng các sách hay về Tử Bình hiện nay như Trích Thiên Tủy, Tử Bình Chân Thuyên.... đó là xét dụng thần theo phương, tức lấy chi của đại vận làm trọng, điều này ngược với tôi (theo sách của cụ Thiệu) là phải lấy can đại vận làm trọng. Vậy thì cách nào đúng hơn hay cả 2 đều đúng (mỗi bên đúng 50%) ? Quả thực để trả lời câu hỏi này không đơn giản chút nào, tốt nhất là phải lấy các ví dụ trong thực tế để chứng minh mà thôi. Cái mà khúc mắc ở đây chính là khí của Thổ cục và khái niệm Thổ động do xung nhau của Sửu với Mùi và Thìn với Tuất chúng có thể chế ngự được các can hay hóa được các các can hay không ? Ðó là điều mà các sách mà tôi đã được đọc (vài đoạn của một vài cuốn mà mọi người dịch đã đăng) không thấy nói tới. Vì vậy tôi đành phải tự mình mầy mò vậy. Theo tôi (tới thời điểm này) thì Khí của hóa cục không khắc được các can nhưng các can có thể khắc được các hóa cục cũng như khí của hóa cục có thể hóa được các can (khi chúng động) nhưng sự động của Thổ do các chi xung nhau không có khả năng này. Nếu thừa nhận điều này thì Thổ cục (của Giáp với Kỷ) không có khả năng chế ngự Quý trụ năm, vì vậy Quý trụ năm vẫn chế ngự được Ðinh (Sát) đại vận. Ðinh bị Quý vượng ở lưu niên khắc chết hẳn, vì vậy mà Ðinh không khắc được Tân (tức Ðinh đã bị diệt - đã mất hẳn), thì Hỏa còn đâu cho Thổ cục hóa (xì hơi) để sinh cho Thân (Kim) nữa. Còn theo cách thứ 2 thì cho rằng vì đại vận đã đi vào phương nam là Hỏa (Mùi) nên Quý bị tử tuyệt ở đại vận Mùi nên không có khả năng chế ngự được Ðinh /Sát (mặc dù Quý vượng ở Sửu lưu niên) cũng như Thổ động và khí của Thổ cục đã hóa Ðinh để sinh cho Thân (Kim) nên Thân được bình an. Nếu luận theo cách thứ 2 này thì một điều tôi thấy không thể chấp nhận được là Quý vượng ở lưu niên mà không chế ngự được Ðinh đại vận hoặc Thổ động và Thổ cục có thể chế ngự được Quý nên Quý không chế ngự được Ðinh. Không biết có sách nào dạy như vậy không?"1 like
-
Bài 12 : Dụng thần của tứ trụ Chương 10 Dụng thần của tứ trụ I - Dụng thần 1 - Dụng thần Dụng thần là gì ? Dụng thần cùng nghĩa với thuốc thần hay thần dược, nghĩa là thuốc cực quý dùng để chữa bệnh. Một người có bệnh thì được bác sĩ khám để xác định là bệnh gì thì mới tìm được thuốc chữa đúng căn bệnh đó. Thuốc tốt nhất để chữa đúng căn bệnh đó có thể ví như là thuốc thần hay thần dược. Trong tứ trụ cũng tương tự như vậy, đầu tiên phải xác định được độ vượng suy của 5 hành ở vùng tâm, sau đó mới xét đến hành của Thân nhược hay vượng hơn so với các hành kia thì mới biết được Thân vượng hay Thân nhược. Khi đã biết Thân vượng hay nhược rồi, thì hành nào có tác dụng tốt nhất làm Thân đang vượng thì bớt vượng đi hay Thân đang nhược thì được sinh hay phù trợ cho bớt nhược, hành đó được gọi là hành dụng thần (thần dược). Mỗi hành đều có 2 can và 2 chi làm dụng thần.Giả sử hành Mộc làm dụng thần thì ta có 4 can chi của hành dụng thần là Giáp, Ất, Dần và Mão. Vậy thì lấy cái nào làm dụng dần chính cái nào là dụng thần phụ ? Theo như kinh nghiệm của cổ nhân để lại thì can mới là khí tinh túy của dụng thần, còn chi thì đã có can tàng là bản khí, đó chính là khí tinh tuý đại diện cho dụng thần của chi đó. Nhưng can lại có hai can, vậy lấy can nào làm dụng thần chính ? Thì theo phương pháp của tôi can nào được lệnh tháng hơn, tức là có điểm vượng cao hơn sẽ được chọn làm dụng thần chính, cho dù nó ở bất kỳ vị chí nào trong tứ trụ (vì như thuốc quý được cất ở đâu trong nhà thì vị chí không quan trọng, mà quan trọng là thuốc nào có chất lượng tốt hơn). Điều này khác với cách xác định dụng thần của cổ nhân để lại. Dụng thần này thường được gọi là dụng thần sinh phù và chế ngự và nó là dụng thần quan trọng nhất trong tứ trụ. 2 - Vị trí của dụng thần chính trong tứ trụ Nếu có nhiều can giống nhau là dụng thần chính xuất hiện trong tứ trụ thì ta chọn can lộ đầu tiên, sau đó đến can tàng bản khí và sau cùng mới đến can tàng tạp khí (vị trí của dụng thần là can tàng tạp khí: Đầu tiên nó tàng trong chi có hành sinh cho nó, sau đó đến chi có hành bị nó khắc, tiếp tới chi có hành có thể nhận được sự sinh từ nó và cuối cùng tới chi có hành khắc nó) và theo thứ tự ưu tiên thì vị trí đầu tiên của nó ở trụ năm, sau đến trụ tháng rồi mới tới trụ ngày và cuối cùng là trụ giờ (trừ can trụ ngày bởi vì nó chính là Nhật Chủ đại diện cho người có tứ trụ này). Vì người ta đã coi trụ năm quan trọng nhất như gốc của cây, trụ tháng thứ nhì như thân cây, trụ ngày như cành cây và trụ giờ cuối cùng như hoa lá quả. Có nhiều trường hợp hành làm dụng thần đầu tiên không có trong tứ trụ, cho nên ta phải lấy hành khác để thay thế, tức hành thứ 2 làm dụng thần (nghĩa là biết bệnh rồi mà không có đúng thuốc tốt để chữa mà phải lấy thuốc khác để thay thế). Dụng thần này tác dụng “chữa bệnh” kém hơn dụng thần của hành đầu tiên. Tương tự hành thứ hai này cũng thiếu thì phải lấy đến hành thứ 3 làm dụng thần. Dụng thần thuộc hành thứ 2 hay thứ 3 này tất nhiên là kém hơn dụng dần thuộc hành thứ nhất nhưng nó kém hơn như thế nào ? Liệu có thể lấy số điểm để đặc trưng cho sự yếu kém của chúng được không thì đến giờ tôi vẫn chưa làm được. 3 - Để cho ngắn gọn và đơn giản chúng ta quy ước: a - Gọi can làm dụng thần chính của tứ trụ là dụng thần. b - Riêng trong phần này can ngày được xem như là 1 can chi của tỷ kiếp. c - Can hay chi mang