• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 04/05/2013 in Bài viết

  1. A. Sơ tâm về tộc Việt Tôi học chữ Nho trước khi học chữ Quốc-ngữ. Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi không có con trai, mẹ tôi là con út của người. Theo luật triều Nguyễn, thì con trai ông tôi sẽ được "tập ấm". Không có con trai, thì con nuôi được thay thế. Tôi là "con nuôi" của ông tôi, nên người dạy tôi học để nối dòng Nho gia. Tôi cũng được "tập ấm", thụ sắc phong của Đại-Nam Hoàng đế. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt Nam. Cũng năm đó, tôi được học chữ Nho. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho, bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, rồi sáu tháng sau tôi được học sử. Tôi được học Nam-sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng quốc ngữ vào năm bẩy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng Quốc-ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh, không bằng một phần trăm những gì ông tôi dạy tôi. Thầy giáo (ở trường) biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp nghe về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy, tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như "Đại-Việt sử ký", "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", "An-Nam chí lược", "Việt sử lược"... Đại cương, mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam như sau: "Vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên đẻ ra người con tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Đế Nghi; phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng: Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hòa mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn". Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây-lịch, đến đây thì chia làm hai: 1. Triều Đại Thần Nông Bắc: - Vua Đế Nghi (2889-2884 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch) - Vua Du Võng (2752-2696 trước Tây-lịch) Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng Đế từ năm Giáp-Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng Đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã-thiên khởi chép quyển một là Ngũ đế bản kỷ, coi Hoàng Đế là Quốc-tổ Trung-quốc. 2. Triều Đại Thần-Nông Nam : Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch), hiệu là Kinh-Đương, lúc mười tuổi. Sau này người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung, cho đến nay là 4872 năm, vì vậy người Việt hằng tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn-hiến. Xét về cương giới, cổ sử chép: "Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi, lấy hiệu là vua Kinh-Đương (2), tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-tây. Vua Kinh-Đương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh Đương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-lang. Nước Văn-lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải". Cổ sử đến đây, không có gì đáng nghi ngờ. Nhưng tiếp theo, lại chép: "Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị, giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp, sau trở thành lạc-hầu, theo lối cha truyền con nối. - Hoàng tử thứ nhất tới thứ 10 lập ra vùng hồ Động đình. - Hoàng tử thứ 11 tới thứ 20 lập ra vùng Tượng-quận. - Hoàng tử thứ 21 tới thứ 30 lập ra vùng Chân-lạp. - Hoàng tử thứ 31 tới thứ 40 lập ra vùng Chiêm-thành - Hoàng tử thứ 41 tới thứ 50 lập ra vùng Lão-qua. - Hoàng tử thứ 51 tới thứ 60 lập ra vùng Nam-hải. - Hoàng tử thứ 61 tới thứ 70 lập ra vùng Quế-lâm. - Hoàng tử thứ 71 tới thứ 80 lập ra vùng Nhật-nam. - Hoàng tử thứ 81 tới thứ 90 lập ra vùng Cửu-chân. - Hoàng tử thứ 91 tới thứ 100 lập ra vùng Giao-chỉ. Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết để chầu-hầu phụ mẫu". Một truyền thuyết khác lại nói: Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: "Ta là loài rồng, nàng là loài tiên, ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần". Các sử gia Việt tuy lấy năm vua Kinh-Đương lên làm vua là năm Nhâm-Tuất 2879 trước Tây-lịch, nhưng không tôn vua Kinh-Đương với công chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm quốc tổ, và công chúa Âu-Cơ làm quốc mẫu. Cho đến nay, nếu các bạn hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào: Chúng tôi là con rồng cháu tiên, Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ. Không phải sử gia Hoa-Việt cho rằng các vua Phục-Hy, Thần-Nông thuộc huyền sử, hay không hẳn là tổ mình, mà cho rằng triều Phục Hy, Thần Nông là tổ về huyết tộc, mà không phải là tổ chính trị. Bởi tại phương Bắc từ khi Hoàng Đế lên ngôi vua, tại phương Nam Lạc-Long lên ngôi vua, mới phân hẳn ra Việt, Hoa hai nước rõ ràng. B. Chủ Đạo Tộc Hoa, Tộc Việt : Như các bạn đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp các bạn cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con rồng và chim âu, gốc tự huyền sử vua Lạc Long là loài rồng, công chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-Thái tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Người Hoa thì tin rằng họ là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn-minh Hoa-hạ, văn minh Nho giáo đã kết thành chủ đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm, họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh. Nhưng chủ đạo, và sức mạnh của họ phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt ngày nay. Từ nguồn gốc lập quốc, từ niềm tin mình là con của Rồng, cháu của tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của tộc Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị Bắc xâm, lập tức họ ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo của tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. C. Đi Tìm Lại Nguồn Gốc Tộc Việt : Năm trước, đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm: - Thuyết của Giáo sư Léonard Aurousseau, về cuộc di cư của người U-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-lạc. -Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-lạc. - Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ-Hữu-Tường, về sự di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. - Thuyết của Trần Đại-Sỹ theo khoa khảo cổ, bằng hệ thống y-khoa ADN. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ thống khoa học, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc tìm kiếm của tôi, rồi kết luận: "Tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang: Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt di cư xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ Nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lĩnh thổ của họ, chứ không phải họ là tộc khác di cư tới đất Việt". Chính vì lý do đó, tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993 này. Sau đây, tôi trình bày sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận khoa học thực nghiệm, cùng lý luận y khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Phương Pháp Nghiên Cứu : Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Antomie của Ý và giáo sư Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. 1.Dùng Biện Chứng Y Khoa vào Khoa Cổ: Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y khoa là: "Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do". Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã từng trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo, đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác: "Không có nguyên do, sao có chứng trạng". Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ: Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An Đương cũng cho rằng truyện thần Kim-Quy cho vua móng, làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu Đà bị bại, là hoang đường, là "ma trâu đầu rắn". Nhưng tôi lại tin, và cuối cùng tôi đã tìm ra sự thực: Hồi ấy Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra khích thước ba loại mũi tên đồng của nỏ này. (4) Với lý luận y khoa, với anatomie, với lý thuyết y học mới về tế bào, với những khai quật của người Pháp ở Đông Dương, của Việt-Nam, của Trung-quốc cùng hệ thống máy móc tối tân đã giúp tôi phân loại xương sọ, xương ống quyển, cùng biện biệt y phục của tộc Hoa, tộc Việt, rồi đi đến kết luận về lãnh thổ nước Văn-lang tới hồ Động Đình. 2. Những Tài Liệu Cổ: Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Còn ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc quả tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba thục và phía Đông phải giáp Đông hải. Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thoại, huyền sử, mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. - Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. - Truyền thuyết nói: Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh Đương sau thành nước Văn lang. - Truyền thuyết nói: Sau khi vua Kinh Đương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam Sơn trên hồ Động Ðình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi, có chín vạn hoa tầm xuân nở. - Truyền sử nói: Sau khi Quốc tổ Lạc Long, Quốc mẫu Âu Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài trên cánh đồng Tương chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. - Cổ sử nói: Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm gặp nhau một lần ở cánh đồng Tương. - Sử nói: Vua nước Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam quận, Trường sa (Mậu-Ngọ, 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt với Hán ở vùng này. - Sử nói rằng: Khi Trưng-Nhị, Trần-Năng, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đem quân đánh Trường-sa (năm 39 sau Tây-lịch) thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang. (Sự thực đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam với Hán. Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động đình là Phật-Nguyệt. Tướng Hán là Mã-Viện, Lưu-Long (năm 40 sau Tây-lịch).Nhưng các sử gia gần đây đều đặt nghi vấn rằng: Làm gì biên giới thời Văn-lang rộng như vậy, nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên để tìm nguồn gốc. D. Đi Tìm Biên Giới Nước Văn Lang: 1. Núi Ngũ-Lĩnh: Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc kinh đi Trường sa. Trường-sa là thủ-phủ của tỉnh Hồ-Nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều năm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học. Không biết trong thư giới thiệu, các giới chức y-khoa Trung-quốc ghi chú thế nào, mà khi tôi tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn-hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu về sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thời giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm, năm trân đại lộ Nhân-dân. Tôi xin cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ tích, đại học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay. Đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc. - Một là Đại- Dữu lĩnh, - Hai là Quế-đương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm-gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí: - Ngọ Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Đại-đữu chạy từ huyện Đại-đữu (nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng Đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-Nam tới Gia-huyện tỉnh Quảng-Tây. - Ngọn Quế-đương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-Nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-Tây. Lập tức tôi thuê xe, đi một vòng thăm tất cả các núi này. Tôi đi mất mười ngày, gần 1500 cây số.Như vậy là Ngũ-lĩnh có thực, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục, mà lĩnh địa Việt tới hồ Động đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này: - Một là vua Đế Minh tế trời trên núi Ngũ-lĩnh là nơi ngài gặp tiên, rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm, nên vua Nghi chỉ giữ tới Bắc-ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Đương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam, không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lĩnh địa Việt. Kết luận: Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-lang và Trung-quốc khi xưa. Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thoại. 2. Thiên Đài: Nơi Tế Cáo Của Vua Đế Minh: Tương truyền vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-đương, phân chia lãnh thổ Lĩnh- Bắc tức Trung-quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-đương có mấy chục ngọn núi nhỏ, không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương giang. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179 mét , đỉnh tròn, có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn, nhưng không có tăng ni trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nên trên mái nhiều chỗ bị vỡ, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn, nhiều chỗ gần như lủng sâu. Duy nền với cổng bằng đá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong, cột, kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Tại thư viện Hồ-Nam, tôi đã tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết tay như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: "Thiên Đài Di Sự Lục" Trinh-quán tiến-sĩ Chu-minh-Văn soạn. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647), nhưng không biết Chu đỗ tiến sĩ năm nào? Tuy sách do Chu-minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này là do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần: Phần của Chu-minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu-minh-Văn của một sư ni pháp danh Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1722). Chu-minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loại văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố, cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. (Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông biết rằng tôi chỉ được học những loại văn đó từ hồi sáu bẩy tuổi, thì ông sẽ hết phục!) Tài liệu Chu-minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên, sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này tế cáo trời đất, vì vậy đài mang tên Thiên-đài, núi cũng mang tên Thiên-đài-sơn. Mình-Văn còn kể thêm: Cổ thời, trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế-Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông Hán. một tướng của vua Bà tên Đào-hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-đương, ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất quyết tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường, để xóa vết tích Việt, Hoa cùng Nam, Bắc, các quan lại được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây ngôi chùa tại đây. Tôi biết vua Bà là vua Trưng. Còn tướng Đào-hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào-Kỳ, tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Bà Hoàng-thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi khu Trường-sa, hồ Động đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chận ở Thiên đài, đợi khi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thơ thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối: Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật-kinh." (Hai câu này ngụ ý ca tụng thái tử Tất-đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát, sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.) Tam bảo linh ứng phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái dân an. (Hai câu này ngụ ý nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho gió hòa mưa thuận, đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.) Nơi có dấu vết Thiên đài, còn đôi câu đối khắc vào đá: "Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc, Lĩnh-địa niên niên dữ Việt thường." (Nghĩa là: Từ sau vụ tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao thời, phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với dòng giống Việt-thường.) Chỗ miếu thờ Đào-hiển-Hiệu có đôi câu đối: "Nhất kiếm Nam hồ, kinh Vũ Đế, Thiên đao Bắc lĩnh, trấn Lưu-Long." (Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán, một nghìn đao thủ ở bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu-Long.) Kết luận: Như vậy việc vua Đế-Minh tế cáo trời đất là có thực. Vì có Thiên-đài, nên thời Lĩnh-Nam mới có trận đánh hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh địa Văn-lang xưa quả tới núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đì 3. Cánh Đồng Tương: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương: - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển. Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán: Cả hai vị quốc tổ Kinh-Đương, Lạc Long sau khi kết hôn, đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó quanh hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 cây số, lưu vực tới 92,500 cây số vuông, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-Tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ năm trong lưu vực Tương-giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi phát xuất ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-đương. Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên sông Tương cũng như hai bên bờ chim âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa, thủ phủ của Hồ-Nam, rồi tới các quận lî Tương-đàm, Chu-châu, Hành-đương, Quế-đương. Không khó nhọc tôi tìm ra cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-Nam. Phía Tây là vùng Triêu Dương, Lãnh thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy và Thạch-khê-thủy. Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này: "Quốc-tổ Lạc-Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày, người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang,mà gọi tên là Âu-Cơ (Cơ là bà vợ vua). Vì người ta gọi Quốc-mẫu là Âu Cơ thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh con. Quốc-mẫu là chim Âu, thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con, có nghĩa là tất cả dân trong nước đều là con của Quốc-mẫu." Kết luận: Đã có cánh đồng Tương, thì truyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài, nay chứng cớ cánh đồng Tương được kiểm điểm, thì lĩnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động đình. 4. Hồ Động Đình và Núi Tam Sơn: Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nới phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ Bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-Nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-Nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào cho Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các bà Trưng-Nhị, Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh để còn tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê di-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38.5 mét, về mùa nước lớn là 39.20 mét.Tra trong chính sử, thì quả hồ Động-đình thuộc lĩnh địa Văn-lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng Đế. Sử gia Trung-quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây-phương, thì vua Du-Võng từ gốc Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng, ở phương Nam, lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-Đế. Còn vua Hoàng-Đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nghiệp giầu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ đế bản kỷ chép rằng: ...Thời vua Hoàng Đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Vua Du-Võng không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu, thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng Đế. Vua Hoàng Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm loạn, không tuân đế hiệu. Hoàng Đế triệu tập chư hầu, cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy-Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận, vua Hoàng Đế đem quân chinh phạt. Lãnh thổ của Hoàng Đế: Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông; phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu; Nam tới Giang, Hùng, Tương... (7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang. Hùng đây là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi-Nhân đời