-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 02/09/2013 in all areas
-
Cuộc gặp giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và con trai cố Tổng thống Mỹ John Kennedy (LĐCT) - Số 34 - Chủ nhật 01/09/2013 10:56 Tuần rồi lại có dịp ra Hạ Long chơi, ngồi trên tàu ra thăm vịnh, giữa trời mây, sông nước lại nhớ đến một chàng trai người Mỹ và câu chuyện 15 năm trước. Kennedy con (ngoài cùng bên phải), Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng phu nhân và con gái. Ảnh: D.T.Q Vào một buổi sớm, tôi nhận được từ Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp tin nhắn “Chiều nay, anh Văn hẹn đến sớm có việc”. Hôm đó là chủ nhật - ngày 23.8.1998 , gặp tôi, Đại tướng bảo rằng, một tiếng nữa khách mới tới nên muốn trao đổi trước vài điều. Vị khách khá đặc biệt, là một người Mỹ, mới 38 tuổi, tức là thua chủ nhà đúng... nửa thế kỷ tuổi vì chỉ hai ngày nữa (25.8), vị lão tướng của chúng ta bước vào tuổi 88. Điều được coi là đặc biệt vì khách là con trai của cố Tổng thống Mỹ John Fitzgerald Kennedy (JFK) và cũng mang tên của bố, chỉ kèm theo chữ “Junior”, còn gọi tắt là “John-John”. Đến Việt Nam bằng con đường du lịch, nhưng anh ta lại được Ban Đối ngoại Trung ương cử người hướng dẫn đến thăm vị tướng danh tiếng của Việt Nam. Thời điểm ấy, Việt Nam và Mỹ mới bình thường hoá được đôi ba năm nên sự đến thăm này hẳn cũng mang theo một ý nghĩa nào đó (?). Trong câu chuyện, Đại tướng có lúc thoáng nói đến một cơ hội đã qua, khi tướng Westmoreland đã từng có dự kiến mời ông qua thăm Mỹ như biểu hiện cho sự hoà giải sau chiến tranh. Một dự án rất chi tiết và chứa đựng sự trọng thị của một sự kiện lịch sử đã được thiết kế. Từ Hồng Kong, một chiếc chuyên cơ sẽ đón vị khách đặc biệt tới Mỹ và một dạ tiệc trọng thể sẽ được tổ chức tại ngôi biệt thự hay trang trại gì đó có tên “Vườn Hồng” do chính viên tướng cựu Tư lệnh quân Mỹ và đồng minh trên chiến trường Việt Nam chủ trì, với rất nhiều quan khách cả dân sự lẫn quân sự có can dự vào cuộc chiến cùng những nghi thức tạo không khí thân thiện và hoà giải... Đương nhiên, hoàn cảnh đương thời chưa thích hợp khiến dự án này đã không trở thành hiện thực. Còn kể từ sau khi hai nước đã bình thường hoá quan hệ, Đại tướng đã có hai lần gặp mặt cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara cùng các tướng lĩnh của ông ta tại Hà Nội để cùng nhau thảo luận cái chủ đề “Có những cơ hội nào đã bị bỏ lỡ hay không?” và trước đó còn gặp lại nhiều “đồng minh” cũ trong đội Con Nai của Cơ quan Tình báo chiến lược của Mỹ (OSS) từng cộng tác với Việt Minh trong Đại đội Liên quân Việt-Mỹ trên chiến khu Việt Bắc để chống phátxít Nhật trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng tám 1945 mà Đại tướng làm tư lệnh và thiếu tá A.Thomas làm cố vấn, còn ông Đàm Quang Trung làm đại đội trưởng. Những lần gặp ấy, tôi có may mắn đều được chứng kiến. Rất chu đáo dù chỉ chuẩn bị cho một cuộc gặp xã giao của một khách du lịch, vị lão tướng trao đổi với tôi nhiều chi tiết về lịch sử quan hệ hai nước để điểm lại những nội dung tích cực bên cạnh một hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh mà chính ông là người cầm quân tham chiến. Không phải