hành của thần nào (trong10 thần) thì nó được tính là can hay chi của thần (hành) đó. d - Can tàng tạp khí và chi chứa nó không được tính là can chi của thần (hành) đó, nhưng thần (hành) của can tạp khí này vẫn được xem có trong tứ trụ. Ví dụ : Nếu Mộc là hành của kiêu ấn (thuộc 10 thần) thì Giáp, Ất, Dần và Mão được gọi là can chi kiêu ấn hay 4 can chi kiêu ấn. Nếu trong tứ trụ chỉ có Giáp hay Ất tàng trong các chi Thìn, Mùi hay Hợi là tạp khí thì Giáp hay Ất chỉ được gọi là can tạp khí của kiêu ấn, vì vậy Giáp, Ất và các chi Thìn, Mùi hay Hợi này không được gọi là các can chi kiêu ấn, nhưng trong tứ trụ vẫn có kiêu ấn hay hành của kiêu ấn (Mộc). e – Trong các hành là kỵ thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là kỵ thần số 1. f – Trong các hành là hỷ dụng thần, nếu hành nào có điểm vượng trong vùng tâm lớn nhất thì nó được gọi là thần đẹp số 1. g - Nếu điểm vượng trong vùng tâm của các can hay chi nhỏ hơn 6đv thì các can hay chi này được xem là nhược trong vùng tâm. 4 – Xác định dụng thần khi Thân vượng Mẫu 1 : Kiêu ấn không có trong tứ trụ Dụng thần đầu tiên phải là... (xem giả thiết 44/ ở chương 14). (44/ - Nếu Thân vượng mà trong tứ trụ không có kiêu ấn (tức là không có cả các can tàng tạp khí của nó) thì dụng thần đầu tiên phải lấy tài tinh, sau mới lấy đến thực thương (nếu không có tài), cuối cùng mới phải lấy đến quan sát (nếu không có tài và thực thương).) Mẫu 2 : Kiêu ấn nhiều trong tứ trụ Kiêu ấn nhiều chỉ khi: a – Trong tứ trụ có ít nhất 3 can chi là kiêu ấn. b – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi là kiêu ấn nhưng có ít nhất 1 trong 2 can chi này có điểm vượng vùng tâm từ 6đv trở lên. c – Chi tháng là kiêu ấn mà nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương tại lệnh tháng có trên 6đv trong vùng tâm. Dụng thần đầu tiên là .... (xem giả thiết 45/ ở chương 14). ((45/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (kiêu ấn nhiều có khả năng xì hơi hết quan sát để sinh cho Thân, vì vậy quan sát đã trở thành kỵ thần, còn tài tinh có khả năng chế ngự kiêu ấn và làm hao tổn Thân), sau mới là thực thương (vì nó có khả năng xì hơi Thân vượng và làm hao tổn kiêu ấn), cuối cùng mới là quan sát.) Mẫu 3 : Kiêu ấn đủ trong tứ trụ Kiêu ấn đủ chỉ khi : a – Trong tứ trụ chỉ có 2 can chi kiêu ấn và điểm vượng ở vùng tâm của chúng nhỏ hơn 6đv. b – Trong tứ trụ chỉ có chi tháng là kiêu ấn và nó ở trạng thái Lộc hay Kình dương của lệnh tháng có 6đv ở vùng tâm. Dụng thần đầu tiên phải là… (xem giả thiết 46/ và 47/ ở chương 14). (46/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (vì khả năng để chế ngự Thân vượng của quan sát là tốt nhưng nó chỉ bằng khả năng mà kiêu ấn xì hơi quan sát để sinh cho Thân là xấu), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát. 47/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn đủ, thực thương không nhiều mà quan sát hợp với Nhật nguyên thì dụng thần đầu tiên vẫn có thể là quan sát.) Mẫu 4 : Kiêu ấn ít trong tứ trụ Kiêu ấn ít là trong tứ trụ chỉ có 1 can hay 1 chi của kiêu ấn hoặc chỉ có các can tạp khí của kiêu ấn. a – Nếu thực thương nhiều thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh, sau mới là đến quan sát và sau cùng mới là thực thương. b- Nếu Thực thương đủ, ít hay không có trong tứ trụ thì : Dụng thần đầu tiên phải là..... xem các giả thiết từ 48/ đến 60m/ ở chương 14. (48/20 - Thân vượng nhưng điểm vượng vùng tâm của nó chỉ lớn hơn hỷ dụng thần số 1 là quan sát (hay tài tinh ?) từ 1đv đến 1,5đv mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, nếu Nhật can ở tử, mộ hay tuyệt ở lệnh tháng còn bị can hay chi của quan sát được lệnh khắc gần hay trực tiếp thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương. 49/ - Nếu Thân chỉ lớn hơn tài tinh hay quan sát là hỷ dụng thần số 1 từ 1đv đến 2,5đv, mà kiêu ấn ít, thực thương chỉ là các can tàng phụ trong tứ trụ và Nhật can thất lệnh mà bị quan sát được lệnh khắc gần hay trực tiếp, thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương. 50/ - Nếu Thân vượng là kỵ thần 1 có ít nhất 3 can chi còn tài tinh là hỷ thần số 1 thì khi kiêu ấn, quan sát và thực thương ít, dụng thần đầu tiên phải là thực thương, bởì vì thực thương có thể xì hơi Thân để sinh cho tài tinh, mục đích để tránh sự thương tổn do hai hành này xung khắc nhau (nó thường được gọi là dụng thần hòa giải hay thông quan), trừ khi Thân vượng và tài tinh tương đương với nhau thì không thể lấy thực thương làm dụng thần bởi vì khi đó tài tinh sẽ vượng hơn còn Thân sẽ trở thành nhược. 