-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 18/01/2013 in all areas
-
Ngẫm Nghĩ
Thiên Cầm and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Về mặt kinh tế: Đó là một ngành nghề phục vụ nhu cầu xã hội: Phân chia lại của cải.Về mặt tìn ngưỡng: Thỏa mãn niềm tin của con người với mơ ước momg muốn người thân no đủ: Có tính hướng thiện. Về mặt thực tế: Hiện tượng được giải thích có vẻ "mê tín dị đoan". Nhưng thực chất là dùng lửa để làm tan âm khí. Lý học Việt giải thích bản chất hiện tượng, không căn cứ vào cách giải thích hiện tượng - cho rằng đốt vàng mã cho người Âm tiêu sài - để nhận xét hiện tượng.2 likes -
Dí
hoctronho and one other liked a post in a topic by Lãn Miên
Năm rồi nhiều chính sách đưa ra nhưng không được công chúng chấp nhận. Dư luận các báo cho rằng vì các nhà làm chính sách chỉ ngồi suốt ở phòng máy lạnh. Không ban hành được, thật là phí của thời gian và lương nhà nước. Khi còn chưa làm quan thì ở quê, đêm trăng ra đê trai gái tán tỉnh nhau. “ Anh mà Phải lòng em thì anh yêu em suốt đời”. “Em cũng thế, em mà Hài lòng anh thì em nguyện theo anh suốt đời”. Đến khi làm quan, ngồi phòng máy lạnh thì các Ngài quên béng cái lý đơn giản của tiếng Việt là Phải lòng dân thì được, Trái lòng dân thì hỏng. Làm chính sách cũng chỉ cần một tiêu chí đơn giản là Trái Phải mà thôi, đến con trâu cày đơn nó cũng hiểu Dí Thá là thế nào để hành động, hai con trâu cày đôi thì cả con Dí và cả con Thá đều hiểu và cùng nhau chấp hành răm rắp theo Dí hay Thá, đâu cần phải học một chữ hay bốn chữ hay mười sáu chữ. Sau buổi cày, tối đến thợ cày vào quán nhậu thấy bức thư pháp treo trong quán: Nhân Dĩ Hòa Vi Qúi. Dân Dĩ Thực Vi Thiên; là thấy vui vẻ rồi vì có nhiều thức. Dựa Đi ! tức là hành động dựa, lướt “Dựa Đi” = Dĩ. Nhân dân chỉ cần dựa vào Hòa, tức là cuộc sống hòa bình, hòa hợp dân tộc, hài hòa lợi ích; và dựa vào Thực, tức là ăn nhiều thức, vì lướt từ lặp nhấn ý “nhiều” là “Thức Thức” = Thực, 1+1=0, biến thanh điệu đúng thuật toán nhị phân. Nhiều Thức ấy là Ăn Uống, Ăn Mặc, Ăn Ở, Ăn Nằm, Ăn Học; đó là hạnh phúc của con người. Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm 7-12-1258 Mậu Ngọ / 16-11-1308 Mậu Thân) có bài thơ: 居塵樂道且隨緣 饑則餐和睏則眠 家中有寶休尋覓 對境無心莫問禪 Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền ( Sống giữa cõi trần hỉ tùy duyên Đói ăn mệt ngủ lẽ tự nhiên Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Nhìn đời vô cảm chớ hỏi thiền) Mà Hoangnt đã dịch câu có chữ Báu tuyệt vời. Các bậc tiền bối đều tự biết rèn mình thành “Bối Trau” = Báu. Bậc hậu bối là các quan ngày nay có tự biết rèn mình để cũng là “Bối Trau” = Báu hay không mà hễ ra qui định là bị sai vì không hợp lòng dân. Học ở tiếng Việt thì cực giản dị. Ai là Người, Ai Ai cũng hiểu như vậy, Ai=Ngài=Người. Đơn giản học từ tiếng Việt: “Trói Ai” = Trái, “Phóng Ai” = Phải. Ban hành chính sách mà bó buộc con người vô lý (trói) thì là Trái lòng dân, ban hành chính sách mà giải phóng con người, trả lại tự do cho con người (phóng) thì là Phải lòng dân (“Anh mà phải lòng em thì em theo anh suốt đời”). Còn qui định mà chỉ nhằm Dí dân thì trái rõ ràng: Giam=Giữ=Dí=Đì=Ghì=Trì=Tra=Trái.( Ngày xưa Chu Công bị Đì = bị “Dí “, nên sử sau viết phiên thiết là bị giam ở ngục “Dữu Lí “)2 likes -
Bài Thuốc "thần" Chữa Bệnh Gan
ATN and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Quê nghèo xôn xao với bài thuốc "thần" chữa bệnh gan Vietnamnet – 9 giờ trước - Ở thung lũng với xung quanh là bốn bề núi rừng của xã Tân Trịnh, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang có một người đàn ông đã gần 30 năm lưu giữ bài thuốc lá rừng trị bệnh gan cực kì hiệu nghiệm. Bài thuốc “tiên” ấy đã giúp cho hàng trăm người gần kề cái chết trở về với cuộc sống thường ngày. Còn người được người dân quý mến vì giỏi trị bệnh gan là ông Hoàng Ngọc Cảnh ở thôn Tân Trang, xã Tân Trịnh. Cái duyên đến với nghề Theo lời giới thiệu của một người bị bệnh gan được ông Cảnh chữa khỏi, chúng tôi tìm đến ông vào một buổi sáng không khí tươi mát. Trong căn nhà nhỏ nằm hun hút trong khe núi ông Cảnh thoăn thoắt rót nước lá rừng mời khách rồi kể về chuyện nghề, chuyện đời. Ông chia sẻ: “Có lẽ đó là cái số mà ông trời đã định sẵn, năm 1985 tôi bị sơ gan cổ trướng nặng, phải đi nhiều nơi chữa trị, nhưng các bác sĩ ở bệnh viện đều lắc đầu và khuyên về nhà chuẩn bị hậu sự...”. Tôi đến với cái nghề này âu cũng là cái duyên, bởi trước đây tôi cũng đã từng bị bệnh gan và đi khắp nơi chữa trị. Trong nỗi tuyệt vọng khi ấy, cứ ai mách có người chữa được bệnh gan là ông lại tìm đến. Sau hơn một năm đi chữa trị thêm ở nhiều thầy thuốc, bệnh ông vẫn vậy, thậm chí còn nặng hơn. Khắp người ông vàng khè như nhuộm màu nghệ. Của cải vật chất trong nhà cũng lần lượt đội nón ra đi theo những chuyến chữa bệnh. Khi đã gần như tuyệt vọng, ông nghe nói ở xã Yên Thuận (Hàm Yên – Tuyên Quang) có một người thầy thuốc tài ba chữa bệnh gan cực giỏi. Ông lại một lần nữa cất công khăn gói ra đi. Lần này “thần may mắn” đã gõ cửa nhà ông. Vị thầy thuốc yêu cầu muốn trị được bệnh này phải ở lại vài tháng để thầy trực tiếp quan sát tình trạng sức khỏe để chọn thuốc cho phù hợp, đặc biệt phải kiêng ăn đồ nóng như thịt gà, thịt trâu, thịt bò, rau bí, rượu… Sau hai tháng chữa trị, bệnh ông đỡ dần rồi khỏi hẳn. Thấy ông Cảnh là người thật thà, người thầy thuốc tên Bàn Văn Tráp đã nhận làm con nuôi. Qua một thời gian thử thách về y đức sư phụ ông mới truyền dạy bài thuốc chữa trị bệnh gan bằng lá cây rừng cho ông. Chữa cho cả làng Ông Cảnh cho biết, bệnh nhân đầu tiên của ông là một phụ nữ tên Thơm ở xã bên. Chị này cũng đã từng rơi vào hoàn cảnh giống như ông Cảnh trước đó, đi khắp nơi chữa trị mà vẫn không khỏi. Nghe vậy, ông Cảnh đã tìm đến tận nơi đề nghị được chữa trị cho chị Thơm. Được gia đình bệnh nhân chấp thuận, chỉ sau vài tuần dùng thuốc của ông, chị Thơm đã bình phục dần rồi khỏi. Chị Thơm được ông Cảnh tìm đến tận nhà xin chữa bệnh. Từ đó trở đi cái tên Cảnh Huế (người Tày thường gọi tên bố gắn với tên con trai cả) chữa được bệnh gan được người dân khắp trong và ngoài xã lân cận biết đến. Cũng sau năm ấy, cả làng ông bỗng nhiên mắc bệnh gan từ đầu làng đến cuối làng một không khí ảm đạm bao trùm lên ngôi làng vốn bình yên trở nên u ám đến rợn người. Theo ông Cảnh, lúc ấy sắc mặt ai nấy đều vàng, đi xét nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận là viêm gan A, thậm chí còn có một số tin đồn cho rằng do ăn đường hóa học khi đó nhập khẩu từ Trung Quốc bị nhiễm độc nên gây ra bệnh, lại có người cho rằng ngôi làng bị “ma ám” khiến nhiều người vô cùng hoang mang. Khi đó ông Cảnh được biết đến là người từng chữa được bệnh gan bằng cây lá rừng, nên nhiều người trong làng đã tìm đến nhờ ông chữa trị. Bài thuốc của ông đã giúp nhiều người nhanh chóng khỏi bệnh. Làng xóm lại trở về với không khí vui vẻ rộn ràng như xưa, cũng kể từ đó tiếng tăm của ông lại càng được nhiều người biết và tìm đến. Bài thuốc "thần" với sáu loại cây rừng Ông Cảnh cho biết, bài thuốc của ông có thể chữa viêm gan A, sơ gan cổ trướng và gan lành tính. Xác xuất khỏi ở những bệnh này là 90%, ông Cảnh khẳng định. Theo bài thuốc của ông Cảnh người bị bệnh gan muốn chữa khỏi trước hết phải không được tiêm, cắm kim loại vào người, ông Cảnh lý giải có rất nhiều người từng đi bệnh viện điều trị lâu ngày về ông đã phải bó tay, do trong quá trình điều trị các bác sĩ tiêm thuốc vào cơ thể mà việc điều trị bằng bài thuốc nam này của ông theo sư phụ ông là kiêng kim loại. Ông Cảnh giới thiệu cây thuốc trong vườn nhà. Thuốc có thể trị bệnh này là 6 loại cây rừng cực kỳ hiếm, đặc biệt khó trồng nên phải đi 4-5km đường rừng mới có thể hái được những loại cây này. Ông Cảnh cho biết, trước đây muốn có được thuốc cứu người ông phải lên tận chóp núi mới có thể tìm đủ những loại cây này, nhưng hiện giờ hai loại cây thuốc ông đã trồng được quanh nhà nên đỡ nhọc hơn chút, chỉ phải tìm 4 loại cây còn lại. Dẫn chúng tôi ra xem cây thuốc ông Cảnh bảo: “Cây thuốc thuốc này nhìn bề ngoài trông giống hoa hồng đỏ bình thường, mọc trên lưng chừng núi. Nhưng có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho các loại cây kia trị bệnh”. Ông cho biết thêm, bài thuốc này muốn đạt được kết quả tốt nhất trước hết phải thật tươi vì khi ấy dòng sinh khí trong cây là mạnh nhất, khi ấy sắc uống sẽ cực kỳ hiệu nghiệm. Anh Lò Y Trình cũng đã từng được ông Cảnh chữa khỏi bệnh gan. Chúng tôi tìm gặp chị Nguyễn Thị Thơm, ở thôn Lủ, xã Tân Bắc. Chị bảo nếu không có ông Cảnh thì chắc chị đã không còn ở đây tiếp chuyện chúng tôi được. Gần đây nhất là anh Lê văn Mạnh ở (Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc) cũng bị bệnh gan, đến tìm ông Cảnh điều trị và hiện nay đã trở về cuộc sống bình thường. Chữa bệnh ở cái tâm Hỏi về thành tích chữa bệnh ông suy tư: “Từ trước đến nay không nhớ đã bao nhiêu người đến nhờ chữa, có những người sau khi được chữa khỏi họ thường xuyên đến thăm hỏi gia đình vào những ngày lễ tết, thậm chí có người còn xin nhận làm con nuôi”. Tuyệt nhiên, ông chưa bao giờ đòi hỏi đến đồng tiền công, tiền biếu. Bệnh nhân, tùy vào hoàn cảnh có khi đến trả công ông bằng thóc gạo, con lợn con… ông vẫn vui lòng. Nói về việc chữa bệnh của ông Cảnh, chị Hoàng Thị Nhiêu, Phó trạm trưởng Y tế xã Tân Trịnh cho biết: “Ngày trước đúng là thôn Tân Trang có mắc một căn bệnh lạ, kết quả xét nghiệm là viêm gan A, lúc đó nhiều người tìm đến ông Cảnh chữa và đều đã khỏi, sau này cũng có một số trường hợp bị sơ gan cổ trướng cũng được ông ấy chữa khỏi”. Cũng bàn về bài thuốc “tiên” chữa bệnh gan bằng cây lá rừng của ông Cảnh, anh Hoàng Chí Tuệ, Công an xã Tân Trịnh cũng khẳng định: “Đúng là nhiều người bị bệnh gan tìm đến ông Cảnh chữa giờ đã khỏe mạnh bình thường”. Anh Tuệ còn cho biết thêm, do có nhiều thành tích trong chữa bệnh gan ông Cảnh đã được Hội Đông y của huyện cấp thẻ hành nghề đông y. Đức Họ2 likes -
Rợn người với cách bảo quản hải sản bằng urê, thuốc tẩy Thứ 5, 17/01/2013, 11:39 Nhìn những mớ cá, tôm, mực… trắng nõn nà, tươi ngon bày bán ở chợ, ít ai biết rằng tất cả đã trải qua một giai đoạn tẩm ướp bằng các loại hóa chất như: thuốc tẩy trắng, đạm urê. 4 giờ sáng, chợ cá Bến Đình, phường 5, TP.Vũng Tàu đã khá tấp nập người mua, kẻ bán. Tại đây, các vựa thu mua hải sản bắt đầu giao mối cho những người bán lẻ tại các chợ trong thành phố. Theo chân chị Phan Thị Hằng, một người bán cá tại chợ Vũng Tàu, trong vai người phụ việc, chúng tôi đã tận mắt những thủ thuật bảo quản hải sản rợn người. Tới hàng tôm, chị Hằng mách nhỏ: “Số tôm đang nằm trong các bì, sọt kia là hàng lấy từ các tàu cá xuống. Một chút nữa sẽ được chủ vựa cho vào chậu nước có chứa urê để ngâm, sau đó mới cân cho mối”. Theo chị Hằng, ngâm tôm với urê giữ được màu sắc tươi lâu hơn.Dẫn chúng tôi qua vựa cá khoai, cá thu, cá chim…chị Hằng cho biết, hầu hết các loại cá đều được “tráng đạm” trước khi mang ra chợ. Công nghệ “tráng đạm” này rất đơn giản, toàn bộ cá được các đầu nậu đưa từ biển về được nhúng vào thùng nước đá có pha đạm urê, sau đó vớt ra sạp bán cho khách hàng. Còn những loại cá vận chuyển lên thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh xa các đầu nậu phải rắc thêm đạm urê vào trong đá cây. Nhờ đó, 4-5 ngày sau, thậm chí cả tuần cá vẫn tươi. Chỉ tay vào sọt cá bạc má, khi nghe chị Hiền (một người bán cá ở chợ) chê “hàng không được ngon”, một chủ vựa vội đon đả: “Chuyến này biển động nên tàu ở lại lâu, nhưng em yên tâm, chị làm hàng rất kỹ rồi, dù không được ngon nhưng để đến ngày mai vẫn được, giá lại rẻ hơn so với thứ khác”. Theo chị Hiền, các loại cá như: cá thu, cá dứa, cá ngừ…là bị ngâm urê ít nhất là 2 lần. Chưa kể, khi đi bán lẻ, bị ế buộc người bán phải ngâm thêm urê lần nữa. Tuy nhiên, so với việc ngâm hải sản bằng urê, thì việc dùng thuốc tẩy Javen để ngâm hải sản còn rợn người hơn. Nhìn đống mực, bạch tuộc lấy từ ghe lên...đen thui một màu, nhìn chẳng muốn mua. Nhưng chỉ trong vòng 30 phút, dưới bàn tay của các đầu nậu bỗng trở nên trắng nõn, nhìn rất bắt mắt. Anh Nguyễn Văn Hoàng, một thợ gánh thuê cho biết, do trong con mực có mật đen nên nếu rửa bằng nước lã rất khó sạch, rửa nhiều lần “hàng” sẽ không đẹp, nên các chủ vựa chỉ cho rửa qua vài lần rồi “ngâm” bằng thuốc tẩy, sau đó vớt, rửa qua nước và giao mối chở đi bán. Những người buôn cá cho rằng, tẩm ướp bằng urê, thuốc tẩy tuy giữ được cho màu cá tươi lâu nhưng chỉ cần chú ý kỹ cũng có thể phân biệt được. Với loại cá trông thì tươi, màu cá đậm, mang cá cũng hồng tươi hơn bình thường nhưng khi lấy tay ấn vào thân cá thấy mềm, độ đàn hồi thấp, ngửi cá không có mùi tanh…chính là do đã được ướp bằng urê. Bảo quản hải sản với những “chiêu độc” như sử dụng đạm urê, thuốc tẩy đang là vấn đề đáng báo động và “táng tận lương tâm” trước sức khỏe của người tiêu dùng. Các cơ quan chức năng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát, xử lý mạnh tay những người vi phạm. Theo Trà Ngân Bà Rịa-Vũng Tàu Online2 likes
-
Quán vắng!
