• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 28/04/2013 in all areas

  1. A. Sơ tâm về tộc Việt Tôi học chữ Nho trước khi học chữ Quốc-ngữ. Thầy khai tâm của tôi là ông ngoại tôi. Ông tôi không có con trai, mẹ tôi là con út của người. Theo luật triều Nguyễn, thì con trai ông tôi sẽ được "tập ấm". Không có con trai, thì con nuôi được thay thế. Tôi là "con nuôi" của ông tôi, nên người dạy tôi học để nối dòng Nho gia. Tôi cũng được "tập ấm", thụ sắc phong của Đại-Nam Hoàng đế. Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt Nam. Cũng năm đó, tôi được học chữ Nho. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho, bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, rồi sáu tháng sau tôi được học sử. Tôi được học Nam-sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng quốc ngữ vào năm bẩy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng Quốc-ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh, không bằng một phần trăm những gì ông tôi dạy tôi. Thầy giáo (ở trường) biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp nghe về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy, tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như "Đại-Việt sử ký", "Khâm định Việt sử thông giám cương mục", "An-Nam chí lược", "Việt sử lược"... Đại cương, mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam như sau: "Vua Đế Minh, cháu ba đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên đẻ ra người con tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Đế Nghi; phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng: Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hòa mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử tuyệt tôn". Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây-lịch, đến đây thì chia làm hai: 1. Triều Đại Thần Nông Bắc: - Vua Đế Nghi (2889-2884 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Đế Lai (2843-2794 trước Tây-lịch) - Vua Ly (2795-2751 trước Tây-lịch) - Vua Du Võng (2752-2696 trước Tây-lịch) Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng Đế từ năm Giáp-Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng Đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã-thiên khởi chép quyển một là Ngũ đế bản kỷ, coi Hoàng Đế là Quốc-tổ Trung-quốc. 2. Triều Đại Thần-Nông Nam : Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch), hiệu là Kinh-Đương, lúc mười tuổi. Sau này người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung, cho đến nay là 4872 năm, vì vậy người Việt hằng tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn-hiến. Xét về cương giới, cổ sử chép: "Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi, lấy hiệu là vua Kinh-Đương (2), tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-tây. Vua Kinh-Đương lấy con gái vua Động-đình là Long-nữ đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh Đương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-lang. Nước Văn-lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, Tây giáp Ba-thục, Đông giáp biển Đông-hải". Cổ sử đến đây, không có gì đáng nghi ngờ. Nhưng tiếp theo, lại chép: "Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị, giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp, sau trở thành lạc-hầu, theo lối cha truyền con nối. - Hoàng tử thứ nhất tới thứ 10 lập ra vùng hồ Động đình. - Hoàng tử thứ 11 tới thứ 20 lập ra vùng Tượng-quận. - Hoàng tử thứ 21 tới thứ 30 lập ra vùng Chân-lạp. - Hoàng tử thứ 31 tới thứ 40 lập ra vùng Chiêm-thành - Hoàng tử thứ 41 tới thứ 50 lập ra vùng Lão-qua. - Hoàng tử thứ 51 tới thứ 60 lập ra vùng Nam-hải. - Hoàng tử thứ 61 tới thứ 70 lập ra vùng Quế-lâm. - Hoàng tử thứ 71 tới thứ 80 lập ra vùng Nhật-nam. - Hoàng tử thứ 81 tới thứ 90 lập ra vùng Cửu-chân. - Hoàng tử thứ 91 tới thứ 100 lập ra vùng Giao-chỉ. Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết để chầu-hầu phụ mẫu". Một truyền thuyết khác lại nói: Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: "Ta là loài rồng, nàng là loài tiên, ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần". Các sử gia Việt tuy lấy năm vua Kinh-Đương lên làm vua là năm Nhâm-Tuất 2879 trước Tây-lịch, nhưng không tôn vua Kinh-Đương với công chúa con vua Động-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm quốc tổ, và công chúa Âu-Cơ làm quốc mẫu. Cho đến nay, nếu các bạn hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào: Chúng tôi là con rồng cháu tiên, Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ. Không phải sử gia Hoa-Việt cho rằng các vua Phục-Hy, Thần-Nông thuộc huyền sử, hay không hẳn là tổ mình, mà cho rằng triều Phục Hy, Thần Nông là tổ về huyết tộc, mà không phải là tổ chính trị. Bởi tại phương Bắc từ khi Hoàng Đế lên ngôi vua, tại phương Nam Lạc-Long lên ngôi vua, mới phân hẳn ra Việt, Hoa hai nước rõ ràng. B. Chủ Đạo Tộc Hoa, Tộc Việt : Như các bạn đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu. Người Pháp các bạn cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con rồng. Người Việt lấy biểu hiệu là con rồng và chim âu, gốc tự huyền sử vua Lạc Long là loài rồng, công chúa Âu-Cơ là loài chim. Người Do-Thái tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Đó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn. Người Hoa thì tin rằng họ là con trời. Cho nên trong các sách cổ của họ vua được gọi là Thiên-tử, còn các quan thì luôn là người nhà trời xuống thế phò tá cho vua. Chính niềm tin đó cùng với văn-minh Hoa-hạ, văn minh Nho giáo đã kết thành chủ đạo của họ. Cho nên người Hoa dù ở đâu, họ cũng có một tổ chức xã hội riêng, sống với nhau trong niềm kiêu hãnh con trời. Cho dù họ lưu vong đến nghìn năm, họ cũng không bị đồng hóa, không quên nguồn gốc. Cũng chính vì vậy, mà từ một tộc Hoa nhỏ bé ở lưu vực sông Hoàng-hà, họ đánh chiếm, đồng hóa hàng nghìn nước xung quanh. Nhưng chủ đạo, và sức mạnh của họ phải ngừng lại ở biên giới Hoa-Việt ngày nay. Từ nguồn gốc lập quốc, từ niềm tin mình là con của Rồng, cháu của tiên, cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của tộc Hoa. Bất cứ thời nào, người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị Bắc xâm, lập tức họ ngồi lại với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai dựa theo chủ đạo của tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị dân. C. Đi Tìm Lại Nguồn Gốc Tộc Việt : Năm trước, đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm: - Thuyết của Giáo sư Léonard Aurousseau, về cuộc di cư của người U-Việt hay Ngô-Việt sang Âu-lạc. -Thuyết của Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-lạc. - Thuyết của học giả Đào Duy-Anh, Hồ-Hữu-Tường, về sự di cư do thời tiết của người Việt từ Bắc xuống Nam. - Thuyết của Trần Đại-Sỹ theo khoa khảo cổ, bằng hệ thống y-khoa ADN. Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ thống khoa học, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc tìm kiếm của tôi, rồi kết luận: "Tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang: Đông tới biển, Tây tới Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân-Việt di cư xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ Nam sông Trường-giang tránh lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lĩnh thổ của họ, chứ không phải họ là tộc khác di cư tới đất Việt". Chính vì lý do đó, tôi được mời đến đây đọc bài diễn văn khai mạc niên khóa 1992-1993 này. Sau đây, tôi trình bày sơ lược về công trình nghiên cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y khoa, cho nên những nghiên cứu của tôi đặt trên lý luận khoa học thực nghiệm, cùng lý luận y khoa, nó hơi khác với những gì mà các bạn đã học. Phương Pháp Nghiên Cứu : Trong việc đi tìm nguồn gốc tộc Việt, tôi đã dùng phương pháp y khoa nhiều nhất, và phương pháp khoa học mới đây. Tôi đã được giáo sư Tarentino về khoa Antomie của Ý và giáo sư Vareilla Pascale của Pháp tích cực giúp đỡ. 1.Dùng Biện Chứng Y Khoa vào Khoa Cổ: Biện chứng căn bản của người nghiên cứu y khoa là: "Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do". Biện chứng này đã giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng. Như tôi đã từng trình bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo, đó là thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một cuốn phổ kể sự tích các ngài. Vì theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học giả đi tiên phong nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ qua. Tôi lại suy nghĩ khác: "Không có nguyên do, sao có chứng trạng". Vì vậy tôi đã tìm ra rất nhiều điều lý thú. Tỷ dụ: Bất cứ một nhà nghiên cứu nào, khi khảo về thời vua An Đương cũng cho rằng truyện thần Kim-Quy cho vua móng, làm nỏ bắn một lúc hàng nghìn mũi tên khiến Triệu Đà bị bại, là hoang đường, là "ma trâu đầu rắn". Nhưng tôi lại tin, và cuối cùng tôi đã tìm ra sự thực: Hồi ấy Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đã chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh ngày nay. Tôi cũng tìm ra khích thước ba loại mũi tên đồng của nỏ này. (4) Với lý luận y khoa, với anatomie, với lý thuyết y học mới về tế bào, với những khai quật của người Pháp ở Đông Dương, của Việt-Nam, của Trung-quốc cùng hệ thống máy móc tối tân đã giúp tôi phân loại xương sọ, xương ống quyển, cùng biện biệt y phục của tộc Hoa, tộc Việt, rồi đi đến kết luận về lãnh thổ nước Văn-lang tới hồ Động Đình. 2. Những Tài Liệu Cổ: Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đã quá rõ ràng. Còn ranh giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc quả tới hồ Động-đình, thì ranh giới phía Tây chắc phải giáp Ba thục và phía Đông phải giáp Đông hải. Vì vậy tôi đi tìm ranh giới phía Bắc. Dưới đây là huyền thoại, huyền sử, mà tôi đã bấu víu vào để đi nghiên cứu. - Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đình. - Truyền thuyết nói: Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm hai. Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về Nam truyền cho vua Kinh Đương sau thành nước Văn lang. - Truyền thuyết nói: Sau khi vua Kinh Đương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên núi Tam Sơn trên hồ Động Ðình hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi, có chín vạn hoa tầm xuân nở. - Truyền sử nói: Sau khi Quốc tổ Lạc Long, Quốc mẫu Âu Cơ cho các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng: Mỗi năm về Tương-đài trên cánh đồng Tương chầu Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần. - Cổ sử nói: Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, hẹn mỗi năm gặp nhau một lần ở cánh đồng Tương. - Sử nói: Vua nước Nam-Việt là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam quận, Trường sa (Mậu-Ngọ, 183 trước Tây-lịch). Như vậy biên giới Nam-Việt với Hán ở vùng này. - Sử nói rằng: Khi Trưng-Nhị, Trần-Năng, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đem quân đánh Trường-sa (năm 39 sau Tây-lịch) thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang. (Sự thực đó là Tương-giang thông với hồ Động-đình). Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam với Hán. Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động đình là Phật-Nguyệt. Tướng Hán là Mã-Viện, Lưu-Long (năm 40 sau Tây-lịch).Nhưng các sử gia gần đây đều đặt nghi vấn rằng: Làm gì biên giới thời Văn-lang rộng như vậy, nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện nay trăm cây số là cùng. Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên để tìm nguồn gốc. D. Đi Tìm Biên Giới Nước Văn Lang: 1. Núi Ngũ-Lĩnh: Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc kinh, rồi đổi máy bay ở Bắc kinh đi Trường sa. Trường-sa là thủ-phủ của tỉnh Hồ-Nam. Tất cả di tích của tộc Việt như hồ Động-đình, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương, Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều năm ở tỉnh này. Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học. Không biết trong thư giới thiệu, các giới chức y-khoa Trung-quốc ghi chú thế nào, mà khi tôi tiếp xúc với sở du-lịch, ty văn-hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên cứu về sự cấu tạo hình thể cùng bệnh tật dân chúng tại đây. Thành ra tôi bị mất khá nhiều thời giờ nghe thuyết trình của các đồng nghiệp về vấn đề này. Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm, năm trân đại lộ Nhân-dân. Tôi xin cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi mò vào thư viện ty văn hóa, sở bảo vệ cổ tích, đại học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới. Đầu tiên tôi đi tìm núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay. Đó là năm dãy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc. - Một là Đại- Dữu lĩnh, - Hai là Quế-đương, Kỳ-điền lĩnh. - Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh. - Bốn là Lâm-gia, Minh-chữ lĩnh. - Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh. Về vị trí: - Ngọ Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Đại-đữu chạy từ huyện Đại-đữu (nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện Nam-hùng tỉnh Quảng-Đông. - Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh Quảng Đông. - Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-Nam tới Gia-huyện tỉnh Quảng-Tây. - Ngọn Quế-đương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-Nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-Tây. Lập tức tôi thuê xe, đi một vòng thăm tất cả các núi này. Tôi đi mất mười ngày, gần 1500 cây số.Như vậy là Ngũ-lĩnh có thực, nay có núi đã đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ. Một câu hỏi đặt ra: Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam thuộc Lộc-Tục, mà lĩnh địa Việt tới hồ Động đình, mà hồ ở phía Bắc núi đến mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này: - Một là vua Đế Minh tế trời trên núi Ngũ-lĩnh là nơi ngài gặp tiên, rồi chia địa giới. Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh mông, sóng lớn quanh năm, nên vua Nghi chỉ giữ tới Bắc-ngạn mà thôi. Còn vua Kinh-Đương thì sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đình (một tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia. - Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam, không theo về Bắc, thành thử hồ Động-đình mới thuộc lĩnh địa Việt. Kết luận: Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể núi này đúng là nơi phân chia lãnh thổ Văn-lang và Trung-quốc khi xưa. Ánh sáng đã soi vào nghi vấn huyền thoại. 2. Thiên Đài: Nơi Tế Cáo Của Vua Đế Minh: Tương truyền vua Đế Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-đương, phân chia lãnh thổ Lĩnh- Bắc tức Trung-quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó gọi là Thiên-đài. Nhưng dãy núi Quế-đương có mấy chục ngọn núi nhỏ, không biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào, trên bản đồ không ghi. Sau tôi hỏi thăm dân chúng thì họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương giang. Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179 mét , đỉnh tròn, có đường thoai thoải đi lên. Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn, nhưng không có tăng ni trụ trì. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói. Lâu ngày chùa không được tu bổ, nên trên mái nhiều chỗ bị vỡ, bị khuyết. Tường mất hết vữa, gạch bị mòn, nhiều chỗ gần như lủng sâu. Duy nền với cổng bằng đá là còn nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong ra. Bên trong, cột, kèo bằng gỗ đã nứt nẻ khá nhiều. Tại thư viện Hồ-Nam, tôi đã tìm được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố, nhưng chữ viết tay như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi: "Thiên Đài Di Sự Lục" Trinh-quán tiến-sĩ Chu-minh-Văn soạn. Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-tông từ năm Đinh-Hợi (627) đến Đinh-Mùi (647), nhưng không biết Chu đỗ tiến sĩ năm nào? Tuy sách do Chu-minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không còn. Bản này là do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hy. Nội dung sách có ba phần: Phần của Chu-minh-Văn soạn, phần chép tiếp theo Chu-minh-Văn của một sư ni pháp danh Đàm-Chi, không rõ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp danh các vị trụ trì từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1722). Chu-minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loại văn cổ rất súc tích, đầy những điển cố, cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng kinh Phật. (Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông biết rằng tôi chỉ được học những loại văn đó từ hồi sáu bẩy tuổi, thì ông sẽ hết phục!) Tài liệu Chu-minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Đế Minh đi tuần thú phương Nam, kết hôn với nàng tiên, sinh ra Lộc-Tục. Vua lập đàn tại núi này tế cáo trời đất, vì vậy đài mang tên Thiên-đài, núi cũng mang tên Thiên-đài-sơn. Mình-Văn còn kể thêm: Cổ thời, trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế-Minh, vua Kinh-Đương. Đến thời Đông Hán. một tướng của vua Bà tên Đào-hiển-Hiệu được lệnh rút khỏi Trường-sa. Khi rút tới Quế-đương, ông cùng nghìn quân lên Thiên-đài lễ, nghe người giữ đền kể sự tích xưa. Ông cùng quân sĩ nhất quyết tử chiến, khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm được núi. Về đời Đường, để xóa vết tích Việt, Hoa cùng Nam, Bắc, các quan lại được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới cho xây ngôi chùa tại đây. Tôi biết vua Bà là vua Trưng. Còn tướng Đào-hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-bình vương Đào-Kỳ, tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Bà Hoàng-thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi khu Trường-sa, hồ Động đình, đã sai Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chận ở Thiên đài, đợi khi quân Lĩnh-Nam rút hết, sẽ rút sau. Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thơ thời Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đã không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết không biết bao nhiêu mà kể tại đây. Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối: Thoát thân Nam thành xưng sư tổ, Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật-kinh." (Hai câu này ngụ ý ca tụng thái tử Tất-đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi tìm lẽ giải thoát, sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.) Tam bảo linh ứng phong điều vũ thuận, Phật công hiển hách quốc thái dân an. (Hai câu này ngụ ý nói: Tam bảo linh thiêng, khiến cho gió hòa mưa thuận, đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an.) Nơi có dấu vết Thiên đài, còn đôi câu đối khắc vào đá: "Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc, Lĩnh-địa niên niên dữ Việt thường." (Nghĩa là: Từ sau vụ tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao thời, phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với dòng giống Việt-thường.) Chỗ miếu thờ Đào-hiển-Hiệu có đôi câu đối: "Nhất kiếm Nam hồ, kinh Vũ Đế, Thiên đao Bắc lĩnh, trấn Lưu-Long." (Nghĩa là: Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đình làm kinh tâm vua Quang-Vũ nhà Hán, một nghìn đao thủ ở bắc núi Ngũ-lĩnh trấn Lưu-Long.) Kết luận: Như vậy việc vua Đế-Minh tế cáo trời đất là có thực. Vì có Thiên-đài, nên thời Lĩnh-Nam mới có trận đánh hồ Động-đình. Hai sự kiện đó chứng tỏ lĩnh địa Văn-lang xưa quả tới núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đì 3. Cánh Đồng Tương: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương: - Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển. Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần. - Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi bốn phương qui dân lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần. Tôi đoán: Cả hai vị quốc tổ Kinh-Đương, Lạc Long sau khi kết hôn, đều đem Quốc-mẫu lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Vậy thì cánh đồng Tương sẽ gần đâu đó quanh hồ Động-đình. Phía Nam hồ Động-đình là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811 cây số, lưu vực tới 92,500 cây số vuông, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-Tây. Vậy cánh đồng Tương sẽ năm trong lưu vực Tương-giang. Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi phát xuất ra Tương-giang là hồ Động-đình, xuống Nam, qua Tương-âm tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa Bạch-mã. Đây là địa phận quận Ích-đương. Vô tình tôi tìm ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ còn 2-3 mẫu mà thôi. Suốt lộ trình từ hồ Động-đình trở xuống, trên sông Tương cũng như hai bên bờ chim âu bay lượn khắp nơi. Đặc biệt trên Âu-giang, giống chim này càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa, thủ phủ của Hồ-Nam, rồi tới các quận lî Tương-đàm, Chu-châu, Hành-đương, Quế-đương. Không khó nhọc tôi tìm ra cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động-đình, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-Nam. Phía Tây là vùng Triêu Dương, Lãnh thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy và Thạch-khê-thủy. Sau khi tìm ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu, tôi giải đoán như thế này: "Quốc-tổ Lạc-Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có tên. Nhưng vì lâu ngày, người ta không nhớ được tên ngài, nên đã lấy con chim Âu, rất hiền hòa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đình, Tương-giang,mà gọi tên là Âu-Cơ (Cơ là bà vợ vua). Vì người ta gọi Quốc-mẫu là Âu Cơ thì họ nghĩ ngay đến Quốc-mẫu sinh con. Quốc-mẫu là chim Âu, thì phải đẻ ra trứng. Còn con số một trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con, có nghĩa là tất cả dân trong nước đều là con của Quốc-mẫu." Kết luận: Đã có cánh đồng Tương, thì truyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đài, nay chứng cớ cánh đồng Tương được kiểm điểm, thì lĩnh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động đình. 4. Hồ Động Đình và Núi Tam Sơn: Hồ Động-đình nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nới phát tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ Bắc, tức đất Kinh-châu thuở xưa. Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-Nam. Hồ Động-đình nằm trong tỉnh Hồ-Nam. Hồ thông với sông Trường-giang bằng hai con sông. Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào cho Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn. Tôi đã lên đây ba lần. Tương truyền các bà Trưng-Nhị, Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt đánh chiếm Trường-sa vào ngày đầu năm, vì vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rõ phong cảnh để còn tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê di-hận (6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ sâu về mùa cạn là 38.5 mét, về mùa nước lớn là 39.20 mét.Tra trong chính sử, thì quả hồ Động-đình thuộc lĩnh địa Văn-lang. Như trên đã nói, triều đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Võng thì mất vào năm 2696 trước Tây-lịch, chuyển sang thời đại Hoàng Đế. Sử gia Trung-quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ lập quốc. Nói theo triết học Tây-phương, thì vua Du-Võng từ gốc Thần-Nông thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng, ở phương Nam, lấy hỏa làm biểu hiệu nên còn gọi là Viêm-Đế. Còn vua Hoàng-Đế gốc ở dân du mục, săn bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân nông nghiệp giầu nhưng không giỏi võ bị nên bị thua. Bộ Sử-ký của Tư-mã-Thiên, quyển 1, Ngũ đế bản kỷ chép rằng: ...Thời vua Hoàng Đế, họ Thần-Nông (Bắc) đã suy, chư hầu chém giết lẫn nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Vua Du-Võng không đủ khả năng chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư hầu hung ác. Vì vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu, thì Suy-Vưu mạnh nhất. Vua Du-Võng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu chỉ tuân lệnh Hoàng Đế. Vua Hoàng Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mã, vỗ về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua Du-Võng ở Bản-tuyền, thành công. Suy-Vưu làm loạn, không tuân đế hiệu. Hoàng Đế triệu tập chư hầu, cùng Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy-Vưu. Chư hầu tôn ngài làm Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận, vua Hoàng Đế đem quân chinh phạt. Lãnh thổ của Hoàng Đế: Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông; phía Tây tới núi Không-động, Kê-đầu; Nam tới Giang, Hùng, Tương... (7) Sông Giang đây tức là sông Trường-giang. Hùng đây là Hùng-nhĩ-sơn, Tương là Tương-sơn. Bùi-Nhân đời Tống tập giải Sử-ký nói rằng Tương-sơn thuộc Trường-sa. Kết luận: Từ chính sử, huyền sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đình. Khi vua Hoàng Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, thì triều Thần-Nông Nam tức họ Hồng-bàng còn kéo dài tới 2439 năm nữa. Lĩnh thổ Trung-quốc thời Hoàng Đế cũng chỉ tới sông Trường-giang. Từ Nam bao gồm khu Trường-sa hồ Động đình vẫn thuộc Văn-lang. Khi chính sử ghi chép như vậy, thì việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đình, núi Tam-sơn, không còn là huyền thoại nữa, mà thành sự thực lịch sử. Vậy truyện các ngài lên núi hưởng thanh phúc nên ghi vào chính sử. 5. Biên Giới Lĩnh Địa Tộc Việt Thế Kỷ Thứ Hai Trước Tây Lịch: Sử Hán- Việt đề đều ghi rằng vào thế kỷ thứ nhì trước Tây-lịch, thời Triệu-Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn còn ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình. Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu-Đà lập quốc ở lãnh thổ Lĩnh-Nam. Tần-thủy-Hoàng sai Đồ-Thư mang quân sang đánh Âu-Lạc, chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận: Nam-hải (Quảng Đông và một phần Phước-kiến), Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-Nam và một phần Quý-châu), Tượng-quận (Vân-Nam và một phần Quý-châu). Vua An-Dương Vương sai Trung-tín hầu Vũ-Bão-Trung và Cao-cảnh hầu Cao-Nỗ đem quân chống, giết được Đồ-Thư, tiêu diệt nửa triệu quân Tần. Tuy vậy vua An-Dương Vương cũng không chiếm lại vùng đất đã mất. Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu-Đà trấn vùng Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong vụ án Mî-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc, lập ra nước Nam-Việt. Lĩnh thổ nước Nam-Việt gồm những vùng nào? Không một sử gia chép rõ ràng. Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lĩnh địa Nam-Việt là lĩnh địa thời Văn-lang. Trong khi Triệu-Đà lập nghiệp ở phương Nam, thì cuộc nội chiến ở phương Bắc chấm dứt: Hạng-Vũ, Lưu-Bang diệt Tần, rồi Lưu-bang thắng Hạng-Vũ lập ra nhà Hán. Lưu-Bang lên ngôi vua, sai Lục-Giả sang phong chức tước cho Triệu-Đà. Đúng ra Triệu-Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ hàng, thân thuộc, mồ mả của Đà đều ở vùng Chân-Định. Đà sợ nhà Hán tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên mà phải lùi bước. Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà Hán là Lưu-Bang chết, Lã-hậu chuyên quyền, cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu-Đà không thần phục nhà Hán, xưng đế hiệu, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận. Trường-sa là quận biên cương của Hán, vậy ít nhất lãnh thổ Nam-Việt, Bắc tới Trường-sa. Nam-quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận là quận biên cương Hán, thì biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam ngạn sông Trường-giang. 6. Lĩnh Địa Về Thời Vua Trưng: Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn y khoa nghiên cứu tại các tỉnh cực nam Trung-quốc như Quảng Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-Châu, tôi tìm ra khắp các tỉnh này, không ít thì nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không tìm được tiểu sử vua Bà ra sao. Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ cũng chỉ biết lờ mờ rằng vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp bốn tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua Bà. Bây giờ tôi lại tìm thấy ở Hồ-Nam nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn. Tại thư viện bảo tồn di tích cổ, tôi tìm thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật-Nguyệt như sau: "Ngày xưa, Ngọc-Hoàng thượng đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa đứng hầu. Vì sơ ý, hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-Hoàng thượng đế nổi giận lôi đình, truyền đầy hai công chúa xuống hạ giới. Hai công chúa đi đầu thai được mấy ngày, thì tiên-lại giữ sổ tiên giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống theo hai công chúa.Ngọc-Hoàng thượng đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới, ngài mới truyền Thanh-Y đồng tử đầu thai theo để dẹp loạn. Thanh-Y đồng tử sợ địch không lại hai công chúa, có ý ngần ngừ không dám đi. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền Nhị-thập bát tú đầu thai theo. Thanh-Y đồng tử đầu thai, sau là vua Quang-Vũ nhà Hán, Nhị-thập bát tú đầu thai thành hai mươi tám vị văn thần võ tướng thời Đông-Hán. Còn hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-Chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là Trưng-Trắc, em là Trưng-Nhị. Lúc Trưng-Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, lớn lên thông minh quán chúng, có sức khỏe bạt sơn cử đỉnh; được gả cho Đặng-thi-Sách. Thi-Sách làm phản, bị thái thú Tô-Định giết chết. Trưng-Trắc cùng em là Trưng-Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức, nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận Trung-quốc ở phía nam sông Trường-giang: Cửu-Chân, Nhật-Nam, Giao-Chỉ, Quế-Lâm, Tượng-quận, Nam-Hải. Chư tướng tôn Trưng-Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà. Vua Quang-Vũ nhà Đông-Hán sai Phục-Ba tướng quân Tân-tức hầu, Long-nhương tướng quân Thận-hầu Lưu-Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ vương Phật-Nguyệt tổng trấn hồ Động đình. Mã-Viện, Lưu-Long bị bại. Vua Quang-Vũ truyền Nhị-thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật-Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán chết xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đình, oán khí bốc lên đến trời. Ngọc-Hoàng thượng đế sai thiên binh, thiên tướng trợ chiến, cũng bị bại. Ngài phải sai thần Du-Liệt sang Tây-phương cầu cứu Phật Như-Lai. Đức Phật sai mười tám vị Kim-Cương, ba nghìn La-Hán trợ chiến cũng bị bại. Cuối cùng ngài truyền Quan-Thế-Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với Quan-Thế-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bại. Sau Quan-Thế-Âm thuyết pháp, nữ vương Phật-Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu." Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối: Tích trù Động đình uy trấn Hán, Danh lưu thanh sử lực phù Trưng. (Nghĩa là: Một trận Động-đình uy rung Hán tên còn trong sử sức phò Trưng) Như thế, tôi đã tìm ra được: Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là di tích của lòng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lãnh thổ cũ của người Việt còn sót lại. Vua Bà, mà người Trung-hoa thờ như một thứ tôn giáo, chính là vua Trưng. Kết luận: Quả có nữ vương Phật-Nguyệt đánh trận Trường-sa hồ Động đình. Mà có trận hồ Động-đình thì lãnh thổ thời Lĩnh-Nam quả tới phía Nam sông Trường-giang. Huyền sử nói rằng: Khi bà Trưng-Nhị cùng các tướng Trần-Năng, Hồ-Đề, Phật-Nguyệt, Lại-thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi (39 sau Tây-lịch), thì nữ tướng Trần-thiếu-Lan tử trận, được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đoạn sông ngắn ở Bắc tiếp nối với hồ Động-đình. Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng: Các sứ thần Lý, Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ đến cúng miếu thờ bà Trần-thiếu-Lan. Cho nên năm 1980, tôi đã đến đây tìm hiểu. Không khó nhọc, tôi tìm ra trong cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cung cấp, một đoạn chép "Miếu thờ liệt nữ Trần-tiểu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Tượng đồng bị nấu ra. Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá". Tôi tìm tới nơi thì miếu chỉ còn lại cái nền bằng đá ông, mộ vẫn còn. (9) 7.Nghiên Cứu Những Khai Vật: Vào những năm 1964-1965, giáo sư thạc sĩ luật khoa Vũ-văn-Mẫu đang soạn thảo tài liệu về cổ luật Việt Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch cổ nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng với phương pháp phân tích, tổng hợp Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫu. Tôi với cụ đã giúp giáo sư Mẫu đọc, soán các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính vì vậy tập tài liệu "Cổ-luật Việt-Nam và tư -pháp-sử" có chương mở đầu "Liên hệ giữa nguồn gốc dân tộc và Cổ-luật Việt-Nam"(10). Bấy giờ tôi còn trẻ, lại không có đủ tài liệu khai quật của Trung-quốc, của Bắc Việt-Nam, nên có nhiều chi tiết sai lầm nhỏ. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến sĩ Nguyễn-sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ-văn-Mẫu, xin lỗi các vị đồng nghiệp hiện diện, xin lỗi các vị sinh viên về những sai lầm đó. Triều đại Hồng-Bàng của tộc Việt xuất phát từ năm 2879 trước Tây-lịch, tương đương với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn hóa Bắc-sơn (11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc Việt, Đông Vân-Nam, Quảng Đông, Hồ-Nam, người ta đều tìm được những chiếc rìu thiết diện hình trái xoan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang lại chỉ tìm được loại rìu thiết diện hình chữ nhật, chứng tỏ vào thời đó, có một thứ văn hóa tộc Việt giống nhau. Sang thời đại văn hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (age du bronze): Trong thời gian này đã tìm được trống đồng Đông-sơn bên bờ sông Mã (Thanh-Hóa) Sự thực trống đồng đã tìm thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như Hồ-Nam, Quý-Châu, Vân-Nam, Quảng-Đông, Quảng-Tây; Nam-Đương, Lào (13), Bắc và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-Đương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc Việt rồi tới Vân-Nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần, gần như giống nhau: Đồng 55%, thiếc 15-16%, chì 17-19%, sắt 4%. Một ít vàng, bạc. Khảo về y phục, mồ mả, cùng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại, cho đến hết thế kỷ thứ 1 sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường-giang cho đến Trung, Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhau. Tôi đi đến kết luận: Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động đình, Tây tới Tứ-xuyên như cổ sử nói. E. Tổng Kết Các bạn đã cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử, cùng triết học, suy luận để tìm về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong chính sử Việt đều ghi rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt. Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà nho, chỉ đọc sách chữ Hán của người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên như Âu Việt, Lạc Việt, Đông Việt, Nam Việt, Việt Thường đều thuộc Bách Việt cả. Cái tên trăm họ, hay trăm Việt (Bách Việt) phát xuất từ huyền thoại nói vua Lạc Long sinh ra trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số như ta tưởng ngày nay (14).Các vị cổ học học sổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông Trường-giang, lấy mốc là hồ Động-đình, với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 10-14 tuổi, tôi chỉ được học những bài ngắn ngủi và trang về nguồn gốc tộc Việt; trong khi đó gia đình cho tôi đọc những bộ sử dài hàng mấy chục nghìn trang của Hoa, của Việt. (Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn, số trang gấp 5-6). Chính tôi cũng nhìn nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương tự như các nhà cổ học. Phải chờ đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ văn Mẫu thạc sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến sĩ Nguyễn-sĩ-Giác sưu tầm tài liệu cổ luật. Cụ Giác học lối cổ, không biết những phương pháp qui nạp, tổng hợp, nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôi. Ngay lần đầu gặp nhau, một già, một trẻ mà có hai cái nhìn khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi lại có cái nhìn rất trẻ. Tôi mới 25 tuổi lại có cái nhìn rất già về nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất nhiều thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu cái học sâu xa về cổ học Hoa Việt đưa ra. Vì vậy tôi đã sưu tầm tất cả những gì trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Vũ-văn-Mẫu đem viết thành tài liệu giảng dạy. Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, vì chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay tôi mới biết là có một vài sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện. - Từ cổ : Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống mãi vịnh Thái-lan. - Sau này tộc Việt, tộc Mã đã giao tiếp với nhau ở vùng Kampuchea, Nam Việt- Nam Tộc Việt hỗn hợp với tộc Ấn ở phía tây Thái-lan.- Giống Thái, một trong Bách-Việt chính là tộc Thái từ Tượng-quận, Bắc Việt di chuyển xuống lập ra nước Lào, nước Thái. - Người Việt từ sông Trường Giang, từ Phúc-kiến di cư xuống Bắc Việt, không có nghĩa ở Bắc Việt không có giống Việt, phải đợi họ di cư xuống mới có. Mà có nghĩa là người Việt di chuyển trong đất Việt.
