-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 22/02/2013 in all areas
-
Lời Tiên Tri 2013
hoctronho and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Khủng hoảng kinh tế vào cuối năm 2013..... =================== Nhật - Mỹ tăng cường liên minh Thứ Năm, 21/02/2013 22:32 Ưu tiên số 1 của Thủ tướng Nhật Bản trong chuyến thăm Mỹ là sửa chữa một liên minh đã bị sứt mẻ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sẽ tìm cách sử dụng quan hệ liên minh Mỹ - Nhật một cách hiệu quả nhất trước mối đe dọa tiềm tàng từ một Triều Tiên có hạt nhân và một Trung Quốc lấn lướt khi ông gặp Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày 22-2. Thủ tướng Shinzo Abe tham dự phiên họp của Ủy ban Ngân sách Hạ viện Nhật Bản ngày 19-2. Ảnh: REUTERS Cần sự đồng thuận với Abenomics Abe, người giữ được sự tín nhiệm cao kể từ khi ngồi vào chiếc ghế thủ tướng hồi tháng 12 năm ngoái, cũng cần cái gật đầu của ông Obama về phương cách phục hồi nền kinh tế Nhật với việc tăng chi tiêu công và nới lỏng chính sách tiền tệ. Chính sách kinh tế của Abe (Abenomics) đã kéo giảm khoảng 10% giá trị đồng yen so với đồng USD, làm tăng mối quan ngại quốc tế về cách mà Nhật Bản đối phó với suy thoái. Nhưng kinh tế không phải là vấn đề cốt lõi. Mikitaka Masuyama, giáo sư ở Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia ở Tokyo, nhận định: “Tình hình ở Đông Á đang ngày càng trở nên bất ổn. Một trong những điều ông ấy muốn đạt được là củng cố liên minh Nhật - Mỹ”. Ông cũng cho rằng sẽ là một chuyến đi thành công nếu chính sách kinh tế của ông Abe thuyết phục được phía Mỹ hoặc ít nhất nó không bị bác bỏ hoàn toàn. Trong chuyến công du, ông Abe sẽ tổ chức một cuộc gặp thượng đỉnh với ông Obama và có bài diễn văn tựa đề Nhật Bản trở lại. Các cố vấn cho biết ưu tiên số 1 của ông Abe trong chuyến thăm là sửa chữa một liên minh mà họ cho là đã bị sứt mẻ trong thời kỳ cầm quyền của Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ- 2009-2012). “Trong 3 năm 3 tháng cầm quyền của chính phủ thuộc DPJ đã bộc lộ một sự khác biệt lớn trong liên minh Mỹ - Nhật, vì vậy mục tiêu lớn nhất là xây dựng lại liên minh” - một cố vấn thân cận với ông Abe nói. Các chuyên gia cho rằng liên minh đã trải qua giai đoạn khó khăn dưới thời thủ tướng Yukio Hatoyama, người đã nỗ lực bất thành trong việc xét lại thỏa thuận chuyển một căn cứ không quân của hải quân Mỹ đến khu vực thưa thớt dân cư trên đảo Okinawa của Nhật. Hai mối đe dọa tiềm tàng Hai nhà lãnh đạo Mỹ - Nhật chắc chắn dành thời gian thảo luận sự cần thiết của các biện pháp trừng phạt mạnh mẽ hơn nhắm vào Triều Tiên và có thể trao đổi vấn đề phòng thủ tên lửa sau vụ thử hạt nhân mới nhất của Bình Nhưỡng hồi tuần trước. Thủ tướng Abe, người được chính giới cho là có tư tưởng “diều hâu”, cũng hy vọng rằng một liên minh mạnh mẽ Mỹ - Nhật sẽ gửi tín hiệu đến Trung Quốc để nước này không có hành động gây huyên náo ở những đảo nhỏ trên biển Hoa Đông mà cả hai bên đều tuyên bố chủ quyền. “Điều quan trọng với chúng tôi là làm cho họ nhận ra rằng cố đạt được bằng cách ép buộc hay dọa dẫm là không thể. Và như vậy liên minh Nhật - Mỹ, cũng như sự hiện diện của Mỹ, sẽ là yếu tố then chốt” - ông Abe nói với báo Mỹ Washington Post trong một cuộc phỏng vấn. Căng thẳng làm tăng nỗi lo ngại về những đụng độ quân sự bất ngờ gần quần đảo Senkaku hay Điếu Ngư theo cách gọi của Trung Quốc. Washington đã nhiều lần tuyên bố Senkaku nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp ước An ninh Nhật - Mỹ. CAO TUẤN ============= Dù muốn hay không thì cuối năm nay, một cuộc khủng hoảng tiền tệ sẽ xảy ra do một quyết định lạm phát từ một quốc gia phải gió nào đó. Tất nhiên cũng phải quốc gia tầm cỡ bậc trung cho đến đại gia, chứ không thể là Urugoay, hoặc Etiopi - Sau đó là một cuộc khủng hoảng toàn diện . Kế đó là sự hứa hẹn một cuộc chiến lớn xảy ra. Tôi luôn xác định rằng: Không có thể chiến thứ III. Người ta có thể ngăn chặn kịp. Tôi có được xem một bộ phim khoa học viễn tường. Nếu tôi nhớ không nhầm là phim Terminato. Trong đó mô tả một thể lực ngoài hành tình xâm lược Địa cầu, dùng phi thuyền vượt thời gian đi vào quá khứ để tiêu diệt một thủ lĩnh nghĩa quân lúc còn thơ ấu, nhằm hiệu chỉnh thực tại. Trên cơ sở "khoa học viễn tưởng" thì chúng ta đang ở quá khứ của một hiện thực xấu có khả năng xảy ra trong tương lai. Vậy chúng ta có thể kịp sửa chữa để tương lai tốt đẹp hơn?!3 likes -
Đây cũng là 1 câu hỏi mà đã nhiều người hỏi bác , nhưng theo nguyên tắc tử vi là thiên định mỗi 1 con người đều có họa phúc ,tức sanh ra giờ giấc đã có sự qui định nào đó ,nếu bắt buộc phải sanh mỗ thì cũng phải để tự nhiên ,đến lúc bác sĩ cần mỗ ,không thể chọn lựa giờ nào tốt để có 1 đứa bé cuộc đời hoàn hảo; nếu thế thì người ta ai cũng chọn ngày giờ tốt sanh con để sau nầy con mình làm vua hay tổng thống ... nếu được như vậy mấy ông thầy tử vi quả là đắt giá, cháu không đủ khả năng trả tiền cho bác xem chọn cho cháu giờ nào sanh cho tốt để có 1 đứa con làm tổng thóng ,chủ tịch hay 1 đại gia trọc phú .2 likes
-
2 likes
-
PHONG THỦY LẠC VIỆT Thưa quý vị và anh chị em quan tâm. Khi tôi bắt đầu viết bài giới thiệu về Phong thủy Lạc Việt, từ mùng 3 tháng 5/ 2008. Đến nay là 2015, đã hơn bảy năm trôi qua. Trong chuỗi thời gian ấy đã bao biến đổi của lịch sử và những phát hiện mới nhất liên quan đến ngành phong thủy. Và một điều cần xác định rằng: sự phát hiện trên mọi phương diện liên quan đến ngành phong thủy Đông phương, kể cả di vật khảo cổ, tri thức khoa học hiện đại liên quan, những phát hiện có tính nghiên cứu về phong thủy....đều tiếp tục là sự xác minh tính chân lý là: Những di sản phong thủy trong cổ thư chữ Hán đã sai lệch, rời rạc. mâu thuẫn và cội nguồn cũng như lịch sử phong thủy không thuộc về nền văn minh Hán. Bởi vậy, hôm nay tôi viết lại bài này để tiếp tục giới thiệu với bạn đọc những giá trị đích thực huyền vĩ của ngành phong thủy Lạc Việt. Phong thủy Lạc Việt, hay Địa lý Lạc Việt là một danh xưng, nhằm xác định bản chất cội nguồn của ngành phong thủy học Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt. Về nội hàm phong thủy Lạc Việt khác những di sản phong thủy Đông phương ghi nhận trong cổ thư chữ Hán. Tính khác biệt căn bản này ở nguyên lý căn để trong hệ thống phương pháp luận của ngành phong thủy học Đông phương. Đó là "Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn Khôn so với Hậu Thiên Văn Vương) và phối với Hà Đồ". So với nguyên lý căn để trong những di sản còn lại trong cổ thư chữ Hán, có nguyên lý căn để là "Hậu Thiên Văn Vương phối với Lạc Thư". Từ sự thay đổi của nguyên lý căn để hoàn toàn khác biệt này, Phong thủy Lạc Việt đã hệ thống hóa, một cách hoàn chỉnh và nhất quán toàn bộ ngành phong thủy học Đông phương từ những di sản còn lại bằng cổ thư chữ Hán. Điều này cũng khác hẳn những di sản phong thủy còn lại trong cổ thư chữ Hán, vốn rời rạc, không có tính hệ thống và đầy mâu thuẫn giữa các phương pháp - quen gọi là trường phái phong thủy trong cổ thư chữ Hán. Để bắt đầu xác định những vấn để liên quan đến Địa lý Lạc Việt, tôi lần lượt giới thiệu với bạn đọc quan tâm về lịch sử nhận thức được của phong thủy Đông phương. LỊCH SỬ PHONG THỦY ĐÔNG PHƯƠNG. Phương pháp ứng dụng của phong thủy đã tồn tại từ rất lâu trong văn minh Đông phương cổ. Những tư liệu và di vật khảo cổ lâu nhất tìm thấy được, mà người ta cho rằng mang dấu ấn của Phong thuỷ có từ 1500 năm trước Công Nguyên, qua những di vật khảo cổ tìm thấy ở Ân Khư - Thủ đô của nhà Hạ Ân trong lịch sử cổ đại Trung Hoa (*). Nhưng lý thuyết và phương pháp ứng dụng thực sự lưu truyền quan bản văn chữ Hán thì lại gần 2000 năm sau mới xuất hiện. Cuốn sách cổ nhất được ghi nhận của Quách Phác đời Tấn, 200 năm sau CN, có tựa là “Táng thư”. Sách này để cập tới một số khái niệm liên quan đến phong thủy như "khí", long mạch, các cuộc đất và đề cập đến sự ảnh hưởng của mộ phần với cuộc sống của người thân. Đến thế kỷ thứ V sau CN, vào đời nhà Đường, Ngô Cảnh Loan được coi là người sáng lập trường phái Loan đầu trong ngành phong thủy được coi là của Trung Hoa. Nội dung của trường phái này mô tả mối liên hệ giữa cảnh quan môi trường tác động tới ngôi gia và đưa ra phương pháp ứng dụng. Cũng vào đời , sau Ngô Cảnh Loan, có Triệu Cửu Phong, Dương Quân Tùng được coi là người phát minh ra trường phái Dương trạch Tam yếu. Nội dung của trường phái này mô tả ba yếu tố căn bản trong cấu trúc nhà ở, là :Hướng và vị trí tọa của cổng, cửa và bếp. Đến cuối đời Minh Thanh, vào thế kỷ XVII sau CN