Tống tập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận: Từ chính sử, huyền sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đình. Khi vua Hoàng Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài tới 2439 năm nữa. Lĩnh thổ Trung-quốc thời Hoàng Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Từ Nam bao gồm khu Trường-sa hồ Động đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy, thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đình, núi Tam-sơn, không còn là huyền thoại nữa, mà thành sự thực lịch sử. Vậy truyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên Giới Lĩnh Địa Tộc Việt Thế Kỷ Thứ Hai Trước Tây Lịch: Sử Hán- Việt đề đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu-Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu-Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh-Nam. Tần-thủy-Hoàng sai Đồ-Thư mang quân sang đánh Âu-Lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận: Nam-hải (Quảng Đông và một phần Phước-kiến), Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-Nam và một phần Quý-châu), Tượng-quận (Vân-Nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương Vương sai Trung-tín hầu Vũ-Bão-Trung và Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đem quân chống, giết được Đồ-Thư, tiêu diệt nửa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương Vương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu-Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mî-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc, lập ra nước Nam-Việt. Lĩnh thổ nước Nam-Việt gồm những vùng nào? Không một sử gia chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lĩnh địa Nam-Việt là lĩnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu-Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt: Hạng-Vũ, Lưu-Bang diệt Tần, rồi Lưu-bang thắng Hạng-Vũ lập ra nhà Hán. Lưu-Bang lên ngôi vua, sai Lục-Giả sang phong chức tước cho Triệu-Đà. Đúng ra Triệu-Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng, thân thuộc, mồ mả của Đà đều ở vùng Chân-Định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà Hán là Lưu-Bang chết, Lã-hậu chuyên quyền, cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu-Đà không thần phục nhà Hán, xưng đế hiệu, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Trường-sa là quận biên cương của Hán, vậy ít nhất lãnh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam-quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam ngạn sông Trường-giang. 6. Lĩnh Địa Về Thời Vua Trưng: Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn y khoa nghiên cứu tại các tỉnh cực nam Trung-quốc như Quảng Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-Châu, tôi tìm ra khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ rằng vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp bốn tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bây giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-Nam nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật-Nguyệt như sau: "Ngày xưa, Ngọc-Hoàng thượng đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý, hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi giận lôi đình, truyền đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày, thì tiên-lại giữ sổ tiên giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa.Ngọc-Hoàng thượng đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh-Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền Nhị-thập bát tú đầu thai theo. Thanh-Y đồng tử đầu thai, sau là vua Quang-Vũ nhà Hán, Nhị-thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng thời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-Chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trưng-Trắc, em là Trưng-Nhị. Lúc Trưng-Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, lớn lên thông minh quán chúng, có sức khỏe bạt sơn cử đỉnh; được gả cho Đặng-thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị thái thú Tô-Định giết chết. Trưng-Trắc cùng em là Trưng-Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận Trung-quốc ở phía nam sông Trường-giang: Cửu-Chân, Nhật-Nam, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-quận, Nam-Hải. Chư tướng tôn Trưng-Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán sai Phục-Ba tướng quân Tân-tức hầu, Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu-Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ vương Phật-Nguyệt tổng trấn hồ Động đình. Mã-Viện, Lưu-Long bị bại. Vua Quang-Vũ truyền Nhị-thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế sai thiên binh, thiên tướng trợ chiến, cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du-Liệt sang Tây-phương cầu cứu Phật Như-Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-Cương, ba nghìn La-Hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quan-Thế-Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Thế-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quan-Thế-Âm thuyết pháp, nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu." Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối: Tích trù Động đình uy trấn Hán, Danh lưu thanh sử lực phù Trưng. (Nghĩa là: Một trận Động-đình uy rung Hán tên còn trong sử sức phò Trưng) Như thế, tôi đã tìm ra được: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà, mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận: Quả có nữ vương Phật-Nguyệt đánh trận Trường-sa hồ Động đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam quả tới phía Nam sông Trường-giang. Huyền sử nói rằng: Khi bà Trưng-Nhị cùng các tướng Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch), thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đoạn sông ngắn ở Bắc tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ đến cúng miếu thờ bà Trần-thiếu-Lan. Cho nên năm 1980, tôi đã đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc, tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cung cấp, một đoạn chép "Miếu thờ liệt nữ Trần-tiểu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá". Tôi tìm tới nơi thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ông, mộ vẫn còn. (9) 7.Nghiên Cứu Những Khai Vật: Vào những năm 1964-1965, giáo sư thạc sĩ luật khoa Vũ-văn-Mẫu đang soạn thảo tài liệu về cổ luật Việt Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi với cụ đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soán các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu "Cổ-luật Việt-Nam và tư -pháp-sử" có chương mở đầu "Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ-luật Việt-Nam"(10). Bấy giờ tôi còn trẻ, lại không có đủ tài liệu khai quật của Trung-quốc, của Bắc Việt-Nam, nên có nhiều chi tiết sai lầm nhỏ. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ-văn-Mẫu, xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các vị sinh viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng của tộc Việt xuất phát từ năm 2879 trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc Việt, Đông Vân-Nam, Quảng Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái xoan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang lại chỉ tìm được loại rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó, có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (age du bronze): Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn bên bờ sông Mã (Thanh-Hóa) Sự thực trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-Nam, Quý-Châu, Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây; Nam-Đương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-Đương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc Việt rồi tới Vân-Nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần, gần như giống nhau: Đồng 55%, thiếc 15-16%, chì 17-19%, sắt 4%. Một ít vàng, bạc. Khảo về y phục, mồ mả, cùng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại, cho đến hết thế kỷ thứ 1 sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường-giang cho đến Trung, Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Tôi đi đến kết luận: Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói. E. Tổng Kết Các bạn đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, suy luận để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong chính sử Việt đều ghi rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).Các vị cổ học học sổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang, lấy mốc là hồ Động-đình, với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 10-14 tuổi, tôi chỉ được học những bài ngắn ngủi và trang về nguồn gốc tộc Việt; trong khi đó gia đình cho tôi đọc những bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt. (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn, số trang gấp 5-6). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Phải chờ đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ văn Mẫu thạc sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến sĩ Nguyễn-sĩ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học lối cổ, không biết những phương pháp qui nạp, tổng hợp, nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay lần đầu gặp nhau, một già, một trẻ mà có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi lại có cái nhìn rất trẻ. Tôi mới 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Vũ-văn-Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết là có một vài sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện. - Từ cổ : Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Sau này tộc Việt, tộc Mã đã giao tiếp với nhau ở vùng Kampuchea, Nam Việt- Nam Tộc Việt hỗn hợp với tộc Ấn ở phía tây Thái-lan.- Giống Thái, một trong Bách-Việt chính là tộc Thái từ Tượng-quận, Bắc Việt di chuyển xuống lập ra nước Lào, nước Thái. - Người Việt từ sông Trường Giang, từ Phúc-kiến di cư xuống Bắc Việt, không có nghĩa ở Bắc Việt không có giống Việt, phải đợi họ di cư xuống mới có. Mà có nghĩa là người Việt di chuyển trong đất Việt.
