-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 01/05/2013 in all areas
-
Trung Quốc sợ Philippines sẽ "liều mạng" với sự hậu thuẫn của Mỹ Thứ ba 30/04/2013 08:44 (GDVN) - Chuyên gia Trung Quốc cho rằng Philippines nhờ sự hậu thuẫn của Mỹ mà "liều mạng" với Trung Quốc ở biển Đông. Phó giáo sư Lý Lị, chuyên gia quân sự Đại học Quốc phòng Trung Quốc Tờ “Nhân Dân” Trung Quốc ngày 28/4 đăng bài viết nhan đề “Chuyên gia: Mỹ triển khai tàu tuần duyên ở Singapore có thể là để nhanh chóng can thiệp tình hình biển Đông”. Theo bài viết, gần đây, Mỹ liên tiếp có nhiều động thái trên biển Đông như cuộc diễn tập quân sự liên hợp Balikatan 2013 giữa Mỹ-Philippines diễn ra trong 2 tuần vừa kết thúc, cấp cao Quân đội Mỹ tiết lộ sẽ hỗ trợ Philippines thành lập một lực lượng phòng thủ chuyên nghiệp để ứng phó với tranh chấp chủ quyền của Philippines ở biển Đông. Ngoài ra, Mỹ triển khai tàu tuần duyên USS Freedom ở Singapore. Khi trả lời phỏng vấn trên chương trình “Tiêu điểm hôm nay” của đài truyền hình CCTV Trung Quốc, bà Lý Lị, chuyên gia quân sự, phó giáo sư Đại học Trung Quốc cho rằng, hành động này của Mỹ có thể là để cắm cờ, bố trí trận địa để nhanh chóng can thiệp tình hình biển Đông trong tương lai. Khi nói về cuộc diễn tập quân sự Balikatan giữa Mỹ-Philippines năm nay có gì thay đổi so với năm 2012, Lý Lị cho rằng, cuộc diễn tập quân sự năm nay có ý đồ rõ ràng, quy mô cũng lớn hơn. Trong cuộc diễn tập quân sự Balikatan năm 2012 giữa Mỹ-Philippines, ngoài khoa mục đổ bộ đoạt bãi, còn có một khoa mục nhạy cảm là bao vây giàn khoan dầu mỏ. Đối tượng của khoa mục này vốn rất rõ ràng. Trong cuộc diễn tập năm 2012, bên thứ ba gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia đều tham gia với tư cách quan sát viên. Máy bay vận tải cánh xoay MV-22 Osprey Mỹ tham gia diễn tập quân sự liên hợp Balikatan 2013 với Philippines Năm nay, ngoài sự tham gia của các quan sát viên này, toàn bộ khoa mục diễn tập còn nhấn mạnh hơn tới đổ bộ đoạt bãi, chẳng hạn điều động tàu đổ bộ, tàu tấn công đổ bộ và tàu ngầm tấn công động cơ hạt nhân. Tháng 3/2013, Mỹ còn điều tàu chỉ huy đổ bộ USS Blue Ridge LCC-19 tới Philippines, tăng cường khả năng cho Philippines tranh đoạt đảo, đá trong tương lai. Lý Lị cho rằng, ngoài cuộc diễn tập song phương này, vào tháng 2 hàng năm, Mỹ và nhiều nước còn tổ chức diễn tập “Cobra Gold” (Hổ mang vàng), trong tương lai sẽ có nhiều nước hơn tham gia với tư cách quan sát viên. Ngoài ra, Mỹ triển khai tàu tuần duyên ở Singapore, một mặt có thể hiểu là nhằm nắm chắc quyền kiểm soát eo biển Malacca, mặt khác còn có mục đích tiềm tàng có thể là để tiến hành can thiệp nhanh chóng đối với tình hình biển Đông trong tương lai, e rằng đây là một cột cờ được Mỹ cắm xuống. Theo Lý Lị, đối với Philippines, họ có cảm giác Mỹ rất xem trọng đối với họ, là đồng minh chiến lược chủ yếu ngoài NATO. Có được sự định vị như vậy, cho nên Philippines “liều mạng” trong tranh chấp đảo, đá, đằng sau có sự “chống lưng” của Mỹ. "Mỹ cắm chốt tàu tuần duyên ở Singapore để nhanh chóng can thiệp tình hình biển Đông trong tương lai" Việt Dũng ================= Thưa quí bà Lý Lỵ!Philipfines sẽ chẳng bao giờ "liều mạng", dù cho họ có tên lửa mang đầu đạn hạt nhân! Bà nhầm rồi! Tôi e rằng chính đất nước của bà sẽ phải tính tới sự liều mạng trong việc đối đầu với Hoa Kỳ trong tương lai.3 likes
-
Nét Việt
Thiên Đồng and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Hòn đá kỳ lạ trong ngôi đền cổ ở thành nhà Hồ Thứ tư, 1/5/2013, 10:34 GMT+7 Hòn đá in dấu đầu người và hai bàn tay được lưu giữ tại ngôi đền thờ nàng Bình Khương nằm ở phía đông di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ (Thanh Hóa). >Những bí ẩn xung quanh thành nhà Hồ Ngôi đền cổ thờ nàng Bình Khương nằm sát chân tường thành phía đông thành nhà Hồ. Ảnh: Lê Hoàng Xung quanh di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ ẩn chứa nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Ngoài vấn đề thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị chặt đầu, hay chuyện ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao, còn có một huyền tích lịch sử về nàng Bình Khương tuẫn tiết kêu oan cho chồng và ngôi đền cổ thờ phiến đá kỳ lạ. Đền thờ nàng Bình Khương nằm ở phía đông thành nhà Hồ, thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Huyền tích kể rằng, cuối thế kỷ 14, việc dời đô vô cùng gấp gáp bởi giặc Minh đang lăm le vượt qua ải bắc, những ngọn hỏa hiệu vùng biên ải Cao Bằng, Lạng Sơn mấy lần đã báo khói, báo cháy khiến vua quan nhà Trần lo sợ. Năm 1397, để nhanh chóng dời đô từ Thăng Long về đất An Tôn, Hồ Quý Ly đã gấp rút sai quân lính ngày đêm đào thành, đắp lũy. Việc khai thác, vận chuyển những phiến đá nặng hàng chục tấn rất gian khổ, nhưng việc lắp ghép bức tường sừng sững cao đến 3-4 m mà không có máy móc hiện đại hay vôi vữa đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện. Trong số người tham gia việc đốc công có chàng Cống sinh Trần Công Sĩ. Viên quan này được Hồ Quý Ly giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát, đốc thúc thi công bức tường thành phía Đông. Quan quân ngày đêm làm việc không nghỉ để đảm bảo tiến độ, trong 3 tháng phải hoàn thành “kinh đô bất khả chiến bại”. Trên phiến đá nàng Bình Khương đập đầu kêu oan cho chồng còn hằn nguyên vết lõm sâu in hình đầu người và hai bàn tay. Ảnh: Lê Hoàng Tiến độ thi công gấp rút nghiêm ngặt là thế, nhưng đoạn thành phía Đông do Trần Công Sỹ phụ trách cứ xây gần xong lại đổ sập, không ai rõ nguyên nhân. Nghi ngờ Trần Công Sỹ có mưu làm phản, cố ý chậm trễ công việc xây thành, Hồ Quý Ly tức giận hạ lệnh cho quân lính đem vùi thân chàng vào ngay vị trí bức tường thành bị đổ để làm gương răn đe những kẻ mưu đồ dám chống thượng lệnh. Vợ chàng là nàng Bình Khương nghe tin chồng bị xử tội chết oan nên rất uất hận. Đau khổ tột cùng, nàng lao tới bức tường đá, lấy hết sức để xô đổ những tảng đá xây thành mong nhìn thấy xác người chồng vắn số. Kiệt sức nhưng bức tường thành vẫn không hề rung chuyển, Bình Khương quyết định đập đầu vào đá để được chết theo chồng. Kỳ lạ phiến đá nơi nàng tuẫn tiết lõm xuống một hố rất sâu như hình đầu người và hai vệt bàn tay cào xé. Cảm thương trước người phụ nữ tiết nghĩa, người dân địa phương đã lập đền thờ nàng ngay sát bức tường phía cửa đông thành An Tôn. Phiến đá in dấu đầu người và hai bàn tay được đưa vào đền thờ. Cụ Phạm Đức Vinh (90 tuổi), người dân địa phương cho hay, chuyện nàng Bình Khương vỗ đá kêu oan cho chồng có từ xa xưa, được người dân trong vùng lưu truyền từ đời này sang đời khác. "Nếu tới thành nhà Hồ, hỏi về nàng Bình Khương thì đứa trẻ mới lớn cũng có thể kể lại vanh vách sự tích này", cụ Vinh tự hào nói. Tấm bia đá người xưa khắc ghi công trạng Cống sinh Trần Công Sĩ và tấm gương thủy chung tiết hạnh của nàng Bình Khương. Ảnh: Lê Hoàng Theo sử sách, đến đời vua Đồng Khánh (triều Nguyễn), nghe đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương qua 500 năm vẫn còn in rõ trên phiến đá nên khách xa gần tìm về đây rất đông. Viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ gây nhiều phiền nhiễu nên thuê thợ về đục cả phiến đá đem chôn. Nhưng đục xong, nhóm thợ mắc bệnh lạ rồi qua đời. Bấy giờ tri phủ Đoàn Thước nghe tin lo sợ mới sai lính tìm và cho đào phiến đá đó lên, lắp đúng vào chỗ cũ, đồng thời sai thợ khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương nương, phu nhân tri thạch” (đại ý tảng đá này ghi dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống sinh, triều nhà Trần). Tri phủ cũng cho dựng thêm một phiến đá ở chân thành, nơi xưa kia Cống Sinh bị chôn lấp, trên đó cũng khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương phu quân chi biếm” (nghĩa là nơi chôn lấp chồng bà Bình Khương, là Cống Sinh triều Trần). Năm 1903, tổng đốc Vương Duy Trinh đã làm sớ tâu lên nhà vua ban sắc phong cho nàng Bình Khương 4 chữ: “Tiết liệu khả phong” và giao cho 3 làng Đông Môn, Xuân Giai, Tây Giai xây dựng một ngôi đền kiên cố. Hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa. Ảnh: Lê Hoàng Hiện đền thờ nàng Bình Khương tọa lạc ở phía đông của thành, chính nơi nàng từng vật vã khóc than kêu oan cho chồng. Phía sau ngôi đền cổ là mộ Trần Công Sỹ. Bên phải đền có một cái ao nhỏ, dù nắng to hay hạn hán thế nào, ao cũng không bao giờ cạn nước. Trong đền còn có ba tấm bia đá cổ khắc chữ Hán ca ngợi công đức và tấm gương tiết liệt của nàng Bình Khương. Ông Nguyễn Xuân Toán, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ cho biết, hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa. “Tin vào sự linh thiêng của ngôi đền nên cứ vào dịp mùng một, ngày rằm hay dịp lễ tết đầu xuân, người dân địa phương đều đến đây dâng hương để cầu mong sức khỏe, bình an, may mắn cho gia đình...”, ông Toán nói. Lê Hoàng ============ * Câu chuyện về nàng Bình Khương với thành nhà Hồ, có thể là một dị bản từ hàng ngàn năm trước câu truyện "Nàng Mạnh Khương khóc chồng". Câu chuyện này kể lại như sau: Tần Thủy Hoàng thống nhất lục quốc, chinh phục Bạch Việt. Lo sợ Hung Nô tấn công từ phương Bắc, nên đã ra lệnh xây dựng Vạn Lý trường thành. Chồng nàng Mạnh Khương bị bắt đi phu. Vốn là một thư sinh phương Nam,không kham nổi lao lực và khí hậu phương Bắc. Chồng nàng Mạnh Khương chết và chôn dưới chân Vạn Lý Trường Thành. Nàng Mạnh Khương không quản ngàn dặm xa xôi, tìm đến nơi chôn chồng. Thân xác chồng nàng đã bị vùi lấp dưới hàng ngàn tấn đất đá xây thành. Nang Mạnh Khương ngày đêm khóc lóc thảm thiết. Đột nhiên, trời đất thảm sầu, gió lốc nổi lên. Rồi sấm sét rung chuyển cả trời đất. Một đoạn trường thành sụp đổ và lộ ra thân xác chồng nàng Mạnh Khương. Nàng tự tử chết theo chồng. Từ đó đoạn trường thành này không bao giờ xây dựng được. * "Tiết hạnh khả phong" chứ?! Sao lại "tiết liệu"? Nhà báo có nhầm không vậy? Lói ngong theo dân Hà Lội bi wờ thành "tiết niệu"? Hì!3 likes -
Oxy cao áp được phát triển ở hầu hết các nước có nền kinh tế và Y học phát triển. Nước ta mới được đưa vào ứng dụng trong thời gian gần đây. 1. Phương pháp điều trị oxy cao áp là gì ? Điều trị oxy cao áp là phương pháp dùng oxy tinh khiết ( hoăc hàm lượng cao ) ở áp lực cao để điều trị, điều dưỡng cho bệnh nhân. Bệnh nhân nằm trong máy chuyên dùng. Có nhiều loại máy oxy cao áp: a. Phân loại theo khí sử dụng trong máy: - Máy dùng một loại khí: khí tạo áp lực và cho bệnh nhân thở là 1 loại: oxy hàm lượng cao, áp lực cao. - Máy dùng 2 loại khí: khí tạo áp lực là không khí nén và khí cho bệnh nhân thở là oxy tinh khiết áp lực cao (thường bệnh nhân thở oxy ngắt quãng) b. Phân loại theo số lượng người sử dụng: - Máy dùng cho một người (có máy cho người lớn và máy cho trẻ em) - Máy dùng cho nhiều người cùng điều trị. Có loại máy có bố trí bàn phẫu thuật để bên trong (dùng trong mổ tim). Có loại máy có bàn sinh đẻ (thường dùng cho sản phụ có bệnh tim). c. Phân loại theo mục đích sử dụng: - Máy cố định - Máy cơ động (thường nhỏ dùng trong cấp cứu) 2. Tại sao cần bổ sung oxy cho cơ thể: Oxy có sẵn trong tự nhiên với hàm lượng lớn khoảng 20-21%. Ở đâu cũng sẵn có oxy cho sinh vật hô hấp. Tuy nhiên hiệu quả hô hấp của mỗi người khác nhau. Oxy từ phổi đến được tế bào phụ thuộc nhiều yếu tố: sự hấp thu của phổi, số lượng và chất lượng hồng cầu, khả năng làm việc của tim, thông suốt của mạch máu, tình trạng màng tế bào….Nếu một hoặc nhiều yếu tố trên không bình thường đều làm giảm oxy tới các mô. Vì vậy tuy sống trong cùng một môi trường, có khi trong cùng một phòng nhưng có người đủ oxy có người thiếu. Không những thế ngay trong cùng một người có bộ phận, cơ quan đủ oxy, có bộ phận, cơ quan thiếu oxy. Như vậy thiếu oxy ở mức độ khc nhau là hiện tượng thường gặp ở một phần hay toàn cơ thể Oxy rất cần thiết, thiếu oxy sinh nhiều bệnh: oxy rất cần thiết cho sự sống không chỉ vì oxy có trong thành phần của gần như hầu hết các chất cấu thành cơ thể mà oxy còn là chất duy trì sự sống. Khi sức khỏe suy giảm ta thường quan tâm, hỏi thăm nhau ăn uống như thế nào, ít chú ý tới thở (cung cấp oxy cho cơ thể). Thực ra thở còn quan trọng hơn cả ăn uống. Người ta có thể nhịn ăn nhịn uống nhiều giờ, nhiều ngày nhưng nhịn thở chỉ có thể tính bằng phút. Bốn phút không được cung cấp oxy, não đã bất đầu bị tổn thương và sẽ bị tổn thương không hồi phục khi ngừng được cung cấp thm oxy 9-10 phút. Oxy rất cần cho sự sống nên khi thiếu sinh nhiều bệnh. Có bệnh thiếu oxy là nguyên nhân chính, nguyên nhân tiên phát, có bệnh thiếu oxy là khâu quan trọng trong cơ chế bệnh sinh. Bệnh do thiếu oxy thì cách chữa tốt nhất là cung cấp đủ oxy. Đủ oxy cũng sẽ cắt đứt nhiều quá trình bệnh lý. Có nhiều cách cung cấp thêm oxy cho cơ thể: cải thiện môi trường sống, làm việc, cho thở oxy đẳng áp (áp xuất không khí) nhưng hiệu quả hơn cả là oxy cao áp 3. Nguyên lý của oxy cao áp Hàm lượng các chất khí nói chung, oxy nói riêng trong cơ thể người ta phù hợp và thích nghi với điều kiện môi trường 1 at, hàm lượng oxy 20-21%. Trong điều kiện đó oxy được vận chuyển từ phổi tới các tế bào bằng các con đường: - Kết hợp với hemoglobin dưới dạng HbO2 là dạng vận chuyển sinh học, giữ vai trò chủ yếu. - Oxy hịa tan vào trong huyết tương, nước mô các dịch của cơ thể. Đây là dạng hòa tan vật ly, theo định luật Henri – Daltoa. Ơ đây cơ thể được coi là môi trường nước. Các chất khí vào phế nang tiếp xúc với môi trường nước qua màng phế nang. Ơ áp suất bình thường dạng hòa tan chiếm lượng không đáng kể. Trong 100 ml máu chỉ có khoảng 0,3 ml oxy dạng hòa tan. Trong khi nhu cầu của cơ thể cần khoáng 6,65 ml oxy trong 100 ml máu. Nhưng oxy hòa tan có tầm quan trọng vì là dạng sử dụng trực tiếp của tế bào. Oxy kết hợp (HbO2) tới tế bào cũng phải chuyển thành dạng hòa tan tế bào mới sử dụng được. Có thể tăng lượng oxy hòa tan bằng tăng áp suất và hàm lượng khí oxy hít vào. Cứ tăng áp suất oxy thở vào thm 1at trong điều kiện nhiệt độ không đổi thì lượng oxy hòa tan trong 100 ml máu tăng thêm 2,3 ml. Oxy cao áp đã sử dụng tính chất này của oxy nhằm tăng nhanh, chủ động lượng oxy cung cấp cho cơ thể. Oxy ở áp lực cao còn có một số đặc tính quý: - Có tác dụng diệt khuẩn nhất là vi trùng kỵ khí, với vi trùng hiếu khí nhiều loại ở oxy áp suất cao cũng làm bất hoạt, ngừng tiết độc tố và bị diệt. - Kích thích tăng khả năng miễn dịch nhất là miễn dịch dịch thể. - Điều chỉnh thăng bằng kiềm toan qua hệ thống Hb/HbO2, thăng bằng chuyển hóa. - Điều hòa nhịp tim,… 4. Ưu việt của phương pháp điều trị oxy cao áp. - Là phương pháp vừa có tác dụng điều trị, vừa có tác dụng điều dưỡng. - Là phương pháp an toàn dễ tiếp nhận ngay cả trẻ mới sinh đến người già yếu. Phương pháp không đưa chất lạ vào cơ thể nên hầu như không có tác dụng phụ. Khi điều trị bệnh nhân cảm thấy thoải mái như nằm nghỉ trong phòng máy lạnh. - Có tác dụng điều trị đồng thời nhiều bệnh nhưng không làm giảm ý nghĩa tác dụng này với từng bệnh 5. Chỉ định và chống chỉ định a. Điều trị bệnh: Oxy cao áp có tác dụng điều trị nhiều bệnh trong đó có những bệnh có chỉ định tuyệt đối và nhiều bệnh là phương pháp điều trị kết hợp + Bệnh có chỉ định tuyệt đối - Ngộ độc oxyd carbon và các khí độc khác - Bệnh giảm áp của thợ lặn và phi công - Bệnh nhiễm trùng kỵ khí, hoại thư sinh hơi + Bệnh trong đĩ oxy cao áp là phương pháp điều trị phối hợp. Các chuyên khoa đều có những bệnh cần oxy cao áp để làm tăng hiệu quả điều trị. Tuy là phương pháp phối hợp nhưng trong nhiều bệnh, oxy cao áp có hiệu quả rất cao. Một số chỉ định thường gặp: - Viêm loét ngoài da lâu liền do các nguyên nhân khác nhau: do tiểu đường, liệt nằm lâu ngày, do bỏng, nhiễm trùng ngoại khoa. Oxy cao áp có hiệu quả cao với các chỉ định này. Bằng oxy cao áp điều trị bảo tồn được nhiều bàn chân tiểu đường đã có chỉ định cắt cụt. Oxy cao p cũng có tác dụng phòng tránh loại viêm loét này. - Bệnh tim mạch: Thiếu máu cơ tim (có vùng cơ tim trong bệnh này thiếu 50%-60% nhu cầu oxy cần thiết) loạn nhịp tim, nhồi máu cơ tim; thiểu năng tuần hoàn não; viêm tắc động mạch,… - Tai biến mạch máu não, rất cần thiết khi điều trị các di chứng bệnh này; rối loạn tiền đình. - Các trường hợp hoại tử xương: hoại tử do chấn thương, nhiễm trùng, hoại tử vô trùng, hoại tử sau xạ trị (hay gặp hoại tử xương hàm sau xạ trị khối u vùng mặt, vòm hầu) - Hỗ trợ tốt kết quả phẫu thuật giúp bảo tồn các đoạn nối, mảnh ghép xương và phần mềm trong ngoại khoa cũng như phẫu thuật thẫm mỹ - Bệnh bại não, tự kỷ, chậm phát triển trí tuệ ở trẻ em. - Giảm thị lực hoặc thính lực đột ngột. - Những bất ổn thai phụ đặc biệt khi có nhiễm độc thai nghén. b. Điều dưỡng: Oxy cao áp có tác dụng điều dưỡng cao: - Chống lão hóa tế bào nói riêng toàn cơ thể nói chung, giảm sa sút trí tuệ tuổi già. Giữ da đẹp với người trẻ. - Hồi phục nhanh sức khỏe sau ốm, sau lao động trí lực thể lực cường độ cao. c. Chống chỉ định: Oxy cao áp có một số chống chỉ định: - Bệnh áp xe khí kín, tràn khí màng phổi - Bệnh động kinh - Bệnh huyết áp cao - Bệnh sợ vào phòng kín Những chống chỉ định trên có tính chất tương đối. Khi cần điều trị oxy cao áp có thể khắc phục bằng các biện pháp hỗ trợ: Trích hoặc dẫn lưu các ổ khí kín trong cơ thể, dùng thuốc an thần chống động kinh, thuốc hạ huyết áp,…..trước khi điều trị oxy cao áp. Bs. Nguyễn Kim Phong .................................................... Mẹ TM bị bệnh tiền đình đã mấy năm, uống đủ thuốc đông tây không khỏi, vừa rồi bệnh trở nặng, đi không nổi. May mắn có người chỉ cho phương pháp này, mẹ có nằm máy oxy cao áp ở viện 108- HN, chỉ 10 ngày là các triệu chứng mất hẳn, khỏe mạnh như xưa. Bác sĩ có hẹn một thời gian tới nằm để hạn chế căn bệnh quay trở lại. TM thấy đây là một phương pháp hay mà nhiều người chưa biết tới. PP này còn được sử dụng để điều trị các bệnh tự kỉ, giảm thính lực, tai biến,... nên viết bài giới thiệu tới mọi người.3 likes
-
Túy Lão Xem Tử Vi
lidi and one other liked a post in a topic by Túy Lão
Năm nay sẽ gặp ngựa nhưng lên xe thì chưa! Lời khuyên chó cháu: Trong mọi việc nên bình tĩnh suy xét trước sau không được nóng vội, càng nóng vội càng đánh mất mình, tự tin là cái đáng quý (cháu có điều này) nhưng tự tin thái quá thành kiêu ngạo , Nên trầm tĩnh hơn nữa thì cháu sẽ đạt được điều cháu muốn không nên coi nặng cái được và cái mất. Được và Mất là hai thứ đến giờ cháu chưa xác định được đâu. Hy vọng cháu sẽ hiểu lời của Lão say muốn truyền tải tới cháu2 likes -
Công danh như bèo trôi công việc thì chóng chán làm nơi nào cũng không bền, muốn có việc bền thì tìm việc nào có tính cách di chuyễn.Điền sản sẽ hưởng được của hương quả hay của cha mẹ ông bà để lại nhưng không nhiều, sau rồi cũng bán hay tiêu tán ,về già có chỗ nương thân là may.2 likes
-
=======================Người Trung Quốc đang bế tắc trong việc tìm một giải pháp tháo gỡ tính thế về nhiều phương diện! Sắp tới đây - không quá tháng 9 Việt lịch - sự bế tắc sẽ lan sang tất cả những con bạc trong "canh bạc cuối cùng" và mọi chuyện chỉ chực chờ bùng nổ.2 likes
-
Quán vắng!