    1 like
  2. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: Dư âm một thuở ngậm ngùi 28/04/2013 09:30 (GMT + 7) TT - Một chiều tháng 4 tôi đến thăm nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý tại ngôi nhà nhỏ của ông nằm trong hẻm Trần Khắc Chân, Q.1, TP.HCM. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý và ca sĩ Ánh Tuyết - Ảnh: Bạch Mai Ông cười hiền hậu: "Lâu lắm mới có một ca sĩ đến thăm chú đấy". Hôm trước tết con có đến mà - tôi định nói vậy nhưng rồi khóe miệng ông rung rung làm tôi tự hỏi đó là niềm vui hay sự xót xa... "Mỗi ngày hết nằm thì lại ngồi, ngồi và lại trông ngóng mong đợi, đợi điều gì ư, đợi có ai đó đến thăm là niềm an ủi, là vui lắm rồi vì như thế là chú được biết rằng thi thoảng vẫn có người còn nhớ đến những Dư âm của chú...". Người nhạc sĩ tài hoa một thuở thong thả nói, nhẹ như một hơi thở. Lặng buồn với những dư âm Hơn 90 tuổi đời, lão nhạc sĩ di chuyển một mình thật khó khăn trong căn nhà nhỏ. Ông dành thời gian để ngồi nhiều hơn bên song cửa mà đưa mắt quan sát cuộc sống đang diễn ra. Cái cảm giác như ông nói, "đôi lúc chỉ muốn một ai đó đi qua và cười với mình" cho thấy ông yêu cuộc sống này biết bao nhiêu (cho dù với những gì ông đã đóng góp và cống hiến cho đời sống này thì hiện tại cuộc sống của ông là một điều thật ngậm ngùi). Tôi cất lời khe khẽ một đoạn Dư âm: "Ðêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ..." giữa tiếng xèo xèo cộng hưởng của muôn vàn thanh âm trong con hẻm ồn ã. Nhạc sĩ khép mắt lại trong một thoáng rồi hít nhẹ một hơi như muốn thu lại hết những cảm giác lúc này đang có quanh không gian nơi đây vào tận sâu đáy lòng. Ông cười buồn: "Chú sống được đến bây giờ là nhờ những dư âm đó đấy". Ông vẫn ôm đàn ngồi một mình chẳng diễn tấu và cũng không hát, ông để những thanh âm xưa cũ vọng lại trong tâm trí. Tôi rất hiểu khi nghe ông kể lại chuyện những bóng hình cũ bằng một cảm giác xúc động khôn nguôi, giờ thì người đã rời xa dương thế, người thì chính bản thân nhạc sĩ cũng không thể biết được họ đang ở phương trời nào. Còn ông giữ lại và ấp ủ cho mình những khoảnh khắc đẹp nhất, để thấy cuộc sống còn muôn vàn ý nghĩa và sự yêu thương. Cho dù khi trở lại với những gì đang hiện hữu xung quanh mình, người nhạc sĩ tài hoa ấy đã nhiều lần phải siết chặt hai bàn tay lại để tự an ủi bản thân khi đối diện với nỗi cô đơn trong thực tại. Nhưng ông vẫn luôn cảm ơn tình yêu đã cho ông cảm xúc chân thực nhất để dệt nên những giai điệu đẹp dành tặng cuộc sống này. Tự nhận mình là người nhút nhát khi muốn bày tỏ tình cảm với một ai đó, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý luôn tâm niệm tình yêu khó đến và cũng thật khó nắm bắt, nhưng khi điều đó thật sự tồn tại trong trái tim mỗi người thì nó sẽ ở lại đó mãi mãi. Cho dù tình yêu không thành, không đơm hoa kết trái, không có nhiều thời khắc hạnh phúc nhưng cảm xúc đấy giữ ông ở lại trong thế giới riêng cảm của bản thân. "Chỉ mình biết mình đang hạnh phúc, chỉ mình biết mình đang khổ đau, âu cũng là lẽ thường tình của đời sống" - ông chậm rãi nói từng lời như một sự tự vấn với bản thân mình. Giá mà sống trọn trăm năm... Giờ sống một mình khi đã qua phần lớn con dốc cuộc đời, ông nhất định không chịu đến những trung tâm tình thương để sống và nhận sự bảo trợ cộng đồng từ xã hội. Ông bảo, vậy sẽ càng đau khổ hơn khi chứng kiến những nỗi cô đơn giống như mình. "Người với người sống để yêu nhau" thế nhưng khi cảm nhận được nỗi đau của nhau mà bất lực thì đó là một điều mà trái tim đa cảm của người nhạc sĩ sẽ không thể chịu đựng nổi. Tôi gặng hỏi tế nhị khá nhiều lần, mãi rồi ông mới cho biết mình đang sống bằng lương hưu, phụ cấp hoạt động trước cách mạng, rồi tiền tác quyền chừng hơn 1 triệu/tháng, tất cả là hơn 4 triệu đồng mỗi tháng không đủ để ông sinh hoạt tằn tiện thuốc men, chưa kể trả lương đỡ đần việc nhà cho cô cháu gái của người vợ đã khuất cũng mất gần hết số tiền ấy rồi. Hai cô con gái thì một người sinh sống ở Hà Nội, cô út ở Sài Gòn thì cũng gần đây nhưng chính nhạc sĩ không muốn về sống cùng vì biết hoàn cảnh của các con cũng khó khăn. Nhạc sĩ cho biết thêm thỉnh thoảng có những thính giả yêu mến tác phẩm của ông tìm đến và giúp đỡ ít nhiều, điều này khiến ông có thêm niềm vui và sự tự tin rằng con người và tác phẩm của mình vẫn chưa hoàn toàn bị thế gian này quên lãng. "Ðôi khi chợt nhận ra mình nợ cuộc sống quá nhiều mà chẳng biết trang trải từ đâu" - nhạc sĩ cười buồn và thoáng trầm mặc trong dòng suy tưởng. Thật lòng tôi không thể cảm nhận được hết điều ông vừa nói và cũng không sao cất lời để có thể tiếp tục gợi chuyện. Khoảng lặng ấy kéo dài khá lâu trong ánh nắng buổi xế chiều. Không gian căn nhà nhỏ dường như thu mình lại trong sự ồn ã của những tiếng động xung quanh, xe cộ, hàng quán, trẻ nhỏ... Có lẽ những âm vang đó đang chất đầy trong tâm trí người nhạc sĩ hoặc ngược lại ông đang tạm lánh xa thực tại. Rồi ông lấy tập nhạc Những dư âm còn lại... đề tặng tôi vài dòng lưu bút, nét chữ khỏe khoắn bay bổng được thể hiện từ một bàn tay nay đã run run... Nắm chặt tay ông để nói lời từ biệt, lại như lúc đón tôi, ông mỉm cười, khóe miệng rung rung: "Giá mà chú có một gia đình trọn vẹn thì thể nào chú cũng sống mười năm nữa cho tròn 100 tuổi...". Tôi lặng đi, rồi vội vã tìm lời an ủi, cũng chẳng ngoài những lời sáo rỗng quen thuộc... Tôi với tư cách là một ca sĩ đã từng hát nhạc của ông, một thính giả đã từng yêu mến những tác phẩm của ông cảm thấy xấu hổ và biết ông rất cần một tấm lòng lúc này, một tấm lòng tri ân người nhạc sĩ tài hoa đã trọn đời cống hiến cho âm nhạc và cuộc sống này. Ca sĩ ÁNH TUYẾT . ====================== Tôi cũng là một pan hâm mộ bản "Dư Âm" của người nhạc sỹ tài hoa nay. Tôi đã từng ngây ngất với hình ảnh tuyệt vời mô tả một tình yêu đậm chất thơ của "Dư Âm": "Em như lầu vắng, anh như ánh trăng gieo muôn ý thơ". Cùng với "Mộng chiều Xuân" - Ngây thơ dáng huyền, thoáng trong mơ, lòng anh bớt sầu.... Mộng vàng phút tan theo gió chiều, Biết em về đâu...?" Có thể nói đó là những hình tượng rất đắt giá mô tả những tình yêu nội tâm đích thực, một thời lên ngôi trong cuộc sống, được ghi nhân trong lịch sử âm nhạc hiện đại Việt Nam. Nhưng thành thật mà nói, tôi đã thất vọng với nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, khi ông lên truyền hình - cách đây hơn 10 năm trước và phát biều: "Chuyện tình Trương Chi mang tính giai cấp". Thần tượng của tôi sụp đổ. Có một thời tôi cố quên "Dư Âm" từng làm tôi say đắm, nhưng không được. Nhưng thật cay đắng mỗi khi đến với "Dư Âm", tôi luôn ám ảnh bởi một chuyện tình giai cấp của ông. Thưa ông Nguyễn Văn Tý: Chuyện tính đẹp như mơ trong "Dư âm" của ông nó thuộc về giai cấp nào vậy?
    1 like
  3. Phía ác mộng của giấc mơ TQ vietnamnet.vn 28/04/2013 00:06 GMT+7 Đội ngũ kinh doanh tinh hoa toàn cầu đổ xô đến Diễn đàn Bác Ngao và mê mẩn với lời hứa tăng trưởng, thịnh vượng mà chủ tịch Trung Quốc đưa ra. Nhưng khi trở về nhà, họ có thể chẳng hiểu nổi nước chủ nhà sẽ làm gì tiếp theo. Diễn đàn Bác Ngao - nơi có khoảng 10 vị lãnh đạo thế giới với 1.000 doanh nhân tháp tùng, diễn ra ở đảo Hải Nam. Chủ trì là Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đã nuôi hy vọng cho những người tham dự với một tầm nhìn tuyệt vời cho sự thịnh vượng sắp tới. Diễn đàn Bác Ngao. Ảnh: thegatesnotes Ông hứa, thu nhập trung bình của người Trung Quốc năm 2020 sẽ gấp đôi năm 2010. Và chỉ trong 5 năm, Trung Quốc sẽ mua gấp năm lần giá trị hàng hóa thế giới so với hiện tại. Đó là một viễn cảnh lung linh và đầy "trêu ngươi". Trung Quốc là nhà nhập khẩu lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ, đang mua khối lượng hàng hóa giá trị khổng lồ 1,8 nghìn tỉ USD mỗi năm từ thị trường toàn cầu. Giờ đây, họ còn hứa hẹn gia tăng nhu cầu nhập khẩu lên tới 10 nghìn tỉ USD/năm. Nghĩa là nếu dựa trên tổng lượng thương mại toàn cầu hiện nay, nó sẽ tương đương với 2/3 tổng lượng hàng hóa xuất khẩu từ tất cả các nước khác trên thế giới gộp lại. Khi một nhà lãnh đạo Trung Quốc hứa hẹn tăng trưởng, thịnh vượng thì thế giới dõi theo ông rất nghiêm túc. Hơn thế nữa, ông Tập còn nhắc lại cam kết phát triển hòa bình, và Bắc Kinh sẽ "bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các công ty đầu tư nước ngoài phù hợp với khuôn khổ luật pháp". Đây đúng là những điệu nhạc du dương với giới đầu tư nước ngoài. "Trung Quốc sẽ không bao giờ đóng cửa với thế giới bên ngoài", ông Tập Cận Bình tuyên bố. Thế nhưng, khi các doanh nhân phương Tây trên đường trở về nhà, với hy vọng và lạc quan, thì ông Tập Cận Bình lại có một chuyến thăm khác tới đảo Hải Nam. Đó là căn cứ hải quân mới lớn nhất của Trung Quốc gồm cả một cảng ngầm che chở cho đội tàu ngầm của Bắc Kinh khỏi các vệ tinh do thám, thậm chí là tên lửa của Mỹ. Thách thức ưu thế Căn cứ ấy là biểu tượng và thực tế minh chứng cho sức mạnh trỗi dậy của Trung Quốc nhằm thách thức ưu thế của Mỹ trên các vùng biển. Truyền thông Trung Quốc dồn dập đưa tin về việc ông Tập đi thị sát hạm đội. Đây là chuyến thăm đầu tiên của ông tới một cơ sở quân sự kể từ khi chính thức đảm nhận cương vị chủ tịch Trung Quốc. "Ông Tập Cận Bình đã có nhiều lần khẳng định bản thân gắn liền với chủ nghĩa dân tộc", chuyên gia lâu năm về Trung Quốc David Shambaugh, giám đốc Chương trình chính sách Trung Quốc tại Đại học George Washington nói. Trong vòng một tuần trở thành lãnh đạo, ông Tập đã dẫn đầu ban Thường vụ Bộ chính trị đi thăm một triển lãm ở bảo tàng về "trăm năm xấu hổ và nhục nhã của Trung Quốc dưới tay các đế quốc phương Tây và Nhật Bản". "Với động thái này và những bài phát biểu", Shambaugh phân tích, "ông Tập đã rõ ràng gắn liền bản thân với chủ nghĩa dân tộc và thực hiện nhiều cách khác để báo hiệu một lập trường cứng rắn hơn trong chính sách đối ngoại cũng như an ninh quốc gia". Hầu như trong phát biểu nào ở những chuyến thị sát quân đội kể từ tháng 11 năm ngoái (khi ông Tập được bầu làm Tổng bí thư), ông đều thúc giục quân đội "sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng". Shambaugh