có Tăng Minh Hồng được coi là người sáng lập ra phái Huyền không. Nội dung của trường phái này mô tả những đại lượng được coi là các sao trên trời ảnh hưởng đến ngôi gia theo thời gian. Đến cuối đời Thanh, đầu Trung Hoa Dân Quốc - cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, có Thẩm trức Nhưng tiếp tục công bố những phát hiện về phương pháp ứng dụng của phái Huyền không và được coi như là người có công đóng góp lớn nhất cho trường phái này ở lịch sử hiện đại. Riêng trường phái gọi là Bát trạch, vốn là trường phái phổ biến nhất trong phong thủy, được coi là phá minh của Lục Dận vào thế kỷ thứ II trước CN. Trường phái này cho rằng hướng nhà có ảnh hưởng lớn nhất theo phong thủy. Từ đó về sau, những phương pháp ứng dụng phong thuỷ trong xây dựng nhà ở, dinh thự và cả phương pháp chôn cất với mục đích làm phát vượng cho dòng tộc đời sau (Âm trạch), tiếp tục xuất hiện và nhiều nhất vào khoảng thời Đường Tống. Những phương pháp này - chủ yếu là dùng trong Dương Trạch - gần như khác nhau và xuất hiện ở những thời điểm khác nhau, nên người ta cho rằng nó thuộc về những trường phái khác nhau. Ngoài những sách vở chính thống thì phong thuỷ còn được lưu truyền một số phương pháp có tính bí truyền và chỉ truyền miệng trong dân gian, qua các giang hồ thuật sĩ. Phong thuỷ cũng như Tử Vi, Bốc Dịch ....chỉ là những phương pháp ứng dụng với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Bản thân lý thuyết này đã thất truyền và rất mơ hồ, trí thức hiện đại không hiểu được những thuật ngữ, khái niệm về những thực tại mà nó phản ánh. Bởi vậy – chính vì tính mơ hồ và thất truyền ấy – nên một thời rất dài khi tiếp xúc với nền văn minh Phương Tây, khoa Phong thuỷ đã bị liệt vào loại “mê tín dị đoan”. Mặc dù hiệu quả của nó trên thực tế chính là nguyên nhân để nó tồn tại trải hàng ngàn năm trong xã hội Đông phương. Hiệu quả thực tế trải hàng ngàn năm và tính khách quan, tính qui luật với khả năng tiên tri của phương pháp phong thuỷ đã chứng tỏ một thực tại được nhân thức, tổng hợp thành một hệ thống lý thuyết và tạo ra một phương pháp ứng dụng của nó. LỊCH SỬ PHONG THUỶ LẠC VIỆT Lịch sử của dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử. Người Việt tự hào là giòng dõi của Cha Rồng - biểu tượng của sức mạnh vũ trụ - và Mẹ Tiên - biểu tượng của trí tuệ siêu việt. Trí tuệ vũ trụ này chính là nội dung của danh xưng văn hiến Việt. Cùng với nền văn minh cổ đại huyền vĩ khác là văn minh Ai Cập, nền văn hiến huyền vĩ của dân tộc Việt cũng bị sụp đổ ở thế kỷ thứ III trước CN ở bờ Nam sông Dương tử. May mắn cho văn minh Ai Cập đã để lại những chứng tích cho sự tồn tại của nó. Đó chính là những kỳ quan của thế giới hiện nay. Một trong nhữg di sản kỳ vĩ đó là Kim Tự tháp, mà cho đến ngày nay, trí thực hiện đại đầy tự hào vẫn còn phải bàng hoàng chiêm ngưỡng. Nhưng văn minh Việt khi sụp đổ chỉ để lại những giá trị văn hoá phi vật thể, trong nền văn minh Đông phương kỳ bí đến huyền vĩ mà cho đến nay người ta cũng không thể hiểu nổi bản chất đích thực của nó. Một trong những sự kỳ bí huyến vĩ trải hàng thiên niên kỷ cho đến bây giờ, chính là phương pháp ứng dụng trong Phong Thuỷ. Khi nghiên cứu về Phong thuỷ, những nhà nghiên cứu lịch sử Phong thuỷ đều thống nhất cho rằng: Phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ thuộc về văn minh Hoa Hạ cổ. Căn cứ vào thời điểm xuất hiện khác nhau trong thời gian lịch sử của văn minh Hán, của các phương pháp ứng dụng khác nhau trong phương pháp phong thuỷ mà họ gọi là trường phái. Nhưng trên cơ sở những nghiên cứu mới nhất theo tiêu chí khoa học hiện đại thì không thể nào có với một đối tượng duy nhất là con người và cùng một phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành (*)- mà lại có những phương pháp khác nhau không liên quan đến nhau và đôi khi mâu thuẫn trong phương pháp ứng dụng. Một phương pháp ứng dụng với phương pháp luận giải thích nó phải là hệ quả của một học thuyết là cơ sở của phương pháp luận của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành cho đến tận ngày nay vẫn rất mơ hồ qua các cổ thư chữ Hán và không một triều đại nào trong lịch sử văn minh Trung Hoa coi thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết chính thống. Bởi vậy, ngày nay - mặc dù những bản văn cổ nhất còn lưu giữ về môn phong thủy hoàn toàn viết bằng chữ Hán, nhưng đó không phải là bằng chứng cho môn Phong thủy có cội nguồn từ văn minh Hán. Đó chỉ là việc chuyển ngữ từ một nền văn minh đã sụp đổ trải hàng ngàn năm sang văn hóa Hán. Một đế chế thống nhất phải thống nhất về ngôn ngữ và văn tự. Đây chính là nguyên nhân để những tri thức phi Hán muốn lưu truyền trong đế chế Hán phải chuyển ngữ sang ngôn ngữ và văn tự Hán. Nền văn minh Hán từ hàng ngàn năm trước cho đến tận ngày nay vẫn không hề có một tri thức nền tảng là cơ sở hình thành các phương pháp ứng dụng thuộc lý học Đông phương với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Do đó, điều này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Phong thuỷ chính là một phương pháp ứng dụng nhất quán và là hệ quả của một tri thức về thiên nhiên, cuộc sống, vũ trụ và con người được lý thuyết hoá trong thuyết Âm Dương Ngũ hành . Một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh . Học thuyết này đã thất truyền khi văn minh Lạc Việt bị sụp đổ ở miền nam sông Dương tử. Những giá trị của nến văn minh này bị tan tác và lưu truyền trong dân gian. Chúng lần lượt bị Hán hoá và được công bố tuỳ từng thời điểm, sau khi văn minh Việt bị sụp đổ trải hàng ngàn năm. Cách giải thích này với thực tại trong ứng dụng phong thuỷ chỉ có đối tượng duy nhất và phương pháp luận duy nhất đã chứng tỏ rằng: Bộ môn phong thuỷ này không thể thuộc về nền văn minh Hán, mà thuộc về nền văn hiến kỳ vĩ của người Lạc Việt và là một phương pháp nhất quán, hoàn chỉnh. Những phương pháp riêng phần gọi là trường phái trong văn minh Hán, thực chất là sự ứng dụng những yếu tố tương tác khác nhau qua những ứng dụng cụ thể khác nhau do tính chất tương tác khác nhau. Phong thủy Lạc Việt không phải là một trường phái bên cạnh những ý tưởng về "trường phái phongv thủy" theo quan niệm phổ biến hiện nay. Mà Phong thủy Lạc Việt là sự minh chứng tiếp tục và khẳng định một quan niệm về nguyên lý học thuật cổ Đông phương được ứng dụng trong môn Phong Thủy. Khởi nguyên của học thuật phong thuỷ từ nên văn hiến Việt chính là sự tổng hợp của các yếu tố tương tác này. NỘI DUNG PHONG THUỶ LẠC VIỆT 1) Sự thống nhất các phương pháp trong Phong thuỷ Lạc Việt. Nội dung ứng dụng của Phong thủy Lạc Việt về căn bản không khác các phương pháp ứng dụng rời rạc, từng phần còn lưu truyền lại trong các cổ thư chữ Hán của Phong thuỷ (Mà các nhà nghiên cứu quen gọi là trường phái). Điều khác nhau ở đây là: 1) Phong Thuỷ Lạc Việt xuất phát từ nguyên lý căn để Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Đây chính là nguyên lý nền tảng của Phong thuỷ Lạc Việt để xác định và thống nhất mọi phương pháp ứng dụng trong Phong thuỷ Lạc Việt. 2) Tất cả các phương pháp ứng dụng trong Phong Thuỷ rời rạc từ cổ thư chữ Hán còn lưu lại và xuất hiện trong văn hoá Hán vào những thời điểm khác nhau - quen gọi là trường phái - như: Hình lý khí (Loan đầu); Dương trạch; Bát trạch; Huyền không và rất nhiều sách vở tản mát khác ...đều không phải là những yếu tố riêng phần, mà là những yếu tố tương tác căn bản trong Phong thuỷ Lạc Việt để quán xét một đối tương duy nhất của nó. Những yếu tố tương tác này thống nhất trong một nguyên lý duy nhất: Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. 