-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 01/02/2013 in all areas
-
Sau này khi ra trường , cháu cũng sớm được ra làm việc, không phải chờ đợi. Cháu cũng sớm đạt danh vọng, văn võ đều khá cả. Nhưng vì tính hiếu thắng nên sự thăng giáng thất thường. Cháu nên công tác trong ngành Quân chính mới hợp với Mệnh của người có bộ Sat,Phá, Tham. Tiền bạc thì tán tụ thất thường, sau trung vận thì sự tích lũy mới chắc chắn.2 likes
-
Giải mã chữ Việt cổ Thứ tư 30/01/2013 07:13 ANTĐ - Hôm qua 29-1, đông đảo các nhà khoa học, nhà ngôn ngữ học và báo giới tại Hà Nội đã được nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền giới thiệu về “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” sau nửa thế kỷ gian khổ và dày công của ông, nay đã tới đích. Một đời tìm chữ cha ông để lại Cuốn sách “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” của Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã “giải mã” được chữ Việt cổ - thứ chữ của một nền văn minh rực rỡ từ thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Sau nửa thế kỷ dày công nghiên cứu, tác giả Đỗ Văn Xuyền đã đi tới đích của cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ, với hướng đi riêng là trở về với nhân dân để tìm tòi những cứ liệu lịch sử. Ông cho biết đã nhận ra vai trò to lớn của nhân dân trong việc lưu giữ và bảo tồn những di tích lịch sử của tổ tiên giúp ông hoàn thành được công trình để đời này.Nửa thế kỷ qua, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã đi không biết bao nhiêu cung đường, các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, miền núi; đình, chùa, miếu mạo… “Bất cứ khi nào, nơi nào, cứ nghe thông tin có “chữ lạ” là tôi lại lên đường. Không thiếu lần trong nhiều ngày liền, tôi chỉ ăn lương khô, thậm chí cạn kiệt tiền để đi xe khách về nhà…” - nhà nghiên cứu 77 tuổi tâm sự. Và ông vui sướng vì: “Cho đến hôm nay, người Việt Nam chúng ta có thể tự hào với bè bạn rằng, đã tìm lại được bộ chữ Khoa Đẩu - bộ chữ Tổ tiên ta sáng tạo ra từ thời tiền sử mà suốt hai nghìn năm qua, tưởng đã bị thất lạc”.Tác giả đã chứng minh được, từ thời Hùng Vương, người Việt ta đã có chữ viết, được thể hiện trên Bản đồ giáo dục thời Hùng Vương, danh sách những người dạy học thời Hùng Vương, các cuốn sách chữ Việt cổ hiện còn lưu giữ tại Bảo tàng Sơn La và trên những hiện vật còn được lưu giữ ở khắp thế giới như Trống đồng của Việt Nam đang được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Paris (Pháp)...Bộ chữ thời tiền sử “Đông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, tiên tiến và nhanh chóng - sáng tạo và sống động chưa từng thấy ở nơi nào trên thế giới”. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền khẳng định như vậy trước giới học giả trong buổi giao lưu chiều qua 29-1 do Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam, NXB Hồng Đức và Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương phối hợp tổ chức. Theo nhà nghiên cứu, trước đây, người ta cho rằng cái nôi văn minh của nhân loại là vùng Lưỡng Hà có tuổi đời C14 (phương pháp xác định thời gian bằng nguyên tử carbon 14) là 7.000 năm, sau đó đến Trung Hoa và Ấn Độ. Nhưng bất ngờ vào năm 1923, nhà nghiên cứu người Pháp Madeleine Colani phát hiện ra ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam những đồ đá, dấu tích động - thực vật và những đĩa gốm có khắc chữ có tuổi đời C14 là 10.000 năm làm chấn động giới nghiên cứu thế giới. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền cho biết, Hội nghị quốc tế về thời tiền sử ở Viễn Đông họp tại Hà Nội năm 1923 xác nhận “Văn hóa Hòa Bình của Việt Nam trước Lưỡng Hà tới 3.000 năm”. Qua các công trình khảo cổ, qua sử sách, truyền thuyết… dần dần người ta thấy thấp thoáng hiện lên những mảnh vỡ còn sót lại của một nền văn minh kỳ vĩ từ thời tiền sử của Việt Nam. Đã có những công trình nghiên cứu công phu, những dẫn chứng từ nhiều nguồn tư liệu nước ngoài và sử sách trong nước về nền văn minh này, nhưng việc dựng lại chữ viết của người Việt cổ vẫn khó thuyết phục và gặp vô vàn khó khăn. Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh đặc điểm của bộ ký tự chữ Việt cổ là không có dấu. Theo công trình của nhà nghiên cứu người Pháp Haudricourt và qua khảo sát một số bộ tộc Việt cho thấy: “Trước Công nguyên, người Việt nói không dấu. Do không có dấu nên bộ chữ Khoa Đẩu phải dùng tới hai loại phụ âm: phụ âm cao và thấp để thể hiện các từ khác nhau”.Bộ chữ Việt cổ có đầy đủ số lượng nguyên âm, phụ âm cơ bản như chữ quốc ngữ. Những nét độc đáo trong bộ chữ chỉ có thể giải thích bằng ngôn ngữ Việt. Cách phát âm của bộ ký tự này hết sức đơn giản như cách nói của những người dân quê cổ. Các phụ âm khóa đuôi dùng chung… Cũng theo tác giả Đỗ Văn Xuyền, giới nghiên cứu trong nước và nước ngoài như Anh, Czech đã xác nhận: “Ngay từ trước Công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh - loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, đặc biệt là trống đồng… cùng các hình vẽ, chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần, Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ Khoa Đẩu. Đây là loại chữ lưu truyền từ thời Vua Hùng, có hình dáng như những con nòng nọc. Chính loại chữ Khoa Đẩu này đã được nhiều học giả trong nước khẳng định như: Giáo sư Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Giáo sư Bửu Cầm, Giáo sư Đỗ Quang Vinh… Tuy nhiên, chưa có ai “giải mã” được chữ Việt cổ - thứ chữ đã bị mất từ sau khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại - kỹ càng như nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền. Gìn giữ cho con cháu Ngược dòng lịch sử, từ năm 187 sau Công nguyên - năm thái thú Sĩ Nhiếp ra lệnh triệt hạ chữ Việt cổ và thay bằng chữ Hán, đã có bao người Việt hy sinh khi muốn phục hồi lại chữ Khoa Đẩu. “Có người bị chém ngang đường khi đang mang chữ của Tổ tiên đi cất giấu”- nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền dựng lại bối cảnh lịch sử.Cho đến năm 1887, Tạp chí Khoa học của Hoàng gia Anh viết: “…thứ chữ tượng thanh của người An Nam đã không còn nữa”. Nhưng cũng thời gian đó, cuối thế kỷ 19 J Silvestre đã tìm thấy một bộ chữ Khoa Đẩu tại làng Hưng Hóa, Tam Nông, Phú Thọ. Và chữ Khoa Đẩu khắc trên tảng đá ở xã Bắc Bình (Lập Thạch, Vĩnh Phúc) cho thấy vẫn còn hàng chục quyển ngọc phả chữ Khoa Đẩu đã bị đốt đi. Sau khi chúng ta gửi đi hàng vạn tờ mẫu tự Khoa Đẩu thì không ít người đã thông báo lại: Đã tìm thấy thứ chữ này.Tấm bản đồ chưa đầy đủ và dấu tích về những người dạy học thời Hùng Vương đã là một cơ sở vững chắc, minh chứng cho sự tồn tại việc sử dụng chữ Việt cổ trong mấy nghìn năm khi chưa có chữ Hán xâm nhập. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước như vậy, việc tìm lại dấu tích chữ Khoa Đẩu là một điều hoàn toàn logic. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một bộ chữ gốc Khoa Đẩu trong nhiều bộ chữ được nhân dân Tây Bắc bảo vệ hàng nghìn năm qua. Đó còn là bộ tài liệu “Chữ Thái Tổ Tự” được Tri châu Điện Biên Phạm Thận Duật phát hiện ra từ năm 1855-1856 được NXB Văn hóa biên tập phiên dịch và in vào năm 2000, hiện còn lưu giữ ở nhiều thư viện. “Tôi đã đối chiếu, so sánh và cân nhắc rất nhiều khi chọn bộ tài liệu này đưa vào diện thử nghiệm. Trong nhiều năm, tôi đã về các vùng quê nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ, cả ngôn ngữ vùng Bách Việt cũ - để tìm cách phá bỏ lớp vỏ ngụy trang và giải mã để làm hiện nguyên hình bộ ký tự đặc biệt này. Đến nay, chúng ta đã có thể kết luận chắc chắn: Bộ chữ này là bộ chữ Việt cổ nguyên sơ” - nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền quả quyết.2 likes
-
Ra mắt cuốn sách “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” (GD&TĐ) - Chiều nay (29/01) tại Hà Nội, Nhà xuất bản Hồng Đức phối hợp với Liên hiệp các Hội Unesco Việt Nam, Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương tổ chức Lễ ra mắt cuốn sách “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” và giao lưu với tác giả Nhà nghiên cứu Chữ Việt cổ Đỗ Văn Xuyền. Cuốn sách của Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ Đỗ Văn Xuyền đã “giải mã” được Chữ Việt Cổ - thứ chữ của một nền văn minh rực rỡ từ thời các Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Cuốn sách đánh dấu hành trình 50 năm kiên trì, bền bỉ, với cái tâm trong sáng và lòng yêu đất nước sâu sắc, niềm tự hào về văn hóa Việt của tác giả Đỗ Văn Xuyền. Ông đã đi tới đích của cuộc hành trình đi tìm Chữ Việt Cổ với hướng đi riêng không giống với hướng đi của các bậc tiền bối, đó là trở về với nhân dân. Bởi ông nhận biết được vai trò quan trọng của nhân dân trong việc lưu giữ và bảo tồn những di tích lịch sử của tổ tiên giúp ông hoàn thành được công trình Chữ Việt Cổ. Trong hành trình 50 năm đầy gian nan, ông không quản ngại đi đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, miền núi; đình, chùa, miếu mạo… Bất cứ khi nào, nơi nào, cứ nghe thông tin có “chữ lạ” là ông lại lên đường. Không thiếu lần trong nhiều ngày liền, ông chỉ ăn lương khô, thậm chí cạn kiệt tiền để đi xe khách về nhà… Để đến hôm nay, người Việt Nam chúng ta có thể tự hào với bè bạn rằng: “ Chúng ta đã tìm lại bộ chữ Khoa Đẩu - bộ chữ Tổ tiên ta sáng tạo ra từ thời tiền sử mà suốt hai nghìn năm qua, chúng ta tưởng đã không còn nữa”. Tác giả đã chứng minh được, từ thời Hùng Vương, người Việt ta đã có chữ viết, được thể hiện trên Bản đồ giáo dục thời Hùng Vương, danh sách các thầy cô giáo thời Hùng Vương, các cuốn sách Chữ Việt Cổ hiện còn lưu giữ tại Bảo tàng Sơn La và trên những hiện vật còn được lưu giữ ở khắp thế giới như Trống đồng của Việt Nam đang được trưng bày trạng trọng tại Bảo tàng Paris (Pháp)... Trên cơ sở các tiêu chí khoa học đã được xác định đó, Nhà Nghiên cứu Chữ Việt Cổ Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh đặc điểm của bộ ký tự Chữ Việt Cổ là không có dấu. Theo công trình của nhà nghiên cứu người Pháp Haudricourt và qua khảo sát một số bộ tộc Việt cho thấy: trước công nguyên người Việt nói không dấu, do không có dấu nên bộ chữ Khoa Đẩu phải dùng tới hai loại phụ âm: phụ âm cao và thấp để thể hiện các từ khác nhau. Bộ chữ có đầy đủ số lượng nguyên âm, phụ âm cơ bản như chữ quốc ngữ. Những nét độc đáo trong bộ chữ chỉ có thể giải thích bằng ngôn ngữ Việt. Cách phát âm của bộ ký tự này hết sức đơn giản như cách nói của những người dân quê cổ. Các phụ âm khóa đuôi dùng chung… Theo tác giả Đỗ Văn Xuyền, từ hàng nghìn năm qua, các nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định: Việt Nam có chữ viết từ rất sớm. Các nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc đã xác nhận: “Ngay từ trước công nguyên, người Việt đã có chữ tượng thanh – loại chữ ghép chữ cái thành từ”. Điều này được thể hiện trên các di chỉ khảo cổ đồ gốm, đồ đồng của thời kỳ Đông Sơn như: lưỡi cày, đặc biệt là trống đồng…cùng các hình vẽ chữ viết trên đá cổ Sa Pa, Xín Mần. Pá Màng… theo một hệ thống nhất quán, tất cả đều thể hiện đó là những chữ viết cổ từ thời kỳ tiền văn tự, phát triển và hoàn thiện dần thành bộ chữ “Khoa Đẩu”. Chữ Việt Cổ hay còn gọi là Chữ Khoa Đẩu, chữ Vua Hùng có hình dáng như những con nòng nọc đã được nhiều nhà nghiên cứu trong nước và nước ngoài khẳng định. Cuốn sách dày120 trang, do Nhà Xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2013. Châu Anh Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh tặng hoa và tài trợ cho Nhà nghiên cứu Chữ Việt Cổ 10 triệu đồng1 like
-
(Kienthuc.net.vn) - Nhờ thuật cảm ứng tâm linh, Wolf Melin có thể đi tàu lậu vé tài tình, thoát ngục, hoặc lấy tiền từ ngân hàng không cần ngân phiếu, chứng từ. Wolf Melin nổi tiếng với thuật cảm ứng tâm linh, được Học Hiệp hội chức năng kỳ lạ Quốc tế thừa nhận là nhà cảm ứng tâm linh lỗi lạc. Có rất nhiều câu chuyện vừa lạ, vừa hài hước và thú vị về Melin được truyền lại. Cậu bé “lậu” vé tàu đi Beclin tài tình Wolf Melin sinh ra trong một gia đình công chức tại Thủ đô Vacsava, Ba Lan vào mùa đông năm 1899. Melin nhanh chóng trở thành một cậu bé ranh mãnh. Cậu có khả năng đoán đúng những suy nghĩ của mọi người. Năm 1911, khi 11 tuổi, Melin trốn nhà sang Beclin bằng tàu hỏa. Melin dùng mảnh báo cũ làm vé giả, làm chấn động dư luận. 16 tuổi, Melin trở thành nhân vật nổi tiếng về thuật cảm ứng tâm linh. Đọc đề nghị ngầm của Freud, Melin nhổ râu Einstein Năm 1916, Albert Einstein mời cơm Melin tại một quán ăn ở Thủ đô Viên, có thêm Simund Freud cùng dự. Giữa tiệc, Freud bí mật thử tài Melin. Freud không nói, nghĩ trong đầu, ngầm đề nghị Melin vào cái giá gương trong toa-let lấy cái nhíp nhổ râu, mang ra và nhổ cho Einstein ba sợi râu cằm. Nghĩ xong, Freud ăn uống tự nhiên, chủ khách nói cười vui vẻ. Melin có vẻ như không bận tâm điều gì. Tới khi tách cà phê được đặt lên bàn, Melin bỗng đứng dậy, bước vào toa-let lấy ra cái nhíp nhổ râu, đến bên Einstein, khom người, khẽ nâng cằm Einstein, nhổ ba sợi râu cằm đặt trước mặt Freud. Hai nhà bác học này kinh ngạc chứng kiến tài năng kỳ lạ của Melin. Chân dung nhà cảm ứng tâm linh Wolf Melin. Giễu cợt cảnh sát, vượt ngục đường hoàng Năm 1937, Adolph Hitler điên cuồng mở rộng chiến tranh, gây thảm họa nhân loại. Là người yêu nước chân chính và nhà tiên tri nổi tiếng thế giới, W.Melin triệu tập một cuộc họp tại kịch viện ở Vacsava, công khai tiên đoán: “Nếu Hitler dám tiến sang phương Đông, chắc chắn sẽ bị diệt vong”. Hitler biết tin, giận tím mặt. Năm 1939, sau khi xâm chiếm Ba Lan, Hitler trao giải thưởng hai mươi vạn Mác cho ai bắt sống được Melin. Để tránh đòn thù, Melin vẫn ở Vacsava, nhưng không lộ diện. Không chịu được cảnh tù túng, một đêm, Melin liều dạo phố, bị cảnh sát bắt. Ngồi trong nhà giam, bị tra tấn dã man, Melin quyết định vượt ngục, nhưng phải ra đi một cách đàng hoàng, và phải giễu cợt được đám cảnh sát ngạo mạn và tàn ác kia. Ông huy động toàn bộ tâm trí vào môn khí công, ra lệnh cho toàn thể bọn quan quân của cục cảnh sát và cảnh vệ bán vũ trang phải tập trung ở hội trường lớn để đợi lệnh. Sau khi Melin phát công, xuất hiện một hiện tượng kỳ lạ. Cả đám quan quân, mà khi nãy rất hung hăng, bỗng tên nào cũng răm rắp tuân lệnh của Melin, rầm rập bước vào hội trường. Tên cảnh sát cuối cùng bước vào phòng, Melin đứng dậy, nhìn xoáy vào cánh cửa, dùng khóa khóa lại. Melin sửa sang quần áo, vuốt lại mái tóc bù xù, ung dung bước ra khỏi cục cảnh sát. Khi bọn cảnh sát trong hội trường tỉnh lại, biết đã bị Melin lừa, liền la hét om xòm. Chúng phá được cửa, thì Melin đã biến đi rất xa. Giải 3 đề khó, Xtatin “bái phục” Về sau, Melin trốn sang Liên Xô (cũ). Có lần ông bị bắt vì cán bộ lãnh đạo coi ông hành nghề tà thuật duy tâm. Tuy nhiên, Xtalin biết đến danh tiếng Melin và rất hứng thú với thuật cảm ứng tâm linh của Melin, đã đưa ông đến văn phòng của mình để tự mình thử thực tài của Melin. Xtalin đã đưa ra ba đề hóc búa cho Melin. Chân dung Xtatin. Đầu tiên, Xtalin yêu cầu Melin rút mười vạn rúp từ một ngân hàng lớn nhất Matxcơva, không có ngân phiếu và bất cứ một chứng từ nào. Melin đến ngân hàng lấy một tờ giấy từ vở học sinh, đọc thầm lệnh xuất tiền trước mặt người thủ quĩ. Thủ quĩ xem qua giấy, liền mở két lấy mười vạn rúp trao cho Melin. Người thủ quỹ vẫn không hề biết tờ ngân phiếu giả, cho đến khi Melin mang tiền quay trở lại ngân hàng. Khi xem lại tờ ngân phiếu, người thủ quĩ ngã xuống ghế, ngất xỉu vì sợ hãi. Việc thứ hai Xtalin có lệnh dẫn Melin vào điện Kremlin, khóa lại, cảnh sát canh gác cẩn mật và yêu cầu Melin phải thoát khỏi cung điện bằng thuật cảm ứng tâm linh. Trong khoảnh khắc, Melin đã ung dung tản bộ trên đường phố cạnh điện Kremlin, vẫy tay chào người cảnh sát đang đứng trên nóc cung điện, bí mật theo dõi Melin. Dù rất phục tài của Melin, nhưng Xtalin vẫn muốn đưa ra thử thách thứ ba là yêu cầu Melin tìm ra ngôi biệt thự bí mật ở nông thôn mà Xtalin cư trú, và vào được trong nhà. Mấy hôm sau, Melin đến trước ngôi biệt thự của Xtalin ở ngoại ô Matxcơva, đi thẳng vào phòng chính, nhẹ nhàng mở cửa và tươi cười đứng trước mặt Xtalin. Xtalin không hiểu tại sao, Melin có thể vào được ngôi nhà, trong khi những người canh gác và mẹ của Xtalin cùng khẳng định là không hề nhìn thấy người nào nhỏ bé như Melin đi vào ngôi biệt thự. Theo: http://kienthuc.net.vn1 like
-
Chương X CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG "Ta chẳng phải là vị Phật đầu tiên hay cuối cùng ... đến thời điểm sẽ có một vị Phật khác xuất hiện cứu đời: Một Đấng Chí Thánh, một Đấng Đại giác cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn Đạo vô song, một Đấng là Chúa tể của các Thánh, Thần và loài người. Đấng ấy sẽ truyền dạy cho các con một Đạo: vinh diệu buổi sơ khai, vinh diệu buổi thịnh hành và vinh diệu buổi kết cục” Phật Thích Ca Mâu Ni. Các chương trước, chúng ta đã nhận biết được các dữ liệu lịch sử của Phật giáo, Bà La Môn giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo khác đều xuất phát cùng một nguồn gốc, Đức Phật A Di Đà là vua Đế Minh hay cũng chính là thần Shiva của đạo Bà La Môn, là thần Amon-Ra của tôn giáo Ai Cập cổ đại… cũng như Phật Bà Quan Âm là chính thất của Phật A Di Đà, Cửu Thiên Huyền Nữ trong Đạo giáo, là nữ thần vĩ đại Hathor của tôn giáo Ai Cập. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua Kinh Dương Vương, cũng là thần Vishnu của Bà La Môn, hay thần Ra của tôn giáo Ai Cập cổ đại, Thánh Alla của Hồi giáo, Chúa Trời của Cơ Đốc giáo… và những thần thánh lịch sử khác. Tuy nhiên, Thánh nhân của các lời tiên tri cổ kim khắp các châu lục sẽ là ai trong các thần thánh nêu trên? Hay ngài sẽ là một người khác chưa xuất hiện? Và sẽ hiện ra một cách ngoạn mục trong giai đoạn chuyển thế?. Theo các nhà chiêm tinh, trái đất của chúng ta đang bỏ lại quy luật của cung Song Ngư và đi vào quy luật của cung Bảo Bình, một sự di chuyển sẽ đưa loài người đến một kỷ nguyên thống nhất tôn giáo và khoa học, được đánh dấu bằng các lý tưởng cao hơn và bởi những nỗ lực chung. Thánh Maitreya là Đức Phật Thứ Năm và thời gian đã chín muồi cho sự phục hồi quy luật thánh thần trên trái đất. Mỗi tôn giáo phải quay lại với những chân lý vĩnh cửu, những chân lý truyền cảm hứng cho họ. Sự quay về nguồn cội là điều cần thiết cho các tôn giáo ngày nay. Thế giới đang vận động để kết thúc một thời đại và bắt đầu một thời đại mới. Bởi vì thời gian đã chín muồi cho sự xuất hiện của sự nghiệp giáo dục mới quan trọng, cuối cùng Thánh Maitreya sẽ xuất đầu lộ diện trước toàn bộ dân chúng thế giới như là một bậc thầy cho tất cả. Phật Vương Di Lạc Tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc Lạc Sơn Đại Phật còn gọi là Lăng Vân Đại Phật hay Gia Định Đại Phật, là tượng Phật bằng đá cao nhất thế giới, khởi đầu công việc tạc tượng vào năm 713 và hoàn thành sau 90 năm xây dựng. Bức tượng Phật Di Lạc này được tạc vào vách đá Thê Loan của núi Lăng Vân, nằm ở chỗ hợp lưu của ba con sông là Mân Giang, Đại Độ và Thanh Y ở miền nam tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, cách địa cấp thị Lạc Sơn khoảng 3 km về phía đông. Bức tượng đá đối mặt với Nga Mi sơn, và dòng sông chảy dưới chân của Phật. Với chiều cao 71m, bức tượng mô tả Phật Di Lạc đang ngồi với hai tay đặt trên đầu gối. Thân của tượng Phật cao 59,98 m, đầu cao 14,7m, rộng 10m, mắt rộng 3,3m, mũi dài 5,6m, miệng rộng 3,3m, tai dài 7m, cổ cao 3m, vai rộng 28m, thân thể rộng 28,5m, chân dài 10,3m, rộng 9m. Đỉnh đầu có 1.021 búi tóc và móng tay nhỏ nhất cũng đủ lớn để có thể đủ cho một người ngồi vào. Maitreya là Đức Phật thứ năm được các tín đồ chờ đợi, Đấng Cứu Thế Messian được biết đến bởi người Do Thái, hiện thân thứ mười của thần Vishnu là Kalki, được miêu tả trong kinh thánh Hindu. Tất cả những tên gọi này, được coi là một và tồn tại như nhau (Tham khảo một phần cuốn Tiếng gọi của mặt trời, tác giả Surya Green, Nxb Từ điển Bách khoa, 2009). Vậy, chúng ta hãy cùng tiếp tục xem xét lại các dữ kiện của lịch sử. Trong quá khứ, một số Thánh kinh của các tôn giáo trên thế giới do Thượng Đế và các vị Thánh thần mặt khải, con người đã cảm nhận được mối liên hệ với các vị Thánh thần vô hình. Và từ 3.000 năm tr.CN đến nay, các nhà hiền triết, các vị giáo chủ của những tôn giáo lớn đã xuất hiện, giảng đạo với giáo lý có khác biệt nhau theo từng thời kỳ, tùy theo trình độ nhân loại tại mỗi khu vực nhưng các ngài đều chung lý tưởng xây dựng nên một thế giới hạnh phúc. Ngày nay, bằng quyền năng ban ân huệ và cứu rỗi, Thượng Đế đã sáng lập ra đạo Cao Đài tại Việt Nam (1926), mà Tòa Thánh Tây Ninh là hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh - nơi Thượng Đế ngự tại thế. Cao Đài là danh hiệu của một tôn giáo mới do đức Ngọc Hoàng Thượng Đế sáng lập ra để cứu rỗi nhân loại lần thứ ba, tôn giáo này có gốc rễ từ những triết lý và bí pháp cổ xưa. Tính cách đặc biệt nhất của đạo Cao Đài là tinh thần tổng hợp và đại đồng, coi tất cả nhân loại là anh em, có cùng một nguồn gốc thiêng liêng nên buộc phải thương yêu và hiểu biết lẫn nhau, không phân biệt màu da và tôn giáo. Hơn thế nữa, với tôn chỉ: “Thiên, địa, vạn vật đồng nhất thể và bảo sinh, nhân nghĩa, đại đồng” sẽ giúp đạo Cao Đài có vai trò hòa giải, đem lại những đóng góp lớn lao cho hòa bình của nhân loại. Toàn bộ giáo lý và bí pháp Cao Đài, cũng như bản thiết thiết kế Tòa Thánh Tây Ninh được xây dựng từ một quá trình câu thông lâu dài, được hướng dẫn trực tiếp từ chính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức Lão Tử,… được minh họa trên nền mỹ thuật, kiến trúc của Tòa Thánh Tây Ninh. Thiên nhãn và vòm trời Cung Đạo Hình vẽ trên trần Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam Chung quanh Thiên Nhãn của vòm trời Cung Đạo gồm: cây đại ngọc cơ, ống xăm và hai miếng âm dương, cây tiểu ngọc cơ với vòng cung mẫu tự ABC..., một cái đĩa nhỏ để gieo tiền quẻ, một cái bàn ba chân dùng xây bàn, một lỗ tai, một bộ sách buộc băng vàng đề chữ Tứ Kinh hình một ông già có râu đen đứng trên quả địa cầu, một cái bảng đá mở ra có 3 dòng chữ Nôm. Ngoài các hình trên, còn có quyển sách, một bảng màu đen cho thấy bài thơ chữ Nôm có liên hệ Ngọc Hoàng Thượng Đế: Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền, Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên. Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế, Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên. Một bàn tay cầm bút lông từ trong mây đưa ra viết bài thơ liên hệ với Đức Phật Mẫu: Ký thành một cuốn gọi Thiên Thư, Khai Đạo muôn năm trước định giờ. May bước phải gìn cho mạnh trí, Nắm đuôi phướn Phụng đến dương bờ. Ngoài ra còn có tập giấy viết bài thơ chữ Nômliên hệ với Đức Lý Giáo Tông (nhà thơ Lý Bạch) về sứ mệnh dân tộc Việt Nam: Viết thử Thiên Thư với nét trần, Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân. Chuyển luân thế sự đưa Kinh Thánh, Trừ diệt tà ma múa bút thần. Kìa trông non Kỳ reo tiếng Phụng, Này xem nước Lỗ biến hình Lân. Công danh nước Việt tay đành nắm, Mưa móc dân sinh gắng gội nhuần. Ba bài thơ được trích chọn trong hàng trăm bài thi trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển được đưa lên vòm trời thiêng liêng kỳ diệu của Cung Đạo, diễn đạt tất cả yếu lý then chốt của nền Đại Đạo và sự tương quan đặc biệt giữa nền Đại Đạo và sứ mệnh dân tộc Việt Nam. Việt Nam là một nước nhỏ nghèo khó như nước Lỗ trước đây, mà được Thượng Đế chọn khai mở nền Đại Đạo và chính ngài làm giáo chủ là một sự may mắn ngàn năm một thuở, có đôi câu đối trước Tòa Thánh viết rằng: Nhân bố tứ phương, Đại Đạo dĩ nhân hưng xã tắc, Nghĩa ban vạn đại, Tam Kỳ trọng nghĩa chấn sơn hà. Nghĩa là: Tình thương đem rải khắp bốn phương, Cao Đài lấy đó làm hưng thịnh xã tắc, Điều nghĩa khí ban cho muôn đời, Tam Kỳ lấy đó làm rạng rỡ núi sông. Trời - Thiên nhãn và Người - ông râu đen trên quả địa cầu có thể thông công với nhau, nhờ đó nhân loại tiếp nhận được các bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn và các Đấng để lưu truyền và dạy dỗ nhân sinh về mặt vũ trụ quan, đạo lý nhân sinh, bí pháp tu luyện như Thượng đế giảng chân lý, Thánh ngôn hiệp tuyển... Hình tượng con mắt, lỗ tai và bàn tay cầm bút mang ý nghĩa Trời thấy, nghe và ghi chép tất cả, không có gì trong Càn Khôn vũ trụ này mà giấu giếm được. Từ lịch sử hình thành nên kinh sách của các tôn giáo như trình bày ở trên, chúng ta thấy có sự liên hệ thực tế giữa con người và các Đấng tâm linh vô hình, mặt khác, chúng ta cũng đã được chứng minh trong các chương sách trước linh hồn của vạn vật hữu tình là bất tử, sẽ trường tồn mãi mãi theo năm tháng (tham khảo thêm về thế giới của các linh hồn trong bộ sách Huyền Môn lược ký I, II và III, tác giả nhà ngoại cảm Nguyễn thị Thanh Lan), do vậy các nguồn tài liệu liên quan đến tâm linh cũng là những chứng cứ khách quan cần nghiên cứu và phải được kiểm chứng. Ngay chính trong lịch sử Phật giáo, cũng có những truyền thuyết về những mối liên hệ vô hình này, đặc biệt liên quan đến Bồ Tát Di Lạc: Trong Đại Tạng Kinh bản Hán dịch ghi Bồ Tát Di Lạc là tác giả của những bộ luận Du Già Sư Địa, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, Biện Trung Biên Luận Tụng, Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận. Trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng ngoài các luận nói trên còn có ghi thêm Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Pháp Tánh Phân Biệt Luận và Đại Thừa Cứu Cánh Yếu Nghĩa Luận. Tương truyền Bồ Tát Di Lạc là thầy của ngài Vô Trước, sáng tạo ra lý Du già duy thức và sau truyền trao cho Vô Trước. Theo Vasubandhu Pháp Sư Truyện, Vô Trước từng lên cung trời Đâu Suất thỉnh vấn Bồ Tát Di Lạc về lý “Không quán” của Đại Thừa, do đó mà xem Bồ Tát Di Lạc cũng là thầy của Vô Trước, còn người đời sau thì cho rằng ngài chính là Đức Phật Vương Di Lạc trong tương lai của nhân loại. Phật Di Lạc Núi Cấm, An Giang, Việt Nam Để làm rõ vị Thánh nhân của nhân loại theo những lời tiên tri của các dân tộc trên thế giới, chúng ta hãy xem qua nội dung Kinh Di Lạc độ thế, mục Bài tựa Kinh Đức Phật Di Lạc hạ sinh xuống đời, có thể nhận thấy rằng để Phật Vương Di Lạc hạ sinh thì trước đó, sẽ có sự giáng sinh một vị Phật với tôn hiệu là Phật Ngọc mà tiền thân là Đức Tôn giả Bồ Tát Đầu Nhất trong thời quá khứ, đế cứu độ chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp. Vậy thì, vị Phật Ngọc là ai và đã xuất hiện trên thế gian chưa?. Đối chiếu thực tế tại Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây, hiện tượng tâm linh này xuất hiện ngày càng dồn dập, đó là những bài thơ giáng bút qua khả năng câu thông của các nhà ngoại cảm, với nhiều bút danh khác nhau của các thánh nhân, danh nhân, các anh hùng hào kiệt trong lịch sử nước nhà, trong đó có nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - là vị “Phật Ngọc Hồ Chí Minh”, hoàn toàn trùng khớp với danh hiệu “Phật Ngọc” trong Kinh Di Lạc độ thế. Như vậy, chúng ta cũng cần phải tham khảo thông tin để nhận biết và so sánh, đối chiếu với các dữ kiện của lịch sử nhằm làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ này. Hồ Chủ tịch nói chuyện tại Đền Hùng Ảnh tư liệu tham khảo Kể năm hơn bốn nghìn năm, Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa. Hồng Bàng là Tổ nước ta. Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang. Trích Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca - Hồ Chí Minh Có rất nhiều tài liệu tâm linh như Toàn tập Hồ Chí Minh khai cơ giáng bút, Phật Di Lạc ban truyền…, trong đó bài thơ tâm linh Lời dạy của Ngọc Phật ngày 13/08/2011 mang hoàn toàn “hơi thơ” của Người: Muốn đạo, đời được chu toàn - Muôn người đoàn kết, mới an cửa nhà - Năm châu bốn biển đồng hòa - Muôn dân mới được nhà nhà hiển vinh - Đức Ngọc Phật, Hồ Chí Minh - Từ Thiên, Bác giáng Chân Kinh dạy đời - Các cháu ở khắp muôn nơi - Nhớ lời Bác dạy, sinh thời trước đây Mùa xuân là tết trồng cây, Làm cho đất nước càng ngày càng xuân, Vì đất nước tươi xanh, phải trồng cây, Vì hạnh phúc trăm năm, phải trồng người, Phải trồng cây Đức mới tồn đời sau, Sao cháu nay lại phá núi non? Phá rừng, phá biển, đâu còn môi sinh. Bao lời Bác dạy tận tình, Thương dân, từ cõi vô hình vấn vương. Nhớ câu hò xứ Nghệ, càng thương, Vì thương, Bác lại chỉ đường cháu nay. Ở đời phải sống thẳng ngay, Không phòng xăng lửa, có ngày hỏa thiêu. Hỏng đức, đời ắt phải tiêu, Bác xưa đã dạy tám điều, không dư. Lời vàng, ngắn gọn Kinh Thư, Cần - Kiệm - Liêm - Chính Chí - Công - Vô – Tư, Đó là quốc sách, không từ một ai. Đời người ngắn lắm, đâu dài! Vì dân, vì nước, đừng sai tấc lòng. Rời Trần, lòng Bác ước mong, Bốn phương con cháu như trong một nhà. Muốn giữ nghiệp nước, phải giữ đức nhà, Kính già, yêu trẻ, cả nhà từ bi. Đời người khi thịnh, lúc suy, Đạo Trời, phép nước phải thì kỷ cương. Tu tâm, cháu chớ coi thường, Trước sau phải tỏ, phải tường tổ tiên. Nước Việt Nam ta Có hơn bốn ngàn năm lịch sử, Lấy Đức làm đầu, Vua Hùng dựng nước Cảm hóa lòng người mới được như nay. Bạc tình đâu có thể lay Mà sao có cháu hàng ngày đỏ đen, Khách sạn, nhà hàng chứa nòi giăng hoa Bày ra là hỏng đức nhà. Phá văn hiến, phép nước và Đạo Trời. Bác giăng đàn, dạy cháu thời phải nhớ, Long Hoa Hội Thiên nay đã mở. Bác đợi chờ cháu ngoan hiền đức, Cháu thảo hiền, Bác nay tiếp dẫn. Độ cho cháu sang thế kỷ Hậu Tiên, Đây là lệnh của Trời, của Phật, Long Hoa Hội độ người tâm Phật. Hỡi cháu con đang tất bật muôn nơi, Có duyên phúc, cháu thời tìm đến. Long Hoa độ cháu đến bến, đến bờ, Hãy mau chân, đừng có thẩn thơ. Long Hoa Hội đã giương cờ rồi đó, Bảy trăm năm, Cửa Trời sáng tỏ. Dạy cho đời điều rõ Phật Tiên, Chùa Đồng - Yên Tử, kinh đô Phật hiền. Con nào tâm Phật, tâm Tiên, Con thảo hiền được nhận Kinh về giáo hóa. Kinh này giáng tự đâu ra, Giáng vào tâm con, tu thiện đó mà. Người dịch Kinh, mệnh là Thái Tử, Con thảo hiền của Mẹ, của Cha. Người đời trần thế, cũng như là con thôi, Đã qua bao kiếp tu rồi. Nhận truyền Kinh mới cho đời hồi xuân, Con cháu hư, Bác sẽ phạt liền. Đường tới Hậu Tiên đã gần. Con thuyền cập bến muôn phần hiển vinh. Nhớ lời Bác dạy đinh ninh, Tu mau, mới có tên mình Long Hoa. Vừa ích nước vừa lợi nhà, Năm châu bốn biển, nhà nhà bình an. Mai này tôn giáo hòa đồng, Còn mười tám nước, không còn chiến tranh. Các sắc tộc, tôn giáo một cội muôn cành, Con Trời, cháu Phật, Tiên hiền anh linh. Chỉ có một Tâm duy nhất, Tâm hòa đồng, Tâm Phật, Tâm Tiên. Để trái đất này ngàn hoa đua nở, Hoa Thiên Tiên, hoa của bầu trời. Hoa ấy chính là con người thế kỷ, Cùng hoa thiên nhiên, Bao cảnh đẹp huy hoàng, Đợi đến ngày Long Hoa Hội vẻ vang, Bác cháu ta cùng nhau đoàn tụ. Thoắt đà đã ba ngàn thu, Thỉnh Đức Di Lạc trụ trì thế gian. Sự đời khi kết khi tan, Long Hoa mới thực huy hoàng ngày mai. Cũng thông qua pháp đàm vô vi, Tam Thiên Đại Toàn Phổ Giáo Bồ Tát Lâm Thanh Điền (Thiên Phong lần thứ 3) - kênh thông tin đại diện Ngọc Hoàng Thượng Đế tại “Trần Đời” đã trực tiếp “gặp lại” Hồ Chủ Tịch - “Bác Hồ Tâm Linh” với những lời chỉ dạy gần gũi và sâu sắc của Người, trước đó, hãy cũng xem lại những lời chỉ dạy của Người tại khu di tích Đá Trông qua thông linh của nhà ngoại cảm (hiện tượng này giống phương pháp đoạt xá Phowa của Phật giáo Tây Tạng). Bác Hồ Tâm Linh khẳng định lại, chúng ta là dòng dõi của con Rồng cháu Lạc, đất nước ta là một nơi linh thiêng, là cổ tích bao đời để lại không chỉ cho riêng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, mà cho cả toàn thế giới. Vị trí phong thủy Tứ Linh của nước Việt, thứ nhất là Hồ Gươm, thứ hai là Hồ Tây, thứ ba là chùa Hương Tích và thứ tư là “chỗ cao Tứ Linh” là nơi mà Tổ tiên vua Hùng đã có công dựng nước, còn Đá Trông cũng là một nơi phong thủy tuyệt diệu của nước Việt. Tất cả các khu vực phong thủy linh thiêng phải được bảo vệ cẩn thận, nó là bảo bối của tổ quốc, nếu không biết giữ gìn thì sẽ là tai họa cho đất nước. Trong các chương trước chúng ta đã biết: Hồ Gươm là chốn linh thiêng của Phong Đô Đại Đế Lạc Long Quân và Quan Âm Bồ Tát Âu Cơ; Hồ Tây là chốn linh thiêng Phật A Di Đà Đế Minh và Phật Bà Quan Âm Vũ Tiên; chùa Hương là chốn linh thiêng của Phật Bà Quan Âm Vũ Tiên và hai em dâu của bà là Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Bồ Tát; còn “chỗ cao Tứ Linh” là “Tổ tiên của vua Hùng nằm một nơi và nơi ở vua Hùng nằm ở một nơi” được Bác Hồ Tâm Linh nhấn mạnh hai lần trong buổi nói chuyện, ý nghĩa của câu nói trên và vị trí chỗ cao Tứ Linh chính là nơi chôn cất các vua Hùng cũng sẽ được xác định trong chương này. Như vậy, thông tin tâm linh của Bác Hồ Tâm Linh là hoàn toàn chính xác và Bác Hồ Tâm Linh cũng khẳng định rằng: “cái Tâm linh của Việt Nam là đứng nhất thế giới, mọi người cần phải nghiên cứu và quan tâm, giữ gìn cái bảo bối… Nếu phần Âm có yên thì phần Trần mới được hường hồng phúc, sống là phải có Đức, từ Đức mới có Hạnh, có Hạnh mới có Phúc, trên trần gian mà được Trời độ cho thì phải sống… phải biết ơn Trời, ơn Đất”. Chúng ta tiếp tục tham khảo phần trích của bài thơ tâm linh Về 18 chi Hùng Vương, người nhận thông tin linh cảm Ông Ma Văn Cát (1931-2008), quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, ghi xong lúc 22h00’ ngày 7/1/1999. Trong bài thơ này nói số lượng các đời vua trong mỗi triều đại, trích đoạn: Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân, Di Lạc - Phật Tổ, hiện thân chính Người. Cõi Trần mù mịt khắp nơi, Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi? Thời gian, năm tháng qua trôi, Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài. Lạc Long, Di Lạc chẳng sai, Ra tay tế độ mở khai cõi đời. Đã đem đạo lý làm người, Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây. Đức nhân, lễ, nghĩa dựng xây, Làm cho xã hội đổi thay khác thường. Người như vầng Nhật Thái Dương, Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời. Người dạy sống ở trên đời, Thật thà, lương thiện là nơi an lành. Thiện tâm - bản tính Trời sinh, Đó là chí cốt tâm linh con người. Bính Thìn, năm đó ra đời, Di Lạc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần. Chính là Đức Lạc Long Quân, Tháng Ba mười tám ngày xuân thanh bình. Là ngày Phật Tổ giáng sinh, Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay. Tính đến năm Hai Ngàn này: Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất trời, Văn Lang - Bách Việt đón Người, Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì, Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy. Chính nhờ bài thơ này, chúng tôi đã có thể đối chiếu với các dữ liệu lịch sử ghi nhận trong hệ thống tranh thờ miền Bắc Việt Nam, tranh dân gian Hàng Trống và Đông Hồ mà tìm ra được số lượng đời vua trong mỗi chi của các thời đại Hùng Vương. Đồng thời cũng ghi nhận thông tin mới khẳng định vua Lạc Long Quân chính là Di Lạc Phật Vương và ngày sinh 18 tháng Ba âm lịch. Nếu theo gia phả vua Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 tr.CN lúc 41 tuổi, theo ẩn ý của bài thơ tâm linh trên thì vua Lạc Long Quân sinh vào năm Bính Thìn (theo bảng Lục Thập hoa giáp), nhận ngôi sau khi vua Kinh Dương Vương làm vua được 27 năm. Cũng tính toán như trên thì Lạc Long Quân được mẫu thân sinh ra lúc vua Kinh Dương Vương 35 tuổi. Theo gia phả ghi chép thì ngày sinh của vua Lạc Long Quân khả năng vào trong ngày 18 tháng Hai hoặc ngày 28 tháng Hai âm lịch, tuy nhiên ngày 18 tháng Ba âm lịch này cũng được nhắc lại trong những bài thơ tâm linh của Phật Ngọc Hồ Chí Minh, do vậy chúng ta khẳng định ngày 18 tháng Ba âm lịch (tháng Thìn) là ngày chọn lựa. Trong những lời tiên tri của Phật Sống Lưu Công Danh có nói “Độ 4.800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có Trăng”, câu nói này mang ẩn ý cách đây hơn 4.800 năm vua Kinh Dương Vương - Ngọc Hoàng Thượng Đế đản sinh, chứ không phải nói vua Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc phục sinh với biều tượng là “ông Trăng”. Như vậy, trước khi xác định Phật Di Lạc là ai thì chúng ta phải chứng minh Hồ Chủ Tịch chính là Phật Ngọc bằng các chứng cứ hiện thực khách quan thay vì bằng các dữ liệu tâm linh, chúng ta hãy cùng tìm hiểu cuộc đời của một vị Phật người Việt rất nổi tiếng trên thế giới, nhưng lại ít được biết tại Việt Nam, đó là “Phật Sống” Lưu Công Danh, ông là người sinh ra cùng thời đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã từng gặp và làm việc trực tiếp với Người. “Phật Sống” Lưu Công Danh Câu chuyện kể về cuộc đời Phật Sống Lưu Công Danh giống như một huyền thoại. Ông sinh ngày 29/12/1900 tại tỉnh Kiên Giang và hóa vào ngày 31/5/2003 (năm vào rừng 1934, năm ra khỏi rừng 1939, cũng năm này ông về Ấn Độ và năm 1941 sang Campuchia trụ trì ở chùa Prệp Pra). Cuộc đời ông trải qua bao thăng trầm, từ việc ra đi tìm kế sinh nhai, có cơ duyên lập gia đình với người vợ Ấn Độ, sau đó đi tu thành Phật, du hành qua nhiều quốc gia và quay trở về tổ quốc tham gia kháng chiến, được gặp nói chuyện thân mật và nhận nhiệm vụ từ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã đóng góp một phần công sức không nhỏ trong việc làm chuyển đổi nội dung đàm phán có lợi cho nước nhà khi hội đàm với đoàn Ấn Độ, cũng như làm tăng thêm uy tín quốc gia trong tiến trình ngoại giao với các nước bạn khác (Tham khảo cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, tác giả Hà Văn Thùy, Nxb Văn học, 2008). Phật Sống Ảnh trích từ cuốn Phật Sống Lưu Công Danh, Nxb Văn học, 2003 Trong cuộc gặp gỡ với bà vợ tổng thống Ấn Độ Praxa, bà là một phật tử, cùng với hai quan chức tháp tùng, ông đã nói bằng chính thứ tiếng Hindu giọng New Delhi trầm ấm: “Mừng các con tới đất nước Việt Nam. Thầy ban phước cho các con. Bữa nay thầy cho các con biết một phần của đời thầy. Chắc các con vẫn nhớ, quy định của người tu Phật, sau khi thành Phật, có thời gian hai năm để tế độ chúng sinh thì trở về trời trong giàn lửa. Nhưng năm ấy, thầy đã không về trời theo cách đó vì thầy còn có việc phải làm. Trong đêm thầy được chánh quả, Phật Tổ có dạy rằng, sau thời gian ở Ấn Độ, thầy phải về nước Phật giáo sát bên nước của thầy để khi nước nhà được độc lập thì vế tế độ đồng bào mình. Vậy theo lời Phật Tổ, thầy đã về nước anh em là Miên quốc. Thầy tế độ chúng sinh ở đó. Khi nước Việt Nam được độc lập thì theo lời Phật Tổ, thầy về nước. Nhưng lúc đó giặc Pháp trở lại xâm lược. Không còn cách nào khác, thầy phải cùng chính phủ đánh Pháp cứu chúng sinh, giữ vững nền độc lập cho Việt Nam. Cũng trong đêm thành chánh quả đó, Phật Tổ có đem giáo lý đạo Phật truyền cho thầy. Trong những điều thầy được nghe chính Phật Tổ nói: “Đạo Phật ưa sống hòa bình, nhưng nếu có bọn ác tới tàn hại chúng sinh thì phải đánh đuổi chúng đi”. Khi thầy về thì đánh nhau rất ác liệt, chính phủ Việt Nam lo cho an nguy của thầy nên khuyên thầy trở lại Cao Miên vì chúng sinh nơi đâu cũng là con của Phật Tổ, giúp cho nhân dân Miên cũng chính là giúp nhân dân Việt. Nhưng thầy xin ở lại cùng đánh giặc với đồng bào, Đức Phật Tổ dạy rằng, không được sát sinh nhưng nếu có kẻ ác muốn giết mình thì phải cùng mọi người đánh lại chúng. Hơn nữa, thầy biết rằng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Thánh nhân. Được chiến đấu dù có hy sinh đưới ngọn cờ của Bác Hồ cũng là làm tròn Phật sự”. Ông nói tiếp: “… giúp cho người Việt Nam cũng chính là giúp cho nhân dân Ấn Độ, rồi sau này, hai nước sẽ được sống hòa bình trong tình anh em”. Theo truyền thuyết, sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni đắc đạo, ngài dẫn 30.000 tín đồ đến núi Kê Túc phía Bắc Ấn Độ. Tại đây có một hang động lớn, phong cảnh đẹp lại âm u tĩnh mịch để hành đạo. Ngài tổ chức thành các nhóm thiết kế, hậu cần, thi công, bảo đảm sức khỏe… làm trong 30 năm mới hoàn hành ngôi chùa mang tên Tây Phương. Trong ngôi chùa còn giữ ấn Phật Tổ và những bảo pháp của Phật Thích Ca để dóng dấu những ai đắc quả thành Phật Sống được lưu truyền và giữ tại chùa này, không chùa nào khác trên toàn thế giới có được. Ngôi chùa nằm trong một dãy núi cao hùng vĩ, xung quanh bao bọc bởi những khu rừng già nghìn năm tuổi, có suối vây quanh, phong cảnh xung quanh thật là thủy tú sơn kỳ. Ngôi chùa nằm trong hang núi được thiết kế tráng lệ, nguy nga, giống như một cung điện, sân vườn toàn là kỳ hoa dị thảo. Tượng Phật được làm bằng đá hoa cực kỳ đẹp và tinh xảo. Bước vào trong thấy tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi chính giữa, xung quanh hương hoa tỏa mùi thơm ngào ngạt, không khí trang nghiêm cực độ. Dưới tượng Thích Ca có một vị hòa thượng ngồi xếp bằng, tay trái đưa lên ngang tim, tay phải để trên đầu gối. Thân người chỉ còn da bọc xương, hai mắt nhắm nghiền. Trước mặt có một tô nước và một đĩa hoa quả tươi. Vị này ngồi yên không thấy cử động. Ngoài cửa chùa có một vị ngồi trên một tảng đá, dựa lưng vào vách núi, hai tay chắp lại, tư thế ngồi bằng. Rễ cây bồ đề mọc phủ hai bên má. Trước mặt vị này cũng có một tô nước và một đĩa hoa quả tươi. Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp dưới cội bồ đề Động Đôn Hoàng, Cam Túc, Trung Quốc Sau khi xây xong chùa Tây Phương, Phật Thích Ca có quy định ranh giới vùng đất Phật. Chùa Tây Phương nằm trong vùng đất này. Ranh giới chia đất Phật và đất trần gian có chứng tích của Phật Thích Ca khắc vào vách đá. Trên đá có khắc một mũi tên chỉ hướng chùa Tây Phương, dưới mũi tên ghi ba chữ “Đổi Tâm Linh”, tạm hiểu có nghĩa là ai đi qua khỏi mũi tên là đất Phật thì tâm linh người đó được biến đổi thì mới đến chùa Tây Phương được. Ai đến chùa Tây Phương được sẽ đắc quả. Trước khi tới được chùa Tây Phương, ông đã gặp được phiến đá khắc chữ ngay trên đường đi, khi một cơn gió xoáy cuốn bay lá rừng làm lộ nó ra, mặt dù chỉ là một phiến đá nằm giữa rừng xanh đại ngàn mà để thấy được nó quả là chuyện không tưởng. Sau khi đắc đạo, trên đường về, biết sẽ không còn cơ hội gặp lại chùa Tây Phương một lần nữa, ông mong ước gặp lại phiến đá này và đã đạt được như ý nguyện, dường như có người dẫn đường, thật là kỳ diệu. Để tới chùa Tây Phương, phải đi qua ngôi ngôi chùa nữa, tại nơi đây các nhà sư dạy ông các bài thuốc chữa bênh bằng các loại lá, rễ, củ cây rừng; tập các phương pháp Yoga, luyện cách điều hòa nhịp tim; tập sống chung với rắn độc và cách thức xử trí khi gặp các loài ác thú; cùng với việc học thuộc các bài kinh Phật. Trong suốt quãng đường ròng rã gần 10 năm đơn thương độc mã trong rừng già hoang vắng, gặp không biết bao nhiêu hiểm nguy như đối mặt với chúa tể sơn lâm, phải vượt qua thác dữ, sông sâu. Nguy hiểm nhất là trên đường về sau khi đắc đạo, ông lạc vào một hẻm núi đá cheo leo, nhìn xuống đáy là đủ chóng mặt, chỉ cần trượt chân là mất mạng, ngủ nghỉ ngay trên vách đá, may mắn lắm thì có hốc đá chui vào nghỉ, đói ăn rêu xanh, khát uống nước rỉ ra từ vách núi, phải mất vài tháng trời mới thoát nạn. Sự tích cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni Trích Thiền tông Phật giáo, Nxb Tôn giáo Một lần, trên đường đi về, bất ngờ ông gặp một nhóm người dân tộc, họ bắt trói ông đưa lên giàn hỏa thiêu sống, lúc này ông chỉ còn biết đọc kinh mà thôi, nhưng khi lửa vừa xém tới lưng bỗng tắt ngấm, chứng tỏ ông được sự gia trì của Phật theo như lời của nhà sư trụ trì chùa Tây Phương, bằng chính bảo bối luôn đem theo bên mình là hai viên ngọc quý được trao tặng ở chùa Tây Phương. Một viên ngọc có thể uống được sữa của người mẹ đẻ con so và viên kia biết bò. Sau này, hai viên ngọc thất lạc theo dòng nước. Sau khi đắc đạo, ông ở lại chùa Tây Phương 3 tháng nữa để học thêm kinh và những lời dạy của Phật. Khi ngồi thiền định 3 ngày đêm không ăn không uống, hai tay chắp lại, hai mắt nhắm, với lòng thành kính cao độ. Mãi đến đêm thứ ba, tâm linh nhận được điều răn dạy thuyết pháp. Trước đó, tôi cảm thấy một luồng ánh sáng chói lòa sau đó có màu xanh hòa vào màu sáng, cảm giác như là gió hiu hiu, ông cố mở mắt nhưng không tài nào mở được. Toàn thân cũng không cử động được nữa, nhưng trong con người cảm thấy nhẹ nhàng, hân hoan kỳ lạ! Bỗng tai tôi nghe tiếng nói, giọng nói trầm phát ra từ đâu đó vọng tới: - Này đệ tử, nay ngươi đã đắc đạo và được công nhận là Phật sống, ngươi phải trở lại nơi xuất phát để truyền giảng đạo cho phật tử và người ngoài đời rõ nguyên lý đạo Phật chân chính. Tin ngươi đắc đạo đã được truyền đến ngôi chùa nơi ngươi xuất phát, ở đó đang mong chờ ngươi về. Ta đã gắn cho ngươi hai bảo pháp là điện cơ nhân và tâm linh đồ bằng hình thức đóng ấn lên đầu nhà ngươi 12 nốt. Từ nay cuộc sống của nhà ngươi phải hết lòng vì đạo và do ta điều khiển. Ta là thần Tam Tông chuyên lo về tôn giáo. Muốn đạo Phật tồn tại bền lâu và phát triển thì phải có lòng tin cao sâu tuyệt đối ở tâm linh, biểu hiện ra hành động từ vị chân tu đến hàng phật tử để cảm hoá mọi tầng lớp xung quanh. Lòng tin tuyệt đối, bền vững là một sức mạnh cực kỳ to lớn sẽ giúp cho Ðạo, cho quốc gia được an cư lạc nghiệp, nền đạo đức của đạo và quốc gia được toàn thiện. Muốn được thế thì phải làm được một cách hoàn chỉnh và triệt để như: Loại ra khỏi đạo Phật mọi truyền thuyết hoang đường và mê tín dị đoan trong đạo và ngoài đời càng nhanh càng tốt, để tiến tới 3 tôn giáo lớn là Phật giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo sẽ thống nhất lại để cho toàn thế giới sống trong cảnh đời đạo hoà đồng vui sống trong đoàn kết. Vì giáo chủ Jesus, giáo chủ Môhamet và giáo chủ Thích Ca đều do ta tạo lập nên. Tuy ba đạo có nhiều điều khác nhau nhưng cùng chung một việc lớn: làm thiện tránh ác, vì mọi người và đưa mọi người đến tâm linh thánh thiện. Ta đang tìm người và phương cách hoà hợp thống nhất 3 đạo lớn do ta tạo lập. Phật chỉ có một lòng thành mong muốn đem lại cho mọi người được hưởng công bằng, bác ái, giúp đỡ nhau mọi trường hợp khó khăn gặp phải: người giúp đỡ người chứ Phật không có phép màu nào để trị các bệnh tật mà con người mắc phải. Người mắc bệnh thì có người tìm mọi cách chữa trị, đó là việc làm thực tế giữa người với người. Phật không bao giờ can thiệp mà cũng không can thiệp được. Phật dạy cho mọi người phải có lòng từ bi hỷ xả với mọi người. Làm được việc này thì tâm linh sẽ được thanh thản. - Từ bi hỉ xả có nghĩa là: Không cố chấp không gây hận thù, không đố kỵ không vu oan điều ác. Không oán không hờn, không giận, có lòng thành cảm hoá người khác. Nghiêm khắc với mình, phải rộng rãi tha thứ, có lòng bao dung quảng đại. - Từ bi bác ái có nghĩa là: phải có lòng yêu thương mọi người vô hạn, cưu mang người bất hạnh. Cứu độ chúng sinh thoát khỏi cảnh trầm luân bể khổ, có nghĩa là dạy người làm thiện tránh điều ác, tà tâm. Cứu giúp người khi gặp nạn do mưu sinh cuộc sống chính đáng. Giáo hóa mọi người làm điều thiện tránh điều ác để khỏi bị lao tù, bị tra khảo, bị tàn tật do hiềm khích gây nên. Làm điều ác thất đức là mình tự tạo cho mình sa vào cảnh trầm luân bể khổ vậy. Người làm được nhiều việc thiện thì cuộc sống được vui tươi, tâm linh trong sáng và vui vì mình có ích cho mọi người. Người hành đạo không được vụ lợi, không tham danh lợi, phải làm chủ được mình trong mọi trường hợp hỉ, nộ, ái, ố, nhất là với tửu, sắc. Nghiêm cấm không được dùng mỹ nữ ca múa trước bàn thờ Phật. Ta có giảng cho Thích Ca việc : "Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời" câu này có nghĩa là: một số người nào đó vốn hiền lành, vì thiếu suy nghĩ, lỡ làm điều ác, thất đức, sau đó ăn năn, hối hận, tỉnh ngộ từ bỏ cái ác, làm việc thiện thì được hưởng ân huệ câu nói trên. Còn những hạng người từ vua, quý tộc đến thứ dân luôn nghĩ đến điều ác, làm nhiều việc ác, thất đức, không hề làm điều thiện, khi gặp tai họa thì đến cầu xin với lòng giả dối, cầu mong Phật cứu tai qua nạn khỏi để sau đó lại làm ác. Hạng người nầy không được hưởng ân huệ câu trên. Phật đâu có phép mầu nào để cứu! Phải để cho hạng người đó bị luật đời nghiêm trị nhằm răn đe kẻ khác. Còn vô số người đến cầu lộc, cầu tài, cầu duyên. Nếu hạng người nầy làm việc có nhân đức, không làm việc phi pháp thì không cần phải cầu khẩn gì cả. Còn nếu khi cầu khẩn mà lòng không thành, dạ không ngay, có tính lợi dụng thì Phật nào ban cho. Mà thực tế Phật cũng không cho được! Thích Ca từ bỏ mọi quyền quý cao sang tột đỉnh để lo cứu độ thì đâu có nghĩ tới những việc đó nữa. Khi ta đưa Thái tử đi hành đạo ta có dạy cho Thái tử 5 điều cấm như sau: 1. Nhất bất sát sinh. 2. Nhị bất vu đạo. 3. Tam bất tà dâm. 4. Tứ bất vọng ngữ. 5. Ngũ bất ẩm tửu. Riêng điều cấm thứ nhất phải hiểu như sau: không được giết người cướp của và vì tư thù vô cớ. Ðược quyền bảo vệ mình khi có kẻ muốn giết mình. Bài cầu nguyện cho các phật tử: Nay với lòng thành cầu nguyện: trên có Trời, dưới có Ðất, được chia bốn phương tám hướng cầu mong Phật tổ cải tạo cho được huệ tâm, huệ tánh, huệ nhãn, huệ nhĩ, huệ tưởng tâm linh siêu phàm hướng về Tây Phương, nay nguyện cải tà quy chánh theo Phật, lo tu tâm dưỡng tánh, luôn luôn làm đúng theo lời răn dạy của Phật. Làm không đúng xin chịu mọi hình phạt của Phật! Trong dân gian có nói: Các vị ở cõi trên được giáng thế đầu thai làm con của người trần, những người này được nổi danh, tài ba lỗi lạc, sức khoẻ phi thường, uyên thâm nhiều lĩnh vực. Hoặc có người ngớ ngẩn bỗng nổi lên thông minh. Việc nầy trong đạo Phật phải được loại ra vì mang tính hoang đường mê tín dị đoan. Ai tự xưng như vậy là kẻ mị dân, lừa bịp. Không có đấng trên trời đầu thai hay giáng thế, không thể có và không bao giờ có việc đó. Việc tồn tại của con người là do quy luật tự nhiên ban cho, tuyệt nhiên không có đấng nào can thiệp vào việc sinh tồn của con người và cũng không thể can thiệp được! Mỗi con người sinh ra có hai bảo vật: 1. Ðiện cơ nhân: sự sống. 2. Tâm linh đồ: trí tuệ. Nhưng điện cơ nhân và tâm linh đồ của mỗi người đều ở trạng thái khác nhau. Người cực mạnh, người mạnh vừa, người trung bình, người thì yếu. Vì thế cho nên sự phát triển thể chất và trí tuệ khác nhau như : có người mới sinh ra đã có thể lực cường tráng, có người bình thường bỗng phát triển toàn diện, có người thông minh kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực, có người phát triển kém. Tất cả các việc đó không phải do ăn uống mà giúp cho sự phát triển nên hay có một vị thần nào ban cho. Ðó là do bao lớp người cường tráng, thông minh đã qua đời ở mọi lứa tuổi, khi chết thì điện cơ nhân và tâm linh đồ xuất khỏi thể xác và tập hợp lại từng cặp bay lơ lửng trong không gian ở trạng thái vĩnh hằng bất diệt. Lớp lớp người sau sinh ra mà có sự trùng hợp với điện cơ nhân và tâm linh đồ của những người trước thì người sau được cộng hưởng thừa kế: cực mạnh, mạnh, trung bình, yếu mà biểu hiện ra. … Tôn giáo đẳng cấp xem thường và khinh rẻ thứ dân bần hàn mặc dù hàng thứ dân này làm ra mọi thứ nuôi sống họ và hoa quả cúng tế hàng ngày cho thần linh mà họ thờ. Cũng là tôn giáo lại đố kỵ, chia rẽ kẻ chính, kẻ tà cấm kỵ nhau. Mọi hình thức này đều do người đứng đầu tôn giáo chủ quản tạo ra cả. Vì thế ta quyết định thành lập một tôn giáo chân chính để đem lại niềm tin cho đại đa số người bần hàn đang bơ vơ và bị khinh rẻ. Số người này thật đáng thương. Muốn thu phục lòng tin và nhân tâm mọi tầng lớp trong quốc gia, ta suy nghĩ kỹ, chọn người giáo chủ hiện tại phải có quyền thế tột đỉnh, giầu sang nhất mà dám từ bỏ mọi thứ danh lợi đó để hành đạo. Người đó tiêu biểu là người xả thân vì từ bi bác ái vì người bần hàn; góp công xây dựng nền đạo đức cho xã hội mới. Cho nên ta chọn Thái tử sắp được truyền ngôi để hành đạo thực hiện Chân - Thiện - Mỹ sẽ được mọi người kính nể, lớp quyền quý kính phục. Trong người Thái tử cũng có hai bảo bối: - Ðiện cơ nhân: bảo toàn sự sống. - Tâm linh đồ: nguồn tư duy trí tuệ. Nhưng bảo bối của ta cũng vậy, mà có nội dung siêu đẳng hơn ở chỗ: - Có sự sống để làm gì? - Có tư duy trí tuệ siêu đẳng để làm gì? Tâm linh đồ sinh ra trí tuệ siêu đẳng để góp phần với mọi người tạo nên nền đạo đức mới: thương yêu nhau, xoá bỏ mọi hận thù, không tư thù cá nhân vì tư thù cá nhân dễ biến thành ra thù cả họ hàng làng nước. Từ bi hỷ xả - từ bi cứu độ - xả thân vì mọi người - không vụ lợi. Ðiện cơ nhân: Bảo toàn sự sống. Sự sống phải có ích cho mọi người, sống để làm việc thiện, sống không tà tâm. Về cứu nhân độ thế: Phật không có phép màu nào để cứu người hay giúp người đến cầu khẩn mọi điều mong ước: giàu có, tai qua nạn khỏi, công danh vững bền, con cháu thành đạt, hiển vinh. Người trần thế bị các bệnh tật thì cũng do người trần thế tìm phương cứu chữa. Phật không cứu chữa các loại bệnh tật được. Người trần thế muốn làm giàu thì nên làm giàu chân chính bằng tài sức của mình còn muốn tai qua nạn khỏi thì đừng làm điều ác, lừa gạt, gian dối, tham lam, ích kỷ thì tránh được tai họa vậy. Nguyên lý của đạo Phật: - Dạy mọi người làm điều thiện tránh điều ác. - Cải tà quy chính, tu nhất kiếp ngộ nhất thời. - Loại bỏ các thuyết hoang đường, mê tín dị đoan. - Không có việc luân hồi nhiều kiếp. - Không có Diêm Vương xử đối với người trần thế làm ác. Người làm ác nhất là các hung thần gây chiến tranh xâm lược. Tôn giáo đối với quốc gia: Tôn giáo không đứng ngoài quốc gia. Tôn giáo cũng là con dân của quốc gia, vì quốc gia bảo vệ tôn giáo nên tôn giáo phải trung thành với quốc gia, phải làm tròn nhiệm vụ công dân với quốc gia. Tôn giáo không làm chính trị, mà tôn giáo cùng quốc gia xây nền đạo đức hướng thiện, bác ái, công bằng. Ðức tin: Chân - Thiện - Mỹ góp phần cho cuộc sống thanh bình. Mỗi tín đồ tôn giáo có hai trách nhiệm: - Tôn trọng và chấp hành nghiêm minh luật pháp quốc gia ban ra vì lợi ích quốc gia. - Tôn trọng các điều nguyện, điều răn của Đạo ban hành một cách tự nguyện thành tâm và nghiêm minh. - Ðời có trước, đạo có sau nên đời đạo phải yêu thương nhau như tình cốt nhục. Ðạo phải làm gương và phải tôn trọng mọi thuần phong mỹ tục của tổ tiên truyền lại. Phần ta thuyết pháp về đạo cho ngươi nghe, ngươi nhớ mà ứng dụng khi hành đạo, không làm sai. - Thiện cũng có tiếng thơm lưu truyền cho mai sau, được đời kính trọng. - Ác cũng có tiếng xấu lưu truyền là lời nguyền rủa, bị đời oán trách. - Khi chết con người chỉ mang theo Thiện và Ác. Năm 1958 Phật Sống sang Anh cùng phái đoàn Chính phủ Việt Nam đi thăm một số nước trên thế giới. Tại Anh, ông tiếp kiến với nữ hoàng Elisabeth Đệ Nhị theo lời mời và được bà trao tặng huy hiệu hoàng gia trên có khắc chữ “Bất khả xâm phạm”. Ông còn cùng phái đoàn ngoại giao thăm hoàng gia và tiếp kiến vua Lào, nhằm xây dựng tình quốc gia anh em. Riêng sau khi đắc đạo, ông đã đi thăm các cảnh chùa nổi tiếng Trung Quốc, viếng nơi Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo tại Nepal và thăm đất nước Thái Lan. Tại Thái Lan ông cũng được nhà vua tiếp đón trọng thị với tất cả nghi lễ của một nước lấy đạo Phật làm quốc giáo. Sau này, ông xin về hoằng pháp ở một ngôi chùa ở Campuchia và tại đây, ông cũng đã tiếp kiến với hoàng gia và nhà vua Campuchia. Lúc ở hoàng cung, vua Nôrôdôm chọn người kế vị, có hỏi ông thấy hoàng tử Sihanuc thế nào? Ông nói: “Được đó, nhưng phải cái hơi bị lùn, nếu cao hơn thì ngon”. Sau đó hoàng gia Campuchia tạc tượng ông bằng bạc và thờ ở trong Chùa Bạc. Đền Angkor Wat Tỉnh Siem Reap, Campuchia Như vậy, qua niềm tin sắt đá của Phật Sống Lưu Công Danh bằng câu nói: “Hơn nữa, thầy biết rằng, dẫn dắt dân tộc Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị Thánh nhân. Được chiến đấu dù có hy sinh đưới ngọn cờ của Bác Hồ cũng là làm tròn Phật sự”, chúng ta hiểu rằng đây chính là sự thông hiểu và đồng cảm giữa một vị Phật và một Thánh nhân trong việc cùng chung gánh vác sứ mệnh của dân tộc. Đặc biệt, trong câu truyện Phật Thích Ca Mâu Ni đã lấy tên chùa là Tây Phương - hàm ý đất Tây Phương Cực Lạc của Phật A Di Dà - vua Đế Minh. Chùa Tây Phương và Chùa Cực Lạc là hai ngôi chùa cổ ở Xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất. Theo phả cũ Đế Thiên Phục Hy định đô ở vùng này, Đế Thiên Phục Hy được thờ ở Thiên Cổ Miếu trên núi chùa Tây Phương, còn chùa Cực Lạc là nơi thờ Địa Mẫu. Chùa Tây Phương Thạch Thất, Hà Tây, Việt Nam Mặt khác, cuốn Nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh cổ viết rằng: “Thái tử người Ấn Độ Tất Đạt Đa mới đến Lại Giã đất Việt tu hành đắc đạo, về nước sáng lập, theo Sa Môn Phật giáo thờ phụng thiên địa sơn thủy bách thần; thỉnh Lôi âm chân kinh ở bảo sái Tây Phương Cực Lạc nước Văn Lang thờ phụng từ Bách Việt Thiệu Tổ về trước, đến đời vua Hùng Duệ Vương gọi là Bách danh chân kinh” “Theo phả cũ còn nói rõ: Đây là trung tâm giáo chủ của 37 vương quốc theo đạo Sa Bà. Về sau, Thái tử Tất Đạt Đa đã sang đây ở chùa Sùng Nghiêm, xã Phú Lương ngày nay và đã tu thành chính quả, trở về truyền bá Phật Pháp”. “Phật Ngọc” Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, sinh ngày 19 tháng 5 nǎm 1890 tại quê ngoại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nhà nho yêu nước. Thân phụ Người là ông Nguyễn Sinh Sắc, sinh nǎm 1862 tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An.Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan sinh năm 1868, là một phụ nữ thông minh, cần cù chịu khó, thương yêu chồng con và giàu lòng nhân ái. Ngôi nhà quê nội Chủ tịch Hồ Chí Minh Làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An Thuở nhỏ tên là Nguyễn Sinh Côn hay còn gọi là Cung (Côn là tên môt con cá khổng lồ huyền thoại được nói đến trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử 365-290 tr.CN). Nguyễn Sinh Côn từ nhỏ đã lộ rõ tư chất thông minh, và có những suy nghĩ khác thường, có lần trong lớp học, học trò Côn đã sáng tác một đôi câu đối hết sức tuyệt vời, được thầy giáo và bạn bè nể phục (Trích cuốn Búp sen xanh, tác giả Sơn Tùng, Nxb Nhi đồng, 2002): Chung Sơn vượng khí thành kiên cố, Trắc Lĩnh đa vân thị lão niên. Núi Chung khí vương nên kiên cố, Non Lĩnh nhiều mây hóa lâu năm. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Từ năm 1901 đến 1905, Nguyễn Tất Thành đã được học chữ Hán với các thầy đồ nổi tiếng hay chữ và giàu lòng yêu nước ở vùng Nghệ Tịnh như Trần Thân, Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý. Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt theo học lớp dự bị trường tiểu học Pháp - bản xử ở thành phố Vinh. Ở đây, lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Tháng 5 năm 1906, Nguyễn Tất Thành vào học lớp trung đẳng tại Quốc học Huế. Học xong lớp nhất 1907 - 1908, Nguyễn Tất Thành đạ điểm xuất sắc đã vượt qua năm thứ nhất vào thẳng năm thứ hai trường Quốc học. Năm 1908 vì tham gia phong đòi giảm sưu thuế ở Trung Kỳ. Cha ông bị triều đình khiển trách vì hành vi của hai con trai. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình. Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành thường gặp gỡ một số nhà Nho yêu nước đương thời, khâm phục và ngưỡng mộ các bậc tiền bối như Đề Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu nhưng tự hỏi tại sao tất cả những con đường cứu nước của các cụ đều dẫn đến thất bại? Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy đi thẳng vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son, vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân. Sau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây và tìm chính sách để cứu nước. Ngày 5 tháng 6 nǎm 1911, Người rời Sài Gòn đi Mác-xây (Marseille) Pháp bằng cách phụ bếp cho tàu Amiran Latúsơ Têrêvin (Amiral Latouche Tréville), bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất Thành nói với người bạn thân về chuyến ra đi nước ngoài của mình: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Từ nǎm 1911 đến nǎm 1920, Người đã đến nhiều nước ở châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, nghiên cứu và học hỏi để quyết định con đường cứu nước. Tàu Đô đốc Latútsơ Têrêvin Ảnh tư liệu tham khảo Nguyễn Tất Thành với tên Văn Ba làm phụ bếp, rời Sài Gòn ngày 5/6/1911 và bắt đầu cuộc sống vừa lao động vừa tự học trên hành trình tìm đường cứu nước. Cuối năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vesailles bản yêu sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước thuộc địa. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lê Nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp và Người bỏ phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản, Người khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới là con đường của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Theo nhà sử học Mỹ, bà Stenson thì Nguyễn Tất Thành đã đến thăm tượng thần Tự Do và đã ghi cảm tưởng: “Ánh sáng trên đầu tượng thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người đấu tranh da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm 1921, tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp, xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở Tua Ảnh tư liệu Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Châu Á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927). Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp là sản phẩm tổng hòa tất của tất cả các tri thức - chính trị, triết học, xã hội lịch sử, văn học và kinh nghiệm thực tiễn được tiếp thu, bồi bổ, phát triển trong quá trình đấu tranh đầy sóng gió của Người. Nó không để chỉ tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Việt Nam, mà đây còn là bản cáo trạng luận tội chủ nghĩa thực dân nói chung, chẳng những kẻ thù của đối với các dân tộc thuộc địa của chúng mà cũng là kẻ thù đối với nhân dân lao động. Nguyễn Ái Quốc với đoàn đại biểu dự hội nghị Đệ Tam quốc tế lần thứ V, Moscow, năm 1924 Ảnh tư liệu Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội. Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Uy tín và vai trò của Nguyễn Ái Quốc làm cho đế quốc Pháp phải hoảng sợ và tìm mọi cách để ám hại. Câu kết với đế quốc Pháp, ngày 6/6/1931, mật thám Anh đã bắt giữ một cách trái phép Nguyễn Ái Quốc (khi đó Người mang bí danh Tống Văn Sơ) tại ngôi nhà số 186 phố Tam Lung, Cửu Long (Hồng Công) và bí mật giam giữ với ý định sẽ giao cho nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương. Nhờ sự giúp đỡ của các chiến sĩ yêu nước Việt Nam đang hoạt động ở Hồng Công và đặc biệt nhờ vào sự nhiệt tình của ông Lôdơbai (Loseby), một luật sư tiến bộ người Anh có thế lực ở Hồng Công, vụ án liên quan đến việc mật thám Anh bắt giữ Nguyễn Ái Quốc đã phải đưa ra tòa án tối cao Hồng Công. Vì không đủ chứng cớ buộc tội, nhà cầm quyền Hồng Công phải tuyên bố Nguyễn Ái Quốc trắng án nhưng buộc phải trở về Đông Dương, có nghĩa là đẩy vào tay đế quốc Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã khán án lên Tòa án tối cao Hòang gia Anh ở Lôn Đôn. Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bị ốm và nương náu tại gia đình Luật sư Lôdơbai. Tháng 2-1933, Tòa án tối cao Anh tuyên bố trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc. Trên đường tới nước Anh, Nguyễn Ái Quốc lại bị bắt giữ tại Xingapo rồi trả lại Hồng Công. Một lần nữa, nhờ sự giúp đỡ của ông Lôdơbai, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Trung Quốc để tiếp tục hoạt động bí mật. Từ năm 1933 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn. Ngày 28 tháng 1 nǎm 1941, Người về nước, chọn Cao Bằng làm cǎn cứ địa xây dựng tổ chức, phát động phong trào cách mạng. Vùng Khuổi Nậm Pác Bó là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương (tháng 5 nǎm 1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, nơi ra báo Việt Nam độc lập, mở các lớp huấn luyện xây dựng lực lượng cách mạng. Pác Bó có hang Cốc Bó, nơi Bác Hồ chọn làm chỗ ở và làm việc của mình. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1941, Người gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết lại đánh đuổi đế quốc, Việt gian cứu nước. Tháng 8 nǎm 1942, Người sang Trung Quốc, bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, giải qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Trong thời gian này, Người đã viết tác phẩm thơ nổi tiếng Nhật ký trong tù, cho đến nay đã được dịch ra hơn 10 thứ tiếng. Trong đó, bài thơ Ngắm trăng đơn giản mà sâu sắc: Trong tù không rựu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ, Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Tháng 9 nǎm 1943 Người được trả tự do. Tháng 3 nǎm 1944 tham dự Hội nghị các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Liễu Châu, Trung Quốc. Tháng 9 nǎm 1944, Người trở lại Cao Bằng, gửi thư cho đồng bào toàn quốc kêu gọi chuẩn bị triệu tập Quốc dân đại hội. Tháng 12 nǎm 1944, Người quyết định thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dânViệt Nam. Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân làm lễ xuất quân 16/8/1945 Thái Nguyên, Tuyên Quang, Việt Nam Ngày 9/3/1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngày 12/8/1945, Hồ Chí Minh cùng Ban thường vụ Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội, ngày 23/8/1945 thắng lợi ở Huế, ngày 25/8/1945 thắng lợi ở Sài Gòn. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Có thể coi đây là một tác phẩm “thiên cổ hùng văn” tiếp sau bài Bình Ngô đại cáo của đại thi hào Nguyễn Trãi và Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc “Tuyên ngôn độc lập” Ảnh tư liệu, Hà Nội, Việt Nam Sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền non trẻ. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời 3 tháng 9 năm 1945, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách lúc đó là động viên toàn dân chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ảnh chụp năm 1946, Hà Nội, Việt Nam “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Vậy tôi mong giới Công Thương nỗ lực khuyên các nhà công nghiệp và thương nghiệp mau mau gia nhập “Công Thương Cứu quốc Đoàn” cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”, đó là nội dung lá thư đề ngày 13/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các giới công thương Việt Nam sau khi nghe tin thành lập Công Thương Cứu quốc Đoàn và tổ chức này gia nhập Việt Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà công thương Phủ Chủ tịch ngày 18/9/1945, Hà Nội, Việt Nam Trước dã tâm của thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi cả nước. Sáng ngày 20 tháng 12nǎm 1946, trên làn sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi cứu nước của Người đã truyền đi khắp nước: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...”. Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh Ảnh tư liệu Ngày 18/12/1946, tại hang chùa Trầm, Hà Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc và phát lệnh Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Sau đó, vị sư cụ trụ trì đến chúc phúc, Người dặn sư cụ "cầu Phật phù hộ cho kháng chiến…" và tặng nhà chùa câu đối: Cao sơn hữu ý, thiên niên bút, Lưu thủy vô thanh, vạn cổ cầm. Non cao có ý, bút (lưu) ngàn năm, Nước chảy không kêu, đàn (ca) muôn thuở. Tròn 10 năm sau, ngày 13/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa lặng lẽ đến hang chùa Trầm. Hồi ký của ông Vũ Kỳ cho biết: "Hôm đó Bác đi một mình không cho ai đi theo, Bác đến chùa Trầm…". Người sỹ quan đóng quân tại chùa Trầm kể lại: "Hôm ấy Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chùa Trầm, Bác bảo chúng tôi, các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác…”. Sau này, chúng tôi mới biết là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử "Lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước”. Chiều tối về, Bác dặn thêm: "Phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân… giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hòa bình làm nơi tham quan rất tốt…”. Thăm chùa Trầm Năm 1966, Hà Tây, Việt Nam Hai văn bản tuyệt bút, ghi nhận một giai đoạn lịch sử hào hùng, mãi mãi ghi nhận trong dòng triết học, tư tưởng và văn hoá của nhân dân Việt Nam. Cụ Huỳnh Thúc Kháng được làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hết lời ca ngợi một trí tuệ siêu việt: Tầm con mắt trông cao tột bậc, Nhận rõ đại cuộc xét thấu thiên cơ. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Bộ chỉ huy và cắm cờ chiến thắng trên hầm tướng De Castries ngày 7/5/1954 Ảnh tư liệu tham khảo Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu đồng bào theo đạo Thiên Chúa ngày 10/3/1955 và Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại biểu Hội Phật giáo Việt Nam, ngày 3/1/1957. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đoàn Nghị sĩ Quốc hội Anh sang thăm Việt Nam (4/5/1957) Ảnh tư liệu Nhân dân thủ đô Sofia nhiệt liệt chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm hữu nghị nước Cộng hòa Bulgaria (8/1957) Ảnh tư liệu Trong dịp sang thăm Cộng hòa dân chủ Đức (7/1957), Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Cộng hòa dân chủ Đức đến thăm và chụp ảnh lưu niệm với các cháu thiếu nhi Việt Nam lưu học tại Đức. Ảnh tư liệu Ngày 3/3/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm đền Borobudur, nhân dịp Người thăm Cộng hòa Indonesia Ảnh tư liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam (5/1/1959) và Văn Miếu - Quốc tử giám (29/1/1960) Ảnh tư liệu Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Hồ Chí Minh. Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bác Hồ bắt nhịp bài ca kết đoàn Ảnh 3/9/1960 tại công viên Bách Thảo, Hà Nội Nǎm 1962, khi tiếp Đoàn đại biểu nhân dân miền Nam ra thǎm miền Bắc, Chủ tịch Hổ Chí Minh nói: "Hình ảnh miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi". Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Đoàn đại biểu phụ nữ các dân tộc tỉnh Hà Giang về Hà Nội ngày 25/11/1965 Ảnh tư liệu Tháng 8 nǎm 1964 đế quốc Mỹ gây ra sự kiện "Vịnh Bắc Bộ", và từ tháng 2 nǎm 1965 đã mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc và ồ ạt đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên chống Mỹ cứu nước. Tháng 7 nǎm 1966 Mỹ đã dùng máy bay ném bom Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 nǎm, 10 nǎm, 20 nǎm, hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!". Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhân sĩ trí thức Mỹ phản đối chiến tranh ở Việt Nam 17/1/1967 - Ảnh tư liệu tham khảo Bác Hồ nói chuyện với các cháu thiếu nhi trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào tỉnh Hà Bắc (9/2/1967) Ảnh tư liệu Do tuổi già sức yếu, mặc dù được các bác sĩ hết lòng cứu chữa nhưng vào hồi 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 nǎm 1969, trái tim của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập, để lại nỗi tiếc thương vô hạn cho toàn thể nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nhà văn Thu Bồn cảm tác: Đã ngừng đập một trái tim, Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng. Nỗi đau vô tận thời gian, Nhớ thương nhưng chớ lệ tràn đẫm mi. Những nhà tu hành đạo Phật ở Nhật Bản đã xem Chủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam như một vị chân nhân bởi sự hy sinh vĩ đại của Người trong việc đấu tranh giải phóng dân tộc và chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy mà sau khi Người qua đời vào ngày 2/9/1969, hòa thượng cao niên người Nhật Onishi Ryokei, trụ trì chùa Phật Bà Quan Âm Kyomydo ở cố đô Kyodo, đã sáng tác một bài thi thất ngôn tứ tuyệt để bày tỏ lòng ngưỡng mộ: Chân nhân cứu nước về trời, Lạc đường dân chúng muôn lời khóc than. Xưa nay hiếm bậc tài anh, Gió thu chiếc lá lìa cành trong mưa. Chủ tịch nhà nước Trung Quốc đã trân trọng gửi đôi câu đối viếng Người: Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất, Minh tinh quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song. Chí khí cường tráng núi sông, anh hùng xưa nay chỉ có một, Sao sáng chiếu soi vũ trụ, hào kiệt Á Âu không thể có hai. Điếu văn tiễn biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi người hiền, có đoạn viết nhấn mạnh: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch… và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta… mỗi người Việt Nam ta mãi mãi ghi lòng tạc dạ công ơn trời biển của Người.”. Lễ truy điệu và Bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh Ngày 9/9/1969, Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại quảng trường Ba Đình Sau khi Người qua đời, sự nghiệp giải phóng dân tộc vẫn tiếp diễn và cuộc chiến tranh ngày càng leo thang và khốc liệt, tội ác của quân xâm lược Mỹ ngày càng chồng chất nhưng quyết tâm thống nhất tổ quốc là không gì lay chuyển nổi. Hiện thực đẫm máu ở Mỹ Lai Ảnh chụp ngày 16/3/1968 Em bé napalm Ảnh tác giả Nick Út, năm 1972 Mùa xuân năm Mậu Thân 1968, quân và dân Miền Nam đã mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, hòa cùng thắng lợi của Miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, làm đảo lộn chiến lược và làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn đàm phán. Hội nghị Paris tại Pháp diễn ra là kết quả của quá trình đấu tranh nhiều mặt để có được, đó còn là cơ sở có tính hợp pháp khi nó là hội nghị của bốn bên. Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMNVN kí Hiệp định Hội nghị bắt đầu từ ngày 18 tháng 1 năm 1969 tại Paris, thủ đô nước Pháp. Hội nghị đã kéo dài trong 4 năm 9 tháng, qua 202 phiên họp công khai, 24 cuộc họp bí mật với sự ngoan cố đến phút cuối cùng của đế quốc Mỹ, chúng muốn “thương lượng” trên thế mạnh nhưng tình hình thực tế đã không cho phép bởi những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, đập tan cuộc không kích chiến lược với pháo đài máy bay B52 đánh vào Hà Nội. Chiến dịch ném bom rải thảm cực kỳ tàn bạo này theo các nhà nghiên cứu thì sức tàn phá của nó tương đương với 5 quả bom nguyên tử đã ném xuống Nhật Bản năm 1945, thêm vào đó với sức ép của nhân dân Mỹ và dư luận trên toàn thế giới... nên ngày 27/1/1973, đế quốc Mỹ đã phải bắt buộc ký vào “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. Pháo đài bay 52 rải bom Ảnh tư liệu Ngày 30 tháng 4 năm 1975 chính thức đánh dấu sự kiện hai miền Nam Bắc thống nhất sau hơn 20 năm chiến tranh gian khổ, hy sinh và mất mát. Hình bóng của Người là một biểu tượng vĩ đại của một dân tộc anh hùng, Người chính là linh hồn và là vị cứu tinh của một dân tộc thoát khỏi vòng nô lệ gần trọn một thế kỷ và Người là biểu tượng dẫn dắt cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc đi đến sự thống nhất vẹn toàn. Mẹ con ngày gặp lại Ảnh tác giả Lâm Hồng Long, 1975 Quả thật, Hồ Chí Minh đã trở nên bất tử trong trái tim của nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp của Người trải qua bao gian khổ, hy sinh vô cùng sôi nổi và phong phú, vô cùng cao thượng và đẹp đẽ cho ta cảm nhận một hiện thực sống động và cảm động về “Con Người”, con người Việt Nam đẹp nhất của thế kỷ XX với sự hài hòa Chân, Thiện, Mỹ. Hàng ngàn bài thơ, bài ca đã được sáng tác để ca ngợi một con người vĩ đại, trong đó Bài ca Hồ Chí Minh (Ballad of Ho Chi Minh) của Ewan MacColl (1915-1989), một ca sỹ, nhạc sỹ, nhà thơ, nhà soạn kịch người Anh gốc Scotland, sáng tác năm 1954, được trình diễn trên mọi miền trái đất, gây xúc động hàng triệu trái tim. Cảm hứng khi sáng tác bài ca này, như chính tác giả có lần tâm sự, chính là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Ewan MacColl và ca sỹ Peggy Seeger - người bạn đời của ông, đã bao lần song ca bài hát này trong niềm mến phục của thính giả, dù là ở Anh, Pháp, hay ở Cuba, Mỹ Latin…: “Hồ Chí Minh, Người đi khắp năm châu. Lòng tin mặt trời chân lý sáng soi, rọi chiếu sáng dân mình. Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh...” Ewan McColl và Peggy Seeger Ảnh chụp bởi tác giả Alamy Giáo sư Trần Văn Giàu đã nêu một nhận xét xác đáng để bình luận về sự vĩ đại của Hồ Chí Minh: “Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay ảo ảnh, khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật đang sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ Chí Minh thuộc loại hiền triết đó, vì đó mà Cụ “lớn” (Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, tác giả Trần Văn Giàu, Nxb Khoa học Xã hội, 1995). Tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh Thành phố Moscow, Liên bang Nga Hồ Chí Minh là kiểu mẫu của sự hài hòa giữa dân tộc và nhân loại, danh nhân với con người bình thường, sống giữa trần thế, gần gũi với nhân dân với những tình cảm tha thiết nhất, có sức cảm hóa, thuyết phục, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ và tự nhiên nhất đối với con người - những cảnh đời, những số phận của con người lao khổ. Hồ Chí Minh vĩ đại trong sự giản dị, giản dị trọng sự vĩ đại: Đại Nhân - Đại Trí - Đại Dũng. (Trích từ cuốn Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa thế giới, nhóm biên soạn Trần Đình Huỳnh, Nxb Văn nghệ Tp HCM, 2002). Câu cá Ảnh tư liệu Tập võ dân tộc Ảnh tư liệu Trong lĩnh vực tâm linh, chưa đầy ba tháng sau khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL ấn định nhiệm vụ cho Đông Phương Bác Cổ Học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả các cổ tích trong toàn cõi Việt Nam. Người bảo vệ, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Dương Đại Lâm kể lại: "Thời gian ở Khuổi Nậm, Pắc Bó… đầu năm 1942, Người đã dời lán cũ lên lán trên ở sâu trong rừng, ở một gốc cây to gần lán có đặt một phiến đá dán giấy đỏ viết chữ Nho, lại có bát hương lên khói y hệt một cái miếu thờ Thổ thần. Bên trong lán, có tranh Phật Bà Quan Âm và câu đối đỏ dán ở vách.”. Năm 1958, sau ngày hòa bình lập lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành kính đến thắp hương Phật Bà Quan Âm tại Chùa Hương Tích, Hà Tây. Hà Tây có nhiều di tích lịch sử, trong đó có di tích chùa Thầy và chùa Trầm, nơi ba đức Thánh Tổ tu hành đạt chính quả linh diệu, các ngài thiền sư Từ Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải cầu mưa giải hạn, chữa bệnh cứu dân… nhiều ngôi chùa Việt có bàn thờ ba vị "Tam Thánh Phật", là danh phong linh ứng lạ kỳ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam. Những năm kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sống và làm việc tại hai ngôi chùa linh thiêng này, và Hà Tây cũng chính là nơi mà “Bác Hồ Tâm Linh” thông qua nhà ngoại cảm nói về chốn địa linh mang tên “Tứ Linh” của đất nước, là nơi chôn cất các vua Hùng và còn hơn thế nữa, nơi đây là cội nguồn cổ tích và tâm linh của các dân tộc trên toàn thế giới. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh Thủ đô Hà Nội, Việt Nam Khu di tích Đá Chông Núi Tản Viên, Ba Vì, Hà Tây, Việt Nam Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hiểu sâu sắc ý nguyện của Người, phát tỏa linh khí hồn thiêng hàng nghìn năm trường tồn của dân tộc, nhà nước đã xây dựng khu tưởng niệm K9 - Đá Chông ở chân núi Tản Viên trở thành khuôn viên đẹp đẽ, trang nghiêm. Đặc biệt, trên đỉnh cao nhất trong ba ngọn núi Tản Viên, xây đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhân dân thành kính, thắp hương tưởng niệm, biết ơn Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, từ đáy lòng chân thành, đồng loạt hàng vạn ngôi chùa, đền, đình, miếu, nhà dân… ở khắp các bản làng lập bàn thờ, treo ảnh, tượng Người, ghi nhận tấm lòng biết ơn một vị Phật, ông Tiên, Thánh nhân đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi gần một thế kỷ rên xiết dưới ách đô hộ thực dân bạo tàn. Người cũng là ngọn đuốc sáng, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, là biểu tượng cho khối đại đoàn kết của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới vùng lên giành lại độc lập, tự do (trích một phần từ bài viết Yếu tố tâm linh trong tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Võ Giáp). Cuộc chiến tranh thống nhất đất nước Việt Nam cũng giống hình bóng của những cuộc chiến đã xảy ra trong lịch sử của các dân tộc khác, và có lẽ tương tự như cuộc chiến giữa những anh em hai dòng họ trong việc tranh giành lãnh thổ được mô tả trong cuốn sử thi nổi tiếng Chí Tôn Ca (Bagavad Gita) của Ấn Độ. Một bên là 5 anh em Pandava và một bên là 100 anh em Kaurava, quân đội đồng minh của đôi bên đông tới hành triệu người. Chiến sĩ Arjuna là người em thứ ba trong năm anh em Pandava, muốn từ bỏ cuộc chiến vô nghĩa này nhưng thần Krishna đã thuyết giảng về sứ mệnh của một người đối với dân tộc, Arjuna đã chiến đấu và đã chiến thắng nhưng những người anh em khác chiến tuyến đã chết hết. Cuộc chiến thực sự đã không có kẻ chiến thắng và sau đấy, Arjuna học hỏi quả đại toàn thiện Yoga từ thần Krishna - người đánh xe ngựa của mình, chính là hóa thân thứ 7 của thần mặt trời Vishnu, nhằm đạt tới sự giác ngộ toàn diện. Phải chăng nội dung sử thi Chí Tôn Ca muốn nhắn gửi những cuộc chiến đã xảy ra - đấy chính là định mệnh của một dân tộc và những người còn lại sau trận chiến, phải nhận thức được điều đó để cùng nhau hòa giải và yêu thương? (tham khảo cuốn Nhập môn triết học Ấn Độ, tác giả Lê Xuân Khoa, Trung tâm Học liệu Bộ giáo dục và cuốn Quả toàn thiện của Yoga, tác giả Đức Thánh ân A. C. Bhaktivedanta Swami Prabhupada, Nxb Tôn giáo, 2011). Krishna và Arjuna Tranh tham khảo Trong bài thơ tâm linh Lời Thiên báo Trần, bà Phạm Thị Xuyến ghi theo lời “Hồn Thiên” đọc tại đền Hòa Bình, Thái Nguyên ngày 27/10/2010, tức ngày 20 tháng 9 năm Canh Dần, có đoạn nêu yêu cầu của Thượng Thiên: Danh nhân thế giới tiếng vang toàn cầu. Thác được Nhà Trời tặng câu, Một ngày Sinh Hóa đứng đầu, không hai. Mồng hai tháng Chín (1945), không sai, Tuyên ngôn độc lập, văn bài còn ghi. Mồng hai tháng Chín (1969) Bác đi, Vào ngày lịch sử trường kỳ cho Dân. Một ngày phúc lớn, hồng ân, Một ngày Trời tặng phúc phần thành Tiên. Một ngày hai việc hồng chuyên, Một ngày Sinh Hóa thiêng liêng cho Đời. Nước Nam có một Hồn Trời, Có một Hồn đời Trời gửi cho Dân. Hồn của Ngọc Hoàng giáng Trần, Hồn của Tổ nước, hồng ân, phúc dầy. Hồn của Lạc Long Quân nay, Tái thế nước này sinh Nguyễn Sinh Cung. Sinh cho Trời, cho Nước cùng, Một hành tinh lớn ung dung ra đời. Cho nên một cửa thờ Trời, Có hai câu đối viết lời bằng thơ. Viết làm câu đối treo thờ, Theo Lệnh Trời giáng bấy giờ đến nay: Câu 1: Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngọc Phật Bác Hồ. Câu 2: Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng về nước Nam Ngọc Phật Ái Quốc giáng Trần cứu Nước, Đó là nguyện ước của Trời, Trời sinh, tạo hóa ra người Trần gian. Trời có phép xưa sinh sang, Trời sẽ có phép dạy ban cho Đời. Hồ Chí Minh là một hiện tượng văn hóa độc đáo trong thế kỷ XX, Người được coi là một huyền thoại khi còn sống, và khi Người từ giã cõi đời này đi vào cõi vĩnh hằng, ai ai cũng cảm nhận từ chiều sâu thẳm tâm linh của mình rằng, Ngưỡi vẫn luôn luôn có mặt trong cuộc sống hôm nay, ở giữa cuộc đời, sống giữa mọi người hồn hậu, thiết tha, chu đáo, tận tình. Trí tuệ và tâm hồn Người vẫn lộng gió bốn phương của thời đại, trái tim Người vẫn mãi mãi là biểu tượng cao quý của lòng nhân ái, bao dung hướng tới nhân loại cần lao, trong đó có dân tộc mình, đồng bào mình trong hành trình không mệt mỏi phấn đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh bế con gái đỡ đầu Elizabeth, bên cạnh là bà Lucie Aubrac Ảnh tư liệu ngày 27/7/1946 Toàn tập thơ văn linh cảm có tên gọi Hồ Chí Minh khai cơ, giáng bút được bắt đầu ghi lại từ ngày 25 tháng 6 năm 1999, liên quan đến Hội Long Hoa mà kinh sách của các tôn giáo đề cập đến từ xưa đến nay, trong đó nói rằng Bác Hồ Tâm Linh vâng lệnh Thượng Đế cho trần gian rõ, hay nói đúng hơn cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới bằng: Tuyên giáo chính pháp Long Hoa Hội. Từ sự kiện này, chúng ta hiểu rằng Bác Hồ Tâm linh - Phật Ngọc Hồ Chí Minh là đại diện cho Cõi Thượng Thiên ra tuyên bố chính thức về Long Hoa Hội: TUYÊN GIÁO CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI Kể từ xưa, đời cổ lai hy tại nước Hy Lạp đã xuất hiện con người tinh xảo nhất. Con người đã biết tạo dựng cho mình một cái mốc thời gian, rồi chuyển hóa dần sang thời đại năng lượng của trời đất và biết tạo dựng trong thiên nhiên. Sự chuyển hóa của loài người từ thế hệ này đến thế hệ khác, cùng tồn tại với bầu không trung hư vô của các tâm linh mà đời thường chúng ta không ai biết được. Từ cõi hư vô ấy các tâm linh được xuất thần nhập thân khai nên bút tích của lịch sử, từ nền khoa học phát triển cho đến chuyển hóa sang thần thánh, cả hai mặt đều chuyển hóa dần trong cuộc sống hiện tại từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Tôi cũng đã xuất thân từ một con người, của một thời đại hiện đại. Tôi đã sống trên trái đất và dấu ấn lịch sử đã ghi bước chân của Tôi từ Á, Âu, Phi, Mỹ, Úc châu rồi lại trở về Á châu. Nơi chôn nhau cắt rốn của Tôi là Việt Nam thân yêu! Tôi sống một cuộc sống cho đời! Làm người Tôi luôn luôn nghiên cứu sử sách của các bậc tiền bối từ đời cổ lai hy của các niên đại như: Cổ đại, Trung đại và Hiện đại; từ triết học, học thuyết tâm linh, Kinh Dịch, Mã Ấn, rồi học thuyết của chủ nghĩa Mác mà các bậc tiền bối đã để lại cho thế hệ hôm nay của thời hậu thế. Từ đó, Tôi cô đúc trong thế giới bao la của trời đất, không phải không có thánh thần, không phải không có tâm linh, mà chính cõi hư vô ấy đã chỉ đạo cho con người chúng ta xuất phát trong tâm tưởng và bộ nhớ của chính mình. Mốc thời gian do trời đất tạo hóa ra loài người của chúng ta đều do Vô Vi mà có. Nay Tôi về tuyên giáo CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI! Bằng Hồn Thiêng Tâm Linh, Tôi mang sắc lệnh của Cha Trời với danh hiệu là “ĐỨC NGỌC PHẬT HỒ CHÍ MINH” tuyên giáo Chính Pháp Long Hoa Hội để toàn thể sinh linh phải thức tỉnh lòng mình, giữ cho mình một tấm lòng nhân hậu thật trong sạch, làm điều thiện vun trồng cội đức cho toàn dân, cả cõi kiếp người, cả Đại Đức các Chư Phật, Bồ Tát từ bao kiếp xưa nay đã về hưu giao lại cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là Cha Trời phán xử, truyền chỉ sắc lệnh cho con trai Trời, con gái Trời xuống Hạ giới đầu thai mở cõi Nam Thiên Cực Lạc, mở đường sinh linh diệu hóa, xóa bỏ cõi sinh linh mà bao ngàn năm chứa chất tội lỗi. Con trai Trời, con gái Trời xuống mở Nam Thiên Cực Lạc, trên quả địa cầu chỉ còn 18 nước - có nước Việt Nam thành Liên Bang Chủng Quốc. Từ đó trở đi, Đại Đức Cha Trời chiếu sắc lệnh ban về Hạ giới cho con trai Trời, con gái Trời lãnh đạo nhân loại trong cõi Dương thế, đời người chúng ta không còn lầm than, khổ ải nữa, sự sinh tồn của con người được trường thọ. Nay Tôi mệnh danh ĐỨC NGỌC PHẬT HỒ CHÍ MINH, xin tuyên giáo CHÍNH PHÁP LONG HOA HỘI cho toàn thể nhân loại rõ để tu thành chánh qủa! Ngọc Hoàng Thượng Đế chỉnh sửa bài viết xong vào lúc 23h30’; tại 107 phố Phương Mai, quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội, Việt Nam; ngày 13 tháng Hai năm 2009; người thông linh trực tiếp ông Lâm Thanh Điền - Tam Thiên Đại Toàn Phổ Giáo Bồ Tát. Trích từ Tư liệu số 25: Thông điệp và các bài chỉ dạy của Trời năm 2009 cho Nhân Điện và nhân loại toàn cầu của tác giả Lâm Thanh Điền. Cuối cùng, chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: Có người nào đã đúc kết được tinh hoa của một dân tộc hay hay không? Nếu có thì Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một trong những con người như vậy. Nhà thơ Osip Mandelxtamm có ấn tượng rất là sâu sắc sau lần gặp thân mật với Nguyễn Ái Quốc, ông đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ đó là nền văn hóa của tương lai… Qua dáng điệu trang nhã và giọng nói chậm rãi của Nguyễn Ái Quốc, người ta nghe thấy vọng lại âm thanh của ngày mai, âm thanh trầm hùng của của đại dương bao la tình hữu ái”. Thực tế, chúng ta cũng đã thấy sự sáng suốt và thấu hiểu tinh hoa của các giá trị văn hóa Đông Tây của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phật Ngọc Hồ Chí Minh đã từng nói với một nhà báo: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức. Tôn giáo Jesus có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách thích hợp với điều kiện thực tế nước ta. Khổng Tử, Jesus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” (trích Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Nguyễn Ngọc Thêm, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1997). Không phải ngẫu nhiên mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc, cũng không phải ngẫu nhiên Người được Đại Hội đồng UNESCO - Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (The United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization), đã vinh danh Người trên toàn thế giới: “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất”. Nghị quyết có viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.". Những hiện vật của thời các vua Hùng dựng nước tự nói lên sự tồn tại của nó từ nhiều thiên niên kỷ trước Công nguyên. Người dân nước Văn Lang đã xây dựng một nền văn hiến vô cùng rực rỡ, ngày nay đọc lại những trang sử của cha ông để lại, chúng ta bồi hồi nghĩ về con đường thiên lý chiều sâu lịch sử: Nghìn năm cũ đang hồi xuân thắm lại, Ta đứng vậy, ngẩn ngơ mà ngắm mãi. Và càng ghi sâu công ơn của Chủ tịch Hồ Chủ Tịch: Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại, Sau bốn nghìn năm ta lại là ta. Thơ Tố hữu. Chuyển Luân Thánh Vương Bao giờ đến Hội Long Hoa? Đó là câu hỏi đã có từ hàng ngàn năm trước, câu hỏi ấy càng trở thành cấp bách ở những năm cuối cùng của thế kỷ XX, người ta bàn tán với nhau rằng đến năm 2000 tận thế xảy ra thì lúc ấy Hội Long Hoa xuất hiện, Đức Phật Vương Di Lạc ra đời cứu vớt những người tu phước hành thiện, còn những kẻ ác thì phải đọa địa ngục. Thế rồi dân gian đã tưởng tượng ra Long Hoa chính là cây xương rồng, rồi thì nhà nhà đều trồng cây xương rồng để trừ ma yếm quỷ, và tạo duyên để Đức Phật Vương Di Lạc hạ sinh, và cho tới nay thì "Ông bụng bự vui tính" vẫn còn ở tận đâu đâu nhưng niềm tin của con người vẫn còn vô cùng mãnh liệt. Trong quyển Phật Tông Nguyên Lý, khi Đức Phật Thích Ca sắp viên tịch, đệ tử của Ngài là Ananda rơi lụy hỏi rằng: "Khi Tôn Sư nhập Niết Bàn rồi, còn ai dạy bảo chúng con?" Đức Phật đáp: "Ta chẳng phải vị Phật đầu tiên hay cuối cùng, ngày giờ đến, sẽ có một Đấng khác xuất hiện cứu đời, một Đấng chí thánh, một Đấng đại giác, cực kỳ cao thượng, một Đấng dẫn Đạo vô song, một Đấng Chúa Tể Thánh, Thần và loài người, Đấng ấy sẽ truyền dạy các con một mối Đạo vi diệu buổi sơ khai, vi diệu buổi thịnh hành và vi diệu buổi kết cuộc, Đấng ấy sẽ xướng xuất một đời sống đạo đức hoàn toàn thuần khiết", một lần nữa khẳng định Đức Phật Vương Di Lạc sẽ ra đời và chuyển luân pháp vương tại nhân gian. Theo Kinh Di Lạc Thượng Sinh và Kinh Di Lạc Hạ Sinh, vị Bồ Tát này xuất thân từ một gia đình Bà La Môn, về sau làm đệ tử Phật, nhập diệt trước Phật, dùng thân Bồ Tát trụ ở cõi trời Đâu Suất thuyết pháp cho các vị trời ở cõi này. Di Lạc Vương Phật là vị Phật tương lai, giáng sinh xuống cõi trần vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, làm Giáo chủ Đại Hội Long Hoa, thay mặt Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế mà làm vua quản lý Càn Khôn thế giới và vạn linh. Tượng Đức Phật Di Lạc mạ vàng Chùa Đại Kim Phật, Quý Châu, Trung Quốc Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh điển chính thức nói về Di Lạc có đến sáu bộ. Sáu bộ kinh này thuật về việc sinh lên cõi trời Đâu Suất, từ cõi trời Đâu Suất giáng sinh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật, quốc độ, thời tiết nhân duyên, chủng tộc, xuất gia, hành đạo và chuyển pháp luân của Bồ Tát Di Lạc. Sáu bộ kinh bao gồm: - Kinh Quán Di Lạc thượng sinh; - Kinh Di Lạc hạ sinh; - Kinh Di Lạc lai thời; - Kinh Quán Di Lạc Bồ Tát hạ sinh; - Kinh Di Lạc hạ sinh thành Phật; - Kinh Di Lạc Đại Thành Phật. Tựu trung, 6 bộ kinh trên được chia làm hai loại, đó là Thượng sinh và Hạ sinh. Tín ngưỡng Thượng sinh cho rằng hiện nay Bồ Tát Di Lạc đang nói pháp trên cung trời Đâu Suất, các kinh điển Thượng sinh diễn tả tỷ mỷ về cõi trời này, đây là tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục. Tuy là cõi Dục, nhưng cõi trời này có những cái đặc thù mà các tầng trời khác không có. Thiên cung Đâu Suất có hai phần là Nội viện và Ngoại viện, thiên chúng ở Ngoại viện vẫn hưởng thú vui ngũ dục nên dễ bị đọa lạc, chỉ có tại Nội viện, nơi Bồ Tát Di Lạc đang thuyết pháp thì không khác cảnh giới Cực Lạc của Phật A Di Đà. Nếu người phát nguyện vãng sinh về nội viện thiên cung Đâu Suất, nhất tâm giữ giới tu thiện thì sau khi mạng chung sẽ được vãng sinh. Tín ngưỡng Thượng sinh có từ rất sớm ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc đầu tiên có ngài Đạo An (314-385), Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp, Huệ Nghiêm, Đạo Uông, Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Võ… đó là những danh tăng có ảnh hưởng rất lớn giới Phật giáo đương thời. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang, Khuy Cơ cũng hoằng dương tín ngưỡng Thượng sinh Đâu Suất và trở thành truyền thống của tông Pháp Tướng. So với tín ngưỡng Thượng sinh, tín ngưỡng Hạ sinh lại rất phổ biến, tín ngưỡng này cho rằng tương lai Bồ Tát Di Lạc sẽ giáng sanh xuống cõi Diêm-phù-đề, thành Phật dưới cội Long Hoa và thuyết pháp ba hội để cứu độ chúng sinh, vì thế có thuyết Long Hoa Tam Hội. Nếu chúng sinh tu tạo nhân duyên, phước báo, trụ sinh ở Diêm-phù-đề khi Phật Di Lạc giáng sinh thì sẽ được Phật giáo hóa. Đời Lưu Tống, vua Minh Đế (tại vị 465-471) soạn Long Hoa Thệ Nguyện Văn, Châu Ngung soạn Kinh Sư Chư Ấp Tạo Di Lạc Tam Hội Ký, Văn Tuyên Vương Tề Cánh Lăng soạn Long Hoa Hội Ký, ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn Lập Thệ Nguyện Văn, tất cả đều nói về thuyết Di Lạc hạ sinh. Do tín ngưỡng Hạ sinh được các vua chúa tôn sùng, nên việc khắc tạo tượng Phật Di Lạc ở Trung Quốc phát triển cực thịnh. Tượng Di Lạc được khắc tạc vào núi Thạch Thành cao đến hơn 300m vào đời Nam Tề, Hiến Văn Đế đời Bắc Ngụy cũng tạo rất nhiều tượng Di Lạc ở Vân Cương Đại Đồng, Long Môn… việc tạo tượng Di Lạc ở Trung Quốc cũng ảnh hưởng nhiều đến các nước Triều Tiên, Nhật Bản. Phật Di Lạc Tạc vào vách núi Lạc Sơn, Trung Quốc Phật Di Lạc được thờ cúng rất phổ biến trong dân gian các nước Á Đông. Ở Trung Hoa, tín ngưỡng Di Lạc đã được thịnh hành từ lâu đời, thời Tây Tần xuất hiện tượng Di Lạc ở động đá chùa Bính Linh, Cam Túc. Tượng Di Lạc trước đời Ngũ Đại, Tống, chủ yếu có hình Bồ Tát và Như Lai, đều được làm theo các kinh Di Lạc thượng sinh kinh và Di Lạc hạ sinh kinh. Tượng ngài chủ yếu thể hiện hình dáng Bồ Tát thuyết pháp với chư thần ở Đâu Suất Thiên Cung. Tượng ngài lúc này mặc trang phục Bồ Tát, hai chân ngồi đan chéo nhau, hoặc ngồi bán già tư duy, vế phải hạ xuống, tay phải chống vào má thể hiện ngài ở cung Đâu Suất đang chọn ngày hạ sinh. Tượng Phật Di Lạc hình Như Lai biểu hiện hình tượng sau khi Di Lạc trở thành Phật và hầu như không có gì khác lớn so với Phật Thích Ca. Ở Trung Hoa, vào khoảng thời Bắc Ngụy dần dần tính ngưỡng đối với Di Lạc, đồng thời cũng bắt đầu xuất hiện tượng Phật Di Lạc mặc áo Phật. Sau thời Ngũ Đại, trong dân gian còn có tượng Di Lạc cười (tham khảo bài viết Tìm hiểu về tín ngưỡng Di Lạc, tác giả Thích Nguyên Hiền, 2000). Trong nội dung cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã viết về kinh Di Lạc và nước Âu Việt tức Âu Lạc hay nước Văn Lang, phân dã thuộc hai sao Dực, Chẩn như cổ thư đã nói: Liền sai tả hữu đem văn phòng tứ bảo đến từng người, ai nấy đều ngầm hiểu là việc này đã sắp sẵn cho Ngô Tử Chương, cho nên đều lấy lời lẽ khác nhau để từ tạ. Đến lượt Bột, Bột cũng muốn tỏ rõ tài năng của mình, liền không từ chối mà nhận lấy, diêm Bá Tự trong lòng thầm nghĩ: "Nực cười thay cho kẻ thiếu niên chẳng thấu lẽ đời. Hãy xem hắn ta làm ăn ra sao!". Liền đứng dậy thay áo, lệnh cho một viên lại đứng ngay cạnh Bột: - Xem y làm được câu nào, báo cho ta biết câu ấy. Ta sẽ có cách phán xử. Bột trải giấy ra mặt án, cất bút lên viết ngay: Quận cũ Nam Xương, phủ mới Hồng Đô. Viên lại đọc kỹ thưa lên, Diêm Bá Tự cười: Ai mà chẳng viết thế! Câu tiếp: Giữa khoảng hai sao Dực, Chẩn - Tiếp giáp hai sông Hành, Lư. Diêm Bá Tự cất tiếng: Đó là chuyện cũ. Lại báo tiếp: Do Tam giang mà nối với Ngũ Hồ - Mở Di Kinh dẫn về Âu Việt. Diêm Bá Tự không nói gì. Các vỉên lại báo liên tiếp câu này sang câu khác, Diêm Bá Tự chống cằm ngồi ngẩn ra nghe. Đến câu: Chiếc cò bay với ráng xa, Sông thu cùng với trời xa một màu. Diêm Bá Tự kinh ngạc: - Thằng bé này kỳ lạ! Thật đúng là thiên tài! Mau đem chén lớn ra đây để rót thêm hứng cho văn từ nào! Lát sau bài văn xong, tả hữu đọc hết, bỗng Ngô Tử Chương đứng lên nói: - Bài văn này đâu phải xuất từ đại tài của Vương huynh, mà là một sự giả mạo. Nếu không tin, Tử Chương này xin đọc, một chữ cũng không sai. Mọi người kinh ngạc, thấy Ngô Tử Chương đọc thuộc làu từ "Quận cũ Nam Xương..." cho đến tận câu "Còn mong các ngài xét cho". Ai nấy đều sợ hãi. Bột liền cất tiếng: - Ngô huynh thật có công nhớ kỹ, không kém gì Lục Tích thuở xưa. Nhưng sau bài văn, tiểu đệ còn có một bài thơ nhỏ nữa, không rõ Ngô huynh có đọc được chăng? Ngô Tử Chương không biết trả lời sao, đành ôm nỗi xấu hổ mà ngồi xuống, lại thấy Vương Bột viết một mạch xong ngay bài thơ sau: Gác Đằng cao ngất bãi sông thu, Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu. Nam Phố mây mai quanh nóc vẽ, Tây Sơn mưa tối cuốn rèm châu. Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi, Mây phen vật đổi với sao dời. Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá, Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài. Diêm Bá Tự cùng Vũ Văn Quân xem xong, đều hết lời ngợi ca từng câu từng chữ, tặng ngay năm trăm tấm lụa, tài danh từ đó càng ngày càng nổi. Hai người xuống đài, trông thấy từ góc Tây Bắc, một luồng khí đỏ như vẩy rồng thành một đám đài lớn, bốc lên ngùn ngụt. Tử Yên vội giương mắt nhìn theo, không giấu nổi vẻ kinh hoàng, vội vàng thưa: - Đó chính là khí Thiên tử vậy, làm sao lại ở chỗ ấy cho được? Dượng Đế vội quay lại nhìn quả nhiên sắc đỏ bừng bừng, hiện đủ năm màu, che khắp nửa bầu trời, thật mười phần kỳ lạ. Dượng Đế bất giác cũng sợ hãi, mới hỏi: - Tại sao khanh lại biết đó là khí Thiên tử? Tử Yên thưa: - Hiện đủ năm màu, có hình dáng như rồng như phượng, làm sao mà không phải cho được. Ở nơi khí bốc lên như thế, nhất định là có bậc khác thường. Dượng Đế lại hỏi: - Đám khí này ứng với địa phận nào? Tử Yên lại giơ tay chỉ: - Đây chính là phận Sâm Tỉnh, cũng chẳng đâu xa, có lẽ ở vùng Thái Nguyên chăng? Dượng Đế phán: - Thái Nguyên ở Tây Kinh không xa. Ngày mai trẫm sai người đến lặng lẽ tìm khắp nơi, nếu thấy kẻ nào ra vẻ dị tướng, dị nhân, giết quách đi, thì họa này cũng hết hẳn, chẳng còn sợ gì nữa phải không? Tử Yên thưa: - Đây chính là ý trời, chỉ sợ sức người không trừ diệt nổi. Chỉ xin bệ hạ giữ gìn cẩn thận, nêu cao đức sáng, thì may ra điềm họa có thể tự tiêu. Nhớ lúc trước, ni cô già có truyền cho thiếp ba câu kệ ngăn sau đây: Đuôi Trâu, đầu Cọp, Binh đao loạn lạc, Ai sẽ làm vua, con người thợ Mộc. Nếu lấy chữ "Mộc" với chữ "Tử" là con mà đặt chữ "Mộc" trên, "Tử" dưới thì là chữ "Lý". Nhưng ý trời huyền diệu, thật khó mà suy đoán cho cùng. Dượng Đế phán: - Ý trời đã định, có lo âu sầu não cũng chẳng xong. Đêm nay đẹp thế này, hãy cùng khanh kịp thời hành lạc đã. Rồi xuống đài, cùng với Tiêu Hậu và chúng phu nhân uống thêm mấy chén rượu. Tiêu Hậu dẫn chúng phu nhân ra về, Dượng Đế ở lại Hiển Nhân cung với Tử Yên đêm ấy. Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân trên thuyền rồng cuốn tất cả các rèm gấm lên, nhìn cho rõ ràng cảnh đẹp thần tiên bốn phía, chưa gì đã ra khỏi Bắc Hải, tới gần một trong ba đảo thần tiên, cả bọn kéo nhau lên bờ. Đang lúc trèo lên, nghe một tiếng quẫy mạnh, trên mặt biển thấy một con cá lớn, những cánh vây dương rộng, vẩy sáng lấp lánh trên mặt sóng bạc, bơi đi bơi lại gần bờ đảo, trông thấy Dượng Đế như nhận ra người quen. Dượng Đế định thần nhìn kỹ, thì ra là một con cá chép lớn, dài tới một trượng ba bốn thước gì đấy. Toàn thân là những vẩy vàng đỏ sáng ngời dưới ánh nắng mặt trời, như những đốm sáng lân tinh vậy. Ở trán như có thấp thoáng nét chữ son, lúc tỏ, lúc mờ, trông như chữ "Giác", Dượng Đế mới sực nhớ ra buột miệng. - Thì ra là con cá này? Tiêu Hậu vội hỏi: Con cá nào thế? Thưa bệ hạ! Dượng Đế đáp: - Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "Giải Sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "Sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "Giác" mà thôi. Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa? Tiêu Hậu thưa: - Cá chép có sừng, thì không phải vật tầm thường! Tử Yên cũng thưa: - Hãy nhân lúc nó chưa hóa được thành rồng, xin bệ hạ trừ đi, may ra có thể trừ được họa gió mưa sau này chăng? Dượng Đế đáp: - Khanh nói có lý lắm. Rồi gọi cận thần mang ngay cung tên đến. Dượng Đế cầm cung tên, vén tay áo bào, đặt tên vào mũi dây cung, nhằm thẳng vào bụng cá phóng mũi tên ra. Bỗng trên mặt nước, một trận gió lớn nổi lên, làn sóng nổi cao cuồn cuộn, ngập tràn bốn phía, chẳng khác gì có hàng vạn con cá hóa rồng đang nhào lộn giữa sóng; nước tràn sâu vào bờ đảo, đến nỗi Dượng Đế, Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân đều bị ướt cả xiêm y. Cả bọn hoảng kinh, hồn bay phách lạc. Tiêu Hậu cùng chúng phu nhân vội tìm chỗ tránh. Dượng Đế cũng sợ hãi, chân đứng không vững, Viên Tử Yên vội chạy lại bên Dượng Đế trấn an: - Bệ hạ đứng cho vững. Đã có thiếp đây? Dượng Đế hoảng sợ định níu lấy Tử Yên, thì thấy Tử Yên lấy trong tay áo ra một vật trông tròn như quả trứng bằng gỗ, tay trái lôi ra một cuộn dây ngũ sắc bằng lụa, xâu sợi dây vào quả trứng gỗ xong. Tử Yên giang tay phải ném mạnh ra phía biển, gần chỗ con cá. Cá trông thấy, quay đầu lặn biến mất. Tử Yên thu lại sợi dây, gỡ quả trứng gỗ ra, lúc này Dượng Đế cũng đã trở lại bình tĩnh, lại gần Tử Yên, cầm quả trứng gỗ xem xét. Thì ra đó là một viên ngọc lấp lánh đủ năm màu. Dượng Đế hỏi: - Viên ngọc này dùng làm gì, làm sao mà thủy quái cũng phải sợ được? Tử Yên thưa: - Vật này cũng chính do ni cô già ngày xưa cho thiếp. Dặn thiếp đây là quả cầu "Thái Dịch hỗn thiên", mà lúc còn ít tuổi ni cô đã luyện được, có thể kỵ tà khí, trừ được các loài thủy quái, lúc nào thiếp cũng đem bên mình, để phòng sự bất trắc. Tiêu Hậu đáp: - Kinh Dịch hay kinh Mỹ nhân thì đều chủ ở chỗ bồi đắp nhân tài cả thôi. Dượng Đế cũng cười: - Hoàng hậu từ lâu đã thuộc bài thơ Quan thư của Kinh Thi, vốn rất am hiểu lời dạy của kinh sách. Tiêu Hậu cười đáp: - Không bằng được bệ hạ chuyên chỉ có Kinh Xuân Thu. Cả bọn từ phu nhân đến mỹ nhân đều cười rũ rượi một loạt. Tần phu nhân lấy ở trong tay cung nữ một tập thơ, từ, dâng lên Dượng Đế. Dượng Đế giở tờ đầu tiên ra xem thấy ghi: "Thần thiếp Khương Quế ở viện Nhân Trí kính trình ngự lãm". Phía dưới là con dấu vuông nhỏ in ba chữ "Nguyệt Tiên Thị". Dượng Đế thấy thế nhìn Khương phu nhân cười: Từ rằng: Ngẫm thương người trần, Bị quỉ thần chòng ghẹo, Điên điên đảo đảo, Dắt dẫn theo danh giáo. Lại đem mồi chài, Dây thuyền dài, Roi ngựa ngắn, Mấy ai được thảnh thơi. Nhìn kỹ ra: Sớm sớm gió quất tơi bời, Ngày ngày bụi vùi cay rát, Dù ai giảo hoạt anh hùng, Vực sâu ngập xuống, dây thòng lọng treo. Hám phú quý mà liều thể xác, Mộ thần tiên thuốc độc uống vô, Xương khô mà máu chẳng khô, Bừng con mắt, ủa! Rặt trò xuẩn ngu, Khuyên ai tỉnh trước mà ngừa. Theo điệu "Ý nan vong". Như vậy, cũng giống như các nhà tiên tri khác trước thời nhà Trần, Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng dự đoán rằng sẽ xuất hiện một thánh nhân mang họ “Lý”, con của người thợ “Mộc” hay cũng có thể hiểu con của “Mặt trời” tức “Thiên tử”. Quay trở lại cấu trúc các thần khí của bàn thờ Đạo Mẫu, Gia Tiên, Phật giáo, Đạo giáo… chúng ta thấy phương Bắc với biểu tượng là cái “lư hương”, còn theo cấu trúc Nhị thập bát tú là hướng của “rùa vàng” và tháp rùa hồ gươm - nơi có đền thờ vị tiên Lữ Đồng Tân - một trong Bát tiên, hướng Bắc cũng là hướng mà thần Huyền Thiên Trấn Vũ bảo vệ kinh đô Thăng Long, Hà Nội hay kinh thành Hoa Lư, Ninh Bình. Mà chúng ta cũng đã biết Lữ Đồng Tân chính là vua Lạc Long Quân, cho nên ngài cũng chính là Huyền Thiên Trấn Vũ, phương Bắc tượng trưng “Cõi Chết” và vua cõi chết là Phong Đô Đại Đế trong Đạo giáo là ngài, hoàn toàn chính xác khi so sánh tới Sự tích Hồ Hoàn Kiếm, Lê Lợi trả gươm lại cho thần Kim Quy chính là trả gươm lại cho vua Lạc Long Quân - Lữ Đồng Tân một tay cầm thanh kiếm và một tay cầm phất trần. Ở Cõi Âm phủ, ngài là Phong Đô Đại Đế hay thường gọi là thần Bắc Đẩu, tương ứng Ngài là Nam Cực Lão Nhân với biểu tượng chòm sao Nam cực trên bầu trời. Dân gian còn lưu truyền câu truyện về Sự tích Huyền Thiên Trấn Vũ nhưng không ghi nhận trong kinh sách: Đức Huyền Thiên Trấn Vũ tu tiên đắc đạo. Khi thành chính quả, ngài bỏ lại thân xác của mình ở trần gian. Lâu ngày thân xác của Ngài thành Tinh và gây rối ở nhân gian. Ngài xuống trần gian trừng phạt. Nhưng vì yêu quái chính là thân xác của Ngài, nên pháp thuật của nó rất tinh thông. Vì gần như Ngài học được cái gì thì nó cũng học được như thế đó. Hai bên đấu bất phân thắng bại. Cuối cùng Đức Huyền Thiên Trấn Vũ cùng yêu quái thi tài viết chữ trong vòng một canh giờ xem ai viết được nhiều thì coi như thắng. Trong một canh giờ Đức Huyền Thiên Trấn Vũ viết được 100 chữ, yêu quái viết được 99 chữ. Yêu quái thua cuộc và bị Ngài bắt giải đi trị tội. Chúng ta quay trở lại dòng tranh dân gian Việt Nam, một số hình ảnh minh họa từ hai bức tranh dân gian Đông Hồ Cá chép bên sen mang tính tương phản nhau, một bức thể hiện 5 cá con tung tăng, vui vẻ bên cá chép mẹ giữa các cọng hoa sen, thì bức tranh tương phản lại chỉ vẽ các bộ xương cá, thật là kỳ lạ, nếu không ở vai trò của người nghệ sỹ tài hoa, mong muốn gửi gắm một bí ẩn gì đó thì chúng ta hoàn toàn bế tắc trong việc hiểu ý nghĩa của hai bức tranh tương phản này. Cá chép bên sen Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Thần Osiris hình cá chép sông Nile Tomb of Khabeknet, 19th dynasty, Ai Cập Qua bức tranh tường Ai Cập cổ đại mô tả thần Anubis đang trang điểm xác ướp của thần chết Osiris dưới dạng một loài cá chép sông Nile, Osiris là vị thần đầu tiên được chôn cất nhưng lại tái sinh từ cõi chết. Chúng ta cũng đã biết, Orisis cũng chính là Phong Đô Đại Đế Lạc Long Quân và như vậy, bộ xương hóa thạch thể hiện “cái chết” và ngược lại chính là “tái sinh”. Bộ tranh nhị bình này vẽ các con cá chép cùng một hướng phải qua trái, dòng chảy Âm dương Ngũ hành, và sáu con cá chép chính là thể hiện độ số 6 của phương Bắc trên Hậu Thiên Bác quái. Bộ tranh nhị bình đã thể hiện sự tái sinh trong vòng quay một cung của Hoàng Đạo, điểm xuân phân kết thúc cung Song Ngư và bắt đầu đi vào cung Bảo Bình sau 2.160 năm. Cung Song Ngư (Hợi) trên vòng Hoàng Đạo cũng chính là biểu tượng của vua Lạc Long Quân. Huyền Thiên Trấn Vũ Tả Dinh, Cao Hùng, Đài Loan Huyền Thiên Trấn Vũ Đền Trấn Vũ, Hà Nội, Việt Nam Tùy Đường diễn nghĩa khẳng định lại một lần nữa qua nội dung đối đáp: “Hoàng hậu không biết được đâu. Dạo trước trẫm cùng Dương Tố câu cá ở Thái Dịch hồ, có một người đánh cá ở sông Lạc Thủy, bắt được một con cá chép vàng đem tới dâng, trẫm thấy cá có tướng lạ, mới lấy bút son, viết hai chữ "Giải Sinh" ở trán cá, rồi thả xuống hồ. Về sau, Ngu Thế Cơ đào hồ lớn làm nước lưu thông cả với Thái Dịch hồ. Nên chẳng biết từ bao giờ con cá này ra được đây, mà giờ đã lớn đến thế. Nay nhìn kỹ, thì chữ "Sinh" đã bị nước rửa sạch, chỉ còn lại nửa chữ giải là chữ "Giác" mà thôi. Không phải con cá ấy thì còn con cá nào nữa?“. Cá chép chính là thể hiện chữ “Giác” là cái “Thấy đến tận cùng nguồn gốc vạn vật” hay “Tính Thấy” được trình bày trong Kinh Lăng Nghiêm của Phật giáo, chúng ta hãy xem lại bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng Lý ngư vọng nguyệt, có thể nói dây là một bức tranh đẹp trong số những bức tranh đẹp nhất của nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam. Vẻ đẹp toát lên ngay từ hình tượng độc đáo với một bố cục rất ấn tượng, nhưng hài hòa và cân đối. Nhưng chính biểu tượng của bức tranh đã làm nên sự vi diệu, sâu lắng và là sự minh triết trong bức tranh này. Lý ngư vọng Nguyệt Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Cá chép theo truyền thuyết nó được lựa chọn làm biểu tượng cho ý thức vươn lên trong cuộc sống: loài cá ứng cử cho đẳng cấp cao nhất trong vũ trụ là Rồng. Hình tượng cá chép trong tranh kết hợp với một hình tượng qui ước làm nên tính minh triết của bức tranh. Đó chính là mặt trăng và bóng trăng soi đáy nước. Trên thực tế, không có bóng trăng soi đáy nước, mà chỉ có bóng trăng soi mặt nước. Hình tượng bóng trăng đáy nước là biểu tượng cho ảo ảnh của một giá trị đích thực được biểu tượng bằng mặt trăng trên không gian. Hình tròn của mặt trăng là biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn đích thực, nhưng con cá chép trong tranh lại không tìm về giá trị đích thực, mà lại tìm những ảo ảnh của cuộc đời. Phải chăng hàm nghĩa của bức tranh muốn nhắn gửi thế nhân: hãy tìm về sự hoàn thiện, viên mãn của con người (trích Minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Ngẩng lên trăng vời vợi, Ngụp xuống nguyệt hư không. Suốt một đời chép miệng, Ngẩn ngơ quên hóa Rồng. Trong dân gian còn có câu chuyện về Cá chép hóa rồng hay Cá chép vượt Vũ Môn, cá chép vượt Vũ Môn biểu tượng cho sự kiên trì và bền chí. Truyện kể rằng: Một năm, trời hạn hán rất lâu, vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hòa cho khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén chọn các con vật lên làm Rồng, gọi là “Thi Rồng”. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kỳ, mỗi kỳ vượt qua một đợt sóng bạc đầu. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thi thì mới được Trời cho hóa thành Rồng. Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả, vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba đuối sức ngã bổ xuống quá nặng, lưng còng lại, cứt lộn lên đầu. Đến lượt cá Chép vào thi thì gió thổi ào ào, sấm chớp nổi lên, mây đen kéo đến đầy trời. Cá Chép ta vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng bạc đầu, và lọt vào cửa Vũ Môn, cá Chép đỗ. Vẩy, đuôi, râu, sừng mọc đủ, vóc dáng thật oai linh, thật đúng là Rồng. Cá chép hoá Rồng phun nước làm mưa, muôn loài sung sướng, sự sống đã hồi sinh. Dân gian có thơ làm chứng rằng: Mồng Bốn cá đi hội thề, Mồng Tám cá về, cá vượt Vũ Môn. Vũ Môn là một chỗ có nhiều ghềnh thác trên sông Trường Giang tức sông Dương Tử thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay. Vũ Môn cũng chính là hình ảnh chiếc cổng Tam quan của các ngôi chùa, đền, đình hay thôn ấp, làng quê và cũng là ba cửa huyệt quan trọng trên xương sống mà dòng khí phải vượt qua trong các phương pháp tu luyện khí công của Đạo gia, Phật giáo, Bà La Môn giáo... Đồng thời, Vũ Môn là cũng nói đến ba kỳ thi trong các triều đình thời xưa đó là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Sĩ tử nào giật một lúc ba giải một lúc gọi là Tam khôi. Sĩ tử giật giải Trạng nguyên sẽ mang lại danh dự cho làng xóm, họ hàng, lúc đó tại quê nhà người ta sẽ dựng một cái cổng chào đón quan Trạng “Vinh quy bái tổ”. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, có một bức tranh độc bình mang ý nghĩa này: Vinh quy bái tổ Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Lọng xanh che rợp đất, Nhành liễu bẻ làm roi. Nhạc vàng nghe xoang xoảng, Trạng Nguyên reo vang trời. Trích sách Ấu học ngũ ngôn thi. Ngày nay, không còn nhiều những chiếc cổng làng cổ xưa, trên mỗi cổng làng đều có các chữ đại tự và đôi câu đối. Cổng làng Chính Kinh, phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Hà Nội, trước kia làng thuộc xã Nhân Mục Môn, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng. Tên đầu tiên của làng là Hoa Kinh, đến năm 1841 đồi là Minh Kinh, sau cùng đổi thành Chính Kinh, có đôi câu đối: Thiên niên văn hiến Hoa Kinh địa, Tứ ứng giang sơn thọ lão môn. Ngàn năm văn hiến kinh đô Phật, Tứ khí non sông mãi cửa này. Trong câu đối trên, chữ “Hoa” liên quan đến Hội Long Hoa, và cũng chính là biểu tượng của người phụ nữ, của nàng tiên và của Quan Âm Bồ Tát (Tham khảo cuốn Cổng làng Hà Nội xưa và nay, tác giả Vũ Kiêm Ninh, Nxb Văn hóa Thông tin 2007). Cổng Tam quan Chùa Báo Ân, Hà Nội, Việt Nam Ngày nay, rằm Trung Thu mang ý nghĩa là ngày hội tụ của cá Chép, là ngày đẹp trong một khung cảnh trăng thanh, gió mát của cha mẹ trong niềm vui với con cái và trẻ nhỏ, đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là Tết trông Trăng hay Tết Trung Thu. Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn lồng hình ông sao, con cóc, con cá chép, gà trống, quả cầu, trống ếch, trống quân, pháo tép, mặt nạ... rồi bánh nướng hình vuông, bánh dẻo hình tròn. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ và người lớn tổ chức múa rồng, múa lân để các em vui chơi thỏa thích: Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu, Cán đây rất dài cán cao quá đầu. Em cầm đèn sao em hát vang vang, Đèn sao tươi màu của đêm rằm liên hoan. Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh! Đây ánh sao vui chiếu xa sáng ngời. Tùng rinh rinh, rinh rinh tùng rinh rinh! Ánh sao Bác Hồ tỏa sáng nơi nơi. (Trích từ bài hát Chiếc đèn ông sao, nhạc sĩ Phạm Tuyên). Trong các chương trước trước, chúng ta cũng đã biết vua Lạc Long Quân chính là vị Thần Tài, Ngài được tôn thờ trong mỗi gia đình với hình tướng là “Cóc ba chân” mà người Việt thường gọi là “ông Khiết”, trên lưng ông Khiết với hình tượng của chòm sao Đại Hùng Tinh: Chòm sao Đại Hùng tinh Ông Khiết, ảnh tham khảo Internet Khi bỏ đồng tiền trong miệng ông Khiết ra, thì xung lực xuất hiện là mạnh nhất tại vị trí này: hình tượng mang ý nghĩa khi con người còn vướng bận với tham, sân, si thì không thể đạt được quả vị giải thoát ngay cả khi đang tu luyện. Trải qua hàng ngàn năm kể từ khi biểu tượng ra đời đã tồn tại rất nhiều chủng loại biểu tượng với các hình mẫu khác nhau trong dân gian, do vậy việc tìm ra được nguyên bản không phải là chuyện dễ dàng. Tuy nhiên thật là may mắn, với sự dự báo vượt thời gian và một kế hoạch bảo tồn di sản văn hóa thật siêu việt của tổ tiên, một phần của nội dung nguyên bản gốc vẫn còn giữ lại cho tới ngày như ông Khiết có ba chân, miệng ngậm đồng tiền âm dương cổ, dưới chân là các lớp đồng tiền chồng lên nhau, mỗi chân đều có bốn móng cùng với một sợi dây ngù xâu hai chuỗi đồng tiền nằm dọc sống lưng… Theo truyền thuyết Đạo giáo, “Cóc” là do tinh hoa của áng trăng hóa thành, là thần linh của Thái âm nên cóc là thần vật, chỉ hít thở linh khí để sống và vì mang cốt cách tiên nên “Cóc” biểu hiện cho tinh thần, cho sự bất tử và được nhân cách hóa thành tiên nữ Hằng Nga, trong khi đó mặt trời là nguồn sáng và cũng là nguồn sống được coi như biểu tượng của Đấng tối cao, được nhân cách hóa thành Ông Trời. Như vậy, “Cóc” mang ý nghĩa lưỡng hợp, vừa là biểu tượng của dương và cũng là biểu tượng của âm, cả hai cùng thống nhất trong một tức là hình ảnh Thái cực trong vũ trụ quan Đông Phương. Bài thơ dân gian Con Cóc nhắc tới việc tôn thờ Cóc ở một thời rất xa xưa “Miếu đường có thuở còn vang tiếng lừng”. Như vậy, qua nghệ thuật tạo hình ông Khiết, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng ông Khiết chính là biểu tượng hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (con ông Khiết chính là nòng nọc - chữ Khoa Đẩu - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: đó chính là những quy luật vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà các chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó. Con Cóc ngồi góc bờ ao, Lăm le nó muốn đớp sao trên trời. Ca dao Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, Cóc là cậu ông Trời và là độc quyền giảng dạy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đẩu - đó là loại chữ hình con nòng nọc - con của cóc và tạo sao dân gian gọi “Con Cóc là cậu ông Trời”?. Theo Ngọc Phả truyền Thư của từ đường họ Nguyễn, Văn Nội, Thanh Oai, Hà Tây “Cóc” thời cổ đại là biểu tượng của Bát Bộ Kim Cương trong Phật giáo, là tám em trai của cụ bà Đỗ Quý Thị, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Hương Vân Cái Bồ Tát, Phật Bà Quan Âm, chính thất của vua Đế Minh - Phật A Di Đà, là mẫu của vua Kinh Dương Vương và là bà nội vua Lạc Long Quân. Như vậy, dữ liệu lịch sử thật là chính xác, Bát Bộ Kim Cương chính là cậu của vua Kinh Dương Vương - Ông Trời. Gò Cóc tía Vùng Ba La, Hà Tây, Hà Nội, Việt Nam Ngày nay, bia con cóc mộ của Bát Bộ Kim Cương ở gò Thiềm Thừ (con Cóc tía) ở vùng Ba La, Hà Tây, cách mộ cụ bà Đỗ Quý Thị cách mấy trăm mét đường chim bay. Trước đây gò này còn hai bia đá hình trụ vuông, trên đỉnh trụ bia có con “Cóc ôm quả địa cầu”, bốn mặt bia đề: Phương phần bảo vật, Vạn cổ nghiễm nhiên. Chi hạng lưu hương, Thiên thu thường tại. Lối cũ dấu thơm, Nghìn xưa vẫn đó. Cây to báu vật, Muôn thuở còn đây. (Lời dịch của La Sơn Phù Tử Nguyễn Thiếp năm 1789). Qua nội dung trính dẫn Ngọc Phả truyền Thư, chúng ta thấy hình ảnh của con cóc ôm trái địa cầu mang ý nghĩa là biểu tượng Cóc là “Báu vật vạn cổ” đã được lấy làm biểu tượng cho thuyết Âm Dương Ngũ Hành, học thuyết về sự vận động có quy luật của tự nhiên, xã hội và con người đã có từ thời Bát Bộ Kim Cương. Theo thời gian, từ biểu tượng “Cóc ôm quả địa cầu” chuyển hóa thành biểu tượng “Cóc ba chân” với các cấu trúc điêu khắc cụ thể và gần gũi với chúng ta hơn nhưng biểu trưng cho Thần Tài - Lạc Long Quân, với ý nghĩa tái sinh, phục sinh. Bia con Cóc còn lại chính là chứng tích