hoctronho and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tướng TQ đòi “bóp chết” khả năng phát triển hạt nhân của Nhật Bản Thứ tư 16/01/2013 07:44 (GDVN) - Thiếu tướng La Viện, một viên tướng thường xuyên có những phát ngôn đe dọa láng giềng, lần này tỏ ra đặc biệt run sợ và hoảng hốt trước một nước Nhật Bản đang thay đổi. Nhật Bản có hạm đội hải quân mạnh nhất châu Á, Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản tương đương với Mỹ Tờ “Thời báo Hoàn Cầu” Trung Quốc vừa đăng bài viết của Thiếu tướng La Viện, phó Hội trưởng thường trực kiêm Tổng thư ký Hội thúc đẩy văn hóa chiến lược Trung Quốc cho rằng, Liên Hợp Quốc là sản phẩm của Chiến tranh thế giới thứ hai, có tôn chỉ là bảo vệ hòa bình, ngăn chặn chiến tranh, thúc đẩy hợp tác. Một chức trách quan trọng là theo dõi tình hình thực hiện sự sắp xếp sau chiến tranh, ngăn chặn mầm mống chiến tranh. Bài viết xoáy sâu các luận điệu chỉ trích Nhật Bản, cho rằng Nhật Bản hiện lại đang có "khuynh hướng nguy hiểm khi thoát khỏi thể chế thời hậu chiến", “các phần tử cánh hữu Nhật muốn lật án, thoát ra khỏi sự ràng buộc của cộng đồng quốc tế, ngày càng đi xa trên con đường tái vũ trang. Liên Hợp Quốc không thể nhắm mắt làm ngơ”. La Viện tỏ ra hăng máu “can thiệp vào công việc nội bộ” của nước khác và chỉ ra khuynh hướng “lật án” của Nhật Bản chủ yếu thể hiện ở “4 vi phạm”: Căn cứ vào quy định của “Tuyên bố Postdam”: “Điều kiện của Tuyên bố Cairo phải được thực hiện, còn chủ quyền của Nhật Bản phải giới hạn ở trong đảo Honshu, Hokkaido, đảo Kyushu, Shikoku và những hòn đảo nhỏ khác do chúng ta quyết định”. Hình ảnh minh họa (nguồn: Thời báo Hoàn Cầu, TQ) Theo đó, La Viện cho rằng, Tuyên bố trên cơ bản không có quần đảo Ryukyu, không nói đến đảo Senkaku, và việc Nhật Bản đòi hỏi đảo Senkaku “ngoài giới hạn bản đồ do cộng đồng quốc tế giới hạn” cho họ là “trái pháp luật”. La Viện chốt lại: Hai văn kiện lịch sử “Tuyên bố Cairo” và “Tuyên bố Postdam” là “văn kiện pháp lý”, là căn cứ pháp lý để đồng minh chống phát xít thế giới tiến hành trừng phạt Nhật Bản. “Nhật Bản không phục thì cũng phải tuân thủ”. La Viện cho rằng, Điều 9 Hiến pháp Nhật cam kết nghiêm túc: “Không duy trì lục, hải, không quân và các lực lượng chiến tranh khác, không thừa nhận quyền giao chiến của nhà nước”. Nhưng, theo La Viện, thế lực cánh hữu ở Nhật hiện lại đang kêu gọi xây dựng “quân đội chính quy”. La Viện coi đây là “vi phạm Hiến pháp”. Thảo sát của truyền thông Nhật Bản, có 2/3 hạ nghị sĩ Nhật Bản tán thành sửa đổi các điều khoản có liên quan của Hiến pháp hòa bình, một khi Hiến pháp hòa bình thay đổi, thì hòn đá tảng “đi theo con đường phát triển hòa bình” của Nhật Bản sẽ bị “lật đổ”, ai có thể đảm bảo họ sẽ không trở thành “nơi khởi nguồn cho một cuộc chiến tranh mới”? - Tướng La Viện nhận định. Trung đoàn nhảy dù số 1 Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản vừa tổ chức diễn tập nhảy dù ở thao trường Narashino, tỉnh Chiba, Nhật Bản, có sự tham gia của 300 binh sĩ và 20 máy bay. Theo nhận định của La Viện, để có được sự tin cậy và khoan dung của cộng đồng quốc tế, Nhật Bản từng đưa ra Ba nguyên tắc xuất khẩu vũ khí, Ba nguyên tắc không sở hữu vũ khí hạt nhân và không thực hiện quyền tự vệ tập thể. Nhưng hiện nay Nhật Bản đều đang lặng lẽ “tháo bỏ” những “dây trói” này, hơn 80% các nghị sĩ được hỏi đều tán thành cho phép thực hiện quyền tự vệ tập thể. Đặc biệt là ông Shintaro Ishihara kêu gọi, Nhật Bản cần sở hữu vũ khí hạt nhân, đây là một “tín hiệu rất nguy hiểm”, bởi vì Nhật Bản hiện là nước sở hữu plutonium “cấp vũ khí” lớn nhất thế giới, đồng thời đã nắm chắc công nghệ lò phản ứng tái sinh (breeder reactor) và công nghệ tên lửa đẩy tiên tiến. La Viện cho rằng, cựu Thủ tướng Nhật Bản Tomiichi Murayama từng nhận lỗi với nhân dân châu Á-Thái Bình Dương về những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng hiện nay các thế lực cánh hữu Nhật Bản lại “lật lọng”, thề bác bỏ các tội về chiến tranh như thảm sát Nam Kinh, nô lệ tình dục, chiến tranh vi trùng. Trung đoàn nhảy dù số 1 Nhật Bản vừa diễn tập nhảy dù tại tỉnh Chiba La Viện tỏ ra lo sợ thay cho cộng đồng quốc tế, cho rằng, đối với các hành động “thất tín” của Nhật Bản, cộng đồng quốc tế tuyệt đối không thể bàng quan; Liên Hợp Quốc càng không thể giống như Hội quốc liên trước đây, áp dụng chính sách thỏa hiệp với “chủ nghĩa quân phiệt” Nhật Bản, nếu không, chắc chắn sẽ gây ra “họa lớn”. Những việc trước đây là bài học về sau này. La Viện kêu gọi, Liên Hợp Quốc không thể thực hiện “tiêu chuẩn kép”, hơi một tí là trừng phạt, là soi mói đối với một số nước vừa và nhỏ, trong khi “làm như không thấy” về khuynh hướng hạt nhân và ý đồ tái vũ trang của Nhật Bản. Hiện nay, Liên Hợp Quốc phải áp dụng biện pháp quyết đoán để “bóp chết từ trong trứng nước” khuynh hướng sở hữu vũ khí hạt nhân và mầm mống chiến tranh của Nhật Bản. La Viện đề xuất, cần thanh sát tình hình dự trữ nguyên liệu hạt nhân và ý đồ của Nhật Bản, làm minh bạch hoàn toàn nội tình hạt nhân của họ, đây cũng là thử thách của Yukiya Amano, người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế hiện nay. La Viện đưa ra lời bình luận khó chấp nhận kh cho rằng: "Liên Hợp Quốc cần đưa các phần tử cánh hữu và một số phần tử cực đoan của một số tổ chức ở Nhật Bản vào “danh sách đen” trừng phạt, liệt những tổ chức này vào bản danh sách “tổ chức khủng bố”, đóng băng tài sản nước ngoài của họ để ngăn chặn họ sử dụng những tài sản này cho chiến tranh hoặc các hành động khủng bố". Dàn máy bay F-15J của Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản Với nỗi hoảng sợ về xu hướng mới ở Nhật Bản, La Viện đề xuất thêm các biện pháp ngăn chặn mới: Nhật Bản nếu muốn sửa đổi Hiến pháp hòa bình, đi theo con đường tái vũ trang, thì cộng đồng quốc tế cần tiến hành trừng phạt đối với Nhật Bản, gồm nhiều lĩnh vực như năng lượng, thương mại, vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, đồng thời “cấm Nhật Bản xuất khẩu vật tư có thể dùng để chế tạo vũ khí”, ép Nhật Bản quay trở lại “con đường phát triển hòa bình”. Với tư tưởng “lo cho thiên hạ”, La Viện cuối cùng nhắc nhở: Ngăn chặn xu hướng “hữu khuynh” ở Nhật Bản là một “thách thức về tính chính nghĩa, tính công bằng và tính quyền uy” của Liên Hợp Quốc. Liên Hợp Quốc không thể chỉ cho phép “quan huyện” Nhật Bản “phóng hỏa”, mà không cho phép “trăm họ” các nước vừa và nhỏ “đốt đèn”. Dư luận cho rằng, tình hình khu vực và thế giới nay đã khác xưa rồi, nói người thì cũng phải ngẫm mình. Ông La Viện cứ kêu gào các nước chạy đua vũ trang, gây ra chạy đua vũ trang, trong khi quên mất chính Trung Quốc đang ra sức chế tạo mọi loại vũ khí có thể, rồi thường xuyên tổ chức diễn tập quân sự để “răn đe vũ lực”, nhất là tập trung vào các mâu thuẫn, va chạm, xung đột với nhiều nước láng giềng, gây quan ngại đặc biệt cho dư luận khu vực và quốc tế. Lòng tham “đường lưỡi bò” thực sự không thể chấp nhận được, bởi vì nó đã “liếm” sát bờ biển của các nước Đông Nam Á, không cho nước khác có quyền ở thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của họ theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển, chứ chưa hề nói đến một sự thực là, lịch sử Trung Quốc chứng minh rằng, họ chưa bao giờ có chủ quyền đối với các quần đảo trên biển Đông. Các bản đồ của chính họ chứng minh rõ ràng rằng, điểm cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. Có chuyên gia cho rằng, ai đang đi theo “con đường phát triển hòa bình” thì cộng đồng quốc tế đều hiểu cả; còn những người lòng tham không đáy và thường thích răn đe, “răn dạy” nên nhớ một câu rằng: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”. Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự và gia tăng các hoạt động quân sự trên biển Hoa Đông, biển Đông gây lo ngại cho các nước láng giềng. Quy định mới về tác phong quân nhân của TQ Tờ Giải phóng quân Trung Quốc ngày 22/12/2012 đưa tin, tân Chủ tịch Quân ủy trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình mới đây đã ký ban hành Quy định 10 điểm tăng cường xây dựng tác phong quân nhân và đã ban hành xuống toàn quân để chỉnh đốn tác phong quân đội. 10 điểm quy định đối với tác phong quân nhân TQ được căn cứ vào 8 quy định của Bộ chính trị đảng Cộng sản Trung Quốc đối với tác phong của cán bộ đảng viên và cụ thể hóa các nội dung vào quân đội nhằm cải thiện tác phong "gần dân" của sĩ quan, binh lính. Nội dung Quy định 10 điểm của ông Tập Cận Bình yêu cầu khi các sĩ quan chỉ huy đi công tác điều xe gọn nhẹ, tinh giảm tuỳ tùng, đơn giản các thủ tục tiếp đón, ít họp hành, họp ngắn, nói ít, nói ngắn, cắt giảm các việc lặt vặt, tinh giảm văn kiện, văn bản hành chính... Về vấn đề phát biểu của các quan chức chỉ huy các đơn vị, Tập Cận Bình yêu cầu phải ngắn gọn dễ hiểu, dễ nhớ, xúc tích, mạch lạc, đi thẳng vào vấn đề, tránh dài dòng và lý thuyết mà không áp dụng được gì vào thực tiễn. Đối với vấn đề xuất bản sách, hồi ký hoặc đưa các vấn đề lớn, quan trọng và nhạy cảm ra công luận của các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp từ Ủy viên Quân ủy trung ương trở xuống đều phải được Quân ủy trung ương phê chuẩn, tất cả nội dung chưa qua kiểm duyệt của cơ quan này đều bị cấm. Điều đó có nghĩa các quan chức quân sự cấp cao Trung Quốc không được tự do phát biểu, bình luận, nhận định, đánh giá bất cứ vấn đề nào được cho là quan trọng và "nhạy cảm" nếu chưa được phép, và khi được phép rồi thì những phát biểu của họ có thể xem như quan điểm chính thống của giới chức lãnh đạo Trung Quốc. Bấm vào đây để viết bình luận - Bấm xem tất cả bình luận hay Đông Bình (nguồn Thời báo Hoàn Cầu) ================================= Nghe ngài La Viện phát biểu ý kiến, làm phó thường dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ Thiên Sứ tui thấy bùn cừi quá! Cộng đồng quốc tế là ai ở đây thế nhỉ? Là Liên Hiêp Quốc à? Vậy thì tôi nhắc để ngài lưu ý rằng: Chính cái "cộng đồng quốc tế" ấy đã loại đại biểu của Trung Hoa Dân Quốc ra khỏi thành viên thường trực Hội đồng Bảo An Liên hiệp Quốc và thay bằng đại biểu nước Nhân dân Trung Hoa Cộng hòa Quốc. Bởi vậy, quyết định của "cộng đồng quốc tế", nó cũng tùy theo "thời tiết" thưa ngài! Ấy là nói về tính vĩ mô. Còn về vi mô thì Nhật Bản đầu hàng Hoa Kỳ chứ không phải Trung Hoa Dân Quốc. Về lý thuyết thì Hoa Kỳ mới là người quyết định số phận nước Nhật và tất cả các thuộc địa của Nhật sau chiến tranh, trong đó có cả Đài Loan. Chính Hiệp ước Postdam xác định các quốc gia Đồng minh chiến thắng sẽ trao trả lại độc lập cho các quốc gia theo Đồng minh, nhưng bị chiếm đóng bởi phe Trục. Nên Đài Loan mới được trả cho Trung Hoa Dân Quốc, để làm chốn dung thân sau thất bại với các bậc tiền bối của ngài đấy. Bởi vậy, theo tôi ngài nên phong bì cho Tổng Thống Obama và lưỡng viện Hoa Kỳ để ngăn chặn Nhật Bản có vũ khí hạt nhân, chứ nói chuyện bằng nước bọt thế khó lắm. Ấy là tầm nhìn của phó thường dân như tôi thấy vậy. Nhưng mà có lẽ nước Mỹ sẽ tỏ ra dân chủ và tôn trong chủ quyền Nhật Bản, để người Nhật tự quyết định số phận của họ. Nếu như người Nhật có vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo thì bây giờ nó không còn là thứ đe dọa trực tiếp với Hoa Kỳ nữa thưa ngài. Ngài đã chứng kiến hệ thống "Vòm sắt" của Do Thái rồi chứ nhỉ? Do đó, nếu Nhật bản có vũ khí hạt nhân thì cũng chẳng si nhê gì với Hoa Kỳ cả. Mao Chủ Tịch vĩ đại đã dậy các ngài: "Khiêm tốn làm người ta tiến bộ". Ngài nên ăn nói nhẹ nhàng thôi. Từ nay đến ngày 23 tháng Chạp Nhâm Thìn Việt lịch là thời điểm chót để quyết định tương lai về "một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại" dưới hình thức nào?2 likes -
mấy năm nay sinh hoạt ở diễn đàn của bác Thiên Sứ, nói bậy mà trúng bạ ,được nhiều người hưởng ứng... nhiều người hẹn bác về Vn có người thì bao chầu nhà hàng có người thì hứa đãi chầu cà phê , mà mấy năm trước thì không có ý định về ,năm tới thì có thể lết về, cho nên bác phải lên danh sách ai ủng hộ cà phê hay chầu nhà hàng ghi để nhiều quá quên ,lúc đó về Vn mở danh sách ra điễm mặt từng tên ,nhớ đừng có quên nhé !2 likes
-
Mẹo Vặt Hay
phamhung liked a post in a topic by Thiên Sứ
Những mẹo vặt trong bếp nhà bạn Sử dụng nước luộc khoai tây, nui để tưới cây, dùng giấm trắng chữa vết bầm tím trên da... Trứng ngỗng bổ đến đâu? Đau lưng vì những thói quen xấu Dưới đây là những mẹo vặt sử dụng các vật dụng có sẵn trong nhà bếp rất có lợi ích cho cuộc sống của gia đình bạn. Bón phân cho cây bằng nước luộc Bạn có thể sử dụng nước luộc nui hoặc khoai tây để làm nước tưới cây cảnh trong vườn nhà. Loại nước luộc này chứa khá nhiều chất dinh dưỡng cần thiết giúp cây phát triển xanh tốt. Nước luộc khoai tây, luộc nuôi có thể dùng để tưới nước cho cây vì có rất nhiều chất dinh dưỡng. Ảnh: N.S. Tách ly thủy tinh bị dính vào nhau Rất khó để tách hai chiếc ly thủy tinh bị dính vào nhau, nếu quá mạnh tay có thể chúng sẽ bị vỡ. Hãy áp dụng bí quyết sau: Cho đá vào chiếc ly bên trong đồng thời ngâm chiếc ly ở bên ngoài vào chậu nước ấm. Nước ấm sẽ làm thủy tinh giãn nở ra còn chiếc cốc có chứa đá lạnh sẽ co rút lại. Lúc này, bạn có thể dễ dàng tách hai chiếc cốc ra khỏi nhau. Khử mùi hôi của hóa chất trong nhà Hành thái sợi ngâm trong nước có tác dụng tẩy các mùi hóa chất như sơn, vẹc-ni.. Ảnh: N.S Một số loại dung dịch hóa học như sơn hay véc-ni có mùi khá mạnh, thậm chí chúng có thể gây hại cho sức khỏe nếu hít quá nhiều. Để khử những mùi hôi của các hóa chất này, bạn có thể trộn hỗn hợp giữa hành thái nhỏ với nước, thay vì phải sử dụng những loại dung dịch khử mùi đắt tiền. Đặt bát hành ở những nơi đang có mùi sẽ giúp bạn cải thiện được mùi hóa chất trong không gian sống của mình. Giải quyết các ngăn tủ gỗ bị sít Các ngăn tủ gỗ cũ kỹ nếu để lâu ngày sẽ bị sít, rất khó kéo ra, vào. Để đóng, mở ngăn tủ nhẹ nhàng hơn, bạn hãy dùng nến (sáp) chà vào hai cạnh bên dưới của ngăn kéo. Nến giúp tạo độ trơn cho hai cạnh ngăn tủ, làm chúng dễ kéo hơn rất nhiều. Chữa vết bầm tím trên da Dùng một miếng bông thấm giấm trắng để thoa lên phần da vừa bị bầm tím. Giấm không chỉ làm nhạt màu của vết bầm mà còn giúp cho vùng da đang bị tổn thương sẽ nhanh lành hơn. Làm trắng răng bằng chuối Chà răng bằng vỏ chuối sẽ giúp răng bạn trắng lên trông thấy. Ảnh: N.S. Thật ngạc nhiên là loại trái cây này lại có tác dụng tẩy sạch những vết ố vàng trên răng. Bạn chỉ cần dùng vỏ chuối chà theo hình tròn lên bề mặt của răng mỗi ngày khoảng từ 2 đến 3 phút. Vài tuần sau, chắc chắn bạn sẽ bất ngờ với hàm răng trắng sáng của mình.Chữa vết côn trùng cắn Sữa có tính chất dưỡng ẩm tự nhiên đối với da và còn giúp làm dịu các vết đốt của côn trùng. Caenzyme trong sữa còn có khả năng làm giảm sưng tấy. Để chữa vết côn trùng cắn, bạn hãy trộn hỗn hợp gồm sữa, nước và muối rồi thoa chúng lên những chỗ có vết đốt, cắn. Chỉ một lát sau, da sẽ bớt bị ngứa và tấy đỏ. Theo Phụ nữ Online1 like -
Mười hai cách tạo nghiệp tốt 29/03/2012 16:47:00 Thích Nguyên Tạng dịch Đạo hữu Lillian Too, nhà phong thủy nổi tiếng thế giới, đã viết hơn tám mươi cuốn sách về đề tài này, và bà cũng đã cho xuất bản tạp chí Feng Shui World (Phong Thủy Thế Giới) phát hành hai tháng một kỳ. Mới đây bà đã mở rộng công việc xuất bản của mình với số đầu tiên là Mahayana (Đại Thừa Phật Giáo), tạp chí trình bày truyền thống Đại Thừa Phật Giáo Tây Tạng như phương châm " vì lợi lạc cho quần sanh". Mahayana đã nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của mọi người tại quê hương của bà ở Singapore vào cuối năm ngoái. Bài viết sau đây là một phần nhỏ mà Tạp chí Mandala đã trích đăng từ tập sách của bà với tựa đề 108 Phương cách tạo nghiệp tốt. Theo giáo lý nhà Phật, luật nhân quả được giải thích rằng mỗi sự việc xảy ra sẽ có một sự kiện khác đi theo sau đó. Hệ quả xảy ra có an lạc, hạnh phúc hay khổ đau, khó chịu, có lợi hay có hại cho người khác và cho chính mình, tất cả đều tùy thuộc vào nguyên nhân ban đầu của hành động đó. Luật nhân quả dạy rằng gieo gió sẽ gặp bão, trồng cam sẽ được quả ngọt, trồng chanh ắt phải hái trái chua, đem niềm vui đến cho người, mình sẽ được hạnh phúc, gây khổ đau cho người, mình sẽ chịu sự bất hạnh. Người ta không thể thoát khỏi nghiệp quả của mình một khi chính mình đã gây tạo. Có nhiều cách tạo ra nghiệp tốt để hóa giải đi những nghiệp xấu mà chính mình đã cố ý hay vô tình gây ra trước đó. Bài viết này xin cống hiến 12 cách mà bạn có thể làm được ngay trong kiếp này để đời sống của bạn thay đổi. 1. Hãy lấy từ bi làm tôn giáo của mình Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là theo tôn giáo hay mộ đạo. Người ta không cần phải là một tín đồ Phật giáo hay thuộc về tín ngưỡng nào đó để có thể tạo nghiệp tốt. Con người chỉ cần thể hiện thái độ tử tế ân cần với người khác. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nhắc nhở: “Tôn giáo của tôi là lòng từ bi”. Như vậy đã tạo nghiệp tốt rồi, không phải chỉ tử tế với người khác trong chốc lát mà phải luôn luôn, suốt cuộc đời của mình, trong mọi phương diện của đời sống, trong mọi mối liên hệ, trong mỗi công việc làm, trong tất cả những giao tiếp; Khi chúng ta tiếp cận một việc gì mình làm, được thể hiện tấm lòng từ bi, thì khi đó chúng ta đang tạo nghiệp tốt, và đó là loại nghiệp tốt tạo ra hệ quả mà tất cả mọi người khác đều tử tế với mình. Đó là phương cách chắc chắn nhất để gây dựng cuộc đời mà trong đó những phiền não khổ đau sẽ tiêu tan. 2. Trì chú Trì chú là việc làm cơ bản và dễ nhất cho hành giả tu theo Mật tông để bắt đầu đi trên con đường mở ra những chân trời mới cho tâm trí. Trước hết trì chú là cách thức mạnh nhất để thanh lọc những ác nghiệp mà chúng ta đã mang tới trong thế gian này với mình từ quá khứ. Nghiệp quả xấu vẫn còn ở trong thần thức của mỗi người, dòng tâm thức mà chúng ta mang theo từ kiếp sống quá khứ. Chúng ta hãy bắt đầu với thần chú nổi tiếng nhất thế giới, đó là tâm chú của Bồ-tát Quán Thế Âm "Án Ma Ni Bát Di Hồng" (Om Mani Padme Hum). Khi trì thần chú này, hãy tập trung vào âm thanh của chú và để âm thanh thâm nhập vào tận tâm thức của mình. Luôn luôn trì chú với ý tưởng mang lợi ích đến cho người khác. Không bao lâu, chúng ta sẽ thấy kết quả với những lợi ích tuyệt vời thâm nhập qua tâm thức của mình. Chúng ta sẽ sớm cảm thấy mình trở nên dễ thương hơn, khoan dung hơn, bớt bối rối hơn và trở nên bình tĩnh hơn. Nhiều vị Lạt Ma cao cấp nói rằng trì thần chú "Án Ma Ni Bát Di Hồng" có thể đưa chúng ta đến giác ngộ. Đây là một trong những thần chú có nhiều oai lực nhất mà chúng ta có thể hành trì hàng ngày. 3. Niệm Phật Một cách thức mạnh mẽ không ngờ để giải trừ những ác nghiệp là niệm danh hiệu Phật và lễ Phật sám hối. Trong khi niệm Phật chúng ta phát khởi ý nghĩ sám hối về những nghiệp xấu đã tạo ra trong những kiếp trước và ngay trong kiếp sống này. Niệm Phật thành tâm, nhờ tha lực của chư Phật cùng với sự tự lực của bản thân sẽ giúp cho những bất thiện nghiệp của chúng ta tiêu tan dần theo năm tháng. Chúng ta phát tâm quy ngưỡng Phật, tôn kính Phật, lễ Phật và niệm danh hiệu Phật là pháp tu phổ thông để tội diệt phước sanh, là phương pháp rất mạnh mẽ để hóa giải những chướng ngại gây ra phiền não khổ đau cho chúng ta trong đời sống này. 4. Thực hành thiền quán Mấy năm trước khi gặp Thầy Bổn sư của tôi là Lạt Ma Zopa (lãnh đạo tối cao của Hội Bảo tồn Truyền thống Phật giáo Đại thừa, fpmt.org), tôi thỉnh ngài hướng dẫn tôi ngồi thiền, tôi trình với ngài rằng: "Lúc nào con cũng cảm thấy u uất trong lòng , xin Thầy hướng dẫn con tập thiền để tâm con được an tĩnh". Thầy Zopa cười nhẹ và nói: " Tham thiền là pháp tu tuyệt vời. Thiền không phải chỉ để tâm trí an tĩnh thôi đâu, mà thiền còn có mục đích cao hơn nữa con ạ". Ngài vắn tắt giải thích rằng: Thiền định hay sự phát triển tâm linh, hay sự quán chiếu về khổ đau, vô thường và vô ngã. Tham thiền là cách làm cho tinh thần tập trung, thanh thản và trong suốt như dòng sông nước trong mà người ta có thể nhìn thấy tận đáy, từ đó ý thức biết được sự thể nghiệm về giải thoát và giác ngộ. Tham thiền cũng là quá trình tập trung và thâm nhập, nhờ đó mà tâm chúng ta được an tĩnh và nhất tâm bất loạn rồi đi đến giác ngộ. Nên hiểu rằng thiền là sự nhận chân ra năng lực tâm linh mới để có thể phán đoán sự vật trên quan điểm mới, với mục đích là dứt khoát lật đổ ngôi nhà giả tạm mà mình đang có để dựng lên cái khác trên nền móng hoàn toàn mới. Mái nhà cũ gọi là vô minh khổ đau, ngôi nhà mới được gọi là giác ngộ giải thoát. Đó là đích đến của mọi hành giả tu theo đạo Phật. Về căn bản, hành giả ngồi trên tấm nệm với hai chân khoanh lại, lưng thẳng, hai mắt hé mở, nhìn khoảng một thước về phía trước và bắt đầu thở đều hòa. Suy ngẫm và tập trung vào lý do hành thiền, động cơ ngồi thiền của mình, đó là phát tâm làm lợi ích cho chúng sanh. Xem động lực vị tha này là nền móng của việc tham thiền. Từ đó trở đi hành giả có thể quán tưởng về bất cứ đề mục nào liên quan đến việc phát triển sự hiểu biết về đời sống của mình. Khi quán tưởng như vậy, hành giả nhẹ nhàng suy ngẫm về sự quý báu của đời người và sự may mắn là mình đã được sanh ra làm người, được sống, được gặp chánh pháp như hôm nay. Hành giả sẽ nhận thức rằng chỉ riêng việc sinh ra làm người đã là một may mắn rồi, vì mình có khả năng phân biệt, hiểu biết và suy nghiệm nghĩa lý sâu xa của Phật lý, để rồi biết tu tập để giải thoát vòng sinh tử khổ đau. 5. Nhường đường khi lái xe Đã không ít tai nạn chết người xảy ra khi người lái xe giành đường, do vậy khi người Phật tử chạy xe trên đường phải giữ chánh niệm và biết rằng đây cũng là cơ hội cho ta tạo nghiệp tốt. Nhường đường cho người khác là chúng ta chạy chậm lại khi có người muốn vượt lên trước mình, dằn cảm giác khó chịu xuống hay không bóp kèn khi có người quẹo xe ẩu hoặc thậm chí đụng phải xe của mình. Những phiền não như vậy trong việc giao thông là những cơ hội cho ta đào luyện tâm trí với nụ cười hoan hỷ trong bình tĩnh. Chúng ta cũng có thể nhường đường cho người khác ngay cả khi mình có quyền ưu tiên. Khi không có ý tưởng xem con đường là nơi tranh chấp giữa mình và những người lái xe khác, việc giao thông của chúng ta sẽ thú vị hơn nhiều và mỗi lần nhường đường cho người nào, chúng ta sẽ rất vui lòng vì biết rằng việc kềm chế tánh dễ nổi nóng của mình và đây cũng là một cách để tạo nghiệp tốt mà kết quả có về sau là đời sống của mình luôn gặp mọi sự hanh thông và may mắn. 6. Dành phần thắng cho người khác và chấp nhận thua thiệt Khi nhường nhịn người khác, chúng ta nhiếp phục được sự tự ái của mình, và không thể để cho tự ngã của mình nghĩ đến những điều vị kỷ. Khi chấp nhận thua thiệt, sẽ là cơ hội cho ta diệt trừ tính kiêu ngạo. Pháp tu đặc biệt hữu dụng khi hoạt động trong thế gian vật chất hay trong cách cư xử với người khác trong công việc. Khi làm việc gì quan trọng hay phải làm xong một việc nào đó trước thời hạn, sự căng thẳng thường phát sinh giữa mình và người khác, và đó là lúc người ta nghĩ đến ảo tưởng thắng và thua, được và mất. Hãy xem đó là những cơ hội tạo nghiệp tốt. Tôi nhớ có những lần tôi đã tranh luận một cách nóng nảy chỉ để biện minh cho quan điểm của mình, để rồi rốt cuộc tôi nhận ra rằng mình đã không chỉ gây ra phiền não cho mình mà còn làm cho người khác bực mình, khó chịu nữa. Chỉ khi gặp được Lama Zopa và được học Phật, tôi mới học được phương cách đối trị tính háo thắng của mình. Tôi đã khám phá tính chất giải thoát của sự chịu thua thiệt, sự buông bỏ và sự không bị trói buộc vào tham vọng chiến thắng. Đó là lúc tôi nhận ra là mình đã cảm thấy an lạc nhiều hơn mỗi khi chấp nhận thua thiệt, nhường phần thắng cho người khác. Hành vi đầu hàng trước ý kiến hay quan điểm của người khác không phải là trốn tránh thảo luận, mà là một lối đồng ý với nhau rằng chúng ta không đồng ý kiến, và đồng thời vẫn tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ nhau. Khi làm như vậy, chúng ta đang tạo nghiệp tốt và tất nhiên bạn sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ tương tự của người khác trong tương lai. 7. Tránh sát hại những sinh vật nhỏ nhất Người ta dễ dàng xâm hại đến sinh mạng của các loài vật, đặc biệt là những loài nhỏ nhất. Một hôm đang đi trên lề đường, tôi nhận thấy có nhiều con kiến bò ngang lối đi, tôi biết rằng nếu mình không có ý thức thì mình đã vô tình giết chết nhiều sinh mạng và như vậy chúng ta dễ dàng tạo ác nghiệp về sát sinh ngay trên mỗi bước chân của mình. Tôi cẩn thận không dẫm đạp lên những con kiến nhỏ bé này và tôi ngạc nhiên cảm thấy sự vui sướng rộn lên trong lòng của mình.aax Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, ngay cả những con vật nhỏ nhất cũng có Phật tánh, nhưng vì kiếp này chúng vì nghiệp chướng nặng nề nên phải mang thân hình khác người, hiểu điều đó, nên ta cố gắng tránh sát hại một cách vô ý thức của chúng ta. Kết quả tránh sát hại sinh vật sẽ giúp chúng ta sống khỏe mạnh, không bệnh tật và tăng tuổi thọ về sau. 8. Phóng sinh Phóng sinh là hành động cứu sống, công đức rất lớn, có thể giúp người làm việc này giảm bệnh tật và kéo dài tuối thọ ngay trong hiện đời. Mấy năm trước khi tôi đến thành phố Varanasi, Ấn Độ (nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên), trong chuyến hành hương với Thầy tôi, Lama Zopa. Ngài đã đưa chúng tôi đến thăm sông Hằng và hướng dẫn chúng tôi làm công đức. Chúng tôi ngồi trền thuyền cầu nguyện và thả cá xuống giòng sông. Tôi có cảm giác tuyệt vời khi nhìn thấy những con cá tươi sống mà chúng tôi vừa mua từ những người dân chài ở gần đó, chúng quẫy đuôi nhảy trở lại nước sông và bơi lội tự do. Sau đó thầy tôi ghi câu thần chú trên một trái bong bóng rồi cột ở mạn thuyền để cho bong bóng chạm vào làn nước trong khi chiếc thuyền lướt đi. Ngài giải thích rằng bằng cách này để cho thần chú của Phật chạm vào làn nước để ban phước cho những loài vật sống dưới nước. 9. Cúng nước Mấy năm trước khi gặp Thầy tôi, Lạt Ma Zopa lần đầu tiên, tôi thỉnh Ngài về nhà tôi. Ngài rất hoan hỷ khi nhìn thấy bức tượng Phật độc nhất mà tôi chưng trong phòng khách. Ngài bảo tôi lấy chén nước để ngài cúng bức tượng đó. Ngài dạy tôi cúng chén nước sẽ tạo nhiều công đức và là phương thức có oai lực lớn để hóa giải những nghiệp xấu về sân hận và những vấn đề khác còn tồn tại trong tâm trí của mình. Tôi đã làm theo lời dạy của ngài mỗi ngày, và không bao lâu chúng tôi đã có hàng trăm chén nước trong nhà, chỉ vì thời gian qua tôi có thêm những tượng Phật mới. Tôi rất thích đi tìm những loại chén pha lê và việc thay nước mỗi buổi sáng đã trở thành một nghi lễ trong gia đình của tôi. Qua thời gian, tôi cảm thấy những kết quả tốt, căn nhà của tôi đã trở thành một ốc đảo thấm đầy an lạc, và những chướng ngại trước đây trong đời sống của chúng tôi nay đã tan biến mất. Những sân hận cáu gắt, những trận cải vã vô nghĩa, nhỏ mọn thường phá sự yên tĩnh trong nhà chúng tôi, nay đã không còn nữa, những cơn nóng giận đã đi vào quá khứ. Thật là một điều kỳ diệu khi chúng ta cúng nước cho chư Phật. 10. Bố thí, đóng góp cho việc từ thiện Hành động hiến tặng cho người khác là một cách thức tuyệt vời để tạo nghiệp tốt trong đời sống ngắn ngủi này. Bố thí là hạnh đi đầu của những ai muốn thực thi Bồ tát hạnh. Kết quả của hạnh bố thí là mình được giàu sang, phú quý về sau. Về phương diện tinh thần thì lòng tham lam, bủn xỉn của mình nhỏ dần lại và biến mất sau một thời gian mình thực hành việc bố thí. Khi hiến tặng cho người cũng là lúc chúng ta gia tăng tích lũy thiện nghiệp xuất phát từ lòng từ bi. Mình luôn cho ra với tấm lòng quảng đại, vui vẻ, hoan hỷ không có bất cứ một điều kiện nào đi kèm, đó là bố thí đúng nghĩa với lời Phật dạy. Nếu bạn không có khả năng bố thí tiền bạc thì có thể bố thí thời giờ, công sức, sự hiểu biết hay tài năng của mình, để giúp cho đời sống này bớt khổ đau, tất cả những điều này cũng có giá trị ngang nhau với tiền bạc. Một khi động lực tinh truyền, không ý đồ mưu toan xen lẫn vào hành động bố thí thì bạn đã thành công phần nào đó trong công hạnh này rồi. 11. Nuôi cá cảnh Khi viết những cuốn sách về phong thủy, tôi luôn đề nghị thân chủ nuôi cá cảnh để tạo lực thịnh vượng và sự mát mẻ trong gia tộc. Nhưng việc nuôi cá cũng có mục đích cao hơn về tinh thần. Mỗi buổi sáng khi cho cá ăn hoặc thay nước cho cá, đó là bạn đang tạo nghiệp tốt. Thật vậy mỗi lần cung cấp thức ăn cho cá là bạn có niềm vui vì biết mình đang làm việc tốt. Những con cá không cần phải đẹp và hồ nước của cá cũng không cần phải có ý nghĩa phong thủy để làm động lực cho lòng từ bi của bạn phát sinh. Hãy nghĩ như vậy rồi những con cá sẽ mang đến cho bạn những niềm vui lớn trong đời sống này. 12. Sẵn lòng lắng nghe tâm sự của người khác Khi có người nào tìm đến mình để tìm sự an ủi, chia sẻ hay để nương tựa vào bạn, vì họ không có người nào để tìm tới, bạn đừng xua đuổi họ, dù đó là người mà bạn chưa từng quen biết, dù bạn đang bận rộn, dù bạn không thích nghe người khác than thở. Bạn chỉ cần dành một chút thời gian cho họ. Hãy sẵn sàng làm bạn với cả những người xa lạ. Dùng tinh thần mạnh mẽ của mình để giúp những người yếu đuối. Chia sẻ kinh nghiệm an lạc của mình với người khác, dù cho người ấy không quen thân với mình, làm được như vậy là bạn đang thực hành tốt lòng từ bi trong đời sống và cũng là người đang đi trên lộ trình hành Bồ-tát đạo.1 like
-
LỜI MỞ ĐẦU Từ bao la sâu thẳm trong tâm hồn mỗi con người đã không từng tự hỏi: Vũ trụ bao la này từ đâu mà sinh ra? Và mỗi khi ngước nhìn bầu trời lấp lánh những ánh sao đêm, nhiều lúc cảm thấy mình thật là nhỏ bé trong cõi đời đang vận động không lúc nào ngừng nghỉ này. Lịch sử văn minh nhân loại được ghi nhận bằng sử sách chỉ ước chừng trên 5.000 năm qua, và khoảng thời gian trống trước đấy chỉ còn tồn tại trong truyền thuyết và huyền thoại về một trận đại hồng thủy khủng khiếp, đã nhấn chìm đại lục địa có tên Atlantic, các dấu vết còn lại hầu như không mấy rõ ràng. Sự phát triển như vũ bão khoa học kỹ thuật trong thể kỷ XXI cho tới nay, cũng chưa thể giải thích được nguồn gốc của vũ trụ từ đâu mà có một cách hợp lý, cũng như chưa xác định được vũ trụ này giới hạn hay vô cùng ngoại trừ thuyết Bigbang ghi nhận vũ trụ trong khoảng 14.7 tỷ năm ánh sáng qua quan sát và tính toán, cùng với giả thuyết vũ trụ khởi nguyên trong một trạng thái vật chất vô cùng đặc, có nhiệt độ cực lớn từ đó phát sinh ra một tiếng nổ khủng khiếp ban đầu, sau đó theo thời gian hình thành nên vũ trụ ngày nay. Không chỉ giới hạn trong lý giải nguồn gốc vũ trụ, kích thước của vũ trụ, mà các nhà khoa học còn bị giới hạn ở việc nghiên cứu trạng thái vi mô của vật chất. Cỗ máy gia tốc CERN phân tích hạt cơ bản được xây dựng giúp cho việc nghiên cứu khoa học về thế giới vi mô rõ ràng hơn, nhưng không đồng nghĩa sẽ xác định được giới hạn nhỏ nhất của vật chất. Mặc dù trong lịch sử triết học thế giới, triết gia Hy Lạp Democritos (460 tr.CN) cũng đã nhận định về hạt vật chất nhỏ nhất mà ông gọi là nguyên tử - là nền tảng của vật chất, đồng thời nếu truy nguyên lịch sử Phật giáo, Đạo giáo thì cũng đã tồn tại định nghĩa này và họ cũng đã biết rõ quy luật vận động của chúng trước đó vài thiên niên kỷ. Không chỉ vậy, hầu hết các truyền thuyết và huyền thoại của các dân tộc trên thế giới cũng đã viết rằng: Khởi thủy vũ trụ mênh mông, tràn ngập “nước” và tĩnh lặng, nó hoàn toàn tự thân tồn tại và vận động. Trong lĩnh vực sinh học và tâm lý học nghiên cứu về bộ não của con người cho tới nay cũng chưa thấu hiểu nguyên nhân nào hình thành nên tư duy, khi nó cũng chỉ là một hệ thống các cấu trúc vật chất hữu cơ. Song song với việc nghiên cứu về bộ não con người, thì thực tế diễn ra trên khắp thế giới, tồn tại những hiện tượng giao tiếp giữa những người đang sống và những người trong “thế giới vô hình”, những hiện tượng khách quan lại sừng sững thách đố trí tuệ các nhà khoa học với câu hỏi muôn thuở chẳng lẽ linh hồn là có thật và đang tồn tại xung quanh chúng ta? Nhưng nếu nó tồn tại thì hữu hạn hay vĩnh cửu? Câu hỏi này lại quay trở về với một vũ trụ thực sự có tồn tại vĩnh cửu hay không? Và lúc nào thì bị hủy diệt như trong các kinh sách của các đạo giáo nói về “Ngày tận thế” của loài người và của cả vũ trụ? Nhằm giải đáp cho một câu hỏi muôn đời của loài người trong nỗi khắc khoải: Chết là hết hay sao? Không chỉ vậy, với sự giới hạn về mặt thời gian của cuộc đời, trong khi đó hầu hết mỗi con người đều có những niềm mơ ước riêng, nhưng không biết có đạt được hay thỏa mãn trong một chừng mực nào đó hay không? Khi mà sự được, mất phụ thuộc vào những quy luật của tự nhiên, xã hội và con người. Như vậy, các triết gia lại càng đau đầu với những câu hỏi về hạnh phúc và khổ đau. Và thực sự kết quả hầu hết là khổ đau như nhận định của một số tôn giáo lớn trên thế giới, để từ đó xây dựng nên những nền triết học và khoa học thực nghiệm giúp cho nhân loại thoát khỏi tình trạng này, đồng thời cũng đã tạo ra những công cuộc đi tìm kiếm sự bất tử vô tiền khoáng hậu trong suốt quá trình lịch sử. Đó thực sự là những bí ẩn vĩ đại vẫn chưa thể giải đáp, chúng đã trở thành những điều huyền bí, trở thành cốt truyện trong những bản sử thi hùng tráng, những câu chuyện viễn tưởng hấp dẫn hay các hiện tượng ma thuật kỳ lạ. Từ những giới hạn trong việc lý giải những bí ẩn của thế giới, đã hình thành nên những niềm tin vô bờ bến vào các thần thánh sáng tạo nên thế giới, cảm thấy họ chi phối lên mỗi cuộc đời, có quyền phán quyết về thiên đường hay địa ngục, con người phải tuyệt đối tôn sùng. Nếu chúng ta nghiên cứu lịch sử văn minh nhân loại vào thời thượng cổ, thì qua các câu truyện truyền thuyết và huyền thoại của các dân tộc trên thế giới hầu hết đều có nội dung tương tự khi giải thích về vũ trụ, xã hội, con người bao gồm cả “thế giới vô hình”. Nhưng cơ sở nào để họ có thể lý giải một cách hợp lý? Phải chăng đã có một nền tảng kiến thức đã được tích lũy rất lâu trong lịch sử loài người như thiên văn, y học, tâm linh, khí công… đã từng tồn tại như truyền thuyết đã từng nói về một lục địa Atlantic đã bị nhấn chìm trong trận đại hồng thủy. Vậy, thì những nguồn kiến thức đó còn lưu dấu đến ngày nay hay không? Trong nền Lý học và các tôn giáo Đông phương, chúng ta đã nhận thấy rằng đều có cùng chung một triết lý về vũ trụ, xem nó là cái “Một”, là một thể thống nhất, vạn vật đều có mối quan hệ hay có chung “bản thể”. Đặc biệt, tồn tại hẳn một học thuyết đáp ứng được các tiêu chí về một học thuyết khoa học đó là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Học thuyết này được áp dụng mọi lĩnh vực trong cuộc sống, nó có thể lý giải đến tận cùng thế giới vi mô và vĩ mô của vũ trụ, thậm chí cả lĩnh vực “vô hình”, nhưng nó vẫn còn là một bí ẩn đối với phương Tây, mặc dù các nhà khoa học bỏ rất nhiều công sức nhưng thực sự thành quả đạt được rất còn hạn chế. Ngày nay, với công cuộc toàn cầu hóa về mọi mặt, đặc biệt là thông tin viễn thông đã làm cho các quốc gia với khác biệt văn hóa xích lại gần nhau hơn, do vậy việc tìm hiểu các dữ liệu lịch sử, văn hóa và khoa học cũng được thuận lợi. Từ đó sự tìm hiểu sâu học thuyết Âm Dương Ngũ Hành cũng được dễ dàng, làm nảy sinh sự nghi ngờ về một nền văn hóa toàn cầu mối quan hệ lịch sử, văn hóa của các quốc gia vào thời cổ đại. Thực sự, những nhà nghiên cứu không thể ngờ rằng, toàn bộ bí ẩn của vũ trụ lại tồn tại trong một nền văn hóa lâu đời đậm tính nhân bản - đó là Việt Nam và đấy cũng là lý do tại sao Việt Nam là nơi giao lưu và tồn tại rất nhiều nền văn hóa, tôn giáo khác nhau những vẫn không mất đi bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Thực sự, nơi đây đã chôn dấu một kho báu trí tuệ vĩ đại của nhân loại về vũ trụ quan và nhân sinh quan, nơi được xem là “đất của Thần” trong truyền thuyết của Ai Cập cổ đại và của toàn thế giới thời thượng cổ. Vậy bí ẩn đang nói tới này là những vấn đề gì? Chúng ta sẽ biết sau khi đọc hết cuốn sách này. Xin thành tâm gửi lòng biết ơn vô hạn tới các vị tiên liệt nước Việt với sự trợ giúp thần thánh và gửi lời cảm ơn tới tất cả tác giả của các tác phẩm mà tôi đã tham khảo và trích dẫn, nếu không cuốn sách này không thể hoàn thành, đặc biệt: - Nhóm nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh Việt cổ, chủ nhiệm chương trình cố giáo sư Đỗ Tòng (cũng xin gửi nội dung cuốn sách tới trang website: hodovietnam.vn). - Bác Lâm Thanh Điền và cô Nguyễn Thị Chí Liêm trong việc giúp đỡ tư liệu liên quan đến minh triết Việt và “tâm linh thần thánh” của nước Việt. - Tác giả Hà Văn Thùy: tác giả của cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, Nxb Văn học, 2008 và các tác phẩm khác. - Tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh: hệ thống tư liệu và các tác phẩm liên quan đế Lý học Đông phương và lịch sử, văn hóa của nước Việt (lyhocsongphuong.org.vn). - Tác giả Nguyễn Xuân Quang: hệ thống các bài viết lịch sử, văn hóa trống đồng Đông Sơn và các bài viết liên quan khác (bacsinguyenxuanquang.wordpress.com) - Cố triết gia Lương Kim Định: tuyển tập các trước tác về hệ thống triết học thế giới và lịch sử, văn hóa nước Việt (www.dunglac.org). - Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ: các bài viết và sách về văn hóa, thiên văn và các tôn giáo trên thế giới, đặc biệt về Đạo giáo, Dịch lý (nhantu.net). - Tác giả Lê Anh minh với các tác phẩm về triết học, đạo Cao Đài và Dịch lý (www.thienlybuutoa.org). - Tác giả Phan Ngọc Khuê: tác giả của cuốn Tranh Đạo giáo ở Bắc Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, 2008. - Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: các bài viết và nội dung nghiên cứu chữ Việt cổ. - Nhà nghiên cứu Minh Xuân: các bài viết điền dã và phân tích về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (http://bachviet18.com) - Nhà nghiên cứu Văn Nhân: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (www.laclong.tk). - Nhà nghiên cứu Bùi Quốc Hùng: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt, phong thủy và các phương pháp ứng dụng cổ (dienbatnblog.blogspot.com). - Nhà nghiên cứu Lãn Miên và Bùi Anh Tuấn: hệ thống các bài viết về lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ (lyhocsongphuong.org.vn). - Cùng với các trang mạng website: chanhkien.org; daitangkinhvietnam.org; anvietttoancau.net; thegioivohinh.com; vutruhuyenbi.com; giaodiemonline.com; hodovietnam.vn; hoalinhthoai.com; caodaism.net; phatgiaohoahao.net; tukhicongdentamlinh.net; khicongydaoviet.wordpress.com; kynguyentamlinh.com và các trang website khác. Ngoài ra còn rất nhiều các tác giả và trang website khác nữa, chúng tôi sẽ ghi nhận chính thức sau khi hoàn thành cuốn sách vào thời điểm thích hợp. Cuối cùng xin gửi lời nhớ ơn mãi mãi tới gia đình và những người bạn đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện công tác nghiên cứu này, nếu không sẽ chẳng bao giờ có thể kết thúc dù ở một mức độ rất giới hạn. Tác giả Nguyễn Tấn Hoàng Email: thaihoanglienson@gmail.com ghi chú: chúng tôi sẽ nhờ Trung tâm Lý học Đông Phương gửi lên mỗi chương một lần hoặc tất cả nội dung cuốn sách một lần.1 like
-
Càng ăn nhiều càng mau chết Các nhà khoa học Mỹ khuyến cáo những người ăn nhiều dễ mắc các bệnh "quý tộc" như xơ vữa động mạch, tiểu đường, huyết áp cao gan nhiễm mỡ... "Đa phần con người ngày nay không còn sợ chết đói nữa mà lo chết vì ăn nhiều", người đứng đầu nhóm nhà nghiên cứu nói trên trang Health. Ảnh minh họa : wp. Nhiều người cho rằng phải ăn nhiều mỗi ngày thì mới đủ chất và khỏe mạnh. Do vậy hễ có cơ hội ngồi vào bàn ăn là họ cố nhồi nhét thức ăn cho thật đầy bụng. Tình trạng này tồi tệ nhất là ở những người giàu. Họ sợ con cái bị suy dinh dưỡng nên ép con ăn thật nhiều, thậm chí trẻ không muốn ăn cha mẹ cũng bóp miệng cho ăn. Thực ra thói quen ăn uống như vậy rất có hại cho sức khỏe. Ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động. Thiếu chất dinh dưỡng thì nhiệt lượng sinh ra không đủ, ảnh hưởng đến năng suất làm việc, về lâu dài làm giảm khả năng miễn dịch của cơ thể dẫn đến dễ nhiễm bệnh. Ăn no quá mức, thức ăn chất đầy trong bụng cả ngày sẽ dẫn đến dư thừa năng lượng. Hơn nữa những người phàm ăn lại thích ăn đồ béo, ngọt có nguy cơ mắc các bệnh "quý tộc" như xơ vữa động mạch, béo phì, tiểu đường, huyết áp cao, gan nhiễm mỡ, viêm túi mật, viêm khớp... Những chứng bệnh này không gây tử vong ngay nhưng làm giảm chất lượng cuộc sống, rút ngắn tuổi thọ. Qua các cuộc khảo sát về mối quan hệ giữa dinh dưỡng - sức khỏe và sự trường thọ, người ta cũng đúc kết rằng những người ăn uống điều độ, không để bụng quá no thường có sức khỏe tốt, sức dẻo dai và sống thọ hơn nhóm còn lại. Qua theo dõi lâm sàng, nhóm nghiên cứu nhận thấy tình trạng thường xuyên ăn uống nhồi nhét sẽ làm cho dạ dày và đường ruột phải chịu một áp lực lớn, hệ tiêu hóa bị tổn thương nên suy yếu sớm. Lượng thức ăn "quá tải" mà dịch tiêu hóa thì có hạn nên thức ăn sẽ không được tiêu hóa hết. Số thức ăn dư thừa này sẽ tồn đọng lại trong ruột và ôi thiu sinh ra nhiều chất độc có hại cho cơ thể. Tóm lại, không nên ăn uống quá no, hãy để cho bụng có một khoảng thời gian đói nhất định. Chờ cho bụng đói thì ăn mới ngon và không bị bệnh. Hãy tăng cường rau, củ, quả trong khẩu phần ăn thay vì nhồi nhét nhiều thịt, trứng và chất béo. Nguyên tắc ăn 3 bữa trong ngày là: Sáng no - trưa vừa - tối lưng lưng bụng. Thụy Ân1 like
-
1 like
-
Quán vắng!