3) Điều quan trọng là Phong thuỷ Lạc Việt là một hệ thống nhất quán với nguyên lý căn để của nó và mọi hiện tượng được giải thích bằng nguyên lý căn để này -Hậu thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Hay nói một cách khác: Phong thuỷ Lạc Việt là một phương pháp ứng dụng có phương pháp luận xuất phát từ một lý thuyết và nguyên lý hoàn chỉnh, nhất quán, giải thích mọi vấn đề liên quan đến nó một cách hợp lý, có tính qui luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Nhưng về phương pháp ứng dụng Phong thuỷ Lạc Việt không hề phủ định tri thức phong thuỷ truyền thống mà chỉ là sự hiệu chỉnh một số vấn đề cụ thể liên quan và thống nhất với nguyên lý của nó. Thí dụ: Người mạng Khảm theo sách Hán thì Sinh Khí ở Đông Nam và Tuyệt Mạng ở Tây Nam. Nay theo nguyên lý Hậu thiên Lạc Việt (Đổi chỗ Tốn - Khôn) thì Đông Nam phạm Tuyệt Mạng và Tây Nam là Sinh Khí. Mọi tương quan giữa bát quái với quái bản mệnh vẫn không đổi. Để có một hình ảnh so sánh cụ thể: chúng ta có thể lấy lá số cho một nguơì từ trình Tử Vi Lạc Việt và một lá số lấy từ trình tử vi phi Lạc Việt để so sánh thì hoàn toàn không khác nhau là bao nhiêu. Phương pháp luận đoán không thay đổi. Mọi vấn nạn của Tử Vi như sai giờ, đoán dở, vv...vẫn như nhau trên hai lá số. Phương pháp luận và các ứng dụng về tương quan các sao khôing thay đổi . Chỉ khi Ngũ hành bản mệnh, hoặc rơi vào trường hợp tương tác với các sao là tính tương tác sẽ gia giảm. 2) Bản chất của Phong thuỷ Lạc Việt Từ hàng ngàn năm trôi qua, Phong thuỷ là một bộ môn cấu thành nền văn hóa Đông phương và góp phần vào sự kỳ bí huyền vĩ của nền văn hóa này. Cho đến gần cuối thể kỷ 20. khi tri thức khoa học chưa thực sự phát triển thì môn Phong thuỷ vẫn còn bị coi là mê tín dị đoan. Nhưng đến những năm cuối của thế kỷ trước thì Phong thuỷ được coi là đối tượng nghiên cứu khoa học. Có thể nói hầu hết các cuờng quốc trên thế giới đều có các bộ phận nghiên cứu về Phong thuỷ. Thậm chí ở Đức – theo nguồn tin trên Tuổi Trẻ Online còn có cả Viện nghiên cứu Phong thủy. Mặc dù vậy, cho đến ngày nay các nhà khoa học chưa tìm ra được bản chất của các phương pháp ứng dụng Phong Thuỷ phản ánh một thực tại nào? Cho đến tận ngày hôm nay, tất cảc các phong thuỷ gia vẫn chỉ là những người ứng dụng phương pháp có sẵn. Họ hoàn toàn không hiểu được vì sao lại có phương pháp đó. Đây lại là một bằng chứng nữa chứng tỏ rằng: Môn Phong thuỷ không thể thuộc về văn minh Hoa Hạ. Bởi vì, khi chính nền văn minh Hoa Hạ cũng không giải thích được những yếu tố có tính nguyên lý của nó và một thực tại mà nó đang ứng dụng. Bản thân thuyết Âm Dương Ngũ hành trong các bản văn chữ Hán cổ còn truyền lại cũng không hề ghi nhận tính hoàn chỉnh của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cho đến ngày hôm nay, khi các bạn đang đọc những hàng chữ này thì vấn đề thuyết Âm Dương Ngũ hành có phải là một học thuyết hoàn chỉnh và nhất quán hay không vẫn còn là một vấn đề tranh luận về mặt lý thuyết. Trong khi đó thì môn phong thuỷ lại ứng dụng một cách hoàn hảo phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành như là một học thuyết hoàn chỉnh. Thật là vô lý khi hệ quả lại có trước tiên đề. Xuất phát từ một quan điểm nhất quán: Nền Lý học Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt, một thời kỳ vĩ ở nam Dương Tử - tôi cho rằng: Bản chất của Phong thuỷ Lạc Việt là sự ứng dụng những yếu tố tương tác trên cơ sở phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Nguyên lý căn để được ứng dụng trong phong thuỷ Lạc Việt chính là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà đồ. KẾT LUẬN Phong thuỷ là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả trong văn minh Đông phương, trải hàng ngàn năm. Đó là một thực tại không thể phủ nhận. Dù người ta nhìn nó với góc độ nào và kết luận nó là cái gì. Trước sự tiến bộ ngày càng nhanh về tri thức khoa học hiện đại và nhất là khoa học lý thuyết. Những giá trị tồn tại trên thực tế của văn minh Đông phương đã được các khoa học gia hàng đầu nhìn nhận như một đối tượng khoa học nghiêm túc. Phong thuỷ Lạc Việt chính là một hướng nghiên cứu phong thuỷ nhằm tìm về cội nguồn đích thực và những thực tại còn chưa biết ẩn chứa đằng sau hiệu quả thực tế của nó với những luận cứ đã trình bày ở trên. Đó là lý do chúng tôi mở chuyên đề phong thuỷ Lạc Việt trên website Lý học Đông phương để có điều kiện thuận lợi cho hướng nghiên cứu này và đào tạo tầng lớp kế thừa nhằm gìn giữ những gía trị học thuật thuộc văn hóa truyền thống Lạc Việt. Chúng tôi rất hy vọng được sự quan tâm của quí vị học giả và những Phong thuỷ gia cùng tham gia nghiên cứu mở các bài viết trong mục Phong Thuỷ Lạc Việt, để chứng minh những giá trị đích thực của một thực tại còn huyến vĩ trong trí thức nhân loại hiện đại. Khi mà những hiệu quả thực tế của phương pháp ứng dụng trong phong thuỷ trải hàng ngàn năm đã chứng tỏ một thực tại mà nhân loại chưa biết đến ẩn chưa đàng sau phương pháp ứng dụng của nó. Trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em . Thiên Sứ ---------------- Chú thích: * Những di vật khảo cổ tìm được ở thủ Đô Ân Khư chỉ ghi nhận những dấu ấn mơ hồ liền quan đến Phong Thủy và được viết bằng văn khoa đẩu, một thứ văn tự không thuộc văn minh Hán. * Cho đến tận ngày hôm nay, những bản văn chứ Hán vẫn chưa hề chứng tỏ sự tồn tại một cách nhất quan của thuyết Âm Dương Ngũ hành.1 like
-
THÔNG BÁO CHIÊU SINH LỚP PHONG THỦY LẠC VIỆT CƠ BẢN KHÓA 12 Phong thủy, bộ môn ứng dụng các quy luật tương tác của tự nhiên lên cuộc sống xã hội vốn đã được con người nhận thức từ nền văn minh cổ xưa với mục đích ứng dụng vào đời sống, mong muốn đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn, no ấm hơn cho chính con người. Tuy nhiên, trải qua hàng ngàn năm với nhiều thăng trầm của lịch sử, việc nghiên cứu và ứng dụng Phong Thủy đã có những ngã rẽ làm cho chính Phong Thủy không còn là một hệ thống hoàn chỉnh nữa. Chính vì vậy, qua nhiều năm nghiên cứu và phục hồi, Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương đã áp dụng tiêu chí khoa học hiện đại soi rọi vào Việt sử 5000 năm văn hiến, phục hồi những bộ môn còn rời rạc, không hoàn chỉnh, của phong thủy thành một thể thống nhất, chúng tôi gọi đó là Phong thủy Lạc Việt. “Một giả thuyết, hay một lý thuyết khoa học được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó, một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri”, đây là tiêu chí khoa học. Phong thủy Lạc Việt tập trung nghiên cứu phục hồi và hoàn chỉnh bốn yếu tố chính mà cổ thư còn ghi lại: Bát trạch, Dương trạch, Loan đầu, Huyền không trên cơ sở giá trị Việt sử 5000 năm Văn Hiến để xây dựng nền tảng lý thuyết thống nhất cho bộ môn Phong Thủy Lạc Việt. Tham gia lớp Phong thủy Lạc Việt cơ bản các bạn sẽ được đào tạo: · Thuyết Âm Dương Ngũ Hành - học thuyết nhất quán và hoàn chỉnh · Thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong Phong Thủy Lạc Việt · Xác định Tâm - Sơn - Hướng - Tọa - Trạch của một căn nhà theo · Bát Trạch Lạc Việt · 24 sơn hướng và quy luật phân sơn hướng trong Bát Trạch Lạc Việt · Bát Tinh trong Bát Trạch - quy luật Âm Dương phối quái · Mệnh Trạch trong Bát Trạch Lạc Việt · Kiêng kỵ khi xây cất nhà (cơ bản). Sau khi tham gia khóa học, bạn sẽ có kỹ năng cơ bản về Phong thủy; hiểu và nắm vững lý thuyết và thực hành môn Bát trạch Lạc Việt; làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp vào lĩnh vực phong thủy, phục vụ cho lợi ích của mình và cộng đồng quanh mình. Thời gian đào tạo : 4 tháng. (Tổng cộng có 16 bài học chính, tương đương mỗi tuần 1 bài học chính, ngoài ra có thêm các bài đọc thêm và bài tập cho học viên) Hình thức đào tạo: Đào tạo qua mạng (online). Suốt chương trình có 8 buổi Offline để trao đổi và thực hành thực tế. Học phí : 2.000.000đ/4 tháng (đóng trọn khóa) Ngày khai giàng: 06-04-2013 nhằm ngày 26-02 Quý Tỵ THÔNG TIN ĐÓNG HỌC PHÍ: * Đóng trực tiếp tại số 06 đường số 06, khu phố 05, P. Hiệp Bình Chánh, Q. Thủ Đức, Tp HCM. * Hoặc chuyển khoản vào tài khoản lớp học: Chủ tài khoản : HÀ HỒNG NGA Số tài khoản: VND: 10620424693010; USD: 106 204 246 93029 tại : Ngân hàng: TECHCOMBANK Chi nhánh Tân Bình. Lưu ý: Khi chuyển khoản nên ghi rõ: -Nội dung nộp: “Học phí Phong Thủy Lạc Việt cơ bản 12”. -Tên thật và Nick đăng ký trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Chỉ xác nhận khi chuyển đúng tài khoản của lớp. Ngoài ra BQT diễn đàn yêu cầu các học viên đang học và sắp học Phong Thủy Lạc Việt cung cấp 1 số thông tin sau : Thông tin gửi về email : info@lyhocdongphuong.org.vn (trung tâm có trách nhiệm bảo vệ thông tin cá nhân của các bạn) 1. Ảnh 3x4 2. Họ và Tên thật * 3. Nickname diễn đàn * 4. Email liên hệ * 5. Số điện thoại liên hệ (Trung Tâm sẽ liên lạc bằng số điện thoại này để xác minh)* 6. Nghề nghiệp hiện tại * 7. Địa chỉ hiện tại (chính xác đến thôn/xóm, ngõ/hẻm/kiệt) * 8. Trang web các nhân (Facebook, Blog...) (Các mục có dấu * là bắt buộc)1 like
-