của một thời xa xưa để lại cho con cháu tìm về cội nguồn lịch sử. Cùng với việc tôn thờ Cóc, trong dân gian vẫn còn lưu truyền câu truyện ngộ nghĩnh Cóc kiện Trời, một câu chuyện hy hữu nhất, kỳ lạ nhất trong các dòng truyện cổ tích của các dân tộc trên thế giới, nói về sự chiến thắng của các con vật đối với Thượng đế và sự nhượng bộ của ngài: Ngày xửa ngày xưa, không nhớ rõ năm nào, đời nào, trời hạn hán rất lâu, ruộng đồng nứt nẻ, cỏ cây chết đứng, trụi cả lá và thú vật không tìm đâu ra nước uống, muôn loài đều kêu than ai oán. Cóc thấy nguy quá, quyết lên Thiên đình kiện Trời. Đi được một quãng, gặp Cua, Cua hỏi đi đâu? Cóc kể rõ sự tình, Cua liền xin theo. Đến một khu rừng, Cóc lại gặp Gấu và Hổ cũng khát khô cuống họng, đang nằm chờ chết, thấy Cóc và Cua dắt nhau đi, Gấu và Hổ hỏi nguyên do, Cóc đáp: Chúng ta sắp chết khát cả, phen này phải lên Trời hỏi xem sao. Các anh có đi cùng không? Gấu và Hổ đồng thanh nói: Thế thì cho chúng tôi đi với! Anh em chúng ta sống chết có nhau. Một lúc lại gặp Ong và Cáo. Ong và Cáo cũng năn nỉ xin theo. Thế là cả bọn kéo nhau lên Thiên đình. Đến cửa Thiên đình, thấy một cái trống to đặt ở cạnh, Cóc nói: Anh Cua! Anh vào trong chum nước này! Anh Ong, anh núp sau cánh cửa! Còn anh Gấu và anh Cọp ra phía sau chờ đấy. Sắp đặt xong, Cóc một mình bước tới, lấy dùi đánh ba hồi trống. Ngọc Hoàng rất đỗi ngạc nhiên, sai Thiên Lôi ra xem. Nhìn quanh quất, không thấy ai cả, chỉ thấy một con Cóc xù xì, thân hình bé nhỏ. Thiên Lôi trở vào tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng tức giận, truyền lệnh thả Gà ra mổ con Cóc hỗn xược. Gà vừa bay đến, Cóc ra hiệu cho Cáo ở đằng sau nhảy tới cắn vào cổ cắp đi. Ngọc Hoàng càng tức giận, sai Chó ra cắn Cáo. Chó vừa xông ra khỏi cửa, Cóc làm hiệu cho Gấu ra chộp lấy tha đi. Tin đến Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng phải sai Thiên Lôi ra trị Gấu. Thiên Lôi cầm lưỡi tầm sét hùng hổ xông ra, chưa kịp trở tay thì bị Ong bay ra đốt. Thiên Lôi vội nhảy vào chum nước tránh cho Ong khỏi đốt, thì bị Cua ở trong chum kẹp, la tru tréo lại nhảy ra. Thiên Lôi đang luống cuống, chưa biết tính sao, thì đã bị Hổ nhảy ra xé xác. Ngọc Hoàng túng thế, bèn giảng hòa, mời Cóc vào, Cóc tâu: Muôn tâu Thượng Đế, đã ba bốn năm nay, trần gina không hề được một giọt mưa. Vạn vật khô héo cả. Nếu kéo dài mãi, e không còn một sinh vật nào sống sót. Ngọc Hoàng sợ trần gian nổi loạn, dịu giọng nói: Thôi cậu về đi, Ta sẽ ra lệnh cho mưa xuống. Ngọc Hoàng dặn thêm: Hễ khi nào dưới trần gian nắng hạn lâu ngày, thì cậu cứ nghiến răng báo hiệu nhắc Ta. Ta sẽ sai thần làm mưa ngay, Cóc không phải lên kiện Trời nữa. Dứt lời, Ngọc Hoàng sai Rồng phun mưa xuống. Cóc về đến trần gian, thì nước đã ngập cả ruộng đồng. Từ đó, hễ Cóc nghiến răng, một lúc sau y như rằng là trời liền đổ mưa. Nên trong dân gian mới có câu hát: Con Cóc là cậu ông Trời, Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho. Con cóc là cậu thầy Nho, Ai mà nuôi nó ta cho đồng tiền. Ý chí của đội quân dương gian đã chiến thắng quân nhà Trời, tác giả đã cấu trúc các nhân vật theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành qua Địa chi và La kinh phong thủy, cuộc đấu trí diễn ra gay cấn đến phút cuối là Thượng Đế đã sai Rồng cho mưa xuống trần gian, giải đi cơn khát đến tận cùng của vạn vật. Vậy thì, “nước mưa” ở đây là gì? Phải chăng là thuốc trường sinh cho nhân loại? Chúng ta cũng thấy “Cóc” cũng có nghĩa là “Không” hay “Cuội” - tức có nghĩa phải hiểu được “Tính Không” như trong kinh sách Phật giáo. Ai người thánh thiện rõ đàng, Lý huyền tiến hóa Thánh hiền ngày xưa. Cầu Kiều mở lối rước đưa, Đưa người trí dũng quê xưa trở về. Giúp cho kẻ sĩ tâm mê, Ngộ Không Lý pháp lời thề năm xưa. Chúng ta hãy cùng tham khảo thêm các hình tượng thể hiện trên một số cổ vật đồ đồng đã được khai quật thời Tần Hán, Trung Quốc: Gương đồng Cổ vật đời Tần Hán, Trung Quốc Hình khắc trong gương đồng thứ nhất là Tây Vương Mẫu ngồi trên ngai là con giao long, phía trước là một con Cóc cùng con Thỏ ngọc giã thuốc tiên cùng các nhân vật trên Thiên đình. Chiếc gương thứ hai thể hiện hình tượng con Cóc đang nhả ra “cái cây thuốc cải tử hoàn sinh”, bên cạnh là nàng tiên Hằng Nga và con Thỏ ngọc giã thuốc tiên. Như vậy, con Cóc chính là “Người cho thuốc trường sinh bất tử” hay chính là vua Lạc Long Quân, Phong Đô Đại Đế, thần chết Osiris mới có quyền cho phép sống lại sau khi đã trải qua “Ngày phán xét” như đã mô tả ở các chương sách trước. Điều này mang ý nghĩa Ngài có phương thuốc giúp cho các “linh hồn” sẽ đạt được niềm an lạc trong “Cõi vô hình”. Tuy nhiên, tại sao hình ảnh con Cóc lại ở trung tâm của chiếc gương đồng trong khi bốn phương thể hiện Tứ Linh, mà một trong đó là con Rùa - phương Bắc cũng là biểu tượng của Ngài? Vì con Cóc thể hiện sự tái sinh, phục sinh sau một chu kỳ vận động một cung của mặt trời quanh chòm sao Thiên Cực Bắc, kế thúc cung Song Ngư (Hợi) để trở thành “Thánh nhân” có khả năng cải tử hoàn sinh, Cóc ba chân đứng ở vị trí trung tâm trong bộ tranh dân gian ngũ bình Đông Hồ Ngũ Đức và Ngũ Phúc, chúng ta hãy xem lại hai câu thơ: Mồng bốn cá đi hội thề, Mồng tám cá về, cá vượt Vũ Môn. Hội thề ở đây chính là “Hội thề Trống Đồng” được biết thời nhà Lý tổ chức vào ngày mồng 4 tháng Bốn âm lịch hằng năm, với lời thề nguyện: “Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, Thần minh chu diệt”. Qua Chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM, chúng ta cũng biết rằng trống đồng là một trong các thần khí nước Việt như chuông, vạc, đỉnh, lư… nơi thờ tự và cũng là biểu tượng của Hùng Quốc Vương (Hùng Vương thứ III) hay gọi tắt là biểu tượng của các vua Hùng, hoa văn trống đồng thể hiện toàn bộ vũ trụ quan và nhân sinh quan của nước Văn Lang cổ, trên cơ sở học thuyết Âm Dương Ngũ Hành phối hợp toàn bộ ý nghĩa của kinh sách của Tam giáo đồng nguyên, và cũng thể hiện lịch sử của Đạo Mẫu nước Văn Lang cổ đại. Như vậy, một cách hợp lý thì ngày mồng 4 tháng Bốn âm lịch chính là ngày tôn vinh các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, có bài thơ tâm linh rằng: Chín tiếng ba hồi chuông ngân vang, Từ Đền Hùng... Chấn động không gian. Tiếng chuông thức tỉnh linh hồn chết, Cảnh tỉnh linh hồn đang ngủ mơ.<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Chuông ơi! Có tự bao giờ? Mà sao im lặng như tờ bấy nay. Phải chăng Yên Tử Rồng bay? Non sông kết mạch... đến ngày chuông ngân. Bài thơ Chuông ngân - tác giả Nhật Nguyệt Quang Tử. “Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn” hay là cá hóa Rồng, chính là ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch, là ngày đản sinh của Hương Vân Cái Bồ Tát - Phật bà Quan Âm, và cũng là ngày đản sinh Phật Đức Phật Thích Ca. Cá chép Lạc Long Quân đã vượt Vũ Môn để chính thức trở thành một vị Phật - Phật Vương Di Lạc - Thánh nhân mà cả thế giới đang chờ mong trong khắc khoải. Chúng ta hãy cùng chiêm ngưỡng bức giá Thánh cổ sau: Quốc Tổ Lạc Long Quân Làng Bình Đà, Hà tây, Việt Nam Trong bức giá Thánh, vua Lạc Long Quân được một nhân vật đội lên từ mặt biển, người khổng lồ rất có thể là Ngu Cường mà sách Sơn Hải Kinh có nhắc đến, một vị Phong Thần thống trị Bắc Hải. Do nhân thần và xà thần sinh ra, mình người đuôi rắn, đuôi dài lạnh buốt, bên cạnh có vô số tiểu xà yêu. Ngu Cường vẫy đuôi có thể khiến Bắc Hải nổi cuồng phong, nếu là gió Tây Bắc là nhân gian sẽ gặp một trận ôn dịch khủng khiếp, thương vong vô số. May là Ngu Cường ở sâu dưới đáy biển, 500 năm không lên khỏi biển một lần, chỉ thỉnh thoảng buồn bực mới ngoi lên quấy phá. Hình tượng này thể hiện sự “tái sinh” trở lại của Phong Đô Đại Đế hay Thần Chết mà hầu hết các truyền thuyết trên thế giới nói tới, đặc biệt là dân tộc Maya còn ghi chép về sự xuất hiện của Ngài trong một “Sự tấn phong vĩ đại”. Trong bức tranh, lớp ngai trên cùng thể hiện chính thất của 9 người con trai của vua Lạc Long Quân (Cửu Tử) và 10 đời truyền ngôi của Ngài (Thập Cực Chân Nhân), đây là chi tiết khẳng định chính xác về bức giá Thánh này vẽ chân dung vua Lạc Long Quân chứ không phải vua Kinh Dương Vương như một số nhận định, Có bài thơ tâm linh rằng: Cuồng phong vũ trụ rồng mây, Thiêng liêng vô tận bớ này sinh sinh. Mừng mừng Thiên Chúa phục sinh, Mừng mừng Chúa Thánh cung đình bỏ ngôi. Mừng mừng Di Lạc cung trời, Bỏ ngôi Thái Cực làm người thế gian. Bí cơ Thiên cấm hóa vàng, Bí mật Thiên cấm hóa vàng hiện ra. Bí mật người nói Long Hoa, Bí mật người viết thơ ca đất trời. Đã hiện thực chốn trần đời, Khổ thay thiên hạ trần đời mấy ai. Mấy người hiểu huyền Như lai, Để cho kẻ ấy được khai mây rồng. Nhằm khẳng định lại vua Lạc Long Quân chính là Phật Vương Di Lạc, chúng ta cùng xem lại bố cục mặt bằng kiến trúc các ngôi chùa, phía trước điện Đại Hùng là Điện Thiên Vương, trong điện tôn thờ Bồ Tát Di Lạc, xung quanh là Tứ Đại Thiên Vương, hộ trì phía sau Ngài là Vi Đà Hộ Pháp, mà chúng ta cũng đã biết Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng cho Phong, Điều, Vũ, Thuận là bốn anh em của vua Lạc Long Quân, trong đó Ngài là Thần Sấm. Năm anh em vua Lạc Long Quân chính là con của Phật Mẫu Man Nương, Tây Vương Mẫu, và như vậy, một lần nữa khẳng định hoàn toàn chính xác - Ngài chính là Phật Vương Di Lạc. Cá chép vượt Vũ Môn hóa rồng và đối với Tứ Linh, mùa xuân ứng với Rồng. Rồng là con vật đông miên, lúc mưa xuân sẽ tỉnh dậy và dùng sừng húc tung đất ra để sống lại một cuộc sống vẫy vùng, ngang dọc như xưa. Cá chép sông Illinois - Mississippi và Rồng Ảnh John Downer và trích từ cuốn Taoist and the art of China Một lời chúc thường được nghe nơi các sân chùa Việt Nam "Năm mới chúc quý bà con đạo hữu trọn hưởng mùa xuân Di Lạc”, xuân Di Lạc là xuân hoan hỷ, niềm hoan hỷ tràn đầy vô biên, không vướng mắc, không bận lòng, không lo âu, không phải là xuân vui theo thời gian mùa tiết đến đi, mà là xuân thường nhiên bất diệt, xuân phát triển khả năng thánh thiện. Ngày Mồng 1 tháng Giêng là ngày vía Đức Phật Vương Di Lạc, là ngày phục sinh của vua Lạc Long Quân, ngày đầu của năm mới, ngày của một mùa xuân trường cửu và cũng là “Ngày đại đồng thế giới hay Ngày sinh nhật của vũ trụ” trong nền văn hiến Việt. Sách Xuân Thu Tả Truyện viết: “Nguyên đán là ngày lên ngôi của các vua chúa đời xưa, mỗi đời vua đều bắt đầu bằng ngày đó”. Sáng sớm ngày Nguyên đán, trong triều ca, đình thần chúc vua vạn tuế. Ngoài dân gian, mọi người cũng chúc nhau sang giàu, hạnh phúc, buôn may bán đắt, sinh con đẻ cái, thăng quan tiến chức, công thành danh toại... (Tham khảo bài viết Thiên văn với Tết với Xuân, tác giả Nguyễn Văn Thọ). Ngày Tết không thể thiếu tiếng pháo, âm thanh khai mở một năm mới tràn đầy mong ước và cũng là biểu tượng “tiếng nổ khai thiên lập địa” giống như Bigbang trong khoa học hiện đại, tiếng pháo là không thể thiếu trong nền văn hóa Việt, thiếu pháo chính là thiếu đi một không khí lạc quan, yêu đời của một dân tộc diệu kỳ. Và chúng ta cũng đã biết, “quân Pháo” trong bàn cờ tướng chính là một phát kiến “đặc dị” của Phật Hoàng Trần Nhân Tông trong khi ngài tư duy sáng tác trò chơi trí tuệ này. Đối chiếu lại những lời tiên tri của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thật hoàn toàn chính xác: Ngưu Giang hợp với Bảo Giang, Đại Nhân chính vị bốn phương một nhà. Ngưu Giang ngầm hiểu là Lão Tử - Chử Đồng Tử và Bảo Giang chính là Lạc Long Quân - Phật Vương Di Lạc. Đối với triết lý âm dương Việt, mỗi khi con Rồng xuất hiện, nó không chỉ bay có một mình mà luôn luôn có đôi, vì thế dân gian có những câu thơ rằng: Thế gian được vợ mất chồng, Chẳng ai như Rồng mà được cả đôi. Long Hoa là cách nói ẩn dụ của các bậc Thánh nhân, Long là Rồng, Hoa là biểu tượng người nữ, biểu tượng của nàng Tiên, là nói đến người phụ nữ đáng bậc làm thầy cho tất cả các Thánh tăng. Như vậy, Hội Long Hoa là Hội Rồng Tiên, khai mở “Thời Hoàng Kim” cho nhân loại. Theo thơ văn tâm linh từ các tôn giáo mới ở Việt Nam cho rằng Hội Long Hoa là ngày có “Phật Bà xuất thế, Di Lạc Thánh Chúa giáng lâm”: Phật sinh thiên hạ trong Trời, Có nam có nữ nối đời quốc vương. Và: Chính pháp hoằng khai ngôi Di Lạc, Quần tu phổ độ sắc Quan Âm. Mà chúng ta cũng đã biết mẫu Âu Cơ chính là Quan Âm Bồ Tát, vậy Phật Vương Di Lạc và Quan Âm Bồ Tát chính là Long Hoa, Rồng Tiên hay một đôi Rồng. Bộ tranh dân gian Đông Hồ Ngựa hồng và Bạch tượng được điều khiển bởi những vị tướng quân oai nghiêm tới đón hai vị, thật là một kỷ nguyên hạnh phúc của nhân loại “Song Hỷ Lâm Môn”, Phật Tiên xe duyên: Ngựa Hồng - Bạch Tượng Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Sự tái lâm của các vị Phật, tiên, Thánh, Thần là cơ hội giúp cho chúng ta học được phương pháp lu luyện, tránh bỏ qua cơ hội muôn năm này, như những lời nhắc nhở từ xưa tới nay. Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ còn lưu giữ một bộ tranh nhị bình rất đáng yêu, được trẻ em thích nhất Chuột vinh quy và Đám cưới chuột: Chuột vinh quy Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Đám cưới Chuột Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Tranh chuột vinh quy với chú chuột đi sau chú rể khiêng bảng đề “Tiến sĩ”. Con đi trước vác cờ đề “Tân hôn”. Tranh có bài thơ: Khôn khổn khồn khôn đã có đuôi, Đỗ cao cưới vợ tiếng rầm trời. Chú mèo vừa mới vênh đầu ngõ, Lễ cả sai quân đệ tới nơi. Tranh Đám cưới chuột với các hàng chữ Nho: “miêu”, “tống lễ”, “tác nhạc”, lão thử thủ thân” (“thủ thân” 守身 ở đây là “giữ thân” chứ không phải “thú thân” 娶亲hay “thành thân” 成亲là cưới vợ hay kết hôn). Còn chữ hàng dưới là “nghênh hôn”, “giai tế” (chú rể). Tranh Đám cưới chuột có tới 12 con chuột, mỗi con một tư thế, một tâm trạng khác nhau. Chuột tiến sĩ đội cái mũ cánh chuồn mặc áo thụng xanh, cưỡi ngựa hồng, lại có chuột hầu che lọng, mặt vênh vênh tự mãn đã đỗ cao lại cưới được vợ trẻ đẹp, quay đầu nhìn vợ ngồi kiệu đằng sau. Bọn chuột lính tráng, có con làm việc nghiêm chỉnh, có con nghịch ngợm. Con chuột vác biển trịnh trọng vừa đi theo Trạng, vừa ngoái liếc mắt với cô dâu. Hai chuột khiêng kiệu vừa khiêng vừa quay lại với lũ bạn ở đằng sau. Khác với tám con chuột ở hàng dưới vui nhốn nháo, bốn con chuột ở hàng trên đang tiến tới trước mặt mèo, tuy thổi kèn mang lễ vật nhưng vẫn sợ sệt. Con chuột đi đầu sợ rụt cả cổ, quặp cả đuôi co rúm người lại, hai “tay” đưa chim ra dâng lễ. Còn con mèo chồm hỗm một góc tranh, phóng to lên vượt cả con ngựa, các nét điển hình được khuếch đại làm nổi bật tính tương phản giữa các nhân vật. Một số niên họa Đám cưới chuột khác Lão thử thành thân, Niên họa Trung Quốc đời Thanh, Thiệu Dương, Hồ Nam Niên họa Trung Quốc Chương Châu, Phúc Kiến Niên họa Miên Trúc, Tứ Xuyên Lão thử giá nữ, niên hoạ Dương Liễu Thanh, Thiên Tân Trong Tây Du Ký, thầy trò Đường Tăng với nghi trượng xem cảnh đám cưới chuột tưng bừng tiến vào “hang không đáy”, niên họa Thượng Hải. Tranh “Lão thử giá nữ” (chuột già gả con) của Trung Quốc Trong tranh Chuột vinh quy gồm 11 con chuột và tranh Đám cưới chuột có 12 con chuột, bộ tranh nhị bình này thể hiện chúng ta chuẩn bị kết thúc cung Song Ngư (Hợi) để đi vào cung Bảo Bình (Tý), và sẽ chịu một quy luật tương tác mới, cho nên trong bức tranh ghi chữ Nho “thủ thân” tức hãy cẩn thận. Đây là lời nhắc nhở khi mà mọi người hân hoan trong niềm vui về sự tái sinh của Phật Vương Di Lạc - Thần Chết và Quan Âm Bồ Tát, cũng như các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần thì toàn bộ các linh hồn khác nhau, bao gồm cả những linh hồn có sức mạnh nhưng với ý đồ xấu, thường gọi là ma, quỷ… cũng sống dậy và lúc này là cơ hội để tu thành chính quả. Trong văn hóa Đông Phương, mèo biểu tượng cho cung Cấn của Bát Quái, mang ý nghĩa là “núi”, dân gian có câu “Núi là Phật, Phật cũng là núi” và hình tượng mèo chính là thể hiện sự tôn thờ các vị Thánh nhân. Trong tôn giáo cổ Ai Cập, mèo là vị nữ thần Bastel là nữ thần địa phương của Bubastis hay “nhà Bastel”, thành phố trung tâm của một tỉnh Hạ Ai Cập. Nữ thần này thường được xem là con gái của thần Ra. Thông thường, bà là một nữ thần nhân ái, Bastel che chở cho loài người khỏi các bệnh tật và ác thần. Quan trọng hơn hết, bà là một nữ thần của sự sinh sản, tình dục, yêu thương và yêu thích âm nhạc, khiêu vũ. Trong thế kỷ thứ III tr.CN, các lễ hội sinh sản được tổ chức để tưởng niệm bà trong đền thờ của bà tại Bubastis. Loài mèo được sùng kính như là vật thiêng của Bastet và xác ướp của chúng được mai táng trong các đền thờ của bà. Nữ thần mèo Bastel Cổ vật Ai Cập Mà chúng ta cũng biết, cung Cấn hay “núi” là biểu tượng của bà Âu Cơ, Quan Âm Bồ Tát hay Nguyệt Lão Bà - nữ thần nhân duyên, con dâu của vua Kinh Dương Vương - thần Ra của tôn giáo Ai Cập cổ. Như vậy, lịch sử tôn giáo Ai Cập và Văn Lang cổ đại hoàn toàn trùng khớp với nhau qua những biểu tượng. Trong bài thơ trên tranh Chuột vinh quy có đoạn thơ “Khôn khổn khôn khôn đã có đuôi” rất khó hiểu? Tại sao lại có đuôi? Đây chính là nội dung liên kết đến một bài đồng dao dân gian của trẻ nhỏ Con voi, và dĩ nhiê nó cũng thể tách rời câu chuyện cười dân gian Việt Nam Thầy bói sờ voi: Nhân buổi ế hàng, năm ông thầy bói nói chuyện với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn không biết hình thù con voi nó như thế nào. Chợt nghe người ta nói có voi đi qua, năm thầy chung nhau tiền biếu người quản tượng, xin cho voi dừng lại để cùng xem. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi. Đoạn, năm thầy ngồi bàn tán với nhau: Thầy sờ vòi bảo: - Tưởng con voi nó thế nào, hoá ra nó sun sun như con đỉa. Thầy sờ ngà bảo: - Không phải! Nó dài dài như cái đòn càn. Thầy sờ tai bảo: - Đâu có! Nó bè bè như cái quạt thóc. Thầy sờ chân cãi: - Ai bảo? Nó sừng sững như cái cột đình. Thầy sờ đuôi lại nói: - Các thầy nói sai cả, nó tua tủa như cái chổi xể cùn. Năm thầy, thầy nào cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toạc đầu chảy máu. Con vỏi con voi Cái vòi đi trước Hai chân trước đi trước Hai chân sau đi sau Còn cái đuôi thì đi sau rốt Tôi xin kể nốt Cái chuyện con voi. Trong Kinh Niết Bàn và Kinh Trường A Hàm của Phật giáo kể về câu chuyện nhà vua nghe những người mù tranh cãi nhau về hình dáng con voi, nhà vua cảm khái nói: Người mù đều rất đông, Tranh nhau nói sự thật. Voi vốn chỉ một thân, Thị phi lại bất đồng. (Trích theo Hồng Phi Mạc "Cầm hoa mỉm cười", BK.1999 tr.30, tiếng Trung). Qua câu truyện Thầy bói sờ voi và bài thơ Con voi, mang ẩn ý tất cả chúng ta có lẽ đang suy nghĩ về nguồn gốc của vũ trụ hay có thể hiểu là khởi nguyên của vũ trụ, nhưng mỗi người hay mỗi tổ chức xác định hay gán ghép trạng thái này đều như những “người mù sờ voi” mà thôi. Phải dùng trí tưởng tượng và sự hợp lý, từ thực tiễn nghiên cứu các quy luật vận động rồi mới xây dựng được học thuyết, và đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ Hành. “Cái vòi đi trước” tức Thái Cực, “hai chân trước” là Âm Dương và “hai chân sau” tạo thành Tứ Tượng, cuối cùng là “cái đuôi” tạo thành 6 quẻ Dịch lý. “con voi” cũng hàm nghĩa tư duy về sự thống nhất của vũ trụ tức cả “con voi” hay con thú to nhất trong các loài thú rừng, “cái đuôi” cũng còn nói về “lân vi trần” tức loại vật chất nhỏ nhất của vũ trụ trong kinh sách Phật giáo, và con voi cũng là con “tịnh” tức thấu hiểu khởi nguyên vũ trụ ở trạng thái “chí tịnh”, đó cũng chính là nội dung mật ngữ trong trong trò chơi trẻ em Việt Nam Lò cò xủn. Tiên tri trong trò chơi “Lò cò xủn” Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền văn hiến Lạc Việt, đó là trò chơi Lò cò xủn. Trò chơi Lò cò xủn Ảnh tham khảo Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch. Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò. Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. Đối tượng chơi không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. Hình thức thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng.Vật dụng gọi là “chàm” thường là một viên đá có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi: Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. Bẹp hai chân vào mức 1, 2, 3, 4, 7, 8, 9, 10. Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam là chỗ nơi “ô Trời” có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “xê xích Thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 1 đầu tiên. Lạ lùng thay thuyết Âm dương Ngũ hành được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ, ô hình cung bán nguyệt được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một chìa khóa để khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”, Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Như vậy cặp phạm trù Trời - Đất được mã hóa bằng trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Phối hợp Thiên Can Trò chơi dân gian Lò cò xủn, Việt Nam Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với Thiên Can. Chiều tương sinh Ngũ hành hiển thị chiều tương tác của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô đọng trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Quy định của trò chơi, mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông 10 ô số, và chiều di chuyển thuận kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của Âm dương Ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, luồn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho đến khi được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Chi tiết người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm, quay lưng luồn tay qua hai chân, do vậy phải cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng về sự khởi nguyên của vũ trụ hay chính là đi tìm “Thượng đế”, và muốn nhận thức được thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trừu tượng để nhận thức căn để thực tại ấy, dựa trên các quy luật vận động tự nhiên đã được nhận biết, đó gọi là tính tuyệt đối hay còn gọi “tính Thấy” (tham khảo Kinh Lăng Nghiêm). Trong bộ Thánh kinh Veda cổ nhất của dân tộc Ấn Độ ước chừng thế kỷ XV tr.CN, một trong những bài thơ hay nhất là bài Thánh ca về sự sáng tạo vũ trụ, thật lạ lùng, chúng ta còn thấy một giọng hoài nghi rất tôn kính: Buổi đó, hoàn toàn chẳng có gì cả, mặt trời rực rỡ kia không có, mà vòm trời là cái khăn phủ mênh mang kia, cũng không có. Vậy thì cái gì trùm lên, che phủ, chứa chất vạn vật? phải chăng là vực nước sâu thẳm?. Thời đó không có chết - vậy không có gì là bất tử, không phân biệt ngày và đêm, Cái Nhất, cái Ðộc Nhất, không có hơi mà tự thở lấy được, ngoài cái đó ra không có cái gì khác nữa. Tối tăm, và hồi đầu cái gì cũng chìm trong cảnh tối tăm mù mịt - như biển cả không ánh sáng - Cái mầm khuất trong cái vỏ, bỗng nảy ra, duy nhất, dưới sức nóng nung nấu. Thế là lần đầu tiên, lòng thương yêu xuất hiện, nó là dòng suối mới. của tinh thần, các thi sĩ suy tư và thấy được trong lòng mình, Mối liên lạc giữa cái không được tạo ra với những vật được tạo ra. Tia sáng đó chiếu ra, xâm chiếm hết, nó phát xuất từ trời hay từ đất? Giống đã gieo và người ta thấy các năng lực cao cả xuất hiện. Ở dưới thấp là thiên nhiên, ở trên cao là quyền năng và ý lực, ai là người vén được màn bí mật? Ai là người cho ta biết: Sự sáng tạo muôn vật đó từ đâu mà có? chính các thần linh cũng chỉ xuất hiện sau này, Vậy thì ai là người biết được sự sáng tạo mầu nhiệm đó từ đâu mà có? Ðấng nào đã gây ra sự sáng tạo đẹp đẽ đó? là do vô tình hay hữu ý? Ðấng tối cao trên tầng trời cao nhất kia, biết được - nhưng biết đâu chừng, có thể chính ngài cũng không biết nốt. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, tượng trưng Âm Dương hòa hợp là một ẩn ngữ cho biết rằng: muốn nhận thức bản nguyên vũ trụ, phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải hiểu được trạng thái cân bằng Âm Dương thì mới “Thấy” được trạng thái tuyệt đối ban đầu. Mò chàm Hình ảnh minh họa trò chơi Trò chơi Lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt, người chơi được phép lò cò vào ô Trời, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Trong cuốn Đạo Đức Kinh, Lão tử bàn về nguồn gốc của vũ trụ, ông cho rằng vũ trụ có khởi thủy và cơ hồ không có chung, và quy tắc chỉ được dịch chuyển chàm một lần trong ô Trời thể hiện ý nghĩa vũ trụ sau khi vận động sẽ không còn trở lại trạng thái “chí tịnh” ban đầu đầu được nữa. Lão Tử - Đạo Đức Kinh, dịch giả Nguyễn Hiến Lê, Nxb Văn hóa Thông tin, 2006. Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích Thủ”. Yếu tố bí ẩn được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Thiên Đàn Bắc Kinh, Trung Quốc Ngôi đền linh thiêng này được viếng thăm bởi các hoàng đế của triều đại nhà Minh và nhà Thanh cho việc thực hiện các nghi lễ hàng năm để gửi lời thỉnh cầu lên Ngọc Hoàng ban cho một vụ mùa bội thu. Đây là một tổ hợp kiến trúc được xây dựng theo phong cách đạo Lão nằm ở phía Đông Nam thủ đô Bắc Kinh. Hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh khi phụ nữ lâm bồn được cách điệu một cách tinh tế. Từ sự quán xét trên, chúng ta có thể hiểu rằng đây là một hình tượng cô đọng diễn tả sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính Mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Mặt khác, cấu trúc “chàm” hình tam giác cũng còn mang một ẩn ý rất quan trọng đó là từ nhận thức về hiện thực khác quan của ba vấn đề: ý thức, hình tướng và các động lực của sự vận động thì chúng đã tồn tại và phát triển như thế nào trong giai đoạn trước và ngay thời điểm khởi nguyên của vũ trụ?. Trên cơ sở vấn đề được đặt ra, nếu so sánh với tư tưởng của Lão Tử qua cuốn Đạo Đức Kinh có thể đi đến một nhận xét về sự tương đồng, Lão Tử bàn đến khởi nguyên của vũ trụ: “Không là cái bản thủy của trời đất - Có là mẹ sinh ra vạn vật”, so sánh với quan điểm vũ trụ quan của Văn Lang qua câu tục ngữ “Mẹ tròn con vuông” và hình tượng bánh Chưng bánh Dầy thì hai quan điểm này gần như hoàn toàn trùng khớp. Thái Cực - Dương tương ứng với cái “Không” của Lão tử. Âm - lý của Ngũ hành nằm trong bánh Chưng là nguồn gốc của vạn vật, tương ứng với cái “Có” là mẹ sinh ra vạn vật. Núi Võ Đang - Thánh địa Đạo giáo Tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc Phạm vi giải mã của trò chơi chứa đựng những ẩn ngữ của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được gọi tên “Tính Thấy” diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” Sự giải mã nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử đã làm lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị ẩn hiện sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như tục ngữ ca dao, hò vè, dân ca, hình tượng, trò chơi dân gian… sẽ định hướng cho việc hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn về thuyết Âm dương Ngũ hành, mà tiền nhân gọi là lý thuyết về cái “Một”, cái “Duy nhất” hay nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh xác quyết đấy là “Lý thuyết thống nhất vũ trụ” mà các nhà khoa học hiện đại đang mơ ước: “Tạo ra một lý thuyết thống nhất các định luật vũ trụ! Một siêu công thức bao trùm mọi định luật của thiên nhiên, hoàn toàn có thể giải thích được mọi sự kiện bao quanh con người, từ những hạt vật chất cực nhỏ đến những thiên hà khổng lồ”. (Trích từ cuốn Định mệnh có thật hay không, tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 56). Nhưng thật thú vị, những quy luật vận động của tự nhiên thuộc một lý thuyết về thực tại vũ trụ được diễn tả cô đọng và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một trí tuệ siêu việt của chủ nhân học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt, mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. (Tham khảo và trích dẫn một phần nội dung bài viết Giải mã trò chơi Lò cò xủn, tác giả Bùi Anh Tuấn, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông Phương). Như vậy, nền tảng lý thuyết của các tôn giáo cổ đại từ Đông sang Tây, cũng như các lễ hội đều phát tích từ văn minh Văn Lang, mà học thuyết Âm Dương Ngũ Hành làm chủ đạo, học thuyết thống nhất vũ trụ. Đồng thời, lịch sử của các vị Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần đã được làm rõ và vị Thánh nhân mà cả thế giới đang mong chờ chính là Phật Vương Di Lạc, hay là hóa thân thứ 10 của thần Vishnu là thần Kalki, cũng là thần chết Osiris trong tôn giáo Ai Cập cổ đại… phục sinh trở lại, đúng như các nhà tiên tri kim cổ đã dự ngôn: Một vườn hoa đẹp diệu kỳ, mùa xuân đã có chủ, Gió mưa suốt đêm, không cần phải lo sầu. (Dự ngôn Mai Hoa Thi, tác giả Thiệu Khang Tiết). Tiên tri về nguồn gốc học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các nền tảng học thuật khác của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn giáo… cũng thể hiện trong tích truyện Nôm Trê Cóc, vốn là một trong những truyện Nôm khuyết danh hay nhất còn sót lại đến nay trong nền văn học dân gian. Trê Cóc và Thầy đồ Cóc (Lão Oa độc giảng) Tranh dân gian Đông Hồ, Việt Nam Vợ chồng Cóc vốn ở gần bờ ao. Đến khi đẻ, vợ Cóc xuống ao sinh ra một đàn nòng nọc. Trê ở dưới ao thấy nòng nọc giống mình, bèn bắt cả đàn về nuôi. Khi Cóc trở lại, thấy Trê chiếm đoạt con mình, mới đem việc đến kiện ở cửa quan. Quan truyền giam Trê lại. Vợ Trê ở nhà đến nhờ Triều Đẩu gỡ tội cho chồng. Triều Đẩu giới thiệu vợ Trê đến tìm Lý Ngạnh, một thủ hạ am tường việc quan. Lý Ngạnh lo lót lễ vật vào cáo quan để khiếu nại cho Trê. Quan cho sai nha đến tận nơi tra án. Trê nói rằng Nòng Nọc sống dưới nước và giống Trê hơn giống Cóc. Cóc không còn sống dưới nước, mà lại chẳng giống Nòng Nọc. Quan xử Trê thắng kiện. Cóc đau khổ vì mất con, chỉ còn nghiến răng uất hận kêu trời. Biết chăng có một ông Trời, Nghiến răng có thấu xin soi đến cùng. Ai làm oan thác sự lòng, Thì xin tiếng Sấm Cửu Trùng nổi lên. Quan liền ra lệnh thả Trê và bắt giam Cóc lại. Đến lược vợ Cóc phải chạy lo cho chồng. Ếch giới thiệu cho vợ Cóc một thầy kiện trứ danh là Nhái Bén. Nhái Bén khuyên vợ Cóc cứ đợi đàn nòng nọc đứt đuôi tự nhiên sẽ về với mình, không cần phải kiện cáo gì cả. Quả nhiên ít lâu sau, khi ra bờ ao thì đàn cóc con theo mẹ về. Vợ Cóc cùng đàn con đến kêu oan. Trước chứng cứ rõ ràng, Trê phải thú tội và bị kết án "lưu tam thiên lý" (đày xa ba ngàn dặm). Hai vợ chồng Cóc được kiện trở về, một nhà vui sướng xum vầy. Nhà ta cũng có cơ đồ đỉnh đang, Ra vào gác tía nhà vàng, Cõi bờ mặc sức nghênh ngang chơi bời, Nghiến răng chuyển bốn phương trời, Ai ai là chẳng rụng rời sợ kinh. Có thể nói Câu chuyện là một biểu tượng tuyệt vời, ẩn chứa mật ngữ, có tính tiên tri, cho biết nền văn minh Khoa đẩu (nòng nọc) đã bị khuất lấp dưới một hình thức khác (con của Trê). Cóc không ở dưới nước (tức là đã mất nước), nên không thể chứng minh được nòng nọc là con của mình. Nhưng bản chất của sự vô lý (nòng nọc không phải con của Trê), cuối cùng cũng sẽ được sáng tỏ trong qui luật tiến hóa, phát triển của tự nhiên: Đừng thầy kiện chớ hội đồng, Đứt đuôi nòng nọc thì công viên thành. Đây là hình tượng độc đáo của câu chuyện có tính tiên tri, cho biết: sự tiến hóa, phát triển toàn diện về mọi mặt trong các mối quan hệ xã hội mà nền tảng là sự tiến bộ của khoa học hiện đại - trong đó mũi nhọn của khoa học hiện đại chính là khoa học lý thuyết - mới là điều kiện cần và đủ để minh chứng cho sự kỳ vĩ của nền văn minh Khoa đẩu của nhà nước Văn Lang (trích Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, tác giả nguyễn Vũ Tuấn Anh). Được kiện Cóc trở ra về, Họ hàng náo nức nói cười mừng vui, Chè sen, rựu cúc thảnh thơi, Cóc ngồi chịu chuyện, Bén ngồi ngâm thơ. Dòng tranh mộc bản dân gian, nhiều tranh có ghi những dòng thơ bằng chữ Hán Nôm để vịnh tranh, bức tranh Thầy đồ cóc (Lão Oa độc giảng) thì không thấy thơ, nhưng theo các nghệ nhân làng tranh dân gian Đông Hồ, trên tranh ván in xưa có bài thơ rằng: Tìm thầy hỏi bạn Nhái chi mà, Thấy học xem bằng Ếch thấy hoa, Mở mắt Chão chàng soi vũ trụ, Đem gan Cóc tía đối sơn hà. Không những nội dung bài thơ chỉ ra tên các loài nhái, ếch, chão chàng, cóc, một loạt nhân vật trong bức tranh mà ẩn nghĩa sâu xa về việc - khi “đôi mắt” nhìn nhận được “Cóc - Tính Không” và “Tính Thấy” khởi nguyên vũ trụ thì lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành - thể hiện quy luật vận động của thế giới tự nhiên, xã hội và con người sẽ được khôi phục, như bà Vangan đã tiên tri “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở về với nhân loại”. Chính vì thế mà Cóc có một vị trí đặc biệt, được hết sức tôn trọng trong nền văn hóa nhân bản Việt: Con Cóc là cậu ông Trời. Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho. Con Cóc là cậu thầy Nho, Ai mà nuôi nó Trời cho đồng tiền. Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng, nhưng cóc lại còn là "Cậu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế nào, không những thế, Cóc còn là thầy dạy, là sự truyền đạt văn hóa và chỉ mình Cóc làm được chuyện này. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiên tri thời gian Ngài tái xuất, mọi việc tự nhiên thành: Bắc hữu kim thành tráng, Nam tạc ngọc bích thành. Phân phân Tùng Bách khởi, Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh. Bảo giang Thiên Tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. <br style="mso-special-character:line-break" clear="all"> Thiên Tử là con Trời, Lạc Long Quân con của Ngọc Hoàng Thượng Đế - Kinh Dương Vương, Ngài sẽ làm thay đổi cục diện đi tìm chân lý trên toàn thế giới, nhà tiên tri nổi tiếng thế giới Nostradamus cũng đã nhận định rằng: Ngài sẽ lấy ngày của nữ thần Diana (Mặt Trăng), Làm ngày cho sự nghỉ ngơi bình yên của Ngài. Ngài sẽ đi xa và rộng với sự thôi thúc để làm nổi giận, Giải cứu một dân tộc vĩ đại khỏi sự khuất phục. Như vậy, vua Lạc Long Quân với ngôi Phật Vương Di Lạc đã được hoàn toàn xác quyết từ những dự ngôn tiên tri, cho đến tất cả các dữ liệu lịch sử được ghi nhận ở các quốc gia trên khắp các châu lục. Tuy nhiên, sự kiện tiếp theo là Long Hoa Hội sẽ được minh xác như thế nào và ai sẽ là chủ trì? Lá Phướn phất ngang trời, bốn bể đều trông Nêu Phật, Tiếng Chuông kêu dậy đất, mười phương cùng tưởng Pháo sư. Trong Thánh kinh Rig Veda của Bà La Môn giáo thời cổ đại, với nhiều huyền thoại diễn tả Rồng Vrtra, vào thuở ban sơ, nó sống dưới biển sâu, giam giữ vô số loài thủy tộc trong bụng của nó. Mọi loài bị mắc trong bẫy “Không” cho đến khi có một anh hùng Indra trong tín ngưỡng Veda đến diệt trừ nó, mổ bụng nó và thả hết mọi loài chúng sinh và thủy tộc, làm cho sự sống trôi chảy (Du già hành tông, Yogacara, Thích Nhuận Châu soạn dịch, Nxb Tôn giáo, 2005, trang, 142). Ta thấy thần sấm Indra cũng là thần Brahma trong Bà La Môn giáo, thần Osiris trong tôn giáo cổ Ai Cập hay vua Lạc Long Quân tức Phật Vương Di Lạc.1 like
-
1 like
-
Xem cái còng - í lộn - cái còm (comment) trên báo ANTD thì thấy nhắc tới lòng yêu nước của bác Xuyền. Tất nhiên phải có một tấm lòng yêu nước; yêu văn hóa dân tộc thì bác Xuyền có thể gần như hy sinh cả cuộc đời mình, cho sự nghiệp đi tìm Chữ Viết của người Việt cổ - cội nguồn văn hóa dân tộc. Động cơ yêu nước của bác Xuyền thì không thể phủ nhận được. Nhưng trong khoa học thì vấn đề là phương pháp chứng minh và những luận cứ chứng minh có phù hợp với những tiêu chí khoa học cho một giả thiết khoa học hay không. Nhưng tại sao trong vấn đề khoa học mà lại liên hệ tới lòng yêu nước ở đây? Có vẻ có cái gì không không ổn. Hình như tác giả của nhận xét này muốn gây ảo tưởng cho người đọc rằng những công trình nghiên cứu của bác Xuyền không có tố chất khoa học, mà nó chỉ thể hiện lòng yêu nước, thể hiện tinh thần dân tộc. Vậy vấn đề được đặt ra ngược lại với tác giả này của tôi là: Vậy sự phủ nhận văn hóa cội nguồn dân tộc có yêu nước không? Phải chăng phủ nhận văn hóa dân tộc thì luôn phù hợp với tinh thần khoa học? Vậy thì - vấn đề gấn gũi ở chiều ngược lại - cô Nguyễn Thi Thái xộc đến thẳng văn phòng TTNC LHDP tại Hanoi nói bô bô Thiên Sứ tui "căm thù chế độ công sản", có liên quan gì đến việc "cơ sở khoa học" của việc minh chứng Việt sử 5000 văn hiến không vậy? Thôi đi quý vị! Quý vị đừng giờ chiêu ra đây nữa. Có gì nói thẳng với nhau đi. Còn bác Xuyền đã công khai công bố công trình nghiên cứu của mình, vậy hãy chỉ thẳng váo những luận cứ của bác ấy, cho những kẻ ngu dốt như chúng tôi thấy nó sai ở chỗ nào với cái "bằng chứng khoa học" của các vị. Xin lỗi! Tôi xác định luôn rằng: Quí vị không đủ tầm cỡ để phản biện, nên mới phải dùng chiêu bẩn như vậy!1 like
-
TRẢ LỜI: Thứ nhất: đặt lại vấn đề rằng thế nào là "bằng chứng khoa học"? Bằng chứng khoa học cần phải đưa ra một cách cụ thể chứ không phải là một câu chung chung. Khi một lý thuyết khoa học được đưa ra thì nó luôn luôn vượt trội trên nền tảng tri thức hiện có. Do đó cho nên tất cả những nhà phát kiến đều có quyền suy luận. Vấn đề là sự suy luận đó dựa trên cơ sở nào và nó có phù hợp với những tiêu chí khoa học hay không. Việc đặt vấn đề Bác Xuyền xuất phát từ lòng yêu nước tôi nghĩ rằng không cần thiết phải đặt ra ở đây. Bởi vì một công trình khoa học thì căn cứ vào tiêu chí khoa học, chứ không căn cứ vào lòng yêu nước. Thế kỷ thứ 9 là thế kỷ tất cả các dân tộc trên dải đất Việt Nam này vẫn nằm dưới sự thống trị của Hán tộc. Vậy nguyên nhân nào để khẳng định dân tộc Thái có một bộ chữ viết để sử dụng và gìn giữ nền văn minh của họ, mà trong khi dân tộc Việt là một dân tộc văn minh hơn lại không có chữ việt? Trên thực tế chỉ một chữ i (ngắn) hoặc y (dài) mà các học giả Việt Nam đã tranh luận không biết bao nhiêu năm nay. Vậy dựa trên cơ sở xã hội - hệ thống chính trị, thể chế xã hội nào đã tạo nên bộ chữ Thái trên. Vậy thì chúng ta hoàn toàn có quyền đặt một giả thiết rằng: bộ vần Sanchit có khả năng đó là một trong những hệ thống Chữ Việt Cổ còn sót lại, Và không loại trừ người Tày Thái thừa kế lại và nền văn hóa của họ không bị xóa sổ, bởi vì họ ở vùng sâu vùng sa, nên it` chịu ảnh hưởng của chính quyền đô hộ phương Bắc. Bằng chứng một số dân tộc vùng sâu vùng sa vẫn mặc áo cài vạt bên trái như người Việt Cổ hàng ngàn năm trước.1 like
-
Quá chuẩn ! Chưa kể muốn mua 1 căn hộ 70m2 cho 1 gia đình trị giá 1tỷ với lãi suất vay 3% /1năm thì mỗi năm người thu nhập trung bình này phải trả 30 triệu tiền lãi với mức lương thu nhập trung bình 5-7tr đồng 1/ tháng như vậy 1 người LĐ phải làm 5-6 tháng không công trả tiền lãi vay còn lại 5-6 tháng để nuôi miệng và chi phí (chưa kể trả gốc dần dần). Như vậy nếu chỉ với mức thu nhập như vậy suốt đời người này vẫn là đi thuê nhà giá cao. Đây chính là vấn đề mà người dân có muốn mua nhà cũng không dám vay ngân hàng để mua. Tính toán trên được áp dụng với người công chức thu nhập bình quân đều tháng đủ 30 ngày công. Với những công việc có tính chất bấp bênh thì vay tiền mua nhà chỉ là một hư ảo....1 like
-
Đúng đấy, diễn đàn chỉ xem cho trẻ em có trường hợp đặc biệt thôi1 like
-
Mình thích thì làm thôi mà. Đâu có ai ép mình. Cám ơn bạn đã quan tâm1 like
-
1 like
-
Kính gửi anh Vinh, Vòng quý nhân là một đề tài rất quan trọng, theo em chúng ta nên mở một topic chuyên để mổ xẻ vòng quý nhân, và tiếp tục sau đó tới các topic về vòng thái tuế, vòng trường sinh, vòng lộc tồn, Thiên mã vvv. Ý anh thế nào ạ?1 like