    1 like
  2. Có 3 cung Nô Quan Điền là không được tốt còn lại không đến nỗi nào . Đừng nên quá lo lắng dù sao thì mệnh cung được bộ Tuế Hổ Phù và bộ Tứ Linh chiếu nên cuộc đời cháu vẫn tốt đẹp mà thôi. Hãy hát lên rằng "cuộc đời vẫn đẹp sao" Kể ra như cháu nếu vào nghề viết văn thì có lẽ là hợp lắm.
    1 like
  3. Không phải nhà nào cũng thờ Ông Táo. Tùy vào quan niệm của từng nhà, từng người. Nếu thờ Ông Táo nên quay theo hướng bếp.
    1 like
  4. 1 like
  5. Năm 2013 là năm ko tốt cho gia đình bạn sinh con đâu. Mệnh mẹ Thuỷ khắc mệnh con Hoả, con sẽ hay ốm, quấy khóc và sau này ương ngạnh khó bảo....Năm 2018 tốt là vì mệnh mẹ Thuỷ sinh mệnh con Mộc là cách tốt nhất, địa chi mẹ con Mão -Tuất nhị hợp 2 là điều quan trọng nhất trong việc chọn năm sinh con hợp tuổi bố mẹ. Về thiên can của cha con trên Tiên Thiên thì Mậu thổ sinh Tân Kim...Gia đình bạn đã có 1 bé gái đầu, thì nên sinh 1 bé trai út cho có nếp có tẻ. Năm tốt thì sinh con nào cũng tốt, nhưng con út nên là con trai. Vì sau này con gái sẽ đi lấy chồng mà... còn con trai ít ra sẽ ở cùng mình lâu dài hơn thì gia đình phát triển sẽ bền vững hơn.. Mình chỉ bằng tuổi bạn, nên đừng gọi mình là bác cho nó già và khách sáo quá
    1 like
  6. Chào bạn, con út sinh năm 2018 Mậu Tuất là tốt nhất. Nếu thấy xa quá thì 2015 Ất Mùi sinh cũng được nhưng cha sẽ vất vả chút
    1 like
  7. Cô sẽ gửi đến con vào thứ hai đầu tuần, Hy vọng con sớm nhận được!
    1 like
  8. Năm nay thấy khó thay đổi công việc ,nếu thay đổi rất bất lợi... năm nay sức khỏe kếm nhiều bệnh.
    1 like
  9. Lầu Năm Góc: Triều Tiên có thể tấn công hạt nhân Mỹ 03/05/2013 12:20 (TNO) Quá trình phát triển công nghệ hạt nhân và tên lửa đạn đạo tầm xa của CHDCND Triều Tiên sẽ đưa nước này đến gần với mục tiêu sở hữu khả năng tấn công Mỹ bằng vũ khí nguyên tử, theo báo cáo của Lầu Năm Góc trình lên Quốc hội Mỹ hôm 2.5. Tên lửa Unha-3 được CHDCND Triều Tiên phóng vào tháng 12.2012 - Ảnh: AFP/KCNA Báo cáo của Lầu Năm Góc không ước lượng thời điểm CHDCND Triều Tiên có thể sở hữu năng lực này song nhận xét tốc độ sẽ phụ thuộc vào mức độ đầu tư nguồn lực. CHDCND Triều Tiên đã phóng một tên lửa đa tầng mang theo vệ tinh lên quỹ đạo vào tháng 12 năm ngoái. Đây là một bước tiến bộ đóng góp đáng kể vào sự phát triển năng lực tên lửa đạn đạo tầm xa, theo báo cáo. Bình Nhưỡng cũng tiếp tục chú trọng năng lực vũ khí nguyên tử, với vụ thử hạt nhân vào tháng 2. Những tiến bộ kể trên phù hợp với mục tiêu sở hữu năng lực tấn công lục địa Mỹ của CHDCND Triều Tiên. “CHDCND Triều Tiên sẽ tiến gần hơn đến mục tiêu này, cũng như gia tăng mối đe dọa đặt ra với lực lượng Mỹ và đồng minh trong khu vực, nếu họ tiếp tục thử nghiệm và dành hết các tài nguyên khan hiếm của chế độ cho các chương trình đó”, báo cáo viết. Sơn Duân
    1 like
  10. không biết công việc của làm gì thế nào nhưng tháng tư nầy thấy có cái gì đó thay đổi hay di chuyển, có điều nó nằm ngoài tầm dự liệu mong muốn của cháu, dù thế nào đi nữa tháng 04 al gặp rắc rối tới giấy tờ pháp lý, không biết chuyện gì xảy ra nên tránh xa những chuyện thị phi hay can dự vào chuyện của người khác ,ngoài ra đi xe cộ coi chừng nên tuân theo luật lưu thông để khỏi bị phạt vạ hay bị giam xe.
    1 like
  11. ÔI sao mà lâu thế, chỉ cần đối diện lần đầu cũng đủ ...khong nghe người ta nói tiếng sét ái tình sao .Ù mà cái avata lần nầy coi đỡ hơn,chứ cái vừa rồi chụp nghiên 1 bên thấy mặt vẫu lên thảo nào gái nó thấy nó chạy mất dép.