Bị ngăn cản kết hôn vì không hợp tuổi Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. From: Xuân Thu Sent: Thursday, November 25, 2010 2:44 PM Kính gửi các anh chị Ban biên tập mục Tâm sự! Tôi viết câu chuyện của tôi với mong muốn duy nhất là có thể chia sẻ lòng mình cả với những người tôi không hề quen biết dù câu chuyện của tôi có lẽ đã thuộc vào đề tài quá cũ. Hơn 4 năm trước đây tôi đã gặp và nhận lời yêu người yêu tôi bây giờ. Tình cảm của chúng tôi đã trải qua rất nhiều sóng gió với hiểu lầm, không liên lạc và xa cách. Nhưng khi gặp lại nhau vào năm ngoái, cả hai chúng tôi đã quyết định quay lại. Chúng tôi là tình yêu đầu đời trong sáng và đã có rất nhiều kỷ niệm vui buồn, những lúc vượt qua khó khăn luôn ở bên nhau. Giờ đây khi cả hai có công việc ổn định và có thể tiến đến hôn nhân thì tình yêu của chúng tôi cũng đang đi đến lúc bế tắc vô cùng chỉ vì một lý do duy nhất: tôi và anh kỵ tuổi nhau. Tôi tuổi Dần và anh tuổi Hợi. Mẹ tôi và mẹ anh đã ra sức ngăn cản chuyện tôi và anh yêu nhau, rồi đưa ra các dẫn chứng vợ chồng kỵ tuổi lấy nhau, người chồng đã mất khi còn rất trẻ. Đọc đến đây có thể rất nhiều người sẽ nói rằng thời buổi nào rồi mà còn coi trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nhưng có thể các anh chị nằm trong số ít không coi trọng chuyện này. Trong khi đó người Việt Nam rất xem trọng chuyện tuổi tác trong hôn nhân. Nếu lấy nhau trong sự ngăn cản quyết liệt của gia đình 2 bên hẳn tôi và anh đều sẽ không thực sự hạnh phúc. Tôi có thể khẳng định chúng tôi yêu nhau rất nhiều và tình yêu đã đủ lớn, đã được thời gian chứng minh. Nhưng tôi cũng không hiểu sao giờ đây tôi đang quyết định không liên lạc với anh để chúng tôi suy nghĩ lại chuyện này. Tôi có cảm nhận rằng tình yêu của tôi sắp ra đi. Tôi đau khổ và bối rối vô cùng. Các anh chị ai đã có kinh nghiệm giải quyết vấn đề này xin hãy chia sẻ cùng tôi. Hiện tại tôi cảm thấy hụt hẫng trong lòng. Rất mong Ban biên tập đăng bài viết này của tôi để tôi có thể tìm ra hướng đi đúng đắn cho bản thân mình. Chân thành cảm ơn anh chị! Thu http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/11/3BA237EF/ Hai mối tình của tôi đều tan vỡ vì không hợp tuổi Khi cô ấy nghe nói không hợp như vậy thì tinh thần yêu đương tan biến đi đâu mất và xoay 180 độ. Cô ấy nói thôi mình chỉ có duyên phận tới đó, dừng lại là đúng mức rồi. Tôi nghe mà không tin vào tai mình nữa. (Hung) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23EAB/ Đau khổ khôn nguôi sau mối tình kỵ tuổi Phải chia tay anh, tôi hụt hẫng, đau khổ, mất niềm tin. Hơn một năm đầu tiên tôi đã đi tìm anh, nấp ở một góc nào đó để đợi anh đi làm về, để thấy bóng dáng anh cho đỡ nhớ, cho đến ngày anh có người khác thì tôi không còn đến tìm anh nữa. (Hien) Xem tiếp : http://vnexpress.net/GL/Ban-doc-viet/Tam-s...10/12/3BA23E2C/ -------------------------------------- Bài trả lời của TTNC Lý Học Đông Phương Kính gửi ban biên tập mục Tâm sự và quý bạn đọc, Mấy hôm nay chúng tôi theo dõi mục tâm sự và cảm thấy khá bức xúc vì các vấn đề về tuổi hợp hay không hợp trong hôn nhân. Là những người đã và đang nghiên cứu văn hóa truyền thống, nghiên cứu hệ thống lý học Phương Đông nên chúng tôi cũng muốn có đôi lời chia sẻ với quý bạn đọc.Chúng tôi viết bài này nhằm cung cấp cho quý vị quan tâm một cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề tuổi và tương tác tuổi trong mối quan hệ nam nữ. Trong truyền thống văn hóa Á Đông, lúc cưới vợ gả chồng thì những người có tuổi trong gia đình đều quan tâm đến vấn đề luận tuổi. Nhưng qua thời gian cũng như thăng trầm của lịch sử, ngày nay, việc luận tuổi đã bi thất truyền dẫn tới những quan niệm chưa chính xác, lệch lạc và trở thành một nỗi lo sợ vô lý cho các cặp trai gái yêu nhau muốn tiến đến hôn nhân. Và cũng qua cả ngàn năm nay, sự thất truyền, tam sao thất bản đã dẫn đến những phương pháp luận tuổi không đầu không đuôi, gây ra những cảnh dở khóc dở cười, chia ly vô cớ và đầy nước mắt của những đôi yêu nhau. Phương pháp phổ biến hiện nay đa số các “thầy” xem tuổi đều áp dụng phương pháp cung phy. Có 8 cung phi cho nam (Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn) và 8 cung phi tương tự cho nữ, kết hợp lại sẽ cho ra 64 trường hợp, hay còn gọi là 64 cặp tương tác (Càn – Đoài, Càn – Khảm, Đoài – Ly, Cấn – Tốn…), và kết quả của 64 cặp sẽ tương ứng với các chữ : Sinh Khí – Diên Niên – Phúc Đức – Phục Vị - Ngũ Quỷ - Tuyệt Mạng – Lục Sát – Họa Hại. Như vậy chỉ có 64 trường hợp tương tác tuổi. Chúng ta thử làm phép tính nhỏ, với nhân loại mấy tỷ người mà chỉ có 64 trường hợp để xem tốt xấu thì xác xuất giống nhau là rất lớn. Cứ 64 cặp thì có 1 cặp giống nhau. Có thể thấy rằng đây là điều thiếu logic. Ngoài ra, còn có phương pháp ít phổ biến hơn, đó là phương pháp Cao Ly Đồ Hình. Phương pháp này lấy 10 thiên can theo tuổi nam phối 12 địa chi theo tuổi nữ, sau đó sẽ có 1 bảng phân loại và định tuổi cát-hung. Nếu ta lấy 6 tỷ người trên thế giới và giả định có 1 tỷ cặp vợ chồng với trung bình có 4 con một cặp (ứng với 6 tỷ), đem chia cho 120 trường hợp thì ta sẽ có: 1000. 000. 000: 120 = Gần 8.300.000 triệu cặp vợ chồng có chung một hoàn cảnh. Chỉ cần 3/ 10 trong số 120 trường hợp phối cung đó chia ly hoặc chết thì ta sẽ có 8.300.000 x 36 = 298. 800. 000 cặp vợ chồng ly tan. Và hơn 1 tỷ trẻ em mồ côi trên thế gian này. Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng trong dân gian vẫn lưu giữ và truyền miệng những câu như “Dần Thân Tỵ Hợi” “Tý Ngọ Mão Dậu” “Thìn Tuất Sửu Mùi” là Tứ hành xung, hoặc “Canh cô Mậu Quả”, “gái tuổi Dần”, nhưng người ta quên rằng đằng sau những câu trên là cả 1 hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh các mối quan hệ của Thiên can, Địa chi, mạng. Qua các phương pháp trên, các bạn cũng có thể nhận thấy thiếu sự hợp lý và khập khiễng trong phương pháp luận tuổi. Nhưng đáng tiếc là sự coi tuổi khập khiểng này đã tồn tại trên thực tế và ăn vào tiềm thức của các bậc ông bà cha mẹ, làm họ tin một cách mù quáng. Các phương pháp coi tuổi vợ chồng khập khiễng trên từ những vị thầy nửa mùa, chẳng hiểu thấu lý, nên vô tình đã để lứa đôi tan nát. Để thay đổi những quan niệm sai lầm trên, chúng tôi cần thấy phải có một phương pháp hoàn chỉnh, logic, nhằm giúp cho những đôi lứa yêu nhau đến được với nhau. Chính vì vậy chúng tôi, những người làm công việc nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông Phương đã tổng hợp, nghiên cứu và kiểm nghiệm để có được một phương pháp luận tuổi đúng đắn, hợp lý và mang tính khái quát cao nhất. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Luận Tuổi Lạc Việt” với sự điều chỉnh mạng Thủy – Hỏa trong Lạc Thư Hoa Giáp so với Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc nhằm chứng mính cách so tuổi vợ chồng còn sót lại trong dân gian hiện nay chỉ là những mảnh vụn rời rạc, không hoàn chỉnh dẫn đến những sai lầm tai hại. “Không có tuổi vợ chồng xấu trong tình yêu đôi lứa đích thực” và “yêu nhau cứ lấy” là quan điểm của chúng tôi. Ngoài ra, tương quan vợ chồng chỉ là những điều kiện ban đầu, khi gia đình có con thì tương quan này sẽ thay đổi tốt hoặc xấu phụ thuộc vào tuổi đứa con có hợp với cha mẹ hay không, đặc biệt là con út! Ông bà ta có câu “giàu con út, khó con út” Theo phương pháp này, tương tác giữa người với người xảy ra ở cả 3 yếu tố Thiên can, Địa chi và Mạng thông qua mối quan hệ về ngũ hành sinh khắc và nguyên lý âm dương. Như vậy, để dể hình dùng, ta có thể làm phép tính như sau : 60 tuổi nam phối 60 tuổi nữ, cùng với tuổi của 60 đứa con út có khả năng sinh ra theo tương quan tuổi vợ chồng, Tức là ta sẽ có: 60 x 60 x 60 = 216.000 trường hợp khác nhau. Xác xuất để tinh toán cao hơn nhiều lần so với các phương pháp trên. Ở đây, chúng tôi chưa nói đến các cách cục tốt trong việc phối tuổi vợ chồng và con cái trong gia đình. Nhưng vấn đề không dừng lại ở những con số khô khan và phương pháp lạnh lùng. Phương pháp “Luận tuổi Lạc Việt” còn có tính nhân bản ở chỗ là nó khẳng định một cách hợp lý theo thuyết Âm Dương Ngũ hành về tình yêu nam nữ -"Yêu nhau cứ lấy" và sinh đứa con chính là nguồn hạnh phúc gia đình, dù tuổi cha mẹ có khắc nhau đi chăng nữa. Và một vấn đề chúng tôi cũng muốn chia sẻ với quý bạn đọc, đó là “tuổi tác” là một trong những điều kiện tương tác mang tính căn bản ảnh hưởng đến một hoặc nhiều mối quan hệ giữa người với người, chứ không có nghĩa tuổi tác sẽ quyết định mọi thứ diễn ra xung quanh bạn. Có rất nhiều các yếu tố khác ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi các nhân, mỗi gia đình như : hoàn cảnh gia đình, công việc, thu nhập, tính cách cá nhân… Chính vì vậy khi gặp các vấn đề nan giải trong cuộc sống, các bạn không nên quy hết vào lý do… không hợp tuổi, để rồi có những đáng tiếc xảy ra và xã hội lại tiếp tục duy trì những quan niệm không chính xác về việc xem xét tương quan tuổi giữa người với người! Xin chân thành cám ơn quý báo và quý bạn đọc. Thiên Luân Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.1 like
-
1 like
-
Quán vắng!