51/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều thì dụng thần đầu tiên thường phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh. 52/17 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, tỷ kiếp và quan sát cùng có 3 can chi nhưng tỷ kiếp nắm lệnh (nếu quan sát có 4 can chi thì Thân phải có ít nhất 5đv nhiều hơn quan sát) thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh. 53/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, tỷ kiếp có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn quan sát có nhiều nhất 3 can chi (trừ giả thiết 53a/207) thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh. 53a/209 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều và tỷ kiếp có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn quan sát có 3 can chi nhưng nhật can và tất cả can chi của tỷ kiếp đều bị khắc gần và trực tiếp bởi quan sát và Thân không lớn hơn quan sát 5đv thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương, sau tới tài tinh và cuối cùng mới tới quan sát. 54/86 - Nếu Thân vượng, kiêu ấn và thực thương không nhiều mà quan sát có ít nhất 4 can chi và Thân không có 2,5đv nhiều hơn quan sát là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (bởi vì quan sát là quá mạnh không cần phải thêm, còn thực thương là quá yếu thành vô dụng so với quan sát), sau mới là thực thương và cuối cùng mới là quan sát. 55/43 - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều, quan sát có ít nhất 3 can chi và nắm lệnh, còn tỷ kiếp có nhiều nhất 3 can chi thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương, sau mới là tài tinh và cuối cùng mới là quan sát. 56/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, quan sát và Thân đều có 3 can chi nhưng cả hai đều không nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên là quan sát chỉ khi Thân lớn hơn quan sát là kỵ 1 ít nhất 5đv (?) 57/ - Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít, thực thương không nhiều và tỷ kiếp có 4 can chi, còn quan sát có 3 can chi và nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên phải là thực thương (dụng thần đầu tiên là quan sát chỉ khi Thân lớn hơn hỷ dụng thần số 1 là tài tinh hay quan sát ít nhất 5đv), sau mới là tài tinh, cuối cùng mới là quan sát. 58/ – Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương không nhiều, quan sát có 3 can chi và nắm lệnh, còn Thân có 5 can chi thì dụng thần đầu tiên phải là quan sát, sau mới là thực thương và cuối cùng mới là tài tinh ? 59/ – Nếu Thân vượng mà kiêu ấn ít và thực thương nhiều thì dụng thần đầu tiên thường phải là tài tinh, sau đó mới là quan sát, cuối cùng mới là thực thương. 60/ - Nếu Thân vượng, kiêu ấn và thực thương nhiều, ít hay không có mà quan sát có ít nhất 4 can chi và nắm lệnh thì dụng thần đầu tiên phải là tài tinh (thực thương là vô dụng bởi vì quan sát quá vượng), sau đó mới là thực thương, cuối cùng mới là quan sát. 2 –Xác định dụng thần khi Thân nhược Nếu Thân nhược thì dụng thần đầu tiên phải là.... xem các giả thiết 42/ và 43/ trong chương 14. (42/ - Nếu Thân nhược mà quan sát hay thực thương là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là kiêu ấn (bởi vì kiêu ấn có khả năng xì hơi quan sát để sinh cho Thân và chế ngự thực thương), sau mới đến tỷ kiếp. Nếu trong tứ trụ không có kiêu ấn và tỷ kiếp thì dụng thần thứ 3 phải là thực thương (nếu thực thương không là kỵ 1 và nhiều) hay tài tinh (nếu thực thương là kỵ 1 hay nhiều). 43/ - Nếu Thân nhược mà tài tinh là kỵ 1 thì dụng thần đầu tiên phải là tỷ kiếp (bởi vì tỷ kiếp có khả năng chế ngự tài tinh và giúp đỡ Thân nhược), sau mới đến kiêu ấn (vì nó có khả năng làm hao tổn tài tinh và sinh cho Thân). Nếu trong tứ trụ không có tỷ kiếp và kiêu ấn thì dụng thần phải là thực thương (nếu thực thương không là kỵ 1 và nhiều) hay tài tinh (nếu thực thương là kỵ 1 hay nhiều).) II - Dụng thần hòa giải Khi 2 hành trong tứ trụ có thế lực mạnh ngang nhau, nếu chúng tương tranh với nhau, thì cả 2 hành này dễ bị tổn thương. Do vậy ta phải chọn 1 hành khác để hòa giải 2 hành này, mục đích có thể tránh được sự tổn thương do chúng tương tranh với nhau. Hành này được gọi là hành làm dụng thần hòa giải. Ví dụ 1 : Về ngũ hành Kim và Mộc đều có thế lực mạnh tương tranh với nhau, khi đó chúng rất cần có Thủy để hóa giải sự tương tranh này bởi vì Thủy có thể xì hơi Kim để sinh cho Mộc. Nó nghĩa là Kim không còn khắc được Mộc mà nó phải sinh cho Thủy, vì vậy Thủy thêm vượng sinh cho Mộc. Điều này chỉ xẩy ra khi Thủy không quá yếu và không quá vượng bởi vì nếu nó quá yếu thì nó không có khả năng xì hơi Kim và sinh cho Mộc, còn nếu nó quá vượng thì nó sẽ xì hơi Kim quá mạnh có thể làm cho Kim suy yếu cùng kiệt cũng như nó sẽ sinh cho Mộc quá nhiều làm Mộc quá vượng. Như vậy nó đã làm cho Kim và Mộc bị thay đổi quá nhiều dễ dẫn tới kim và Mộc đều bị thương tổn. Ví dụ 2 : Về thập thần Nếu Thân vượng, quan sát cũng vượng mà có ấn tinh không quá vượng hay quá nhược để xì hơi quan sát sinh cho Thân thì chúng sẽ không còn xung đột với nhau, nên chúng không bị thương tổn, như thế mới được lộc trọng quyền cao. Chú ý : Thực thương chỉ có tác dụng như dụng thần hòa giải khi Thân quá vượng cần có thực thương để xì hơi Thân sinh cho tài tinh, vì vậy tài tinh không bị thương tổn (tức là không bị phá tài hay phá sản) mà trái lại tài càng thêm vượng (tức là phát tài). Bởi vì nếu Thân vượng nhưng Thân và tài tinh có thế lực ngang nhau, nếu lấy thực thương để xì hơi Thân và sinh cho tài tinh thì Thân sẽ trở thành nhược còn tài tinh sẽ trở thành vượng, Thân không thắng được tài tinh dễ bị phá tài. Do vậy thực thương ở đây không có tác dụng như dụng thần hòa giải. Nếu trong tứ trụ không có các dụng thần hòa giải này thì chúng ta tự tạo ra trong thực tế như : Tên gọi, phương để sống, nghề nghiệp, quần áo..... có hành của dụng thần hòa giải đó. III - Dụng thần điều hòa Một người được sinh ra vào mùa đông thì tứ trụ của người này cần phải có Hỏa để làm cho tứ trụ không bị lạnh, nhưng Hỏa không lên có quá nhiều nó chỉ cần có đủ để sưởi ấm cho tứ trụ (điều này chỉ đúng cho những người được sinh ra và sống ở bắc bán cầu có 4 mùa rõ rệt bởi vì lý thuyết của môn tứ trụ này được đưa ra cũng như các thực nghiệm của nó mới chỉ được áp dụng cho những người ở vùng này). Những người được sinh ra vào mùa hè thì ngược lại, còn mùa xuân và mùa thu có nhiệt độ thích hợp, vì vậy không cần tới dụng thần điều hòa. Bởi vì trong Tử Bình người ta lấy Hỏa để đại diện cho lửa, phương nam và nóng, còn Thủy để đại diện cho nước, phương bắc và lạnh..... Các can chi và các cách dùng để điều hòa nhiệt độ này được gọi là dụng thần điều hòa. Nếu trong tứ trụ không có hay có dụng thần điều hòa nhưng nó quá yếu thì người ta thường dùng lửa, máy điều hòa nhiệt độ, quần áo, nước, mầu sắc,....., nhất là đặt tên có hành của dụng thần hòa giải và chọn phương bắc hay phương nam để sống, nhằm mục đích để bổ cứu cho dụng thần điều hòa. Ví dụ : Một người được sinh ra vào mùa đông trong các tháng Tý, Hợi hay Sửu thì trong tứ trụ cần có 1 hay vài can chi là Bính, Đinh, Tị hay Ngọ tùy theo trong tứ trụ có nhiều hay ít các can chi là Nhâm, Quý, Tý hay Hợi cũng như chúng được lệnh hay không được lệnh, nếu Thủy quá mạnh mà Hỏa quá yếu thì chúng ta mới phải sử dụng các yếu tố bên ngoài như đã nói ở trên để bổ cứu. Ngoài ra, nếu Thủy vượng trong tứ trụ (như đươc sinh vào mùa đông, trong tứ trụ có nhiều can chi Thủy, hay có Thủy cục mạnh) thì có thể dùng Mộc làm dụng thần điều hòa bởi vì Mộc có khả năng xì hơi Thủy để sinh cho Hỏa (tức là làm giảm độ vượng của Thủy, nó cũng có nghĩa là làm giảm lạnh), vì vậy nếu gặp được các đại vận Giáp, Ất, , Dần, Mão, Thìn (vì nó thuộc mùa xuân), Bính, Đinh Tị, Ngọ, Mùi (vì nó thuộc mùa hạ) thì chúng có khả năng làm dụng thần điều hòa cho tứ trụ. Nhất là những người sinh vào ngày Quý Dậu, tức là ngày Kim Thần. Thân (Thủy) là vượng, vì vậy khi gặp các vận Hỏa hay đi về phương nam là phương có Hỏa mạnh để sống thì những người này thường sẽ đúng với câu “Kim thần nhập Hỏa phú quý sẽ vang xa). Trong 3 loại dụng thần ở trên thì dụng thần sinh phù và chế ngự là quan trọng nhất, sau mới đến dụng thần hòa giải, cuối cùng mới đến dụng thần điều hòa. Bài này tôi không đưa ra các câu hỏi trọng tâm, vì vậy ai không hiểu hay thấy không hợp lý ở phần nào thì cứ hỏi, tôi sẽ trả lời.1 like
-
Bài 11 : Xác định điểm vượng của các trạng thái II - Xác định điểm vượng của các trạng thái Bạn đọc phải thực hiện lần lượt các bước như sau : 1 - Xác định tứ trụ cũng như điểm vượng của các can chi theo lệnh tháng và phải ghi các điểm này ngay bên phải của can chi đó. 2 – Xác định các tổ hợp hóa cục hay không hóa cục trong tứ trụ, các can hay chi trong các tổ hợp phải được khanh tròn và chúng được nối với nhau bởi ít nhất 3 đoạn thẳng (như trong sơ đồ ở trên). 3 – Xác định các can và chi bị khắc gần hay trực tiếp và chúng phải được khoanh tròn (để biết chúng không có khả năng sinh hay khắc được cho các can chi khác cũng như chúng không có khả năng nhận được sự sinh của can chi cùng trụ). 4 - Đường chữ V trong sơ đồ của tứ trụ ở trên đặc trưng cho vùng tâm nó chứa can ngày, can tháng, can giờ và chi ngày. 5 – Các mũi tên từ can năm, chi năm, chi tháng và chi giờ đi vào vùng tâm có các số thập phân 2/5 hay 1/2 cho biết điểm vượng còn lại của các can hay chi này vào được vùng tâm bị giảm 2/5đv hay ½ đv của chúng. Tứ trụ 1 : Nam sinh này 9/6/1970 lúc 2,00’ có tứ trụ : Sơ đồ trên mô tả các điểm vượng (trạng thái) của các can chi theo lệnh tháng (tức chi tháng) theo dự kiến của tôi và chúng được ghi bên phải ngay cạnh các can chi của chúng. Ta thấy bán hợp của Tuất trụ năm với Ngọ trụ tháng hóa Hỏa (vì có Đinh trụ giờ dẫn hóa) và Canh trụ ngày bị khắc gần bởi Đinh trụ giờ, vì vậy ta phải khoanh tròn Tuất, Ngọ và Canh trụ ngày cũng như ta phải nối Tuất với Ngọ bằng 3 đường gấp khúc (như trong sơ đồ trên). Mặc dù Canh trụ năm bị khắc trực tiếp bởi Tuất cùng trụ (vì Tuất đã hóa Hỏa) nhưng nó vẫn có khả năng khắc các can chi khác (vì Tuất ở trong hợp). Ngọ của trụ tháng bị khắc trực tiếp bởi Nhâm cùng trụ. 1 – Canh trụ năm có 7đv bị giảm ½ đv bởi Tuất cùng trụ khắc trực tiếp (vì Tuất đã hóa Hỏa), 1/10đv bởi Đinh trụ giờ khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 7.1/2.9/10.3/5đv = 1,89đv. 2 - Tuất trụ năm có 10đv, nó bị giảm ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó còn 5đv. 3 - Ngọ trụ tháng có 10đv bị giảm ½ đv bởi Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp và 2/5đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó còn 10.1/2.3/5đv = 3đv. 4 – Thân trụ ngày có 7đv bị giảm ¼ đv bởi Đinh trụ giờ khắc cách 1 ngôi, nó còn 5,6đv. 5 - Sửu trụ giờ có 9đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm, nó còn 5,4đv. 6 – Đinh trụ giờ có 9đv bị giảm 1/5đv bởi Nhâm trụ tháng khắc cách 1 ngôi, nó còn 7,2đv. 7 – Canh trụ ngày có 7đv bị giảm 1/3đv bởi Đinh trụ giờ khắc gần, nó còn 4,67đv. 8 – Nhâm trụ tháng có 4đv bị giảm 1/10đv bởi Sửu trụ giờ khắc cách 2 ngôi, nó còn 3,6đv. Nếu ta cộng tất cả các điểm vượng trong vùng tâm của các can chi có cùng hành thì : Điểm vượng trong trong vùng tâm của các hành như sau : Mộc.......Hỏa......Thổ......Kim.......Thủy #.........15,2......5,4......12,16......3,6 Cụ Thiệu Vĩ Hoa đã xác định mệnh này có Thân vượng. Nếu Thân là vượng thì Nhật Can (can của trụ ngày) phải