hoctronho and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Lịch sử và... trò bốc thăm may rủi Tác giả: TS Dương Xuân Thành Bài đã được xuất bản.: 18/04/2013 02:00 GMT+7 Vì sao trò chơi may rủi này lại diễn ra trong một sự kiện tầm cỡ quốc gia và ở một Bộ chức năng vốn toàn những GS, TS? Trong bóng đá việc bốc thăm chia bảng hoặc phân các cặp đấu luôn gắn với cụm từ "lá thăm may rủi", chính vì thế mới xuất hiện "bảng đấu tử thần" gồm toàn đội mạnh. May cho ai và rủi cho ai? Nước ta vừa qua cũng có một cuộc "bốc thăm" làm dậy sóng dư luận cả nước, nó khiến cho nhiều con trẻ sung sướng đến mức xé cả tài liệu học và cũng khiến cho nhiều người lớn giật mình. Ông Trần Văn Nghĩa, Cục phó Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng (Bộ GD&ĐT) cho biết: Các môn thi tốt nghiệp hoàn toàn được bốc thăm xác xuất, không có sự can thiệp nào trong này, do vậy năm nay không có môn Lịch sử trong danh sách thi cũng là bình thường". [1] Bốc thăm bao giờ cũng "may" cho người này và "rủi" cho người kia. Trong cuộc bốc thăm của Bộ GD&ĐT "may" cho ai và "rủi" cho ai? May cho kỳ thi sẽ không có hàng ngàn điểm 0 môn Sử. May vì chất lượng GD đã được nâng cao, vì kết quả thi sẽ khả quan hơn năm trước. May vì học trò sẽ không phải thi một môn học thuộc lòng. ............. Rủi: Chẳng rủi cho ai cả, mọi sự đều an toàn trong tầm kiểm soát. Vấn đề là vì sao trò chơi may rủi này lại diễn ra trong một sự kiện tầm cỡ quốc gia và ở một Bộ chức năng vốn toàn những GS, TS? Nền văn hiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm, để tồn tại và phát triển trước dã tâm xâm lược, đồng hóa của kẻ thù, tổ tiên ta luôn chú ý đến lịch sử. Có thể nói các lĩnh vực mà cha ông ta quan tâm nhất là văn học, lịch sử, y học, địa lý và pháp luật. Những công trình khoa học tồn tại đến ngày nay đã minh chứng điều đó. Riêng trong lĩnh vực lịch sử có thể liệt kê các công trình đồ sộ như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam quốc sử diễn ca, Sử ký Đại Nam Việt quốc triều v.v... Có thể tự hào một cách chính đáng rằng lịch sử đất nước và con người Việt Nam là một trong những trang hào hùng nhất của lịch sử nhân loại. Trong chiến tranh chắc chắn không có vị tướng nào trước trận đánh mang tính sống còn của dân tộc lại dùng hình thức bốc thăm để chọn đội hình chiến đấu? Có lẽ ai đó cho rằng mặt trận GD không liên quan đến sự tồn vong của dân tộc, nhất là môn học Lịch sử nên có bốc thăm may rủi cũng chẳng sao? Nhiều học giả đã đề cập đến vai trò và ý thức trong việc dạy và học môn Lịch sử, vì là người "ngoại đạo" nên xin không dám lạm bàn. Có điều những vương vấn trong lòng không thể giữ yên nên mạnh dạn nêu vài câu hỏi, rất mong nhận được những lời giải thích. Việc bốc thăm chọn sáu môn thi tốt nghiệp được Bộ GD&ĐT tiến hành như thế nào? Bốc thăm cả sáu môn hay cố định một số môn và bốc thăm số còn lại? Nếu bốc thăm cả sáu môn mà môn Toán hoặc Văn không trúng thì Bộ sẽ làm gì? Nếu chọn cố định một số môn thì những môn đưa ra bốc thăm là những môn nào? Có thể phỏng đoán hai môn Văn và Toán sẽ không được Bộ đưa vào trò chơi may rủi này. Vấn đề hiển nhiên là trong số các môn bốc thăm có môn Sử, vậy tại sao lại đưa môn Sử vào bốc thăm? Rõ ràng là ở đây hàm chứa một sự thật, rằng người ta rất ngại đưa môn Sử vào thi tốt nghiệp nhưng lại càng ngại hơn khi quyết định không đưa vào thi. Để khỏi phải giải trình "vòng vo tam quốc" trước dư luận xã hội, trước hội đồng nọ, hội đồng kia, cách tốt nhất là đổ cho "ông giời" thông qua trò bốc thăm may rủi. Xé đề cương môn học, vứt trắng xóa sân trường. Ảnh cắt từ clip Lỗi tại ai? Có một câu nói nhiều người biết: Nếu một dân tộc không dám chiến đấu, dân tộc đó xứng đáng làm nô lệ". Dám chiến đấu là một chuyện, biết chiến đấu lại là chuyện khác. Biết chiến đấu chỉ khi lòng quyết tâm cao độ kết hợp nhuần nhuyễn với kinh nghiệm tích lũy trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Người viết đã nêu cho nhiều lớp sinh viên câu hỏi: "Việt Nam có chung biên giới với những nước nào?". Câu trả lời luôn là: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Khi hỏi tiếp: "Việt Nam có chung biên giới với Thái lan, Philipines không?", hầu hết sinh viên lắc đầu! Họ đâu có biết ngày 9/8/1997 tại Băng Cốc, Việt Nam và Thái Lan đã ký hiệp định phân chia biên giới trên biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan. Sinh viên ĐH không biết nước mình có chung biên giới với những nước nào là lỗi của ai? Lỗi không phải của lớp trẻ, lỗi là của người lớn mà đặc biệt là lỗi của các thầy, cô giáo dạy Địa lý, Lịch sử đã không dạy cho lớp trẻ điều đó. Tất nhiên các thầy, cô giáo có quyền phản biện rằng: SGK không nói điều đó (?) hoặc ở tầm cao hơn người ta xem Lịch sử chỉ là môn thi may rủi nên khó có điều kiện đòi hỏi tập trung trí tuệ... Hồi còn là sinh viên người viết được dạy rằng: Triết học là khoa học của các khoa học. Sau này lại được biết thêm câu nói của Hegel: Lịch sử và triết học là hai hình thái tương đương. Xem nhẹ Lịch sử không chỉ là xem nhẹ một lĩnh vực khoa học hàng đầu mà còn trực tiếp tạo nên những nhận thức lệch lạc về chủ quyền quốc gia, về truyền thống dân tộc. Có một chuyện ngắn rất thâm thúy, rằng tại viện hàn lâm khoa học nọ, người ta tiến hành bầu viện sĩ mới. Nguyên tắc của cuộc bầu là không dùng lời nói và chữ viết. Vị viện trưởng đặt trước mặt ứng viên một chiếc cốc và rót nước đầy đến miệng, ý nói viện chúng tôi đã đầy đủ các nhân tài rồi. Ứng viên đứng dậy ngắt một cánh hồng trong lọ hoa và đặt trên miệng cốc, ý rằng thêm một cánh hồng không làm nước tràn ra mà chỉ làm đẹp thêm cho cốc nước. Người đó được chấp nhận làm viện sĩ chính thức của viện. Việc bốc thăm dẫn tới bỏ thi Lịch sử đúng là không cần ngôn từ, chỉ cần thò tay vào bốc. Chỉ có điều việc làm này không phải là thêm cánh hồng trên "cốc nước GD" đã đầy tràn, nó không góp phần làm đẹp thêm cho bức tranh vốn rất nhiều mảng tối. Động tác "bốc thăm" chỉ là giọt nước tràn ly, phải chăng nó cho thấy thói quen dùng tay vào việc cầm... hơn là dùng đầu? Dù thế nào chăng nữa nó cũng thể hiện sự bất lực trong tư duy quản lý ở tầm vĩ mô. Người viết hoàn toàn đồng cảm với suy nghĩ của nhà giáo Trần Trung Hiếu, giáo viên Lịch sử Trường THPT chuyên Phan Bội Châu (Vinh, Nghệ An) [1]: Môn Sử phải được cho vào môn thi tốt nghiệp, ở đây Bộ không đánh giá đúng vị trí, vai trò của môn Sử, ý thức tự tôn dân tộc trong thời điểm này là khá cần thiết. Nếu không thi, học sinh không học sẽ dẫn đến hệ quả ý thức, tinh thần dân tộc đối với vận mệnh chủ quyền càng phai nhạt. "Ăn no lại nằm" vốn là lời trong một câu ca dao, nó phản ánh một thói quen của con người là không thích lao động vất vả. Với học sinh, nếu không có các biện pháp GD bắt buộc sẽ ít người thích học, chính vì thế những môn học liên quan đến lịch sử dân tộc, đến chủ quyền biên giới quốc gia cần phải được đặc biệt chú ý. Với tinh thần đó người viết xin nêu một đề xuất: Từ năm 2014, bốn môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông phải là: Toán, Văn, Lịch sử, Địa lý. Các môn còn lại được lựa chọn tùy thuộc vào tình hình cụ thể nhưng tuyệt đối không phải bằng hình thức bốc thăm. Vừa qua Bộ GD&ĐT đã có phản ứng tích cực trước các ý kiến về chuyện "điểm sàn" trong kỳ thi tuyển sinh CĐ-ĐH năm nay. Hy vọng Bộ sẽ lắng nghe thêm các ý kiến về chuyện "bốc thăm" để tình trạng đáng buồn này sẽ không tái diễn. ----- [1] http://giaoduc.net.v...on-Su/287114.gd ========================== Chỉ riêng với giáo dục và môn Sử, người ta nói rất nhiều khia cạnh; người ta phân tích đủ mọi thứ, người ta nói đến sự vô cảm và chỉ trích, như một cách thể hiện những gỉa trị đạo đức; người ta nói đến dấn thân như một cách mô tả lòng dũng cảm và tính trách nhiệm...vv...Nhưng chưa một ai nói đến Việt sử 5000 năm văn hiến. Hôm nay mới thấy một câu phong long này. Nhưng cũng chỉ mé mé thôi: "Nền văn hiến Việt Nam trải qua hàng nghìn năm". Tiếc thay! Một bài viết đến cập đến chính ngay môn lịch sử; xác định tầm quan trong của Việt sử trong nền giáo dục Việt; thể hiện tâm huyết của người viết với nền sử học nước nhà. Nhưng cũng không hề nhắc đến cội nguồn Việt sử gần 5000 năm văn hiến! "Mấy ngàn năm" là "mấy ngàn năm" chứ nhỉ? Cội nguồn Việt sử mơ hồ như thế sao? Bởi vậy! Ngay cả bài viết thể hiện tâm huyết của tác giả với Việt sử mà còn mơ hồ. Vậy làm sao mà chấn hưng giáo dục?2 likes -
Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi mạnh dạn mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình trước khi đưa ra những quyết định về công danh, sự nghiệp. Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức và kinh nghiệm có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Huyencodieuly1 like
-
Tính thấy trong minh triết Phật giáo và bí ẩn vũ trụ trong lý học Đông phương * Lời giới thiệu. Kính thưa quí vị quan tâm. Trong cuốn sách đã xuất bản bởi Nxb Tôn giáo - 2006 có tựa là "Đức Phật khai ngộ về tính thấy" - thực chất đó là nội dung của tiểu luận: "Định mệnh có thật hay không?" mà tôi hân hạnh trình bày lần đầu tiên vào năm 2005 trên website tuvilyso.com, sau đổi thành tuvilyso.net. Trong tiểu luận này, để minh chứng tính vật chất của ý thức tôi đã sử dung nội dung minh triết của Phật giáo về tính "Thấy", nhằm so sánh, dẫn giải. Do chủ đề của tiểu luận nhằm giải quyết vấn đề "Định mệnh có thật hay không?". Cho nên, giới hạn của việc phân tích sự khai ngộ của Đức Phật về tính thấy chỉ đủ minh chứng cho tính vật chất của ý thức. Nhưng khi biên soan lại tiểu luận này, do định nghĩa lại về vật chất, tôi đã bỏ hẳn đoạn này vì đã minh chứng bằng phương pháp khác cho mục đích xác định ý thức chính là một dạng vận động của vật chất. Nhưng có thể nói rằng: Chính tính minh triết Phật giáo trong bộ kinh nổi tiếng "Thần chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm" lại là nội dung rất quan trọng trong việc xác định bản chất của Thái Cực trong minh triết Đông phương và từ đó đã đi đến việc minh chứng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại hiện nay đang tìm kiếm. Và cũng có thể nói rằng: Tổ tiên người Lạc Việt - tức Bách Việt đã di ấn lại cho đời sau hình ảnh của cây nêu phủ bóng áo cà sa của Đức Phật đã chỉ ra rằng: Những giá trị huyền vĩ của minh triết Đông phương mà người Lạc Việt chính là chủ nhân của nó, sẽ chỉ được phục hồi hoàn chỉnh và được bảo vệ dưới sự minh triết của Phật giáo. Nếu chỉ xác định được tính vật chất của ý thức thì điều này mới chỉ thấy được một nửa của vũ trụ bí ẩn. Bởi vì, vấn đề được đặt ra sẽ là: Nếu tất cả vũ trụ này từ khởi nguyên cho đến mọi sự phát triển trong lịch sử và tương lai của nó đều là vật chất thì cái gì là nhận biết sự vận động của chính vật chất? Sự bùng vỡ của vũ trụ sau giây 0 của thuyết Bicbang xác định rằng: Vũ trụ từ khời nguyên là một hiện tượng vật chất. Đây cũng là điều kiện của thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Nhưng thuyết Bicbang sẽ không thể lý giải vì sao con người nhận thức được sự vận động của vật chất ngay trong não bộ của chính con người? Bởi vậy, nó phải viễn dẫn đến Thượng Đế. Điều này thể hiện qua tiểu luận "Thượng Đế và khoa học" do các giáo sư, viện sĩ viện hàn lâm khoa học Pháp thực hiện. Và khi sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo ra được cả những khoa học gia máy (*), thì vấn đề ý thức và khả năng tư duy của con người sẽ phải đặt lại vấn đề cho nó: Sự phân biệt giữa một bộ não máy siêu việt và những con người bình thường. Con người là gì? Nó từ đâu tới? là một câu hỏi đã được đặt ra từ thời cổ sử của nhân loại nhận thức được hiện nay - Từ thế kỷ thứ III BC, khi nhà hiền triết Hy Lạp đứng suy nghiệm hàng giờ trên đường phố Aten - Khi nền khoa học hiện đại phát triển với nhưng con robo ngày càng hiện đại, nó được lặp lại bởi câu chuyện viễn tưởng: "Thân chủ tôi không giết người" (**). Tiêu chí khoa học phát biểu rằng: Một lý thuyết khoa học được coi là đúng phải giải thích một cách hợp lý hầu hết vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó, một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính khách quan, tính quy luật và khả năng tiên tri. Bởi vậy, việc giải quyết được vấn đề này sẽ xác minh một cách chắc chắn rằng: Thuyết Bicbang là một sai lầm khi nó không thể giải thích được tính nhận thức của con người từ đâu khi vũ trụ này khởi nguồn từ vật chất? Hay nói một cách khác: Nó sẽ giải quyết một cách rốt ráo nhất vấn đề: Con người là gì? Nó từ đâu tới? Mà con người chính là một hiện tượng trong vũ trụ cần được lý giải của một lý thuyết nhân danh lý thuyết thống nhất vũ trụ - thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt. Tiểu luận này sẽ trình bày với quí vị quan tâm phần còn lại của bí ẩn vũ trụ - khả năng nhận thức của con người và chính là nửa còn lại của một lý thuyết thống nhất. Thuyết Âm Dương Ngũ hành phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. -------------------- Chú thich: * Robot - khoa học gia 04/04/2009 21:58 Nguồn: Thanh Niên Online Adam đang tiến hành thí nghiệm... Theo hãng Reuters, 2 nhóm nghiên cứu đã chế tạo thành công những cỗ máy có thể tự lý luận, trình bày chính xác các học thuyết và phát hiện tri thức khoa học. Bước đột phá này đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo. Những robot trên có thể đảm nhận công việc nghiên cứu khám phá các hệ thống sinh học phức tạp, chế tạo những loại thuốc mới, dựng lên mô hình về khí hậu trái đất hoặc nghiên cứu những dải thiên hà. Cụ thể, tại Đại học Aberystwyth (Wales), đội ngũ các chuyên gia đã chế tạo một robot gọi là Adam, không những có khả năng tiến hành thí nghiệm sự chuyển hóa men mà còn lý luận chính xác về các kết quả và lên kế hoạch cho cuộc thí nghiệm tiếp theo. Đây là một thí dụ đầu tiên trên thế giới về một bộ máy có khả năng tạo ra phát hiện khoa học một cách độc lập. Robot mới của đại học trên, được đặt tên là Eve, sẽ sở hữu năng lực bộ não mạnh mẽ hơn và sẽ có nhiệm vụ nghiên cứu các loại thuốc mới. Công trình nghiên cứu của Đại học Aberystwyth được trình làng cùng lúc với phát minh của Đại học Cornell (Mỹ), nhóm đã phát triển một chương trình máy tính có khả năng triển khai những quy luật cơ bản về vật chất. T.M ** THÂN CHỦ TÔI KHÔNG GIẾT NGƯỜI Truyện khoa học giả tưởng Hắn mở mắt ra, một thoáng cảm giác lạ xẹt qua người làm hắn nhớ lại: Đây không phải phòng riêng của hắn ở 27 đường Maxell mà là phòng giam. Một căn phòng hẹp téo, bề ngang chừng 2m5, dài cỡ 4m, đủ kê một cái giường cá nhân và một cái tủ con. Tường bê tông ba phía quét vôi xanh, cửa và mặt phòng giam quay ra hành lang làm bằng song sắt. "Rồi, ta bắt đầu một cuộc đời mới!". Hắn lẩm baẩm, đầu vẫn choáng váng vì rượu và quả đấm của Dream: "Cái thằng chết tiệt!". Mặc dù đã bị từ chối, vẫn năn nỉ đòi khiêu vũ với Mazda - người tình của hắn - khi nàng đã mệt đờ vì nhảy cả tiếng đồng hồ trước đó. Hắn đã cho Dream một bài học về phép lịch sự đối với phụ nữ, khiến cho nó không bao giờ có thể lặp lại hành đông bất nhã đó là lần thứ hai trong đời: một viên dạn vào giữa sọ làm thằng bợm đó chết ngay. Cảnh sát đã tống cổ hắn vào trại giam với cả lít Martell trong bụngナ. "Thế là hếtナ!" Nhưng hắn cũng chẳng còn kịp suy nghĩ gì hơn vì men rượu đã giúp hắn ngủ say đờ trên cái giường nệm mút cũ kỹ ở trong phòng giam nàyナ Còn bây giờ thì hắn hối hận. Hình ảnh những người thân và những kỷ niệm bắt đầu hiện ra - những buổi vũ hội, những cuộc tắm biển và những đêm mùi mẫn bên người tìnhナ "Ôi! Mazdaナ". Nàng chẳng hơi đâu chờ đợi một kẻ giết người như hắn mà cái giá hữu nghị nhất là hai năm tù. Bỗng một tiếng nói trầm trầm, đều đều vang lên từ cái haut - parleur đặt ở đầu hành lang làm đứt dòng suy nghĩ của hắn: "Giám thị trực! Đưa ngay phạm nhân VB - 018 - E lên phòng điều tra!". Hắn nhìn xuống ngực - số VB - 018 - E chính là hắn. Có tiếng giày lộp cộp, một viên cảnh sát đi đến trước cửa phòng giam. Hắn xoay người đúng một góc chín mươi độ và đưa tay hướng về ổ khoá. Bộ điều khiển từ xa lắp trong bàn tay làm chiếc cửa tự động mở. "Một thằng "cớm sắt"!". Giới giang hồ rất sợ loại cớm này: võ nghệ tuyệt hảo, bắn súng như trong phim, bất kể kẻ nào chống lại hoặc cố ý chạy trốn đều nằm ngay đơ vì bị đánh trúng huyệt, hoặc ăn một viên đạn thuốc mê vào bả vai cứ y như là nó đã nằm sẵn ở đấy từ trướcナ - Đứng dậy! Đi theo tôi. Hắn đừng dậy và buớc ra. Đằng sau hắn, tay cớm lầm lũi đi theo. Hắn thấy ghê ghê ở trên gáy. "Biết đâu, do một sự trục trặc kỹ thuật nào đó mà tay "cớm" này có hành động bất thường và giết hắn?"