thanhphuc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Chuột khổng lồ tấn công Iran Thứ Sáu, 22/02/2013 08:38 (NLĐO)- Tờ Times (Anh) đưa tin cục môi trường Tehran đang phải điều các đội lính bắn tỉa đi tiêu diệt những con chuột khổng lồ đang chạy loạn khắp 26 quận của thành phố. Gọi chuột là kẻ thù mới của Iran, tờ Times viết thuốc diệt chuột hầu như không còn tác dụng, khiến 10 đội lính bắn tỉa phải ra tay vào ban đêm cùng với súng trường được trang bị ống ngắm hồng ngoại. “Chúng tôi dùng thuốc diệt chuột vào ban ngày và cử lính bắn tỉa đi tuần tra vào đêm. Diệt chuột đã trở thành cuộc chiến 24/7” – ông Mohammad Hadi Heydarzadeh, người đứng đầu Cục Môi trường Tehran, nói. Chuột khổng lồ bị giết ở Tehran. Ảnh: Reuters Theo mô tả của Times, lũ chuột này to lớn khác thường, một số con nặng tới 4,5 kg. Chúng đang chạy tràn lan trên Vali Asr, đại lộ chia ranh giới bắc – nam của Tehran với hàng dài nhà hàng cùng cửa hàng thức ăn nhanh. Ông Ismail Kahram, một giáo sư đại học kiêm cố vấn môi trường cho hội đồng thành phố Tehran, nói trên trang web Qudsonline.ir rằng lũ chuột “dường như bị biến đổi gien, nhiều khả năng là hậu quả của chất phóng xạ và hóa chất thử nghiệm trên chúng”. “Chúng to hơn trước nhiều và trông khác lạ. Từ 60 gram, chúng vọt lên gần 5 kg, đây là những biến đổi thường chỉ xảy ra sau hàng triệu năm tiến hóa. Giờ đây mèo còn nhỏ hơn chúng và tỏ ra sợ hãi” – ông Kahram nói. Tehran sẽ tăng cường lính bắn tỉa đi diệt chuột. Ảnh: IB Times Tờ Times cho biết thêm đến nay, các tay súng bắn tỉa đã giết khoảng 2.205 con chuột. Xác chúng bị đốt hoặc chôn rồi rắc vôi. Tuy vậy, chiến thắng hãy còn xa và hội đồng thành phố đang tính tăng số lượng đội bắn chuột lên 40 để ngăn chặn chúng hoành hành trong các nhà hàng và thùng rác công cộng. Bằng Vy (Theo Ynet News, IB Times) ========================= Âm khí vượng! Phiền phức tới nơi!1 like -
Dạ tại cháu thấy lưu Thái Tuế tại Tật, động Thái Dương, Thiên Không, Cô Thần. Lưu đại hạn có Quả-Phục-Kỵ, Lưu Hổ - Khốc - Kình. Nên nghĩ hôn sự có sự cản trở từ người cha, trong nhà có nhiều sự không vui, nhẹ thì là lời ăn tiếng nói, nặng là dùng vũ lực. Dù tín hỉ ở Lưu tiểu hạn cháu thấy Thái Âm sáng, Đào, Hỉ Thanh Long, nhưng vì lưu Đại hạn cháu nghĩ đôi trai gái chắc cũng giận hờn, chắc cũng sẽ nhiều lần chia tay dính chân, chia chân dính tay. Hơn nữa năm nay có Khôi, Tướng, Ấn Triệt nhập hạn, cháu thấy có sự bấp bênh trong công việc, không chắc chắn về kinh tế, không có support từ gia đình, mối quan hệ cũng chưa chắc neo được, nên ...... cháu đoán thế :P Thuyết Tuần Triệt tháo gỡ thì cháu quên bài rùi, nên chỉ nghĩ được đến thế :P Chừng nào Thầy nói trước, mình nói sau mà trái ý mới gọi là cãi. Cái này là Thầy đi sau, thấy lọt hố rồi câu lên :P1 like
-
So này thì không thuận lợi về đường công danh, thường hay gặp trục trặc do hay để tình cảm lấn át lý trí. Về tình cảm thì hay xảy ra cãi vã vì ghen tuông. thân mến1 like
-
giờ sửu - tính tình như bà cụ non- nói gì cũng dẫn dắt đâu ra đó - kiểu con tằm nó ăn lá dâu nó đẻ ra tơ ....1 like
-
@ntpt: Cãi thầy núi đè1 like
-
HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ (Bản Hồng Đức nguyên niên) BẢN DỊCH / Bản mới post có sửa lỗi+ ảnh chụp mguyên bản chữ Hán 18b-20b) Mục lục 1. <a href="http://vn.uploader.blog.yahoo.com/ngoducthohannom/composer?mid=371#_Toc312701835">KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王 2. LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王 3. HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王 4. HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王 5. HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王 6. HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王 7. HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 8. HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王 9. HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王 10. HÙNG UY VƯƠNG 雄威王 11. HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王 12. HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王 13. HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王 14. HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王 15. HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王 16. HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王 17. HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王 18. HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王 CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH [ĐẾ MINH 帝明] Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam - xưa gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương. [Đời thứ 1] KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王 Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non]muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thốn, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cốngBấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền, đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:-Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?Thiếu nữ đáp:-Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.Kinh Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi chính khổn (Hậu cung Chính khổn) Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu ( nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, đến bắc Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long quân. Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.Long quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử. Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chới ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề ròi Kinh Dương vương sai Lạc Long quân ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước.Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính. [Đời thứ 2]LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王 Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sức sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen). Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên thượng đế, Tứ phủ vạn linh. Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc: Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh. Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn. Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông. Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng. Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn: Trời sinh bậc thánh, Trị nước sinh vua, Thanh bình bốn biển, Thiên hạ vững yên. Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên. Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước. Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ. Hiền vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền rằng: Trăm con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng vui. Hiền vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng: -Nước có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh hiệu. Hiền vương phán rằng: -Chính sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay, mật khấn Hoàng thiên cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan. Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi: -Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho. Tiên ông ha hả cười vang. Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông: -Trẫm có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đaọi khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho Tiên Ông đáp: -Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ. Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ: Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sau là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông. Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng: -Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính. Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng không sánh kịp. Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt. Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân. [Đời thứ 3] HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王 Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo; 50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử. [Đời thứ 4] HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王 Thái tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí xuân phong vẳng nghe nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc thống. [Đời thứ 5] HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王 Hùng Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế thừa quốc chính. [Đời thứ 6 ] HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王 Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng: - Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc. Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần: -Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không? Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức. Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: " Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào? Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: "Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế? Ngọc Hoàng phán: -Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm. Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn! Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế: -Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân! Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống. Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương: -Vua biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều! Vua tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng: -Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp: -Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp! Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước. Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: "Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ". Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói: -Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!" Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói: -Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa! Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói: Vua theo đúng hẹn, Vận nước lâu bền. Quân giặc phải tan, Một ngày giúp nước, Thiên cổ danh vang. Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: "Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả". Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân. Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc. Thiết Đổng lạy tạ mẹ: -Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng! Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm: -Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước! Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá. Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ. Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn). [Đời thứ 7] HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống. Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức. Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa. Lão ông nói: -Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông" Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời. Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng:" Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho". Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào. Thiên vương nói: -Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo. Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi. Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ "Thiên Linh ấn", trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ "Thiên Lĩnh nhẫn"( nhẫn cũng là kiếm). Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu: -Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng. Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: "Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh". Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng: "Tây đại sơn nhân thượng 西大山人上 [ 1] Bất kiến tâm hạ tướng. 不見心下相 [ 2] Hội đông túc danh nhân 會東足名人 [ 3] Doãn cư thượng khẩu vượng 允居上口旺 [4] [ 1] Chiết tự 2 chữ PHẬT , TIÊN. 西大Tây đại ; muốn viết cho rõ thì càn phải viết “西大人Tây đại nhân ”. Về chữ chiết tự này, xem thuyết minh rõ thêm sau đây: Chữ PHẬT 佛 có 08 chữ dị thể đã thống kê vào Tự điển như sau: Chúng ta chú ý có chữ .: chữ dị thể này tạo ra bằng phép viết hội ý: Người theo Nho giáo cho rằng Phật là “Người trời” ,cho nên viết Nhân 亻 + thiên天 = 佛. Tương tự như vậy, người theo Phật giáo cho rằng Phật là con người vĩ đại ở phương Tây (Tây thiên cực lạc), cho nên viêt Nhân Tây đạị file:///C:%5CDOCUME%7E1%5CDucTho%5CLOCALS%7E1%5CTemp%5Cmsohtml1%5C01%5Cclip_image002.jpg+ 西+ 大 =佛. Nhưng vì trong câu thơ bí hiểm này chữ sau cũng có cùng cách chiết tự đã có chữ nhân nên người đặt thơ giảm bớt 1 chữ nhân亻mà ai cũng đều hiểu rõ không nhầm lẫn. Còn chữ Sơn 山+ nhân亻 là chữ TIÊN 仙 mọi người đều biết cả rồi. [ 2] 不見心下相:Bất kiến là không thấy, chẳng thấy. Nhưng hai chữ này viết liền lại trong như chữ Quan/ Quán Chữ Tương 相trên chữ tâm 心dưới tức chữ Tưởng 想 . Quán tưởng là từ thuật ngữ Phật giáo, chỉ sựsuy tưởng triệt để [ 3] 會東足名人 Hội đông túc danh nhân/ Vết chân của danh nhân ở phía đông thôn thôn Hội./ xem ở nọi dung bản dịch [ 4 ] Doãn cư Thượng khẩu vượng 允居上口旺là chiết tự của chữ THÁNH B) Sơn nhân là chiết tự của chữ “ TIÊN 仙” = 山人 Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: "Nhà nàng ở đâu?" Cô gái đáp: -Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh. Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ] [Đời thứ 8] HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王 Hùng Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: "Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo gì không trị được thiên hạ?" Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng. Truyền đến: [Đời thứ 9] HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王 ở ngôi 80 năm. [Đời thứ 10] HÙNG UY VƯƠNG 雄威王 ở ngôi 90 năm. [Đời thứ 11] HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王 ở ngôi 170 năm. [Đời thứ 12] HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王 ở ngôi 96 năm. [Đời thứ 13] HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王 ở ngôi 105 năm. [Đời thứ 14] HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王 ở ngôi 99 năm. [Đời thứ 15] HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王 ở ngôi 94 năm. [Đời thứ 16 ] HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王 ở ngôi 92 năm. Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫. [Đời thứ 17] HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王 Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: "Quân Thục từ phía tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua? Nghị vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa rồi nhường ngôi cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương. [Đời thứ 18] HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王 Tuyền vương [ ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [ ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua: -Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng. Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường. Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo: -Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy. Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau: -Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước? Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: "Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!".Thuỷ Tinh tức giân bỏ về thuỷ cung. Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận. Tuyền vương nói: -Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay. Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam . Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: "Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?" Từ đó Tuyền vương bỏ bễ không hcăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng Tuyền vương bèn đắp thành ở Việt Thường [ ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Tuyền vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp: -Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong. Tuyền vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Tuyền vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết. Từ đó việc đắp thành của Tuyền vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Tuyền vương mà dặn rằng: -Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo! Hùng Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là "Linh hoa kim trảo thần nỗ". Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: "Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện" Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương: -Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao! Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt. Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đã trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng: -Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân. Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối. Thục An vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu: Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc, Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương, Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ] Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Quân Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: "Đà không sợ nỏ thần sao?". Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất. Từ Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnhj mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa. Ô hô! Thịnh thay! Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt. Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn. Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Núi Trúc (Đội Cấn -Hà Nội) PHẦN II. VĂN BẢN 1. Đã lâu quá rồi, bây giờ đọc lại Hùng vương ngọc phả trong lòng tôi bỗng trào dâng một cảm xúc gì đó tựa như là ngỡ ngàng. Không phải chỉ mình tôi, các nhà nghiêncứu ở Viên Hán Nôm hẳn đều quen thuộc với các văn bản thần tích ngọc phả và các thư tịch cổ viêt về các đền chùa của nước ta. Riêng tôi cũng có một kỷ niệm là tôi đã cùng một vài bạn đồng nghiệp biên soạn đựoc một cuốn tra cứu về các di tích lịch sử văn hoá Việt Nam . Gian khổ nhưng cũng thật là vui vì có làm như vậổitong mấy năm đó chúng tôi mới có điều kiện đọc đi đọc lại nhiều sách vở tài liệu liên quanđến đề tài này. Không phải chỉ đối với một di tích, khi viết về môpọt di tícacsau lại lại gặp lại tư liệu về di tích trước và trước đó nữa. Hùng vương ngọc phả là một tài liệu như vây. Vì HVNP rất quan trọng cho nên người soạn văn bia thần tích gia phả thường trích dẫn. Mà sự dẫn dụng đó phần nhiều là thích đáng hợp lý. Nếu nói gia phả là bộ sử của một nhà, một dòng họ, thì cuốn HVNP này quả thât là cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta. Cái gì cũng có hai mặt: Ý nghĩa thì quan trọng như thế nhưng loại thần tích ngọc phả ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi những sự tích truyền thuyết hoang đường. Người mình bây giờ không phải không thích chuyện hoang đường, nhưng phải là cái gì thật lạ kỳ như Harry Potter chẳng hạn, còn chuyện Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, chuyện Thánh Dóng dánh giựac Ân v.v… thì từ thời tiểu học học mãi rồi! Cho nên dù là cuốn phả dân tộc thật đấy, nhưng có vẻ như là “kính nhi viễn chi”! Rốt cuộc là, từ hồi đầu thảo luận về thời Hùng vương những năm 70 thế kỷ trước đến nay sau hơn 40 năm, nhân một bài viết cần tìm đến HVNP, tra trên mạng không thấy một bản HVNP nào cả nguyên văn và bản dịch.Có thể có ai đó dã dịch và xuất bản gộp vào trong một tập nào đó với tên khác chăng? Cũng có thể như thế, nhưng tôi tin mình không lầm. Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy. Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau: Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 - 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1) Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, thế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về ngọc phả Hùng vương được công bố. Bây giờ toi dã làm xong đựoc một việc nhỏ đó rồi, và ngay từ đầu tôi dã đưa lên mạng để mọi người ai cần tham khảo dẫn dụng thì có thể lưu lại. Con cháu của các vua Hùng thì phải chuyển cho nhau cuốn phả về sự nghiệp dựng nước của các cụ khi xưa. Có điều là tôi hiện nay chỉ mới có đựoc 2 văn bản (một của Viện NCHN, một của TVQG), cũng vì việc chung cả, hẳn còn nhiều vị có các bản Hùng vương ngọc phả khác. Nếu quý vị vui lòng gửi cho tôi một bản copy (bằng giấy –qua Bưu điên, hoặc bằng ảnh qua email -Địa chỉ ghi ở dưới) để tôi tập hợp hiệu khảo, giới thiệu để mọi người cùng nghiên cứu thì rất tốt cho học thuật. 2.Văn bản Hùng vương ngọc phả: Theo Nguyễn Khắc Xương hiện có 3 văn bản Hùng vương ngọc phả: 1-"Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 - Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ Mùi, tháng 6, ngày 25. 