Đại Phúc liked a post in a topic by Thiên Sứ
Ông chủ của Đại Nam công khai 100 tỷ đồng gửi ngân hàng Nam Á Thứ 6, 18/01/2013, 19:51 Ông chủ Đại Nam khẳng định nếu nhân viên ngân hàng nào cứ chứng minh vợ chồng ông có nợ, cứ mang giấy tờ nợ đến thì được nhận ngay 100 tỷ đồng tiền mặt tại ngân hàng Nam Á. Chiều 18/1, ông Huỳnh Uy Dũng, Chủ khu du lịch Đại Nam, tỉnh Bình Dương đã cung cấp giấy chứng nhận cho phóng viên TTXVN tại tỉnh Bình Dương về số dư tài khoản tại Ngân Hàng Thương mại cổ phần Nam Á tính đến ngày 18/1/2013 là 100 tỷ đồng, tương đương 4.792.715 USD. Ông Huỳnh Uy Dũng khẳng định rằng tiền gửi tiết kiệm 100 tỷ đồng do Ngân hàng Nam Á phát hành để thưởng cho bất kỳ ai chứng minh được vợ ông là Nguyễn Phương Hằng đi vay bên ngoài, kể cả việc chứng minh được tài sản của Đại Nam thế chấp cho ngân hàng hoặc cá nhân tổ chức nào cũng đều được thưởng. “Việc thưởng 100 tỷ đồng không phải là lời thách đố để lấy sự nổi tiếng, mà tôi làm việc này bằng danh dự cả đời 30 năm gây dựng nên một Đại Nam. Ông Dũng cho biết đến nay, sau khi công bố, vẫn chưa có ai xác nhận vợ chồng chúng tôi nợ để lãnh tiền. “Việc rất dễ thôi, nếu nhân viên ngân hàng nào cứ chứng minh vợ chồng tôi có nợ, cứ mang giấy tờ nợ đến thì được nhận ngay 100 tỷ đồng tiền mặt tại ngân hàng Nam Á,” ông chủ Đại Nam nói rõ hơn. Giấy xác nhận của Ngân hàng Nam Á Những ngày qua dư luận tại tỉnh Bình Dương đồn thổi bà Nguyễn Phương Hằng (vợ của ông Dũng) mang Khu du lịch Đại Nam - tài sản cả đời của “đại gia” này đem thế chấp tại các ngân hàng để vay số tiền trên 2.000 tỷ đồng, ngoài ra vay nóng tiền chợ đen lên đến nhiều tỷ đồng. Tuy nhiên, theo vợ chồng ông chủ Đại Nam: “Đó là những tin vô căn cứ, nhằm mục đích xúc phạm đến tôi và gia đình và hạ uy tín Khu du lịch Đại Nam"./. Theo Dương Chí Tưởng TTXVN ==================== Qua đây mới thấy cuộc đời cũng chẳng thiếu kẻ ác ý, đồn thổi, bêu xấu người khác. Đôi khi chỉ vì ghen ăn, tức ở.1 like -
Trẻ dậy thì sớm Thông thường, thời điểm dậy thì ở trẻ không sớm hơn thời điểm 7 – 8 tuổi đối với nữ và 9 tuổi đối với nam (tuổi dậy thì trung bình của trẻ là khoảng 10 tuổi ở nữ và 12 tuổi ở nam). Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếui một trẻ gái có các dấu hiệu dậy thì vào lúc 5 tuổi? Và tình trạng dậy thì sớm (precocious puberty) này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ như thế nào? Ảnh minh họa:Internet Các chuyên gia sức khỏe cho biết, tình trạng dậy thì sớm (DTS), trước thời điểm trẻ nữ 7-8 tuổi và trẻ nam 9 tuổi, có thể gây khó khăn về mặt thể chất và cảm xúc ở trẻ. Đôi khi đó cũng là dấu hiệu cảnh báo về một vấn đề sức khỏe nào đó. Trẻ thiệt thòi gì khi dậy thì sớm? Thông thường, sau giai đoạn dậy thì, chiều cao của trẻ cũng sẽ ngừng phát triển. Bởi vì khung xương của trẻ đã được định hình và trưởng thành. Đối với trẻ DTS, xương ngừng phát triển sớm hơn bình thường và trẻ thường sẽ không đạt được hết chiều cao tiềm tàng khi đến tuổi trưởng thành sau này. Quá trình bột phát sớm có thể giúp trẻ phát triển chiều cao nhanh hơn những trẻ cùng tuổi ở một thời điểm nhất định, nhưng chúng sẽ ngừng phát triển chiều cao sớm hơn và thường đạt chiều cao thấp hơn chiều cao mà lẽ ra trẻ có thể đạt được khi trưởng thành. Tình trạng DTS cũng có thể khiến trẻ gặp khó khăn về mặt cảm xúc và xã hội. Ví dụ, đối với những trẻ gái DTS thường có cảm giác bối rối, ngượng ngùng trước sự thay đổi về thể chất, như có kinh nguyệt hoặc ngực phát triển hơn so với những trẻ cùng tuổi. Nhưng phần khó khăn nhất mà trẻ gặp phải là thường bị chòng nghẹo bởi những đứa trẻ khác do cơ thể chúng “phổng phao” sớm, đặc biệt là đối với những trẻ gái. Ngay cả những cảm xúc và hành động cũng sẽ thay đổi ở những trẻ DTS. Những trẻ gái có thể trở nên ủ rũ và cáu kỉnh. Đối với trẻ trai có thể trở nên hung hăng, đồng thời phát triển nhu cầu và đòi hỏi tình dục sớm, không phù hợp với độ tuổi của chúng. Nguyên nhân dậy thì sớm Quá trình phát triển của giai đoạn dậy thì thường bị thúc đẩy bởi vùng não giúp kiểm soát chức năng của tuyến yên (hypothalamus). Vùng não này sẽ chuyển tín hiệu tới tuyến yên (một tuyến có hình hạt đậu nằm gần phần đáy não) để phóng thích ra một loại hormone kích thích buồng trứng (ở trẻ gái) hoặc tinh hoàn (ở trẻ trai) tạo ra hormone sinh dục. Đôi khi, tình trạng DTS cũng có thể bắt nguồn từ vấn đề thuộc cấu trúc ở não (như một khối u), tổn thương não do bị chấn thương đầu, một bệnh nhiễm trùng (như viêm màng não), hay cũng có thể do một vấn đề nào đó ở buồng trứng hoặc tuyến giáp đã thúc đẩy cơ thể trẻ DTS hơn bình thường. Đa số trẻ gái không do vấn đề bệnh lý cơ bản và bắt đầu DTS không rõ lý do. Đối với những trẻ trai, tình trạng DTS có nhiều khả năng liên quan đến những vấn đề bệnh lý. Khoảng 5% trẻ trai DTS do yếu tố di truyền, do cha truyền sang con trai, hoặc từ ông ngoại truyền sang cháu trai thông qua người mẹ. Tuy nhiên, có ít hơn 1% trẻ gái DTS chịu ảnh hưởng bởi yếu tố này. Dấu hiệu dậy thì sớm Hãy trao đổi với bác sĩ nếu thấy trẻ có những biểu hiện trưởng thành về giới tính sớm, bao gồm: ngực phát triển, tăng chiều cao một cách đột ngột, có kinh nguyệt, tinh hoàn và dương vật gia tăng nhanh về kích cỡ, lông tay, lông chân và lông dưới cánh tay xuất hiện nhiều… Sự thay đổi về thể chất của trẻ trong suốt giai đoạn dậy thì thường là bằng chứng giúp bác sĩ cho tiến hành kiểm tra. Để xác định và chẩn đoán chính xác việc DTS, bác sĩ có thể đề nghị kiểm tra nước tiểu và máu của trẻ để dò tìm mức hormone sinh dục cao bao nhiêu. Đồng thời, tiến hành chụp X.quang xương cổ tay và cánh tay để biết xương của trẻ có trưởng thành quá nhanh hay không. Ngoài ra còn có những phương pháp kiểm tra khác, như chụp CT, MRI (hình ảnh cộng hưởng từ) và siêu âm có thể giúp bác sĩ mau chóng tìm ra những nguyên nhân đặc thù gây nên tình trạng DTS ở trẻ, như có khối u trong não, buồng trứng hoặc tinh hoàn hay không. Cách điều trị Nếu bác sĩ nghi ngờ rằng trẻ DTS, họ sẽ đề nghị chuyển trẻ đến một bác sĩ nội tiết ở khoa nhi (bác sĩ chuyên điều trị về sự phát triển và những rối loạn hormone ở trẻ) để đánh giá chính xác và có hướng điều trị thích hợp. Khi tình trạng DTS được chẩn đoán, mục tiêu của việc điều trị là làm dừng hoặc đảo nghịch sự phát triển giới tính và đồng thời làm ngừng quá trình phát triển và trưởng thành của xương - những vấn đề có thể tạo nên vóc người thấp bé ở trẻ khi đến tuổi trưởng thành. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây DTS, có hai cách khả dĩ để điều trị, bao gồm: Điều trị nguyên nhân cơ bản hoặc bệnh lý như khối u não… Làm giảm mức hormone sinh dục bằng các loại thuốc giúp dừng tốc độ phát triển giới tính. Trong vài trường hợp, việc điều trị các vấn đề sức khỏe cơ bản có thể giúp dừng sự tiến triển của việc DTS. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp, vì không có những bệnh lý khác tác động, việc điều trị DTS thường bao gồm liệu pháp hormone, giúp ngừng sự phát triển giới tính ở trẻ. Phương pháp điều trị bằng hormon được tán thành hiện nay là sử dụng dược liệu gọi là LHRH analog (LHRH là các ký tự viết tắt của luteinizing hormone-releasing hormone và còn gọi là hormone hướng sinh dục) - có tác dụng tương tự như loại hormone tổng hợp, giúp ngăn cản quá trình cơ thể sản xuất ra các loại hormone sinh dục gây ra tình trạng DTS ở trẻ. Hiệu quả có thể thấy rõ trong vòng một năm sau khi trẻ điều trị bằng LHRH analog. Ngoài ra, phương pháp này còn được đánh giá là rất an toàn và không gây phản ứng phụ ở trẻ. Đối với trẻ gái, kích cỡ ngực có thể giảm đi hoặc ít nhất ngừng phát triển. Đối với trẻ trai, dương vật và tinh hoàn có thể co rút trở lại kích cỡ bình thường ở tuổi của chúng. Quá trình phát triển chiều cao cũng sẽ chậm lại tới một tốc độ như mong đợi của trẻ trước khi dậy thì. Thái độ và tâm lý của trẻ cũng sẽ trở nên thích hợp với lứa tuổi của chúng hơn. Chăm sóc trẻ dậy thì sớm Các bậc cha mẹ cần cung cấp cho trẻ những kiến thức chính xác và dễ hiểu về chuyện gì đang xảy ra với trẻ. Hãy giải thích cho trẻ biết rằng, những sự thay đổi đó là bình thường đối với tất cả những đứa trẻ tuổi “teen”, và riêng cơ thể của trẻ đã đạt đến giai đoạn đó hơi sớm hơn bình thường. Giúp trẻ hiểu biết về những điều gì trẻ sẽ phải đương đầu cũng như cách điều trị, cùng với các phương pháp tự chăm sóc bản thân. Các bậc phụ huynh bảo theo dõi sát các dấu hiệu gây khó khăn hoặc khiến trẻ bị chòng ghẹo khi DTS, những điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển về mặt cảm xúc của trẻ. Chú ý những dấu hiệu cảnh báo thông thường để trao đổi với bác sĩ bao gồm: Bị điểm kém hay những vấn đề về đạo đức xảy ra ở trường; không còn hứng thú với các hoạt động hàng ngày; tâm trạng buồn phiền… Làm cách nào để giải quyết vấn đề DTS cũng có thể quyết định đến sự thành công trong việc chăm sóc trẻ. Mục tiêu là giúp trẻ dừng phát triển những diễn biến xấu trong nhận thức về bản thân hoặc lòng tự trọng của trẻ. Hãy luôn tạo ra một môi trường ủng hộ quanh trẻ, tránh tập trung những lời bình luận về những thay đổi thể chất của trẻ, thay vào đó là ca ngợi những thành tựu trong học tập hoặc thể thao mà trẻ đã đạt được, đồng thời ủng hộ và khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động khác. Quan trọng nhất, phụ huynh cần ghi nhớ DTS là bệnh có thể điều trị. Các bác sĩ có thể giúp duy trì khả năng phát triển chiều cao tiềm tàng của trẻ cho đến tuổi trưởng thành, cũng như giới hạn các khó khăn về mặt xã hội hoặc cảm xúc mà trẻ phải đương đầu. Nguyễn Niệm (Theo Kidshealth)1 like
-
1 like
-
Cháu nen làm việc trong nghành Quân chính ( Quuân đội, Công an. Hải quan . .hoăc Viêtheo chẳng hạn ) thì công việc ổn định và tốt hơn. Trong cuộc đời cháu không trán khỏi nhiều lần phải mổ xe, châm trích , ngay khi sinh nở cũng phải có sự can thiệp của bác sĩ. Sang năm cháu có điềm dẫn đén cưới xin nhưng do " lỡ " mà cưới, chứ không vào năm 2014 như dự tính đâu. Nên lập nghiệp xa quê thì tốt.1 like
-
Vậy mới nói là cháu hay bịi cưỡng ép về tình cảm. Cháu nên lấy chồng trễ hoặc đi xa gập nhau mà nên vợ nên chồng mới tránh được xa cách chia ly.1 like
-
Cảm ơn LanCao rất nhiều. Mình không biết là chú Haithienha lại sống ở Mỹ, cứ nghĩ chú là thành viên ban quản trị nên chắc chú phải ở SG như vậy được chú tư vấn đã là có duyên với chú lắm rùi. Mình cũng hi vọng câu" đức năng thắng số" của các cụ là sẽ không sai. Cảm ơn LanCao đã chỉ rõ thêm cho mình những ý nghĩa của cuộc sống. Chúc Lancao một năm mới Vạn Sự Như Ý nhé1 like
-
Quán vắng!
hoctronho liked a post in a topic by Thiên Sứ
Epoch Times: Trung Quốc lập "Tổ Điếu Ngư" do Tập Cận Bình chỉ huy Thứ năm 17/01/2013 06:01 (GDVN) - Tổ Điếu Ngư bao gồm các quan chức đầu ngành từ quân đội, tình báo, ngoại giao, công an, hải giám thường trực bám nắm tình hình, ứng phó với các tình huống bất ngờ ở Senkaku Chiến đấu cơ Trung Quốc cất cánh khẩn cấp bám theo máy bay Mỹ 16 chiến đấu cơ Nhật - Mỹ tập trận chung ngay sau vụ "gầm ghè Senkaku" Trung Quốc bất ngờ công khai phiên hiệu các tập đoàn quân chủ lực Bắc Kinh tuyên bố tiến hành khảo sát tại Senkaku Trung Quốc tuyên bố đã sẵn sàng cho chiến tranh Tờ Epoch Times xuất bản tại Đài Loan ngày 16/1 đưa tin, do tình hình tranh chấp chủ quyền nhóm đảo Senkaku trên biển Hoa Đông giữa Nhật Bản và Trung Quốc đang liên tục leo thang và có khả năng nổ ra xung đột, giới chức Trung Quốc đã thành lập "tổ Điếu Ngư" do ông Tập Cận Bình - Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Quân ủy trung ương trực tiếp chỉ huy. Ông Tập Cận Bình - Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Quân ủy trung ương đảng CSTQ khóa 18 (ảnh: Guardian.co.uk) Tổ Điếu Ngư bao gồm các quan chức đầu ngành từ quân đội, tình báo, ngoại giao, công an, hải giám thường trực bám nắm tình hình, ứng phó với các tình huống bất ngờ ở Senkaku, nhóm đảo do Nhật Bản kiểm soát và Bắc Kinh cũng tuyên bố chủ quyền với tên gọi là đảo Điếu Ngư. Giới truyền thông Đài Loan tin rằng tổ Điếu Ngư được thành lập từ tháng 9 năm ngoái, khi Nội các Nhật Bản bắt đầu tuyên bố quốc hữu hóa nhóm đảo Senkaku, Tập Cận Bình đảm nhiệm vị trí Tổ trưởng, trực tiếp chỉ huy xử lý nguy cơ cũng như các tình huống khẩn cấp có thể xảy ra. Trong chuyến tuần du phương Nam tới đại quân khu Quảng Châu và hạm đội Nam Hải hồi cuối năm ngoái, ngay sau khi trúng cử Tổng bí thư kiêm Chủ tịch Quân ủy trung ương, ông Bình đã ra "khẩu dụ" cho giới chức quân đội nước này: "Có lệnh đến ngay, đã đến là đánh, đã đánh phải thắng". Trước đó, Bắc Kinh chọn đúng thời điểm nhạy cảm, ngày 13/12/2012 là ngày kỉ niệm 75 năm cuộc thảm sát Nam Kinh của phát xít Nhật ngày trước, lần đầu tiên leo thang trên biển Hoa Đông bằng cách phái máy bay tuần tra nhóm đảo Senkaku buộc Nhật Bản phải điều F-15 ngăn chặn. Từ đó đến nay, máy bay Trung Quốc cả công vụ lẫn quân sự thường xuyên xuất hiện trên không phận Senkaku. Chiến đấu cơ F-15 Nhật Bản ngày càng được điều động nhiều hơn để đối phó với máy bay Trung Quốc xâm nhập không phận Senkaku Rất có thể, trong năm 2013 Bắc Kinh sẽ tiếp tục lựa chọn 2 thời điểm nhạy cảm để tiếp tục leo thang bước nữa trên nhóm đảo tranh chấp. 2 thời điểm nhạy cảm, theo Epoch Times là ngày 7/7 kỷ niệm sự kiện cầu Lư Câu mở màn cho chiến tranh Trung - Nhật hoặc ngày 15/8 là ngày phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng. Trong khi đó Nội các mới tại Nhật Bản cũng thể hiện rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền nhóm đảo Senkaku khi Thủ tướng Shinzo Abe khẳng định, một milimet chủ quyền Senkaku cũng không thể nhân nhượng. Cụ thể hơn, ngày 15/1 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản cho hay, nếu máy bay Trung Quốc tiếp tục xâm nhập không phận Senkaku mà Nhật Bản phát tín hiệu vô tuyến yêu cầu máy bay Trung Quốc rời khỏi không phận Nhật Bản nhưng phía Trung Quốc cứ phớt lờ, chiến đấu cơ Nhật Bản sẽ bắn cảnh cáo. Chiến đấu cơ J-10 Trung Quốc đã được điều động bay ra Senkaku (hình minh họa) Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản nhấn mạnh, việc bắn đạn cảnh cáo sau khi phát tín hiệu vô tuyến nhưng đối phương vẫn làm ngơ là giải pháp "theo tiêu chuẩn quốc tế" mà bất luận quốc gia nào khi bị kẻ khác xâm phạm không phận cũng sẽ làm điều tương tự. Đây không phải là chuyện chỉ có trong giả thiết, việc Nhật Bản bắn cảnh cáo máy bay Trung Quốc đã từng xảy ra trên thực tế vào năm 1987. Bấm vào đây để viết bình luận - Bấm xem tất cả bình luận hay Hồng Thủy (Nguồn: Epoch Times) ============================== Thiên Sứ tui vẫn chờ đến ngày "Ông Công, Ông Táo" lên giời - 23 Tháng Chạp Nhâm Thìn Việt lịch.. Trong cái vận 8 bí ẩn của Huyền Không Lạc Việt thì Nhị Hắc chiếu phương Đông Bắc; Ngũ Hoàng chiếu hướng Đông Nam (Huyền không Tàu là Thất Xích. Híc!). Đã vậy hai phương Đông Bắc, Đông Nam lại cùng Tây tứ cung theo Phong Thủy Lạc Việt, nên Nhị Ngũ giao trì ở mức độ đồng khí, tuy không xung chiếu. (Huyền Không Tàu thì Đông Tây trạch khác nhau. Hì). Nhị Hắc theo Huyền không Việt tọa Đông Nam (Tầu thì Tây Nam) lại gặp cách Nhị Ngũ giao trì). Thái Tuế năm nay theo Huyền Không Việt lại chính chiếu Thiên môn, Địa hộ - năm ngoái chưa (Theo Huyền không Tàu thì Địa hộ lại ở.....Tây Nam. Hì). Năm nay, Ngũ Hoàng lại tọa trung cung. Phục ngâm đủ bốn phương, tám hướng (Cũng may, Thái Tuế nhích khỏi biển Đông một chút. Nhưng Thiên Đồng hình như vẽ ẩu thì phải. Nhưng thôi. Đại khái vậy đi). Chu kỳ này cứ 72 năm lặp lại một lần. Ấy là chu kỳ nhỏ. Còn lớn hơn tý nữa thì 216 năm. Tý nữa thì gần 600 năm. Đại để vậy đấy! Sau ngày "Ông Công, ông Táo" lên giời, tĩnh tâm thì bàn tiếp. Buồn thì ngủ nghỉ cho "phẻ". Huyền Không Tàu thì không có cửa để "Ăn rau muống, bàn chuyện ....thế giới". Chỉ dọa được nấy con mẹ "ve chai lông vịt" và mấy con ếch ngớ ngẩn. Bởi vì, cái căn bản là định tâm còn chưa biết nằm đâu, làm sao mà phát biểu. Cho dù có ăn cắp bản quyền của "Phương pháp định tâm theo Phong thủy Lạc Việt" thì cũng cóc biết đằng nào mà lần.1 like -
năm tới vợ sẽ có thai ,nếu sanh trong năm thì là con trai ,nếu năm 2014 sanh thì cơ hội 1/2 là trai mà cũng thể là gái, lá số người vợ năm tới có thể có tang hay trong họ có người bệnh nặng. lá số người chồng năm tới tài lộc thiếu kém ,nhất là coi chừng bị trộm cắp cướp giựt hay bị kẻ tiểu nhân lường gạt mà mất của .1 like
-
Năm tới thời vận hanh thông về công việc tài lộc khá dồi dào, có thể được lên lương hay thăng chức, nhưng nếu chuyễn việc khác thì thấy có hơi khó khăn hay không chuyễn việc được .về tình cảm sẽ có cuộc tình mới, tình cảm hài hòa vui vẽ ,tự dưng mà đến , đi xe cộ coi chừng bị tai nạn hay bị phạt vạ nhiều.1 like
-
Đã ghi vào danh sách Sợ lúc đó thấy 1 ông già lụm cụm chắc chẳng ai thèm đón cả ,hic.1 like
-
1 like
-
Tóm lại, hầu hết các nhà nghiên cứu đều mặc định rằng: Những từ gọi là Hán Việt đều có nguồn gốc Hán. Sai lầm từ chỗ này. Chẳng có Từ Hán Việt nào có nguồn gốc Hán cả, Mà phải nói rằng, chính người Hán lấy tiếng Hán để phiên âm tiếng Việt. Thí dụ; Số đếm : 1; 2; 3; 4; 5; 6; 7; 8, người Hán đọc : Y, ơ, san, sư, ủ, liu, tơ, ba. Chẳng liên quan gì đến - nhất, nhị, tam tứ ngũ lục thất, bát cả. Tất cả đều là sự mặc định rồi cứ người này truyền người kia như là sự hiển nhiên. Cũng như cội nguồn văn hóa Đông phương mặc định là của Trung Quốc vậy. Trong khí chẳng có cơ sở nào để xác định điều đó. Tôi đã nhiều lần phân tích và chứng minh rồi.1 like
-
Bác xem lá số của cháu sinh giờ Ngọ, theo lời cháu đã nói. cháu phải trải qua khoảng 8 năm nữa trong thăng trầm. Về tiền tài cháu hay được người khác giới giúp đỡ, nếu buôn bán ngược, xuôi cũng thành công nhưnglucs lên, lúc xuống thất thường. Hết sức tránh làm ăn phi pháp vì số cháu có điềm va chạm luật pháp. Ngoài 30 cháu mới ổn định. Nhưng số cháu không nên cố gắng làm giầu, chỉ nên đủ ăn thì thọ lâu.1 like
-
Dựa theo cháu nói sơ qua bản thân , bác quyét định cháu sinh giờ Thìn. Cháu nên thận trọng trong việc giữ gìn lời ăn tiếng nói. Trong cuộc sống cháu phải đề phòng tai nạn sông nước hoặc những chuyện về bị cưỡng ép tình cảm ngoài ý muốn.Cháu được hưởng Phúc đấy . Cụ Tổ 4 đời theo phù hộ. Ngôi mộ này được chôn cất nơi đất tương đối khô, rời, gần đường đi lối lại.1 like
-