ナ Những chuyên viên khoa học ở Bộ Nội vụ bảo đảm rằng: Không bao giờ có sự cố và tất cả những cảnh sát máy đều được theo dõi chặt chẽ bằng computer, chỉ cần một hành động khác thường nằm ngoài chương trrình, lập tức sẽ bị vô hiệu hoá bằng vô tuyến điều khiển từ xaナ "Mẹ kiếp! Cái xã hội loài người ở thiên niên kỷ thứ IV này, đã sống trong một môi trường nhân tạo hoàn toàn và bị lệ thuộc vào những bộ nhớ điện tử. Nếu bị một trục trặc gì đó, mọi thứ sẽ đi đứt, cuộc sống rối loạn và nhân loại sẽ trở lại thời kỳ đồ đá!". Hắn lẩm bẩm cầu xin Thượng đế toàn năng hãy ban phép lành cho những con virus điện tử ở trong các trung tâm siêu điện toán. Thế là xong! Mọi trung tâm điều khiển không còn hoạt động, những tội lỗi của hắn ghi trong bộ nhớ của các máy siêu điện toán sẽ được xoá sạch. Hắn sẽ quẹo phải, đi qua cổng trại giam về nhà và trở thành người lương thiện, còn tay "cớm sắt" lùi lũi đi sau lưng hắn sẽ quẹo sang tráiナ Nhưng điều đó đã không xảy ra, vì hắn không phải là một nhân vật quan trọng đáng được Thượng đế chú ý, cho nên hắn vẫn phải bước vào phòng điều tra với tay "cớm sắt" đi sau lưng. Trong phòng điều tra không có một người nào. Hắn hiểu ngay: Người ta làm việc với hắn theo chương trình của những thủ tục pháp lý. - Mời anh ngồi! Hắn ngồi xuống chiếc ghế trước bàn làm việc như một cái máy, mặc dù haắn là một con người thật sự. Giọng nói đều đều, lạnh lùng tiếp tục vọng ra từ máy siêu điện toán: - Anh sẽ được tiếp xúc với ngài luật sư Organ để biểu lộ sự đồng ý hay không đồng ý nhờ luật sự can thiệp cho vụ án của anh ! Xin mời ngài Organ Yamaha! Cánh cửa tự động mở ra. Một người đứng tuổi, dong dỏng cao, khuôn mặt sáng sủa dễ mến, cắp chiếc cặp bước vào trong phòng. Ông nhã nhặn bắt tay hắn và ngồi xuống ghế đối diện: - Anh là Sonyl - Pho? - Thưa ông, vâng! - Tôi là luật sư tiến sĩ Organ Yamaha, được gia đình anh đề nghị bào chữa cho anh trong vụ án Dream, anh có quyền từ chối hoặc chấp nhận sự bào chữa của tôi theo luật định! Vừa nói ông vừa lấy trong túi áo vét một cái thẻ luật sự đưa cho hắn. - Tôi đồng ý! Hoàn toàn đồng ý! - Hắn nói một cách vội vã, nét mặt tỏ ra sung sướng - Được một người như ông giúp đỡ, chắc chắn tôi sẽ có một mức án hữu nghị! - Được rồi! - Luật sư Organ gật đầu tỏ vẻ hài lòng. - Bây giờ anh hãy trả lời một số câu hỏi của tôi: Anh thừa nhận có bắn vào Dream? - Đúng thế thưa ông! Nhưng lúc đó tôi say rượu, tôi đã uống cạn cả lít Martell, không tin ông có thể hỏi thằng bồi, tôi không cố sát! - Anh bắn vào nó trong trường hợp nào? - Nó đánh tôi một cú rất mạnh vào đầu - Hắn chỉ lên trán - Đây ông coi, nó còn sưng chù vù lên đây này! Luật sư gật đầu, nhìn lên cái trán có một cục lồi tím xanh, tỏ vẻ thông cảm: - Nhân chứng cho biết hai người có xô xát! - Đúng vậy thưa ông! Vì nó xúc phạm đến người yêu của tôi, tôi cản trở, nó còn mắng tôi là: Đồ lợn ích kỷ. Thế là tôi choảng nó! - Dream đánh anh nhiều không? - Mới chỉ một cú vào đầu nhưng rất mạnh, khiến tôi bật ngửa. Tôi phải bắn hắn vì nếu để một cú thứ hai chắc tôi không sống nổi! Luật sư Organ nheo nheo mắt nhìn hắn: - Trường hợp này tôi khuyên anh nên thừa nhận mọi hành động gây án để hoàn tất hồ sơ và được ra toà một cách nhanh chóng. Tôi sẽ giúp anh có thể được trắng án! - Trắng án? Hắn trố mắt ngạc nhiên. Luật sư Organ gật đầu với một nụ cười bí hiểm đầy vẻ tự tin: - Cảm ơn sự cộng tác của anh. Ông đứng dậy, bắt tay hắn rồi lặng lẽ ra về. * * * Toà đại hình xử vụ giết người được mở tại toà án tiểu bang Atlantic. Thực ra với một án giết người do say rượu và sĩ diện với gái cũng chẳng có gì đáng chú ý, nhưng vì là một vụ đại hình nên số người tham dự cũng khá đông đảo. Trong khi chờ đợi đến giờ xử án, họ bàn tán đủ mọi chuyện trên đời: từ chuyện bế tắc trong việc tìm một giá trị hối đoái tiền tệ, để có thể liên kết về mặt kinh tế với người ngoài hành tinh; cho đến chuyện đã có một loại vải thông minh, có khả năng thay đổi màu sắc và độ dày mỏng theo ý muốn, được tung vào thị trường để phục vụ các quí bà, quí cô ナ Bỗng tiếng chuông reo vang và ánh sáng trong phòng xử án đổi sang màu lá mạ khiến cho mọi người chú ý. Tiếng ồn ào bớt đi hẳn vì những câu chuyện phiếm được ngưng lại. Phiên toà sắp bắt đầu. Các quan chức của phiên toà trịnh trọng với bộ lễ phục, lục tục bước vào vị trí của mình trong phòng xử án. Sau những nghi thức được tiến hành cho có lệ, phạm nhân được dẫn ra trước vành móng ngựa. Chỉ mới có ba ngày trong tù, khuôn mặt của Sony - Pho trông đã tiều tuỵ hốc hác, hắn bước đi như người mộng du. Các nhân chứng làm lễ tuyên thệ rồi thuật lại những gì họ đã chứng kiến. Tất cả đều chống lại Sonyl. Hắn hồi hộp chờ đợi bản cáo trạng. Ngài đại diện Công tố viện, một người đàn ông trạc tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao bọc lấy một dáng người đẫy đà. Với vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị, ông lấy từ trong chiếc cặp da đen một cái đĩa nhỏ màu bạc, cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán được gắn vào bàn làm việc. Ông nhấn nút, ra lệnh cho máy hoạt động. Một giọng đều đều lạnh lùng vang ra từ trong máy đọc bản cáo trạng: Tất cả mọi hành động của Sonyl được phân tích một cách rất chi tiết với những điều luật liên quan. Hắn chẳng hiểu chiếc máy nói gì với những danh từ chuyên môn của ngành tư pháp - ở cái thiên niên kỷ này, mọi lĩnh vực đều được chuyên môn hoá rất sâu, mỗi người chỉ có khả năng hiểu biết trong lĩnh vực của mình. Nhưng mặt hắn từ từ chuyển sang màu tái mét, những hình ảnh trước mắt hắn quay tròn và cảm giác có một vật gì đó đè nặng lên tim, khiến cho hắn phải nắm chặt lấy cái vành móng ngựa. Bản cáo trạng với sự tính toán chính xác của máy siêu điện toán vừa đưa ra đề nghị dành cho hắn mức án: bốn mươi năm tù. Ông chánh án chống tay lên cằm ra vẻ suy nghĩ và tập trung tư tưởng nghe máy siêu điện toán đọc cáo trạng. Sự có mặt của ông ở phiên toà chỉ có ý nghĩa nghi thức, tất cả phần việc dánh cho ông đều do máy siêu điện toán làm việc, quyền hành thật sự của ông ở trong phòng nghị án. Cho nên, ông đã lợi dụng ánh sáng lóe phản chiếu từ mắt kiếng để tranh thủ ngủ. Tối hôm qua, ông đã đi nhảy đầm đến sáng với người bạn tình cũ, hơn mười năm nay mới gặp lại. Ông bồi thẩm biết điều đó, nên khi bản cáo trạng vừa dứt, liền đá nhẹ vào chân chánh án. Chánh án uể oải nhấn nút máy siêu điện toán. Một giọng trầm oai vệ thốt lên: - Xin mời ngài luật sư Organ Yamaha. Danh vị luật sư được nhắc đến như một dòng điện kích thích thần kinh khiến cho Sonyl - Pho tỉnh lại. Hắn ngước mặt về phía ông với cái nhìn van lơn, cầu cứu. Luật sư bước hẳn ra khỏi chỗ ngồi, ông nói với một giọng từ tốn: - Thưa quí toà! Vì những luận cứ để bào chữa của tôi không thể lập chương trình cho máy điện toán, cho nên căn cứ vào điều 432A, chương 27 của Luật Xử án, tôi xin phép được bào chữa bằng chính khả năng cá nhân! Tiếng xì xào nổi lên trong phòng xử án. Đề nghị của luật sư làm họ ngạc nhiên. Ở thiên niên kỷ thứ IV này, một con người làm việc không cần đến sự hỗ trợ của máy siêu điện toán là điều không thể hiểu nổi. Ngài đại diện Công tố viện mỉm cười với ý nghĩ hài hước: "Có lẽ ông ta muốn thân chủ của mình hưởng nguyên xi mức án hoặc tù thêm". - Thưa quí toà! - Luật sư nói tiếp - Tôi xin phép được trình bày đoạn phim tư liệu có liên quan đến đời tư của nạn nhân - Ông Dream - Makeno - trước khi tiến hành bào chữa cho bị can. - Tôi phản đối! - Ngài đại diện Công tô viện cau mặt - Công bố đời tư của một người không được sự đồng ý của họ là sai luật. -Thưa quí toà! Đây chỉ là đoạn phim của giai đoạn bệnh án của ông Dream, có liên quan đến những yếu tố luật pháp và là chứng cứ cho những lời bào chữa của tôi. - Toà án đồng ý - Chánh án phát biểu và che miệng ngáp. Ông chẳng muốn mất thì giờ vì tụi luật sư nói giai như đỉa này. Luật sư Organ lấy từ trong cặp một cái đĩa nhỏ màu bạc đưa cho thư ký Toà án. Ông này cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán. Lập tức sáu màn hình 150 inch được bố trí xung quanh phòng xử án, cùng lúc hiện lên những hình ảnh về những biến cố trong đời của Dream - Makeno: Trên màn hình là cảnh dòng sông Danube chảy quanh co dưới những hàng thuỳ dương thơ mộng. Bên sông có một cái cối xay gió đứng im bất động, như suy tư cho những sự thăng trầm của cuộc đời. Đó là một di tích cổ được phục chế lại để nhắc nhở nền văn minh cổ xưa của loài người. Dream - Makeno đã sinh ra ở đây vào tháng 7 năm 3267. Hình ảnh thơ mộng biến mất, thay vào đó là một thanh niên nằm quằn quại vì bị một chiếc xe hơi chạy bằng nệm không khí lướt qua đôi chân, khi anh ta té sấp xuống mặt đường. Mạch máu bể nát, xương ống chân nứt như mai rùa. Sự cố được ghi nhận vào tháng 2 năm 3289, lúc này Dream 22 tuổi. Anh ta được đưa vào bệnh viện thay bằng hai chân máy. Anh được xuất viện vào tháng 6 năm 3289 với tình trạng sức khoẻ tốt. Tháng 10 năm 3296, Dream - Makeno tốt nghiệp đại học Oxford. Nhưng ngay sau lễ tốt nghiệp, trên đường về nhà, do một tai nạn xe hơi, Dream bị phỏng nặng. Màn hình chiếu cảnh một người bị cháy phừng phừng đang cố chui qua cửa kính xe hơi một cách tuyệt vọng. Bệnh nhân được đưa vào bệnh viện. Một ca giải phẫu tuyệt vời tiến hành dưới sự chỉ đạo của giáo sư Niq Vidi đã tách não và tim - hai bộ phận tự nhiên duy nhất còn hoạt động của bệnh nhân - vào một cơ thể nhân tạo giống hệt Dream về ngoại hình. Những hình ảnh sinh động của cuộc giải phẫu, được quay rất chi tiết và nó trở thành một bộ phim tư liệu nổi tiếng của ngành giải phẫu. Bệnh nhân xuất viện ngày 29 tháng 12 năm 3296 với một cơ thể yếu, không được hoạt động mạnh. Ra viện, bệnh nhân tiếp tục theo học chương trình cao học kỹ thuật tại Đai học Oxford. Lúc này Dream 29 tuổi. Trên màn hình hiện lên cảnh mùa đông dưới chân dãy núi Alpes. Một màu trắng êm ái của tuyết phủ dày mặt đất, trên đó, đoàn người mặc quần áo thể thao, đầu đội mũ bảo hiểm đang chơi trượt tuyết. Họ đang bay từ độ cao 4m xuống và lướt đi trên mặt đất. Nhưng có một người vừa rơi xuống thì lăn đi vài vòng rồi giãy giụa. Đó là những hình ảnh được tái tạo trong phim tư liệu về tai nạn xảy ra cho Dream. Anh bị đứt mạch máu nối từ tim lên não, do chấn động khi rơi từ trên cao. Não tự nhiên của anh không còn khả năng phục hồi chức năng hoạt động. Người ta đưa não của anh vào phòng xử lý, mã hoá toàn bộ ký ức và chuyển sang bộ nhớ của óc điện tử. Bộ nhớ này hoạt động trên cơ sở những ký ức đã có của Dream và là một sự tiếp tục của những ký ức đó. Não nhân tạo được thay thế cho não tự nhiên trong cơ thể Dream. Trái tim được loại bỏ, vì không còn thích hợp cho một cơ thể nhân tạo và được thay bằng hộp năng lượng nguyên tử. Sự kiện xảy ra vào ngày 28 tháng 11 năm 3298. Hội đồng y học quốc tế coi việc thay thế não tự nhiên bằng não nhân tạo là thành tựu cuối cùng của ngành giải phẫu. Hình ảnh Dream - Makeno tươi cười nhận văn bằng tiến sĩ kỹ thuật vào năm 3301, chứng tỏ cuộc giải phẫu hoàn hảo, não nhân tạo vẫn hoạt động tốtナ Luật sư Organ ra hiệu tắt máy. Ông phát biểu: - Thưa quí toà! Những hành động của Sonyl, tôi không có gì để bào chữa. Nhưng điểm quan trọng ở đây là: Dream thật sự đã chết vì tai nạn ngày 28 tháng 11 năm 3298 dưới chân dãy núi Alpes. Sự thay thế não, bộ phận tự nhiên cuối cùng trong cơ thể Dream bằng óc điện tử, chỉ là sự tái tạo hình ảnh của một con người thật sự đã chết bằng một người máy. Trong bộ luật về Người Máy đã định danh: "Người máy là sản phẩm do con người tạo ra bằng công cụ lao động, được mô phỏng theo hình thức và nội dung giống con người. Thưa quí toà! Trong Dream có cái gì không phải là sản phẩm của con người? Không có gì cả!. Ông hăng hái nói tiếp: - Điều 47B thuộc chương II của bộ luật này đã qui định: "Con người được quyền huỷ diệt hoặc vô hiệu hoá người máy, khi người máy có hành vi chống lại con người". Dream đã tấn công Sonyl bằng sức mạnh cơ khí của anh ta và dấu vết còn để lại ngay trên khuôn mặt, mà tất cả những ai tham dự trong phiên toà này đều nhìn thấy. Thưa quí toà! Căn cứ vào những điều luật về quyền con người đối với người máy, thân chủ tôi hoàn toàn vô tội. Phát hiện độc đáo của Organ khiến mọi người sửng sốt. Có những tiếng vỗ tay nổi lên hoan hô ông. Những người tham dự quan toà xì xào làm cường độ âm thanh vượt quá giới hạn cho phép, máy điện toán tự động rung chuông và yêu cầu im lặng. Ngài đại diện Công tố viện đứng dậy bước ra khỏi chỗ ngồi và nói với một giọng điềm tĩnh: - Ngài luật sư đã viện dẫn phần định danh về người máy một cách thiếu sót, vì còn một đoạn văn bản sau đây cho phần này: "Người máy hoạt động được, bởi sự điều khiển trực tiếp hay gián tiếp của con người thông qua chương trình đã được ghi trong bộ nhớ điện tử"! Thưa quí toà! Dream không hề bị điều khiển bởi bất cứ một con người nào trên hành tinh này, ngoại trừ sự diễn biến tư duy của anh ta. Hơn nữa về mặt luật pháp, Dream chưa hề có sự công nhận đã chết của một hội đồng giám định y khoa. Việc thay thế những bộ phận tự nhiên bằng bộ phận nhân tạo đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử loài người, để đảm bảo sự sống tiếp tục của một con người là việc làm nhân đạo. Đối với Dream, khi não - bộ phận tự nhiên cuối cùng - được thay thế, anh ta đã sống với tất cả sự hiểu biết của bản thân anh ta. Môi trường gia đình và xã hội vẫn chấp nhận Dream như một con người thật sự. - Ngài đại diện Công tố viện nói mỗi lúc càng hăng hái; ông vung tay chặt xuống không khí với vẻ mặt phẫn nộ - Việc giết Dream phải được coi như một hành động giết người. Thưa quí toà! Ngay ở đây, quí vị có thể chứng kiến sự đau khổ tận cùng của một người mẹ mất con - Giọng ông trầm xuống với một nét mặt tỏ ra thương cảm, ông đưa tay chỉ hàng ghế dành cho thân nhân của Dream. Ở đấy có hai người đàn bà đang ôm mặt khóc nức nở, đó là mẹ và em gái Dream. - Phải chăng đây là tình cảm dành cho người máy? Nạn nhân chỉ thật sự được coi là đã chết bởi bàn tay của kẻ đang đứng ở kia, sau vành móng ngựa. Luật sư Organ vội vã bước tới trước mặt mẹ và em gái của Dream. Ông nghiêng mình, nói với một vẻ mặt thông cảm: - Tôi xin trân trọng bày tỏ sự chia buồn cùng bà và cô, vì đã mất đi hình ảnh sinh động của một người con trong gia đình. Nói xong, ông cúi chào rồi quay lại phía quan toà: - Thưa quí toà! Không ai có thể không xúc động trước những đau khổ của đồng loại, nếu tỏ ra là người có lương tâm. Tình cảm đối với Dream - người máy trong gia đình và cả trong xã hội - chỉ là một sự liên hệ tiếp tục với ký ức về một con người đã sống. Dream - người máy bị phá huỷ đã làm mất đi hình ảnh sống động liên hệ với kỷ niệm, tạo nên một cảm giác đau khổ vì mất mát thật sự. Nhưng không phải vì thế mà Dream - người máy phải được coi như là một con người. Đó là ý tưởng không nhân bản. Thưa quí toà! - Luật sư Organ nói một cách hăng hái - Chúng ta cũng không thể vì những thiếu sót có tính hành chính ở một bệnh viện mà đi đến kết luận về sự tồn tại của con người về mặt pháp lý. Ở Dream, người máy rõ ràng không có những giá trị sinh học của con người. Điều dễ nhận thấy ở đây là: anh ta không có tuổi sinh học như con người và bất tử cho đến ngày tận thế! - Nói đến đây ông ngừng lời nhìn phía những người dự phiên toà - Đối với con người đích thực - Ông nói tiếp - Tuy chưa có một sự định danh rõ ràng cho nó, nhưng ý niệm về con người vẫn hình thành bởi mối tương quan với đồng loại. Dream - người máy không phải là đối tượng nghiên cứu của mọi khoa học nhân văn. Nếu coi hành động của Sonyl là hành động của một kẻ giết người thì đó cũng là lúc người ta đã giết chết những ý niệm đích thực về con người. Luật sư Organ dang rộng hai tay với vẻ mặt thất vọng và tiếc nuối: - Ôi! Nhân loại sẽ đi về đâu, nếu người ta thừa nhận Dream - người máy, là một con người? - Tôi phản đối - Ngài đại diện Công tố viện hầm hầm tức giận - Ông