2 -“Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470 - Lê Thánh Tông): " Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn", năm Hoằng Đình nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao". 3 - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông). Về mấy thông tin nói trên, đối với văn bản thứ hai ông ghi không đúng nguyên văn tên của văn bản: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện.HaiÔng Xương chỉnh lại tên sách như thế phải chăng để cho hợp với cách đọc " thế truyền". Nhân thấy thư tịch Hán Nôm của ta có một số cuốn chép thần tích truyền thuyết lấy tên sách là Ngọc bảo cổ truyện, Ngọc phả cổ lục là tác giả nói đến phong cách như truyện kể. Văn bản thứ 1 ông đọc " vĩnh truyền" thì được, còn văn bản 2 và 3 tôi đọc là "truyện" chứ không đọc "truyền" là vì vậy. Một chi tiết khác: Hoằng Định nguyên niên là năm 1601 chứ không phải “1619 –Lê Kính Tông” như ông Xương ghi. Đối với văn bản thứ nhất ông Xương chưa trình bày hay chứng minh đặc điểm của nó, chỉ căn cứ vào niên đại ghi trên sách là Thiên Phúc nguyên niên (986) đã vội coi đó là “là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các vua Hùng được soạn thành văn bản” thì rõ ràng là thiếu thuyết phục. Chính vì vậy Ban Biên Tập mới có ghi chú: “Niên đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm. Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)” [ ] [ ] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467). 3. Bản Hùng vương ngọc phả (HVNP) của Bảo tàng Phú Thọ: Văn bản tôi dùng để làm bản dịch này là một bản của Viện NCHN sao chụp lại từ nguyên bản cuốn Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện của Ty Văn hoá Phú Thọ, nay dã chuyển cho Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ. Bản này gồm 21 tờ giấy chép hai mặt x 2 trang, trang 10 dòng x 21 chữ, đúng số tờ như đã ghi ở cuói sách:“ 以上共貳十壹張dĩ thượng cộng nhị thập nhất trang/ Ở trên cộng là 21 tờ giấy” Không kể 2 tờ đầu, một tờ chụp lại trang 1 bên trong đưa ra làm bìa. 1 tờ là bản khai của xã XuânLũng huyện Sơn Vi trấn Sơn Tây về các thửa ruộng thờ và quy định lễ vật (xôi, lợn dâng cúng hàng năm) Tờ 1a: Tên sách: Hùng đồ Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện 雄圖十八葉聖王玉譜古傳Tờ 1b: Năm thực hiện việc hiệu đính và sao chép lại từ bản cổ: 皇朝弘定元年庚子冬十月吉日翰林侍讀阮仲重訂 Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật. Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính Năm Canh Tí niên hiệu Hoằng Định thứ nhất mùa đông, tháng 10 (11-1601), ngày tốt. Sao bản lưu tại Quan lang phụ đạo Hùng vương tôn điệt phụ truyền tử kế dữ Nghĩa Động xã trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ (Bản sao lưu tại nhà Quan lang phụ đạo cháu chắt của vua Hùng, cha truyền con nối, cũng xã trưởng tạo lệ hộ nhi TrungNghĩa hương giám thủ. Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao. Chữ viết: Bản sao được thực hiện bởi chuyên gia thư tả Lê Đình Hoan làm việc ở Lễ phiên ( ban ở phủ chúa Trịnh tươngứng chức năng củ bộ Lễ). Toàn bộ bản chép cùng một kiểu chữ của một người. Đó là kiểu chữ Lệ viết nghiêng rất đặc trưng cho thư pháp triều Lê. Chữ Lệ cũng bắt nguồn từ chữ Triện nhưng có những cải tạo quan trọng, do Trình Miệu 程邈một người tù làm nô lệ thời Tần Thuỷ Hoàng sáng tạo cuối Tần phát triển đầu Hán, sau trở thành một trong bốn thể chữ chính của Hán tự (chính[tức Khải], thảo, lệ, triện), là thể chữ trang trọng, có kết cấu hợp lý, được số đong cho là đẹp. Chữ lệ ngay cả hình thức chữ “đứng” (trực) của nó vốn có đặc điểm hơi nghiêng một tí về bên phải; nhưng cũng có loại nghiêng nhiều hơn (thiên). Trung Quốc chủ yếu dùng loại chữ lệ đứng (xem ảnh nền đen). Trên ảnh đã dẫn chúng ta thấy chữ lệ đứng của Trung Quốc (nền đen bên phải) và chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP chúng tôi đang nghiên cúư. Có thể tỷ lệ chưa cao, nhưng chúng ta có cứ liệu cho thấy từ đầu Lê sơ (thế kỷ XV) và Lê trung hưng chữ lệ nghiêng đã đựoc dùng để viết các tài liệu của triều đình ( x. ảnh sắc chỉ năm Đại Hoà thứ 9/ ) Vì văn bản có ít nên chưa kết luận được Lê sơ về trước có thông dụng chữ lệ nghiêng hay không, nhưng thời Lê trung hưng thì lệ nghiêng là loại chữ đựoc nhiều người ưa thích. Thời Tây Sơn và đầu Nguyễn thỉnh thoảng cũng còn, nhưng nói chung ít gặp hơn trước.Vì thế các chuyên gia Hán Nôm phần nhiều đều nhận rằng loại chữ lệ nghiêng này mang đặc điểm niên đại các thế kỷ 15 -18 khá rõ. Có một đặc điểm nữa là loại chữ này hiếm, ít người biết và nhất là khó viết, vì thế hầu như rất ít khả năng bị làm giả. Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, toi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ, nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nội dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại "vẽ đường cho hươu chạy", biết đâu có ngày "hươu" bị chạy mất chăng? Trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP- có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) bởi vì trên mục "Hồng Bàng", Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[ ]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn. []岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957) -Có thể thấy bản NĐT và bản Nham Thôn gần như là trùng khít cả về thứ tự các thế hệ: Chỉ tính từ Kinh Dương vương bắt đầu đi làm vua phương Nam. Số đời là 18 đúng như các sử sách khác vẫn chép. Các tên hiệu chữ Hán đều hoàn toàn giống nhau. Cách đọc chỉ khác nhau 1 trường hợp: NĐT đọc Việp vương, Nham Thôn đọc Diệp vương: Chữ 曄 (yè) vẫn thường có2 cách đọc: Việp/ Diệp (NĐT đọc Việ p như âm vẫn quen dùng như trong tên tước của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc). Bản tiếng Anh của Wikipedia đọc là Hoa - chữ ấy không ít người đọc nhầm là chữ Hoa vì bên cạnh có chữ Hoa. Cả hiệu của Hùng vương thứ 18 Hùng Tuyền vương bản Nham Thôn cũng viết và đọc đúng là Tuyền vương (như NĐT đọc), trên bảng đã lập ghi "Tuyên" chắc do đánh máy sót dấu. Bản tiếng Anh của Wiki thì vẫn như không ít người đọc nhầm chữ 璿 [xuán] là Duệ vương. Tiếc rằng không ít bài viết về Hùng vương trên sách báo hiện nay vẫn cứ viết "Hùng Duệ vương" bất chấp xuất xứ! Như vậy qua so sánh sơ bộ với bản Nham Thôn chúng ta có cơ sở để tin rằng các văn bàn HVNP thuộc hệ Hồng Đức nguyên niên (1470) hiện còn khá tương đồng với nhau. Những sai khác tất không tránh khỏi, nhưng chủ yếu có thể chỉ ở chi tiết và văn tự. (Tuyền và Duệ rất dễ nhầm, tôi đã lập 1 bản khảo âm tự của liên quan đến chữ 璿 để mọi người tham khảo, x. ảnh đặt sát dưới) LỜI NGƯỜI DỊCH:Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp: 1. Về nước Việt Thường: Người dịch muốn gửi đến bạn đọc vài điểm đáng lưu ý: 1. HVNP nói Kinh Dương vương 2.HVNP 2 lần nói đến nước Việt Thường: Lần thứ nhất:1 like
-
Bạc Hy Lai tuyệt thực vì cho rằng “bị đối xử bất công” Thứ Năm, 21/02/2013 20:50(NLĐO) - Cựu lãnh đạo cao cấp Trung Quốc Bạc Hy Lai đã từ chối hợp tác trong cuộc điều tra của chính phủ và tuyệt thực phản đối. Hiện ông đang phải điều trị trong bệnh viện. Ông Bạc Hy Lai. Ảnh: Reuters Một năm sau những cáo buộc liên quan tới cựu bí thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai như: tham nhũng, lạm dụng quyền lực và giết người khủng khiếp, chính phủ Trung Quốc đã không đưa ra khung thời gian chính xác mà người đàn ông này sẽ phải đối mặt với tòa án và thậm chí còn không công bố những cáo buộc chính thức. Không có cáo buộc hình sự chính thức chống lại ông Bạc nào được công bố nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc đã buộc tội ông trên Tân Hoa Xã là tham nhũng và bẻ cong những quy định của pháp luật. Hai nguồn tin khác nhau cho biết phiên tòa xét xử ông Bạc Hy Lai có thể hoãn lại sau cuộc họp Quốc hội vào tháng ba hàng năm, vì ông không đủ sức khỏe. Một nguồn tin yêu cầu giấu tên cho biết trên Reuters: “Ông ấy đã tuyệt thực 2 lần”. Tuy nhiên nguồn tin không cho biết rõ cuộc tuyệt thực kéo dài bao lâu. “Ông ấy không bị tra tấn nhưng đã ngã bệnh và được đưa tới một bệnh viện ở Bắc Kinh để điều trị”, nguồn tin cho biết. Tuy nhiên nguồn tin này từ chối cung cấp tình trạng chi tiết về bệnh tình và nơi ông Bạc đang điều trị. Một nguồn tin khác xác nhận ông Bạc đã tuyệt thực và từ chối cạo râu để phản đối vì cho rằng mình bị đối xử bất công. “Râu ông ấy rất dài. Ông ấy từ chối hợp tác. Ông ấy không trả lời các câu hỏi, phẫn nộ đập bàn và nói rằng họ không đủ điều kiện để đặt câu hỏi cho ông ấy rồi đòi ra ngoài”, nguồn tin tiết lộ. Gia đình ông Bạc không lên tiếng trước vụ việc này, chính phủ từ chối bình luận và các phóng viên cũng không thể tiếp cận các luật sư của ông Bạc Hy Lai. Ông Bao Tong - quan chức cấp cao nhất của Trung Quốc trong cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989 cho rằng việc chính phủ không công bố thông tin về vụ việc là “bất bình thường vì một thời gian dài đã qua đi”. “Điều này sẽ không tốt cho hình ảnh của Đảng. Họ đã không thực hiện việc này một cách rõ ràng. Nếu họ xử lý tốt vụ việc lớn như vụ Bạc Hy Lai thì sẽ củng cố sự tin tưởng của người dân”, ông Bao Tong nói. Ông Bao cho rằng: “Họ sẽ không tra tấn Bạc Hy Lai. Tôi đã không bị tra tấn, và ông Bạc là một cựu thành viên chính trị, vì vậy tôi không nghĩ rằng họ sẽ ngược đãi ông ta”. Linh San (Theo Reuters) ====================== Không biết khi phân tích mối tương quan giữa Mỹ và Trung Quốc với tương lai của thế giới, ngài Lý Quang Diệu có xét đến những mâu thuẫn xã hội bên trong hai quốc gia này không? Nhưng những phân tích của ngài Lý Quang Diệu rất khó phân biệt những luận điểm đó là ý tưởng chính trị của một chính trị gia chuyên nghiệp - hay trên cơ sở phân tích khoa học về các vấn đề xã hội dựa trên kiến thức của một chính trị gia?1 like
-
Năm nay chắc chưa lập giabđình, năm 29 tuổi, năm Thân có thể lập gia đình. Những câu hỏi khác có dịp thì trả lời sau vậy.1 like
-
1 like
-
con có thể xem lại các trang trước cụ thể trang 23 để biết có thực hiện được hay ko và vì sao nhé!1 like
-
