• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 20/07/2013 in all areas

  1. Thưa quí vị. Dưới đây là phân trích dẫn trong bài viết của giáo sư Nguyễn Lân Dũng liên quan đến luận điểm của tôi, được trích lại để tiện quý vị tiện quán xét: Qua phần trích dẫn này, cho thấy giáo sư đã tóm lược những luận điểm của tôi. Nhưng riêng có đoạn in đâm và đặt trong khung thì lại không phải luận điểm của tôi. Mà là của nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng. Tôi chưa bao giờ để cập đến Trung thiên Đồ, như là một bằng chứng chứng minh Dịch học là của Việt Nam, trong tất cả các bài viết và các sách đã xuất bản. Trong bài viết của mình, giao sư không bày tỏ ý kiến của mình về luận điểm của tôi, cũng như của ông Nguyễn Thiếu Dũng. Tuy nhiên, trong phần trao đổi,có những người đã bày tỏ cảm tưởng và giáo sư có trả lời như sau: Ngoài ra giáo sư còn có những quan niệm và ý kiến như sau qua các phản hồi liên quan đến bài viết: Thưa quí vị. Như vậy - bỏ qua phần trích dẫn sai luận điểm của tôi - nhầm từ ông Nguyễn Thiếu Dũng sang Nguyễn Vũ Tuấn Anh, vì cũng có thể đây là do lỗi kỹ thuật khi đưa bài lên mang - thì bạn đọc cũng thấy rằng: Quan điểm của giáo sư Nguyễn Lân Dũng không đồng tình với luận điểm của tôi và phần kết luận của ông Nguyễn Thiếu Dũng (Nhưng phương pháp chứng minh của tôi và ông Nguyễn Thiếu Dũng là hai phương pháp khác nhau). Điều này được thể hiện ở sự đồng tình của giáo sư với các comment phản bác luận điểm của tôi, mà đã được trích dẫn ở trên. Để bảo đảm tính công khai, sòng phẳng và minh bạch theo tinh thần học thuật, tôi đã phản hồi trong bài viết này của giáo sư Nguyễn Lân Dũng , như sau: Tôi hy vọng giáo sư Nguyễn Lân Dũng sẽ có phản hồi trước những vấn đề được đặt ra trong bài viết này của tôi.Vấn đề được đặt ra là: . Chính xác đến đâu phải chờ những hội thảo khoa học tầm cỡ quốc tế. Nhân loại đã có Kinh Dịch, giữ được Kinh Dịch đến nay là tốt lắm rồi. Xin chân thành cảm ơn giáo sư Vậy xin được hỏi giáo sư đã đọc những luận cứ của tôi tronhg các sách đã xuất bản, hay trong những bài viết liên quan chưa? Hay giáo sư chỉ nghe nói lại rồi cảm nhận. Nếu giáo sư đã đọc rồi thì giáo sư có chỗ nào chưa thấy thuyết phục, hy vọng giáo sư sẽ chỉ ra một cách trọn vẹn những sai lầm chưa có tính thuyết phục trong hệ thống luận điểm của tôi - gồm cả ngữ cảnh liên quan - để tôi chiêm nghiệm lại. Bài viết của giáo sư được rất nhiều người phản hồi khen ngợi, chứng tỏ giáo sư rất uyên bác về Kinh Dịch. Nhưng chính giáo sư lại viết: Vậy - Thưa Giáo sư: Phải chăng những người ca ngợi sự hiểu biết thâm thúy của giáo sư về Kinh Dịch đã lầm. Hay giáo sư thật sự uyên bác, nhưng bản chất khiêm tốn? Tuy nhiên, đây là vấn đề học thuật nghiêm túc. Đức tính khiêm tốn như là một yếu tố cần trong giao tiếp, chứ nó không làm nên nội dung học thuật. Vậy tôi hy vong giáo sư xác định rõ điều này, để tiện việc trao đổi. Hoặc Giáo sư viết: Vậy thưa Giáo sư: Những phản hổi của giáo sư với tư cách học vị giáo sư với Ngọc Hải chỉ là sự cảm nhận không luận cứ hay đó là một nhận xét học thuật? Còn việc giáo sư cho rằng: Tôi nghĩ rằng: Việc Giáo sư tin, hay không tin vào "bói toán" là quyền của của Giáo sư. Tôi cũng không có gì để trao đổi về niềm tin này của Giáo sư. Nhưng là một người nghiên cứu về Kinh Dịch với học vị giáo sư và đã viết bài với nội dung này thể hiện nhận thức của mình với các tác giả khác, chắc giáo sư cũng biết rằng: Ngay các nhà nghiên cứu Trung Quốc với đầy đủ học hàm, học vị, cũng rất nhiều ý kiến khác nhau về bản chất của Kinh Dịch, trong đó không ít người cho rằng Kinh Dịch là một cuốn sách bói. Thực tế nó cũng đã dùng để bói từ hàng ngàn năm qua. Vậy Giáo sư có ý kiến gì về thực tế này của Kinh Dịch về mặt học thuật - cho dù Giáo sư không tin? Vì những mâu thuẫn này trong ngay bài viết của giáo sư với những phản hồi cũng của chính giáo sư sau đó, tôi hy vọng giáo sư có ý kiến để tiện việc trao đổi tiếp. Xin cảm ơn sự quan tâm của Giáo sư. ========================= PS: Quí vị quan tâm có thể vào đường link này để tham khảo nguyên văn bài viết và các phản hồi. http://blogtiengviet...single#c2432312
    2 likes
  2. Thưa quí vị và anh chị em quan tâm. Bài viết dưới đây trên Blog của giáo sư Nguyễn Lân Dũng từ đầu năm 2012. Nhưng mãi đến hôm nay - 20.7. năm 2013, tôi mới có duyên được đọc bài này. Vì có liên quan đến một số vấn đề về Kinh Dịch và có bàn đến luận điểm của tôi trong bài viết này, nên tôi đưa vào diễn đàn để tiện tham khảo và trao đổi. Do một số hình minh họa trong bài viết của giáo sư không tương thích với cấu trúc của diễn đàn, nên tôi không thể hiện được trong bài viết này.Nhưng phần bản văn hoàn toàn đầy đủ. Bạn đọc có thể đối chiếu nguyên bản theo đường link dưới đây. http://blogtiengviet...r_c_kinh_dar_ch Trước khi có ý kiến về bài viết này, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đối với Phamhung, đã sưu tầm được bài viết này và giới thiệu với tôi. =================================== ĐẦU XUÂN ĐỌC KINH DỊCH 25/01/2012@19h24, 9229 lượt xem, Tác giả: nguyenlandung Chuyên mục: Nhật ký Giáo sư Nguyễn Lân Dũng Hiện nay có rất nhiều sách viết và dịch về Kinh Dịch. Các bạn trẻ lật vài trang xem qua thấy chưa hiểu gì cả, vì vậy, ít bạn chịu khó đọc kinh Dịch. Ngược lại, có bạn đọc ít nhiều sách về Kinh Dịch lại chuyên đem chuyện này ra để loè bè bạn và dự đoán lung tung về số phận từng con người. Thật ra Kinh Dịch là cái gì vậy? Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay, bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch rồi, mà ông vua huyền thoại này xuất hiện cách đây hàng nghìn năm hay hàng vạn năm thì hiện vẫn chưa có gì chứng minh được. Trải qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, đã lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm vừa lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, bởi vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý rồi. Đời nhà Tống, khi viết về Kinh Dịch học giả Trình Di đã phải thốt lên: “ Thánh nhân lo đời sau như thế có thể gọi là tột bậc”. Gần đây lại có một số tác giả lại cho rằng Kinh dịch có nguồn gốc từ Việt Nam. Tác giả Nguyễn Thiếu Dũng kết luận đanh thép: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì người đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Tác giả Phục Hy Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch.Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. (Việt báo, Thanhnienonline). Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng: Thứ nhất là cho đến ngày hôm nay, Liên hiệp quốc đã tổ chức 4 đại hội Kinh Dịch tại Bắc Kinh để tìm hiểu bản chất, nguồn gốc Kinh Dịch và đã không kết luận. Nếu như một nền văn minh mà tự nó phát minh ra hệ thống lý thuyết đó, thì tri thức xã hội của nó phải có cơ sở để tạo ra lý thuyết đó. Cho đến nay theo tôi hiểu thì chính người Trung Quốc cũng không hiểu. Rõ ràng là phải có một nền văn minh nào tạo ra nó chứ. Trên cơ sở những giá trị văn hóa phi vật thể, tôi thấy để có sự hợp lý trong lý thuyết của Kinh Dịch thì nó phải hiệu chỉnh lại. Mà nó hiệu chỉnh lại nhân danh giá trị văn hóa phi vật thể của Việt Nam tương quan với nhau. Tôi lấy ví dụ như thời Hùng Vương, người ta mặc áo "nam tả nữ hữu". Người con trai là dương thì mặc áo bên là âm, người con gái là âm thì mặc áo bên hữu là dương. Tức là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, nó đã ăn sâu vào trong chi tiết đời sống xã hội.Thế là cái nền tảng xã hội phải có cơ sở để tạo dựng nên lý thuyết này.Theo tôi đã có một nền văn minh siêu việt nào đó tồn tại 6000 năm trước, đã sản sinh ra lý thuyết này . Đã có một thiên tai mang tính toàn cầu hủy diệt nó, và những bộ phận còn lại đã lưu truyền những giá trị. Dân tộc Việt ở Nam Dương Tử chính là bộ phận sống sót , phát triển nền văn minh đó. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh Không phải không có lý khi cụ Phan Bội Châu coi Kinh Dịch “Là nhân sinh quan và vũ trụ quan của nhân loại”. Cụ Phan cho rằng đúng như tinh thần Kinh Dịch: “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúc của nhân sinh”, “Tinh thần có quy củ trật tự đạo đức là lẽ công bình của mỗi người”.Những tư duy Khổng học như “Không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phân chia không đều” (sách Luận ngữ), “Tính kế trăm năm không gì bằng trồng người” (sách Hán thư) … Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng: “Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng nhiều là ít, chẳng khen là chê, chẳng tiến là lùi, chẳng mặn là nhạt, chẳng nhanh là chậm, chẳng xấu là tốt, chẳng to là nhỏ, chẳng trước là sau, chẳng rủi là may. Hoá ra lâu nay ta quá say sưa với triết học Tây phương mà ít chú ý đến triết học Đông phương, trong khi đó thì người dân thường tuy ít học nhưng lại thường tin tưởng và làm theo vô số những lời dạy của thánh hiền. Sự biến động ghê gớm của các nước phương Tây với đầy những mâu thuẫn nội sinh đồng thời với sự hưng thịnh đột xuất của không ít quốc gia châu Á, kể cả sự phục hồi nhanh chóng sau khi xảy ra tình trạng khủng hoảng tài chính, kinh tế…đã làm cho cả nhân loại không thể không chú ý nhiều hơn đến triết học Đông phương. Văn minh châu Á trở nên hấp dẫn đối với hàng tỉ người dân bình thường ở phương Tây. Kinh Dịch là một trong những thần kỳ của triết học và văn minh Đông phương. Trong hoạt động của con người rõ ràng là âm dương luôn luôn biến động, song thường vẫn giữ được những sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không ắt hẳn sẽ sinh ra ốm đau, bệnh tật. Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là Dịch, cái lý của nó là Đạo, cái dụng của nó là Thần, âm dương khép ngỏ là Dịch, một khép một ngỏ là Biến. Ở đời, dương thường thừa, âm thường thiếu, chính vì không bằng nhau nên đã sinh và sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là Thiện-ác, nhưng cái thời, cái cơ bản của mỗi lúc một khác, không phải lúc nào cũng giống nhau. Phải hiểu rõ ràng các phép tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội. Cổ nhân dạy rằng: “Bất học Dịch khả dĩ thức tạo hoá chi đoạn” (Không học Dịch làm gì rõ được đầu mối của tạo hoá). Ngược lại: “Dịch thông tắc vật lý tự thông” (Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật khắc thông). Ngũ hành có Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Bát quái có Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Thiên can có Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí. Địa chi có Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dởu, Tuất, Hợi. Chu kỳ của cửu cung là 1 (Khảm) > 2 (Khôn) > 3 (Chấn) > 4 (Tốn) > 5 (Cấn) > 6 (Càn) > 7 (Đoài) > 8 (Cấn) > 9 (Ly) > 10 (Khảm). Ngày xưa, cổ nhân ngẩng đầu lên quan sát bầu trời, quan sát sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, cúi đầu xuống xem phép tắc dưới đất, xem những sự thích nghi của muôn loài, ngẫm nghĩ ngay về cơ thể mình và nhìn ra xa, gần từ đó làm ra các quẻ để thông suốt đức thần minh, để điều hoà cái tình của muôn vật. Dịch bắt nguồn bằng các hình ảnh, nói đúng hơn là các phù hiệu, mỗi quẻ có ba hào gồm hào âm, hào dương, ba hào xếp thành ngôi dưới, ngôi giữa, ngôi trên (đối xứng với đất, người và trời), quẻ đơn gọi là kinh quái, quẻ kép gọi là biệt quái. Vì sao như vậy, thì thượng cổ đã làm gì có văn tự. Bát quái, thái cực, hà đồ, lạc thư… đều là hình ảnh. Người xưa nói: “Đông tình vô đoan, âm dương vô thủy”, còn nói: “Vật phương sinh phương tử”. Có nghĩa là âm dương không có cái trước cái sau, không có cái này sinh ra cái kia, mọi vật đều vừa sinh vừa tử. Thực ra thì cũng không thể phân biệt rạch ròi âm dương, sinh tử. Gọi là dương khi phần dương lấn át phần âm và ngược lai, gọi là âm khi phần âm lấn át phần dương. Âm dương xen kẽ nhau và hàm chứa lẫn nhau. Âm dương lúc dày (thái), lúc mỏng (thiếu) cho nên mới có thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm. Âm là bề trái, dương là bề phải, âm là bề lưng, dương là bề bụng, âm là vật chất bên ngoài, dương là tinh thần bên trong, âm thuộc về đất, dương thuộc về trời, âm nặng nên xuống đất, dương nhẹ nên lên cao. Gọi là âm dương (chứ không gọi là dương âm) có cái lý của nó. Cái gì cũng từ dưới đi lên, từ ngoài vào trong, có phần tối mới nổi được phần sáng. Kinh dịch thật là thú vị nhưng cũng thật là khó. Đọc mãi không hiểu đừng vội lấy làm lạ. Đọc lại chỉ hiểu thêm một ít. Đọc thêm nữa lại hiểu nhiều hơn. Có nhiều sách kinh dịch, nhưng theo thiển ý của tôi thì chỉ nên đọc nguyên bản Kinh dịch qua bản dịch của học giả cừ khôi Ngô Tất Tố. Đọc Kinh dịch qua sự giải thích của người khác mất hết cả sự thiêng liêng, huyền bí, vả lại đã chắc gì hiểu được đúng để giải thích cho người khác. Chính vì vậy, các bạn trẻ đừng đọc Kinh Dịch như đọc tiểu thuyết mà nên đọc dẫn từng đoạn, đọc vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn êm, thanh thoát. Chỉ đọc như vậy mới mong đạo lý lưu thông, nghĩa tình bao quát. Khổng Tử đã bảo là phải “ học Dịch” ( chứ không phải là đọc Dịch), thật là chí lý! Bạn đọc cứ đọc đi và thấy hiện dần vô số điều tâm đắc. Hãy xem vài ví dụ: Trong quẻ Kiều có lời Kinh: “ Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã, tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã... ” (Lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng ... ). Trong quẻ truân có lời Kinh: “ Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quí hạ tiện, đại đắc dân dã ... ” (Tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn, nhưng rồi sẽ được dân tin...) . Trong quẻ Mông có lời Kinh: “ Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã...” ( dung quẻ phạt người để giữ nghiêm pháp luật). Quẻ Nhu có lời Kinh: “ Nhu, hữu phu, quang ranh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên...” (Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng, hanh thông, chính bền là tốt, có lợi cho việc vượt sông lớn...). Quẻ Tụng có lời Kinh: “Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã...” (Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình...). Nếu vừa “học Dịch” vừa học thêm chữ Hán trong lời Kinh thì càng ích lợi và thú vị thêm biết bao. Đừng quên rằng trong ngôn ngữ của nhân dân ta hiện nay có tới trên 60% số từ có nguồn gốc từ âm Hán. Nếu tính cũng đừng quên rằng trên thế giới cứ 6 người thì có tới gần hai người biết chữ Hán. Thiết nghĩ, trong thời buổi cái đúng, cái sai còn lẫn lộn; người tốt, người xấu chưa tường minh; khó chung, khó riêng còn đầy rẫy; nên nhớ rằng cái gốc của dân ta thì mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở. Trong điều kiện như vậy mong sao mỗi bạn trẻ mỗi tuần có xếp chút thời gian để bình tâm đọc (đúng hơn phải nói là học) Kinh Dịch. Nghe lời người xưa mà ngẫm đến chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều nghĩa... Cuộc đời sẽ đẹp thêm biết bao, tâm hồn mỗi người sẽ rộng mở và sáng láng thêm biết bao, quan hệ giữa người với người sẽ tốt lành hơn biết bao- bạn cứ kiên nhẫn đọc đi, sẽ thấy đúng là như vậy đấy.