luật sư đã đưa ra những lời lẽ có tính ám chỉ đả kích cá nhân, chứ không phải tranh biện trên cơ sở luật pháp để làm sáng tỏ công lý. - Tôi đang tranh luận với ngài đại diện Công tố viện tại toà án để làm sáng tỏ vụ án, chứ không phải hân hạnh tiếp kiến cá nhân ngài George - Malem. - Rất tiếc, nếu nạn nhân không bị bắn chết bởi thân chủ của ông, chắc chắn anh ấy sẽ chứng minh với ông: anh ấy là con người thật sự. - Điều may mắn cho ông là linh hồn con người chết không hiện về để báo cho ông biết: Anh ta đã thật sự chết trong cuộc trượt tuyết dười chân núi Alpes. Tiếng chuông reo cảnh cáo những biểu hiện lệch hướng trong tranh luận. Máy siêu điện toán đã nhận được những tín hiệu âm thanh dồn dập. Ngài đại diện Công tố viện quay về phía ông chánh án - với nét mặt bực bội - giành quyền phát biểu: - Thưa quí toà! Con người không phải chỉ thay đổi những bộ phận tự nhiên trong cơ thể bằng những bộ phận nhân tạo, mà nó đã thay đổi luôn môi trường thiên nhiên đã sinh ra nó bằng một môi trường nhân tạo. Và đó là biểu hiện của sự tiến hoá của nền văn minh nhân loại. Phải chăng sống trong một môi trường nhân tạo, con người đã huỷ diệt mình? Sự tồn tại của Dream sau giải phẫu và thay thế bằng óc điện tử, chính là một thành tựu khoa học vĩ đại - cũng giống như con người đã tạo ra một môi trường của mình - ở đấy không phải sự sống kết thúc mà là tiếp tục phát triển dưới dạng khác. Nền văn minh của nhân loại sẽ đi về đâu, nếu không goi hành động của bị cáo là một hành động giết người - Vừa nói ông vừa ngẩng cao đầu nhìn mênh mang lên trần. Luật sư Organ đưa tay lên xoa xoa cằm, đầu hơi cúi nhìn xuống đất, phải chăng ông đã tìm thấy ở nơi cát bụi - cõi cội nguồn và sự kết thúc của con người - một ý niệm đích thực về con người? Lúc này trông ông có dáng trầm ngâm của một triết gia. Bất ngờ, ông quay người về phía toà án, giơ tay như muốn nói ナ Bỗng một tiếng nói trầm trầm hoà vào tiếng chuông reo vang: "Toà tạm nghỉ để nghị án." Tiếng ồn ào lập tức nổi lên, những người tham dự phiên toà tiếp tục cuộc tranh luận của luật sư và vị đại diện Công tố. Trong phía ý kiến ủng hộ Công tố viện có mẹ của Dream. Bà cảm nhận đứa con bà chỉ thật sự chết bởi viên đạn oan nghiệt của Sonyl. Bà sụt sùi khóc vì người ta nhắc tới con bà. - Thưa bà! Mong bà hãy bớt phiền não, người ta có thể làm sống lại con bà bằng cách chế tạo lại một bộ óc điện tử khác với những dữ kiện ký ức của Dream còn lưu trữ trong máy siêu điện toán. Anh ấy sẽ trở về với tất cả tình cảm nồng hậu như xưa đối với bà! Một ông béo phị, hói trán, ngồi bên cạnh mẹ Dream - mà người ta nhận ra là ông chủ tiệm gà rán Hamberger ở đường Don Juan - đã an ủi bà. Cô Simili, em gái của Dream, lắc đầu buồn bã: - Nhưng lúc đó anh tôi sẽ thật sự là một người máy. Đâu còn như anh Dream trước đây là sự sống tiếp nối của anh ấy! Nói xong, cô ôm mặt khóc nức nở. Ông chủ tiệm gà rán lắc cái đầu hói tỏ vẻ bất lực. Trong số những người ủng hộ luật sư Organ, những người có tín ngưỡng đã đưa ra lập luận dựa trên giáo lý: "Thượng đế đã sinh ra con người, nhưng trong cơ thể của Dream không có cái gì thuộc về Thượng đế. Dream phải là người máy". Một số người mộ đạo vội làm dấu thánh khi nghe nhắc đến danh vị Thượng đế. Có người lầm rầm: "Cầu xin Thượng đế toàn năng hãy tha tội. Thế gian này có cái gì nằm ngoài quyền năng của Ngài. Dream đã tồn tại trong hình ảnh của một con người, đó chính là ý muốn của Đấng Tối cao. Coi Dream như là một người máy chính là họ xúc phạm đến quyền năng của Ngài!". Cuộc tranh luận chắc chắn sẽ còn kéo dài, nếu không có tiếng chuông báo hiệu cuộc xử án tiếp tục. Mọi người đứng dậy hồi hộp nghe quan toà đọc bản án: - Sau khi căn cứ vào các điều khoản luật pháp, căn cứ vào cáo trang của Công tố viện và những chứng cứ với sự thú nhận của bị can. Toà đã buộc tội bị can Sonyl - Pho, sinh năm 3267, ngụ tại số 27, đường Maxell thuộc tiểu bang Atlantic, bị pháp luật trừng phạt một năm tù giam vì tội danh: say rượu, sử dụng vũ khí phá rối trật tự nơi công cộng. Những người tham dự phiên toà cùng "ồ" lên ngạc nhiên. Chính Sonyl cũng buột miệng thốt lên câu nói cuối cùng trước toà: - Vậy còn tội giết Dream thì sao? * * * Luật sư Organ rít thêm một hơi thuốc dài rồi dụi thuốc vào cái gạt tàn. Ông cầm tờ tin "Thế giới hôm nay" rồi ngả người trên ghế xích đu. Tờ báo được giở ra, ngay đầu trang hai, một hàng tít lớn chạy suốt tám cột báo với những chữ: "SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT: CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN MẤT HAY TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN?" Bài báo tường thuật lại phiên toà ngày hôm qua - mà chính ông là một thành viên quan trọng - như một hiện tượng xã hội để bình luận về vấn đề con người. Thay cho lời kết luận, tác giả bài báo đưa ra câu trả lời phỏng vấn của ông chánh án khi được hỏi: "Phải chăng ngài đã bất lực khi xử vụ án này?". "Vụ án này đã đụng phải vấn đề mà nhân loại tìm kiếm: Con người là gì? Hay nói một cách chính xác hơn: Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã đặt lại vấn đề này. Tôi không thể lấy sự phán quyết của toà án để đặt ra một chuẩn mực xã hội!". "Còn lâu mới có một chuẩn mực xã hội cho nó!" Luật sư Organ lẩm bẩm. Bỗng có tiếng động nhẹ, bà Organ đến bên cạnh ông, nét mặt tỏ ra bực bội một cách dễ mến: - Thần kinh của ông đã bị suy nhược vì làm việc căng thẳng quá độ rồi đấy. Tôi thấy ông cần phải bồi dưỡng và nghỉ ngơi cho khoẻ! Nói xong, bà đặt lên bàn bên cạnh ông một ly sữa hột gà và hai cục pin điện tử. Luật sư Organ hững hờ lấy ly sữa nhấp một ngụm rồi đặt xuống bàn. Sau đó, ông đưa tay lấy hai cục pin rồi từ tốn vén mớ tóc loà xoà sau gáy - ông ấn hai cục pin vào một cái khe nhỏ ở đó. Ông làm việc ấy như một thói quen, hai mắt vẫn không rời khỏi tờ báo. Bến Tre 1992 Thiên Sứ1 like
-
Mỹ sẽ làm gì với Syria ? Thứ Tư, 01/05/2013 22:24 “Những gì chúng tôi hiện có là bằng chứng cho thấy vũ khí hóa học đã được sử dụng bên trong Syria nhưng chúng tôi không biết nó được dùng như thế nào, vào lúc nào và ai đã dùng nó” - Tổng thống Barack Obama cho biết Nhà Trắng lại một lần nữa cân nhắc việc cung cấp vũ khí cho phe đối lập có vũ trang của Syria. Một quyết định như vậy sẽ là sự thay đổi chính sách của chính quyền Obama vốn chỉ chủ trương tăng cường hàng viện trợ phi sát thương cho Damascus và sâu xa vẫn tỏ ra miễn cưỡng can thiệp vào cuộc nội chiến ở Syria. Tổng thống Barack Obama chưa quyết định liệu có cung cấp vũ khí hay không và vẫn không rõ loại vũ khí nào Mỹ sẽ hỗ trợ cho quân nổi dậy. Một động thái như vậy sẽ đặt Mỹ bên cạnh các quốc gia vùng Vịnh như Ả Rập Saudi và Qatar - hai nước đã và đang rót vũ khí cho quân nổi dậy. Những thường dân bị thương được điều trị sau một vụ nổ ở Damascus hôm 30-4. Ảnh: NEW YORK TIMES Sự thay đổi khả dĩ, được báo The Washington Post thông tin hôm 30-4, xuất hiện vài ngày sau khi Mỹ tiết lộ đánh giá tình báo sơ bộ rằng đạn dược hóa học mà quân đội Assad dự trữ đã được sử dụng ở phạm vi hẹp tại Syria. Từng phát biểu rằng việc sử dụng các vũ khí loại này sẽ “thay đổi cuộc chơi”, Tổng thống Obama lưu ý trước khi phản ứng chính thức ông cần có chứng cứ thuyết phục hơn rằng ông Assad đã triển khai những vũ khí này - điểm mấu chốt mà ông nhấn mạnh lần nữa tại một cuộc họp báo rộng ở Washington vào sáng 30-4. “Những gì chúng tôi hiện có là bằng chứng cho thấy vũ khí hóa học đã được sử dụng bên trong Syria nhưng chúng tôi không biết nó được sử dụng như thế nào, vào lúc nào và ai đã dùng nó. Chúng tôi không có chuỗi giám sát xác minh những gì đã xảy ra thật chính xác. Khi nào cần đưa ra các quyết định về an ninh quốc gia của Mỹ và cần có thêm hành động để đáp trả việc sử dụng vũ khí hóa học, tôi phải chắc chắn có đủ thông tin chính xác” - ông Obama nói. Sự thận trọng của ông Obama còn có lý do khác. Ông không muốn đi đến một phán đoán vội vã mà thiếu chứng cứ mạnh mẽ, bởi điều đó sẽ khó nhận được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Thế nhưng, theo báo The New York Times, ngay cả trong tình huống không có bằng chứng sử dụng vũ khí hóa học, Lầu Năm Góc cũng chuẩn bị sẵn sàng một số lựa chọn cho ông Obama, từ không kích và tấn công biệt kích đến áp đặt một vùng cấm bay trên bầu trời Syria. Các quan chức cho biết chính quyền cũng đang tìm cách tăng viện trợ cho quân nổi dậy. Lâu nay, ông Obama vẫn kiên trì chống lại những lời đề nghị vũ trang cho quân nổi dậy, kể cả đề nghị của cựu giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương David Petraeus và cựu ngoại trưởng Hillary Clinton. Ông Petraeus từng đề xuất cung cấp vũ khí cho các thành viên đối lập (được rà soát về lý lịch) nhưng ý kiến của ông đã bị “bỏ vào ngăn kéo” vào mùa thu qua. Nhà Trắng lấy lý do việc cung cấp vũ khí sẽ “tăng cường quân sự hóa xung đột ” và những vũ khí đó có thể rơi vào tay các nhóm cực đoan. Các quan chức dẫn chứng bằng những tên lửa vác vai đang được sử dụng chống máy bay dân sự. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về lực lượng đối lập, đặc biệt là hội đồng quân sự của lực lượng này, chính quyền Mỹ trở nên tin tưởng hơn vào khả năng chuyển vũ khí đến các nhóm nổi dậy có trách nhiệm. Những diễn biến ở Washington xuất hiện khi một làn sóng bạo lực mới có bóng dáng quân nổi dậy nổ ra ở trung tâm thủ đô Damascus và khu vực biên giới Syria - Thổ Nhĩ Kỳ hôm 30-4; đồng thời cũng có những va chạm mới tại Mỹ liên quan đến những nỗ lực điều tra các trường hợp sử dụng vũ khí hóa học. Liên Hiệp Quốc đã cho phép một nhóm gồm 15 chuyên gia sang Syria để điều tra có hay không việc sử dụng vũ khí hóa học. Chuyến đi bị trì hoãn vì có sự tranh cãi với chính phủ Syria, nơi nhà cầm quyền chỉ muốn giới hạn phạm vi điều tra của các chuyên gia. Các quan chức Mỹ cho biết Tổng thống Obama có thể sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc cung cấp vũ khí cho quân nổi dậy ở Syria trong những tuần tới, trước khi ông có cuộc gặp dự kiến với Tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 6. CAO TUẤN ================= Đây là một quyết định sáng suốt của ngài Obama! Ngoại trừ trường hợp khẩn cấp, tôi nghĩ ngài có thể xem xét lại: nên quyết định trước hay sau khi gặp ngài Putin.1 like
-
Năm nay công việc của em gặp nhiều khó khăn,thấy có sự thay đổi trong công việc ,Từ tháng 8 âm trở đi em sẽ thuận lợi hơn .1 like
-
Mỹ cam kết hỗ trợ Nhật bảo vệ Senkaku/Điếu Ngư 30/04/2013 08:10 (GMT + 7) TTO - Hôm qua 29-4, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel một lần nữa khẳng định Washington sẽ bảo vệ Nhật trong trường hợp Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera (phải) thể hiện tinh thần hợp tác với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck “Mỹ không đứng về phía nào trong tranh chấp chủ quyền quần đảo này, nhưng chúng tôi xác nhận Senkaku nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật và nằm trong phạm vi hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật” - AFP dẫn lời Bộ trưởng Hagel tuyên bố trong cuộc họp báo với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Itsunori Onodera ở Washington. Tuyên bố của ông Hagel được đưa ra trong thời điểm căng thẳng đang leo thang nghiêm trọng trên biển Hoa Đông. Hôm 23-4, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã cam kết sẽ “trục xuất bằng vũ lực” các tàu Trung Quốc đổ bộ lên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Ông Hagel nhấn mạnh tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là một thách thức an ninh lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. “Tranh chấp này cần phải được giải quyết một cách hòa bình giữa các bên liên quan” - ông Hagel nói. Tuy nhiên ông Hagel cũng gửi một thông điệp không thể lầm lẫn tới Trung Quốc. “Washington phản đối bất kỳ hành vi đơn phương mang tính đe dọa nào có thể gây phương hại đến sự kiểm soát của Nhật đối với quần đảo Senkaku - ông Hagel khẳng định - Bất kỳ hành động nào cũng có thể khiến căng thẳng leo thang, dẫn tới những tính toán sai đe dọa sự ổn định của cả khu vực”. Trong cuộc đối thoại với ông Hagel, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Onodera khẳng định quần đảo Senkaku/Điếu Ngư thuộc chủ quyền lãnh thổ của Nhật và Tokyo “quyết tâm bảo vệ đất đai, vùng biển, bầu trời” của quần đảo này. Về vấn đề CHDCDN Triều Tiên, hai bộ trưởng cam kết tăng cường hợp tác giữa lực lượng quân sự hai nước để giám sát và phản ứng với bất kỳ hành vi khiêu khích nào. Về hợp tác phòng vệ tên lửa, Bộ trưởng Hagel cho biết Mỹ và Nhật đã đạt bước tiến về kế hoạch triển khai hệ thống radar TPY-2 thứ hai tại Nhật và sẽ triển khai đội máy bay MV-22 Osprey thứ hai đến Nhật. NGUYỆT PHƯƠNG =================== Thế đấy! Một sai lầm được báo trước! Đâu phải đến bây giờ ông Hagel mới nói đâu. Lão Gàn lói nâu nắm rùi! Đám "Quỉ mị" này coi bộ thể hiện khí thế hơn cả "Kim Long đằng phi". Lão Gàn này xem cái gì xảy ra tiếp theo. Có đúng như những gì Lão phán không?! Lại còn kéo nhau xuống Hoàng Sa du lịch nữa chứ! Kim Long gặp Hoàng Sa thì mắc cạn rồi! Đúng là Rồng đất!1 like
-
Vào thời chiến tranh lạnh ở đỉnh cao vào cuối thập niên 80,một chuyên viên và là viên chức cao cấp của Liên Xô hồi ấy phát biểu - Đại ý: "Thế giới hiện nay không có gì còn là bí mật cả, mọi vấn đề (của giới chính trị) đều có thể lật bài ngửa để nói chuyện". Ấy là hồi ấy, toàn là kiến thức của giới khoa học hiện đại. Huống chi bây giờ còn có sự can thiệp của giới bói toán "mê tín dị đoan". Thiên Cơ - một cao thủ ở Hoa Ký phán chính xác đến ngày nổ ra chiến tranh Vùng Vịnh II (18. 2 Quí Mùi. Việt lịch). Dương Tường - cũng ở Hoa Kỳ - phán chính xác- sai số không quá ba ngày - kết thúc chiến tranh ở đây! - từ mùng 9 - 12 tháng Ba Quí mùi Việt lịch. Tất cả đều công khai trên mạng trước chiến tranh cả tháng. Lạy Chúa! Có thể nói đây là những quẻ cần ghi nhận trong lịch sử bói toán của thế giới. Còn việc xem hình ảnh mà dự báo thì Lạc Việt độn toán cấp III (Có 4 cấp trong làng bói toán - Cấp IV - tương ứng với bà Vanga) và đã từng là bài tập cho các học viên tham gia học môn này - không biết cái topic ấy nó trôi đâu mất?!. Có một học viên xuất sắc Lạc Việt độn toán - đã xem tấm ảnh một bà bán hàng rong với đôi quang gánh ở Việt Nam - mà phân tích, đoán chính xác ngài Obama sẽ là tổng thống Hoa Kỳ, nhiệm kỳ I - 2006 (Bài phân tích rất hay! Có thể làm bài mẫu). Dự báo của sự kiện này về mặt ứng dụng, khó hơn rất nhiều phân tích sự kiện "Kim Long đằng phi" của tôi. Tất nhiên nó không thể so sánh với "Kim Long đằng phi" về mặt lý thuyết.Đến bây giờ, thế giới này đi về đâu trong một tương lai gần , chắc chẳng cần phải bói nữa. Phân tích theo kiến thức hiện đại cũng có thể nhận thấy được. Nhưng có một điều rất quan trong trong một tương lai xa hơn - sau "Canh bạc cuối cùng" với kết quả là sự hội nhập toàn cầu - là: Nếu không có sự đối thoại giữa hai nền văn minh mà trong đó chủ thể đối thoại nhân danh văn minh Đông phương chính là nền văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử - thì - sau đó sẽ là sự bế tắc kéo dài rất lâu của cả thế giới này. Tôi phát biểu điều này rất nghiêm túc. Còn có ai wan tâm hay không thì tùy. "Vạn sự tùy duyên". Tôi đang viết cuốn sách "Minh triết Việt với văn minh Đông phương" - cách đây 1 tháng tựa nó là "Tính minh triết trong di sản văn hóa truyền thống Việt". Tôi hy vọng đủ nhân duyên để hoàn thành cuốn sách này. Lắm lúc cũng buồn!1 like
-