    1 like
  12. Về bệnh tật, và tai ách e rằng cháu vẫn phải gánh, ngành nghề cháu có thể làm là XUẤT NHẬP KHẨU Cháu có tính đặc biệt là cái sự lo, lo đần tháng đần năm (có con bò to tướng ở bên ngoài cửa đang gặm cỏ - Lo không biết rằng nó không có hàm trên thì liệu nó có nhai được cỏ không??" trong vòng 1-2 năm nữa chắc cháu sẽ từ bỏ công việc để tự làm đó thôi. Số sau này sẽ giàu có nhưng nhớ rằng làm việc gì khi đã đạt được mong muốn (nhất là tiền bạc) thì xoay sang cái khác tuyệt đối không được tham - Cháu tham việc gì cố việc gì sẽ hỏng việc đó. Nếu biết dừng đúng thời điểm (như PeLe thì thành vua bóng đám, tham thêm như Maradona thành tội đồ ngay) hãy giúp đỡ người khác, làm từ thiện để tích đức giảm bệnh tật. - Cần xởi lởi hơn trong việc tiền bạc hay chi tiêu thì sẽ tốt. Âm phần thì quan tâm ngôi mả bà nội (hoặc bà cô) nếu bà chưa mất. Chúc cháu thành công!
    1 like
  13. Năm nay thấy chắc khó xin được việc. Nếu hi vọng thì tháng 3, 4, 10 có thể có thay đổi tình trạng hiện tại
    1 like
  14. Cô ơi hôm trước con đã nhận được 20 chú cô gửi cho con, con đã tặng cho các bạn đồng nghiệp và gia đình. Con cảm ơn cô rất nhiều! Chúc cô sức khỏe và bình an.
    1 like
  15. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI THEO DẤU LINGA-KOSA Bài: Trần Đức Anh Sơn Ảnh: Trần Đức Anh Sơn và tư liệu 1. Tháng 9/1997, khi đang đi học khảo cổ ở Nhật Bản, tôi nhận được e-mail của một người bạn Đức, Thomas Ulbrich, thông báo từ ngày 13/10 đến ngày 14/11/1997, hãng đấu giá Spink ở London (Anh) sẽ tổ chức đấu giá 32 cổ vật đến từ Đông Nam Á, trong đó, có rất nhiều cổ vật Champa của Việt Nam. Thomas Ulbrich cho biết thêm: trong các cổ vật mà Spink đang rao bán, có 2 đầu tượng Siva bằng vàng và 1 đầu tượng Siva bằng đồng, đều là những bộ phận bị tách rời từ những linga-kosa của Champa và Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á Berlin (Đức) rất muốn mua các đầu tượng này. Cũng cần nói thêm rằng, trước khi Spink tổ chức đấu giá các đầu tượng Siva bằng vàng ở London, thì một số tờ báo ở Việt Nam đã đưa tin: ngày 23/7/1997, anh Nguyễn Văn Nông, nông dân ở thôn Phú Long 1 (Đại Thắng, Đại Lộc, Quảng Nam) trong khi dò tìm phế liệu đã phát hiện được một đầu tượng Siva bằng vàng, cao 24cm, trọng lượng 0,58kg. Theo giới chuyên môn, đây là đầu tượng Siva của một mukhalinga, niên đại vào thế kỷ 10, đầu tượng Siva Phú Long có những nét tương đồng với pho tượng Siva trong tháp C1 ở thánh địa Mỹ Sơn (hiện đang trưng bày tại Bảo tàng điêu khắc Chăm ở Đà Nẵng). Vào thời điểm đó, tôi không có hình ảnh của đầu tượng Siva Phú Long để so sánh với những đầu tượng Siva do Spink rao bán. Sau này, John Guy, quản thủ Bảo tàng Victoria and Albert, trong bài khảo cứu The kosa marks of Champa: New Evidence in trên tạp chí Southeast Asia Archeology 1998, có giới thiệu hình ảnh đầu tượng Siva phát hiện ở Phú Long. Điều khá ngạc nhiên là hình ảnh đầu tượng Siva Phú Long in trong bài viết của John Guy rất giống với hình ảnh của 1 trong 2 đầu tượng Siva bằng vàng in trong catalogue A Divine Art mà Spink đã phát hành trước cuộc bán đấu giá vào mùa đông năm 1997. Trong bài khảo cứu này, John Guy còn cho biết trong các năm 1996 - 1998, trên thị trường nghệ thuật London xuất hiện một số linga-kosa bằng hợp kim vàng và bạc. Ít nhất, có 6 hiện vật đã được giao dịch thành công. Chủ nhân của những hiện vật này đã đưa chúng đến các viện nghiên cứu để phân tích hợp kim và giám định niên đại và 1 trong 6 linga-kosa nói trên được xác định là đồ giả. Người ta phỏng đoán rằng những món đồ giả này được làm từ Việt Nam. 2. Vậy linga-kosa là gì mà thu hút sự quan tâm của nhiều nhà sưu tập cổ vật trên khắp thế giới, khiến họ phải mua nhầm đồ giả? Kosa là một lớp vỏ bọc bằng kim loại, thường là vàng hoặc bạc, dùng để bao bọc phần trên cùng của ngẫu tượng linga (hiện thân của thần Siva) thờ trong các tháp Chăm. Vào những dịp lễ trọng, người Chăm sẽ mở kosa để tiến hành nghi lễ tẩy rửa linga. Nghi thức này bắt nguồn từ các nghi lễ của phái Saivite, một hệ phái của Ấn Độ giáo tôn thờ thần Siva, vị thần Hủy diệt và Tái tạo. Thuật ngữ kosa xuất hiện trong sử thi Mahabharata với ý nghĩa là “vỏ bọc hoặc vật chứa một thứ quý giá”. Vật quý giá ở đây chính là các linga được thờ cúng trong các ngôi đền của Ấn Độ giáo. Các ngẫu tượng linga trong hệ phái Saivite thường được chạm khắc khuôn mặt của thần Siva, gọi là mukhalinga. Một mukhalinga có thể mang một hoặc nhiều khuôn mặt của thần Siva. Và việc dâng cúng các chiếc bao làm bằng kim loại quý như vàng và bạc để bọc bên ngoài mukhalinga là một nghĩa vụ thiêng liêng của tín đồ Saivite. Khi Ấn Độ giáo du nhập vào Champa, thần Siva được người Chăm suy tôn là “thần của các vị thần”, là “chúa tể của muôn loài”. Vào thế kỷ thứ 4, vua Bhadresvara 1 của Champa đã