Tiên tri của các tôn giáo trên thế giới Tiên tri của đạo Bà La Môn, Ấn Độ Hindu là một tôn giáo truyền thống của người Ấn còn gọi là Ấn Độ giáo. Tôn giáo này có mặt từ rất xa xưa, tiền thân của tôn giáo này là Bà La Môn giáo với những qui định nghiêm ngặt về giáo điều, phép tu, tầng lớp xã hội... Các vị thần quan trọng nhất trong phả hệ thần Ấn Độ giáo là Trimurti tức "Tam vị nhất linh" hay còn gọi là "Tam vị nhất thể" bao gồm Brahma - Shiva - Visnu. Visnu và Shiva là hai thế lực đối lập, còn Brahma là thế lực cân bằng. Đền Sri Ranganathaswamy Thành phố Tiruchirapalli, Ấn Độ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Theo truyền thuyết về thần Vishnu, ngài có mười hóa thân, Đức Phật Thích Ca được xem là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu, và thần Kalkin là hóa thân thứ 10 và cũng là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu. Thần Kalki vẫn chưa xuất hiện, vị thần này sẽ xuất hiện vào cuối thời đại hiện nay - thời đại Kalkin Yuga và sẽ kéo dài 432.000 năm. Mười hóa thân của thần Vishnu Tranh của Jaipur, bảo tàng Victoria & Albert file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg 1- Mastya: con cá từng bảo vệ cho Manu, thủy tổ loài người trong cơn đại hồng thuỷ. 2- Con rùa Kurina (Kurma): chở núi ngọn Mandara trên lưng trong khi khuấy đảo biển sữa. 3- Varaha: con heo rừng đã cứu cả trái đất. 4- Narasimha: hóa thân sư tử vương giết chết quỷ Hiranyakashipu - hiện thân của Ravana. 5- Chàng lùn Vamana: cứu thế giới khỏi tay con qủy Bali. 6- Parasurama: người tạo ra tầng lớp Sát đế lỵ. 7- Hoàng tử Rama: nhân vật chính trong Sử thi Ramayana. 8- Krisna: vị thần tài năng với tiếng sáo mê hồn. 9- Sakya Muni (Đức Phật): cứu giúp những kẻ xấu lầm đường lạc lối trở về đường chính. 10- Kalkin (Kali Yuga): hóa thân này sẽ hiện ra ở hiện tại để lập ra Kỷ nguyên mới. Vào những năm cuối cùng của thời đại này, loài người sẽ phải đối diện với sự sụp đổ của nền văn minh và sự mất mát của các giá trị tinh thần và đạo đức. Hóa thân Kalkin thần thánh sẽ xuất hiện cưỡi trên con ngựa bạch, sẽ có mặt để quét sạch các ác thần thế gian và thiết lập một kỷ nguyên mới. Bà La Môn giáo chú trọng đến vận hội của loài người, chu kỳ gồm bốn thiên kỷ trong 25.920 năm: Krita-yuga, Tetra-yuga, Dvapara-yuga và Kali-yuga. Chúng ta đang sống trong kỷ Kali yuga, kỷ này ghi trong Kinh Veda bắt đầu vào 3.012 tr.CN và kết thúc sau 5.000 năm tức vào năm 2012 (Bí mật về năm 2012 và một thế giới kỷ mới, tác giả Gregg Braden, dịch giả Trần Cung, Nxb Văn hóa Thông tin, 2011). Nữ thần hắc ám Kali Tranh tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chúng ta thấy, thời gian hoàn toàn tương tương với lịch cổ đại Maya, chỉ chênh lệch nhau 12 năm. Kali là tên nữ thần Hắc ám. Kỷ nguyên này tôn sùng vật chất, luân lý đi xuống cho nên con người chịu nhiều đau khổ. Mặc dù vậy, trong đó cũng có một lớp người tỉnh ngộ. Sau đó sẽ là kỷ Krita-yuga hay còn gọi là thời kỳ Hoàng Kim, được tiên tri trong sấm truyền Ấn Độ cổ đại Vishnu Purana, trong đó cũng báo trước thời kỳ Kali-yuga, thời kỳ dâm loạn, hôn nhân gia đình bị phá bỏ. Con người sống dối trá và của cải vật chất là mục đích tối hậu. Sự lạm dụng quyền lực của Thiên Chúa giáo thời trung cổ, phong trào độc tài phát xít ở thế kỷ XX…, đó là bệnh của thời kỳ hắc ám Kali-yuga (Những tiên đoán mới lạ về thế kỷ XXI, tác giả Paul Roland, dịch giả Mặc Uyên, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004). Phật giáo Theo truyền thuyết, Đức Phật Di Lạc xuất thân từ một gia đình quý tộc Bà La Môn ở thôn Kiếp Ba Lợi thuộc Nam Thiên Trúc (Ấn Độ cổ đại), có hiệu là A Dật Đa (Adijita) nghĩa là Vô Năng Thắng (không gì có thể thắng nổi). Di Lạc là phiên âm từ Phạn ngữ có nghĩa là “Từ Thị” (lòng từ bi). Tín ngưỡng Phật Di Lạc đã được lưu truyền rất sớm tại Trung Quốc. Ngay từ đời Tây Tần (265-316) đã có những bức tranh vẽ Phật Di Lạc, thường mô tả Phật Di Lạc cũng giống như các vị Phật, Bồ Tát khác. Trong suốt các thời kỳ của Phật giáo Trung Quốc, Phật Di Lạc được mô tả ngồi trên một chiếc ghế hoặc một chiếc ngai với chân bắt chéo hoặc chân trái buông thõng, tay phải chống cằm như đang suy nghĩ về tương lai. Đền Mahabodhi Bodhgaya, Bodh Gaya, Ấn Độ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đền Mahabodhi có nghĩa "Đại Giác Ngộ Tự" là một đền thờ Phật Giáo ở Bodh Gaya, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đạt được chính quả. Bodh Gaya tọa lạc cách Patna thuộc bang Bihar, Ấn Độ 96km. Bên cạnh ngôi đền, phía Tây là cây bồ đề linh thiêng. Theo kinh điển Phật giáo, Di Lạc Bồ Tát sẽ xuất hiện trên trái đất, đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh, và chứng ngộ thành Phật. Phật Di Lạc sẽ là vị Phật sẽ nhận chuyển pháp luân và kế thừa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong thời đại mới. Di Lạc Bồ Tát Tượng đá, Northern Wei dynasty (386-535) Di Lạc Bồ Tát Cổ vật gỗ sơn, Hàn Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Cõi giáo hóa của ngài hiện nay là cung trời Đâu suất. Như vậy, theo sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật Vương Di Lạc, vị thầy mới sẽ bơm một luồng sinh khí tươi mát và làm thay đổi toàn bộ công cuộc tìm kiếm chân lý trên toàn thế giới. Do Thái giáo Dân tộc Do Thái có một niềm tin không lay chuyển vào đấng Chúa Cứu Thế Messiah rằng: dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại được dẫn đến một thời đại Hoàng kim, trong đó nền công lý toàn hảo và nền hòa bình thế giới được thực hiện bởi đấng Messiah. Ngài là vị vua lý tưởng và là một người toàn hảo. Danh từ "Messiah" có nghĩa là "Người được xức dầu", đây là một phương cách cổ xưa để tôn vinh một người được trao trọng trách đặc biệt. Jerusalem Israel file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Jerusalem còn có tên gọi khác là Thánh địa (The Holy), thành phố cổ kính và linh thiêng ở Trung Đông, nằm trên lưu vực giữa Địa Trung Hải và Biển Chết, trên độ cao từ 650-840m. Theo truyền thuyết của người Do Thái thì Jerusalem được xây dựng bởi Shen và Ever, tổ tiên của Thánh tổ Abraham. Người Do Thái vẫn chờ đợi sự xuất hiện của đấng Messiah. Dân tộc Do Thái rất kiên trì trong niềm tin tôn giáo vì họ tin tưởng rằng đạo Do Thái là đạo duy nhất do Thiên Chúa mặc khải cho cả quốc gia. Thiên Chúa giáo Theo Kinh Tân Ước các Thánh Tông Đồ có ghi lại lời Chúa Jesus, tiên tri “Ngày phán xét” cuối cùng và ngày ấy những người chết sẽ sống lại, trong Kinh Tin Kính có câu: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại". Lời tiên tri ấy như sau: "Anh em thân mến! Tôi không muốn để anh em phải hồ đồ về vấn đề những người đã chết, như người không còn hy vọng. Nếu chúng ta tin Chúa Jesus đã chết và đã sống lại, thì những ai đã an giấc trong Chúa Jesus cũng thế, Thiên Chúa sẽ kết hợp với Người..." (Tê-sa-lô-ni-ca 4, 13-18) (Tham khảo cuốn Kinh Thánh Tân ước và Cựu ước, Arms of Hope 2002). Nhà thờ lớn của Thánh Basil Matxcơva, Nga Tòa Thánh Vatican Rome, Italy file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trong Bức Thư Fatima (được xuất bản tại Việt nam, bàn dịch từ tiếng Bồ Đào Nha) Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, Bồ Đào Nha năm 1917, rất ít được phổ biến, Đức Mẹ có tiên tri: "Đại Chiến thứ III, nhân loại mười phần, chết chín còn một. Chúa Xi-ri Ki-tô, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giu-se sẽ có xác thân người Việt Nam để cứu con ngài trên thế giới... Nhân loại sẽ về Việt Nam rất đông. Chị Lucie viết: "Nước Việt Nam là một thánh địa Gerusalem thứ hai... Nước Việt Nam sẽ đổi lại là Đại Nam Tịnh Quốc ... Nhân loại nên hướng vế Miền Nam Nước Việt để xây dựng cho quốc gia Việt Nam thành một thánh địa, hầu khi đại chiến thứ III sẽ về đó mà nương tựa" (Bức Thư Fatima của chị Lucie tr. 5,9,10). Hồi giáo Truyền thuyết kể lại thì Mecca là quê hương của giáo chủ Mohammad (570-632) thuộc gia tộc Casimu. Tục truyền rằng Thánh Allah đã cử Thiên sứ Gabriel đến truyền đạt Thần dụ và lần đầu tiên "khải thị" cho Mohammad chân lý của Kinh Koran (Qur'an) điều này khiến ông trở thành "Thánh thụ mệnh" tiếp thu sứ mệnh chân chủ trao cho để bắt đầu công cuộc truyền bá đạo Hồi. Ông là người sáng lập ra đạo Hồi và trở thành vị giáo chủ tối cao, Mecca trở thành nơi thánh địa linh thiêng và là nơi hành hương quan trọng nhất của các tín đồ Hồi giáo khắp nơi trên thế giới. Thánh địa Mecca Tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Chiếc đồng hồ 4 mặt được đặt trên nóc tòa nhà Mecca Clock Royal Tower có độ cao 640m, đây là một trong những công trình cao nhất thế giới. Chiếc đồng hồ có đường kính 39m, được ghép từ 98 triệu tấm kính. 21.000 bóng đèn trắng và xanh đặt trên đỉnh Royal Clock có thể chiếu sáng một quãng đường xa đến 30km, mỗi mặt của đồng hồ được khắc tên Thánh Allah. Qua hình ảnh mặt trăng lưỡi liềm, chúng ta biết rằng biểu tượng của sự tái sinh, phục sinh là hình ảnh của mặt trăng hết khuyết rồi lại tròn theo một chu kỳ, như vậy hình tượng khả năng tiềm ẩn biểu tượng tiên tri về sự phục sinh của giáo chủ Mohammad. Bái Hỏa giáo, Iran Một nhà tiên tri thời Ba Tư cổ tên là Zoroaster hay còn gọi là Zarathustra (630-550 tr.CN) đã từng dự báo sẽ có một “trận chiến giữa Thiện và Ác”. Ông nói rằng ông đã nhận được một nhiệm vụ thần thánh từ Ahura Mazda, vị Chúa tể Trí tuệ và Thần Quang minh (Ánh sáng), người rao giảng sự thật. Ông đã tiên đoán rằng toàn thế giới sẽ bị đưa vào trận chiến giữa Thiện và Ác bởi vì một nhóm thế lực Hắc ám sẽ chống lại lực lượng Quang minh. Loài người có thể được cấp cho sức mạnh để chọn lựa giữa Thiện và Ác. Thời kỳ kết thúc của thế giới sẽ tới khi lực lượng Quang minh giành thắng lợi và những linh hồn được cứu rỗi sẽ tận hưởng niềm vui chiến thắng, Đài tưởng niệm Zoroaste Thế kỷ V tr.CN, Iran file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Ông phân chia sự phát triển của thế giới ra làm bốn giai đoạn, với 3.000 năm trong mỗi giai đoạn. Trong ba ngàn năm đầu tiên, thế giới vật chất này được tạo ra. Vào thời điểm cuối của ba ngàn năm tiếp theo, Ahriman, kẻ cầm đầu thế lực Hắc ám, sẽ cố gắng hủy diệt thế giới. Vào thời điểm cuối của 3.000 năm sau đó, Ahriman đã thành công, nhưng hắn sẽ mang đến sự hủy diệt cho chính mình. Vào lúc bắt đầu 3.000 năm cuối, Zoroaster sẽ chuyển sinh và mang đến một đức tin mới cho nhân loại. Trong lúc ấy, nhân loại sẽ phải trải qua một thử thách cuối cùng, từ bỏ mọi đặc tính trái luân lý để trở thành những người tiên phong và lãnh đạo thế giới mới. Theo lời tiên tri của Zoroaster, bản tính con người là rực rỡ và đức hạnh, nhưng Ahriman muốn hủy diệt mọi thứ. Do đó, một thế giới với cả Thiện lẫn Ác sẽ đồng thời tồn tại và loài người cần phải lựa chọn một trong hai. Sau khi chết, linh hồn sẽ phải đi qua một chiếc cầu. Linh hồn cao thượng sẽ được lên thiên đàng, linh hồn xấu xa sẽ phải xuống địa ngục. Trong trận chiến đó, một linh hồn trong sạch không tội lỗi sẽ hòa mình vào một thế giới mới. Chúng ta có thể hiểu “Lửa” là đại biểu cho phát minh thời thái cổ và chính nó đã thay làm đổi cuộc sống của loài người, nhưng “Lửa” cũng là biểu tượng cho văn minh, biểu tượng của ánh sáng, do vậy thờ “Lửa” chính là thờ “Thần Quang Minh Ahura Mazda”, và vị thần này là ai? cũng sẽ được làm rõ trong các chương sách sau. (*) Hỏa giáo: Còn được gọi là Bái hỏa giáo hay Đạo thờ Lửa (Zoroastrianism), là một tôn giáo cổ của Ba Tư được sáng lập bởi nhà tiên tri Zoroaster (Zarathustra), với bộ kinh chính thức là Cổ kinh Ba Tư. Hỏa giáo phát triển mạnh ỏ Iran khoảng thế kỉ X-VII tr.CN, sau đó, phát triển sang nhiều nước khác ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Hoa. Ngày nay trên thế giới cũng như tại Ba Tư chỉ còn rất ít người theo tôn giáo này. Đạo Cao Đài, Việt Nam Đạo Cao đài là một trong những đạo mới tại Việt Nam, Thánh giáo cơ bút đạo Cao Đài nói rất nhiều về Hội Long Hoa. Trong Kinh Đại Tường của Cao Đài giáo có nói đến Phật Vương Di Lạc giáng thế, thâu hồi các tôn giáo hữu hình hiện có qui thành một Đạo duy nhất: Hỗn Nguyên Thiên dưới quyền giáo chủ, Di Lạc đương thâu thủ phổ duyên. Tái sinh sửa đổi chân truyền, Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong. Hội Long Hoa tuyển phong Phật vị, Cõi Tây phương đuổi quỉ trừ ma. Giáng sinh Hộ Pháp Vi Đà, Chuyển cây ma xử đuổi tà trục tinh. Thu các Đạo hữu hình làm một, Trường thi Tiên Phật dược kiếp khiên. Tạo đời cải dữ ra hiền, Bảo sinh nắm giữ diệu huyền Chí Tôn. Trong quyển Đại Thừa Chân Giáo của phái Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi Cao Đài Đại Đạo, sưu tập những bài Thánh giáo của Đức Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát dạy về triết lý, phương pháp thiền định có nói về Hội Long Hoa, ngài tiên tri cho biết thời kỳ mạt pháp sẽ có “Ngôi Hai” giáng thế dạy Đạo: Gần tận thế Ngôi Hai ra mặt, Đặng toan phương dìu dắt chúng sinh, Chỉ đường cội phúc nguồn lành, Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêng năng. Theo triết lý của Đạo Cao Đài thì vũ trụ vạn vật cũng như trái đất nói riêng, sẽ tiến hóa theo một chu trình làm ba Nguyên, trong Thánh giáo Đức ngọc Hoàng Thượng Đế dạy như sau: "Các con khá biết: Đạo có ba Nguyên. Ba Nguyên ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất. Trước hết, mở đầu là Thượng nguyên. Đấy chính là Nguyên Tạo Hóa, là Nguyên đã gây dựng Càn Khôn Vũ Trụ. Vậy khi mới Tạo Thiên Lập Địa, nhân loại sinh ra thì tánh chất con ngườI rất đổi hồn hồn, ngạc ngạc, còn đang thuần phác thiện lương, nên chỉ cứ thuận tin Thiên lý mà hòa hiệp dưới trên, tương thân tương ái. Thời người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh nhàn khoái lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày. Bởi đó, thời Thượng Cổ mới có danh là đời Thượng Đức, mà Thượng nguyên ấy cũng kêu là Nguyên Thánh Đức nữa. Kế đó, bước qua Trung Nguyên thì nhân thân bất nhất, tập quán theo thói đời, thâm nhiễm nhiều nết xấu, mới làm cho mất điểm thiện lương, bèn cậy bởi sức mình mà hiếp bức lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu mất, nên mới sinh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại đồng chủng, phai lạt tình đồng nghĩa, đồng bào, bởi đó, đời Trung Cổ mới có danh là Thượng Lực, mà Trung nguyên ấy cũng kêu là Nguyên Tranh Đấu nữa. Tiếp đến Hạ nguyên, sự tranh đấu ngày càng ráo riết, dữ tợn, ghê gớm thì nhân loại lại chê sức mạnh mà dùng não cân, nên mới bày ra chước quỉ mưu tà, kế sâu bẫy độc, thật là khốc liệt phi thường. Song đó cũng lẽ tự nhiên, càng tranh đấu mới càng tiến hóa. Ngặt nỗi càng tranh đấu lại càng ác liệt lắm, nên tranh đấu phải đến ngay thời kỳ tiêu diệt. Bởi đó là hiện tại là đời Mạt Kiếp. Còn Hạ nguyên này là Nguyên Điêu Tàn. Nhưng hễ loạn là tới trị, vong tất hưng, nên Nguyên Tiêu Diệt tất sẽ bước đến Nguyên Bảo Tồn là Nguyên Đạo Đức phục hưng, để sắp lại như đời Thượng Cổ, thế nên cũng gọi là Nguyên Tái Tạo. Như vậy, Hội Long Hoa là một Hội lập ra trong thời kỳ tận diệt để chọn người hiền. Đây là cơ hội mấy muôn năm mới trở lại một lần. Người Việt nam hữu phước lắm mới được cơ bút tiết lộ để biết trước mà lo tu tập trong trường thi chót này. Ráng tu kịp Hội Long Hoa, Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời. DiLạc Vương Phật là vị Phật Tương lai, vào thời Tam Kỳ Phổ Độ sẽ xuống trần một lần nữa, làm chính chủ khảo của Đại Hội Long Hoa tuyển phong Thần, Thánh, Tiên, Phật, đồng thời thay mặt Đức Chí Tôn Thượng Đế mà làm vua cai trị Càn Khôn Thế giới và Vạn linh. Đại lễ đường và Đạo kỳ Tòa Thánh Cao Đài, Tây Ninh, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Khi Ngài làm nhiệm vụ cai quản Càn khôn Thế giới thì gọi Ngài là Đức DiLạc Vương Phật; nhưng khi Ngài làm nhiệm vụ cứu độ chúng sinh thì gọi Ngài là DiLạc Vương Bồ Tát. Trong quyển Con đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm Hộ Pháp giảng:“Trong Tam Kỳ Phổ Độ này, Đức Phật ADiĐà giao quyền lại cho Đức DiLạcVương Phật chưởng quản Cực Lạc Thế Giới, nênĐức DiLạc Vương Phật hiện nay ngự tại Kim Tự Tháp, dưới tàn cây dương tối cổ ở Kinh đô Cực Lạc Thế Giới; Đức Phật A Di Đà vào ngự trong Lôi Âm Tự và Đức Phật Thích Ca ngự tại Kim Sa Đại điện”.Kim Tự Tháp tại Kinh đô Cực Lạc Thế Giới có hình giống như Kim Tự Tháp Ai Cập, nhưng mình nó lại tròn, có nhiều từng, nhiều nấc, có rất nhiều chư Phật ngự trên đó, mỗi vị có Liên đài riêng. Trong Kinh Thiên Đạo của Đạo Cao Đài, Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho hai bài Kinh: Kinh Đại Tường và Di Lạc Chân Kinh, nhờ đó chúng ta biết được nhiệm vụ và quyền hành của Đức Di Lạc Vương Phật: “Đức Phật A Di Đà đã giao cho Đức Di Lạc quyền Chưởng quản Cực Lạc Thế giới, thay mặt Lôi Âm Tự hiệp cùng Bạch Ngọc Kinh lập Tân Pháp cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Di Lạc đang ngự nơi Hỗn Nguyên Thiên, thuộc từng Trời thứ mười một, nắm Pháp điều hành Càn Khôn thế giới. Đức Chí Tôn lập Đạo kỳ này để lập vị cho Đức Di Lạc cầm quyền Chưởng Giáo Đại Hội Long Hoa kỳ ba”. Trong những ngày Đại lễ Khai Đạo Cao Đài tại Thánh Thất tạm đặt tại Chùa Từ Lâm Tự Gò Kén, Tây Ninh, có trưng bày đôi câu đối do Đức Chí Tôn ban cho: Di Lạc thất bá thiên niên quảng khai Đại Đạo, Thích Ca nhị thập ngũ thế chung lập Thiền môn. Dịch nghĩa: Đức Phật Di Lạc 700.000 năm, rộng mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Thích Ca 25 thế kỷ, chấm dứt việc lập nền Phật giáo. [ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Việt Nam Tương tự như đạo Cao Đài, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương cũng là một đạo mới được thành lập tại Việt Nam. Qua quyển Sấm Giảng người đời, Sư Vãi Bán Khoai nói rằng: đời Hạ nguyên sắp mãn và thời gian rất gần sẽ khai diễn Hội Long Hoa. Ông Sư Vãi Bán Khoai cũng cho biết Hội Long Hoa được mở ra để chọn người hiền đức và lập đời Thượng nguyên vô cùng đẹp đẽ, một xã hội của người hiền, không còn kẻ ác, vì ở cuối đời Hạ nguyên đa số con người tội lỗi quá nhiều: Bởi Trần lỗi quá muôn phần, Cho nên lập Hội Long Hoa chọn người. Hiền từ thì đặng thảnh thơi, Nghênh ngang khó trốn lưới Trời bớ dân! Lưới hồng bủa khăp cõi trần, Chuyển luân Bát Quái còn trông nỗi gì? Hạ nguyên sau chót xét suy, Sự vong nào có khác chi sự tồn. “Hạ nguyên sau chót xét suy - Sự vong nào có khác chi sự tồn” câu thơ này Sư Vãi Bán Khoai nhấn mạnh đặc biệt sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết, do vậy mỗi con người cần