Phía ác mộng của giấc mơ TQ vietnamnet.vn 28/04/2013 00:06 GMT+7 Đội ngũ kinh doanh tinh hoa toàn cầu đổ xô đến Diễn đàn Bác Ngao và mê mẩn với lời hứa tăng trưởng, thịnh vượng mà chủ tịch Trung Quốc đưa ra. Nhưng khi trở về nhà, họ có thể chẳng hiểu nổi nước chủ nhà sẽ làm gì tiếp theo. Diễn đàn Bác Ngao - nơi có khoảng 10 vị lãnh đạo thế giới với 1.000 doanh nhân tháp tùng, diễn ra ở đảo Hải Nam. Chủ trì là Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đã nuôi hy vọng cho những người tham dự với một tầm nhìn tuyệt vời cho sự thịnh vượng sắp tới. Diễn đàn Bác Ngao. Ảnh: thegatesnotes Ông hứa, thu nhập trung bình của người Trung Quốc năm 2020 sẽ gấp đôi năm 2010. Và chỉ trong 5 năm, Trung Quốc sẽ mua gấp năm lần giá trị hàng hóa thế giới so với hiện tại. Đó là một viễn cảnh lung linh và đầy "trêu ngươi". Trung Quốc là nhà nhập khẩu lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ, đang mua khối lượng hàng hóa giá trị khổng lồ 1,8 nghìn tỉ USD mỗi năm từ thị trường toàn cầu. Giờ đây, họ còn hứa hẹn gia tăng nhu cầu nhập khẩu lên tới 10 nghìn tỉ USD/năm. Nghĩa là nếu dựa trên tổng lượng thương mại toàn cầu hiện nay, nó sẽ tương đương với 2/3 tổng lượng hàng hóa xuất khẩu từ tất cả các nước khác trên thế giới gộp lại. Khi một nhà lãnh đạo Trung Quốc hứa hẹn tăng trưởng, thịnh vượng thì thế giới dõi theo ông rất nghiêm túc. Hơn thế nữa, ông Tập còn nhắc lại cam kết phát triển hòa bình, và Bắc Kinh sẽ "bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các công ty đầu tư nước ngoài phù hợp với khuôn khổ luật pháp". Đây đúng là những điệu nhạc du dương với giới đầu tư nước ngoài. "Trung Quốc sẽ không bao giờ đóng cửa với thế giới bên ngoài", ông Tập Cận Bình tuyên bố. Thế nhưng, khi các doanh nhân phương Tây trên đường trở về nhà, với hy vọng và lạc quan, thì ông Tập Cận Bình lại có một chuyến thăm khác tới đảo Hải Nam. Đó là căn cứ hải quân mới lớn nhất của Trung Quốc gồm cả một cảng ngầm che chở cho đội tàu ngầm của Bắc Kinh khỏi các vệ tinh do thám, thậm chí là tên lửa của Mỹ. Thách thức ưu thế Căn cứ ấy là biểu tượng và thực tế minh chứng cho sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc nhằm thách thức ưu thế của Mỹ trên các vùng biển. Truyền thông Trung Quốc dồn dập đưa tin về việc ông Tập đi thị sát hạm đội. Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông tới một cơ sở quân sự kể từ khi chính thức đảm nhận cương vị chủ tịch Trung Quốc. "Ông Tập Cận Bình đã có nhiều lần khẳng định bản thân gắn liền với chủ nghĩa dân tộc", chuyên gia lâu năm về Trung Quốc David Shambaugh, giám đốc Chương trình chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington nói. Trong vòng một tuần trở thành lãnh đạo, ông Tập đã dẫn đầu ban Thường vụ Bộ chính trị đi thăm một triển lãm ở bảo tàng về "trăm năm xấu hổ và nhục nhã của Trung Quốc dưới tay các đế quốc phương Tây và Nhật Bản". "Với động thái này và những bài phát biểu", Shambaugh phân tích, "ông Tập đã rõ ràng gắn liền bản thân với chủ nghĩa dân tộc và thực hiện nhiều cách khác để báo hiệu một lập trường cứng rắn hơn trong chính sách đối ngoại cũng như an ninh quốc gia". Hầu như trong phát biểu nào ở những chuyến thị sát quân đội kể từ tháng 11 năm ngoái (khi ông Tập được bầu làm Tổng bí thư), ông đều thúc giục quân đội "sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng". Shambaugh nhấn mạnh: "Cá nhân ông Tập còn trực tiếp đứng đầu một nhóm lãnh đạo hàng hải, đặt ông vào vị trí trung tâm của lập trường cứng rắn Trung Quốc" trong các tranh chấp hàng hải với Nhật cũng như một số nước Đông Nam Á. "Mọi động thái ấy thể hiện sự mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn và chủ nghĩa dân tộc hơn để tạo tiếng vang với người dân cũng như quân đội Trung Quốc". Dĩ nhiên, Mỹ không đứng thụ động quan sát. Họ hướng tới một kết quả tốt hơn trong quan hệ hai bên nhưng vẫn chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với một cuộc chiến tranh chiến lược được thiết kế để đối phó với sức mạnh trỗi dậy từ quân đội Trung Quốc. Chiến lược ấy khi công khai chút ít gọi là khái niệm Tác chiến Không Hải. Chiến lược bao gồm việc sử dụng các máy bay ném bom và tàu ngầm để đánh bại hệ thống rađa giám sát tầm xa và làm chệch hướng độ chính xác của hệ thống tên lửa. Cho tới khi quân đội đối phương “bị bịt mắt”, thì một cuộc tấn công hải quân và không quân lớn sẽ xảy ra. Quan trọng hơn là chiến lược ấy dựa trên giả định leo thang có thể được kiềm chế ở dưới ngưỡng hạt nhân. Chiến lược ấy có thể ngăn chặn ý muốn xâm lược của người Trung Quốc nhưng cùng lúc đó lại phải đối mặt với các thách thức từ khả năng leo thang hạt nhân. Nghĩa là Trung Quốc có thể cảm nhận được nỗ lực và sự tấn công của Mỹ nhằm giải giáp vũ khí hạt nhân của họ. Từ đó, Bắc Kinh không loại trừ xem xét chuyện phủ đầu hạt nhân. Sức mạnh mới của Trung Quốc xem ra mang lại những cơ hội to lớn, nhưng nguy cơ cũng thật đáng sợ. Thái An(theo Sydney Morning Herald) ================================ Không nằm ngoài nội hàm "Canh bạc cuối cùng" của Lão Gàn. Vấn đề còn lại chỉ là: Ai là bá chủ thế giới sau canh bạc này và nó sẽ kết thúc với phương thức như thế nào? Hay là:1 like
-
1 like
-
Điểm trọng yếu của đồ hình này là hiện tượng Vật Lý Thiên Văn: Mặt trời và Địa cầu tương tác [...] sinh thành 4 mùa. Hôm nay, Rubi lấy đồ hình này để [có việc] và xuất hiện một câu hỏi, tư duy rồi tự trả lời. Manh nha một sự mở rộng và chi tiết hơn nữa; hình thành một điểm trọng yếu thứ 2... PS: Rubi chỉnh sửa hướng thứ nhất ví như là biến đất đá thành sắt-ĐỒNG NHẤT TƯỢNG SỐ. Dựa vào hướng thứ nhất chỉnh sửa tiếp theo hướng thứ hai ví như là biến sắt thành đồng-THÁI NHẤT VÔ CỰC. Biến đồng thành vàng-HỢP NHẤT THIÊN ĐỊA NHÂN- có lẽ sẽ phải đắn đo nhiều lắm vì núi đồng mà biến thành vàng thì lợi hại lắm. Cứ theo cái kiểu công bố tự do thế này thì lợi cũng thấy lợi mà hại cũng thật là hại...Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công1 like
-
Tội nghiệp lão tướng già La Viện, lẫn thẩn mất rồi. Nếu TQ làm như lời lão ấy nói thì tức là TQ đã hết thời. Nếu tàu cá của ngư dân TQ được vũ trang, nó sẽ không còn là tàu cá nữa mà nó sẽ trở thành "những con tàu của cướp biển". Khi đó, biển Đông sẽ nhộn nhịp hơn vì cả tàu chiến các nước từ Mỹ, Úc, Nga, Nhật, châu Âu sang để chống "cướp biển", như đã từng làm với Somali. Việt, Phi, Mã, Sing, Indo khi đó sẽ chỉ có mỗi một việc là thông báo cho hải quân các nước trên biết "bọn cướp biển đang ở đâu", hết.1 like
-
Hãi hùng 3 năm bắn chim bị "báo oán" 18 năm đau đớn Khi còn đi học, tôi hoàn toàn không tin Phật, Bồ Tát, Tội, Phước-Đức hay nhân-quả báo ứng gì cả. Tôi cho rằng đây là chuyện của những người mê tín, thiếu học vấn, chứ còn người có học thức thì không tin những việc nầy. Khi còn nhỏ, tôi sống ở tỉnh Quảng Đông. Thời gian đó và ở nơi đó, tôi đã gặp chuyện nhân quả báo ứng mà chính bản thân tôi bị. Trải qua hơn 20 năm vở kịch kinh hoàng nầy mới được diễn xong, máu và nước mắt đã làm tôi tỉnh ngộ, nhận thức của tôi thay đổi 360 đô. Vì không muốn ai dẫm lên vết xe đổ của tôi, tôi xin viết câu chuyện có thật của bản thân mình, để mọi người đừng làm cái việc như tôi đã từng làm, và đây cũng là cũng cách sám hối mà tôi đã thực hành bao năm nay. Năm 1960 vì hoàn cảnh khó khăn, tôi buộc phải nghỉ học khi đang học trung học phổ thông. Từ Quảng Xuyên, tôi trở về quê hương để phụ gia đình làm rẫy. Do còn quá trẻ, nhận thức kém, tôi suốt ngày sống buông lung không có mục đích. Lúc bấy giờ đang là thời kỳ ‘Cách Mạng Văn Hoá’, ở thôn quê gần 10 năm thì mọi tín ngưởng tôn giáo đã bị dẹp sạch hoàn toàn. Thanh thiếu niên lớn lên chỉ tin khoa học, tuyệt đối không được tin Phật, tin Nhân-Quả. Đương nhiên tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ. Do cuộc sống quá vô vị, tẻ nhạt, tôi nghĩ phải tìm cách giải trí gì đó để kích thích cuộc sống. Vả lại lúc đó vật chất, thực phẩm vô cùng thiếu thốn, thèm thịt còn hơn thèm á phiện nữa, do đó tôi tích cóp tiền trong nhiều năm mua được cây súng hơi. Từ khi có súng, tôi lấy việc bắn chim làm thú vui, bắn được chim tôi liền đem về làm thịt, ăn cho có thêm chất dinh dưỡng. Hai ba năm sau, nhờ bắn chim nhiều nên kinh nghiệm càng dày dạn, tôi trở thành xạ thủ bắn chim có tiếng, Tôi thường nấp vào những đám ruộng hoang, bên rừng cây, hoặc vào trong núi để tìm chim bắn. Chỉ cần nghe thấy chim hót trên cây, tôi liền mò đến và giương súng bắn; trong nháy mắt viên đạn trong nòng súng của tôi đã ghim vào con chim. Máu nó tuôn chảy, nhỏ thấm vào lá cây, một lúc sau mới rớt xuống, nhưng mắt của nó vẫn giương to không chịu nhắm lại. Hình như nó còn luyến tiếc bầu trời trong xanh, cánh rừng tươi mát, đàn con dại trong tổ đang chờ mẹ, cha đi kiếm mồi về, hay là nó không nhắm mắt vì thù hận tôi? Có nhiều khi con chim bị bắn trúng, rơi xuống đất, vẫy cánh yếu ớt vài cái rồi mới chết, lông mao bay tứ tung, máu chảy nhầy nhụa. Có những con chim chỉ bị thương, nó cố dùng chút hơi tàn để chạy trốn; thì tôi đuổi theo ngay, quyết không để nó trốn thoát. Có khi đuổi mệt quá, tôi liền cho nó ăn thêm một viên đạn nữa. Cũng có khi tôi lần mò theo vết máu để tìm, rất nhiều con chim khôn lắm, biết trốn vào cỏ, khi tôi phát hiện ra thì thấy nó đang giẫy giụa, miệng há hốc, máu trong miệng túa ra... Thế mà tôi nào biết thương nỗi thống khổ của nó? Lúc ấy tôi chẳng mảy may động lòng hành động tàn nhẫn của mình, cũng không hề có cảm giác tội lỗi, mà còn cho đó là thú vui nhất trên đời, nên càng ra sức bắn giết. Tôi có thể bỏ cả ngày đi săn lùng chúng mà không thấy mệt mỏi. Vì đã giết quá nhiều chim, cho nên bất luận tôi đi đến đâu, trên tay có cầm súng hay không, tất cả chim muông vừa thấy tôi là tự dưng chúng đều bay mất dạng. Thậm chí, có những đàn chim rất lớn, chúng đang tìm mồi, vừa thấy bóng dáng tôi từ xa là chúng lập tức bay ngay; động tác của chúng vô cùng vội vàng, chẳng những vậy mà chúng còn hốt hoảng kêu la nữa. Do vô minh, tôi không biết rằng do sát khí của mình quá nặng khiến chim muông vừa thấy bóng tôi liền chạy trốn vì quá sợ hãi. Thời gian tôi bắn chim không lâu, chỉ trong khoảng ba năm, từ năm 18 tuổi cho đến năm 20 tuổi, nhưng vì là tay thiện xạ, lại rất say mê, nên số lượng chim trời bị tôi bắn rất nhiều, có ngày bắn được mấy chục con. Không có người thân bên cạnh, người trong làng cũng không ai khuyên bảo, tôi lại càng dấn thân sâu vào tội lỗi. Mãi sau, tôi dần nhận thấy hành động của mình quá tàn nhẫn, tôi mới bỏ việc bắn chim. Một lần nọ, tôi tình cờ gặp được một người bị dân trong làng cho là "gàn dở mê tín" và "côn đồ". Tôi và ông ta cùng đi chung một đoạn đường. ông kể cho nghe một chuyện có liên quan đến báo ứng. Thú thật, lúc ấy những tư tưởng được nhồi sọ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã ăn sâu trong trí nên tôi không một chút tin tưởng vào lời ông. Nhưng, sâu trong tâm khảm tôi, vẫn còn lắng đọng âm hưởng những gì ông nói, tôi thường thấy bất an vì những hành động trước kia của mình. Tôi bắt đầu đi tìm người để thỉnh giáo. Nhưng những người trong làng họ đâu có tin tội phước, đâu có tin Nhân-Quả Báo-Ứng, biết hỏi ai bây giờ? May sao, giữa cánh đồng có một ngôi miếu bị bỏ hoang, trong ngôi miếu ấy có một ông lão ngày ngày lo việc hương khói, tôi liền đến thỉnh giáo. Sau khi nghe tôi kể về những hành động tội ác trước kia của mình, ông suy nghĩ một lúc rồi nói: - Theo chỗ tôi được biết, vấn đề của anh thì nếu đã biết sợ tội ác, thì phải mau chóng quyết tâm sửa lổi lầm, lúc nào anh cũng phải có tâm nguyện: thà chết chớ không làm việc ác nữa, thì mới mong cứu vản bớt việc ác báo sau nầy. Đó chỉ là lý thuyết, nhưng thực tế chẳng hề dể dàng, đơn giản như vậy. Hai năm sau, tôi phát hiện ở hậu môn của mình có năm sáu cục trĩ, nó thường làm cho tôi đau đớn thống khổ vô cùng, nhất là những lúc đi vệ sinh. Trước giờ bệnh trĩ là căn bệnh mà mọi người thường gặp, chỉ cần tìm một vị bác sĩ chuyên khoa thì sẽ chữa bớt ngay. Tôi liền đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ đến chữa bệnh. Cách trị liệu của ông ta là dùng một loại thuốc nước có mùi rất thối xoa vào những cục trĩ đó, mục đích để cho thuốc nầy ăn mòn dần dần những cục trĩ. Hàm lượng thạch tín trong thuốc nước của ông rất cao (thạch tín là hợp chất Arsenium, ký hiệu As, màu vàng, vị đắng, rất độc). Mỗi ngày ông đến nhà để thoa thuốc, sau đó mỗi cục trĩ ông châm một cây kim. Nhiều năm lão luyện, tay nghề ông rất giỏi, cộng thêm ông dùng thuốc tê, vì vậy khi châm kim vào tôi không có một chút cảm giác đau đớn. Nhưng khoảng năm giây sau khi châm, tôi thấy trong tim hồi hộp khó chịu, hô hấp bắt đầu khó khăn, thấy trời tối sầm, tình hình không mấy khả quan. - Không được rồi! Bác sĩ!... Tôi dùng hết sức mới nói được mấy tiếng đó, nói xong tôi không còn sức để thở nữa. Lúc ấy trước mắt chỉ là màn đen tối mịt, dù tôi cố mở to mắt cũng không thấy được gì hết, tay chân run rẩy, rung lắc giống như thây ma treo cổ bị gió lùa; tiếp theo là co giật giống như người mắc bệnh kinh phong, cảm giác như bay lơ lửng trong không trung; tâm tôi tuy vẫn tỉnh táo sáng suốt, nhớ rõ từng hành động cử chỉ của mình, nhưng vô cùng khó chịu. Tôi nghe rất rõ tiếng hô hoán của bạn tôi đang đứng bên cạnh để chăm sóc: - Bác sĩ! Không ổn rồi! Anh ta sẽ chết mất! Không cần thoa thuốc nữa! Hãy mau rút kim ra đi! Anh ta la tiếp: - Máu chảy ra nhiều quá kìa, Bác sĩ! Chất độc trong thuốc nước của ông đã xâm nhập vào máu của bạn tôi rồi... Rồi anh ta làm náo động cả lên, cảm giác của tôi lúc đó rất lạ kỳ, tôi thấy hình như có người rót nước vào miệng cho tôi uống... Khoảng nửa giờ sau, tôi dần dần tỉnh lại. Kiểm tra lại, thì đâu có ai cho tôi uống nước lúc đó , và nguyên nhân là do vì muốn bệnh mau lành nên ông bác sĩ đã bỏ hàm lượng thạch tín vào trong nước thuốc khá cao, chất thạch tín theo cục trĩ xâm nhập vào mạch máu, mà mạch máu thì thông với tim, vì vậy mới khó thở khi thoa thuốc . Nhờ phước duyên, tôi đã trở lại từ cõi chết, đây là lần thứ nhất tôi nếm sơ mùi vị của cái chết. Những lỗ kim châm lần này lại là nguyên nhân chính khiến cho sau nầy càng khó chữa trị. Trải qua 18 năm, những lỗ kim vẫn không lành, do trĩ ngoại liền với mạch máu nên những lỗ kim nầy giống như cái ống dẫn máu ra ngoài, do đó máu cứ liên tục chảy ra nhưng chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Do lần chữa trị đầu tiên đã mắc sai lầm, nên máu càng ngày càng ra nhiều, lúc bình thường thấy ít ra máu, lâu lâu mới chảy ra vài giọt. Nhưng khi đi đại tiện thì thật kinh hồn. Vừa ngồi xuống, thấy máu chảy ra như nước từ trong người chảy ra qua đường tiểu tiện, máu chảy mạnh giống như lúc bác sĩ châm kim vào. Máu chảy xong , tiếp theo là huyết tương chảy ra thành vòi (huyết tương là chất nước màu vàng của máu sau khi loại bỏ hết huyết cầu). Mỗi ngày tôi phải đi đại tiện một lần, mỗi lần như vậy đồng nghĩa là tôi mất cả một bô huyết tương. Chỉ vài tháng sau, da tôi trắng bạch, tay chân run rẫy, mắt bắt đầu mờ dần. Nhiều người thấy tình cảnh như vậy họ thương quá, ai cũng bảo tôi đi mời bác sĩ về chữa, bằng không hậu quả khó lường được. Tôi lại đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ, ông ta là bác sĩ chuyên khoa rất nổi tiếng ở một bệnh viện lớn. ông bảo tôi hãy yên tâm, ông chữa mau và đặc biệt không đau, vì không tiêm chích chỉ thoa thôi. Ông dùng thuốc giã nhuyễn, mỗi ngày thoa lên cục trĩ, cục trĩ sẽ khô và tự rụng. Ông còn bảo đảm chỉ sau một tuần toàn bộ những cục trĩ của tôi đều rụng hết, mà vĩnh viễn không còn chảy máu nữa. Đương nhiên khi nghe vị bác sĩ nổi tiếng hứa như thế, tôi vô cùng vui mừng, đặt hết hy vọng vào ông. Ngờ đâu, ngay đêm hôm đó, tôi rất muốn đi đại tiện. Nó thúc giục giống như bị tiêu chảy vậy. Tôi nhờ người bạn dìu đến nhà vệ sinh, mà hơn nữa tiếng không ra được một chút phân. Trải qua mấy tiếng, càng ngồi lại càng mắc. Tôi cố nhẫn nại ngồi, cho đến khi hai chân không còn cảm giác, đến nỗi ngủ gục trong nhà vệ sinh. Anh bạn chờ lâu quá đã vào phòng ngủ một giấc, giật mình dậy mới dìu tôi vào phòng ngủ. Nhưng chưa kịp leo lên giường, tôi lại trở ra đi cầu tiếp... Cứ như thế , suốt đêm tôi cứ chạy đi chạy lại liên tục. Thống khổ đến mức chảy nước mắt, toàn thân run lên. Vậy mà sự thống khổ nầy kéo dài liên tục suốt 7 ngày đêm, mà thống khổ của đêm sau lại hơn đêm trước. Trong lúc thống khổ cực độ, tôi ngước mặt lên hỏi ông trời: - Ông trời ơi! Tôi đã phạm tội gì mà phải chịu thống khổ như thế nầy? Dẫu bị như vậy, tôi vẫn chưa tỉnh ngộ đấy là lúc quả báo đến, sự trừng phạt giống như ở địa ngục. Nhưng qua bảy ngày, tôi bỗng dưng dần dần khỏe trở lại, những búi trĩ cũng khô và rụng từ từ, máu không còn chảy nữa, tôi hết sức vui mừng. Nhưng, chỉ 6 tháng sau, bệnh trĩ lại tái phát trở lại, chẳng những thế mà còn phát rất mau, máu cũng bắt đầu chảy ra như trước. Bi kịch tiếp tục tái diễn, tôi lại phải tiếp tục tốn kém tiền bạc để chữa trị Ngày nào