là những cựu đồng minh, cũng không phải là cựu đối thủ, mà lần này lại là một người Mỹ con nhà dòng dõi ở độ tuổi chín muồi, có cơ hội góp phần tác động vào tương lai quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hoá... Ông còn hỏi tôi những chi tiết nào lớp trẻ quan tâm, vì vị khách thua ông đúng 50 tuổi. Ông còn hỏi “Mình nên xưng hô thế nào nhỉ?” để rồi tự trả lời rằng tiếng Mỹ cũng tựa tiếng Pháp có cái hay là “tutoyer” (cách xưng hộ trung tính với nguời đối thoại thân mật, nhưng lại không phức tạp trong các quan hệ xã hội như tiếng ta)... Tôi chỉ nhắc ông phải khai thác cái hình ảnh mà cả thế giới đều chú ý khi cậu bé con trai của JFK vừa tròn 3 tuổi (25.11.1963), đứng cạnh mẹ giơ tay chào khi linh cữu của vị nguyên thủ quốc gia - cũng là bố của cậu - đi ngang. Hành động ấy khiến dư luận hâm mộ và tiên đoán tới một ''ngôi sao'' của dòng họ Kennedy trên chính trường tương lai... Vị khách đến với một phóng viên nhiếp ảnh người Mỹ và một cô gái người Việt - là cán bộ của Ban Đối ngoại Trung ương. Tiếp khách chỉ có Đại tướng và phu nhân cùng một vài thành viên trong gia đình. Tôi được phép ngồi đối diện cùng nhà nhiếp ảnh, cán bộ trợ lý của văn phòng và người phiên dịch. Với dáng vóc cao lớn (đến 2m) và nét mặt đẹp trai như một tài tử xinê, John Junior bước vào phòng khách của gia đình Đại tướng với một bó hoa lớn trong tay. Anh cúi xuống trang trọng trao bó hoa với lời xin lỗi vì không lưu lại thêm 2 ngày nữa để có dịp chúc mừng ngày sinh nhật chủ nhà. Vị lão tướng của chúng ta cảm ơn cùng với bàn tay vỗ nhẹ vào vai chàng trai, với câu bình luận: “Thật không hình dung được đây chính là cậu bé nghiêm trang chào linh cữu người cha của mình năm xưa”. Câu giáo đầu ấy thực sự làm vị khách cảm động, khi đáp lại rằng rất nhiều chính khách đều có chung cảm nhận và nhắc tới hình ảnh ấy mỗi khi gặp anh. Câu chuyện bắt đầu bằng lời kể của khách về cảm nghĩ về chuyến thăm Việt Nam. Sau đó, lúc ở ngoài sân, tôi được biết rằng đây là lần thứ hai anh đến Việt Nam nhưng là lần đầu ra Hà Nội vì lần trước du lịch lên Đà Lạt. Trong lần này, anh chỉ thăm hai địa điểm là vịnh Hạ Long - thời điểm đó mới được UNESCO công nhận là Di sản thế giới (1994) - và tiếp đó là... Pác Bó, trước khi về Hà Nội. Khen Hạ Long đẹp, nhưng anh dành nhiều thời gian hơn để nói về Pác Bó. Chọn điểm đến Cao Bằng, John hẳn không chỉ chú ý tới cảnh đẹp một vùng núi đá vôi với dòng Bằng Giang và cây cối xanh tươi. Anh và người đồng hành còn đem theo chiếc thuyền dã chiến bằng caosu để thăm viếng cảnh quan dọc sông và lưu lại một đêm tại cái di tích mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn làm bản doanh cho cuộc cách mạng giải phóng của mình. Năm ấy, John-Junior đã 38 tuổi. Ra đời lúc cha đã đắc cử tổng thống (1960), chưa hết nhiệm kỳ JFK đã bị ám sát trên đường đi vận động tái cử (22.11.1963). Cậu bé lên ba ấy đã trải qua những năm tháng trưởng thành trong hào quang của một gia tộc dòng dõi cùng nỗi ám ảnh về những tai hoạ như định mệnh luôn rình rập bởi những cái chết bất đắc kỳ tử, mà cha của cậu bé không phải là duy nhất... John-Junior vào thời điểm đó đã là chủ nhiệm một tờ báo ở thủ đô Hoa Kỳ (Washington Chronicle) và lúc Việt Nam có dư luận cho rằng anh đang chuẩn bị bước vào chính trường (tranh cử thống đốc bang hoặc thượng viện Mỹ) vào đầu thiên niên kỷ mới (2000). Rất có thể cuộc viếng thăm Việt Nam cũng nằm trong lộ trình đó (?). Trong câu chuyện, vị khách Mỹ đưa ra những nhận xét rất tinh tế khi đặt câu hỏi với chủ nhà: Cảnh quan Pác Bó rất đẹp, nhưng dân cư ở đó còn quá nghèo. Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chọn nơi đó là đại bản doanh cho cuộc cách mạng của mình?”. Tiếp khách, Đại tướng vẫn mặc quân phục, nhưng nghe ông trả lời thì lại mang phong cách của một ông giáo dạy sử khi từ tốn giảng giải cho vị khách trẻ tuổi của nước Mỹ một bài lịch sử về chiến tranh và cách mạng Việt Nam, về một căn cứ địa và chiến tranh nhân dân... Rồi Đại tướng chỉ tay về phía bức ảnh ông chụp với Bác Hồ vào thời điểm Hà Nội mới giành được chính quyền và nói với khách rằng bức ảnh này do một người bạn Mỹ trong “nhóm Con Nai” (tức những sĩ quan OSS) chụp khi gặp nhau ở thủ đô sau ngày phátxít Nhật đầu hàng. Ông giáo dạy sử nhắc vị khách rằng với các bạn trẻ thì chỉ biết đến quan hệ Việt-Mỹ là một cuộc chiến tranh khốc liệt, nhưng cần phải nhớ rằng trước đó đã từng có mối quan hệ “Đồng minh”, rằng Tuyên ngôn Độc lập Mỹ đã được trích trong Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam và từ những thế kỷ trước, chính người soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ (Thomas Jefferson) đã từng say mê với giống lúa của xứ Đàng Trong (Cochinchine)... Hơn thế, giới trẻ hai nước cần tìm thấy những bài học lịch sử từ trong chiến tranh để viết tiếp những trang sử tương lai phải là hoà bình và hữu nghị... Khách ngồi im lặng ghi chép trong khi người trợ lý nhiếp ảnh “nổ” liên tục để ghi lại hình ảnh cuộc gặp gỡ. Đại tướng vừa dứt một bài lịch sử khá dài thì John Junior đặt ra một câu hỏi mà chắc anh ta đã dự kiến từ lâu: “Tướng quân nghĩ gì về cha tôi, Tổng thống John Kennedy?”. Đại tướng trả lời - điều mà chắc ông cũng dự liệu trước (đại ý): Tổng thống Kennedy là người đã có những bước thúc đẩy Mỹ can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Nhưng chính vào lúc ông nhận ra những sai lầm và dự định có những bước điều chỉnh thì ông bị ám sát. Johh Junior tỏ ra cảm động về quan điểm của Đại tướng và nói rằng anh sẽ tiếp tục suy nghĩ về Việt Nam và cảm ơn những gì Đại tướng và gia đình đã dành cho anh trong buổi tiếp kiến đáng nhớ này. Trước lúc ra về, trong khi chờ Đại tướng và gia đình ra ngoài sân chụp ảnh lưu niệm, tôi có cơ hội hỏi anh, mới được biết việc anh đã từng đến Việt Nam lần đầu ở Đà Lạt. Thời điểm này anh đã có vợ (cưới năm 1996) và mẹ anh đã qua đời từ năm 1994 mà lần này đến Việt Nam không đi cùng vợ, như thế có nghĩa là chuyến đi Việt Nam lần này không chỉ là du lịch thuần tuý. John Junior thổ lộ, đã đến lúc anh có ý định tham chính trường và nói rằng Việt Nam là trải nghiệm gần nhất và sâu sắc nhất đối với nền chính trị của nước Mỹ, nên cuộc khảo sát Việt Nam lần này sẽ rất bổ ích. Anh còn nhắc đến một nhận xét rất trực quan và không kém phân sắc sảo rằng: Trên đường từ Cao Bằng về Hà Nội, anh quan sát thấy một hiện tượng mà một người Mỹ như anh chưa giải thích được: Rất nhiều đàn ông ngồi trong quán nước, còn rất nhiều phụ nữ thì đang tham gia vào việc tu sửa đường - một công việc rất nặng nhọc. Anh còn kể rằng lúc đầu thấy các phụ nữ dùng những tấm khăn che kín mặt chỉ để hở hai đôi mắt, anh ngỡ tưởng ở đất nước này cũng phổ biến đạo Hồi. Khi nghe giải thích rằng đó chẳng qua chỉ là cách để chống nắng và bụi nhằm giữ... sắc đẹp thì anh cười rất hồn hậu và nói rằng còn quá nhiều vấn đề để khám phá Việt Nam. Điều này trùng khớp với một ý kiến của Đại tướng thường nói với các khách Mỹ rằng sở dĩ quốc gia hùng mạnh này đã không thắng (một cách nói khéo, tránh dùng từ “thua”) trong chiến tranh Việt Nam vì đã không hiểu Việt Nam... Đã 15 năm trôi qua, tôi luôn nhớ đến sự kiện này, không chỉ vì mình là người quan sát hiếm hoi được tham dự để thuật lại với mọi người, nhưng điều để lại ấn tượng sâu sắc chính là hình ảnh vị Đại tướng trong cuộc gặp này đã hoá thân thành một ông thầy dạy sử để thuyết phục và cảm hoá một chính khách nhiều triển vọng của nước Mỹ như John-Junior. Thật đáng buồn, như định mệnh, chưa đầy một năm sau, khi những ý tưởng dấn thân vào chính trường chưa diễn ra, JFK Junior đã chết bất đắc kỳ tử trong một chuyến bay cùng vợ và một số thành viên trong gia đình, trên một chiếc máy bay do chính anh cầm lái vào chập tối ngày 16.7.1999. Cho dù, trước khi lìa trần, mẹ của John đã căn dặn đứa con nối dõi của cố Tổng thống JFK phải tránh xa nỗi đam mê lái máy bay, vì dường như bà đã cảm nhận trước những tai họa định mệnh của dòng họ Kennedy. Cái kết cục đáng buồn ấy khiến tên tuổi của chàng trai John Junior chỉ còn tô đậm thêm bằng chứng về nỗi bất hạnh của dòng họ đã làm thiếu vắng trên chính trường của nước Mỹ gương mặt một chính khách đã chuẩn bị trong hành trang của mình những bài học về Việt Nam. Sở dĩ ở đầu bài viết này tôi nhắc đến khung cảnh của vịnh Hạ Long vì chính trong chuyến đến Việt Nam cách đây 15 năm, một trong những mối quan tâm của anh là vấn đề bảo vệ môi trường của một đất nước đã từng bị tàn phá bởi cuộc chiến tranh của nước Mỹ lại sở hữu những di sản tuyệt vời như vịnh nước vừa được UNESCO công nhận là di sản này. John Junior khen di sản bao nhiêu thì chê dự án xây dựng cảng Cái Lân lúc đó đang rầm rộ triển khai bấy nhiêu. John có nói với tôi rằng sau chuyến thăm Việt Nam, khi về Mỹ sẽ mở một chiến dịch bảo vệ vịnh Hạ Long... Nay thì John Junior không còn nữa. Ngồi trên thuyền vãn cảnh Hạ Long, quan sát thấy cảng Cái Lân sau bao nhiêu năm vẫn ảm đạm, vịnh Hạ Long không ngừng thu hút bạn bè mang lại nguồn lực cho đất nước nhưng cũng luôn đối mặt những thách đố giữa bảo tồn và phát triển, lại nhớ đến tấm lòng một người Mỹ nhiều khát vọng thay đổi hướng tới sự tốt đẹp, nay đã khuất. Nhắc lại cuộc gặp 15 năm trước cũng để hướng tới dịp chúc mừng Đại tướng sắp có thêm một tuổi.1 like
-
