Chữ Chi 之 dùng làm phụ từ khẳng định đứng sau câu vì Chi = 1 (số 1 là khẳng định, số 0 là phủ định). Chi = 1 vì gốc của nó là Chắc, mà Chắc = 1. Rồi qua quá trình “gia công ngôn từ” mà có lướt “Chắc Ừ”= Chứ = “Trư” (âm của Hán ngữ hiện đại dùng đọc chữ nho Chi 之); rồi nhấn mạnh “Chứ Hỉ!”= Chi. Hán ngữ dùng chữ Chi 之 mà đọc là “Trư” với nghĩa là Của . Của = Có (bởi Giàu Có = Giàu Của, ở đây Của đã biến nghĩa thành tài sản, do thủa xưa xã hội nông nghiệp coi “Có lắm Lúa”= Của, cho đến tận bây giờ cái gì cũng cứ “qui ra thóc” mà tính), nhưng Hán ngữ lại không có gốc của từ “Trư” (chữ Chi 之) là ở đâu ra. Do chữ Chi 之 nó là gốc Việt, từ Chắc=1 đã đẻ ra Chi (“Chắc Ừ!”= Chứ = “Chứ Hỉ!” = Chi). “Có Chắc”= Cắc, Cắc trở thành mệnh giá 1 nhỏ nhất của tiền, gọi là một cắc bạc (mà tiếng Anh gọi là Coin). Nhấn mạnh “Được Chắc!”= Đắc, nho viết từ Được bằng chữ Đắc 得, Hán ngữ dùng chữ Đắc 得 này, (nên Từ điển Viện ngôn ngữ nói Đắc 得 là cái “tố gốc Hán”, trang 117). Chữ Chi 之 được Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ giải thích là một “tố gốc Hán” (!), trang 67, và giải nghĩa: 1. dùng để thay thế người, sự vật nói đến ở trước, nêu ví dụ Vị Chi 謂 之(thì tức là Chi là phụ từ khẳng định đứng sau câu, giống như từ Đấy=Đích, nói “nhân chi”, “sự chi” tức cũng là “người đấy”, “việc đấy”; còn Vị Chi 謂 之 có nghĩa là “nói là”, chữ Vị 謂 nghĩa là nói, nó là tạo thành do lướt câu nhấn mạnh “Van Đi!”= Vị 謂, chữ Chi 之 nghĩa là Ừ = Ạ = Dạ = Dã 也 = Là, Vị Chi 謂 之 tức Nói Là, “2 cộng 2 Vị Chi 4” tức “2 cộng 2 Nói Là 4”, làm sao có thể không nói là 4 được?).2. dùng giữa từ trung tâm và định ngữ như “của” (thì cũng như là câu “nhân chi sơ tính bổn thiện”, câu này là Việt văn chứ không phải Hán văn, nghĩa là “người của sơ sinh tính vốn thiện”. Nhưng Chi 之 nó là từ gốc Việt chứ không phải là cái “tố gốc Hán”. Từ nguyên của Chi 之 là Ừ hay Dạ (“Chắc Ừ!”= Chứ = “Chứ Hỉ!”= Chi) . Không tin tra mạng Thuyết Văn Giải Tự coi: Chi 之 đọc “Chỉ Nhi thiết 止 而 切” tức lướt “Chỉ 止 Nhi 而”= Chi 之 (Hán ngữ mà đọc thì là “Trử 止 Ár 而”= Trár, làm sao thành âm “Trư 之” như họ đọc chữ Chi 之 được?) lại còn chú giải “Trạch Cô viết Chi vãng thị dã 釋 詁 曰 之 往 是 也 Trạch Cô nói Chi xưa là dạ”, rõ ràng Chi xưa có nghĩa =Là=Dã也=Dạ=Ạ=Ừ=Chứ=Chi, có chạy trời cũng không ra khỏi cái nắng NÔI của đất Việt.