phải tu luyện. Ý nghĩa “Hạ nguyên sau chót xét suy” cũng không khác về “Ngày phán xét” trong tôn giáo cổ Ai Cập. Trong đàn cơ ngày 5 tháng 10, năm Kỷ Mùi (1979) tại Thiên Lý Bửu Tòa, San Jose, USA, đức Lý Thái Bạch Ðại Tiên có luận như sau: Lão: Thái Bạch Kim Tinh kiêm Giáo Tông Đại Đạo. Nay Lão xin sơ lược mấy lời diễn tả qua các nội dung của công cuộc Long Hoa Ðại Hội: Thời nhiệm ấy khởi đầu khai mạc từ Nhất ngoạt, Thập Ngũ nhật, Kỷ Mùi niên (15-1-1979). Cuộc Ðại Hội sẽ còn tiếp diễn đến Thập ngoạt, Thập Ngũ nhật, Giáp Tý niên (15-10-1985), tức là lục niên thời nhiệm hội. Kể từ khi Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Thiên Khai tức là Cao Ðài Ðại Ðạo Nam Phương Việt Nam sơ khai đúng vào Giáp Tý hiệu niên, tây lịch nhằm 1924, đến bây giờ đã ngũ thập lục (56) niên. Ðức Chí Tôn có dạy rằng: Mối Cao Ðài Ðại Ðạo Tam Kỳ khai môn độ thế. Vì đến cận thời kỳ Tam nguyên mạt hậu, đại hội Long Hoa sẽ diễn hành nhằm vào cuối thế kỷ XX tức là chu kỳ của mười ngàn (10.000) năm thế hệ. Mục đích cuộc Ðại Hội Long Hoa, tức là một cuộc phán đoán đại đồng của Ðức Chúa Trời trong tất cả toàn cõi từ vô vi lẫn hữu hình không riêng biệt. Chung qui từ ba ngàn thế giới, thất thập nhị địa tức là 72 cõi hành tinh và 36 cõi trời gọi chung là Bộ Châu Tứ Ðại. Ðặc quyền ngự trị tối đại một Ðấng Tối Cao quản cai toàn thể tức là một Ðấng Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế. ... Nhiệm kỳ khai diễn Ðại Hội Long Hoa trong vòng lục niên. Thời gian ấy chia thành 3 giai đoạn: 1) Giai đoạn thứ nhất: Gồm có nhị niên. Thời gian ấy dành cho Tam Giáo Thượng Tòa sắp xếp các công cuộc đặc trách về qui nguyên, khai đường phổ độ truyền Ðạo khẩn thiết để vớt cứu sinh linh cho kịp kỳ thế diệt. Dụng máy huyền vi hạ điển Tiên Thiên mầu nhiệm tận Cõi giới trung mà sáng soi mọi đường chân lý... ... Vì nay là thời kỳ Ðại Ân Xá, nếu người thế tục đã hiểu rành mà bồi công lập đức thì chẳng có gì hơn. Long Hoa Ðại Hội vốn là một cơ hội thi đức, thi công, một thời kỳ phán xét chung mảy lông không hề lọt. Sau khi phán xét xong có thưởng phạt rồi thì các bộ sổ đều xóa bỏ để lập lại cái mới. 2) Thời nhiệm thứ hai: Là thời nhiệm phán xét đến toàn Cõi giới trung, các bộ sổ vô vi khắp 12 cõi trung thiên và thưởng phạt đến cõi thế giới hữu hình địa cầu thứ 67 này, tức là cõi thế giới hiện tại giữa nhân vật cõi trần xã hội của nhân loại ngày nay. 3) Thời nhiệm thứ ba: Sẽ phán đoán đến 12 cõi Hạ Thiên Vương, Thập Ðiện Minh Vương khâm trình bộ sổ tại Cõi địa ngục từ nhiệm thời mười ngàn (10.000) năm đến nay. Sau khi cuộc phán đoán đã hoàn tất thì 10 cửa ngục môn sẽ bắt đầu bế tắc. Các linh hồn phạm tội sẽ bị đời đời khó mong giải thoát! Thượng Cổ lập đời mười ngàn (10.000) năm tương lai sẽ định kỳ cho thế hệ khác. Bát ngát niềm thương chốn biển trần, Ðoái nhìn cảnh tượng dĩ đồng thân. Tam Giáo chung nhà kỳ dựng thế, Phép mầu chuyển đạt bởi Thiên Ân. Thái Cực Hà Ðồ qui vạn pháp, Bát Môn trận địa triệt yêu thần. Thiên tướng vạn quân đồng trí thủ, Trùng trùng điệp điệp sắc tường vân. Vì quả địa cầu duy vật 68 này đến đây đã hết thời nhiệm. Kể từ ngày thời gian vật nhân sinh hóa sáng tạo đặng sự sống cho đến bây giờ, cộng sổ thời gian thì đã 12 muôn 9 ngàn 6 trăm mấy chục niên lẻ rồi (129.600), nên nhiệm thời tuần hoàn đã mãn cuộc. Thầy cũng đã ấn định từ thuở tiền khai rằng quả địa cầu 68 đến kỳ mạt thế sẽ không còn nơi cư ngụ. Ngày nay các con đã hiểu Ðạo biết Thầy, thì Thầy nỡ nào tai ngơ mắt lấp. Nếu xét tội nhơn loài thì khó nỗi vị tha, nhưng vì lòng bác ái nên Thầy phải chịu nhọc nhằn mà tận độ. Nhưng đạo làm người gồm những gì? Đức Phật Thầy Tây An cũng đồng với Phật mà nhận rằng, đạo làm người có bốn cái ân lớn cần phải làm cho tròn: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng và ân đồng bào và nhân loại. Nếu bốn cái ân này mà làm không tròn thì khó mà tu luyện cho tròn Phật đạo. Nói thế không thể hiểu nên trọng phần Nhân đạo mà bỏ qua phần Phật đạo. Trong Đạo còn lưu truyền cho đến nay một bài thơ tiên tri của Đức Phật Thầy Tây An sáng tác, mà nhiều người được biết: Sửu Dần vốn thiệt hẳn hoi, Minh Vương khôi phục Hán Châu Phong thần, Hội mười tám nước tôn vương Đế Hoàng. Chọn người của Phật mến thương, Đặng giao mối nước cho Vương Minh Hoàng. Ngọc Hoàng phán rõ nguồn cơ, Minh Vương vốn thiệt là vua nhân từ. Bửu Ngọc Quân Minh Thiên Việt Nguyên. Sơn Trung Sư Mạng Địa Nam Tiền. Kỳ Niên Trạng Tái Tân Phục Quốc, Hương Xuất Trinh Sinh Tạo Nghiệp Yên. Bốn khổ thơ cuối thuộc loại "tung hoành dọc ngang", nghĩa là đọc bề dọc cũng có nghĩa mà đọc bề ngang cũng có nghĩa. Cứ theo chiều dọc đọc xuống, chúng ta sẽ có một bài thơ bảy câu bốn chữ: Bửu Sơn Kỳ Hương Ngọc Trung Niên Xuất Quân Sư Trạng Trình Minh Mạng Tái Sinh Thiên Địa Tân Tạo Việt Nam Phục Nghiệp, Nguyên Tiền Quốc Yên. Thánh nhân, Minh Quân hay Minh Vương có nghĩa là người lãnh đạo quốc gia rất sáng suốt. Sư Vãi Bán Khoai nói vị vua tương lai là Minh vương. Nội dung bài thơ nói về nước Việt Nam sẽ phục nghiệp của tổ tiên, đồng thời đây cũng là giai đoạn tân tạo của thiên địa nhân. Thánh nhân tức người có “Minh mạng” sẽ tái sinh. Phật giáo Hòa Hảo, Việt Nam Đức Huỳnh Giáo Chủ hay Đức Huỳnh Phú Sổ mở Đạo vào năm Kỷ Mão (1939). Trong vòng mấy mươi năm mà tôn giáo mới đã hấp dẫn một số tín đồ rất lớn ở các tỉnh miền Tây Việt Nam. Khi nói về “Ngày tận thế”, Đức Huỳnh Giáo Chủ mở đầu quyển Sấm Giảng khuyên Đời tu niệm của ngài như sau: Long Hoa Tiên Phật đáo ta bà, Lừa lọc con làng, diệt quỉ ma, Nếu mãi mê man mùi tục lụy, Linh hồn chìm đắm chôn Nê hà. Đức Huỳnh Giáo Chủ cũng tuyên giảng hoàn toàn giống như những lời tiên tri của các tôn giáo mới tại Việt Nam rằng: Hội Long Hoa sẽ xuất hiện tại Việt Nam. Dự ngôn của các nhà tiên tri Bách Tự Minh Trong lịch sử Trung Quốc có khá nhiều tiên tri như Thôi bối đồ, Mã Tiền Khóa, Mai Hoa Thi, Bộ Hư Đại Sư Thi Văn... nhưng Bách Tự Minh (Bài minh văn một trăm chữ) rất chi tiết và ngắn gọn chính vì vậy Bách Tự Minh sẽ được nhận định trước so với các tiên tri khác, dưới đây là nguyên văn và giải nghĩa. Hình 1 Hình 2 Toàn văn bài giải được đọc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image003.gif file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image005.jpg Phiên âm: Đại Đạo bản vô nhai tế, Thị nhân dũ hảo dũ kỳ, Khả tri kim đan cửu chuyển, Chuyên vi lập tức huyền cơ. Kỷ cá hợp đồng hội thượng, Nhất tự bán điểm bất di, Đa thiểu dẫn chứng bằng xứ, Xứ xứ hữu nhân thị duy. Hệ thời lộng nhập khấu toán, Củng lai Phật tử hoàn Tây, Tứ diện bát phương trước nhãn, Cấn ly khôn đoài truyền tế. Tề khẩu cấp cấp mạc cải, Văn nhân dã bả đao đề, Thị nãi hoàn bích quy Triệu, Tẩu trước dương liễu thuỳ đê. Thổ mộc kim thuỷ hợp hoả, Bát bát cửu cửu quy tề, Hữu kết hồng thệ đại nguyện, Nguyên nhân tiếu tiếu hỷ hỷ. Đại Đạo bản vô nhai tế, thị nhân dũ hảo dũ kỳ - Đạo lớn vốn không có biên giới lằn mé, thị hiện cho con người thì quá tốt quá kỳ diệu: Đây là hai câu tán thán Đạo vốn là rất lớn, không có biên giới, vô cùng vôn tận. Truyền cho con người thấy được, thế là quá kỳ diệu quá tốt, rất là khó có cơ duyên được vậy. Khả tri kim đan cửu chuyển, chuyên vi lập tức huyền cơ - Có thể biết được đan vàng xuay chuyển chín [lần], chuyên vì để cho cơ [chế] huyền [bí]: Hai câu này nói về đặc điểm Cửu Thừa Đại Chuyển trong phương pháp luyện tập khí công Mật Tông, Đạo giáo, cùng có nền tảng như phương pháp Yoga của Bà La Môn giáo... Kỷ cá hội đồng hợp thượng, nhất tự bán tổng bất di - Trải qua mấy lần hội, một chữ nửa điểm cũng không thay đổi: Ý nghĩa của Đạo và nền tảng lý thuyết của các phương pháp tu luyện cũng phải có nguồn gốc của nó. Đa thiểu dẫn chứng bằng cứ, xứ xứ hữu nhân thị duy - Có biết bao nhiêu dẫn chứng bằng cớ, ở đâu cũng có người thị hiện: Câu này giải nghĩa then cho câu trên, lịch sử được ghi dấu ở khắp nơi như ở trong kinh sách, bia đá, truyền miệng... và ở bất cứ đâu cũng có tác giả hoặc những người đã san định các kinh sách, dữ liệu này nếu chúng ta tìm hiểu kỹ lịch sử. Hệ thời lộng nhập khấu toán, củng lai Phật tử hoàn Tây - [Dự] toán thời gian, hai mươi năm Phật tử trở về Tây: Đây là nói về việc xác định nguồn căn cũng đều phải quay trở về nghiên cứu lại kinh sách của Phật giáo, để tìm hiểu Đạo và các lý thuyết, phương pháp tu luyện. Tứ diện bát phương trước nhãn, Cấn Ly Khôn Đoài chuyển tế - Đặt mắt xét cả bốn mặt tám phương, chuyển đến Cấn Ly Khôn Đoài: Việc nghiên cứu phải xem xét tới khắp bốn phương tám hướng của lịch sử thế giới, trong quan hệ với bốn cung “Cấn, Ly, Khôn, Đoài” của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, đây là nền tảng lý thuyết về quy luật vận động của vũ trụ, con người và xã hội. Tề khẩu cấp cấp mạc cải, văn nhân dã bả đao đề - Các cái miệng đều sốt sắng nhưng không thay đổi, văn nhân cũng rút đao ra: Sau khi xác định Đạo có nguồn cội từ đâu và Đạo là gì? Người sáng suốt nghe Đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe Đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe Đạo thì cười rộ lên. Nếu không cười thì Đạo đâu còn là Đạo nữa? (Đạo Đức Kinh). Hệ quả là gây nên một trận kịch chiến trên tuyền hình, truyền thanh, báo chí…, đến nỗi các văn sỹ cũng không tránh khỏi bút chiến. Thị nãi hoàn bích quy Triệu, tẩu trước dương liễu thùy đê - Rồi thì cũng trả ngọc bích về Triệu, đi đến bờ đê có hàng dương liễu rủ bóng: Cuối cùng tất cả cũng phải công nhận nguồn gốc của dữ liệu lịch sử và học thuyết Âm Dương Ngũ Hành là chuẩn mực, tình trạng này giống như câu thành ngữ “hoàn bích quy Triệu” nói về điển cố: Thời Xuân Thu Chiến Quốc nước Tề mạnh hơn nước Triệu, đã cưỡng đoạt bảo bối ngọc bích của Triệu nhưng về sau lại bị thua và trả lại. Điều này có nghĩa phải chấp nhận ai là chủ nhân đích thực của lịch sử và học thuyết cổ nói trên. Đồng thời, nói rõ đạo Phật chính là một đạo giúp con người thoát khổ và đạt được hạnh phúc viên mãn, dĩ nhiên tôn giáo cũng có nguồn cội của nó. “Đi đến bờ đê có hàng dương liễu rũ bóng” chính là ẩn dụ về hình tượng của Quan Âm Bồ Tát tay cầm nhành dương liễu và bình nước cam lộ độ cho những chúng sinh đang đau khổ, tình thương mới chính là tài sản quan trọng nhất. Quan Âm Ngư Lam Trích Mỹ thuật Trung Quốc, tác giả Patricia Bjaaland Welch file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image007.jpg Thổ mộc kim thuỷ hợp hỏa, bát bát cửu cửu quy tề - Thổ mộc kim thuỷ hợp hỏa, tám tám chín chín quy về một nơi: Đây là nói về phương pháp tu luyện khí công đạt đến trạng thái “Ngũ khí triều nguyên” của Đạo gia, tất cả đều quy về một mối hay hiểu là vũ trụ là một chỉnh thể duy nhất. Phương pháp tu luyện giúp mọi người đạt được trạng thái an lạc và tự mình mới giúp mình thoát khỏi luân hồi. Hữu kết hồng thệ đại nguyện, nguyên nhân tiếu tiếu hỷ hỷ - Đại thệ nguyện lớn đã kết, con người nguyên lai cười vui: Lịch sử cội nguồn và ý nghĩa của cuộc đời đã biết, lý thuyết, nội dung phương pháp tu luyện cũng đã có, tất cả mọi người đều cùng tư tưởng hòa chung với nhau trong một chân lý mới. Người truyền Pháp, người luyện Pháp, người đắc Pháp, cùng nhau thề nguyện đã xong, mọi người đều vui vẻ, cùng đại khai một “Kỷ nguyên mới” tức Kỷ nguyên Bảo Bình. Bài thơ này tương truyền là do một đạo sỹ tên là Huyền Diệu Đạo viết. Ông lấy một tấm giấy hồng ước khoảng 3 tấc, lấy bút viết theo lối chính Khải chữ nhỏ mà viết ra. Sau đó được chép trong một cuốn sách nhỏ tên là Dị Kinh Thể Chú. Cuốn sách này trải qua nhiều đời lưu lạc nhân gian, ngày nay tái xuất hiện. Tác giả của bài thơ này chỉ dùng 100 chữ mà đã khái quát được một quá trình biến đổi, mà lại dưới hình thức thi thơ như vậy, quả là xuất thần nhập hóa. Trong bài thơ có đề cập đến việc nhân loại sẽ tiến nhập vào chu kỳ mới, tương tự như các dự ngôn khác nhưng lại không đề cập đến vị Thánh nhân tương lai của nhân loại là ai, hay lúc nào sẽ xảy ra những hiện tượng tiên tri nêu trên. Tuy nhiên, tổng thể bài thơ chung kết vẫn đề cập đến giáo lý Phật giáo cùng các phương pháp tu luyện cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, triệt để trong việc tìm hiểu chân lý “ai cũng có Phật tính”. Thôi Bối Đồ Thôi Bối Đồ là cuốn sách sấm do quan Tư Thiên Giám Lý Thuần Phong và ẩn sĩ Viên Thiên Cang đồng biên soạn vào đầu những năm Trinh Quán của triều Đường (627-649), bao gồm 60 hình vẽ (đồ tượng), bản gốc phân thành quyển 1 (đến tượng 40) và quyển 2 (sau tượng 40). Mỗi bức hình ở dưới đều kèm theo “Sấm viết” và “Tụng viết” bằng thơ, dự ngôn tương lai, về các sự kiện trọng đại phát sinh. Trong dự ngôn này, chúng ta cũng chỉ nhận định một phần nội dung mà thôi (Tham khảo cuốn Thôi bối đồ, tác giả Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cương, Nxb Hồng Bàng, 2012). Tượng 1 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Sấm viết: Mang mang Thiên Địa, Bất tri sở chỉ. Nhật nguyệt tuần hoàn, Chu nhi phục thủy. Trời Đất mênh mang, Không biết chốn dừng. Nhật nguyệt tuần hoàn, Xoay đi chuyển lại. Tụng viết: Tự tòng Bàn Cổ ngật hi di, Hổ đấu long tranh sự chính kỳ. Ngộ đắc tuần hoàn chân đế tại, Thí vu Đường hậu luận nguyên cơ. Từ thuở Bàn Cổ đến mãi khi, Long tranh hổ đấu sự thật kỳ. Ngộ được tuần hoàn chân lý tại, Thử từ Đường hậu luận nguyên cơ. Nội dung biểu đạt vũ trụ quan của quy luật vận động Âm Dương Ngũ Hành như sự vận động của tự nhiên như mặt trời, mặt trăng, cũng như của xã hội kể từ thuở khai thiên lập địa qua hình tượng ông Bàn Cổ trong câu truyện truyền thuyết Ông Bàn Cổ, dĩ nhiên cũng không thể tách rời câu truyền thuyết liên quan khác Nữ Oa vá trời. Từ đấy “Ngộ được tuần hoàn chân lý tại”, đây là căn cứ lý thuyết trên mà tác giả dùng để dự đoán tương lai bắt đầu từ triều Đường. Tượng 2 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.gif Sấm viết: Lũy lũy thạc quả Mạc minh kỳ số, Nhất quả nhất nhân Tức tân tức cố. Ỉu xìu quả lớn, Không rõ mấy số. Mỗi quả một nhân, Tức mới tức cổ. Tụng viết: Vạn vật thổ trung sinh, Nhị cửu tiên thành thật. Nhất thống định Trung Nguyên, Âm thịnh Dương tiên kiệt. Vạn vật sinh trong đất, Hai chín trước thành thật. Thống nhất định Trung Nguyên, Âm thịnh Dương kiệt trước. Hình tượng đĩa táo thể hiện sự sinh sôi vạn vật kể cả trên trái đất, ngụ ý từ khởi thủy vũ trụ là Thái Cực ứng với quả táo trên cùng và từ cổ cho tới nay đều như vậy. “Mỗi quả một nhân” hay mỗi con người đều có “Nhân Tâm” của mình. Đặc biệt, quả táo số 4 không thấy cuống tức “ẩn của độ số 4 cung Tốn tại trong Hậu Thiên Bát quái” tức cung Tốn Khôn bị đảo ngược (quả số 4 là bên trái bởi trái, trước là dương phải là âm, sau cho nên quả thứ 5 sẽ ở bên phải). “Hai chín” mang ý nghĩa quy luật vận động của 9 loại tương tác trong Huyền không phi tinh trên Cửu cung - tương tác từ vũ trụ tới trái đất. Giai đoạn này đang trong tình trạng Âm thịnh Dương suy tức phương Bắc thịnh phương Nam suy. Tượng thứ 40 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Sấm viết: Nhất nhị tam tứ, Vô thổ hữu chủ. Tiểu tiểu Thiên Cang, Thùy củng nhi trị. Một hai ba bốn, Không đất có chủ. Sao trời nhỏ bé, Rũ tay cũng trị. Tụng viết: Nhất khẩu đông lai khí thái kiêu, Cước hạ vô lữ thủ vô mao. Nhược phùng Mộc Tử băng sương hoán, Sinh ngã giả hầu tử ngã điêu. Nhất khí phương Đông thật quá mạnh, Chân không dày dép đầu không tóc. Nếu gặp Mộc Tử băng sương hết, Sinh ra là khỉ chết là điêu. Sự vận động của xã hội theo dòng lịch sử, các triều đại kế tiếp thay thế nhau. Khí tốt từ phương Đông quay trở về tức Thánh nhân phương Đông trở về, rũ tay trị nước. Mộc Tử có nghĩa là người con của Mặt Trời mang biểu tượng “Chân không có móng đầu không mao”, đó chính là hình tượng con “Rồng” - biểu tượng của một vị vua tái xuất hiện, sẽ làm rõ được chân lý của vũ trụ, giải thích được luân hồi trong sự sinh tử. Trong hình là ba tiểu đồng tử đến từ phương hướng khác nhau, biểu hiện cho “Tam giáo đồng nguyên” hay “Long Hoa Tam hội” của dự ngôn trong nhân gian. Tại đây sẽ hội tụ ba giáo chủ vĩ đại của Tam giáo. “Sinh ra là khỉ chết là điêu” sống là con người với cái tâm luôn thay đổi “mã ý tâm viên” và khi chết thì linh hồn giống như con chim bay. Tượng thứ 41 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Sấm viết: Thiên địa hối manh, Thảo mộc phồn thực. Âm Dương phản bối, Thượng thổ hạ nhật. Trời đất tối tăm, Cỏ cây tươi tốt. Âm Dương đảo chiều, Trời dưới đất trên. Tụng viết: Mạo Nhi tu đới huyết vô đầu, Thủ lộng càn khôn hà nhật hưu, Cửu thập cửu niên thành đại thác, Xưng vương chích hợp tại Tần Châu. Mũ cần phải đội, huyết không đầu, Bỡn cợt Càn Khôn đến khi nào. Chín mươi chín năm thành lỗi lớn, Xưng vương chỉ hợp tại Tần Châu. Trong đồ hình là một người đàn ông đang đạp chân lên một trái cầu thể hiện Âm Dương đảo chiều (ngược trở lại so với tượng thứ nhất của Thôi bối đồ), có nghĩa là tương tác tới trái đất chuyển qua pha khác, dẫn đến trạng thái con người, gia đình, xã hội, quốc gia… cũng phải có thay đổi. Hình ảnh này cũng tương tự hình ảnh con Kỳ Lân đặt chân lên trái cầu, Kỳ Lân là chúa của muôn loài và khi nó xuất hiện là điềm báo “thiên hạ thái bình”. Kỳ Lân Cổ vật bằng đồng, bảo tàng lịch sử Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Cuộc sống của đời người chỉ trong vòng 99 năm mà thôi, trời đất đều có quy tắc của riêng mình “Thiên la Địa võng”, do vậy sống phải tuân theo Đạo tức trên đầu phải biết có Trời đang theo dõi ta. Tần Châu thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc nhưng hàm ý nói rằng bất kỳ ai xưng vương bá chỉ hợp ở mỗi nơi mà thôi, còn Thánh nhân là “vua của các vua” mới là người được tôn sung trên toàn thế giới, chúng ta sẽ xét nội dung này trong các đồ hình tiếp theo. Tượng thứ 42 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpg Sấm viết: Mỹ nhân tự Tây lai, Triều trung nhật tiệm an. Trường cung tại địa, Nguy nhi bất nguy. Mỹ nhân đến từ Tây, Trong triều dần dần an. Cung dài dưới đất, Nguy mà không nguy. Tụng viết: Tây phương nữ tử Tỳ Bà tiên, Kiểu kiểu y thường sắc cánh tiên, Thử thời hồn tích cư triều thị, Nháo loạn quân thần bách vạn bàn. Cô gái phương Tây Tỳ Bà Tiên, Trang phục trắng muốt sắc càng duyên. Lúc này khuấy đục nơi triều chính, Náo loạn vua tôi trăm vạn đường. Mỹ nhân này chính là Hằng Nga trên cung trăng, con thỏ ngọc là thú cưng và có nhiệm vụ giã thuốc tiên cho Hằng Nga. Thuốc tiên và nhạc Thiên thay thế cho chiến tranh - biểu tượng cây cung đã bỏ lại dưới đất hay có thể hiểu rằng sự xuất hiện của Hằng Nga làm cho “Thiên hạ thái bình”. Như vậy Hằng Nga là ai? trong tôn giáo cổ Ai Cập đó là cũng nữ thần vĩ đại Isis, vợ của thần chết Osiris được tiên tri sẽ phục sinh, và trong một “sự tấn phong vĩ đại” như tiên tri của dân tộc Maya. Mặt khác, trong lịch sử Phật giáo có tám vị Phật, trong đó có một vị Phật tên là Tỳ Bà Thi Phật, phải chăng là ngài?