Cảm ơn Thanhdc đã phát hiện đoạn trích dẫn này.Nhưng ngay cả khi tất cả các nhà khoa học thế giới xác định rằng: nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử chính là cội nguồn của văn minh phương Đông - thì - lúc ấy họ mới nhìn thấy phần nổi của tảng băng chìm. Vấn đề còn lại chính là giá tri trí tuệ đích thực của nền văn minh này. Đây chính là nền văn minh có thể phục hồi được toàn bộ một lý thuyết thống nhất mà nhân loại đang tìm kiếm. Tôi có thể khẳng định rằng: Ngay cả nếu sự việc đi tìm Hạt của Chúa của công đồng khoa học châu Âu vừa rồi mà thành công (*) - nó sẽ tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triền của văn minh nhân loại - thì - đó cũng chỉ là một con tem dán trên lưng một con voi biểu tượng của nền văn hiến Việt. ==================== * Chú thích: Tôi luôn xác định rằng: Không có một điều kiện duy nhất tạo ra các hạt cơ bản - gọi là Hạt của Chúa.1 like
-
SỰ MẶC ĐỊNH - TIÊN ĐỀ & MỘT HỆ THỐNG LÝ THUYẾT. Quí vị và và anh chị em quan tâm thân mến. Nếu xét về hiện tượng tồn tại khách quan thì mọi sự kiện và hiện tượng đều liên quan đến nhau. Sự liên quan này không chỉ ngay trong thời gian hiện hữu mà còn là cả một qúa khứ từ khởi nguyên vũ trụ đến ngày nay và cả trong tương lai. Tính hợp lý trong việc lý giải mọi hiện tượng liên quan trong tiêu chí khoa học để thẩm định một giả thuyết khoa học....chính là xuất phát từ một thực tại của mối liên hệ giữa mọi hiện tượng từ khởi nguyên vũ trụ đến ngày nay và cả tương lai.TTNC LHDP và cá nhân tôi - cùng với những anh chị em tham gia diễn đàn - có mục đích tìm hiểu một hệ thống lý thuyết phản ánh mối liên hệ giữa mọi hiện tượng nhân danh khoa học. Tất nhiên nó phải lấy tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học làm chuẩn mực để tự thẩm định. Chính vì lấy tiêu chí khoa học làm chuẩn mực cho sự thẩm định, nên nó xác định sự nhân danh khoa học trong các nghiên cứu của TTNC LHDP, cá nhân tôi và anh chị em tham gia. Từ những nền tảng căn bản của tri thức khoa học hiện đại, chúng ta xác định rằng: Hầu hết các tiêu chí, nguyên tắc....trong tất cả các phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương, như: Tử Vi, Phong thủy, Đông Y, Bốc Dịch....vv.....đều mang tính mặc định. Thị dụ: 1/ Người sinh năm 1987 là mạng Hỏa theo sách Tàu - hoàn toàn mang tính mặc định. Chính các nhà nghiêncứu Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay cũng chẳng hiểu vì sao (Thiệu Vĩ Hoa - Đã trích dẫn) Hoặc: 2/ Trong phong thủy, Cô A sinh năm Mậu Tuất, được xác định là phi cung Ly theo sách Tàu, thuộc Đông Tứ trạch, cũng hoàn toàn mang tính mặc định. Sự xác định nguyên tắc phi cung bản mệnh liên quan đến phi tính Huyền Không thuận nghịch là do tôi và TTNC LHDP xác định. Di sản từ cổ thư chữ Hán cũng không thấy nói đến điều này. 3/ Bảng lập thành lá số Tử Vi mà các thày bà xem hàng ngày cũng chỉ là một sự mặc định. Tóm lại, tất cả những phương pháp ứng dung của Lý học lưu truyền từ hàng ngàn năm nay thể hiện ở bản văn chữ Hán và trong dân gian đều chỉ mang tính mặc định. Bởi vì nó chỉ là hệ quả ứng dụng của một lý thuyết , nhưng đã thất truyền. Có thể nói: Hầu hết các nguyên tắc, quy ước, quy định trong các phương pháp ứng dụng của Lý học Đông phương đều mang tính mặc định. Trên cơ sở này và thực tế đã xác định: Chính tính mặc định và thiếu sự liên hệ với một hệ thống lý thuyết đã thất truyền và tính mâu thuẫn trong nội dung cấu trúc của các phương pháp ứng dụng (Thí dụ: Mâu thuẫn giữa các trường phái Phong thủy có nguồn gốc từ cổ thư), do sai lệch từ nguyên lý căn để. Nến