cho lập thánh địa Mỹ Sơn để thờ thần Siva. Văn bia bằng chữ Phạn trong thánh địa Mỹ Sơn đã tôn thần Siva là “cội rễ của nước Champa”; “đáng kính trọng hơn Brahma, Vishnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị Bà La Môn và hơn những Rsi, các vua chúa”. Một văn bia khác còn cho biết: “Vua (Bhadresvara 1) sau khi đã làm một kosa-isanesvara (cho thần Siva), còn làm một mukuta cho Bhadresvara và cặp kosa-mukuta này có thể sánh với hai trụ chiến thắng tồn tại trơ trơ trên thế gian này như mặt trời và mặt trăng”. Nguồn tư liệu thành văn và những hiện vật được phát hiện từ trước đến nay liên quan đến lịch sử, văn hóa và mỹ thuật Champa chứng tỏ rằng chỉ duy nhất tượng thần Siva được làm bằng vàng; chưa thấy tượng các vị thần khác được làm bằng chất liệu quý như thế. Thậm chí, trong cuốn Lịch sử Đông Nam Á của G.D. Hall còn ghi chép sự kiện thủy quân Java tấn công Champa và cướp đi một pho tượng Siva bằng vàng có kích thước lớn hơn người thật trong một ngôi đền ở Panduranga (Phan Rang). Ngoài các bi ký, những thông điệp bằng tiếng Phạn được khắc trên một số linga-kosa thể hiện đây là những món quà quan trọng nhất, quý giá nhất mà các vị vua Champa dâng lên thần Siva; đồng thời, đây còn là vật biểu thị sự kết hợp giữa thần quyền và vương quyền. Hoàng gia Champa tin tưởng rằng việc tạo nên những linga-kosa quý giá bao bọc cho các linga, thường làm bằng sa thạch, sẽ thúc đẩy khả năng bảo vệ vương quốc và hoàng gia khỏi mọi điều bất trắc. Còn theo Uttara-kanda trong sử thi Ramayana thì việc thờ phụng các linga bằng vàng sẽ đảm bảo sự thịnh vượng cho vương quốc, cũng như khả năng mở rộng lãnh thổ. John Guy suy đoán có thể người Chăm đã vận dụng tư tưởng này trong sử thi Ramayana để tạo nên những linga-kosa và dâng cúng cho thần linh; coi đó là công cụ ma thuật khiến thần Siva quan tâm hơn về khả năng mở mang bờ cõi của Champa. 3. Tháng 3/1998, trở về nước sau khi kết thúc khóa đào tạo khảo cổ học tại Nhật Bản, tôi bắt đầu tìm kiếm những thông tin liên quan đến linga-kosa của Champa, đặc biệt là những thông tin về sự hiện diện của chúng trong các bảo tàng nhà nước, cũng như trong các sưu tập tư nhân ở Việt Nam. Kết quả tìm kiếm cho thấy hiện ở Việt Nam chỉ còn giữ được 2 đầu tượng Siva bằng vàng (hoặc hợp kim vàng) có gốc gác từ những linga-kosa của Champa. Đầu tượng Siva thứ nhất được phát hiện từ đầu thế kỷ 20 tại Hương Đình (Phan Thiết, Bình Thuận), hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội. Đầu tượng Siva thứ hai do anh Nguyễn Văn Nông phát hiện tại Phú Long (Đại Lộc, Quảng Nam) vào năm 1997 đã được đề cập trên đây, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Quảng Nam ở Tam Kỳ. Trong khi đó, thông tin (kèm hình ảnh) từ các khảo cứu của những học giả ngoại quốc, từ các cuốn guide book về các bảo tàng nước ngoài và từ catalogue của các hãng đấu giá cổ vật ở châu Âu và châu Mỹ… cho biết hiện có ít nhất 9 linga-kosa (đa số chỉ còn phần đầu tượng Siva) đang “lưu lạc” ở hải ngoại. Trong đó, Bảo tàng Quốc gia về Nghệ thuật châu Á Guimet (Bảo tàng Guimet) ở Paris (Pháp) sở hữu 2 hiện vật; Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á ở Berlin (Đức) sở hữu 1 hiện vật; Bảo tàng Văn minh châu Á ở Singapore sở hữu 1 hiện vật; 3 hiện vật đã được Spink bán đấu giá cho những nhà sưu tập giấu tên và 2 hiện vật được nhà nhiếp ảnh Michel Lechien giới thiệu trong cuốn sách Art du Vietnam - La fleur du pêcher et l’oiseau d’azur do Bảo tàng Hoàng gia Mariemont (Bỉ) xuất bản năm 2002, cũng thuộc về các nhà sưu tập ẩn danh. Trong năm 2004, tôi có dịp sang Áo (tháng 4), Đức (tháng 7 - 9), Pháp (tháng 10) và đã thực hiện một hành trình theo dấu các linga-kosa của Champa ở châu Âu. Tại Áo, trong cuộc triển lãm về lịch sử và văn hóa Việt Nam mang tên Việt Nam: Thần linh - Anh hùng - Tổ tiên (Vietnam: Goetter - Helden - Ahnen) tổ chức tại thành phố Leoben có trưng bày một linga-kosa đặc biệt, mượn từ Bảo tàng Guimet. Đây là linga-kosa duy nhất còn khá hoàn hảo. Kosa làm bằng bạc, gồm hai lớp, lớp ngoài sức gãy mất phần trên, nhưng lớp trong vẫn còn nguyên vẹn; đầu tượng Siva làm bằng vàng được gắn vào phần thân của kosa bằng các đinh tán. Hai tai tượng thần Siva có đeo hoa tai bằng vàng; trên cổ có một dãi trang sức bằng vàng lá, chạm trổ công phu. Tuy nhiên 5 viên đá quý gắn trên dãi trang sức này đã bị mất. Đây là hiện vật được mua bảo hiểm cao nhất trong cuộc triển lãm này và được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Dù được phía Áo mời với tư cách chuyên gia tư vấn trưng bày cho triển lãm này, tôi cũng không được tiếp xúc với linga-kosa này, mà chỉ được chụp ảnh từ bên ngoài tủ kính. Tại Đức, tôi được Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á Berlin mời đến thuyết trình về đề tài đồ sứ ký kiểu thời Lê - Trịnh - Nguyễn. Sau khi thuyết trình, TS. Butt, Phó giám đốc, hướng dẫn tôi tham quan bảo tàng. Đưa tôi đến trước một đầu tượng Siva bằng vàng của một linga-kosa đang trưng bày trong hai lớp tủ kính, TS. Butt cho biết Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á Berlin không mua được hai đầu tượng Siva do Spink rao bán năm 1997, mãi đến hai năm sau mới mua được đầu tượng này từ một nhà sưu tập tư nhân ở Anh. Tôi hỏi ông: “Vậy ông có biết ai là người mua mấy đầu tượng Siva do Spink rao bán năm đó không?”