    1 like
  3. Nhà văn Sơn Tùng: Sống lại nhờ Thiền Nhà văn Sơn Tùng đã đi qua một hành trình văn hóa để sống bình yên trong một đại dương đau khổ. Ông đã vượt lên trên đại dương đau khổ để đi đến biển cả yên bình, nhờ Thiền. javascript:void(0); Nhà văn Sơn Tùng nổi tiếng với tác phẩm Búp sen xanh. Ông đã vượt lên thương tật để sống lại nhờ Thiền. Ông kể: - Tôi là thương binh được xếp hạng nặng nhất vĩnh viễn, ở chiến trận về, đi lại không được. Mỗi người khi gặp tình huống trở ngại trong đời sống, vượt qua được, là người thông minh. Tôi không biết có thuộc loại người thông minh ấy không? Nhưng tôi đã bị số phận đẩy ngã, lại tự mình đứng dậy, bám vịn vào tình yêu thương mà bước đi từng bước… Năm 1965 đến đầu 1967, chiến tranh chống Mỹ lan rộng ra miền Bắc. Tôi dẫn đầu đoàn nhà báo: Tâm Tâm, Lưu Quang Huyền, Mạnh Chuẩn, Khải Hoàn, Phạm Hậu, họa sĩ Ái Nhi vào tận Nam bộ. Đầu năm 1967 vượt rừng Trường Sơn, vượt bom gầm, đạn réo, sốt rét, đói khát, thú rừng, mưa nguồn, chớp bể… Năm 1968 chúng tôi vào đến đồng bằng Nam bộ, giáp sông Vàm Cỏ Đông, lập tờ tin Thanh Niên, thuộc Hội Liên hiệp Thanh Niên Giải Phóng. Cơ quan ở trong rừng, thuốc độc da cam rải rung cây, chúng tôi phải chuyển chỗ liên tục. Tôi bị thương tháng 4-1971, ở tuổi bốn mươi ba. Sau cuộc càn “móc câu, mỏ vẹt” lớn nhất, địch mở trận càn mới đánh vào căn cứ của ta. Tôi nhớ lúc chuẩn bị ra số báo đặc biệt kỷ niệm thành lập đoàn Thanh niên cách mạng miền Nam. Máy bay trực thăng gầm rú, sục sạo trên đầu, bắn tứ tung, dưới hầm họa sĩ Ái Nhi làm makét, Sơn Tùng ngồi viết xã luận. Là người phụ trách, tôi ngồi hầm không yên, phải bò lên trinh thám xem bộ binh của chúng có vào không. Vừa nhoi lên thì trực thăng bắn trúng hầm, mình gục xuống… tỉnh lại, tràn lan man cảm giác đau đớn toàn thân… lơ mơ nghe tiếng người lao xao như từ cõi xa xăm vọng về… rồi có tiếng gọi thân thương, ấm áp… tôi mở mắt nhìn thấy Sáu Phong băng bó vết thương cho tôi (sau này là Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết). Tiếng gọi yêu thương ấm tình người, tình đồng đội của Sáu Phong truyền sức sống cho tôi. Sáu Phong là sinh viên Toán giỏi nổi tiếng Sài Gòn. Anh xuống đường tham gia phong trào sinh viên Sài Gòn – Huế, sau lên R. Tôi yêu mến chàng thư sinh da trắng, hào hoa, ăn nói nhỏ nhẹ nho nhã, phụ trách Văn phòng cơ quan tôi. Sáu Phong chu đáo, tận tình, hết lòng chăm lo cho những người thiệt thòi, bữa cơm, ai về chậm, ai đau ốm được anh dành phần thịt nạc… Tôi được khiêng cáng về bệnh viện miền Nam, bác sĩ Bích Nga chăm chữa cho tôi, tình cảm như người nhà. Tôi bị mười bốn mảnh đạn găm khắp người, liệt toàn thân, bảy mảnh trên đầu, trong đó hai mảnh còn găm sát cạnh não không thể nào gắp ra được, vết thương sọ não, vết thương từ chẩm đầu, cái chết cận kề, may mà được cấp cứu kịp thời. Ơn cứu mạng của đồng bào Nam bộ tôi không bao giờ quên. Tôi được đưa ra Bắc, đồng đội khiêng cáng dọc Trường Sơn, từ tháng 11-1971 đến tháng 4-1972 mới về tới Hà Nội. Bệnh viện 108 đầy những binh nặng. Tôi liệt nằm bất động, tay phải bị co gấp ngang ngực, tay trái còn ba ngón, cái đau quằn quại, bỏng rát hành hạ tôi từng giây. Có ai đó muốn bác sĩ cắt hạch giao cảm để cứu tôi khỏi những cơn đau. Tạ ơn Trời Đất, bác sĩ đã không làm như vậy. Nếu tôi không còn biết cảm, biết đau nữa thì tôi làm sao mà viết được? Dần dà, thân thể tôi được vá víu thành sẹo. Nhưng tôi bị mất trí nhớ. Họ đưa sách quốc ngữ, tôi không đọc được. Nhìn trang giấy không thấy chữ, giấy trắng, đầu mình cũng trắng. Tôi bị lên cơn co giật thần kinh, đùng một cái, ngã vật xuống. Mỗi lần ngã xuống, được nâng đứng lên, tôi hệ thống lại dần, cảm nhận dần dần sự sống… Một đêm, tôi mơ có tiếng ai hát ca dao. Tiếng hát hệt lời ru của mẹ thuở nào, thì thầm dịu ngọt tận đáy sâu hồn mình: “Ngày đi trúc chửa mọc măng/ Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre/ Ngày đi lúa chửa chia vè/ Ngày về lúa đã đỏ hoe ngoài đồng/ Ngày đi em chửa có chồng/ Ngày về em đã con bồng con mang…” Cảm thức về thời gian sống lại. Nỗi nhớ trở về. Tôi nhớ mẹ, đêm đêm thầm gọi lời ru mẹ về. Linh hồn mẹ từ hư vô cảm thấu. Mẹ vỗ về tôi như ngày xưa bé bỏng: “Con ơi! Không ai thương con bằng cơm cháo. Ăn đi. Ăn cho có cái hơi hồ. Đấy là ngọc hồ nuôi dưỡng thân ta con ạ”. Tiếng mẹ đâu đây năn nỉ, dỗ dành, tôi gắng húp từng thìa nước cháo do người thân bón chăm, thấy người tỉnh dần, hơi ấm như từ hỗn mang truyền cho tôi sức sống. Tôi thèm được tự tay cầm bát cơm ăn, nhưng tay