cũng chảy máu, thân thể tôi suy nhược đi hẳn, dẫn đến chứng mất máu kinh niên. Các búi trĩ làm tôi vô cùng khó chịu giống như bị lửa thiêu, dao cắt, tôi đau đớn trong từng giây từng phút không lúc nào yên. Biết bao nhiêu vị bác sĩ giỏi, nổi tiếng đều bó tay đành giương mắt nhìn tôi quằn quại trên giường mà không còn biết làm gì cả. Riết tôi cũng bị hội chứng sợ hãi bác sĩ, vì bao nhiêu người chữa thì bệnh cũng không bớt mà còn đau đớn đủ kiểu nên tôi quyết định không chữa trị theo y học nữa. Cũng chính vì quyết định đó nên tôi lại bị điều tiếng thị phi trong làng là trốn tránh lao động (kỳ thực lúc này tôi cũng chẳng còn chút hơi sức để làm việc chi nữa). Thời đó là còn thời kỳ bao cấp, ai nấy cũng phải lao động sản xuất làm ruộng, rẫy nên việc tôi không chịu chữa chạy bác sĩ dấy lên mối nghi hoặc của người dân trong làng. Người thì nói: “Có bác sĩ mà không chịu chữa, vậy rốt cuộc nó bị bệnh thật hay giả?”, người khác thì bồi thêm: “Bệnh trĩ của nó là giả, trốn tránh lao động mới là thật!” Sau đó, trưởng thôn, phó thôn, gọi bác sĩ lấy cớ cùng đến thăm tôi nhưng thật ra để dò la, điều tra. Biết mục đích của họ, tôi vào nhà vệ sinh đại tiện, giống như thường ngày, máu chảy ra cả một đống lớn rồi tôi gọi mọi người vào xem. Trưởng thôn vốn không tin tôi bị bệnh thật, nên vào xem ngay. Vừa nhìn thấy, ông vô cùng kinh hãi thốt lên: “Ôi máu ra nhiều thế này à!” Sau đó, nể lời mọi người khuyên bảo tôi quyết định để ông bác sĩ, được cho là ‘thần tiên giáng thế’, chữa trị thêm một lần nữa. Than ôi, lại thêm một lần nữa, máu vẫn chảy, đau đớn vẫn còn nguyên, ông bác sĩ ‘thân tiên’ cũng đành bó tay rồi lặng lẽ bỏ đi. Có lúc tôi chịu đựng đau đớn hết nổi, tôi khóc than rên la thảm thiết. Trên gò má, nước mắt trộn lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, tóc tai bù xù. Tôi bấu chặt quần áo, mền mùng có lúc xé rách, hai chân đạp tấm nệm đến mức rách bươm, chẳng khác chi người điên là mấy. Ai thấy cũng đều lắc đầu thở dài, có nhiều người đã rơi nước mắt khi thấy cảnh thống khổ của tôi. Trong lúc quằn quại trên giường chịu đựng đau khổ, tôi chợt phát hiện ra nếu để mông cao hơn đầu thì sự đau đớn sẽ giảm đi một ít, tức là nằm theo tư thế treo ngược. Tôi nhờ bạn tôi lấy mền gối chồng lên nhau, để lài lài giống như mái nhà,rồi tôi leo lên đó, đầu thấp xuống và nâng cao mông, như thế trồng cây chuối. Tôi không nhớ rõ mình trải qua bao nhiêu ngày đêm như vậy, tôi chỉ nhớ trừ lúc ăn cơm. đi vệ sinh ra, còn suốt ngày luôn sống với tư thế treo ngược kể cả lúc ngủ nghỉ. Rồi đến một ngày, khi đang ở tư thế ‘treo ngược’ như thế, khi máu chảy ra đọng thành vũng rồi thấm vào mền chiếu, nằm trên vũng máu đỏ tươi, tôi thảng thốt nhận ra cảnh tượng đó rất giống những con chim trước kia bị tôi bắn giết, máu của chúng nó cũng chảy rớt xuống những cành, lá cây. Trời ơi! tư thế "treo ngược" của mình với tư thế những con chim bị tôi bắn trước đây không hai không khác. Đây không phải là quả báo nhãn tiền đó sao? Đúng là "Nợ máu phải trả bằng máu, Nhân-Quả công bằng, một sợi tơ cũng không sót ". Cái cảnh tôi đang chịu đựng trong đau đớn đó không phải là hình phạt trong địa ngục đó sao? Tôi bắt đầu tỉnh ngộ ra rằng Tất cả những nỗi đau khổ của con người chẳng phải do ông trời làm ra mà chính là những tư tưởng xấu, hành động ác mà con người đã tạo trong đời này hoặc trong đời trước mới là nguyên nhân con người phải chịu mọi thống khổ trong hiện kiếp. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức mà thôi. Khi được thấu suốt, tôi đã không còn oán hận những vị bác sĩ đã ‘hại’ mình nữa, ngược lại, tôi lại vô cùng biết ơn họ, vì họ đã giúp tôi sớm trả xong món nợ máu. Nếu họ không chữa sai, có lẽ tôi còn mang bệnh tới già hoặc tiếp đến đời sau tiếp tục trả. Sau khi có nhận thức đứng đắn về cuộc đời, tôi luôn luôn sám hối trong tâm, có lúc sám hối cho đến khi chịu không nổi khóc rống lên mới thôi. Tôi quyết tâm "lấy công chuộc tội". tự nhủ tranh thủ lúc còn trẻ, gấp rút lo tu hành để cải thiện vận mệnh đời mình. Sau đó tôi thường nhờ bạn bè đi mua động vật để phóng sinh, hằng ngày gặp những cơ hội phóng sinh cứu sinh vật là tôi đều không bỏ qua, đồng thời tôi cũng dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ người bệnh tật, nghèo đói. Tôi cũng thường ráng hết sức lực để bí mật đến ngôi đền giữa cánh đồng, lễ bái và cúng thí cho các oan hồn uổng tử ở mười phương, giúp họ được ấm no... Nói ra cũng thật kỳ lạ, từ sau khi tôi bố thí phóng sinh, cơn thống khổ của bệnh trĩ của tôi dần dần giảm thiểu một cách rõ ràng, máu cũng chảy ít hơn, dần dần cách hai ba ngày, rồi đến một tuần mới phát một lần mà không cần tới thuốc men chi cả. Nửa năm sau, bệnh bắt đầu bình phục, người tôi có da thịt trở lại, có thể đi lại mà không cần người dìu như suốt mười mấy năm qua. Tôi càng vui mừng nên ra sức làm việc thiện quanh năm suốt tháng như vậy. Bệnh trĩ từ tám, rồi mười ngày, một tháng, hai tháng mới phát một lần. Đến mùa xuân năm trước nó hết còn chảy máu và cơn đau hết hẳn. Tính ra từ khi phát bệnh cho đến khi lành hẳn hết cả thảy là 18 năm. Bảy năm trước, tôi may mắn được đến Hồng Kông, nhưng còn may mắn hơn nữa là gặp được Phật Pháp. Từ đó niềm tin của tôi đối với Nhân-Quả báo ứng càng thêm kiên cố. Tôi giác ngộ sâu sắc rằng: "Mục đích đời người, chẳng phải là tiền rừng bạc biển, nhà cao cửa rộng, hoặc danh cao chức trọng mới làm rạng rỡ tông phong. Chỉ cần siêng năng làm thiện pháp, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi vật lợi người, cửu huyền thất tổ nhờ đó mà được siêu thăng thì ta sẽ không thấy hổ thẹn một đời" Lưu Tâm Bình1 like
-
Nét Việt
Ks.TranNgocHai liked a post in a topic by Hà Châu
TƯ LIỆU THAM KHẢO "Tuyển tập" những năm Tỵ lẫy lừng trong sử Việt Xét trong lịch sử dựng và giữ nước, có rất nhiều năm Tỵ ghi dấu ấn nổi bật với những sự kiện văn hóa, chính trị, quân sự…vô cùng lừng lẫy. Sau đây là những năm Tỵ có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu đậm nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Tân Tỵ (981): "Đánh cho tỏ mặt anh hùng. Đánh cho Tống địch cùng đường chạy xa Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám hại nơi sân điện Hoa Lư, Đinh Toàn ở tuổi lên 6 lên nối nghiệp họ Đinh. Nhưng khổ nỗi, tuổi vua còn nhỏ, nhà Tống nhân cơ hội đó lăm le khởi binh Nam tiến thôn tính Đại Cồ Việt. Trước họa ngoại xâm lơ lửng trên đầu, Thái hậu Dương Vân Nga sau khi biết “Dưới trên thay thảy đều nghe, Bèn tôn Thập đạo thay vì Nhị Đinh” (Theo Thiên Nam ngữ lục). Chiếc áo long cổn được khoác lên người vị Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn tháng 7 năm Canh Thìn (980) để củng cố lòng dân kháng chiến chống xâm lược Tống. Bản đồ chiến thắng Chi Lăng - Bạch Đằng 981. Chuẩn bị kỹ lưỡng lực lượng Nam tiến, đến tháng 2 năm Tân Tỵ (981) nhân dịp tiết Xuân, thời tiết mát mẻ hợp với thuỷ thổ, quân Tống tràn sang nước ta. Đại Việt sử ký tiền biên chép: “Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn, Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng”. Vua Lê Đại Hành tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng cọc ngăn sông Thương đoạn Chi Lăng. Lại sai người trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo lơ là, bắt được y rồi đem chém. Bọn Trần Khâm Tộ nghe tin quân thuỷ thua trận bèn quay đầu dẫn quân về, Lê Đại Hành đem quân đánh đuổi, quân của Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa, thây chết đầy đồng, bắt được tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đem về Hoa Lư. Đất nước nhờ đó mà được yên. Kỷ Tỵ (1149): "Vân Đồn lập trấn giao thương. Mở mang ngoại nghiệp phú cường đất Nam" Ngày nay, Vân Đồn là một đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Ninh. Nhưng ngược về thời xưa, chúng ta biết rằng Vân Ðồn, hay đồn mây bắt nguồn từ tên gọi của Vân sơn thuộc làng Vân, nay thuộc xã Quan Lạn nằm trong tuyến đảo ngoài Vân Hải. Do ở cửa ngõ của vùng quần đảo hiểm yếu nên thời Tiền Lê đã có đồn Vân nhằm trấn giữ vùng biển Đông Bắc của sơn hà Đại Cồ Việt. Sang thời nhà Lý đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175), nhận thấy vị trí không chỉ là tiền đồn của đất nước trong quan hệ lãnh hải với phương Bắc, mà Vân Đồn còn có một vị trí thuận cho giao thương, buôn bán, tiện cho thuyền bè qua lại, neo đậu. Bởi thế mà trang Vân Đồn được thành lập. Trong Việt sử cương mục tiết yếu của Đỗ Xuân Bảng thời Nguyễn, việc này được chép lại: “Kỷ Tỵ, Đại Định năm thứ 10 (1149). Mùa xuân, đặt trang Vân Đồn (nay là tổng Vân Hải, huyện Nghiêu Phong, tỉnh Quảng Yên). Bấy giờ thuyền buôn các nước Trảo Oa (tức nước Chà Và, còn có tên là Hạ Cảng – tức đảo Java), Xiêm La (ở phía Nam Gia Định, tức hai nước Xiêm La và La Giải, thời Minh đổi thành Xiêm La) tụ tập nhiều ở Hải Đông liền dựng trang ở hải đảo cho họ cư trú”. Nhờ việc làm năm Kỷ Tỵ, Vân Đồn dần dần phát triển mạnh, trở thành thương cảng lớn ở phía Bắc đất nước suốt thời Lý, Trần và Lê sơ, chứng thực cho sự phát triển của hoạt động ngoại thương ở đất nước trọng nông Đại Việt thời bấy giờ. Đinh Tỵ (1257) : "Đánh quân Mông Cổ tham tàn. Ức vạn muôn ngàn dân đứng lên theo" Thời nhà Trần, dòng họ Đông A ba lần liên tiếp đối đầu với quân Mông – Nguyên, được xem là loại giặc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ khi tung hoành khắp Á – Âu. Vậy nhưng, khi tiến xuống phương Nam, xâm lược một đất nước nhỏ như cái đấu Đại Việt, quân Mông Cổ đã phải dừng bước. Và mở đầu cho chuỗi chiến thắng oanh liệt của quân dân Đại Việt thời Trần, chính là cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất vào năm Đinh Tỵ (1257). Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, vào tháng 12 năm Đinh Tỵ (1257), quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai sau khi thôn tính nước Đại Lý (thuộc Vân Nam, Trung Hoa) liền tràn vào nước ta theo đường sông Thao. Vua Trần Thái Tông tự mình cầm quân chống giặc. Nhưng thế giặc mạnh như tằm ăn rỗi, quan quân phải rút lui. Để củng cố lòng tin đánh giặc, vua Trần Thái Tông nhận được câu trả lời quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng nghĩ đến chuyện khác cho phiền lòng”. Chỉ trong một thời gian ngắn, vua tôi nhà Trần đã làm nên chiến thắng Đông Bộ Đầu, đánh đuổi quân Mông chạy dài về Bắc. Kẻ thù dọc ngang khắp nơi, nhưng đã phải trở thành “giặc Bụt” khi xâm lược Đại Việt không thành. Nhờ chiến thắng Đông Bộ Đầu cuối năm Đinh Tỵ (1257), đất nước Đại Việt có được mùa xuân thái bình ngay sau đó, tạo bàn đạp tinh thần và lực lượng vững chắc để về sau đối đầu với quân Nguyên trong hai lần xâm lược gần 40 năm sau. Và đến năm Ất Tỵ (1305), đất nước lại có một tin vui khác. Ất Tỵ (1305): "Đại Việt mở cõi về Nam. Huyền Trân công chúa bà hoàng nước Chiêm" Trong không khí thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Nguyên năm Ất Dậu (1285) và Mậu Tý (1288), quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành ngày càng trở nên hữu hảo, bền chặt, như Thiên Nam minh giám có viết: Dẹp được Lao lấy đâu đâu, Chiêm Thành tiến phụng về chầu quốc gia. Thiên hạ vầy nên một nhà, Thông đường buôn bán gần xa đi về. Sau cuộc kinh lý Chiêm Thành của Thượng hoàng Trần Nhân Tông năm Tân Sửu (1301), mối lương duyên giữa công chúa Đại Việt Huyền Trân và vua Chiêm Chế Mân được ấn định. Bốn năm sau, vào năm Ất Tỵ (1305), cuộc hôn nhân Việt – Chiêm được chính thức tiến hành. Đám cưới Chế Mân và công chúa Huyền Trân. Sử cũ thuật lược rằng: “Tháng 2, Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn” (Trích Đại Việt sử ký toàn thư). Ngoài những vàng bạc, châu báu, thức ngon, vật lạ dâng tiến để mong có sự tác thành của triều đình Đại Việt, vua Chiêm Chế Mân đồng thời thể hiện thiện ý của chàng rể Đông sàng (rể ngồi giường phía Đông, ý là rể quý) dâng cả hai châu Ô và châu Lý nằm ở phía Bắc đất nước hoa Champa làm lễ vật dẫn cưới. Xét về cương vực, trong Đất nước Việt Nam qua các đời của học giả Đào Duy Anh, châu Ô và châu Lý (hay châu Rí) chính là đất Thuận Hóa: “Thuận Hóa gồm có Thuận Châu và Hóa Châu, tương đương với đất Ô và châu Lý của Chiêm Thành nhường cho nhà Trần, tức là miền Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay”. Dù cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân và Chế Mân bị nhân gian cũng như nhiều quan lại nhà Trần không đồng ý, nhưng cũng nhờ cuộc hôn nhân hiếm có trong lịch sử dân tộc, lãnh thổ Đại Việt đã kéo dài về Nam mà không mất mũi tên, ngọn giáo nào: Công chúa được gã cho Lồi (tức Chiêm Thành - tác giả), Quảng Nam tứ hải sính tài của tin. (Theo Thiên Nam minh giám) Quý Tỵ (1533): "Lê triều nghiệp đế Trung hưng. Hai phương Nam – Bắc nước từng phân chia" Hết thời nhà Trần, họ Hồ nối nghiệp 7 năm, đất nước sau một thời gian có sự hiện diện của ngoại bang bước sang thời kỳ phát triển cực thịnh với triều Lê sơ. Nhưng lên cao trào thịnh trị cũng có lúc phải suy vi như con tạo xoay vần. Năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê Cung Hoàng, lập nên nhà Mạc. Tuy nhiên, sự nghiệp Trung hưng của nhà Lê cũng ngay liền đó được tiếp nối với vua Lê Trang Tông. Đó là năm Quý Tỵ (1533), tức cách Quý Tỵ (2013) ngày nay chẵn 480 năm. Sự nghiệp Trung hưng nhà Lê được Đại Việt sử ký tiền biên ghi: “Quý Tỵ (1533). Mùa xuân, tháng giêng, vua lên ngôi ở Ai Lao (nước Lào ngày nay – tác giả), đặt niên hiệu là Nguyên Hòa, tôn Đại tướng quân Nguyễn Kim là Thượng phụ thái sư Hưng quốc công, chưởng nội ngoại sự, lấy trung nhân Đinh Công làm Thiếu Úy Hùng Quốc Công, còn lại, người nào cũng được phong thưởng để họ đồng lòng giúp rập”. Vua Lê Trang Tông với sự kiện lên ngôi ở Ai Lao năm Quý Tỵ (1533) cũng trở thành vị vua đầu tiên và duy nhất trong các vua Việt lên ngôi hoàng đế ở nước ngoài. Thực là: Cành Lê có độ tái vinh, Xui nên tá mệnh trời sinh thánh hiền. Đức vua Triệu tổ ta lên, Cất quân phù nghĩa giúp nền trung hưng. (Trích Đại Nam quốc sử diễn ca) Từ sự kiện trên mà sau đó “khoảng gần 10 năm, dọn dẹp cỏ rậm lập lên triều đình, thế nước lại nổi lên… Rồi đem quân tiến đánh lấy được tất cả đất cát châu Ái, châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An – tác giả), dựng điện ở sách Vạn Lại (Thọ Xuân – tác giả). Các hào kiệt đều theo về cả. Cơ nghiệp trung hưng, thực là bắt đầu từ đây” (Trích Lịch triều hiến chương loại chí phần Nhân vật chí). Với sự kiện Quý Tỵ, nhà Lê Trung hưng được lập nên, tồn tại cho đến năm Kỷ Dậu (1789), nhà Hậu Lê trở thành một triều đại tồn tại lâu dài nhất nước Việt. Ất Tỵ (1785): "Rạch Gầm, Xoài Mút ghi danh. Sáng gương Nguyễn Huệ, tan tành thuyền Xiêm" Đây là lần duy nhất chứng kiến sự hiện diện của quân đội phong kiến Xiêm La trên đất nước Đại Việt, và cũng là thất bại đau đớn cho mộng Đông tiến của triều đình phong kiến ngoại bang. Trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm Ất Tỵ (1785) Số là lúc ấy, chúa Nguyễn Ánh trước thế mạnh của phong trào Tây Sơn do “Tây Sơn tam kiệt” lãnh đạo, đã cầu cứu người Xiêm sang giúp để lấy lại nước. Ngay từ tháng 7 năm Giáp Thìn (1784), thủy quân Xiêm đổ bộ lên đất Gia Định, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta với lực lượng hơn 5 vạn. Nhờ lực lượng đông đảo ban đầu, khí thế đang hăng, quân Xiêm giành được ưu thế trên chiến trường Gia Định. Nhưng, ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chưa đầy nửa năm sau, số phận đạo quân xâm lược ấy được định đoạt nơi Rạch Gầm Xoài Mút của đất Mỹ Tho. Đoạn sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài khoảng 6 km, rộng chừng vài km, ở giữa có cù lao Thới Sơn, hai bên bờ sông cây cỏ rậm rạp và có nhiều kênh rạch được chọn làm nơi quyết định số phận quân xâm lược Xiêm. Hạ tuần tháng Giêng năm Ất Tỵ (1785), gần 4 vạn trong số 5 vạn quân Xiêm rơi vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn mà bỏ mạng. Bộ phận tàn quân còn lại phải tháo chạy lên bờ, trốn sang đất Chân Lạp để tìm đường về Xiêm, không một lần dám quay đầu trở lại. Đúng là: Rạch Gầm - Xoài Mút muôn đời oai linh! Từ chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút nơi đất Mỹ Tho ấy, thế và lực của nghĩa quân Tây Sơn ngày càng mạnh để sau này thanh thế mở rộng ra đến Phú Xuân, Bắc Hà, tạo điều kiện về sau đất nước được thống nhất thành hình chữ S hoàn chỉnh ở triều đại nhà Nguyễn. Theo Kienthuc net1 like -