. TS. Butt đưa cho tôi danh mục kết quả đấu giá đính kèm cuốn catalogue giới thiệu cuộc đấu giá mùa đông 1997 của Spink. Phần lớn cổ vật đã bán đều có ghi giá mua cuối cùng và thông tin về người mua. Riêng 2 đầu tượng Siva bằng vàng của Champa thì chỉ ghi vẻn vẹn 1 chữ: SOLD (đã bán). Tại Pháp, tôi được Philippe Truong, một nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ ở Paris giới thiệu với TS. Piere Baptiste, quản thủ sưu tập Đông Nam Á của Bảo tàng Guimet. Piere Baptiste cho biết bảo tàng này sở hữu rất nhiều tượng Champa bằng sa thạch, có cả những bộ linga-yoni bằng bạc, nhưng chỉ có 1 linga-kosa bằng vàng và 1 linga-kosa bằng bạc. Linga-kosa bằng vàng đang cho Bảo tàng Leoben mượn để trưng bày trong cuộc triển lãm Việt Nam: Thần linh - Anh hùng - Tổ tiên, chỉ còn linga-kosa bằng bạc đang trưng bày ở phòng Champa. Tôi theo Piere Baptiste viếng thăm phòng Champa. Bên cạnh những tuyệt tác điêu khắc Champa bằng sa thạch là 1 kosa đã bị sứt vỡ một phần ở đỉnh, gắn với 1 đầu tượng Siva bị vỡ mất phần trán. “Tuy không còn nguyên vẹn, nhưng đây là linga-kosa duy nhất làm hoàn toàn bằng bạc, cả kosa lẫn đầu tượng Champa. Niên đại cũng rất sớm, từ thế kỷ 8. Vì thế, nó được Bảo tàng Guimet coi như bảo vật”. Quả như lời Piere Baptiste, nhiều bảo vật của Việt Nam đang thuộc về các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Còn ở Việt Nam, bảo vật đã ít, lại còn cất kỹ trong kho, như trường hợp của đầu tượng Siva Hương Đình và đầu tượng Siva Phú Long, nên con dân đất Việt hiếm khi được dịp mục sở thị quốc gia chi bảo. Thực đáng buồn thay! T.Đ.A.S. Một số hình ảnh về Kosa được tìm thấy Kosa 01a Kosa 01b Kosa 01c Kosa 02a Kosa 02b Kosa 03a Kosa 03b Kosa 04a Kosa 04b Kosa 05 Kosa 06 Chú thích ảnh - Kosa 01a, Kosa 01b và Kosa 01c: Đầu tượng Siva của linga-kosa. Hợp kim vàng và bạc. Thế kỷ 10. Cao 29 cm. Hãng đấu giá Spink (Anh) đã bán hiện vật này trong phiên đấu giá mùa đông năm 1997. - Kosa 02a và Kosa 02b: Đầu tượng Siva của linga-kosa. Vàng ròng. Thế kỷ 10. Cao 16 cm. Hiện vật đã được bán đấu giá tại Spink vào năm 1997. - Kosa 03a và Kosa 03b: Đầu Siva linga-kosa. Đồng. Thế kỷ 10. Cao 13,5 cm. Hãng bán đấu giá Spink rao bán hiện vật này với giá 30.000USD trong phiên đấu giá mua đông năm 1997 nhưng không có người mua. - Kosa 04a: Linga-kosa với linga bằng bạc; đầu Siva bằng hợp kim vàng và bạc. Thế kỷ 8. Cao 25cm. Hiện vật của Bảo tàng Guimet. - Kosa 04b: Linga-kosa bằng vàng và bạc của Bảo tàng Guimet (phần bên ngoài). - Kosa 05: Linga-kosa bằng bạc. Thế kỷ 8. Cao 14cm. Hiện vật của Bảo tàng Guimet. - Kosa 06: Bên trái: Đầu tượng Siva của linga-kosa. Vàng gắn đá quý. Cuối thế kỷ 7 - đầu thế kỷ 8. Hiện vật của Bảo tàng Nghệ thuật Đông Á Berlin; Bên phải: Đầu Siva từ của linga-kosa. Hợp kim vàng và bạc. Cuối thế kỷ 7 - đầu thế kỷ 8. Hiện vật của Bảo tàng Văn minh châu Á ở Singapore.
    1 like
  16. 6. Giờ quan sát Giả thiết rằng, nhịp sinh học của con người (cụ thể về vấn đề sinh nở) là một sự vật, vận động trong môi trường tương tác của Vũ trụ tới Trái đất, có chu kỳ thay đổi là 1 tháng, có cấu trúc 12 cung Địa chi phân bố theo giờ trong ngày. Cứ qua 1 tháng, nhịp sinh học vận động qua 12 Địa chi, gồm 2 chu kỳ Ngũ hành (1 âm và 1 dương). Như trên đã khảo sát, cứ tiến hoá qua một bước âm dương hay một Ngũ hành, nhịp sinh học chuyển qua một giai đoạn mới mà các yếu tố của nó có quan hệ sinh ra yếu tố tương ứng ở giai đoạn trước, hay nó vận động được 1 bước theo chiều dòng Hoá khí, ngược chiều tương sinh. Như vậy, cứ qua 1 tháng (gồm 1 chu kỳ Địa chi 2 Ngũ hành), các yếu tố của nhịp sinh học đó dịch chuyển ngược chiều tương sinh 2 bước, cứ qua nửa tháng, dịch chuyển 1 bước. Mặt khác, khí âm dương của Vũ trụ được con người cảm ứng tạo nên một nhịp sinh học (cụ thể về vấn đề sinh nở) . Nhịp sinh học này so với môi trường tương tác của Vũ trụ tới Trái đất là thứ cấp, sinh sau, nên các yếu tố của chúng không thể đồng thời với các yếu tố của sự tương tác Vũ trụ tới Trái đất, mà phải có một độ trễ nhất định. Giả thiết rằng độ trễ này bằng một bước vận động của trường khí Vũ trụ. Điều đó có nhĩa là, khi tương tác của Vũ trụ tác động tới Trái đất bắt đầu ở cung tháng Tý, giờ Tý thì nhịp sinh học bắt đầu ở đầu cung Hợi (Chậm 1 bước so với trường khí từ Mặt trời) Biểu