Những ca chết đi sống lại hi hữu ở Việt Nam Bệnh viện trả về để gia đình lo hậu sự, thậm chí nằm bất tỉnh 20 ngày, tim ngừng đập 15 phút nhưng họ bất ngờ tỉnh lại, sống khỏe mạnh. Đó là những ca chết đi sống lại hi hữu, khoa học cũng chưa có lý giải rõ ràng, chính xác về những điều kỳ diệu này. Rút ống ô xi chờ chết …lại sống Một bệnh nhân đã bị bác sĩ "chê", cho gia đình đưa về để lo mai táng đã sống lại. Sự việc hi hữu này vừa xảy ra ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa tối 19/2. Tối 18/2, ông Nguyễn Văn Mừng, 79 tuổi, trú tại phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang- Khánh Hòa được bệnh viện chẩn đoán bị nhồi máu não, xẹp phổi, tâm phế mạn (bệnh tim)… không thể qua khỏi, bác sĩ khuyên người nhà đem về lo an táng. Tuy nhiên, đến chiều 19/2, cả nhà ông Mừng vui mừng khôn xiết khi ông... thoát khỏi lưỡi hái tử thần, nói được, ăn uống bình thường. Anh Nguyễn Văn Hoàng, con trai ông Mừng cho biết, trưa 17/2, ông Mừng uống lon nước tăng lực xong thì loạng choạng, bất tỉnh và được đưa vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa. Các bác sĩ chẩn đoán ông Mừng không sống sót qua khỏi tối 18/2, nên đã làm giấy ra viện để gia đình đưa ông Mừng về mai táng. Ông Nguyễn Văn Mừng Người nhà chuẩn bị quan tài, dựng rạp, gọi con cháu từ nơi xa về để chờ giờ tốt thì rút ống truyền ô xy. “Điều lạ là khi vừa rút ống xong, ba tôi cử động được tay. Sau đó ông chỉ vào ống thở, rút ống thở ra ông nôn đàm ra hết thì tỉnh lại” - anh Hoàng nói. Bác sĩ Cao Việt Dũng, Phó GĐ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa, cho biết đây là trường hợp có thể xảy ra khi tiên lượng của bác sĩ không chuẩn. Bệnh viện sẽ ghi nhận và kiểm tra lại trường hợp này. Bệnh viện trả về, người lạnh toát bỗng đi đứng bình thường Bệnh nhân Trần Thị Bé Năm (23 tuổi, trú tại xã An Hòa Tây, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre) được cho là bị ung thư giai đoạn cuối... bỗng dưng khỏe lại. Sự việc hy hữu này xảy ra ngày 9/9/2012. Cô Năm, con của một gia đình nông dân ở xã An Bình Tây, huyện Ba Tri, từng thi đậu vào Trường Trung cấp Kinh tế Âu Việt (khoa Du lịch) năm 2007. Đến năm 2008, các bác sĩ phát hiện cô mắc căn bệnh ung thư xương hiểm nghèo. Vào giữa năm 2012, bệnh của cô càng trầm trọng, gia đình phải đưa đi điều trị ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Bệnh quá nặng, ngày 7/9/2012 gia đình đã đón Bé Năm về nhà bằng băng ca, cơ thể lạnh toát, nằm mê man không biết gì. Tất cả mọi thứ chuẩn bị "hậu sự" từ chiếu, quần áo, nơi chôn cất… đều được người nhà chuẩn bị xong. Họ hàng, chòm xóm cũng đến đông đủ. Tuy nhiên đến sáng ngày thứ 3 thì Bé Năm tỉnh dậy và đi đứng được trong sự ngỡ ngàng của người thân và hàng xóm. Bác sỹ Trương Thị Vúng (Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Đình Chiểu,- Bến Tre) cho biết trường hợp "hồi sinh" của bệnh nhân Trần Thị Bé Năm là điều kỳ diệu mà khoa học chưa giải thích được. Tuy nhiên, cũng có thể bệnh nhân Bé Năm khỏe mạnh trở lại có thể là do tác động tổng hợp của các biện pháp điều trị Đông-Tây y kết hợp. Một bệnh nhân sống lại sau khi tim ngừng đập 15 phút Ngày 3/1/2012, Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà đã cứu sống một bệnh nhân đã bị chết lâm sàng 15 phút do bị nhồi máu cơ tim. Theo đó, vào khoảng 0h25 ngày 25/12/2011, Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng tiếp nhận ca cấp cứu bệnh nhân tên Trương Văn Dục (54 tuổi, trú 17 Lê Hữu Trác, An Hải Đông, Sơn Trà, TP Đà Nẵng). Khi nhập viện, bệnh nhân trong tình trạng ngừng tim, ngừng thở hoàn toàn, mê sâu trong thời gian khoảng 15 phút. Ông Trương Văn Dục sống lại sau 15 phút tim ngừng đập Với hiện tượng ban đầu, êkíp cấp cứu trực tiếp nhận bệnh chẩn đoán ban đầu: ngưng tim ngưng thở do nhồi máu cơ tim cấp. Đồng thời tiến hành hồi sức rất tích cực, đặt nội khí quản, sốc điện nhiều lần, tiêm liên tục 65 ống Adrenalin để cứu bệnh nhân. Sau 57 phút bệnh nhân có tim trở lại, huyết áp rất thấp nhưng vẫn còn mê sâu và thỉnh thoảng có cơn rung thất đe dọa ngừng tim. Trước tiên lượng rất nặng khó có khả năng qua khỏi và nguy cơ chết não do đã ngưng tim kéo dài trước đó, Bệnh viện Hoàn Mỹ quyết định chỉ đạo êkíp can thiệp tim mạch cấp cứu được triệu tập khẩn cấp và chuyển bệnh nhân vào phòng can thiệp dù trong tình trạng hôn mê sâu, mạch huyết áp lệ thuộc vào thuốc vận mạch liều cao, không có nước tiểu, thở máy. Tiếp tục chụp mạch vành, êkíp điều trị phát hiện động mạch liên thất trước (động mạch chính cung cấp máu cho tim) bị tắt hoàn toàn, gây nhồi máu cơ tim cấp. Ngay lập tức bệnh nhân được đặt 2 stent mạch vành để tái lưu thông mạch máu, đồng thời đặt bóng nghịch mạch động mạch chủ cho bệnh nhân. Sau 8 ngày điều trị tích cực, bệnh nhân Dục đã hồi phục gần như hoàn toàn. Theo các bác sỹ điều trị, đây là trường hợp hy hữu trong y học do bệnh nhân đã ngưng tim ngưng thở từ ngoài viện đến 15 phút, đặc biệt là não khó có thể hồi phục sau thời gian dài ngưng thở như vậy. Cụ bà chết trôi sông suốt 5 giờ bỗng sống dậy Đó là trường hợp của bà Nguyễn Thị Dí (69 tuổi, ấp 1, xã Đông Thạnh (huyện Hóc Môn, TP HCM) xảy ra ngày 10/7/2010. Theo lời kể của chị Vân - con gái bà Dí, khoảng 6h hôm đó, chị nhận được tin báo mẹ bị chết trôi sông, xác đã được vớt lên, đang chờ cơ quan pháp y đến khám nghiệm. Bà Nguyễn Thị Dí sống lại sau 5 giờ chết trôi sông Tính từ thời điểm bị dìm xuống nước từ lúc hơn 3h sáng đến khi được đưa lên bờ để lực lượng chức năng khám nghiệm tử thi, bà Dí đã ngụp lặn trong nước hơn 5 tiếng đồng hồ. Thế nhưng, từ đây bắt đầu xảy ra một chuỗi các sự kiện, khiến nhiều người dân mỗi khi nhớ lại đều rùng mình. Bởi, khi thanh niên đưa bà Dí lên khỏi mặt nước, dùng biện pháp hô hấp nhưng không phát hiện bà có triệu chứng sặc nước. Tức là trong suốt thời gian bà bị dìm xuống nước, bà không thở, vẫn không uống một ngụm nước (điều này cả công an xã cũng xác nhận với PV). Cứ nghĩ bà đã chết, người dân dùng sợi dây mây quấn quanh, đặt lên chiếc chiếu mới. Đột nhiên đôi bàn tay bà bắt đầu cựa quậy, mắt mở to, ngồi bật dậy nhìn xung quanh. Sự đột ngột sống dậy của bà khiến trẻ con, thậm chí cả thanh niên thần hồn át thần vía, bỏ chạy tán loạn vì kinh ngạc. “Mẹ tôi hoàn toàn không nhớ bất cứ điều gì vừa xảy ra, miệng chỉ ú ớ, nhìn xung quanh rồi yêu cầu dìu về nhà nghỉ ngơi. Chúng tôi liền đưa mẹ đi cấp cứu ở Bệnh viện Hóc Môn. Sau đó, mẹ được các bác sĩ cho chuyển đến Bệnh viện 115 vì sợ chấn thương sọ não. Qua hai ngày điều trị, mẹ đã có thể tự ăn, uống và các bác sĩ chẩn đoán bà hoàn toàn khỏe mạnh, không có bất cứ biến chứng nào khác lạ”, chị Vân kể. Sau lần thần chết vồ hụt, bà Dí vẫn không có bất cứ một biểu hiện nào khác lạ. Hằng ngày, bà vẫn đủ sức khỏe giúp con cháu chăm sóc đàn bò sữa, làm việc nhà lặt vặt. Câu chuyện thoát chết hi hữu của cụ Dí, theo lý giải của các chuyên gia y tế thì, có thể đó chỉ là hiện tượng “chết lâm sàng”. Khi cụ Dí bị đuối nước và được vớt lên do tác động của ngoại lực, trong điều kiện thuận lợi, các trạng thái chức năng của cơ thể được kích thích bất ngờ hoạt động trở lại. "Xí chỗ" nhà tang lễ, bỗng dưng... sống lại Sau ca mổ u não, chị Vũ Thị Hải, bà chủ nhỏ của một quầy tạp hoá - in ấn trong con ngõ 107 phố Lĩnh Nam (phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội) hôn mê suốt 20 ngày. Bệnh viện khuyên chuyển xuống “phòng đại thể” (cạnh nhà xác), gia đình đã đi đặt chỗ trong nhà tang lễ, thì bỗng dưng… chị tỉnh lại. Đầu năm 2008, những cơn đau đầu thi thoảng hành hạ chị. Tháng 10 năm đó, thấy chị ngoài chứng hay quên còn kèm những trận động kinh thường xuyên hơn, gia đình quyết định đưa chị đi chụp cộng hưởng từ và kết quả là chị bị u não. Ngày cuối cùng của tháng 10/2008, khi Hà Nội chuẩn bị bước vào giữa đỉnh của trận lụt lịch sử thì chị lên bàn mổ. Chị Vũ Thị Hải bừng tỉnh sau 20 ngày gia đình đã "canh" chỗ trong nhà tang lễ Theo người nhà chị Hải kể lại, ca mổ phức tạp hơn dự đoán vì khi mổ ra thì phát hiện khối u nằm ngay giữa rãnh não, các bác sĩ phải dừng lại để hội chẩn bởi nếu khoét sâu thêm một tí thì chị sẽ chết ngay trên bàn mổ. Sau ca mổ, chị hôn mê suốt 20 ngày, thậm chí gia đình còn chuẩn bị xong mọi thủ tục cho … về thế giới bên kia. “Rất nhiều người nhập, rồi lại ra viện, nhưng mẹ thì vẫn nằm yên. Hết bác sĩ ta rồi đến bác sĩ tây vào vạch mắt mẹ để xem giãn đồng tử chưa. Thậm chí, những ngày kế tiếp, vì bệnh viện quá đông nên có người bảo chuyển mẹ xuống “phòng đại thể” (phòng của những người gần đất xa trời, nằm cạnh nhà xác), và gia đình cũng nên tìm nơi an táng”, con trai lớn của chị Hải kể. Nghe cán bộ bệnh viện nói vậy, nhà chồng chị đã tính cả chuyện đưa chị về chôn cất ở Hưng Yên, quê chồng. Cỗ đám ma cũng đã đặt 45 mâm. Cậu em trai bên chồng thì đặt cọc 10 triệu đồng ở nhà tang lễ Phùng Hưng cho chị nằm lạnh hai ngày, chờ Hà Nội ngớt mưa thì chuyển thi thể về quê. Hai nhà nội ngoại đã thống nhất, vì gia đình chị khó khăn nên thằng lớn ở lại với bố, còn thằng nhỏ sang nhà ngoại để người chị cả nuôi. Thế nhưng, khi đúng 20 ngày sau, vợ anh bỗng tỉnh dậy và ăn uống như một “con ma đói”. Tỉnh dậy một cách thần kỳ sau cơn hôn mê, hơn một tuần sau chị được chuyển sang bệnh viện K trung ương để xạ trị, rồi thêm một tháng điều trị hồi sức ở bệnh viện bộ Nông nghiệp, bây giờ nhìn chị, dù vẫn gầy gò nhưng khuôn mặt lúc nào cũng tươi cười và ánh lên trong đôi mắt một niềm ham sống mãnh liệt. Theo Kienthuc.net1 like
-
TM nghĩ chị sinh canh Mão, nếu canh thìn thì hình dánh chồng phải thấp bé, tính tình cũng không được hiền lành, đặc điểm của chij cũng khác vậy. Việc đồng hồ và canh giờ xê dịch 10-15 phút là chuyện bình thường, còn phụ thuộc vào mùa sinh nữa. Số chị hơi vất vả đường con cái, khắc con hay sơn sẩy vài lần. Năm nay hạn thấy có thai, tin vui chắc đến tầm tháng 2,3, 7 âl. Có gì lên báo tin vui cho tm với nhé1 like
-
Hùng Vương Ngọc Phả là mảnh ghép cuối cùng, làm rõ: - Việt Thường Thị (tương đương thời nhà Chu, cần phân tích thêm một chút). - Hùng Vương XVIII: Hùng Tuyền Vương thay vì Hùng Duệ Vương (Tuyền = Suối = Suối nguồn = hợp lý). - Nghệ Tĩnh không phải Cựu Đô - nếu kết hợp dự liệu phân tích trong sách thì: làm rõ đây là quê hương vua Kinh Dương Vương tức của tổ tiên của Ngài. - Miền Thứu Lĩnh - Hà Tĩnh: Núi Thứu cũng chỉ đất Phật bên Ấn Độ, tuy nhiên theo NPHV thì rõ ràng, ý nghĩa gốc chính là quê vua Kinh Dương Vương - Đại Nhật Phật. - Ngàn Hống: 1000 = Thiên=Trời=Kinh Dương Dương; Hống: tiếng gầm của sư tử, theo Phật giáo có kinh Sư Tử Hống - bước qua Chính môn của 1 ngôi chùa thì đi vào: Cung Sư Tử, đi tới nữa sẽ ở trước điện Đại Hùng. Quê hương vua Kinh Dương Vương ở vùng Ngàn Hống, có nói trong cuốn sách Tùy Đường diễn nghĩa, của Phật Hoàng Trần Nhân Tông.1 like
-
THÔNG BÁO Trung Tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương trân trọng thông báo: Hiện Trung tâm đã được gia hạn cấp giấy phép hoạt động không thời hạn. Giấy phép bởi Bộ Khoa Học Công Nghệ cấp . Do Thứ trưởng Bộ Khoa học Công Nghệ Nguyễn Quân ký. Xin trân trọng kính báo. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em.1 like