có điểm đắc địa tại các chi trong tứ trụ (trừ chi của trụ tháng bởi vì điểm vượng của nó ở lệnh tháng chính là điểm vượng này) và qua các ví dụ trong thực tế tôi đã đưa ra giả thiết số 72/ trong chương 14. (72/(Tứ trụ số 1 của phần II chương 9) – Nhật Can chỉ có điểm vượng đắc địa tại các chi của trụ năm, trụ ngày và trụ giờ khi nó ở trạng thái Lộc và Kình Dương của các chi này và các điểm vượng này chỉ bị giảm như điểm vượng của các can chi khi nó bị khắc trực tiếp (còn nếu nó bị khắc gần?) hoặc ít nhất bởi 2 lực khắc.) Nếu sử dụng giả thiết 72/ thì điểm vượng đắc địa của Nhật Can Canh ở trạng thái Lộc tại Thân trụ giờ không bị giảm (bởi vì nó chỉ bị khắc bởi 1 lực cách 1 ngôi của Đinh trụ giờ), vì vậy điểm vượng của trạng thái Lộc ở đây phải có ít nhất 4,05đv thì hành Kim của Nhật Chủ là 12,16đv + 4,05đv = 16,21đv mới lớn hơn các hành Thủy (Thực-Thương), Mộc (Tài) và Hỏa (Quan-Sát) 1đv, khi đó Nhật Chủ mới trở thành vượng. (Nếu theo phương pháp cổ truyền thì Nhật Can có các điểm đắc địa ở các chi trong tứ trụ (trừ chi tháng) khi nó vượng tại các chi này.) Giải thích : Có thể hiểu các chi (trừ chi tháng) có cùng hành với Nhật Chủ hay chúng sinh cho Nhật Chủ (nếu Nhật Chủ mang hành Thổ) là vùng đất mà dân sống ở đó đồng lòng và giúp đỡ Nhật Chủ, cho nên thế lực của Nhật Chủ được mạnh thêm. Ta đã xác định được trạng thái Lộc có ít nhất 4,05đv. Tứ trụ 2 : Nữ sinh ngày 21/10/1976 lúc 20,00’ có tứ trụ : Qua sơ đồ này ta thấy: 1 - Tất cả các can và chi đều có 3đv tại lệnh tháng. 2 – Nếu áp dụng giả thiết từ 93/ tới 96/ (chương 14) thì lực xung gần của Thìn trụ năm với Tuất trụ tháng có 3đv và với Tuất trụ giờ cách 2 ngôi có 3.1/2đv = 1,5đv. (Trích: 2 - Các lực xung, khắc hay hợp của các địa chi 93a/ - Ở đây, các chi không cần phải động và các lực này chỉ để xét khả năng tranh hay phá hợp của các địa chi. 93b/ - Các chi trong tứ trụ và chi tiểu vận với các chi ở tuế vận cũng được xem là gần nhau. 93c - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi trong tứ trụ từ khi mới sinh (khi tuế vận được xem như chưa xuất hiện) được xác định bởi chính điểm vượng của chúng tại lệnh tháng (chi của trụ tháng). 93d/ - Lực xung, khắc hay hợp của các địa chi ở một năm (lưu niên) bất kỳ được xác định bởi điểm vượng của chúng ở lưu niên đó như sau : Điểm vượng của các chi trong tứ trụ chính là điểm vượng trung bình của chúng tại lệnh tháng, đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên : Điểm vượng của chi tiểu vận và đại vận chính là điểm vượng trung bình của chúng tại chi đại vận và 2 lần tại chi của lưu niên. Điểm vượng của chi lưu niên là điểm vượng của nó tại chi của lưu niên (thái tuế). a - Lực hợp của các địa chi bị giảm 94/ - Lực hợp của 1 chi với y chi bị giảm : 94a/21 - (y - 1)/y.đv nếu nó hợp với mỗi chi gần. 94b/ - 1/3.(y - 1)/y.đv nếu nó hợp với chi cách 1 ngôi. 94c/ - 1/2.(y - 1)/y.đv ...................................... 2 ngôi. b - Lực xung hay khắc của các địa chi 95/ Lực của 1 chi xung hay khắc với 1 hay nhiều chi và hợp với y chi bị giảm : 95a/19 - y/(y + 1).đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi gần. 95b/56 - y/(y + 1).đv và thêm 1/3.đv nếu nó xung hay khắc với mỗi chi cách 1 ngôi. 95c/89 - y/(y + 1).đv và thêm 1/2.đv ....................................với mỗi chi cách 2 ngôi. 96/ - Các lực trên bị giảm thêm như sau : 96a/(30;70;79;89) - 2/3.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 1 hay 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi gần với nó (chỉ xét về ngũ hành) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả chi này bị hợp nhưng không hóa cục). (vd 68; 77). 96b/ - ½.đv nếu nó, hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) chi (chỉ ...) cách 1 ngôi giữa chúng (kể cả chi này ...). 96c/ - 2/3. ½.đv nếu nó hợp, xung hay khắc với chi cách 2 ngôi mà nó phải sinh, khắc (hay bị khắc) với (hay bởi) cả chi gần và cách 1 ngôi (chỉ ...) ở trong tứ trụ giữa chúng (kể cả các chi này ...).) 3 - Nếu áp dụng giả thiết 94a;b;c/ thì mỗi lực hợp gần của Ngọ trụ ngày với Tuất trụ tháng và trụ giờ có 3.(2-1)/2đv = 1,5đv, vì vậy bán hợp của Ngọ với 2 Tuất bị phá tan bởi vì lực hợp không lớn hơm lực xung (chú ý các bán hợp hay lục hợp không bị phá chỉ khi lực hợp của chúng phải lớn hơn lực xung). 4 - Bính trụ năm, Tuất của trụ tháng và trụ giờ, mỗi can hay chi có 3đv ở lệnh tháng, các can chi này bị giảm 2/5đv của chúng khi chúng vào đến vùng tâm, vì vậy mỗi can hay chi này chỉ còn 3.3/5đv = 1,8đv. 5 - Thìn trụ năm có 3đv bị giảm ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 1,5đv. 6 - Mậu của trụ tháng và trụ giờ, Bính và Ngọ của trụ ngày ở trong vùng tâm, vì vậy mỗi can và chi này vẫn có 3đv (vì chúng không bị xung và nhận được sự sinh của các can chi khác). 7 - Trong tứ trụ không có can chi mang hành Kim, Thủy và Mộc nên các hành này không có điểm vượng ở vùng tâm (mặc dù chúng có can tàng là tạp khí trong các địa chi). Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau : Kim........Thủy........Mộc........Hỏa....... Thổ #..............#............#............7,8...... .11,1 Ví dụ này cụ Thiệu Vĩ Hoa đã dự đoán Nhật Chủ là nhược, vì vậy nếu Thân nhược thì điểm vượng đắc địa Kình Dương của Nhật Chủ (Bính) tại Ngọ của trụ ngày chỉ có thể cao nhất là 4,29đv, bởi vì nếu nó là 4,3đv thì Thân có 7,8đv + 4,3đv = 12,1đv, khi đó Thân trở thành vượng bởi vì Thân (Hỏa) lớn hơn thực thương (Thổ), tài tinh (Kim) và quan sát (Thủy) ít nhất 1đv. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau: Kim..........Thủy.......Mộc........Hỏa...... ..Thổ #..............#...........#..........12,09....... 11,1 Nếu lực xung của Thìn với Tuất trụ giờ (cách 2 ngôi) bị giảm 2/3đv thì nó còn 1đv. Do vậy bán hợp Hỏa cục của Ngọ với Tuất trụ giờ không bị phá, nên có thêm 1,8đv của Tuất hóa Hỏa ở vùng tâm. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành chưa có điểm vượng đắc địa như sau : Kim.........Thủy.........Mộc........Hỏa..... ...Thổ #..............#.............#............9,6..... ....9,3 Muốn cho Thân nhược thì điểm vượng đắc địa Kình Dương của Nhật Chủ (Bính) tại Ngọ trụ ngày cao nhất là 0,69đv. Số điểm này là không thể chấp nhận được bởi vì điểm đắc địa Kình dương không thể nhỏ hơn điểm vượng đắc địa Lộc đã có ít nhất là 4,05đv. Chúng ta đã xác định được trạng thái Kình Dương nhiều nhất là 4,29đv. Tứ trụ 3 : Nam sinh ngày 13/8/1980 lúc 7,10’ có tứ trụ : Qua sơ đồ này ta thấy: 1 - Giáp bị Canh khắc gần, Thân trụ tháng bị Ngọ khắc gần, không có các tổ hợp cũng như các can và chi sinh cho nhau. 2 – Canh có 9đv bị giảm 1/10 đv bởi Bính khắc cách 2 ngôi, 1/10 đv bởi Ngọ khắc cách 2 ngôi và 2/5 đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 4,37đv. 3 - Thân trụ năm có 9đv bị giảm 1/5 đv bởi Ngọ khắc cách 1 ngôi, 1/20 đv bởi Bính khắc cách 3 ngôi và ½ đv khi nó vào tới vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,42đv. 4 - Thân trụ tháng có 9đv bị giảm 1/3 đv bởi Ngọ khắc gần và 2/5 đv khi nó vào tới vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,24đv. 5 - Thìn trụ giờ có 5đv nó chỉ bị giảm 2/5 đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 3đv. 6 - Giáp có 3đv bị giảm 1/3 đv bởi Canh khắc gần và 1/5 đv bởi Thân trụ năm khắc cách 1 ngôi (Thân trụ tháng bị Ngọ trụ ngày khắc gần nên nó không khắc được Giáp), vì vậy nó còn 1,6đv. 7 - Điểm đắc địa Kình dương của Nhật Chủ (Mậu) ở Ngọ trụ ngày là 4,29đv. Điểm vượng ở vùng tâm của các hành như sau : Thủy.........Mộc........Hỏa.......Thổ..... ....Kim #.............1,6.........10........12,29......11, 03 Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa xác định Thân nhược nhưng ở đây Thổ lớn hơn Kim trên 1đv, vì vậy Thân là vượng. Cho nên trạng thái bệnh không thể có 5đv, mà nó chỉ có thể là 4,83đv, bởi vì khi đó Thìn có 2,898đv ở vùng tâm, hành Thổ trong vùng tâm có 12,018đv là nhỏ hơn Kim 1đv nên Thân mới nhược. Nếu trạng thái bệnh là 4,84đv thì điểm vượng vùng tâm của Thìn là 2,904đv, hành Thổ trong vùng tâm có 12,034đv, vì vậy Thân vẫn là vượng. Ta đã xác định được trạng thái Bệnh max là 4,83đv, để đơn giản ta lấy là 4,8đv. Tứ trụ 4 : Nữ sinh ngày 9/8/1965 lúc 9,20’ có tứ trụ : Qua sơ đồ này chúng ta thấy : 1 - Lục hợp của Tị trụ năm với Thân không hóa, Thân bị khắc gần, Tân và Mùi bị khắc trực tiếp. 2 - Ất trụ năm có 4đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm nên nó còn 2,4đv. 3 - Tị trụ năm có 7đv nhận được 1/3đv của Ất cùng trụ sinh cho nó, vì vậy nó có thêm 4.1/3đv = 1,33đv (vì Ất có Giáp cùng hành ở gần), nhưng nó bị giảm ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, nó chỉ còn (7 + 1,33).1/2đv = 4,17đv. 4 – Thân có 9đv bị giảm 1/3đv bởi Tị trụ năm khắc gần và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,6đv. 5 – Mùi có 7đv bị giảm ½ đv bởi Ất cùng trụ khắc trực tiếp, 1/5đv bởi Giáp khắc cách 1 ngôi và 1/10đv bởi Ất trụ năm khắc cách 2 ngôi, vì vậy nó còn 2,52đv. 6 - Tị trụ giờ có 7đv bị giảm 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, nó còn 4,2đv. 7 - Tân có 10đv bị giảm ½ đv bởi Tị trụ giờ khắc trực tiếp, nó còn 5đv. 8 – Các điểm vượng trong vùng tâm của Ất và Giáp không thay đổi. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau : Thổ.........Kim........Thủy.........Mộc..... .Hỏa 2,52........8,6..........#6..........9,4.......8,3 7 Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Nhật Chủ là vượng, nhưng ở đây Mộc không nhiều hơn Kim 1đv nên Nhật Chủ là nhược. Nếu Thân vượng thì trạng thái thai của Ất phải có ít nhất 4,1đv, khi đó Ất trụ năm có 2,46đv trong vùng tâm. Mộc có 9,56đv trong vùng tâm, nó vẫn chưa lớn hơn Kim 1đv nên Thân vẫn là nhược. Do vậy điểm của trạng thái tuyệt của Giáp phải có ít nhất 3,1đv, khi đó Mộc có 9,66đv trong vùng tâm, vì vậy nó mới có 1đv nhiều hơn điểm vượng của Kim, Hỏa và Thổ vì vậy Thân mới vượng. Chúng ta đã xác định được: Trạng thái tuyệt có ít nhất 3,1đv ..............................................Trạng thái thai có ít nhất 4,1đv Tứ trụ 5 : Nữ sinh ngày 17/9/1966 lúc 0,30’ . Qua sơ đồ này ta thấy : 1 - Ngũ hợp của Giáp với Kỷ không hóa và Dậu bị khắc trực tiếp. Nếu theo ví dụ 4 thì Giáp có 4,1đv, Mão có 3,1đv, còn các điểm vượng khác vẫn như dự kiến. 2 – Bính trụ năm có 3đv bị giảm 1/20đv bởi Tý khắc cách 3 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,71đv. 3 - Ngọ trụ năm có 3đv bị giảm 1/10đv bởi Tý khắc cách 2 ngôi và ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,35đv. 4 - Dậu trụ tháng có 9đv bị giảm ½ đv bởi Đinh khắc trực tiếp, 1/3đv bởi Ngọ trụ năm khắc gần, 1/5đv bởi Bính trụ năm khắc cách một ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 