nhấn mạnh: "Cá nhân ông Tập còn trực tiếp đứng đầu một nhóm lãnh đạo hàng hải, đặt ông vào vị trí trung tâm của lập trường cứng rắn Trung Quốc" trong các tranh chấp hàng hải với Nhật cũng như một số nước Đông Nam Á. "Mọi động thái ấy thể hiện sự mạnh mẽ hơn, quả quyết hơn và chủ nghĩa dân tộc hơn để tạo tiếng vang với người dân cũng như quân đội Trung Quốc". Dĩ nhiên, Mỹ không đứng thụ động quan sát. Họ hướng tới một kết quả tốt hơn trong quan hệ hai bên nhưng vẫn chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với một cuộc chiến tranh chiến lược được thiết kế để đối phó với sức mạnh trỗi dậy từ quân đội Trung Quốc. Chiến lược ấy khi công khai chút ít gọi là khái niệm Tác chiến Không Hải. Chiến lược bao gồm việc sử dụng các máy bay ném bom và tàu ngầm để đánh bại hệ thống rađa giám sát tầm xa và làm chệch hướng độ chính xác của hệ thống tên lửa. Cho tới khi quân đội đối phương “bị bịt mắt”, thì một cuộc tấn công hải quân và không quân lớn sẽ xảy ra. Quan trọng hơn là chiến lược ấy dựa trên giả định leo thang có thể được kiềm chế ở dưới ngưỡng hạt nhân. Chiến lược ấy có thể ngăn chặn ý muốn xâm lược của người Trung Quốc nhưng cùng lúc đó lại phải đối mặt với các thách thức từ khả năng leo thang hạt nhân. Nghĩa là Trung Quốc có thể cảm nhận được nỗ lực và sự tấn công của Mỹ nhằm giải giáp vũ khí hạt nhân của họ. Từ đó, Bắc Kinh không loại trừ xem xét chuyện phủ đầu hạt nhân. Sức mạnh mới của Trung Quốc xem ra mang lại những cơ hội to lớn, nhưng nguy cơ cũng thật đáng sợ. Thái An(theo Sydney Morning Herald) ================================ Không nằm ngoài nội hàm "Canh bạc cuối cùng" của Lão Gàn. Vấn đề còn lại chỉ là: Ai là bá chủ thế giới sau canh bạc này và nó sẽ kết thúc với phương thức như thế nào? Hay là:
    1 like
  4. Hãy cẩn thận thêm 30 giây! ======================== Tài xế ngủ gật, "xóa sổ" 10 thành viên một ban nhạc Chủ Nhật, 28/04/2013 11:25 (NLĐO) - 10 thành viên nhóm nhạc La Reyna de Monterrey, Mexico đã thiệt mạng trong vụ tai nạn giao thông thảm khốc trên đường cao tốc nối Nuevo Laredo với Monterrey ở miền Bắc Mexico vào ngày 27-4. Theo cảnh sát xác nhận, vụ tai nạn xảy ra vào khoảng 7-8 giờ sáng (giờ địa phương) còn làm 5 trường hợp khác bị thương và những người này hiện đang được điều trị tại một bệnh viện ở thành phố Salinas Hidalgo. Cảnh sát thu dọn thi thể, dọn dẹp hiện trường. Ảnh: Terra Mexico Điều tra ban đầu cho thấy tài xe chở nhóm La Reyne ngủ gật khiến xe va vào một xe tải sau đó “bay” qua làn đường khác trước khi đâm vào xe kéo rơ- moóc. Cú va chạm cực mạnh khiến nhiều thành viên nhóm nhạc văng từ trên xe xuống lề đường, chết tại chỗ. Được biết, phần lớn thành viên nhóm nhạc La Reyne có tuổi đời dưới 25. Một nguồn tin cho biết nhóm nhạc La Reyne gặp nạn trên đường trở về Monterrey sau đêm biểu diễn tại một quán bar ở Nuevo Laredo (Mexico) vào đêm 26-4. Các thành viên nhóm nhạc La Reyna de Monterrey Tất cả đều ở độ tuổi khá trẻ. Ảnh: Facebook Trong khi có thông tin khẳng định nhóm gặp nạn trên đường trở về sau chuyến lưu diễn tại Laredo thuộc bang Texas, Mỹ. Nguyên nhân vụ tai nạn thảm khốc trên tiếp tục được nhà chức trách Mexico điều tra làm rõ. Đăng Minh (Theo Before I’ts, ABC)
    1 like
  5. Đúng vậy! Đây là một phương pháp coi cao cấp nhất của Lý học.
    1 like
  6. Nhật Bản mơ cùng nắm tay Nga nhằm áp chế Trung Quốc Chủ Nhật, 28/04/2013 - 10:10 Trong bài viết ngày 26/04, tờ “Nihon Keizai Shimbun” (Gọi tắt là Nikkei) đã khẳng định, hiện nay quan hệ giữa Nga và Nhật Bản đã dần tan băng. Trước thềm cuộc hội đàm giữa nguyên thủ quốc gia của 2 nước vào cuối tháng này, người Nhật đã bắt đầu mơ... Cuối tháng này, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe sẽ có cuộc hội đàm với Tổng thống Nga Putin, động cơ thúc đẩy 2 nước tiếp xúc thân mật không gì khác, ngoài nguyên nhân là sự quật khởi của Trung Quốc. Nếu như Nhật - Nga nắm lấy tay nhau, bản đồ cán cân quân sự châu Á có lẽ sẽ phải vẽ lại, Mỹ và Trung Quốc đang hết sức chú ý đến điểm này. “Mỹ cũng hi vọng Nga và Nhật cải thiện quan hệ giữa 2 nước, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc trở nên quá mạnh ở khu vực châu Á và Viễn Đông, điều đó sẽ phá vỡ cục diện cân bằng trong khu vực, Nhật và Nga xích lại gần nhau sẽ ngăn chặn được cục diện này”. Một cựu quan chức quân sự cao cấp của Bộ Quốc phòng Mỹ, trước đây đã từng tham gia xây dựng chiến lược đối ngoại của Chính phủ Tổng thống Obama phát biểu. Trong quá khứ, Nhật đã từng rất nhiều lần truy đuổi máy bay Nga vì vi phạm không phận Tuy giữa Nga và Mỹ hiện nay cũng đang tồn tại rất nhiều mâu thuẫn, nhưng Chính phủ Mỹ cũng phải thừa nhận nếu mối quan hệ giữa Nga và Nhật ấm áp trở lại, sẽ có lợi rất nhiều cho hòa bình và ổn định ở châu Á, Mỹ cũng rất mong muốn vấn đề này sớm trở thành hiện thực. Điểm đặc biệt quan trọng đối với cả Nga và Nhật là khu vực Viễn Đông chiếm tới hơn 1/3 diện tích lãnh thổ Nga. Nếu như Nhật Bản đầu tư tiền bạc vào phát triển Viễn Đông sẽ giúp người Nga đánh bại ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực này, điều đó cũng góp phần nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của Nhật. Đương nhiên, người lo lắng về sự mất cân bằng trong tương quan lực lượng Nga - Trung chính là Nga, họ rất e ngại trước sự bành trướng thế lực của Trung Quốc. Điều mà Tổng thống Nga Putin chờ đợi trong chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Abe, chính là làm sao để ngăn chặn sự lớn mạnh của Trung Quốc. Một cái bắt tay giữa Moscow và Tokyo để khắc chế Bắc Kinh chính là điều mà điện Kremlin vô cùng mong muốn. Cái bắt tay giữa Tổng thống Nga Putin và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Sydney, Australia, tháng 8/2007 Viễn cảnh này đối với Nhật Bản quả thực là rất tươi sáng, nhưng người Nhật cũng nên nhớ rằng họ đang có tranh chấp lãnh thổ với Nga về vấn đề quần đảo Kuril và cũng không được coi thường Trung Quốc. Hiện Nga đang là thế lực trung dung lớn nhất và cũng là một trong những nước mạnh nhất thế giới, họ ngả về đâu thì thế lực của nơi đó sẽ lớn mạnh rất nhiều, nên Nga cũng đang nằm trong “tầm ngắm” của Trung Quốc. Để đánh vào kẽ hở giữa Moscow và Tokyo, Bắc Kinh cũng đã mở một cuộc tấn công quyết liệt bằng hàng loạt các động thái ngoại giao mà tiêu điểm của nó là cuộc viếng thăm Nga của Chủ tich Trung Quốc Tập Cận Bình, tiếp sau là chiến dịch tuyên truyền rầm rộ của các phương tiện truyền thông Trung Quốc về mối quan hệ nồng ấm giữa 2 nước. Một quan chức ngoại giao Nhật Bản đã phải thừa nhận: “Nắm tay Nga hiện cũng chỉ là một trong những nước cờ chiến lược của Tokyo. Chiến lược của Moscow rất khó hiểu, nó dường như là một con rắn 2 đầu luôn ngoảnh sang mọi phía. Hoàn toàn có thể xảy ra một kịch bản là đến một lúc nào đó, họ sẽ ngã vào vòng tay Bắc Kinh”. Theo Nguyễn Ngọc An ninh thủ đô ======================= Sứ viết: * Nếu "canh bạc cuối cùng" xảy ra, Nước Nga sẽ đồng minh với Hoa Kỳ. * Ngài Tập Cân Bình sang Nga sẽ nhận được sự ủng hộ của người Nga về bảo vệ hòa bình thế giới... * Chẳng bao giờ có chuyện này:
    1 like
  7. Mỹ điều “chim ưng biển” MV-22 tham gia tập trận với Hàn Quốc Thứ bảy 27/04/2013 13:00 (GDVN) - Chỉ huy Lực lượng hỗn hợp Mỹ - Hàn hôm nay cho biết, Hàn Quốc và Hoa Kỳ đã phối hợp tổ chức một cuộc tập trận hậu cần trên bờ biển phía đông có sự tham gia của máy bay “chim ưng biển” MV-22. MV-22 Là một phần của cuộc tập trận Foal Eagle, sẽ kết thúc vào cuối tháng nay, các lực lượng Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ - Hàn đã tiến hành một cuộc tập trận hậu cần gần phía đông thành phố cảng Pohang. Ba máy bay hạ và cất cánh thẳng đứng (VTOL) từ trạm không quân Futenma ở Okinawa, Nhật Bản đã được điều đến Hàn Quốc để tham gia chiến dịch tập trận hỗ trợ hậu cần ven biển (CJ-LOTS) diễn ra từ ngày 18/4 đến 28/4. Đây là lần đầu tiên máy bay tilt-rotor (may bay cánh quạt cất cảnh thẳng đứng) tham gia vào các cuộc tập trận trên bán đảo Triều Tiên kể từ sau đợt triển khai gây nhiều tranh cãi tại Okinawa hồi tháng 11 năm ngoái do một loạt các vụ tại nạn xảy ra ở nước ngoài có liên quan tới máy bay này và sự phản đối gay gắt từ phía người dân địa phương. Lính Mỹ-Hàn tập trận ở Pohang hôm 26/4. “Cuộc tập trận hải quân nhằm mục đích cải thiện khả năng tương tác hậu cần, thông tin liên lạc và hợp tác giữa Mỹ và Hàn Quốc”, theo trang web USFK. Trực thăng MV-22 Osprey biến thể của Thủy quân Lục chiến là một phương tiện vận chuyển binh lính, trang thiết bị và vật tư, có khả năng vận hành từ các tàu chiến hoặc các sân bay viễn chinh trên bờ. Kể từ khi đồng hành cùng Thủy quân lục chiến và Không quân Hoa Kỳ, chim ưng biển MV-22 đã được triển khai tới Iraq, Afghanistan và Libya tham gia nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm chiến đấu và hoạt động giải cứu Khói bốc lên từ khu vực tập trận của quân đội Mỹ-Hàn tại Pohang hôm 26/4. Trong bối cảnh cuộc tập trận kéo dài hai tháng dự kiến sẽ kết thúc vào cuối tuần này, nhiều quan chức quân sự tại Seoul đang dồn sự chú ý vào một sự thay đổi quan trọng trong những lời lẽ thù địch của Bắc Triều Tiên khi nước này đưa ra danh sách các điều kiện để xem xét nối lại đàm phán với Seoul và Washington, bao gồm việc rút lại các lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc và cam kết chấm dứt tập trận chung Mỹ-Hàn. Seoul và Washington nói rằng các cuộc tập trận chung chỉ mang tính chất phòng thủ, và nhấn mạnh rằng họ không có ý định xâm lược Bắc Triều Tiên. Hiện nay có khoảng 28.500 lính Mỹ đang đồn trú tại Hàn Quốc như một sự răn đe đối với Bắc Triều Tiên, một di sản của Chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953 mới chỉ kết thúc bằng một thỏa thuận ngừng bắn chứ không phải hiệp ước hòa bình. Đinh Giang (nguồn Yonhap) ===================== Từ năm 2008, Trung Quốc đe doa tấn công Việt Nam, rồi khi tàu Bình Minh bị cắt cáp,Lão Gàn đã tiên đoán một kết cục không mấy tốt đẹp cho Trung Quốc. Ma đưa lối, quỷ đưa đường. Cớ sao tìm lối đoạn trường mà đi?