diễn trên sơ đồ quá trình tiến hoá của nhịp sinh học ta được: (xem hình vẽ) + Vòng Địa chi ngoài cùng biểu diễn phân bố cung giờ Địa chi. + Vòng Địa chi trong biểu diễn phân bố các yếu tố nhịp sinh học của con người (cụ thể về vấn đề sinh nở) theo thời gian Địa chi trong ngày. Cứ qua 1 tháng, vòng Địa chi này vận động nghịch 2 bước bằng 60 độ. Qua 12 tháng, Địa chi nhịp sinh học quay nghịch được 2 vòng. + Ở tháng 11 (tháng Tý), vào giờ Tý đầu tiên, nhịp sinh học vào đầu cung Hợi, thể hiện sự chậm 1 bước của trường khí trên Trái đất so với trường khí Mặt trời. Tháng Tý khắc cung Ngọ của nhịp sinh học đang đóng ở cung giờ Mùi. Giờ Mùi xấu. + Ở tháng 12 (tháng Sửu), nhịp sinh học quay ngược 2 bước (60 độ) làm cho vào giờ Tý đầu tháng Sửu, nhịp sinh học đóng ở đầu cung Sửu. Tháng Sửu khắc cung Mùi của nhịp sing học, đang đóng ở cung giờ Ngọ. Giờ Ngọ xấu. + Ở tháng 1 (tháng Dần), vòng Địa chi nhịp sinh học quay ngược tiếp 2 bước (60 độ) làm cho vào giờ Tý đầu tháng Dần. Nhịp sinh học đóng ở đầu cung Mão. Tháng Dần khắc cung Hợi của nhịp sing học, đang đóng ở cung giờ Thân. Giờ Thân xấu. … Căn cứ vào sơ đồ trên ta có thể lập bảng vị trí các cung của nhịp sinh học tương ứng với các giờ trong ngày của tháng như sau: Căn cứ vào bảng trên ta thấy: - Tháng Tý (11) xung cung Ngọ nhịp sinh học đóng ở giờ Mùi trong ngày. Giờ Mùi xấu. - Tháng Sửu (12) xung cung Mủi nhịp sinh học đóng ở giờ Ngọ trong ngày.Giờ Ngọ xấu. - Tháng Dần (1) xung cung Thân nhịp sinh học đóng ở giờ Tỵ trong ngày. Giờ Tỵ xấu. - Tháng Mão (2) xung cung Dậu nhịp sinh học đóng ở giờ Thìn trong ngày. Giờ Thìn xấu. - Tháng Thìn (3) xung cung Tuất nhịp sinh học đóng ở giờ Mão trong ngày. Giờ Mão xấu. - Tháng Tỵ (4) xung cung Hợi nhịp sinh học đóng ở giờ Dần trong ngày. Giờ Dần xấu. - Tháng Ngọ (5) xung cung Tý nhịp sinh học đóng ở giờ Sửu trong ngày. Giờ Sửu xấu. - Tháng Mùi (6) xung cung Sửu nhịp sinh học đóng ở giờ Tý trong ngày. Giờ Tý xấu. - Tháng Thân (7) xung cung Dần nhịp sinh học đóng ở giờ Hợi trong ngày. Giờ Hợi xấu. - Tháng Dậu (8) xung cung Mão nhịp sinh học đóng ở giờ Tuất trong ngày. Giờ Tuất xấu. - Tháng Tuất (9) xung cung Thìn nhịp sinh học đóng ở giờ Dậu trong ngày. Giờ Dậu xấu. - Tháng Hợi (10) xung cung Tỵ nhịp sinh học đóng ở giờ Thân trong ngày. Giờ Thân xấu. Những giờ xấu trên được cổ nhân truyền lại cho hậu thế trong bài ca giờ quan sát được Nguyễn Vũ Tuấn Anh giới thiệu trong nhiều tác phẩm của mình. Căn cứ vào bản trên và các quan hệ Địa chi, ta có thể suy ra các giờ tốt, trung bình trong tháng. Ví dụ: - Tháng Tý (11) hợp cung Tý, Thìn, Thân của nhịp sinh học đóng ở giờ Sửu, Dậu, Tỵ trong ngày. Giờ Sửu, Dậu, Tỵ tốt. - Tháng Sửu (12) hợp cung Sửu, Dậu, Tỵ của nhịp sinh học đóng ở giờ Tý, Thìn, Thân trong ngày.Giờ Tý, Thìn, Thân tốt. - Tháng Dần (1) hợp cung Dần, Ngọ, Tuất của nhịp sinh học đóng ở giờ Hợi, Mão, Mùi trong ngày. Giờ Hợi, Mão, Mùi tốt. - Tháng Mão (2) hợp cung Mão, Mùi, Hợi của nhịp sinh học đóng ở giờ Tuất, Dần, Ngọ trong ngày. Giờ Tuất, Dần, Ngọ tốt. - Tháng Thìn (3) hợp cung Thìn, Thân, Tý của nhịp sinh học đóng ở giờ Dậu, Sửu, Tỵ trong ngày. Giờ Dậu, Sửu, Tỵ tốt. - Tháng Tỵ (4) hợp cung Tỵ , Sửu, Dậu của nhịp sinh học đóng ở giờ Thân, Tý, Thìn trong ngày. Giờ Thân, Tý, Thìn tốt. - Tháng Ngọ (5) hợp cung Ngọ, Dần, Tuất của nhịp sinh học đóng ở giờ Mùi, Mão, Hợi trong ngày. Giờ Mùi, Mão, Hợi tốt. - Tháng Mủi (6) hợp cung Mùi, Mão, Hợi của nhịp sinh học đóng ở giờ Ngọ, Dần, Tuất trong ngày. Giờ Ngọ, Dần, Tuất tốt. - Tháng Thân (7) hợp cung Thân, Tý, Thìn của nhịp sinh học đóng ở giờ Tỵ, Dậu, Sửu trong ngày. Giờ Tỵ, Dậu, Sửu tốt. - Tháng Dậu (8) hợp cung Dậu, Tỵ, Sửu của nhịp sinh học đóng ở giờ Thìn, Thân, Tý trong ngày. Giờ Thìn, Thân, Tý tốt. - Tháng Tuất (9) hợp cung Tuất. Dần, Ngọ của nhịp sinh học đóng ở giờ Mão, Mùi, Hợi trong ngày. Giờ Mão, Mùi, Hợi tốt. - Tháng Hợi (10) hợp cung Hợi, Mão, Mùi cũa nhịp sinh học đóng ở giờ Dần, Ngọ, Tuất trong ngày. Giờ Dần, Ngọ, Tuất tốt. Như vậy, trong năm, các giờ tam hợp: + Thân, Tý, Thìn của các tháng Tỵ (4), Dậu (8), Sửu (12) + Tỵ, Dậu, Sửu của các tháng Thân (7), Tý (11), Thìn (3) + Tuất, Dần, Ngọ của các tháng Mão (2), Mùi (6), Hợi (10) + Mão, Mùi, Hợi của các tháng Tuất (9), Dần (1), Ngọ (5) là các giờ tốt cho nhịp sinh học của con người (cụ thể về vấn đề sinh nở) … Qua các phân tích trên chúng ta thấy, giờ quan sát chính là giờ xung khắc với giờ Thần hợp của Địa chi tháng. Giờ Thần hợp của Địa chi tháng chính là cung giờ mà yếu tố nhịp sinh học của con người (cụ thể về vấn đề sinh nở) có Địa chi tương ứng với Địa chi tháng, cư ngụ. Tương tác của Vũ trụ tới Trái đất hỗ trộ tốt nhất cho nhịp sinh học của con người vào giờ Thần hợp, và gây tác hại nhiều nhất vào giờ Quan sát. Biểu diễn trên bảng ta được:
    1 like