1,44đv. 5 – Tý trụ giờ có 7đv bị giảm 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, nó còn 4,2đv. 6 - Kỷ có 6đv bị giảm1/3đv bởi Giáp khắc gần và ½ đv bởi Mão cùng trụ khắc trực tiếp, vì vậy nó chỉ còn 2đv. 7 – Đinh trụ tháng có 6đv bị giảm 1/10đv bởi Tý khắc cách 2 ngôi, nó còn 5,4đh. 8 - Nhật Chủ Kỷ đắc địa Lộc ở Ngọ trụ năm có 4,05đv bị giảm ½ đv khi nó vào vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 2,025đv. Điểm vượng trong vùng tâm của các hành : Thủy.........Mộc........Hỏa.......Thổ..... ....Kim 4,2...........7,2.........8,46......4,025.....1,44 Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân vượng, nếu Thân vượng thì ta khẳng định điểm vượng trong vùng tâm của kiêu ấn (Hỏa) phải sinh được cho Thân (Thổ). Qua các ví dụ thực tế tôi đã xác định được kiêu ấn có thể sinh được 50%đv trong vùng tâm của nó cho Thân qua các giả thiết từ 190/ tới 194/ trong chương 14 (xem câu 11 ở trên). Nếu sử dụng các giả thiết này thì kiêu ấn sinh cho Thân 50%đv của nó, Thân có 8,46.1/2 đv + 4,025đv = 8,225đv, nó nhiều hơn quan sát, thực thương và tài tinh 1đv, vì vậy Thân mới trở thành vượng. Nếu trạng thái tử là 2,9đv thì Bính có 1,653đv trong vùng tâm, Ngọ có 1,305đv, khi đó Hỏa có 8,358đv và Thổ có (8,358.1/2 + 4,025)đv = 8,204đv, Thổ lớn hơn Mộc 1đv, vì vậy Thân là vượng. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy thời gian từ trạng thái tử đến trạng thái mộ (tức thời gian từ khi chết đến khi chôn) chỉ khoảng một vài hôm so với các trạng thái khác ít nhất cũng vài tháng trở lên. Do vậy ta có thể coi hai trạng thái tử và mộ có số điểm 3đv là hợp lý. Ta đã xác định được trạng thái tử và mộ là 3đv. Tứ trụ 6 : Nam sinh ngày 12/10/1962 lúc 4,30’ Qua sơ đồ này, ta thấy: 1 – Tuất và Mùi đều bị khắc gần và không có các tổ hợp. 2 – Nhâm có 8đv bị giảm 2/5đv khi nó vào vùng tâm, nó còn 4,8đv . 3 - Dần trụ năm có 4đv được Nhâm cùng trụ sinh cho ½ đv của nó (vì Nhâm được sinh gần bởi Canh), vì vậy Dần có 8đv nhưng nó bị giảm 1/5đv bởi Canh khắc cách một ngôi và ½ đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 3,2đv. 3 - Tuất có 3đv bị giảm 1/3đv bởi Dần trụ năm khắc gần, 1/5 đv bởi Dần trụ giờ khắc cách 1 ngôi, 1/10 đv bởi Giáp trụ giờ khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó chỉ còn 0,86đv. 4 - Mùi trụ ngày có 4đv bị giảm1/3đv bởi Dần trụ giờ khắc gần, 1/5đv bởi Dần trụ năm khắc cách 1 ngôi và 1/5đv bởi Giáp trụ giờ khắc cách 1 ngôi, vì vậy nó chỉ còn 1,71đv. 5 - Dần trụ giờ có 4đv bị giảm 1/10đv bởi Canh khắc cách 2 ngôi và 2/5đv khi nó vào đến vùng tâm, vì vậy nó còn 2,16đv. 6 - Giáp trụ giờ có 4đv bị giảm 1/5 đv bởi Canh khắc cách 1 ngôi, vì vậy nó còn 3,2đv Điểm vượng trong vùng tâm của các hành là : Hỏa.........Thổ..........Kim.........Thủy... ......Mộc #............2,57.........5.............9.8....... ....8.56 Ví dụ này Thiệu Vĩ Hoa đã xác định Thân nhược, vì vậy trạng thái dưỡng phải có ít nhất 4,2đv mới là hợp lý (vì trạng thái thai đã là 4,1đv). Nếu điểm vượng trong ngoặc đơn của các can chi ở trạng thái Dưỡng có 4.2 đh thì : Điểm vượng trong vùng tâm của các hành như sau : Hỏa.........Thổ.........Kim........Thủy..... .....Mộc #............2,65........5,1.........9,8.......... .8,91 Qua số điểm vượng vùng tâm này ta thấy Thủy có thể được tăng thêm max là 0,1đv, nó có nghĩa là trạng thái suy của Quý có thể max là 5,1đv, vì vậy hành Thủy không lớn hơn hành Mộc 1đv, vì vậy Thân đã trở thành nhược. Chúng ta đã xác định được : Trạng thái Dưỡng min là 4,2đv .................................................Trạng thái suy max là 5,1đv Tứ trụ 7: Nam có Tứ Trụ : Các đại vận: Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Kỷ Dậu Các đại vận Kiêu-Ấn và Tỷ Kiếp của tứ trụ này phải là hỷ dụng thần thì mới phù hợp với thực tế cuộc đời của người này, vì vậy Thân của tứ trụ này phải nhược. Do vậy để phù hợp với thực tế của ví dụ này chúng ta phải đưa ra và sử dụng giả thiết 89/ (Nếu các can ở tử tuyệt tại lệnh tháng mà tất cả 4 chi trong tứ trụ có cùng một hành thì các can này chỉ khắc được các chi cùng trụ (chỉ xét về sự khắc của ngũ hành).) thì điểm vượng của ngũ hành trong vùng tâm như sau: 0,5.........1........-0,5.........-1..........0,5 Mộc.......Hỏa......Thổ.......Kim.......Thủy 12,15.......#..........#......11,16........# Tứ Trụ số 8 (xem ví dụ 148): Kiêu Ấn có thể sinh cho Thân 50% điểm vượng của nó chỉ khi có đủ 2 điều kiện sau đây: 1 - Điểm vượng trong vùng tâm của Kiêu Ấn phải lớn hơn (hoặc bằng?) điểm vượng của Tài và Quan Sát. 2 - Can trụ năm và chi trụ tháng cả hai có thể sinh cho can trụ tháng mà can trụ tháng có thể sinh cho Nhật can cũng như Nhật can không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp (?). Hoặc : Chi trụ giờ sinh được cho can trụ giờ mà can trụ giờ có thể sinh được cho Nhật Can cũng như Nhật can không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp (?). (Chú ý: ở đây chỉ xét đến sự sinh hay khắc của ngũ hành). 