    1 like
  8. Bài này của ông Trần Đại Sỹ. Có trong diễn đàn mình rồi chú. Link: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/6771-thu-tim-lai-bien-gioi-co-cua-viet-nam-giao-su-tran-dai-sy/
    1 like
  9. Để chuyển qua một chủ đề liên quan đến biên giới nước Việt cổ - Văn Lang, tôi kết luận về chủ đề này như sau: - Vua An Dương Vương là bộ chủ Vân Nam. - Cuộc chiến chống quân Tần đã xảy ra tại Lạc Việt (Bắc Việt Nam). Trong khi rút chạy, sau thất bại bởi kế thanh dã... đã phá hủy kinh đô nước Việt là Bạch Long Thành - vị trị Thăng Long thành hay Hà Nội ngày nay - Bạch Long là biểu tượng của Lạc Long Quân. - Sự tồn tại của Loa Thành khẳng định sự tồn tại một kinh đô của Văn Lang như trên. Loa Thành - biểu tượng lấy tên con "Ốc - phương Đông" tức Kinh Dương Vương. Làng Cả Phú Thọ không bao giờ là kinh đô Văn Lang được. - Triệu Đà là người nước Triệu bôn ba tới Lạc Việt sau khi Triệu bị Tần diệt, và tới kinh đô Văn Lang trước khi quân Tần tấn công Văn Lang. - Mỵ Châu và Trọng Thủy có một người con trai chính là Triệu Văn Đế - Triệu Dương. - Đền Chèm thời Mỵ Châu - Trọng Thủy: thuộc Hà Nội ngày nay, là một chứng cứ lịch sử còn tồn tại hàm ý kinh đô Văn Lang nơi đây, cũng như Loa Thành. - Còn một chứng cứ tuyệt vời khác về Bạch Long Thành: tôi sẽ đưa lên khi có dịp trong chủ đề tiếp theo. - Chúng ta còn chưa khám phá ra lăng mộ Triệu Vũ Đế, Mỵ Châu Trọng Thủy, vua An Dương Vương... nên chờ sự kiện xuất hiện trong tương lai nữa. - Văn Lang thời Tần gồm: Quý Châu, Vân Nam, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Lạc Việt, Nhật Nam... và một số bộ đã tự trị trong giai đoạn này như Lào, Thái Lan... - Vùng Trường Sa, Giang Tây và Chiết Giang thuộc Văn Lang nhưng bị mất thời giặc Ân Thương: Thánh Gióng tấn công đến Vũ Ninh - Giang Tây và ngài đã hóa Thánh. Sau này vua Hùng Vương VI không tổ chức chiến tranh để lấy lại những bộ này. Chúng tôi sẽ xây dựng chủ đề: Biên giới phía Nam nước Việt cổ - HỒ TÔN TINH trong sự liên quan với chủ đề này. Trân trọng. -
    1 like
  10. Ấn tượng trong tuần Liêm sỉ và... xã hội đen 27/04/2013 02:00 GMT+7 - Con người vốn là động lực phát triển, nhưng cũng là... mầm mống tai họa xã hội. Những ngày này, thế giới vừa chứng kiến một chấn động mạnh của nước Mỹ. Hai anh em nhà Tsarnaev- nghi phạm đánh bom khủng bố tại Boston, kẻ bị chết, kẻ bị bắt và nay mai sẽ phải hầu tòa. Giờ là lúc dư luận lắng xuống bởi những câu hỏi, chuyển từ "kẻ nào" sang"tại sao"? Trước một vụ việc tội ác, động cơ kẻ phạm tội bao giờ cũng được đặt ra. Còn trước sự suy thịnh, hưng vong của xã tắc, quốc gia, phẩm cách con người bao giờ cũng được đề cập đến. Những tháng năm thật buồn... Mới đây, Cổng TTĐT Chính phủ có bài viết của GS. TS Hoàng Chí Bảo, Ủy viên Hội đồng Lý luận TƯ mà chủ đề bài viết khiến dư luận giật mình, quan tâm sâu sắc: Đã đến lúc cần giáo dục liêm sỉ. Liêm sỉ, theo Hán Việt từ điển giản yếu (Đào Duy Anh- NXB Văn hóa- Thông tin, 2005) là "liêm khiết, biết điều sỉ nhục", là bản tính trong sạch quyết không làm điều phải xấu hổ. Còn theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng (Như Ý- NXB Giáo dục), liêmsỉ là bản chất trong sạch, ko vướng vào điều tủi hổ. Đương nhiên, đối ngược với liêm sỉ là vô liêm sỉ, là con người ta làm những điều đáng hổ thẹn, nhưng không hề hổ thẹn. Nói theo cách nói của giáo dục, là mất nhân cách, không coi trọng danh dự, không biết hổ thẹn là gì. Suy ngẫm kỹ, thấy cái chủ đề bài viết Đã đến lúc cần giáo dục liêm sỉ là... hơi muộn. Vì liêm sỉ- biết xấu hổ, phải là ý thức, là thái độ sống con người được dạy dỗ từ bé thơ cho đến khi trưởng thành. Không chỉ bằng những tấm gương của các bậc tiền nhân, bằng trang sách, mà còn bằng những câu thành ngữ của trang đời, của cha ông tự ngàn xưa để lại, thâm thúy và thấm thía: Đói cho sạch/ rách cho thơm; Giấy rách phải giữ lấy lề; Thật thà là cha quỷ quái... Thế nhưng vì sao, bài viết của vị GSTS Hội đồng Lý luận TƯ lại xới lên một vấn đề tưởng chừng như nằm sâu trong ý thức sống của người Việt? Bởi liêm sỉ hiện đang là của quý và hiếm? Hay bởi xã hội hiện đại ngày nay, có những "đồng dao" còn tuyệt vời hơn cả... liêm sỉ: Tiền là Tiên, là Phật/ Là sức bật tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già/ Là đà cho danh vọng/ Là lọng của nịnh thần/ Là cán cân công lý/ Tiền là hết ý... Mới đây, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi "lui về ở ẩn" tại quê nhà, vừa cho ra mắt bài thơ có những câu thơ thấm đẫm nghĩ ngợi với rất nhiều dấu hỏi: Đất nước những năm thật buồn/ Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt/ Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành/ Như kẻ khát nước qua sa mạc... ...Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành/ Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội/ Có còn bay trong đêm/ Sớm mai còn giữ được màu đỏ? Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng/ Mong gặp một con cá hanh khác? Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường/ Thấy mọi người nhẹ nhàng vui tươi? Đặt bài viết của một vị GSTS chuyên làm lý luận, bên cạnh bài thơ của một nhà thơ, liệu có thấy một thông điệp chung nào không, về chủ đề liêm sỉ? Cũng không phải chỉ có nhà thơ (mà trong ông, có cả nhà thơ vốn sống bằng trực cảm, cũng lại có cả nhà chính trị quá dày dạn chính trường) mới thấy Đất nước những tháng năm thật buồn. Xã hội, người dân, và ngay cả người viết bài này, từ lâu rồi, đã thấy thật buồn. Nỗi buồn của sự day dứt, sự đơn độc của cái tốt, sự... bất lực và cả sự hèn kém. Trước đó khá lâu, tháng 6/2012, vị lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng trong cuộc gặp gỡ cử tri quận Ba Đình đã phải buồn rầu: Hiện tượng tham nhũng, hư hỏng, nhìn vào đâu cũng có... Không buồn sao được, khi những quan chức, cán bộ cốt cán có trách nhiệm lớn trước nhân dân, trước xã hội, nhưng lời nói và hành vi của họ trái ngược "nói zậy,không phải zậy", như tốt/ xấu, trắng/đen, hay/ dở... Chủ tịch tỉnh miền núi nghèo nhất nhì nước- tham gia vào đường dây mua bán dâm học trò, nhưng lại thao thao bất tuyệt rao giảng đạo đức. Và còn những vị nào nữa...? "Hiện tượng tham nhũng, hư hỏng, nhìn vào đâu cũng có...". Ảnh minh họa Một ông Chủ tịch tỉnh khác, cho đến các vị quan chức cốt cán của tỉnh đó, vừa phải trả lại 25 tỷ đồng trót bỏ túi vì những hành vi, quyết định sai trái, khi lợi dụng chức quyền? Rồi hàng chục ông quan chức và cán bộ Vinakhủng, làm thất thoát tới 4 tỷ USD tiền vay nợ nước ngoài, đưa Vinakhủng lên thành "biểu tượng" của chính sách "tập đoàn kinh tế thua lỗ"? Hàng chục "quan chức- đại gia" của ngành ngân hàng bị bắt, bị khởi tố vì lợi dụng và cố ý làm trái quy định của luật pháp, gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng, ảnh hưởng an ninh tiền tệ, gây bất ổn chính sách tiền tệ của Nhà nước... Không buồn sao được trước cái hội chứng gian dối trắng trợn của ngành giáo dục, được xã hội gọi một cách văn vẻ là bệnh thành tích. Trước cái hội chứng ăn tiền của ngành y tế, mà khoảng cách từ chiếc phong bì đến cái khẩu hiệu biến tướng "lương y đang... từ mẫu" lại rất gần. Hai ngành giáo dục- y tế, vốn là những ngành nhân bản nhất của xã hội- dạy người và trị bệnh cứu người, nhưng "ngành cách" cũng lại đang cần chữa trị, thì người dân, trẻ em Việt sẽ trông vào đâu, để sống và lớn lên có liêm sỉ? Liêm sỉ không có hình hài, nhưng lại được định tính, định lượng, định hình rất rõ? Sự thiếu vắng liêm sỉ, xấu