nó trở thành một yếu tố quan trong trong nhận thức của những tri thức khoa học hiện đại khi xác định rằng: Phong thủy - và các ngành ứng dụng khác - của Lý học Đông phương là "giả khoa học". Nhưng trong sự tìm hiểu từ nhiều năm qua, tôi nhận thấy rằng: Có những điểm giống nhau và khác nhau của hai nền văn minh Đông Tây trong các phương pháp ứng dụng thực tế những thành quả thuộc về hai nền văn minh. Đó là: Tất cả những giá trị sử dụng của nền văn minh Đông Phương đều chỉ là hệ quả có tính ứng dụng của một hệ thống lý thuyết đã thất truyền và sai lệch do nền văn minh đó đã sụp đổ và không để lại dấu vết. Trong lịch sử văn minh hiện tại thì chính là nền văn minh mà các nhà khoa học gọi là "nền văn minh thứ V ở Nam Dương Tử". Xa xôi hơn, theo nghiên cứu của tôi thì đây chính là nền văn minh kế thừa những di sản của một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ - mà tôi gọi là văn minh Atlantic. Nền tảng tri thức với những phương tiện kỹ thuật của nền văn minh - là cơ sở để tạo ra hệ thống lý thuyết của Lý học Đông phương đã bị xóa sổ, bởi một thiên tai khủng khiếp trên chính trái Đất này. Cho nên, ngay cả nếu hệ thống Lý thuyết của nền văn minh này còn giữ lại một cách hoàn chỉnh đến ngày nay thì cũng sẽ rất mơ hồ. Huống chi nó còn sụp đổ lần thứ hai. Đó chính là sự sụp đổ của quốc gia Văn Lang - cội nguồn Việt tộc - ở bở Nam Dương tử. Sự thất truyền và sai lệch của hệ thống lý thuyết này, chính là nguyên nhân để nó không thể giải thích một cách hợp lý - là yếu tố tối thiểu trong các tiêu chí khoa học - những luận cứ sử dụng trong các phương pháp ứng dụng của nền văn minh Đông phương - hệ quả liên hệ với hệ thống lý thuyết này. Do đó, khi những phương tiện kỹ thuật mang tính ứng dụng của nền khoa học Tây phương va chạm với tính ứng dụng của khoa học Đông phương thì tính hợp lý lý thuyết của khoa học ứng dụng Tây phương giải thích được mối liên hệ này. Còn tính ứng dụng của khoa học Đông phương thì không - Do tính thất truyền và sự mất hẳn nền tảng tri thức và phương tiện kỹ thuật liên quan. Đây chính là điểm khác biệt của hai nền văn minh Đông Tây khi va chạm và nền văn minh Tây phương chính thức lên ngôi ở Đông phương từ nửa đầu thế kỷ trước. Đó cũng là nguyên nhân căn bản để các nhà khoa học Tây Phương và những nhà khoa học có nền tảng trí thức Tây phương cho rằng: Những bộ môn ứng dụng của văn minh Đông phương "không có tính khoa học". Chính vì nó thiếu tính liên hệ hợp lý tối thiểu giữa thực tế ứng dụng với một lý thuyết liên hệ. Nhưng sự giống nhau khi hai nền văn minh đổi ngôi trong những gíai đoạn tiền hội nhập ban đầu ở phương Đông, chính là: cả hai nền văn minh đều có những hệ qủa ứng dụng được kiểm chứng trên thực tế. Riêng nền văn minh Đông phương thì sự kiểm chứng trải hàng ngàn năm. Thực tế ứng dụng làm cho chính những nhà khoa học Tây phương thứ thiệt - chính gốc Tây và là người Tây luôn - phải ngơ ngác và mô tả một nền văn minh Đông phương huyền bí. Nhưng họ không chê bai và nghiêm túc nghiên cứu nền văn minh này. Tuy nhiên, họ đã thất bại. Vì không ai có thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai. Họ đã mặc định: Nền văn minh Đông phương huyền bí này có nguồn