Kết luận Như vậy, qua những lời khai ngộ của Đức Phật từ những đoạn kinh văn trong "Thần Chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm", người viết đã xác định với quí vị rằng: Tính thấy trong mỗi còn người chính là cái "tâm" đích thực mà chính con người đang tìm cách hướng đến. Tính thấy - Thức tinh nguyên minh thanh tịnh từ vô thủy - Theo cách nói của Đức Phật - có trong muôn vật từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến Thiên hà khổng lồ, trong muôn sinh vật trên thế gian. Đó cũng chính là dạng tồn tại khởi nguyên của vũ trụ mà thuyết Âm Dương Ngũ hành nói đến - chính là Thái cực. Thái cực - chân lý tuyệt đối theo thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là sự vô lượng, vô biên, không không gian, không thời gian, không lượng số. Với cái vô cùng thì tất cả vật chất trong vũ trụ hữu hạn này rất nhỏ bé. "Mười phương cõi nước chỉ trên đầu một mảy lông" . Thái cực - sự khởi nguyên vô lượng, vô biên này vẫn đang tương tác với muôn vật trong vũ trụ và là tính thấy trong muôn loài, khi mà mọi sự tồn tại mang thuộc tính vật chất - kể cả tư duy - đều là những nhân duyên giả hợp. "Tất cả chúng sinh đều có Phật tính" - Phật pháp đã nói như vậy. "Vạn vật đồng nhất thể" - lý học Đông phương đã xác định như vậy. Đây chính là cơ sở của lòng nhân ái bao trùm muôn loài - nguyên nhân của Đại từ, Đại bi của Phật Pháp vi sự cảm thông với muôn loài trong tính thấy. Là cơ sở của chữ Nhân trong Ngũ Đức của Lý học Đông phương . Đó là cơ sở trí huệ mà nền văn minh cổ địa đã nhận thức được, chứ không phải một thứ tín ngưỡng làm hàng trang cho con người đi vào kiếp sau. Từ đó có thể xác định rằng: Lòng nhân ái càng cao, tính vị tha càng lớn thì con người càng gần với thể tính và trí huệ càng phát triển. Đó cũng là lý do mà những câu chuyện cổ tích trong dân gian Việt và của cả thế giới - cái thiện luôn thắng cái ác - vì đó là chân lý cuối cùng. Là sự minh triết của một lý thuyết thống nhất vũ trụ. Phật pháp chỉ con người trở về với bản tính chân như diêu minh thoát khỏi luân hồi, chính là trở về với trạng thái tuyết đối của vũ trụ, không còn chịu sự tương tác bởi những qui luật vật chất. Đây chính là cơ sở lý thuyết của Phật pháp, của phương pháp luyện tâp cổ địa Yoga và thiền định. Đạt được điều này chính là giải thoát, là tự do cuối cùng của con người. Đó là khi nhận thức được và trở về với cội nguồn nguyên thủy của vũ trụ - Thái cực - Trong thuyết Âm dương Ngũ hành. Đó chính là vòng tròn phía trên cây Nêu trong những ngày lễ Tết của Việt tộc. Một giáo sư Việt nào đó đã phát biểu rằng: Một lý thuyết thống nhất vũ trụ phải có khả năng giải thích cả những vấn đề tâm linh. Hoàn toàn chính xác! Thiên Sứ tôi xác nhận ngay điều này mà không cần phải tư duy. Không những Thuyết Âm Dương Ngũ hành lý giải những bế tắc của khoa học hiện đại - giây O trước Bicbang, mà còn chứng tỏ được sự nhất quán với giáo Lý Phật về thể tính của Thái Cực và tính thấy. Chưa hết, nó còn tìm thấy những dấu ấn được mặc khải trong Thiên Chúa giáo. Thái Cực chính là hình ảnh của đức Chúa Cha, của Thượng Đế. Chỉ có khác là Thái Cực là một khái niệm phi ý thức, còn Thượng Đế và Đức Chúa Cha là một hình ảnh có ý thức trong khởi nguyên vũ trụ. Đức Jesu nói: "Cha ta sinh ra ta và ta ở trong Cha Ta". Đây là hình tượng của Thái Cực sinh Lưỡng Nghi. Lời chúc lành của Cha xứ với con chiên và ngược lại trong các buổi lễ là: "Chúa ở cùng anh chị em - và ở cùng cha" . Đó là biểu tượng của tính thấy - sự khởi nguyên vũ trụ có trong muôn loài. Phải chăng - tôn giáo cổ xưa này - có nguồn gốc từ kinh Cựu Ước, trước khi Chúa giáng sinh - đã ghi dấu ấn của một lý thuyết thống nhất vũ trụ tồn tại trước khi nền văn minh toàn cầu bị hủy diệt. Giả thiết là 10. 000 năm BC. Về những vấn đề quen gọi là tâm linh như ngoại cảm, cảm ứng dự báo tiên tri như bà Vanga ...vv...Đó là những hiện tượng mà tri thức khoa học hiện đại chưa kiểm chứng được. Không thiếu gì những nhà khoa học phủ nhận hiện tượng này, coi đó là sự mê tín dị đoan. Chính vì họ đã không thể giải thích được những hiện tượng đó. Sinh thời Viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng - Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học, kỹ thuật Việt Nam - có nói với tôi: Chúng tôi đã tốn kém ngót 700. 000. 000 Đ cho Trung Tâm nghiên cứu tiềm năng con người để tìm hiểu vấn đề này. Nhưng họ chỉ làm được mỗi việc là tổng kết hiện tượng và không có một công trình nào đủ để lý giải hiện tượng đó. Tôi trả lời: Em rất tiếc không nằm trong Liên hiệp Hội của thày. Nếu không em sẽ xin lý giải việc này. Trung Tâm của em cũng không có chức năng này. Và điều này cũng không phải mục đích làm việc của người viết. Hậu quả hiện nay - khi có một số nhà khoa học lên tiếng thì gần như đến nay chúng ta không hề thấy thông tin đại chúng nhắc tới v/d này. Nhưng người viết có thể giới thiệu với quí vị rằng: Sự giải thích điều này nằm ngay trong tiểu luận mà quí vị đang quan tâm - "Đức Phật khai ngộ về tính thấy". Khi tính thấy chính là bản thể của sự nhận biết và mọi cấu trúc vật chất chỉ là phương tiện nhận biết, thì với những cấu trúc vật chất có sự biến đổi ở mức tế vi thì sẽ tạo ra những khả năng nhận biết vượt trội so với cấu trúc vật chất phổ biến cùng loài. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của sự tiến hóa.1 like
-
MỤC III: NÊU TÁNH THẤY RA NGOÀI NGHĨA PHẢI VÀ CHẲNG PHẢI ĐOẠN I - NGHI CÁI THẤY HIỆN Ở TRƯỚC MẮT Ông Anan cho rằng: Tính thấy ở bên ngoài thân tâm (Vì nhìn thấy vật thể bên ngoài thân tâm: Trời, trăng, mây, nước…). Sự sai lầm trong nhận thức này khiến ông thắc mắc: Cái thấy trong tâm ông và cái thấy - mà ông cho rằng ở bên ngoài – cái nào là thật tính? Khái niệm thân tâm mà ngài Anan dùng ở đây có thể hiểu là tâm ở trong thân; đối đãi với Tính thấy mà ngài cho ở ngoài thân. Ngài Anan đã nhầm lẫn giữa phương tiện nhận biết và những điều kiện nhận biết có thuộc tính vật chất, trong đó gồm cả sự tương tác vận động của tư duy, khả năng nhận thức…được cấu tạo và vận động tương tác trong thân thể con người và sinh vật với tính thấy. Bởi vậy, ông cho rằng: Tính thấy – tính nhận biết ở bên ngoài thì phải nhận biết thân tâm của ông. Thực ra tính thấy hằng có thường tồn, bao trùm tất cả; không ở trong không ở ngoài. Nhưng trong cơ thể sinh vật nó hiển thị qua phương tiện nhận biết có trong cấu trúc cơ thể. Riêng ở con người thì phương tiện nhận biết còn do tự tạo. Đoạn sau Đức Phật nói rất rõ về điều này. ĐOẠN II CHỈ RA “KHÔNG CÓ CÁI GÌ TỨC LÀ CÁI THẤY”(*) * Chú thích:Tựa trên cho đoạn II là sự sao chép nguyên văn trong cuốn:”Kinh Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ” do Hoà thượng Thích Thiện Hào dịch từ bộ ”Lăng Nghiêm Trực chỉ “ của ngài Hàm Thị sớ giải. Tựa trên – và tất cả các tựa trong các đoạn trích dẫn – là do ngài Hàm Thị đặt hoặc do dịch giả thêm vào, không phải chính kinh văn của Đức Thích Ca. Tôi cho rằng lời dịch hoặc lời tựa trong nguyên văn này sai với ý chỉ của Đức Phật. Cái thấy không phải là “không có cái gì”. Vì cái không là sự đối đãi với cái có. Cái có là do nhân duyên giả hợp, nhân duyên hết, cái có cũng không còn và tất nhiên không có cái có thì cái không cũng không còn. Cái không – không phải là tính thấy và cũng chẳng phải cái thấy. Điều này Đức Thích Ca đã minh giảng ở trên. Nhưng vì sự trích dẫn nên tôn trong nguyên văn. Những đoạn minh giảng của Đức Thích Ca trích dẫn sau đây không hề có nội dung:”Không có cái gì tức là cái thấy”. Những tựa trong đoạn trích dẫn sau này, nếu có sự hiệu chỉnh, tôi sẽ để trong ngoặc đơn; chữ thường nghiêng và kèm tên người viết bên cạnh. Thí dụ: Tựa trên cần đổi là (Tính thấy không phải vật –Người viết) TIẾT 1 - Nêu tướng để gạn hỏi cái thấy. Phật bảo A Nan : “ Nay ông nói cái thấy ở trước mặt ông, nghĩa ấy không đúng! Nếu thật ở trước mặt ông và ông thật thấy, thì tánh thấy nầy đã có chỗ nơi đều chỉ ra được. Vậy nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà xem khắp rừng suối , nhà cửa, phía trên đến mặt trời mặt trăng, phía trước là sông Hằng, nay ông ở trước tòa sư tử của tôi, hãy đưa tay chỉ rõ các thứ tướng ấy : chỗ mát là rừng cây, chỗ sáng là mặt trời, chỗ ngăn lại là vách, chỗ thông suốt là hư không, như thế cho đến cỏ cây mảy mún lớn nhỏ tuy có sai khác, nhưng đã có hình tướng đều có thể chỉ ra được. Nếu nhất định cái thấy kia hiện trườc mắt ông, ông nên lấy tay chỉ rõ cho chính xác cái nào là cái thấy? A Nan, ông nên biết, nếu như hư không là cái thấy, đã thành cái thấy rồi, cái gì là hư không? Nếu vật là cái thấy, đã là cái thấy thì cái gì là vật? Ông nên chín chắn phân tích trong muôn vật lựa ra tánh thấy sẵn có sáng suốt thanh tịnh nhiệm mầu để chỉ rõ cho tôi, cùng các vật kia một cách rõ ràng không lầm lẫn”. TIẾT 2 - Đáp không phải cái thấy. (Đáp: Vật không phải cái thấy/ Người viết) A Nan thưa : “Nay con ở trong giảng đường này, nhìn xa thấy sông Hằng, trên thấy mặt trời mặt trăng, đưa tay chỉ ra, dẫu dùng mắt nhìn xem chỗ chỉ ra được đều là vật không phải là cái thấy. Bạch Thế Tôn, đúng như lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn sơ học hữu lậu chúng con, cho đến Bồ Tát cũng không thể đối trước hiện tượng của muôn vật vạch ra được cái thấy, rời tất cả vật riêng có Tự tánh”. Phật nói : “Đúng thế ! Đúng thế !”. Qua đoạn trên cho thấy Đức Phật chỉ ra rằng: Cái thấy không phải vật (Tất cả dạng tồn tại của vật chất từ siêu hạt đến thiên hà khổng lồ; mà nhân loại đã tìm ra hoặc sẽ tìm ra trong tương lai, cùng với những thuộc tính của nó, không phải tính thấy). Tính thấy là một thực tại, Riêng có tự tính. ĐOẠN III - CHỈ RA KHÔNG CÓ CÁI GÌ NGOÀI CÁI THẤY (Vạn vật trong tính thấy/ Người viết) Đoạn trước, ngài Anan chấp cái thấy – tính thấy ở ngoài thân thể ngài, Đức Phật đã phản bác. Nay Đức Phật lại hỏi có cái gì không có cái thấy trong muôn vật ở trước mặt. Ngài Anan ngộ ra rằng:Cái thấy – Tính thấy có trong muôn vật , kể cả hư không. Bởi vì Tính thấy phải bao trùm vạn vật, có trong vạn vật, nhỏ như vi trần, lớn như thiên hà thì các phương tiện mới thấy được. Nếu cái thấy không bao trùm tất cả thì mọi sự tương tác có thuộc tính vật chất đều vô nghĩa. Đây cũng là điều đã được nhắc tới trong Kinh Dịch: ”Dịch lớn thay! Rộng thay! Ở xa thì đến tận cùng vũ trụ. Ở gần thì tĩnh mà chính. Trong khoảng trời đất thì bao trùm tất cả”. ĐOẠN IV - NGÀI VĂN THÙ THỈNH PHẬT PHÁT MINH HAI NGHĨA. Sở dĩ mọi người sợ hãi chính vì chưa chứng quả vô học. Nói theo ngôn ngữ hiện đại tức là không có tinh thần khoa học thực sự. Chưa thực sự ngộ ra rằng những điều ta biết rất nhỏ bé trong biển trí mênh mông. Cho nên gặp một cái khác thường với tư duy cố hữu thì hoang mang sợ hãi. Điều này giống như người phát minh ra trái đất tròn thì bị phản đối. Bởi vì trái đất vuông đã trở thành tư duy cố hữu và nó cân đối với tri thức hạn hẹp, nhưng phổ biến thời bấy giờ. Nay có người bảo trái Đất tròn thì người ở phía dưới rơi đi mất thì sao? Nhưng thực tại trái đất tròn – trong điều kiện kiến thức thời trái đất vuông – có cái hợp lý với chính nó. Đó là lực hút của trái đất và lực hấp dẫn của các thiên thể, mà người thời đó không nhận ra được. Cái không nhận ra được những tính chất hợp lý liên quan mà chỉ thấy hiện tượng khác biệt với tư duy cố hữu mà “lo sợ mất chỗ bình thường” chính là “quả vô học”. Cũng như bây giờ Thiên Sứ tôi xác định Hậu Thiên Lạc Việt đổi chỗ Tốn Khôn phối Hà Đồ – không ít người lo sợ mất cái bình thường vậy. Đức Như Lai đã dạy: Những điều ta nói chỉ như nắm lá trên bàn tay của ta. Nhưng tri kiến như lá cây trong rừng.1 like
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY. Tiếp theo Kính thưa quí vị quan tâm. Như vậy, trong đoạn IV đến tiết 3 của tạng kinh Thủ Lang nghiêm, có tựa là: "HIỂN BÀY TÍNH THẤY CHẲNG PHẢI MẮT", Đức Thích Ca đã xác định đối tượng nhận biết và phương tiện nhận biết - kể cả trí não của con người - đều không phải là "tính Thấy" không phải "tâm". Bặt đầu từ đoạn kinh sau đây, Đức Phật minh giảng những thuộc tính của tính thấy từ đó chỉ ra bản chất của "tính thấy". Qua đoạn trích dẫn ở trên cho thấy Đức Phật dùng nắm tay xỏe nắm - tượng cho sự vận động của vật chất của đối tượng nhận biết. Ngài dùng thí dụ này để xác định một trong những thuộc tính của tính thấy là “không động”. Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy: Đối tượng nhận biết là luồng sáng và phương tiện nhận biết là cái đầu và các bộ phận liên quan đều động. Nhưng tinh thấy là liên tục không động. Với câu”... tính thấy của con không có dừng, huống chi có động!” diễn tả hai trong nhiều thuộc tính của “tính thấy”: * Tính liên tục không ngừng nghỉ, không chia cắt, luôn luôn thấy. Cho nên nói “Tính thấy không dừng”. * So với cái động (Động là thuộc tính của vật chất) thì Tính thấy, tính nhận biết không động so với cái động. Trong bối cảnh tri thức 2500 năm trước, chưa có khái niệm tốc độ vũ trụ, chúng ta có thể xác định rằng - trong hoàn cảnh tri thức hiện nay thì: Với bất cứ tốc độ vũ trụ nào mà khoa học có thể tìm thấy hoặc sẽ thấy trong tương lai - tính thấy vẫn không động và không dừng. Điều này được Đức Phật xác định trong phần dưới đây: Động là một thuộc tính của vật chất. Bởi vậy sự vận động của tư duy mang thuộc tính vật chất. Tất yếu nó phảI chịu sự tương tác của các vật thể dù lớn như các Thiên hà hoặc nhỏ hơn cả siêu hạt Quak; dù xa đến tận cùng vũ trụ hoặc dù gần đến ngay trong ta. Sự vận đông này mang tính quy luật, dẫn đến khả năng tiên tri khi con người nhận thức được quy luật đó. Nhưng con người không phải robot của tạo hóa - mà theo cách diễn tả của ngài Anan “Đồng như cây đất” - Từ chính vấn đề đặt ra trong tiểu luận này: "Cái gì nhận biết tất cả sự vận động của vật chất?" Đức Thế Tôn đã chỉ ra tính nhận biết - tất cả sự vận động và tồn tại của vật chất. Ngài đã nhắc nhở: Tính thấy không phải là cái “KHÔNG” đối đãi vớI cái”CÓ”. Vì với quan niệm đối đãi "Có" và "Không" như vậy thì khi “cái có” tự hoại, khi “cái không” sẽ không còn. Tính thấy thường hằng, nên không phải không. Tính thấy không phảI “TĨNH” so với “ĐỘNG”, mà "tính thấy" chỉ "không dừng”. Không động mà cũng không dừng thì chính là cái tuyệt đối. Nói theo ngôn ngữ toán học đây chính là vận tốc = |O|. Tính thấy có từ khi vô thuỷ và có trong những sinh thể đầu tiên tồn tại cho đến nay. Vậy nó phải có từ khởi nguyên vũ trụ, từ vô thuỷ đến vô chung. Không không gian, không thời gian, không lượng số. Dịch viết: ” Ở xa thì nói tới cái vô biên của vũ trụ, ở gần thì tĩnh mà chính, ở giữa thì bao trùm tất cả”. Trong tang kinh "Thần chú Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm", Đức Phật đã chỉ thẳng chân tính để thoát khỏi luân hồi. Đây chính là tạng kinh mà thế nhân thường ghi nhận trong bộ nhớ câu: “Trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” . Luân hồi nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại gần đồng nghỉa với khái niệm “quy luật” - “Luân”: sự tiếp nối, vận đông; “hồi”: quay trở lại. Cũng như Chu Dịch, chu: Vòng tròn; dịch: sự vận động theo vòng tròn. Đây là khái niệm mang tính tất yếu, tính quy luật. Những lời chỉ dạy của Đức Thích Ca về một thực tại có khả năng nhận biết (Tính thấy – tính nhận biết) tất cả mọi sự luân hồi, nhân quả - mà có thể diễn dịch bằng ngôn ngữ khoa học hiện đại là tính quy luật. Nhưng "tính thấy" phải chăng chỉ là một ”thực tại khác” mà nhà vật lý Fritjof Capra nói đến. Có thể hiểu như thế cũng được, nhưng không rốt ráo. Bởi vì một thực tại khác là gì - khi cho đến nay ý niệm về sự tồn tại của vật chất vẫn chưa vượt quá khái niệm về sự tồn tại của những siêu hạt? Thật may mắn thay! Những lờI chỉ dạy của Đức Phật trong kinh Lăng Nghiêm đã tiếp tục chỉ rõ điều này.1 like