hổ thay, có khi trở thành... bình thường, như phẩm cách công chức, mà người ta đã điều tra và tổng kết, có tới 30% số công chức ăn không ngồi rồi, có làm việc cũng như không. Đôi khi, nó còn là hình ảnh quan chức lặc lè, phì nộn khiến người dân thấy bất bình, phản cảm, đặt bên cạnh hình ảnh trẻ em nghèo nhiều vùng còn đói ăn, đói chữ. Có khi, nó nhức nhối như điều tra xã hội học mới đây: "Kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn" (Chủ nhiệm đề tài- ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục Chống tham nhũng- thanh tra Chính phủ), cho thấy thu nhập ngoài lương của 79% cán bộ có chức quyền tăng và đến từ nhiều nguồn. Đặc biệt, có những khoản thu nhập nhạy cảm, dễ liên quan tham nhũng như tiền được chia từ các khoản hoa hồng, quỹ riêng của đơn vị, tiền được biếu, tặng... Liêm sỉ của người Việt, không còn là hành vi đơn lẻ của cá nhân người đó, mà nó liên quan đến những thăng tiến, phát triển hay họa hại của cả một xã hội, cả một quốc gia. Người ta còn chưa quên cái chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2012 (CPI) hổ thẹn, xót xa được Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố. Ở đó, Việt Nam đứng thứ 123/ 176 quốc gia, vùng lãnh thổ, tụt hẳn 11 bậc so với năm ngoái. Điểm đáng chú ý, ở những quốc gia "sạch" vào loại nhất, nhì thế giới, như Đan Mạch, Phần Lan và New Zealan đều nhờ có sự công khai, minh bạch hóa thông tin, có những quy định rạch ròi điều chỉnh hành vi các quan chức nắm hệ thống công quyền. Dù vậy, liêm sỉ con người không chỉ giáo dục bằng giải pháp tự phê bình và phê bình như vị GSTS của Hội đồng Lý luận TƯ đề xuất. Hay như ước mong của nhà thơ: Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má/ Không phải gạt vội vì xấu hổ/ Ngước mắt tin yêu mọi người/ Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta/ Trong khônggian đầy sợ hãi? Bởi nơi thì quá duy ý chí, nơi thì cô đơn và bất lực. Liêm sỉ của con người chỉ có thể được giáo dục, được nảy nở, hình thành trên một nền tảng thiết chế chính trị- xã hội thay đổi theo hướng văn minh, khoa học và ? bạch hóa, phù hợp quy luật thực tiễn và hội nhập hiện đại. Ở đó, giáo dục tôn trọng cá tính, bản ngã cá nhân và khuyến khích sự sáng tạo của mọi con người. Ở đó, quan chức "nói đi đôi với làm", pháp luật không bị... cầm tay chỉ việc, được thượng tôn. Pháp luật và chỉ pháp luật mà thôi! Liêm sỉ không chỉ là thuộc tính riêng của cá nhân. Nó còn được hình thành và mang tính cộng đồng sâu sắc trong một xã hội, mà nền tảng Hiến pháp thực sự tiến bộ, mang tầm lịch sử của thời cuộc mới, không phải bằng những khẩu hiệu đầy mỹ từ, mà bằng sự hiến định cụ thể, được dân thừa nhận... Bởi, nói như GSTS Hoàng Chí Bảo, có dân thì có tất cả, mất dân là mất tất cả. "Đỏ" và "đen" Chuyện liêm sỉ của một bộ phận không nhỏ quan chức, đảng viênsuy thoái đang là nỗi nhức nhối của xã hội, thì câu chuyện cán bộ chính quyền cơ sở ...bảo kê cho xã hội đen được báo chí khui ra ánh sáng mới đây, khiến cho vấn đề liêm sỉ một bộphận không nhỏ cán bộ, đảng viên càng trở nên SOS hơn bao giờ hết. Khái niệm xã hội đen là cụm từ chỉ một nhóm những kẻ hoạt động tội phạm có tổ chức, hoạt động trong thế giới ngầm, nhưng lại tác động ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Những năm trước đây, người Việt từng biết đến xã hội đen qua những bộ phim nổi tiếng của Italia, của Hồng Kông... Còn nay, đến người nông dân một nắng hai sương hay những doanh nghiệp làm ăn ở Khoái Châu (Hưng Yên), ở Sài Gòn, bỗng nhiên thấy mình như những diễn viên... bất đắc dĩ trong những "bộ phim" tự phát, mà ở đó, cuộc sống mưu sinh của họ được quyết định không phải bởi lao động của họ, mà bởi những kẻ giang hồ, bởi xã hội đen, rất ngang nhiên, công khai và trắng trợn. Cái kết cục của "bộ phim" khá có hậu: Đó là gần chục đối tượng đầu sỏ trong băng nhóm tội phạm (khoảng 100 tên) chuyên hoạt động theo kiểu xã hội đen tại địa bàn huyện Khoái Châu vừa bị Cục Cảnh sát hình sự (Bộ Công an) bắt giữ, cùng với nhiều loại hung khí băng nhóm này chuyên sử dụng để làm ăn. Một số tang vật thu được trong vụ án xã hội đen tại Khoái Châu Cách làm ăn của băng nhóm xã hội đen này cũng không mới: Đó là thâu tóm địa bàn hoạt động, đòi các doanh nghiệp nộp tiền "bảo kê" hàng trăm triệu đồng cho chúng. Bên cạnh đó là các hoạt động phi pháp, manh động như tổ chức cá độ, đánh bạc, cưỡng đoạt tài sản và đòi nợ thuê... Sự yên ổn làm ăn của các doanh nghiệp, của người dân hóa ra không phụ thuộc vào luật pháp Nhà nước đã quy định, mà phụ thuộc rất lớn vào... luật rừng. Điều đáng nói, là sự cầu cứu hay tố cáo của các doanh nghiệp ở địa bàn này gửi lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền của huyện đã chỉ gặp sự im lặng là vàng- tiền bạc? Chả lẽ, chính quyền cơ sở huyện Khoái Châu, các ngành chức năng của huyện này, trở thành "cánh tay nối dài" cho băng đảng xã hội đen ngang nhiên quản lý? Đến mức, nỗi nghi ngờ của người dân, của các doanh nghiệp ở Khoái Châu đã thành tít của một loạt các bài báo "Tội phạm "xã hội đen" lộng hành: Có hay không sự bảo kê? (VTV News, ngày 20/4), Thế lực nào bảo kê cho băng xã hội đen? (LĐ, ngày 23/4). Còn người nông dân thì bất bình: Bức xúc nhất của người dân hiện nay là ai đứng đằng sau? Ai che chắn, ai bênh vực, ai bị nó khống chế, bịt mồm, dây dợ với nó để cho bọn nó hoạt động công khai? Ai? Có lẽ chỉ chính quyền huyện Khoái Châu là có thể trả lời chính xác nhất cho người dân, cho dư luận xã hội những câu hỏi đáng hổ thẹn này. Khi cái "bộ phim" xã hội đen ở Khoái Châu tạm thời... The End, là lúc hàng loạt câu hỏi cần mở ra. Vì sao, nói như ông Hồ Sỹ Tiến, Đại tá, Cục trưởng Cục Cảnh sát hình sự (Bộ Công an): Băng nhóm của "Tú khỉ" hoạt động công khai, trắng trợn như thế trong suốt một thời gian dài, người dân ở khu vực đấy rất bức xúc, mà chính quyền cơ sở không biết được? Vì sao, Trưởng Công an xã Đông Ninh bị nhóm côn đồ chém, viết đơn tố cáo rồi lại phải viết đơn xin rút? Phải chăng, vì ông này một mình... không chống lại nổi mafia? Vì sao, kết luận của Thanh tra tỉnh giao UBND huyện Khoái Châu xử lý những cán bộ sai phạm, huyện vẫn "ngâm" cả ba năm trời? Anh em nhà Tsarnaev đánh bom khủng bố người Mỹ, nước Mỹ đã không còn nơi ẩn nấp. Tiếc thay, băng đảng xã hội đen như của "Tú khỉ" khủng bố tinh thần doanh nghiệp, người dân, lại có nơi trú ẩn? Mới đây lại xảy chuyện côn đồ hành hung người dân xã Đại Thắng (Tiên Lãng- Hải Phòng) xung quanh chuyện đất đai. Chữ liêm sỉ ở đây, liệu chỉ cần được giáo dục bằng ...rút kinh nghiệm nội bộ, phê và tự phê như thường thấy. Hay cần có các biện pháp xử lý bằng luật pháp nghiêm khắc, mang tính răn đe? Chợt nhớ bài thơ Đất nước những năm tháng thật buồn. Như một tiếng kêu bi thương! Kỳ Duyên ================== Lần trước, có một ông bàn về "Lễ", phát biểu rằng thì là: "Lễ" là đặc sản của Tàu! Bỏ! Người thì bảo "Lễ rất cần thiết! Giữ lại!". Nhưng rút cục "Lễ" là cái "khỉ gió" gì thì...Hổng bít lun! Hệ wả của cái "hồng bít lun" ấy là chẳng còn thấy trường nào trương cái slogan "Tiên học Lễ , hậu học Văn" nữa!. Bây giờ lại bàn đến "Liêm sỉ" với dẫn chứng của ông Đào Duy Anh - đã dẫn. Loanh quanh một hồi "mồm bò, chẳng phải mồm bò. Nhưng lại là mồm bò" . "Liêm sỉ" cuối cùng cũng chỉ là một khái niệm ....huyền bí! Híc! Đúng là bùn wá! Này! Nghe Lão Gàn nói đây: "Liêm" là sự tự giới hạn, "Sỉ" là sự tự thấy cao quý. Không hiểu thì ra trang web khác mà phản biện chê bai Lão Gàn nhá!