11 - Bảng điểm (Các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt) A - Các trạng thái được gọi là được lệnh (tức vượng tại tháng sinh) : 1 - Trường sinh 6đv (điểm vượng) 2 - Mộc dục 7đv 3 – Quan đới 8đv 4 – Lâm quan 9đv 5 - Đế vượng 10đv B - Các trạng thái được gọi là thất lệnh (tức nhược tại tháng sinh) : 6 – Suy max là 5,1đv 7 - Bệnh max là 4,83đv (lấy 4,8đv) 8 - Tử 3đv 9 - Mộ 3đv 10 - Tuyệt 3,1đv 11 – Thai 4,1đv 12 - Dưỡng 4,2đv C - Nhật Chủ (can ngày) chỉ có điểm vượng đắc địa ở : 13 - Lộc (tức ở trạng thái Lâm Quan) có min là 4,05đv 14 – Kình dương (tức ở trạng thái Đế Vượng) có max là 4,29đv (lấy 4,3đv) Chúng ta tạm thời xem các điểm vượng đặc trưng cho các trạng thái của bảng sinh vượng tử tuyệt theo dự kiến và đã được xác định ở trên là các hằng số cơ bản của "Thuyết Vũ Trụ Hẹp". Vì vậy tôi mong muốn bạn đọc cùng tham gia với tôi nghiên cứu các ví dụ trong thực tế để nhanh chóng xác định được chính xác các hằng số này. Số điểm đặc trưng cho các trạng thái trong bảng "Sinh Vượng Tử Tuyệt" Bài này tôi không đưa ra các câu hỏi trọng tâm, vì vậy ai không hiểu hay thấy không hợp lý ở phần nào thì cứ hỏi, tôi sẽ trả lời.1 like
-
Tôi có thể khẳng định rằng cách đây 3 đến 4 nghìn năm những người trong nền văn minh “Ở Trần Ðóng Khố“ đã hiểu các khái niệm Hình, Tự Hình và Hại theo nghĩa bóng như tôi đã trình bầy. Bởi vì nếu họ hiểu các khái niệm này theo nghĩa đen mà Nhâm Thiết Tiều đã trình bầy như đoạn tôi trích trên thì họ đã “vứt bỏ “ hay “tước bỏ“ chúng từ lúc đó rồi chứ làm gì mà họ ngu đến mức phải tốn công, tốn giấy mực để viết lại những điều mà các vị khách thuộc nền văn minh ngoài trái đất của chúng ta mách bảo để cho các khái niệm này còn tồn tại tới ngày nay. Bây giờ tôi không dùng đến các từ Ngụy tạo hay Tuyệt Chiêu nữa bởi vì có nhiều người hình như không hài lòng với các từ này thì phải. Do vậy ở đây tôi phải nói rằng Trình Ðộ của Nhâm Thiết Tiều mặc dù là người được “Mặc Áo, Mặc Quần“ sinh ra và lớn lên trong nền văn minh gần đây nhưng lại không bằng những người “Ở Trần Ðóng Khố“ sống cách đây vài nghìn năm. Sau đây là một vài ví dụ trong cuốn "Giải Mã Tứ Trụ“ : Ví dụ 40 : Nữ sinh ngày 6/6/1961 lúc 7,01’. Năm 1963 bị liệt hai chân vì sốt cao. (Ðây là ví dụ số 1 trang 572 trong cuốn “Dự Ðoán theo Tứ Trụ“ của thầy trò cụ Thiệu Vĩ Hoa.) Qua sơ đồ mô tả hạn năm 1963 ở trên, rõ ràng chúng ta thấy nếu theo suy luận của Nhâm Thiết Tiều thì sẽ không có Ngọ đại vận, trụ tháng và trụ ngày cùng hại Sửu trụ năm vì là tương sinh; Ngọ đại vận không thể tự hình Ngọ trụ tháng và Ngọ trụ ngày…. vì cùng hành và Thìn trụ giờ không thể hại được Mão thái tuế vì Mão (Mộc) đã khắc Thìn (Thổ). Vậy thì giữa Tứ Trụ với tuế vận ở trên còn có thông tin nào để có thể gây ra được tai họa này ? Cho nên nếu như môn Tử Bình chưa có khái niệm Hình, Tự Hình và Hại thì từ ví dụ này chúng ta cũng phải đưa ra các khái niệm này. Ví dụ 124 : Sát thủ Cho Seung Hui đã tự sát sau khi giết 32 sinh viên tại học viện Virginia Tech USA . Qua sơ đồ mô tả tai họa về cái chết năm 2007 của người này, chúng ta nhận thấy trong Tứ Trụ có 2 Hợi và tai họa lại xẩy ra vào đại vận Hợi và năm (lưu niên) Hợi (2007). Tất cả có tới 4 Hợi thì 4 Hợi này chúng có liên hệ gì tới cái chết do tự người này gây lên cho chính mình và các người khác. Một điều dễ dàng cho chúng ta nhận thấy là Hợi với Hợi phải có mối liên quan tới sự tự mình làm hại mình. Do vậy người ta đã gọi Hợi gặp Hợi là Tự Hình và qua các ví dụ trong thực tế người ta thấy chỉ có 4 chi liên quan tới Tự Hình là Thìn, Ngọ, Dậu và Hợi, đúng như lý thuyết của Tử Bình đã đề cập tới. Vậy mà Nhâm Thiết Tiều đã phủ nhận các khái niệm cơ bản xây dựng lên môn Tứ Trụ này. Tại sao ông ta lại làm như vậy và mục đích ông ta làm như vậy để làm gì ? Chả nhẽ ông ta đang bác bỏ dần lý thuyết môn Tứ Trụ ra khỏi nền văn minh Ðông Phương chăng ?1 like
-
Tôi cần nói rõ hơn: Hướng chỉ là một yếu tố trong khoa phong thủy Lạc Việt - và chỉ có phong thủy Lạc Việt mới có đủ tư cách nói điều này - vì phong thủy Lạc Việt không có vấn đề "Trường phái" - mà là sự hiệu chỉnh và tổng hợp tất cả các bộ môn gọi là "trường phái" trong phong thủy có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán. Bởi vậy, một nơi đặt giường ngủ tốt phải thỏa mãn tất cả những điều kiện sau: A - Theo phương pháp của môn Bát Trạch: Hướng tốt và tọa (Chân giường) cũng tốt. B - Theo cấu trúc hình thể (Tam yếu): Nằm trong phòng có phiên tinh tốt theo phương pháp của Phong Thủy Lạc Việt. C - Đặt giường đúng vị trí Huyền không tốt (Chọn ngày theo phương pháp Huyền Không Lạc Việt/ Hoặc ngày tốt)). D - vị trí giường và phòng phải tốt trong cấu trúc hình thể nhà. E - Đặc biệt phải ưu tiên về khí - theo phong thủy Lạc Việt. Đây là yếu tố quan trong bậc nhất. Chúng ta giả thiết nhà xây ở sa mạc thì tất cả các phương pháp đều không còn giá trị. Gió và nước theo quan niệm phong thủy từ cổ thư chữ Hán chính là mô hình đồng dạng của "Khí" trong phong thủy. Đây là lý do mà tôi nhận xét bài của Hahung là một trong những bài có chiều sâu nghiên cứu nhất trong các bài tham luận ở hội thảo.1 like
-
TẠI SAO PHẢI LẤY HƯỚNG ĐẦU GIƯỜNG LÀM HƯỚNG GIƯỜNG? Trong phong thủy cũng như học thuyết Âm Dương Ngũ hành là học thuyết căn bản cho phương pháp luận của khoa phong thủy luôn xác định rằng: "Lấy Dương làm hướng". Đầu và phía trên là Dương theo quy ước Dương trên Âm dưới. Vậy lấy hướng đầu giường làm hướng. Thí dụ: Đầu phía Bắc, chân phia Nam thì là hướng giường phía Bắc. Đây là quan điểm chính thức của Phong Thủy Lạc Việt và tôi đã giảng trong các khóa do tôi phụ trách. Anh chị em học nhiều quá cũng có khi quên.1 like