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta cũng nhận thấy Đức Phật dùng bàn tay và nắm tay để hiển thị mối nhân duyên giữa bàn tay và nắm tay làm thí dụ về mọi sự tồn tại của vật chất đều do nhân duyên mà có - có bàn tay mới có nắm tay. Ngài Anan cho rằng nắm tay là đối tượng nhận biết và con mắt là phương tiện nhận biết đều có thuộc tính vật chất - qua câu: “Lấy con mắt của con đem so sánh với nắm tay của Đức Như lai nghĩa ấy đồng nhau”. Ngài Anan chưa nhận biết được giữa đối tượng nhận biết là bàn tay và phương tiện nhận biết là con mắt thì đâu là "tính thấy". Phương tiện nhận biết vốn không phải "tính thấy" - không phải "tâm". Bởi vậy, Đức Phật phản bác. Qua đoạn trích dẫn này Đức Phật dùng thí dụ là “con mắt” để phân biệt phương tiện nhận biết có thuộc tính vật chất do nhân duyên tạo thành – và tính nhận biết - tính thấy - tâm. Đoạn này cho thấy ngài Anan chấp vào việc không nhìn thấy vật thể thì “thấy tối” không phải là thấy. Qua đoạn trích dẫn trên, cho thấy Đức Phật đã chỉ ra rằng: Có sự phân biệt giữa điều kiện nhận biết và phương tiện nhận biết với tính nhận biết. Điều kiện nhận biết mà Ngài thí dụ ở trên gồm: phương tiện nhận biết (con mắt, ngọn đèn…) và đối tượng nhận biết: Nắm tay của Ngài…. Phương tiện nhận biết và đối tượng nhận biết có thể thay đổi (Cảnh giới tiền trần trụ diệt). Nhưng tính nhận biết không thay đổi khi có đầy đủ điều kiện nhận biết. Bởi vậy, nếu chúng ta đặt v/d: "Vật thể đi với tốc độ ánh sáng; con người có thấy không?” . Câu hỏi này có nội dung giống như: Với cuộc sống con người cách đây 100 năm, nếu có người hỏi: “Ở khoảng cách 100 cây số, con người có nhìn thấy nhau được không?”. Vào thời điểm không - thời gian cách đây 100 năm, câu trả lời sẽ là;”Không!”. Vì thiếu phương tiện nhận biết. Nhưng ở thời điểm không - thời gian hiện tại, câu trả lời sẽ là “Có!”. Vì con người có đầy đủ phương tiện nhận biết. Do đó, khi đặt v/d về một vật thể đi với tốc độ lớn hơn tốc độ ánh sáng (Đối tượng nhận biết) thì ở những trường hợp không có phương tiện nhận biết cấu trả lời sẽ là “Không thể thấy!”. Như vậy v/d: Có hay không nhận biết được (Thấy được) chỉ phụ thuộc vào phương tiện nhận biết. Còn vấn đề mà Đức Thích Ca chỉ dạy trong Kinh Lăng Nghiêm là “Tính Nhận biết”. Tức là Đức Phật chỉ ra bản chất thật của thể tính. Hay nói cách khác: Đức Phật khai ngộ về tính nhận biết khi ý thức có thuộc tính vật chất . Những đoạn trích dẫn tiếp theo đây chứng tỏ điều này.1 like
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Đoạn trích dẫn trên là một trong những đoạn nổi tiếng của Phật pháp với quan niệm cho rằng “Vạn pháp duy tâm biến hiện” qua câu: “Tất cả nhân quả thế giới vi trần nơi tâm mà thành thể”. Nhưng khái niệm “tâm” trong Phật pháp lại là một thực tại có thuộc tính vật chất, chứ không phải là một sự tồn tại phi vật chất như nhiều người lầm tưởng và gán Phật pháp vào lĩnh vực duy tâm. Điều này sẽ được minh chứng ngay bây giờ. Đức Phật nói – qua đoạn trích dẫn trên - "Huống chi tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là tâm tính của tất cả mà không có thể tánh hay sao?". Như vậy, chứng tỏ Đức Phật đã xác định “Tâm” là một thực tại có thể tánh – tức là nó thuộc về dạng tồn tại của vật chất. Đức Phật cũng xác định rằng – nói theo ngôn ngữ hiện đại - nhận thức trực quan không phải là “tâm”, mà đó chỉ là sự tương tác vi mô của vật chất. Bởi vậy, khi những tương tác không còn thì cái tâm – mà lầm tưởng từ nhận thức trực quan đó – cũng biến mất. Điều này được xác định qua lời Đức Phật trong đoạn trên: “Nếu ông chấp nhặt cái phân biệt hiểu biết quyết cho là tâm, thì tâm này khi rời tất cả các trần sắc, hương, vị, xúc riêng có toàn tánh”. Ngay cả ý thức, trí nhớ, tiềm thức cũng không được coi là tâm. Đức Phật nói: “Dầu cho dứt hết tất cả thấy nghe hiểu biết, giữ cái thầm thầm lặng lẽ bên trong vẫn còn là việc phân biệt bóng dáng của pháp trần”. Mà muôn vật trên thế gian và vũ trụ này không nằm ngoài qui luật thành, trụ, hoại, diệt thì cái nhận thức trực quan và cả tiềm thức cũng không nằm ngoài qui luật này. Đức Phật xác định: “Trần thì chẳng phải thường trụ, nếu khi nó biến diêt thì tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ, ắt pháp thân của ông cũng đồng với đoạn diệt. Vậy ông lấy gì để tu chứng Vô sanh pháp nhẫn?”. Vậy, đâu là cái tâm thật có trong mỗi con người và cả trong muôn vật trong vũ trụ này? Còn tiếp1 like
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Tiếp theo Có một lần, tôi đến thăm một ngôi chùa. Mỏi chân, vô tình ngồi trên một tảng đá. Một chủ tiểu ra đề nghị tôi kiếm chỗ khác ngồi. Ngoảnh nhìn lại tảng đá có khắc một chữ "tâm" là thủ bút của vị Hòa thượng trụ trì. Bây giờ ra các cửa hàng bán tranh hoặc thư pháp, chúng ta thấy đâu đâu cũng có bán chữ "tâm". Nhiều nhà bây giờ cũng trưng chữ "tâm" mạ vàng trên nền nhung đỏ hoàng tráng ở phòng khách. Tốt thôi. Chí ít thì nó cũng nhắc nhở cho con người một ý nghĩ hướng thiện vì mục đích của chữ "tâm" khi nghĩ đến một thực thể trong sáng có trong mỗi con người. Nhưng khái niệm bản thể của chữ 'tâm' là gì? Nó có phân biệt xanh đỏ, tốt xấu, to nhỏ...vv....Nhưng có lẽ chúng ta cần hiểu rõ giá trị của chữ "tâm" trong lời khai ngộ của Đức Phật sẽ tiếp tục dưới đây. Đoạn trên chúng ta lưu ý rằng các dịch giả đã dùng từ "cái thấy" để phân biệt với "tính thấy". Cái thấy trong khái niệm này là trực quan sinh động, là sự nhận thức trực tiếp từ giác quan. Giác quan là phương tiện nhận biết, nên Đức Phật hỏi cái gì nhận biết từ phương tiện đó? Ngài Anan cho rằng suy nghĩ (Tư duy – ý thức) mà ngài cho rằng chính là cái Tâm của ngài. Đức Phật bác bỏ điều này. Điều này được chứng tỏ ngay sau đoạn trích dẫn dưới đây: Qua đoạn này, chúng ta thấy rằng Đức Phật đã bác bỏ quan niệm cho rằng: Tư duy, nhận thức là tâm của con người. Những cái mà chúng ta nhận thức được với Đức Phật chỉ là "những tưởng tượng hư vọng của tiền trần, làm mê lầm chân tính". Tựa của đoạn trích dẫn này xác định: "Cái hay suy nghĩ có thật thể" - chính là một cách diễn đạt khác về tính vật chất của tư duy. Diễn đạt theo Phật pháp thì chúng đều do nhân duyên giả tạm không phải thật tính, không phải là tính nhận biết. Tức là chúng chịu sự tương tác mang thuộc tính của vật chất. Sự tương tác này có tính quy luật,có khả năng nhận thức được và sự tiên tri trên cơ sở nhận thức đó. Đây chính là cơ sở lập trình của những robot khoa học, là yếu tố Định Mệnh của thế nhân. Nhưng vấn đề là: Nếu ngay cả ý thức và những hiện tuọng liên quan đều có thuộc tính vật chất thì cái gì sẽ nhận biết những thuộc tính vật chất đó. Đây cũng là vấn đề đặt ra trong tiểu luận. Và kỳ diệu thay, đây cũng là điều mà Đức Thế Tôn chỉ dạy từ hàng ngàn năm trước. Bây giờ Chúng ta xem tiếp những đoạn trích dẫn sau đây trong kinh Lăng Nghiêm: Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta nhận thấy ngài Anan cũng cho rằng - Nếu tư duy và sự suy nghĩ của con người đều mang thuộc tính vật chất thì phải chăng con người "đồng như cây, đất" - nói theo ngôn ngữ hiện đại thì phải chăng con người chỉ là một thứ robot của tạo hóa - khi mà chính con người đã tạo ra những robot ngày càng tinh xảo giống con người. Lời tiên tri 2009 - lyhocdongphuong.org.vn - Thiên Sứ - viết: Những cái tư duy bên trong mỗi con người mà con người tưởng chừng đó là sự suy nghĩ độc lập của mình thì lại chỉ là những qui luật vận động vi mô của vật chất và có thể lập trình. Đó chính là yếu tố mà thế nhân quen gọi là "định mệnh" khi những qui luật tương tác của vật chất chi phối cả tư duy con người. Còn tiếp1 like
-
ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói rằng: Toàn bộ tạng kinh "Thần chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm", chính là tạng kinh cao cấp nhất chỉ thẳng đến sự tự do cuối cùng của con người - ngay cả khi con người đã có một sự tự do hoàn hảo theo quan niệm của thế nhân - Đó chính là sự giải thoát. Để minh chứng điều này và liên hệ với thuyết Âm Dương Ngũ hành - lý thuyết thống nhất vũ trụ - người viết xin được trình bày những nhận thức của mình qua những đoạn trích dẫn trong tạng kinh "Thần chú Phật đỉnh thủ lăng nghiêm" lần lượt trình bày để liên hệ với vấn đề được đặt ra. Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta thấy Đức Phật đã nói tới khái niệm “Căn bản sinh tử từ vô thuỷ”, chính là nói tới trạng thái ban đầu của vũ trụ mà khoa học hiện đại diễn đạt dưới khái niệm "giây 0" là thời gian ban đầu của vũ trụ. Đây là hiện tượng mà khoa học hiện đại miêu tả trạng thái vật chất cô đặc chưa bùng vỡ. Khái niệm sinh tử mà Đức Phật nói tới chính là tương đống với khái niệm Âm Dương trong Lý học Đông phương. Vậy với khái niệm "căn bản sinh tử" cũng tức là căn bản của "Âm Dương" chính là "Thái Cực". Khái niệm mà Đức Phật khai ngộ: “Bồ Đề Niết Bàn nguyên thể thanh tịnh từ vô thuỷ” thì đây chính là sự xác định rằng: Thể bản nguyên vũ trụ - Bồ đề niết bàn nguyên thể thanh tịnh - tức Thái Cực - vẫn tiếp tục hiện hữu trong vũ trụ, trong mọi sinh linh, cũng như trong mọi trạng thái tồn tại của vật chất và tiếp tục tương tác, chi phối với vật chất từ vi mô tới vĩ mô, trong đó có sự nhận thức của con người. Đó chính là "Tính thấy" trong mỗi sinh vật, trong đó có con người. Nhưng con người đã không nhận thức được chính mình, không nhận thức được "Tính thấy" "là cái thức tinh nguyên minh" có trong mỗi con người. Mà chỉ biết tới các duyên sinh ra và chấp vào đó, quên mất bản chất của sự thấy trong mỗi con người. Đây chính là vấn đề đặt ra trong tiểu luận này: Nếu tất cả vũ trụ này từ khởi nguyên cho đến mọi sự phát triển trong lịch sử và tương lai của nó đều là vật chất thì cái gì là nhận biết sự vận động của chính vật chất? Vấn đề mà Đức Phật đặt ra với cách nhìn từ Lý học Đông phương đã trình bày, xin được bàn rõ hơn ở phần sau.1 like
-
MINH TRIẾT ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TƯƠNG LAI KHOA HỌC HIỆN ĐẠI Sự phát triển của khoa học hiện đại đang ở giai đoạn bế tắc. Ở tầm cỡ vũ trụ nó đã đụng trần thời gian - các nhà khoa học không thể giả thích được thời gian trước 10 luỹ thừa – 43 giây sau Bicbang. Về các hạt cơ bản tạo nên vật chất thì hình như vật chất đã biến mất. Nhưng kỳ lạ thay, những nhà khoa học hàng đầu thế giới lại tìm thấy ở nền minh triết Đông phương như là một cứu cánh hoặc chí ít cũng có thể là một cứu cánh. Chúng ta hãy xem lời phát biểu sau đây của Fritjof Capra – nhà vật lý lý thuyết được giải Nobel – trong tác phẩm “Đạo của vật lý” nổI tiếng của ông: Như vậy, với đoạn trích dẫn trên, chúng ta cũng thấy được: Chính sự minh triết Đông phương sẽ là cứu cánh hoặc chí ít cũng có thể là cứu cánh của khoa học hiện đại. Bởi vì, khoa học hiện đại với tư duy thực sự cầu thị, nó luôn đòi hỏi nhìn thấy, chứng nghiệm thấy. Nó đã thấy và có thể sẽ thấy tất cả những cái hiện hữu vận động và tương tác của vật chất - kể cả sự vận động của tư duy của chính con người - thì nó sẽ không thể thấy chính cái thấy – cái nhận biết – tất cả những cái đó. Bởi vậy, đây là vấn đề mà con người sẽ không thể nhận biết bằng mọi phương tiện sinh học bản thân, hoặc chế tạo ra, mà nó cần một sự suy nghiệm để biết. Hay nói cách khác, khoa học lý thuyết sẽ phải là sự tiếp tục của khoa học thực nghiệm trong tương lai của con người. Đó chính là lý do mà ông Fritjof Capra nhận thấy sự vượt trội của minh triết Đông phương so với những gì mà nền khoa học hiện đại đạt được. ĐỨC PHẬT KHAI NGỘ VỀ TÍNH THẤY Kính thưa quí vị quan tâm. Điều bí ẩn lớn nhất của vũ trụ trong nhận thức của con người chính là vấn đề: Nếu tất cả thế giới này đều là vật chất - kể cả tư duy - thì cái gì nhận thức được điều đó. Mọi chuyện sẽ bế tắc, nếu chúng ta không may mắn được biết và tìm đến những lời khải ngộ của Đức Phật mà chúng ta sẽ suy nghiệm sau đây. Những đoạn dưới đây được trích dẫn trong “Kinh Thủ lăng nghiêm trực chỉ” do thiền sư Hàm Thị dẫn giải và dịch giả là hoà thượng Thích Phước Hào. Có thể nói rằng: Từ hơn 2. 500 năm trước , Đức Thích Ca mầu Ni đã bằng sự suy nghiệm của chính mình chỉ thẳng đến chân lý tân cùng của vũ trụ. Một tính thấy chí Tịnh trong cái động của vật chất - từ những hạt vật chất nhỏ nhất mà nhân loại đã tìm ra và có thể tìm ra ...cho đến những Thiên hà khổng lồ và sự nhận thức của tất cả những điều đó. Những bài viết tiếp theo đây sẽ diễn giải trình bày những điều này với quý vị quan tâm.1 like
-
SỰ KIỆN VÀ VẤN ĐỀ. Kính thưa quí vị quan tâm. Người viết đã hân hạnh trình bày tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?", ngay trong chuyên mục Lý học Đông phương và kết luận cuối cùng của tiểu luận này xác định rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ. Nhưng tiêu chí của một lý thuyết thống nhất khoa học xác định rằng: Một lý thuyết thống nhất phải giải thích từ những hạt vật chất nhỏ nhất đến các thiên hà khổng lồ và mọi vấn đề liên quan đến con người. Tất nhiên lý thuyết đó phải giải thích cả lịch sử hình thành vũ trụ từ dạng khởi nguyên cho đến mọi sự phát triển tiếp theo của nó và phải tuân thủ theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Thuyết bicbang với khái niệm về sự bùng vỡ của vật chất cô đặc đã xác định: Khởi nguyên của vũ trụ là vật chất, cho dù nó được giải thích như thế nào. Đây cũng là sự xác định của thuyết Âm Dương Ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử khi đặt vấn đề về sự khởi nguyên của vũ trụ. Nhưng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã đặt lại vấn đề về con người - một câu hỏi từ hàng ngàn năm trước trong lịch sử hiện đại mà nhân loại hiện nay nhận biết được: Con người là gì? Nó từ đâu tới? Một lý thuyết thống nhất sẽ phải giải thích được điều này vì tiêu chí của nó. Tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?" đã xác định sự vận động của ý thức cũng là sự vận động của vật chất và chịu sự tương tác có tính quy luật của vật chất. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã cho thấy khả năng tư duy cao cấp của các bộ não điện tử và đã minh chứng cho ý thức là một dạng tồn tại và vận động có qui luật của vật chất trong tiểu luận trên. Chính vì tính quy luật này đã làm nên khả năng tiên tri cho số phận con người qua các môn dự báo cổ Đông Tây và đặc biệt qua khoa dự báo Đông phương cho mọi vấn đề liên quan đến con người. Từ vận mệnh xã hôi, chiến tranh và hòa bình, sự phát triển của kinh tế ..vv...cho đến cả tình yêu, hôn nhân và công việc cụ thể rất chi tiết cho hành vi của một con người. Nhưng phải chăng con người chỉ là robo của tạo hóa, chỉ "đồng như cây đất" như lời ngài Anna bạch với Đức Phật? Làm thế nào để phân biệt một luận chứng khoa học của một khoa học gia máy với một tiến sĩ, hoặc giáo sư thật sự? Một lý thuyết thống nhất vũ trụ phải giải quyết được những vấn đề liên quan đến con người một cách nhân bản. Dịch viết: Thời dòng họ Bào Hy cai quản thiên hạ, ngẩng lên xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý. Xa thì đến cái vô cùng, gần thì xét ngay bản thể con người...... Như vậy, ngay trong Dịch kinh - một bộ phận của thuyết Ậm Dương Ngũ hành mà bát quái chỉ là siêu công thức vũ trụ của học thuyết này - đã xác định sự tổng hợp của một tri thức bao trùm vũ trụ và con người. Bởi vậy, quí vị có thể coi như tiểu luận này là phần tiếp theo cho tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?" mà nội dung của nó chính là sự diễn giải tiếp vế sau của Dịch kinh: "Gần thì xét ngay bản thể con người". Mối quan hệ giữa con người và vũ trụ chính là tính nhân bản của một lý thuyết thống nhất, được con người nhận thức vũ trụ và chính bản thân minh làm nên nó. Đây chính là sự xác định chữ "Nhân" đứng đầu trong ngũ đức - sự phân loại liên quan đến ngũ hành - trong minh triết Đông phương cổ. Những giá trị nhân bản của thuyết thống nhất vũ trụ - thuyết Âm Dương ngũ hành nhân danh nền văn hiến Việt - không chỉ trong mối quan hệ với con người mà còn trải khắp mọi sinh vật trên thế gian. Đây cũng chính là điều phân biệt giữa một con người, mọi sinh vật cuả tạo hóa với một trí tuệ máy siêu đẳng. Tính nhân bản trong nhận thức của con người hoàn toàn có cơ sở khoa học của nó, chứ không phải thuần túy chỉ là một thứ tín ngưỡng mà con người dùng làm hành trang đi vào kiếp sau. Nhưng để xác định được điều này cần có một nhận thức về chính giá trị của con người thật sự với những tri thức cần có. Thật kỳ diệu thay! Đức Thích Ca đã diễn giải điều này từ hơn 2500 năm trước, bằng ngôn ngữ cổ xưa của nhân loại. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Còn tiếp1 like