    1 like
  11. Ngâm chân nước ấm hơn mua thuốc ẩm. Mỗi tối dùng nước ấm ngâm chân là một biện pháp dưỡng sinh tốt nhất, không chỉ là sự chăm sóc cho lục phủ ngũ tạng sau một ngày mệt mỏi, mà còn giúp ngủ ngon, tăng sức miễn dịch của cơ thể. Song người ta lại quen tắm toàn thân, làm cho đại bộ phận máu chảy xuống tứ chi, khiến nội tạng và não thiếu máu. Điều này đối với những người đang quá mệt hay cơ thể suy nhược sẽ dễ bị choáng đầu, hốt hoảng và các biến chứng khác. Nếu thay bằng ngâm chân vào xô cao đựng nước ấm sẽ làm thư giãn kinh lạc của bàn chân và ống chân, sẽ làm tăng nhanh sự tuần hoàn máu khắp toàn thân, cung cấp tốt máu cho não, tim và các khí quan khác, có tác dụng rõ ràng điều tiết huyết áp. Do tăng ấm, thân thể sẽ ra mồ hôi nhẹ, thải hàn thấp và phế vật trong cơ thể ra, làm thông kinh lạc, điều tiết nhiệt độ cơ thể, hạ hư hỏa. Bởi vậy tôi khuyên mỗi người sau một ngày đằng đẵng nên dành ra 30 phút để ngâm chân nước ấm, 30 phút nhỏ nhặt này nếu kiên trì hàng ngày sẽ giúp bạn ít mắc bệnh, thân thể khỏe mạnh. Công cụ để ngâm chân là xô nhựa cao. Thời khắc ngâm chân là phải từ 30 phút sau khi ăn cơm xong, tốt nhất là trước khi đi ngủ vì ngâm chân xong ngủ sẽ rất ngon giấc. Đối với người già nhàn hạ thì tốt nhất là lúc 3-5 giờ chiều vì lúc đó khí trong đường kinh của bàn chân đang vượng nhất sẽ có hiệu quả bổ thận tốt nhất.Thời gian ngâm dài ngắn đối với mỗi người mỗi khác, thường là ngâm đến khi cơ thể rịn mồ hôi là được. Sau khi ngâm xong phải uống nhiều nước để bổ sung nước kịp thời. Có người ngâm cho đến lúc đổ mồ hôi hột ướt cả áo, như vậy không tốt mà là có hại, lâu như vậy có thể làm cơ thể suy nhược. Nếu là trường hợp đang bị cảm mạo thì vừa ngâm chân vừa uống nước gừng tươi pha đường đỏ để cho cơ thể sản sinh nhiệt bài trừ hàn thấp ra ngoài. Nhiệt độ của nước ngâm chân tùy theo sức chịu nóng của mỗi người, lúc mới bắt đầu ngâm thì thấp một chút, sau tăng ấm dần lên cho đến khi khắp người rịn mồ hôi thì dừng tăng ấm. Có người khi ngâm lại không dễ ra mồ hôi, đó là do trong cơ thể bị hàn thấp quá nặng, chỉ cần kiên trì ngâm thì dần dần tiêu trừ được hàn thấp trong cơ thể, về sau rất dễ rịn mồ hôi. Có người khi ngâm chân cảm thấy khó chịu, ngâm lâu tí cảm thấy tức ngực, choáng đầu, đó là do nhiệt độ nước cao làm cho mạch máu hai bàn chân dãn nở, máu toàn thân chảy xuống chi nhiều hóa ra lại cung cấp cho tim, óc, thận không đủ. Những người này là những người đang bị bệnh máu suy nhược, ngâm chân hay tắm đều bị hiện tượng trên, do vậy họ chỉ nên ngâm không để lâu, đồng thời hàng ngày nên ăn uống đầy đủ các món ăn bổ máu, bổ thận để cải thiện tình trạng thiếu máu một cách cơ bản. Kiên trì làm vậy khoản nửa tháng đến một tháng thì sẽ không còn phản ứng như trên nữa, sau đó từ từ kéo dài thời gian ngâm lâu hơn, tăng thêm độ ấm cho đến khi dễ rịn mồ hôi. Người có bệnh tiểu đường nhiều báo nói ngâm chân dễ làm đường trong máu tăng cao. Kỳ thực người tiểu đường là loại cơ thể thiếu máu, bởi vậy không thích hợp ngâm mỗi lần lâu, chủ yếu là họ phải tích cực ăn bổ máu. Ngoài ra đa số người tiểu đường đều có chứng âm hư hỏa vượng, có thể thực hiện sau khi ngâm chân xong xoa bàn chân 50-100 lần, kiên trì hàng năm sẽ hạ hư hỏa. Nước ngâm chân tốt nhất là không pha thêm thuốc gì cả, vì nước ấm sẽ làm thuốc thẩm thấu vào người có thể gây tác dụng phụ tiêu cực. Tuyệt đối không pha muối vì sẽ làm hại thận, gây toàn thân phù thũng, làm nặng thêm bệnh thận nếu đang bị. Đối với người trong cơ thể bị hàn thấp nặng có thể pha thêm lá ngải nhưng không nên nhiều lần, có thể tuần 1-2 lần với nắm nhỏ lá ngải là vừa. Người bị cước chân có thể pha thêm dấm để tiệt khuẩn. Đối với người trẻ tuổi có thể bỏ hòn đá hình trứng vào xô, vừa ngâm chân vừa lăn mát xa lòng bàn chân càng tốt, nhưng với người già và người bệnh thì không nên làm thế vì sẽ làm máu xuống chân quá nhiều lại thiếu trên não và tim, ngược lại với người già thì vừa ngâm chân vừa xoa bóp hai vai cho máu lên não là tốt. Đối với người đốt sống cổ không tốt thì khi ngâm chân đồng thời ngâm cả tay, nhiệt sẽ làm cho đốt sống cổ cũng như vai ,eo, vận động sẽ cảm thấy dễ chịu, thư dãn, sau đó đi ngủ sẽ cảm thấy đặc biệt dễ chịu. Lâu dần như vậy sức đề kháng miễn dịch của cơ thể dần dần khôi phục, tăng cường. Đối với trẻ em không cẩn thiết ngâm chân, chỉ rửa chân là đủ, vì ngâm chân mục đích là để cho máu tuần hoàn, bổ dương khí, mà trẻ em thì cơ thể chúng là thuần dương rồi. Riêng đối với trẻ em suy nhược, tay chân thường lạnh, thì mùa đông có thể cho ngâm chân; hoặc đối với trẻ em bị cảm lạnh xong cũng cần phải ngâm chân. Tôi đã quan sát nhiều năm, chỉ cần kiên trì ngâm chân đồng thời chú ý trị liệu bằng ăn uống, những người đó rất ít bị mắc chứng mạch máu não hay tim. Bởi vì mỗi ngày ngâm chân nước ấm làm cho máu tuần hoàn nhanh, hàn thấp trong cơ thể bị bài xuất, thêm với đồ ăn bổ máu, người ta không còn lý do gì để mà mắc bệnh. Bài “Ngâm chân nước ấm còn hơn mua thuốc ẩm ” là trích từ bài “Tiến hành đông y đến cùng” của NXB Văn Sử Cát Lâm, ông Hồ Duy Lặc chỉnh lý. Người xưa nói “Người già, bàn chân già trước tiên”. Dưỡng sinh đông y đặc biệt coi trọng bàn chân. Bởi vì trong sự phân bố kinh lạc của cơ thể thì bàn chân chiếm cứ một địa vị quan trọng. Mười hai đường kinh lạc thì có sáu đường hội tụ tại bàn chân, đó là: “Túc thái dương Bàng Quang kinh”, “Túc dương minh Vị kinh”, “Túc thái dương Đởm thuyên” ( ba đường kinh lạc này gọi chung là Túc Tam Dương, kinh khí chảy từ đầu đến bàn chân, từ trên xuống dưới), “Túc thái âm Tỳ kinh”, “Túc quyết âm Can kinh”, “Túc thiếu âm Thận kinh”( ba đường kinh lạc này gọi chung là Túc Tam Âm, kinh khí vận động từ dưới lên trên, từ bàn chân lên đến bụng). Mọi người cảm thấy vận động của kinh lạc phức tạp quá, thật khó hiểu. Vậy thì chúng ta có thể căn cứ vào tên gọi. Người xưa rất trọng thị cái tên. Khổng Tử nói rằng “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Danh tự không thể đặt tùy tiện, nó là một sự khái quát cao độ cái nội dung. Sáu đường kinh lạc này có riêng chứa Bàng Quang, Vị, Đởm, Tỳ, Can, Thận. Điều đó nói lên sáu đường kinh lạc này liên hệ mật thiết với sáu khí quan, tức sáu khí quan đó liên hệ mật thiết với bàn chân. Thấy rõ là bàn chân tuy ở vị trí đoạn chót của cơ thể nhưng không hề là “biên thùy tiểu trấn” chẳng quan trọng gì, chúng ta đừng có bao giờ dại dột đánh giá thấp giá trị sức khỏe của nó. Kỳ thực bách bệnh bắt đầu từ chân, rất nhiều bệnh tật đều là từ bàn chân mà bắt đầu. Dân gian có câu “Nam sợ đi giày, Nữ sợ đội mão”, kỳ thực Nam Nữ gì cũng đều sợ bàn chân bị thũng như là mang giày, bởi nó chứng tỏ tạng phủ có vấn đề. Sách Nội Kinh có nói “Duy hiền nhân, thượng phối thiên, dĩ dưỡng đầu, hạ, tượng địa, dĩ dưỡng túc, trong, bàng nhân sự, dĩ dưỡng ngũ tạng”. “Hạ, tượng địa, dĩ dưỡng túc” nghĩa là “Dưới thì giống như đất mà nuôi lấy cái chân”, tức là giống như thủy khí của trái đất mà điều dưỡng bàn chân của mình. Chúng ta đều biết rằng kênh nước ở mặt đất qua chiếu rọi của mặt trời bốc lên thành hơi nước, sau đó biến thành mưa lại rơi xuống đất. Nếu hơi nước giữa trời đất mà ngưng sự tuần hoàn lên trời xuống đất thì làm gì còn mưa, thế giới sẽ bị hạn hán. Muốn hơi nước bốc được lên trời chỉ có cách duy nhất là phải có độ ấm. Tuần hoàn của khí huyết trong nhân thể cũng vậy. Nếu bàn chân của người bị lạnh, khí huyết sẽ ngưng kết ở bàn chân, tuần hoàn lên xuống của khí huyết bị tắc, ắt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của nội tạng, cụ thể là nó ảnh hưởng đến Bàng Quang, Vị, Đởm, Tỳ, Can và Thận. Muốn cho khí huyết tuần hoàn thông sướng, biện pháp tốt nhất là ngâm chân nước ấm, giúp bàn chân giữ được độ ấm nhất định. Bởi vậy dân gian mới có câu “Nước ấm ngâm cái cước, Còn hơn uống bổ dược”. Mùa đông ngâm chân nước ấm giúp cho đan điền ấm. Đan điền là ở phần bụng dưới, là nơi cất chứa dương khí. Mùa đông trước khi đi ngủ ngâm chân nước ấm 48 độ sẽ cảm thấy một luồng ấm từ bàn chân đưa lên bụng. Người xưa có câu “Đông thiên tiến bổ, Xuân thiên đả hổ” ý là mùa đông chú ý bồi dưỡng sức khỏe, sang xuân có thể vật được cả hổ. “Đông thiên tiến bổ” thực tế ở đây là mùa đông phải giữ được dương khí trong con người, mà cách đơn giản nhất nhưng hiệu nghiệm nhất lại là ngâm chân nước ấm. Mọi người đừng có cho là sao cái biện pháp này nó quá đơn giản. Chân lý thường là vậy đấy, vật càng đơn giản thì giá trị của nó lại càng lớn. Tôi từng khám bệnh cho một phụ nữ 40 tuổi, cử chỉ rất nho nhã ,nói năng rất lịch sự, là TGĐ một công ty du lịch, bệnh là cứ đến mùa thu đông là tay chân lạnh buốt như là không có máu tới, cả người cứ như cứng đờ, mà năm nào cũng khám định kỳ, mọi chỉ tiêu sức khỏe đều bình thường. Tôi bắt mạch phát hiện bệnh cô ta là điển hình về thận dương suy tổn, tuy chưa đến mức biến chứng nặng. Tôi khuyên uống một ít bát vị địa hoàng hoàn. Cô ta nói thuốc dù sao cũng là có ba phần độc, có cách nào không dùng thuốc không. Tôi nói vậy thì dùng cách ngâm chân nước ấm, nhưng nấu chút hồng hoa thảo, hồng hoa vị đắng tính ôn, thông kinh hoạt huyết, tốt cho gan kinh và tâm kinh. Nhưng cách này chậm, phải kiên trì, mỗi tối hàng ngày ngâm chân nước ấm. Cô ta đã kiên trì ba năm liền, không những bệnh lạnh tay chân khỏi hẳn mà trong ba năm đó cô ta không hề bị bệnh gì khác phải uống thuốc. Dưỡng sinh chỉ đơn giản là như vậy thôi, quan trọng là bạn có quyết tâm làm một việc đơn giản kiên trì trong ba năm. Nguồn: Mạng Trung Quốc
    1 like