không cầm nổi. Tôi đau vật vã, bỗng lời mẹ an ủi xa xôi vọng về: “Con đừng nghĩ đến đau, nó sẽ hết đau”. Khi tôi ngã vì co giật, mẹ nhủ thầm thì: “Con ơi! Đứng dậy, ngã thì tự đứng dậy, có sao đâu”. Linh hồn mẹ đã cứu tôi. Mẹ tôi mất 1964, khi tôi mới ba mươi sáu tuổi. Nhưng tôi tin linh hồn mẹ còn mãi. Mỗi khi nỗi đau ập đến tôi thường gọi mẹ. Họ đưa tôi đi Trung Quốc chữa bệnh vì là cán bộ cao cấp. Được nằm trên đống thuốc và sự chăm sóc tận tình, song tôi cảm nhận có cái gì không ổn. Một hôm tôi nhận ra họ tiêm thuốc gì đó mà tay phải tôi đang co, bỗng duỗi thẳng ra, nhưng trí nhớ lại lờ mờ, chuẩn bị biến mất. Lòng tôi bồi hồi, cảm thương thời gian sẽ mất, không gian sẽ mất, tình yêu và nỗi đau cũng sẽ mất… Tôi tự hỏi mình sống làm gì nếu thân thể lành lặn mà tâm hồn què quặt? Tôi sống làm gì với cái xác không hồn lơ ngơ đi giữa cuộc đời? Tôi sống làm gì với phần xác thịt chỉ biết ăn thật nhiều, uống thật nhiều, đòi hỏi vật chất và lạc thú thân xác thật nhiều? Tôi yêu nghề cầm bút. Tôi từng trù tính chỉ làm công chức đến năm mươi tuổi rồi về hưu để được tự do viết, nay đứt gánh giữa đường sao? Tôi thầm thét lên: “Ta thà chịu để thân tàn tật, chứ không thể để mất trí nhớ, hủy hoại tâm hồn. Phải chạy ngay khỏi đây thôi. Không thể giao phó sự sống còn của mình cho người khác, dù họ là thầy thuốc.” Bao đêm dài trằn trọc, tôi quyết định xin về nước khi mới điều trị được ba tháng, mà bệnh của tôi cần phải nằm ở đây ba năm. Các bác sĩ Trung Quốc ngạc nhiên. Họ làm sao hiểu được ý nghĩ và linh cảm của tôi. Họ làm sao cứu nổi linh hồn tôi. Bác sĩ Hà Nội thương cảm, tiếp tục cho tôi đi Đông Đức chữa. Tôi từ chối. Tôi nghĩ các vết thương hằn sâu trong tôi, hai mảnh đạn nằm trong bộ não của tôi, hệ thần kinh bị tổn thương của tôi, nếu cứ chữa kiểu nằm dài trong các bệnh viện, dù là viện thiên đường của Đông Đức hay Bắc Kinh cũng không ổn. Mình phải tự cứu mình thôi. Tôi xin ra viện, nhờ anh bạn làm một cái chòi sáu mét vuông sau nhà anh ở 105 phố Nguyễn Trường Tộ, Hà Nội. Nhà của tôi ở Hà Nội trước khi đi chiến trường, nay về đã bị người ta chiếm mất. Tôi ngồi lỳ trong chòi đọc sách và tập Thiền, tự xoa bóp chân tay. Tôi nhớ lại ngày xưa ở làng Hoa Lũy, xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, Nghệ An, mẹ dắt tôi đến trường, thầy Phan Khắc Khoan đã dạy chúng tôi những bài tập võ cổ truyền. Tôi đọc sách dưỡng sinh của cụ Nguyễn Văn Hưởng, các sách Thiền, Phật, cụ Nguyễn Khắc Viện dạy tôi tập Thiền và võ quyền… Tôi tự hiểu sức mình, chỗ nào đau, chỗ nào xơ cứng tôi biết, tự tổng hợp các phương pháp và tự rút ra cách tập của riêng mình. Tôi tập thở, nhận năng lượng của đất trời, điều khí lên đầu, xuống chân, tay, phủ tạng… Tôi lấy bàn tay lành vỗ cho tay yếu, vỗ những vết đau khắp toàn thân. Dần dần hơi ấm làm thông những mao mạch li ti, các tế bào được nuôi dưỡng và sống lại. Tôi luôn bị ám ảnh về sự mất trí nên khổ luyện rèn trí não. Tôi luyện đọc sách. Mới đầu đọc lại ca dao, thơ, truyện Kiều, Lục Vân Tiên… sau đọc dần các loại sách nghiên cứu của các học giả Đông Tây kim cổ, đọc Kinh Dịch, Khổng Tử, Lão Tử, triết học phương Đông… Một anh thương binh biết mình tàn nhưng không muốn trở thành kẻ bị xã hội cho là phế, thì phải tự mình cứu mình. Luyện trí nhưng còn phải luyện tâm nữa. Tôi nằm trên giường bệnh buồn đau, khổ cực, cô đơn, nhớ mẹ… Lời mẹ lại về: “Con à, chớ giận. Dỗi thì được, nhưng không được giận. Giận thì sinh oán, sinh thù. Khi người ta gây oán cho mình, mình nhận làm nạn nhân, đừng đánh trả lại”. Mỗi khi đau khổ quá, tôi phải ngồi Thiền, tự xua đi, tự nhủ thầm: “Bất đắc dĩ làm nạn nhân, không bao giờ là kẻ sát nhân. Lấy ân trả oán. Đó là đạo lý làm người. Đời không làm được ân thì đừng gây oán. Không làm phúc cho ai thì đừng gây họa…” Nhờ cách luyện tâm như thế, nên suốt mấy chục năm qua tôi ở căn phòng mười sáu mét vuông này, do một người đi miền Nam thông cảm bán rẻ cho, hằng ngày nghe đủ mọi âm thanh hỗn độn, chát chúa, mà tôi không bị chói tai, nhức óc vì những thứ đó. Tôi đã sống lại từ cái chết. Tôi yêu quí từng thời khắc tôi được làm người. Không để cho cái ác, cái xấu, cái vớ vẩn ngoài đời, đánh gục ngã. Tôi đi tìm cuộc sống của riêng tôi. Tự tính tử vi, Kinh Dịch, tự nghiệm đời mình. Tôi sống với cái đẹp mà tôi từng đam mê, đó là cầm bút. Năm 1973, tôi ngồi trên chòi, hai tay co rúm không cầm được bút. Tôi đọc sách. Khi sức lực khá dần, tôi quyết định gieo chữ. Ký ức sống dậy thanh bình như tia nắng ban mai. Tôi viết “Nhớ nguồn” kể về những con người đẹp tôi gặp ở chiến truờng. Tôi phải lấy dây buộc bút vào giữa ngón tay cái mà viết, khi đau quá thì đọc cho anh em ghi. Gần chục năm khổ luyện, năm 1981 tôi duỗi được tay phải. Từ đó đến nay tôi đã viết hơn hai chục tác phẩm giữa những cơn đau thể xác và nỗi đau tinh thần. Nhưng cây bút chữa lành những vết đau. Tác phẩm của tôi sẽ nói hộ tôi rằng tôi đau như thế nào? Tôi thương như thế nào? Tôi yêu như thế nào? Tôi đã vượt lên cái chết và nỗi đau của thế kỷ XX, của dân tộc, giống nòi Việt Nam và của cả nhân loại như thế nào?... javascript:void(0); Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết trong lần đến thăm nhà văn Sơn Tùng ...Mấy chục năm qua tôi đã Thiền để tự chống lại bệnh tật, vượt qua tàn phế chừng nào hay chừng ấy. Buổi tối tôi ngủ sớm, khoảng hai giờ sáng ngồi dậy Thiền, ngồi trong tư thế kiết già, bán kiết già, có khi ngồi độc trụ. Tôi nhắm mắt, điều hòa hơi thở và chìm dần trong không gian, thấy trong đầu mình cả một vùng vũ trụ, mênh mông thoáng rộng, sáng dần màu vàng đỏ, tỏa vòng tròn nở ra trên trán. Đấy là linh hồn mình. Một chấm sáng nhỏ tinh khiết, vĩnh hằng đang giao hòa cùng đại vũ trụ, nhận năng lượng, tình yêu thương, sức mạnh, sự tinh khiết, cái đẹp, cái thiện… của tâm linh tối cao, linh hồn tối cao. Trong trạng thái ấy, cơn đau qua đi, nỗi buồn qua đi, mọi tham muốn, sân si cũng tan biến, chỉ còn linh hồn mình kết nối cùng vũ trụ. Tinh khiết. Vĩnh hằng. Tôi tin có một thế giới tâm linh. Mình ngồi thiền, nghĩ đến Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật hiện về, hào quang tỏa quanh, nghĩ đến mẹ cha, mẹ cha mình về, như ngày xưa mẹ bảo: “Con ơi! Có thần trên hai vai, chớ có làm điều ác với ai, chớ có lấy cắp của ai cái gì.” Tôi Thiền để tự chữa vết thương tái phát bằng cách điều khí đến chỗ đau. Có lần vết thương chảy máu xuống cổ áo mà tôi không biết đau. Máu lại khô. Tôi hiểu được tại sao các đạo nhân tự thiêu mà không đau đớn, vì họ đã Thiền tới cao siêu, kiềm chế được cái đau thể xác. Tôi kiên nhẫn điều khí, xoa vỗ, mười một năm, cánh tay phải co lên ngực, nay duỗi được, vung lên hạ xuống bình thường, bàn tay mềm, quay cầm được. Tôi điều khí lên vùng chẩm, vùng não còn găm hai mảnh đạn, kiềm chế đau và kiềm chế những cơn kích động thần kinh, đập phá, cơn ngã bất thần. Trước đây, mỗi khi nghe tiếng sét, tiếng người ầm ĩ, tiếng bát đũa, xoong chảo xô đập là tôi ngã, và lên cơn kích động thần kinh. Nhờ thiền, từ năm 1988 đến nay, tôi không hề bị các thứ tiếng inh tai, nhức óc ấy quật ngã... Nguồn tin: www.sangdaotrongdoi.vn
    1 like
  4. Con người sinh ra đa phần đều có kiếp nạn cả thôi. Nếu bạn đối mặt và vượt qua được kiếp nạn này thì sẽ không còn kiếp nạn nào bạn phải sợ nữa Chết thì dễ mà sống ở trên đời mới là khó Chúc bạn sớm có nghị lực để vượt qua... Và đừng bao giờ chết khi tử thần chưa tìm tới bạn.
    1 like
  5. Tân Hoa Xã: Việt Nam, Philippines phải đưa ra sự lựa chọn Cập nhật lúc 10:25, 18/07/2013 (ĐVO) - Trung Quốc đang thử xem mình có thể bành trướng ra bên ngoài với tốc độ như thế nào; Nhật Bản muốn biết khi họ đáp trả lại Trung Quốc thì có thể dựa vào Mỹ hay không; Hàn Quốc, Việt Nam, Philippines và các nước khác buộc phải đưa ra sự lựa chọn giữa cân bằng với nghiêng về Trung Quốc hay Mỹ; Ấn Độ đang xây dựng lại quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Đông Á mà từ lâu bị xem nhẹ... X-47B bất ngờ hạ cánh trượt trên tàu sân bay Nhật Bản căng mắt theo dõi đoàn tàu chiến Nga-Trung Bài học cay đắng của Thái Lan khi mua tàu chiến TQ Tàu sân bay Ấn Độ chạy thử làm Trung Quốc lo Tân Hoa xã TQ mới đây đã đăng tải bài viết nói rằng, ngày 16 tháng 7, tờ "Thời báo Tài chính" Anh đăng bài viết "Sứ mệnh nguy hiểm của Mỹ ở châu Á". Bài viết cho rằng, châu Á tồn tại một vấn đề to lớn. Ở Tokyo, Bắc Kinh, New Delhi, Seoul cùng với phần lớn các thành phố khác, bạn đều có thể nghe được vấn đề này. "Trọng tâm chiến lược chuyển tới châu Á" của Tổng thống Mỹ Barack Obama luôn được cho là "không tồi", nhưng về lâu dài, Mỹ thực sự có thể kiên trì chính sách này hay không? Đối với vấn đề này, không ai có thể đưa ra đáp án xác định, nhưng điều này không ngăn cản mọi người đưa ra các suy đoán. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chủ trương xây dựng đổi tên Lực lượng Phòng vệ thành Quân đội Do thiếu tính xác định, quan điểm cũng quan trọng như chứng cứ xác thực. Một số phỏng đoán Mỹ sẽ ở lại bao lâu tại khu vực này với tư cách là một cường quốc Thái Bình Dương đang tác động sâu sắc tới hành vi của hầu như mỗi quốc gia ở khu vực này. Ở Tokyo, mọi người tranh luận xoay quanh vai trò ảnh hưởng của Mỹ trong mấy chục năm tới sôi nổi hơn bất cứ nơi đâu. Trung Quốc đang thử xem mình có thể bành trướng ra bên ngoài với tốc độ như thế nào và có thể bành trướng tới mức độ nào; Nhật Bản muốn biết khi họ đáp trả lại Trung Quốc thì có thể dựa vào Mỹ hay không; Hàn Quốc, Việt Nam, Philippines và các nước khác buộc phải đưa ra sự lựa chọn giữa cân bằng với nghiêng về Trung Quốc hay Mỹ; Ấn Độ đang xây dựng lại quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Đông Á mà từ lâu bị xem nhẹ. Điều làm cho cục diện trở nên phức tạp hơn là câu trả lời cho câu hỏi Mỹ ở lại châu Á lâu dài vẫn còn thay đổi theo sự biến chuyển của thời gian. Mùa Đông năm 2012, Mỹ giống như một siêu cường đi đứng loạng choạng, kinh tế "mềm nhũn", nợ công và thâm hụt ngân sách không thể tiếp tục, rơi vào bế tắc về chính trị, những điều này đều khiến mọi người nảy sinh nghi ngờ về năng lực phục hồi của Mỹ. Vì vậy, có người giàu trí tưởng tượng ở TQ đã dự đoán, Trung Quốc sẽ nhanh chóng vượt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Còn quyết định chính trị của Mỹ lại bị Iraq và Afghanistan gây thương tổn nguyên khí lớn. Tháng 5/2013, cả 3 hạm đội lớn của Hải quân Trung Quốc đã khuấy đục biển Đông - diễn tập liên hợp răn đe vũ lực. Khi nói về nhóm đảo Senkaku và sự đối đầu ở biển Hoa Đông, một quan chức của chính quyền Shinzo Abe cho biết, Thủ tướng Shinzo Abe quan tâm tới việc Mỹ chưa thực sự ủng hộ mạnh mẽ Philippines trong tranh chấp biển Đông giữa Phiippines với Trung Quốc. Chính phủ Philippines bị rơi vào tình trạng không được viện trợ. Nhật Bản không muốn phạm sai lầm tương tự. Nhật Bản sẽ sử dụng vũ trang trên biển của mình để đánh lui các cuộc xâm lược của Trung Quốc. Ông Shinzo Abe sẽ còn thúc đẩy nới lỏng hạn chế của Hiến pháp đối với ngân sách quân sự của Nhật Bản. Hoàn toàn không chỉ có Nhật Bản tiến hành chuẩn bị "kép" như vậy. Cách đây vài ngày, Diễn đàn Trung Quốc-Stockholm (Stockholm China forum), hội nghị thường niên do Quỹ Marshall Đức (German Marshall Fund) tổ chức, đã có sự tham dự của các đại diện đến từ Mỹ, châu Âu và Trung Quốc. Một chủ nhà Thụy Điển đã dẫn dắt tới chủ đề biển Baltic. Ông cho biết, chính ở những vùng biển như vậy, Hải quân Việt Nam đang thử nghiệm một loại tàu ngầm mới do Nga chế tạo. Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm lớp Kilo của Nga, đồng thời trang bị tên lửa hành trình. Những tàu ngầm này không lâu nữa sẽ hoạt động trong lòng Biển Đông, nơi Việt Nam có tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng, trong địa-chính trị, 6 tháng là một khoảng thời gian rất dài. Đến nay, kinh tế Mỹ đang chuyển biến tốt. Kinh tế đã tăng trưởng trở lại. Thông qua cắt giảm chi tiêu theo từng giai đoạn (sequestration), tình trạng bế tắc về chính trị của Mỹ hầu như đã có biện pháp giải quyết một phần vấn đề thâm hụt. Cùng với triển vọng kinh tế chuyển theo hướng lạc quan, các nhà bình luận đã tiếp tục phát hiện ra ưu thế tự nhiên to lớn của Mỹ - từ vị trí địa lý và cơ cấu dân số có lợi, đến ưu thế công nghệ và tài nguyên dầu khí nham thạch khổng lồ. Mỹ cam kết chuyển 60% lực lượng hải quân tới khu vực Thái Bình Dương, 60% lực lượng không quân và lục chiến ở nước ngoài tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương, ưu tiên triển khai vũ khí trang bị tiên tiến tại khu vực. Tàu sân bay Mỹ cũng liên tiếp hiện diện trên biển Đông. Trong thế giới hiện thực, sự chuyển biến to lớn mang tính chu kỳ này khó mà tránh khỏi. Năm 2012, những dự đoán rằng sự suy thoái của Mỹ không có thuốc chữa căn bản không đáng tin cậy. Những người cho rằng Trung Quốc sẽ thống trị thế giới đừng quên rằng, lịch sử hoàn toàn không phải phát triển theo con đường thẳng tắp. Hiện nay, mức độ lo ngại của Obama đối với các vấn đề của Mỹ rất có thể không lớn bằng mức độ lo ngại của Tập Cận Bình đối với các vấn đề nội tại và bên ngoài của Trung Quốc. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là tiếp xúc và ngăn chặn: Tức là tiếp xúc với Trung Quốc để ngăn chặn cuộc cạnh tranh không thể tránh khỏi diễn biến thành đối đầu, đồng thời thông qua duy trì thực lực của mình và tăng cường đồng minh của Mỹ để ngăn chặn sự cứng rắn của Trung Quốc. Đại đa số các nước láng giềng của Trung Quốc đã áp dụng cách làm tương tự. Họ một mặt hòa nhập với Trung Quốc về kinh tế, một mặt phát triển quan hệ với Mỹ về chính trị (có khi là về quân sự). Tân Hoa xã thì bình luận rằng "Việt Nam thì mua sắm tàu ngầm của Nga". Ở đây tồn tại một vấn đề nan giải. Chỉ khi nào các nước láng giềng của Trung Quốc vẫn tin rằng Mỹ sẽ ở lại lâu dài khu vực này, thì chiến lược tái cân bằng mới phát huy tác dụng; nhưng, Chính phủ Mỹ trình bày ý đồ của mình càng có sức thuyết phục thì các nước đồng minh như Nhật Bản càng có thể giả định họ được Mỹ hỗ trợ vô hạn khi đối đầu với Trung Quốc. Theo bình luận của báo chí TQ, "Có vẻ Mỹ cảm thấy bất an với xu hướng cứng rắn của ông Shinzo Abe. Trái lại, hành động áp dụng đối với Nhật Bản của Trung Quốc vừa là cố ý thăm dò quyết tâm của Nhật Bản, vừa là cố ý thăm dò quyết tâm của Mỹ". Việt Nam mua tàu ngầm lớp Kilo của Nga để bảo vệ chủ quyền biển đảo ở biển Đông. Trong hình là tàu ngầm Hà Nội lớp Kilo của Việt Nam tại cảng biển Nga. Kết quả chính là một sự cân bằng không ổn định, rất dễ bị phá vỡ do phán đoán nhầm. Trong mấy chục năm tới, Mỹ vẫn có đủ thực lực kinh tế và quân sự để duy trì một lực lượng thường trực ở châu Á. Nếu tính toán rút đi thì sẽ đe dọa tới quá nhiều lợi ích chiến lược. Trung Quốc lại đang phát triển sức mạnh quân sự để tìm cách có thể thiết lập quy tắc của Bắc Kinh tại khu vực. Tập Cận Bình thậm chí đề xuất, Thái Bình Dương đủ không gian để chứa cả hai nước lớn Trung Quốc và Mỹ. Quản lý cục diện này không có biện pháp gì bí mật. Mỹ nếu rời khỏi châu Á sẽ gây ra tình trạng bất ổn, tồi tệ; nếu ở lại khu vực này, sẽ gây ra sự bất mãn mạnh mẽ của Trung Quốc. Vì vậy, sự hiện diện của Mỹ ở khu vực này sẽ trở thành một sứ mệnh mang lại nhiều nguy cơ xung khắc: Nó vừa là một sự bảo đảm ổn định then chốt, vừa rất có thể trở thành một nguồn gốc cho sự đối đầu. Người châu Âu biết rõ điều này sẽ dẫn đến hậu quả gì. Anh từng đóng vai trò cân bằng sức mạnh trước sự trỗi dậy của nước Đức. Cục diện đối đầu Anh-Đức bị phá vỡ là cuộc chiến tranh gây thương vong vô số trong giai đoạn 1914-1918, năm 2014 sẽ chào đón kỷ niệm 100 năm cuộc chiến tranh này. Nó rõ ràng là một tiền lệ gây lo ngại. Tàu tuần duyên USS Freedom Hải quân Mỹ đã đến chốt tại cửa ra vào eo biển Malacca, canh chừng tuyến đường hàng hải nối biển Đông-Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Con tàu này vừa tham gia một loạt cuộc diễn tập Carat tại khu vực Đông Nam Á và biển Đông. Theo GDVN =================== Khi đứng trong một tập hợp nhỏ thì mọi sự suy đoán, phân tích và xác định sẽ giới hạn trong nền tảng tri thức của tập hợp đó. Nhưng nếu đứng trong một tập hợp lớn hơn thì sẽ có một nền tảng tri thức lớn hơn để thẩm định những giá trị của tập hợp nhỏ mà nó hàm chứa.Ấy là phát biểu cái ý kiến gọi là có chất "tán học". Nói cho dễ hiểu là một nền tảng trí tuệ cao cấp sẽ có khả năng thẩm định những giá trị thấp hơn nó. Ấy cũng là nói cho nó zdăng chương một tý. Còn nói một cách hình tượng và dễ hiểu thì là: "những con ếch luôn có chứng lý khi mô tả bầu trời qua cái miệng giếng của nó". Đây là chứng lý và cách nghĩ của những con ếch. Nhưng thật tội nghiệp! Những con ếch thì luôn luôn tưởng mình đúng. Lão Gàn chưa qưỡn để chỉ ra cái ngu của những con ếch. Hãy xem lại topic "Kim Long đằng phi...". Lúc đầu - khi Lão Gàn chưa phân tích mang tính tiên tri - thì cũng không thiếu gì những con ếch vỗ tay rầm rầm. Vì cứ tưởng phen này Đài Loan và Trung Quốc"song kiếm hợp bích" làm cỏ cả Nhật Bản. Bây giờ khí thế của rồng rắn đi đâu mựa nó rồi?! Đấy chỉ là chuyện của cặp câu đối hoành phi. Huống chi là những chuyện sờ sờ trước mắt thì việc Lão Gàn chưa qưỡn, không phải là để "chém gió". Này! Lão Gàn quảng cáo để mở cái tầm nhìn ra nha: Dù Việt Nam và Philippines lựa chọn theo ý muốn của các người thì cũng có nghĩa là "canh bạc cuối cùng" sẽ kết thúc bằng một cuộc chiến. Các người hãy cảm ơn Thượng Đế, vì may mà mọi chuyện vẫn còn đang mơ hồ. Chắc cũng không đủ tầm để hiểu! Ếch mừ! Bày đặt trịnh thượng.
    1 like
  6. Bạn có chắc giờ sinh chưa, nên mô tả thêm về bản thân để các bác, anh chị xem chính xác. Bạn hãy tự giúp mình trước đã nhé...Mọi chuyện rồi cũng sẽ có lối thoát....Hãy bình tĩnh chờ các bác...
    1 like
  7. Thành thật xin lỗi chị Hoài Châu . TL đã nhận được mọi tin tức của chị nhưng trong thời gian qua TL bận quá nên chưa xem được và cũng không có tg để lên DĐ để mọi người phải chờ đợi là điều mà TL không mong muốn . TL sẽ quay lại sau ít ngày nữa và tiếp tục tư vấn cho mọi người . Mong được sự thông cảm và tri ân sâu sắc! Say!
    1 like