gốc từ văn minh Hán. Đấy là sai lầm căn bản cho mọi nghiên cứu về Lý học Đông phương. Điều này tôi đã nhiều lần chứng minh nền không nói sâu thêm ở đây. Sự khác biệt khi va chạm tính ứng dụng của hai nền văn minh , chính là: Tất cả những ứng dụng của văn minh Đông phương đều là hệ quả của một hệ thống lý thuyết đã hoàn chỉnh, giải thích tất cả mọi hiện tượng từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi hành vi của con người, có khả năng tiên tri. Còn nền văn minh Tây phương thì chỉ là kết quả của khoa học thực nghiệm với những lý thuyết mô tả vũ trụ, thiên nhiên...mang tính cục bộ và không có khả năng tiên tri, hoặc khả năng tiên tri hạn chế. Đấy chính là điểm khác biệt và giống nhau khi hai nền văn minh va chạm, mà tôi đã nói ở trên. Nhưng chính nền văn minh Tây phương khi phát triển đến ngày nay và những chuẩn mực của tiêu chí khoa học hình thành thì chính nó lại quay trở lại với nền văn minh Đông phương. Và chính những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học của Tây phương lại là điểm tiếp nối, cơ sở của sự "Đối thoại giữa hai nền văn minh". Đây cũng chính là thời điểm mà những con nòng nọc tiến hóa trở thành cóc và trở về với cội nguồn Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Vì là sự phục hồi một hệ thống lý thuyết đã có sẵn của nền văn minh Đông phương - Khi mà những nền tảng tri thức và cơ sở vật chất hình thành nên lý thuyết đó đã mất đi - thì - để phục hồi lại lý thuyết này , không thể sử dụng nhựng phương tiện kỹ thuật của nền văn minh Tây phương hiện đại để chứng nghiệm những di sản ứng dụng của văn minh Đông phương. Cũng không thể lấy cơ sở nền tảng trí thức khoa học Tây Phương hiện đại nhất , như thuyết Lượng tử, thuyết Tương đối ...để so sánh đối chiếu. Mà phải lấy tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học làm chuẩn mực. Trên cơ sở so sánh đối chiếu với tiêu chí khoa học thì tất cả mọi bí ẩn của nền văn minh Đông phương bắt đầu hé mở với những di sản phi vật thể - chủ yếu trong văn hóa truyền thống Việt. Bắt đầu từ nguyên lý "Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt" Chính từ nguyên lý căn để nhân danh nền văn hiến Việt này, đã giải thích tất cả có tính hệ thống những gía trị của Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt , phủ hợp với tất cả những tiêu chí khoa học khắt khe nhất cho một lý thuyết khoa học và cả những tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Đây chính là ứng cử viên duy nhất của "một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" - mà nhà tiên tri vĩ đại Vanga đã nói tới. Nhưng tiếc thay! Khoảng cách giữa hai nền văn minh còn quá xa. Nền tảng tri thức xã hội và phương tiện khoa học kỹ thuật hiện nay, không phải là nền tảng tri thức và phương tiện của nền văn minh Atlantic. (Với những nghiên cứu của cá nhân tôi thì Kim Tự Tháp lớn nhất của Ai Cập có khả năng nằm đúng Trung tâm các đại lục địa vào thời kỳ Atlantic - theo phương pháp định tâm nhân danh phong thủy Lạc Việt - cùng với hàng loạt Kim Tự tháp khác trên khắp thế giới - mà người Atlantic đã dùng để cân bằng các lực tương tác của vũ trụ với Địa cầu, nhằm tránh một thảm họa toàn cầu. Và tuy họ đã thất bại, nhưng cứu được những gì còn lại cho chúng ta hiện nay. Đó chính là nguyên nhân, có rất nhiều giá trị văn minh cổ đại có nét tương đồng về chiêm tinh, Kim tự tháp và các truyền thuyết gợi nhớ về một thảm họa Đại Hồng Thủy). Chính vì khoảng cách quá xa đó, nên ngay cả những nhà khoa học hàng đầu - tiêu biểu của nền tảng tri thức khoa học hiện đại, không dễ gì tiếp thu được ngay những gía trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương - những gía trị còn lại đích thực của văn minh Atlantic. Tuy nhiên, như tôi đã trình bày - chính tiêu chí khoa học hệ quả của nền văn minh hiện đại sẽ là cầu nối giữa hai nền văn minh. Đó là cầu nối duy nhất hiện nay. Vậy thì trên cơ sở xác định một nền văn minh Đông phương huyền vĩ với những tri thức vượt trội qua tiêu chí khoa học, chúng ta sẽ thấy những khả năng liên hệ giữa mọi hiện tượng đều có khả năng tiên tri không có gì là lạ. Kết hợp với nhận định của nhà khoa học hàng đầu - Giáo sự Trịnh Xuân Thuận - phát biểu: "Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viễn dẫn đến toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ" . Đây là một sự xác định mang tính lý thuyết - tổng hợp tất cà những tri thức khoa học hiện đại. Nhưng chính trí thức khoa học tiên tiến nhất - qua lời phát biểu của giáo sư Trịnh Xuân Thuận - chưa có tính ứng dụng. Còn Lý học Đông phương đã ứng dụng từ lâu. Và không chỉ dừng ở giải thích. Nó còn có khả năng tiên tri. Trên cơ sở sự so sánh giữa các phương pháp ứng dụng của hai nền văn minh thì chúng ta thấy rằng: Để tìm hiểu bản chất những giá trị của nền văn minh Đông phương , thực chất là tìm hiểu bản chất của một hệ thống lý thuyết đã thất truyền. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Giá trị trí thức căn bản của nền Lý học Đông phương - và là nhân tố tạo nên những giá trị của nền văn minh Đông phương huyền vĩ, sừng sững thách đố tất cả tri thức con người cho đến ngày hôm nay. Đây chính là lý thuyết thống nhất mà tất cả những tri thức hàng đầu của nền văn minh hiện đại đang mơ ước tìm kiếm. Còn tiếp1 like
-
Cái gì xung? Tránh 3 năm Tuất - Dậu - Thân, còn lại năm nào cũng cưới được. Cưới xong rồi hãy hỏi năm sinh con.1 like
-
Động đất tại Vân Nam, 5 người thiệt mạng01/09/2013 03:40 Ngày 31.8, một trận động đất mạnh 5,9 độ Richter xảy ra tại thị trấn Bôn Tử Lan thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, khiến ít nhất 5 người chết và 24 người bị thương, theo Tân Hoa xã. Động đất còn gây lở đất, làm sập 600 ngôi nhà và gây hư hại cho hơn 55.000 ngôi nhà khác, buộc 9.000 người phải sơ tán. Sau động đất, khu vực lại hứng thêm hơn 200 đợt dư chấn, nhưng đo được không quá 4,9 độ Richter, theo Trung tâm mạng động đất Trung Quốc. Trước đó, vào ngày 30.8, một trận động đất mạnh 5,1 độ Richter làm rung chuyển khu vực Tân Cương nhưng không ai thiệt mạng. * Cũng vào ngày 31.8, truyền hình Nepal đưa tin một trận động đất mạnh 6 độ Richter làm rung chuyển thủ đô Kathmandu vào tối 30.8, khiến nhiều người dân địa phương hoảng loạn, chạy ra đường và 3 người bị thương. Minh Trung1 like
-
Khổ hay sướng là do tâm sinh , nếu vậy là chị HC không khổ rồi chúc mừng chị . Mong chị sớm khỏi bệnh và thật nhiều hạnh phúc1 like