“Lúc này khuấy đục nơi triều chính” đấy là lý do lịch sử Trung Quốc được xem xét lại, mọi người bàn tán náo loạn về nhân vật này. Tượng thứ 43 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Sấm viết: Quân phi quân, Thần phi thần. Thủy gian nguy, Chung khắc định. Vua không vua, Quan không quan. Khởi gian nguy, Chung cũng định. Tụng viết: Hắc thỏ tẩu nhập thanh long huyệt, Dục tận bất tận bất khả thuyết. Duy hữu ngoại biên căn thụ thượng, Tam thập niên trung tử tôn kết. Thỏ đen chạy vào huyệt Thanh long, Ý nghĩa đến vô cùng khó nói hết. Chỉ có bên ngoài trên cội gốc, Trong ba mươi năm con cháu kết. Trong đồ hình là một già một trẻ đang làm động tác trông giống như luyện khí công, phản ánh một phương pháp tu luyện để đạt đến những mục tiêu an định thân tâm, mọi người đều bình đẳng, không phân biệt. Để giải thích cội nguồn của phương pháp thì rất phức tạp, khó mà giải thích hết được, chỉ cần áp dụng đúng cách và phải có một ý chí sắt đá mà thôi. Trong số các Thiên Can thì Nhâm, Quý chỉ Thủy, Thủy chủ màu đen, Mão chỉ thỏ. “Hắc thỏ” rõ ràng là chỉ năm Quý Mão. “Thỏ đen chạy vào huyệt Thanh Long”, ở đây Đông phương thuộc vào Thanh Long, lại làm chủ mùa xuân. Như vậy, tác giả nói về chu kỳ kết thúc của cung Song Ngư và điểm xuân phân đi vào cung Bảo Bình, thì sẽ xuất hiện Thánh nhân. Nếu theo tượng 42 trên, Thánh nhân cũng có thể là một người nữ. “Trong ba mươi năm con cháu kết”, con cháu của Thánh nhân sẽ có một tương lai tươi sáng. Tượng thứ 44 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpg Sấm viết: Nhật nguyệt lệ thiên, Quần âm nhiếp phục. Bách linh lai triều, Song vũ tứ túc. Nhật Nguyệt tươi đẹp, Quần Âm khuất phục. Sơn ca về triều, Đôi cánh sung túc. Tụng viết: Trung Quốc nhi kim hữu Thánh nhân, Tuy phi hào kiệt dã chu thành. Tứ Di trọng dịch xưng Thiên Tử, Phủ cực thái lai cửu quốc Xuân. Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân, Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn. Tứ Di nhìn lại xưng Thiên Tử, Khổ tận cam lai nước mãi xuân. Trời Đất hòa hợp, chân lý tối thượng của cuộc sống xuất hiện, bắt buộc con người với những mưu mô cũng sẽ phải thay đổi mà thôi, không còn con đường nào khác. “Sơn ca về triều” mang ý nghĩa như tượng 42 trên. “Trung Quốc ngày nay có Thánh nhân” Thánh nhân xuất hiện Trung Quốc? Tuy nhiên câu sau “Dẫu không hào kiệt cũng chu toàn” chứng tỏ còn có những Thánh nhân khác nữa nhưng các ngài hiện diện ở đâu? Bốn phương khắp nơi đến triều kiến và tôn suy. Đất nước của ngài đã chịu nhiều khổ đau, nhiều lúc đến tận cùng của sự hủy diệt trong suốt chiều dài lịch sử, và sẽ trở lại huy hoàng như ngày xưa, mùa xuân mãi ngự nơi đây. Tượng 57 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Sấm viết: Vật cực tất phản, Dĩ độc công độc. Tam xích đồng tử, Tứ di giai phục. Vật cực tất phản, Lấy độc trị độc. Đồng tử ba thước, Tứ Di đều phục. Tụng viết: Khảm Ly tương khắc kiến thiên nghê, Thiên sứ tư nhân nhị sát cơ. Bất tín kỳ tài sản Ngô Việt, Trùng dương tòng thử tức binh sư. Khảm Ly tương khắc thấy mối trời, Trời phái người này dẹp sát cơ. Không tin tài ấy từ Ngô Việt, Biển cả từ đó ngừng binh cơ. Quy luật vận động và phát triển xã hội hết thăng rồi lại giáng, khi đến cùng cực thì lại thái lai, chỉ khi nhận biết được sự tương khắc và hòa hợp của Âm Dương thì mới hiểu rõ được quy luật của Đất Trời. Thánh nhân sẽ hiện ra từ nước Ngô, Việt, chân lý cuộc đời sáng tỏ và lúc này những cuộc chiến tranh trên thế giới sẽ phải ngừng lại “Cứu khổ cứu nạn duy chỉ có Thánh nhân” bởi tất cả chỉ là hữu hạn trên thế gian, trong khi đó chúng ta lại mong cầu hạnh phúc vô hạn trên những thứ ngắn hạn?. Tượng 58 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg Sấm viết: Đại loạn bình, Tứ di phục. Xưng huynh đệ, Lục thất quốc. Đại loạn bình, Tứ di phục. Xưng huynh đệ, Sáu Bảy nước. Tụng viết: Phong yên tịnh tận hải vô ba, Thống Đế thống Vương hựu thống hòa. Do hữu sát tinh ẩn Tây Bắc, Vị năng biến xướng thái bình ca. Khói lửa tiêu tan biển không cồn, Thống Đế thống Vương lại thống Hòa. Do có sát tinh ẩn Tây Bắc, Chưa thể hát lớn thái bình ca. Sấm nói đã tương đối minh bạch, sau khi đại loạn được dẹp rồi, thiên hạ thái bình. “Xưng huynh đệ, Lục Thất quốc” nghĩa là phương Bắc và phương Nam đều là anh em, Sáu là độ số phương Bắc và bảy là độ số phương Nam trên Hậu thiên Bát quái. Mở rộng ra câu nói của dân gian “Giang hồ bốn biển đều là anh em” hay tất cả các dân tộc trên thế giới đều có chung nguồn gốc. Bởi vì cuộc chiến có lẽ liên quan đến lịch sử, tín ngưỡng, cho nên còn chưa thể thống nhất chung về “Chân lý” hoặc “vua của các vua”. “Do có Sát Tinh ẩn Tây Bắc, Chưa thể hát lớn thái bình ca” đây quả thực là sự việc vô cùng đáng tiếc, có lẽ cần thêm thời gian nhưng rất ngắn thôi. “Khói lửa sạch trơn biển không òa, Thống Đế thống Vương lại thống Hòa”, hiện nay trên thế gian có ai có được năng lực và trí tuệ lớn như vậy! Chỉ có duy nhất Thánh nhân, kỳ thực điều này sẽ được gợi ý rõ hơn ở Tượng sau. Tượng 59 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Sấm viết: Vô thành vô phủ, Vô nhĩ vô ngã. Thiên hạ nhất gia, Trị trăn đại hóa. Không thành không phủ, Không bạn không tôi. Thiên hạ một nhà, Đến thời đại trị. Tụng viết: Nhất nhân vĩ đại thế giới phúc, Thủ chấp thiêm đồng bạt khứ trúc. Hồng hoàng hắc bạch bất phân minh, Đông Nam Tây Bắc tận hòa mục. Một người vĩ đại thế giới phúc, Tay nắm ống trúc rút thẻ xăm. Đỏ vàng đen trắng không phân biệt, Đông Nam Tây Bắc được hòa đồng. Thiên hạ đều có cùng một nguồn cội, không còn phân biệt nữa, bởi cuộc đua tranh rồi cũng phải chấm dứt, bởi hoàn toàn là hữu hạn trong thân xác như các tượng trước đã nói, vậy thì quyền lực, địa vị hay cái gì là “của” chúng ta mãi mãi? Thánh nhân ra đời sẽ đưa chúng ta đi trên một con đường chân lý, đạt được sự an lạc viên mãn trong cuộc đời, nhân loại bước vào kỷ nguyên mới với Tân Thiên Địa. “Tay nắm ống trúc rút thẻ xăm”, câu này hàm ý sự việc đã được sắp đặt để tiên tri cho hàng ngàn năm sau, điều này cũng có nghĩa là sự vận động của vũ trụ là có quy luật, xã hội con người cũng vậy, cũng phải tiến tới “đại đồng” trong tương lai “Đỏ vàng đen trắng không phân minh, Đông Nam Tây Bắc đều hòa thuận”, là chỉ không phân nhân chủng, không phân khu vực, thiên hạ một nhà. Tượng thứ 60 file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Sấm viết: Nhất Âm nhất Dương, Vô chung vô thủy. Chung giả nhật chung, Thủy giả tự thủy. Một Âm một Dương, Không cuối không đầu. Người cuối ngày cuối, Người đầu từ đầu. Tụng viết: Mang mang thiên số thử trung cầu, Thế Đạo hưng suy bất tự do. Vạn vạn thiên thiên thuyết bất tận, Bất như thôi bối khứ quy hưu. Số trời mênh mang khó truy cầu, Thế Đạo thịnh suy chẳng tự do. Muôn vạn lời nói cũng không hết, Chi bằng đẩy lưng về nghỉ ngơi. Đây đã là Tượng cuối cùng của Thôi Bối Đồ, ngôn ngữ mộc mạc sáng tỏ, mà ngụ ý lại thâm sâu. Trời Đất là vĩnh hằng, chưa chắc đã do mỗi sinh mệnh tự mình lựa chọn, mà phải sống phù hợp theo những quy tắc của nhân luân, của đất trời. Các sự tình trên thế gian con người đều là số Trời, không phải tùy theo ý nguyện con người mà cải biến, thế Đạo hưng suy đều đã an bài, đều có nguyên do trong đó, thật sự khó mà nói rõ được. Trong đồ hình là một người đẩy lưng người kia, ấy là tác giả có ngụ ý sâu xa trong đó, mỗi người phải tự chính mình đi tìm hiểu sự thật của Đạo, không ai có thể giúp bạn giải thoát ngoài chính bạn, các vị thầy hay chân sư chỉ là những người hướng đạo và dìu dắt mà thôi. Mã Tiền Khóa Gia Cát Lượng (181-234), tự Khổng Minh, là quân sư của Lưu Bị thời Tam Quốc, sau khi Lưu Bị xưng Đế ông trở thành Thừa tướng nhà Thục Hán. Tương truyền Gia Cát Lượng trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, dụng binh như thần “ngồi trong trướng bày mưu tính kế, quyết thắng ngoài ngàn dặm”. Trên thực tế, Gia Cát Lượng chẳng những tinh thông binh pháp, biết dùng Dịch lý để giải thích và quan sát thiên tượng, tức là có khả năng quan sát những biến hóa của thời gian, không gian trong một phạm vi rộng. Ngoài ra, ông còn có khả năng xem tướng như ngay lần đầu tiên gặp Ngụy Diên, Gia Cát Lượng đã biết trước người này tất sẽ tạo phản, sau này Ngụy Diên quả nhiên phản bội sau khi ông bệnh chết, tuy nhiên ông đã sớm chuẩn bị cẩm nang, dặn dò Đại tướng Mã Đại đem Ngụy Diên đi chém. Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn không thành công, ông đã sớm biết nhà Thục Hán rốt cuộc không thể thống nhất đại nghiệp, biết không thể làm mà vẫn làm, biết trước sứ mệnh của mình không thể thay đổi được lịch sử. Dự ngôn Mã Tiền Khóa (Quẻ bói gieo trước ngựa) là do Thừa tướng Gia Cát Lượng nhà Thục Hán thời Tam Quốc sáng tác. Tương truyền Gia Cát Lượng vào lúc nhàn hạ trong quân ngũ đã sáng tác Mã Tiền Khóa, đây là bài tiên tri dự đoán những đại sự trong thiên hạ, tổng cộng có 14 khóa. Lời chú của Thủ Nguyên, lão tăng 86 tuổi ở núi Bạch Hạc:“Mã Tiền Khóa là tác phẩm Khổng Minh soạn ra lúc nhàn hạ ở trong quân, chỉ ra phương hướng cho hậu nhân. 14 khóa trong Mã Tiền Khóa có sách sắp xếp riêng, mỗi khóa chỉ một triều đại. Đạo trời tuần hoàn, người biết tự biết, người mê tự mê, kỳ diệu lắm thay.”. Thủ Nguyên giải đến Khóa 9, cuối cùng là một câu như thế này:“Lão tăng sinh vào những năm Gia Khánh, năm nay đã 86 tuổi, mấy câu sau này không dám nói bừa.”. Khóa 1 Trung Hạ Vô lực hồi thiên, Cúc cung tận tụy. Âm cư Dương phất, Bát thiên nữ quỷ. Không sức đổi Trời, Còng mình gắng sức. Âm ngừng Dương phất, Tám ngàn nữ quỷ. Quy luật trời đất là không thể chuyển đời được, sự kiện Gia Cát Lượng lập đàn Thất Tinh cầu sống thêm vài tuổi nhưng cũng không tránh khỏi số mệnh đã sắp đặt. Khóa 2 Trung Hạ Hỏa thượng hữu hỏa, Quang chúc Trung Thổ. Xưng danh bất chính, Giang Đông hữu hổ. Trên lửa có lửa, Rọi sáng Trung Thổ. Xưng danh bất chính, Giang Đông có Hổ. Ở đâu cũng có anh hùng, người này giỏi còn có người khác giỏi hơn “cao nhân tất hữu cao nhân trị”. Vùng Giang Đông có “Hổ” tức có nhân tài. Khóa 3 Hạ Hạ Nhiễu nhiễu Trung Nguyên, Sơn hà vô chủ. Nhị tam kỳ vị, Dương chung Mã thủy. Rối loạn Trung Nguyên, Non sông không chủ. Hai ba vị ấy, Dê chết Ngựa chạy. Lịch sử Trung Nguyên thay đổi liên tục, non sông không biết được nguồn gốc của mình. Dê cung Tốn, Ngựa cung Khôn đã bị đảo vị trí trên Hậu Thiên Bát quái. Nếu đảo ngược lại để trở về vị trí nguyên thủy, sẽ phát sinh sự kiện. Khóa 4 Trung Thượng Thập bát nam nhi, Khởi vu Thái Nguyên. Động tắc đắc giải, Nhật Nguyệt lệ thiên. Mười tám nam nhi, Khởi tại Thái Nguyên. Động ắt được giải, Nhật Nguyệt tươi đẹp. Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), giống như các bài sấm thì “Lý” ám chỉ vị Thánh nhân sẽ xuất hiện. Thái Nguyên cũng một địa chí của Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, 18 nam nhi cũng có lẽ được gơi ý là 18 vua Hùng Vương của nước Văn Lang, nằm bờ Nam sông Dương Tử. Khi mật mã được giải (động), thì là lúc Thánh nhân ra mặt, mặt trời mặt trăng tỏa ánh sáng rực rỡ. Khóa 11 Trung Hạ Tứ môn sạ tích, Đột như kỳ lai. Thần kê nhất thanh, Kỳ đạo đại suy. Bốn cửa mở toang, Thình lình đột ngột. Tiếng gà gáy sớm, Đạo này đại suy. Tốn Khôn đổi chỗ, thuyết Âm Dương Ngũ Hành như là “Pháp đại uy nỗ” - quy luật bao trùm, như một tiếng gà gáy sớm báo hiệu bình minh, lúc này sẽ có những quan điểm, triết lý lâu đời của các tôn giáo sẽ bị phá hủy do không còn phù hợp. Khóa 12 Thượng Trung Chửng hoạn cứu nan, Thị duy Thánh nhân. Dương phục nhi trị, Hối cực sinh minh. Cứu họa cứu nạn, Duy có Thánh nhân. Dương phục mà trị, Đêm hết ngày rạng. Thánh nhân xuất hiện cứu họa muôn phương, thời mạt pháp đã được chỉnh sửa như đêm tối trở rạng Đông. Chu kỳ chuyển từ cung Song Ngư sang cung Bảo Bình (Tý) tương ứng quẻ “Phục”. Khóa 13 Thượng Trung Hiền bất di dã, Thiên hạ nhất gia. Vô danh vô đức, Quang diệu Trung Hoa. Hiền không rơi mất, Thiên hạ một nhà. Không danh không đức, Chói lọi Trung Hoa. Như người ta thường nói, tiến về thịnh thế, chính là cảnh tượng tân thế kỷ. Sau khi trải qua bài học giáo huấn nghiêm khắc trong lịch sử này, đạo đức nhân loại khắp nơi thăng tiến, con người không còn mưu tính lẫn nhau nữa, mà yêu thương lẫn nhau. Câu tiếp “Vô danh vô đức” là nói con người đều hành thiện xuất phát từ nội tâm, yêu thương, tin tưởng lẫn nhau, không còn vì danh lợi ích kỷ nữa. “Quang diệu Trung Hoa” là nói Thánh nhân chói sáng cả Trung Hoa, thiên hạ cùng một nhà, hiền không rơi mất, vạn vật tân sinh, văn hóa vì thế mà hưng thịnh. Khóa 14 Trung Hạ Chiêm đắc thử khóa, Dịch số nãi chung. Tiền cổ hậu kim, Kỳ Đạo vô cùng. Bói được quẻ này, Dịch số đã hết. Trước cũ sau mới, Đạo ấy vô cùng. Khóa này nói rằng, xem bói bốc được quẻ này, dự ngôn đã đến chỗ kết thúc rồi. Đều cùng một ý, nói rằng hết thảy đều có định số, đều có an bài. “Trước cũ sau mới”, ấy là Đạo bất biến, là phép tắc vĩnh viễn không thay đổi của vũ trụ, vậy mới viết rằng “Trước cũ sau mới, Đạo ấy vô cùng”. Tam giáo đồng nguyên mới thấy rõ Đạo, và hội tụ vào Thiên Đạo từ thượng cổ do Ngọc Hoàng Thượng Đế lập ra, nay lại trở về. Tại Việt Nam, hơn 80 năm trước, Ngọc Hoàng Thượng Đế sáng lập ra một đạo mới có tên Cao Đài, dựa trên nền tảng các học thuyết Tam Giáo, với biểu tượng là con mắt trái - đây cũng là biểu tượng của thần mặt trời Ra trong tôn giáo cổ của Ai Cập. Dự ngôn của Bộ Hư đại sư triều Tùy Bộ Hư Đại sư dự ngôn thi là do một vị cư sĩ Phật gia sống vào những năm Quang Tự triều Thanh vô tình có được tại chùa Sơn Bích ở Tây Sơn, Bắc Kinh. Dự ngôn này kết thúc bằng một đoạn miêu tả thời thái bình thịnh thế. Thơ rằng: Tích nhân Tùy loạn thái Bồ Đề Ngộ nhập Thiên Đài thạch bảo tây Triêu ẩm lưu hà thả chỉ khát Dạ xan ngọc lộ lược sung cơ Diện bích cửu niên thùy Đại Đạo Chỉ đạn thập đại hoán tân nghi Dục ngã tích đồ đồ ngộ ngã Thiên cơ nan tiết tiết thiền cơ. Bởi rằng Tùy loạn chọn Bồ Đề Lỡ đến Thiên Đài thạch bảo tây Sớm uống mây bay thời giải khát Đêm ăn sương ngọc đỡ đói lòng Quay mặt chín năm theo Đạo lớn Chỉ đạn mười đời hoán tân nghi Ta trước lỡ lầm đường dục vọng Cơ Trời khó tỏ rõ cơ thiền. Trong thơ trước tiên thuật lại nhân duyên đắc Đạo của Bộ Hư Đại sư, ông là đại tướng triều Tùy, bởi thương cảm thiên hạ mê loạn, việc nước hoang phế, nên đã lên núi Thiên Đài tu Đạo, bước vào cửa Phật cầu thánh quả Bồ Đề. “Quay mặt chín năm theo Đạo lớn”, là chỉ quá trình tu Đạo khắc khổ ấy, noi theo Đạt Ma Tổ sư quay mặt vào vách chín năm, cuối cùng đắc Đạo, tác giả muốn chỉ rõ con đường Đạo, và rằng ông cũng từng mê lầm. Thiên cơ không thể tiết lộ, do vậy ông mới dùng thơ thiền để điểm lộ những huyền cơ ấy. Bồ Đề Đạt Ma Tranh tham khảo Internet file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Đoạn thứ mười một: Cái quan định Công tội phân Mang mang hải vũ kiến thừa bình Bách niên đại sự hồn như mộng Nam triều kim phấn thái bình xuân Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh. Đậy nắp hòm, Công tội phân. Mênh mang hải vũ gặp thái bình, Trăm năm đại sự hồn như mộng. Nam triều kim phấn thái bình xuân, Non sông vạn dặm xứ xứ thanh. “Đậy nắp hòm, công tội phân” ý nghĩa tương tự như trong Tử thư Ai Cập, mỗi con người phải trải qua Ngày phán xét. “Mang mang hải vũ kiến thừa bình”, là nói trong cuộc đại thẩm phán thế kỷ vô tiền khoáng hậu này, thế giới tiến nhập vào thời kỳ thái bình thịnh thế, Đạo xưa quay lại chỉ rõ con đường, khắp nơi ca khúc thanh bình, về điểm này nhiều dự ngôn khác cũng giảng hoàn toàn tương đồng. “Bách niên đại sự hồn như mộng”, trăm năm đời người có khác gì một giấc mộng đâu. “Nam triều kim phấn thái bình xuân, Vạn lý sơn hà xứ xứ thanh”, Nam triều làm trung tâm cho thời thái bình thịnh thế, non sông vạn dặm sau khi trải qua trường kiếp nạn này sẽ lại khôi phục cảnh tượng thanh bình. Nam triều ở đâu là một câu hỏi lớn? Đoạn thứ mười hai Thế vũ tam phân Hữu Thánh nhân xuất Huyền sắc kỳ quan Long trương kỳ phục Thiên Địa phục minh Xử trị vạn vật Tứ hải âu ca Ấm thụ kỳ phúc. Thế giới chia ba, Có Thánh nhân xuất. Đội mũ huyền sắc, Trang phục rồng bay. Thiên Địa phục minh, Sửa trị vạn vật. Bốn biển ngợi ca, Đắm trong hạnh phúc. “Thế giới chia ba” là chỉ Thiên Địa Nhân. “Có Thánh nhân xuất” là nói có Thánh nhân xuất hiện, giáo hóa chúng sinh. “Đội mũ huyền sắc - Trang phục rồng bay”, Thánh với biểu tượng phương Bắc, y phục màu vàng thêu hình Rồng, lời ấy nói rằng Thánh nhân là con Rồng Thiêng. “Thiên Địa phục minh - Sửa trị vạn vật - Bốn biển ngợi ca - Đắm trong hạnh phúc”, là nói đến lúc ấy Trời Đất chuyển từ âm u sang cảnh thanh minh, Thánh nhân làm mới lại vạn vật, sửa trị giáo hóa, làm cho bốn phương hạnh phúc. Mai Hoa Thi Để hiểu được Mai Hoa Thi, thì không thể không tìm hiểu về kỳ nhân Thiệu Ung. Thiệu Ung, tự Nghiêu Phu, hiệu Khang Tiết (1011-1077). Thuở thiếu thời, Thiệu Ung đã ôm ấp chí lớn, không có sách nào là chưa đọc. Sau đó, để tăng cường kiến thức, ông còn du học tứ phương, sau khi trở về, ông nói “Đạo là đây rồi” và sau đó không vân du nữa. Thiệu Ung lưu lại hậu thế một dự ngôn Mai Hoa Thi, tiên tri về những diễn biến lịch sử trọng đại sau khi ông mất. Toàn bộ bài thơ có thể được chia làm 10 tiết nhỏ: Tiết 1 Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, Kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai. Sơn hà tuy hảo phi hoàn bích, Bất tín Hoàng Kim thị họa thai. Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở, Hỏi mấy người đến mấy người trở về. Non sông tuy đẹp mà không toàn vẹn, Không tin Hoàng Kim là mầm tai họa. Cánh cổng thông lên bầu trời mênh mang từ vạn cổ nay đã khai mở lần đầu tiên. Biết bao người đã đến nhân gian, biết bao người có thể quay về? Tuy nhiên, hai câu này thực sự là chỉ điều gì? “Hoàng Kim” chính là “Đạo” - được các Thánh nhân truyền ra cho nhân loại, nhưng từ cổ chí kim mấy người đã hiểu Đạo và đắc Đạo? Dù là vua chúa ngự trên ngai vàng chỉ qua như là như bóng chớp trong đêm, tưởng non sông là “của Ta” nhưng đâu phải vậy, huống cho là người bình thường. Tần Thủy Hoàng là mộ ví dụ điển hình, lên ngôi Đế Vương nhưng cũng phải đi tìm tiên nhưng cuối cùng cũng phải chết trên đường trở về mà không thu hoạch được gì cả. Tiết 8 Như kỳ thế sự cục sơ tàn, Cộng tề hòa trung khước đại nạn. Báo tử do lưu bì nhất tập, Tối giai thu sắc tại Trường An. Như ván cờ mới rơi vào thế tàn, Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn. Con báo chết còn lưu lại bộ da, Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An. “Như ván cờ mới rơi vào thế tàn - Đồng lòng giúp nhau nhưng gặp đại nạn”, đại ý là cuộc đời mỗi con người, mỗi xã hội, mỗi quốc gia, thậm chí cục diện toàn thế giới cũng tựa như một ván cờ vậy: Bàn cờ là đất, quân là Trời, Tạo hóa Âm Dương thật tuyệt vời, Đến chỗ huyền vi thông biến ấy, Lạn Kha kinh ấy cũng trò chơi. Trích từ cuốn Tây Du Ký, tác giả Trần Nhân Tông. “Con báo chết còn lưu lại bộ da” người xưa để lại kinh sách giúp con con người thông tỏ Đạo, lưu truyền vạn đại, tên tuổi muôn năm giống như hình ảnh con báo chết rồi nhưng vẫn còn lưu lại bộ da. “Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An” Trường An là kinh đô thời nhà Đường, Trung Quốc mà Trường An cũng là kinh đô của vua Đinh Tiên Hoàng tại thành Hoa Lư, Ninh Bình, Việt Nam. Trong lịch sử, kinh đô Thăng Long cũng có tên Trường An. “Sắc thu đẹp nhất ở tại Trường An” mùa thu ứng với Tết Trùng Cửu hàm ý mãi mãi, trường tồn. Tiết 9 Hỏa long trập khởi Yên Môn thu, Nguyên bích ưng nạn Triệu thị thu. Nhất viện kỳ hoa xuân hữu chủ, Liên tiêu phong vũ bất tu sầu. Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn, Nguyên Bích chịu nạn, nhà Triệu thu về. Một vườn hoa đẹp diệu kỳ, mùa xuân có chủ, Mưa gió suốt đêm không phải lo sầu. “Rồng lửa khởi đau buồn từ Yên Môn”: Rồng đỏ hay có thể hiểu là con Rồng phương Nam, đã chụ quá nhiều đau khổ rồi sẽ tới hồi thái lai. “Trập khởi” cũng mang nghĩa con Rồng đỏ sau cơn ngủ Đông mà tỉnh dậy. “Nguyên bích chịu nạn, nhà Triệu thu về” nói về điển cố ngọc quý của nhà Triệu như đã viết ở trên, mùa xuân đã có chủ tức Thánh nhân xuất hiện như mùa xuân đến cho muôn loài, giúp cho thông hiểu Đạo thì còn sợ gì nữa? “Mưa gió suốt đêm không còn phải lo sầu”. Tiết 10 Số điểm mai hoa thiên địa xuân, Dục tướng Bác Phục vấn tiền nhân. Hoàn trung tự hữu thừa bình nhật, Tứ hải vi gia thục chủ tân. Số điểm hoa mai trời đất là xuân, Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa. Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình, Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách. “Số điểm hoa mai trời đất là xuân” câu này chính là dụng bút theo kiểu “vẽ rồng điểm mắt”, làm nổi bật nét chính, tên bài thơ chính lấy từ câu này, do vậy mới gọi là “Mai Hoa Thi”. Kinh qua mùa Đông giá rét, vạn vật trỗi dậy đón mùa xuân đến, đây chính là thời khắc Chính Pháp truyền khắp thế gian. Tới đây, hai câu đầu tiên “Dần từ vạn cổ cổng trời khai mở - Hỏi mấy người đến mấy người trở về” vậy là đã rõ. Trên thế giới, vô luận là tu luyện môn nào, Đạo từ phương Đông truyền ra (Dần biểu tượng phương Đông), rao giảng con người đến từ Thiên Thượng, bởi vậy mục đích tu luyện chính là phản bổn quy chân, trở về Thiên quốc. Lịch sử toàn nhân loại đã được an bài cho lần hồng truyền Đại Pháp này. Tuy nhiên, bao nhiêu người đã tới đây để chờ đợi Pháp, bao nhiêu người có thể đắc Pháp để viên mãn? Vở kịch lớn này vẫn còn đang diễn ra sôi nổi trên địa cầu, trong đó mỗi cá nhân chúng ta vừa là khán giả, vừa là diễn viên. “Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa” Bác, Phục là tên hai quẻ trong Kinh Dịch. Bác cực tất Phục cũng là chỉ “Vật cực tất phản”. Lịch sử tựa như chuyển luân, có nhân trước tất có quả sau. “Muốn biết Bác Phục hỏi nguyên nhân xưa” cũng là hỏi rằng sự tuần hoàn vãng phục của lịch sử này rốt cuộc là vì điều gì? “Trong hoàn vũ tự hưởng ngày thái bình” có ý là trong cõi hoàn vũ bát ngát bao la này tự nhiên thừa hưởng ngày thái bình là có nguyên nhân cội rễ của nó. “Bốn biển là nhà hỏi ai chủ khách” Thánh nhân bước ra truyền Pháp, bốn biển là nhà không phân biệt màu da, sắc tộc. Nửa câu sau “hỏi ai chủ khách” là muốn hỏi: Trong vũ đài lịch sử của nhân loại này, ai là vai chính, ai là vai phụ? Chẳng phải hết thảy đều theo kịch bản sớm được định trước mà diễn hay sao? Văn minh nhân loại lần này chính là vì sự hồng truyền của Đại Pháp vũ trụ mà được tạo ra, vì Đại Pháp mà khai sáng. Đây cũng chính là chủ đề của toàn bộ dự ngôn Mai Hoa Thi (tham khảo và trích dẫn từ trang website chanhkien.org). Hoàng Bá thiền sư thi Hoàng Bá thiền sư thi là bài thơ 14 đoạn do một vị cao tăng tên là Hoàng Bá sống vào thời nhà Đường sáng tác, tuy nhiên dự ngôn của ông lại bắt đầu từ triều Minh, chứ không phải từ triều Đường. Liệu dự ngôn nguyên gốc của ông có đúng như vậy hay không? Dù sao đi nữa, chúng ta hãy nhận định một phần lời tiên tri của ông. Nhất: Nhật nguyệt lạc thời giang hải bế, Thanh viên tương ngộ phán hưng vong. Bát ngưu vận hướng Điền Kiềm tận, Nhị cửu đan thành kim cốc ang. Nhật nguyệt thời suy sông biển bế, Vượn xanh gặp gỡ phán hưng vong. Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết, Hai chín thành đan trữ lúa vàng. “Nhật nguyệt thời suy sông biển bế” hàm ý chúng ta đang sống trong thời kỳ mạt pháp, chỉ khi “Vượn” tức cung Tốn trong Hậu Thiên Bát quái, được nhận biết sai lạc độ số với cung Khôn, thì mới phát sinh sự kiện, tuy nhiên cũng hàm ý phương Tây tức cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. “Tám trâu vận tới Điền Kiềm hết” tức chu kỳ vận động tương tác thay đổi, “tám” độ số cung Cấn, phương Đông hay hiểu rằng Đại Đạo xuất hiện – Thánh nhân xuất hiện. “Hai chín thành đan trữ lúa vàng” nói về quy luật tương tác từ vũ trụ tới như Huyền không phi tinh, bổ sung ý nghĩa câu trước. Mặt khác, đây cũng chỉ đến phương pháp tu luyện Đại thừa cửu chuyển của thiền và khí công của Phật giáo, Đạo giáo. Tứ: Càn quái chiêm lai cảnh vận Long, Nhất bàn lục giáp tổ tôn đồng. Ngoại nhướng sơ độ trù biên sách, Nội thiền vô tàm thái cổ phong. Quẻ Càn bói được cảnh vận Long, Giống như lục giáp ông cháu đồng. Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách, Trong Thiền không thẹn với cổ phong. Tác giả bói quẻ Càn tốt nhất trong các quẻ, thời kỳ hợp hội Thiên Địa Nhân “Giống như lục giáp ông cháu đồng” và phương pháp Thiền là phương pháp tu luyện tối cổ của Phật giáo, nghĩa này bổ sung cho đoạn thơ trên về Đại thừa cửu chuyển. Phương pháp ty luyện này xuất phát từ một học thuyết siêu việt, các lý thuyết của các tôn giáo khác không thể đầy đủ hơn được “Bài ngoại ngày sinh trù quyết sách”. Lục: Bạch xà đương đạo mạn đằng Quang, Tiêu cán cần lao nhất thế mang. Bất hạnh anh hùng lai hải thượng, Vọng dương tòng thử thán dương dương. Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng, Thức khuya dậy sớm cả đời mang. Anh hùng bất hạnh theo đường biển, Trông biển từ đây than mênh mang. “Rắn trắng cầm quyền khắp nơi sáng”, chỉ năm Tỵ, năm con rắn, Thánh nhân ra mặt nhưng không rõ chính xác khi nào, nếu căn cứ vào dự ngôn dân tộc Maya thì chính là năm kế tiếp 2012 tức 2013. “Anh hùng bất hạnh theo đường biển” dù là anh hùng đi nữa vẫn cảm thấy còn bất hạnh, bởi chưa “nếm” được Đạo, là cái bao trùm lên tất cả, có thể dưa mỗi người trở về nguồn cội viên mãn. “Trông biển từ đây than mênh mang” nếu ai đã từng nhìn biển hay ngước lên bầu trời, thật là kỳ vĩ - sự mênh mông, vô tận khiến chúng ta phải cảm thán, con người và những ước mơ thật là nhỏ bé, vậy có cách gì hiểu được toàn bộ vũ trụ vĩ đại này chăng? Hay cuộc đời rồi sẽ tới đâu? Bát: Đồng tâm tá Trị vận trung hưng, Nam Bắc phong yên nhất tảo bình. Nhất kỷ cương chu Dương nhất phục, Hàn băng không tự chiến cảng cảng. Đồng lòng giúp Trị vận phục hưng, Nam Bắc khói lửa sớm dẹp xong. Một vòng kỷ cương Dương nhất phục, Băng lạnh không từ rét căm căm. “Đồng lòng giúp Trị vận phục hưng” câu này bổ sung ý nghĩa khổ thơ trên, hiểu sự nhỏ bé và to lớn của ta rồi thì cùng nhau giúp rập Đại pháp của Thánh nhân. “Một vòng kỷ cương Dương nhất phục” chu kỳ “thuần dương” của địa cầu trở lại, tức thế giới chuyển qua cung Bảo Bình, một thời đại của hòa bình, thịnh vượng. “Băng lạnh không từ rét căm căm” hiểu rõ “Ngày phán xét” rồi, thì cùng nhau mà tôn vinh Đại pháp hồng truyền. Cửu: Quang mang thiểm thiểm kiến Tai Tinh, Thống tự bàng diên tín hữu bằng. Tần Tấn nhất gia nhưng đỉnh túc, Hoàng viên vận ngột lực nan thắng. Hào quang rực rỡ thấy Tai Tinh, Nghiệp Thống bên mời có chứng tin. Tần Tấn một nhà thành chân vạc, Vượn vàng vận cao sức khó thắng. “Hào quang rực rỡ thấy Tai Tinh” ánh sáng rực rở từ Thánh nhân phát ra như những vì sao trong đêm. “Nghiệp Thống bên mời có chứng tin” Thánh nhân là ai, Đạo từ đâu mà tới? đều có nguyên do và lịch sử của nó, chứng cứ và dữ liệu đều minh xác, và đầy đủ trình bày trước nhân loại. Mọi sự đã rõ, không nên đối kháng bởi thế sự đã được sắp đặt từ hàng ngàn năm trước. Thập tam: Xích thử thời đồng vận bất đồng, Trung Nguyên hảo cảnh bất vi công. Tây phương tái kiến Nam quân chí, Cương đáo kim xà vận dĩ chung. Chuột đỏ thì giống vận không đồng, Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công. Tây phương lại thấy Nam quân đến, Vừa đến rắn vàng vận đã xong. “Chuột đỏ” có lẽ chỉ phương Bắc cùng phương Nam chỉ là một, nhưng vận hội khác nhau, “Cảnh đẹp Trung Nguyên chẳng tính công” ở đây là chỉ điều gì? Phải chăng Trung nguyên được xây dựng từ những Thánh nhân thời thượng cổ nhưng có ai tính công bao giờ đâu? “Tây phương lại thấy Nam quân đến” hàm ý Đạo xuất phát từ quốc gia phía Nam của phương Đông, truyến về phương Tây. Cho tới thời điểm chuyển cung Song Ngư sang Bảo Bình thì mọi sự đã xong. Tỵ chính là năm 2013 sau năm chuyển thế như nhận định của dân tộc Maya. Thập tứ: Nhật nguyệt thôi thiên tự chuyển luân, Giai dư xuất thế cánh vô nhân. Lão tăng tòng thử hưu nhiêu thiệt, Hậu sự hoàn tu vấn hậu nhân. Nhật nguyệt chuyển dời tựa chuyển luân. Ôi sinh ta càng chẳng nguyên nhân, Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng Việc sau cần phải hỏi người sau. Xã hội tuần hoàn, Thiên số mênh mang, chân lý vũ trụ là điều con người khó có thể nhận biết được. Tất cả các dự ngôn trong lịch sử, khi đến một thời kỳ nhất định liền kết thúc. Vì một tương lai vĩnh viễn thì cũng phải tự xem xét lại chính bản thân của mỗi cá nhân. “Lão tăng từ giờ thôi lắm miệng - Việc sau cần phải hỏi người sau”, bởi vì vũ trụ đang canh tân đổi mới tương lai là khác với hiện tại, do đó sự việc sau này cần phải hỏi người đời sau mới biết được. Con người hiện tại không cách nào biết được, chẳng hạn ngày nay chế tác được con tàu vũ trụ mà trước đây không thể có được…, dự ngôn cũng chỉ có thể tới đây là dừng. Dự ngôn Tháp Kim Lăng Tháp Kim Lăng được xây dựng tại vùng ngoại ô thành phố Nam Kinh vào khoảng năm 1400 bởi vị quân sư và học giả nổi tiếng Lưu Cơ tức Lưu Bá Ôn. Ngọn tháp đã bị phá đổ vào đầu thế kỷ XX và những chữ khắc trên bia đá đã được tìm thấy. Chữ trong dấu ngoặc vuông […] là phiên âm Hán Việt của phần văn tự gốc, chữ viết thường là phần giải nghĩa của tác giả bài viết, chữ trong dấu ngoặc đơn (…) là chú thích tiếng Việt, chỉ có tác dụng tham khảo. Vạn vật đồng tao kiếp, trùng nghĩ diệc tao ương - Vạn vật đều gặp tai kiếp, kiến trùng cũng gặp tai ương Vạn vật gặp các tai kiếp như ôn dịch, lũ lụt, lửa và nhiều tai ương khác, đó sẽ là một cảnh tượng vô cùng đau khổ trong lịch sử nhân loại. Hạnh đắc đại mộc lưỡng điều chi đại hạ. Điểu phi dương tẩu phản gia bang - May mắn thay có hai cột trụ gỗ chống đỡ cho lâu đài. Con dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà. Nội dung trình bày có hai vị Thánh nhân làm trụ cột trong lịch sử, giúp cho nhân loại tránh một phần tai ương, chúng ta không rõ hai vị này là ai. “Con dê rời đi và chim bay trở lại quê nhà” hàm ý tới lúc âm suy dương thịnh, nhị vị Thánh nhân sẽ được nhận biết. Năng phùng Mộc Thỏ phương vi thọ, trạch cập quần sanh nhạc thả khang - Gặp người Mộc Thỏ có thể giúp người có đời sống đời đời; chúng sinh có may mắn được phúc lành và mạnh khỏe. “Mộc” trong các sự ngôn phương Đông hay gặp, thể hiện biểu tượng cho mặt trời, là thần mặt trời Ra trong tôn giáo cổ Ai Cập, Đại Nhật Phật trong Mật giáo, thần Vishnu trong Bà La Môn giáo. Hữu nhân thức đắc kỳ trung ý, phú quý vinh hoa bách thế xương - Những ai có thể hiểu biết được và tán thành Đại Pháp, sẽ có vinh hoa và phú quý trong nhiều đời Ai hiểu được Đại pháp hay Trung Đạo, sẽ có vinh hoa và phú quý trong nhiều đời. Tầng lâu lũy các tủng vân tiêu, xa thủy mã long cánh tịch hiêu - Lớp lớp nhà, giao thông nhộn nhịp và hoạt động bận rộn đột nhiên biến mất. Nói lên những sự kiện xảy ra bất ngờ, làm ngựng trệ các hoạt động. Chẳng lẽ Đại pháp làm thế giới kinh hoàng? Thiển thủy lý ngư chung hữu nan, bách tái phồn hoa nhất mộng tiêu - Như cá trong ao nước cạn, sự phồn hoa biến đi như giấc mộng. Tất cả chỉ như một ván cờ? có khác gì cá trong ao mà tưởng là biển lớn? Sự phồn hòa chỉ là hữu hạn, cuộc đời có khác gì mộng ảo huống gì phú quý. Một khi “Ngày phán xét” cuối cùng ập tới, tất cả hoang ngôn và giả tượng sẽ bị quét sạch. Càn Khôn Vạn Niên Ca Bài thơ tiên tri thế giới 10.000 năm Càn Khôn Vạn Niên Ca cho rằng được viết bởi Khương Tử Nha (Lã Vọng) người từng là đại tướng quân thống lĩnh quân đội nhà Chu đời vua Chu Văn Vương và vua Chu Vũ Vương trong suốt thời kỳ đầu (khoảng năm 1111 tr.CN). Ông cũng là nhân vật đứng đầu như là người được yêu cầu bởi Nguyên Thủy Thiên Tôn, để phong tước cho các vị Thần trong tác phẩm tiểu thuyết kinh điển Phong Thần, tác giả là Bồ Tát Nguyễn Minh Không. Chúng tôi cũng chỉ nhận định một phần trong bài thơ tiên tri này. Thái Cực vị phán hôn dĩ quá Phong Hậu, Nữ Oa thạch thượng tọa Tam Hoàng, Ngũ Đế kỷ phái tương. Khác với Thôi bối đồ bắt đầu bài thơ với Âm Dương, còn Càn Khôn vạn niên ca mở đầu bài thơ nói về Thái cực là khởi nguyên vũ trụ và lịch sử theo truyền thuyết của Trung Quốc là thời đại của Tam Hoàng Ngũ Đế, cho đến nay các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn chưa thống nhất về thời kỳ này. Bà Nữ Oa được xem là tổ đầu tiên của nhân loại, trong truyền thuyết dân gian Bà Nữ Oa và vua Phục Hy là thủy tổ của dân tộc Trung Quốc. Phục Hy Nữ Oa Tranh khắc trên đá cổ, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Trong bức tranh đá, Phục Hy tay cầm thước tròn và Nữ Oa tay cầm thước vuông quay mặt ra ngoài hàm ý âm dương tương tác, vũ trụ vận động, còn ở giữa có hai người tương tự nhỏ hơn quay mặt vào trong, mang ý nghĩa âm dương hợp nhất. Hình sóng nước hai bên biểu tượng của chòm sao Bắc Cực Thất tinh (Tiểu Hùng tinh) và Nam Đẩu lục tinh, định vĩ trục thiên cầu trên bầu trời. Nhị bách niên lai vi chánh chủ - Nhất độ điên nguy hầu thượng thủy Trong vòng 200 năm cuối của chu kỳ chuyển đổi, vị Chủ thật sự của Càn Khôn sẽ xuất hiện, Ông xuất hiện trước công chúng để truyền Pháp, cứu độ thế nhân trong thời khắc nguy khốn của nhân loại. Biệt chi khai hoa quả nhi hồng - Phục thủ giang sơn như cựu hứa. Nhánh “riêng biệt” cho hoa nở rộ sinh trái “Hồng”, và theo như sự an bài từ trước. Chữ “Hồng” trong “Hồng âm”, ứng với chữ “Hoàng” nghĩa là vua, và ứng với màu vàng kim. Chúng ta hiểu rằng vị Thánh nhân hay “Thánh Vương” sẽ khôi phục giang sơn như đã hứa từ trước. Nhị bách niên lai suy khí vận - Nhâm quân bảo trọng thành hà tể. Trong vòng 200 năm cuối cũnd là thời đại khí vận suy, mặc cho những người đứng đầu quốc gia ra sức bảo vệ. Thủy biên điền thượng mễ lang lai - Trực nhập Trường An gia chỉnh đốn. Dòng chảy của chính Pháp trở về kinh đô Trường An nhằm chỉnh đốn lại hoàn toàn. Kinh đô Trường An cũng được giải thích ở các tiên tri trước. Mộc biên nhất Thỏ tẩu tương lai - Tự tại vi quân bất động thủ. Nội dung tương tự như các lời tiên tri khác, Thánh nhân họ “Lý” sẽ là lãnh đạo tinh thần, không tham gia mà ung dung tự tại hướng dẫn. Hựu vi miên mộc định san hà - Tứ hải vô ba nhị bách cửu Thánh nhân định định vị lại sơn hà, thế giới thanh bình không có phong ba bão tố. Hành nhân hành nghĩa lập càn khôn - Tử tử tôn tôn tam thập thế. Dựng xây lại xã hội thuận theo các tiêu chuẩn đạo đức cao, con cháu 30 đời được sống vui khỏe và bình an. Ngã kim chỉ toán vạn niên chung - Bác Phục tuần hoàn lý vô cùng. Cho đến nay khi 10.000 năm tiên tri đã được giải thích, thật là bái phục nguyên lý tuần hoàn vô cùng kỳ diệu Tri âm quân tử tường thử sổ - Kim cổ tồn vong nhất quán thông. Nếu người tri âm quân tử hiểu mệnh trời thì có thể dễ dàng thông tỏ những biến cố thăng trầm của lịch sử xưa và nay. Khương Tử Nha Tranh khắc gỗ đời Minh, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Nội dung của bài thơ ghi nhận thuyết Âm Dương Ngũ Hành, và sự xuất hiện của Thánh nhân tương tự các lời tiên tri khác. Đồng thời, cũng nói về sự sáng tỏ của lịch sử thời thượng cổ Tam Hoàng Ngũ Đế. Nhà tiên tri Nostradamus, Pháp (Châu Âu) Cuốn sách Các Thế Kỷ (Les-Centuries) của Nostradamus, nhà tiên tri người Pháp sống từ hơn 400 năm trước, đã đoán trước được nhiều sự kiện xảy ra sau này như một số cuốn sách đã nhận định, khó khăn duy nhất để hiểu được các lời tiên tri của Nostradamus nằm ở tính đại diện của thông điệp, bao gồm những mật mã mang tính tượng trưng, khó hiểu và tối nghĩa, người ta thường chỉ có thể xác nhận hàm nghĩa của những lời tiên tri sau khi các sự kiện quan trọng đã xảy ra. Các Thế Kỷ được viết theo thể thơ tứ tuyệt, tổng cộng 10 cuốn, mỗi cuốn gồm 100 bài thơ, duy chỉ có cuốn số 7 là chỉ có 42 bài, tổng cộng có 942 bài thơ tiên tri, tuy nhiên nội dung dự ngôn lại không theo trình tự thời gian, là do Các Thế Kỷ có một số bộ phận bị làm xáo trộn. Quá trình này Nostradamus đã lưu lại cho con trai ông trong bức thư làm lời mở đầu cuốn sách tiên tri Các Thế Kỷ, đã chứng tỏ lời tiên tri của Nostradamus là xuất phát từ Thần khải, trong đó có đoạn viết: “Về những lời tiên tri huyền bí, đó là qua tiếp xúc với những linh thể ma quái của lửa, hoặc là lý giải qua sự quan sát các vì sao xa xôi, hoặc lời biểu thị công khai nào đó; sau đó người ta sẽ thấy giật mình khi viết ra mà không sợ bị nguyền rủa bởi những lời tiên tri tùy tiện này. Lý do là vì tất cả điều này bắt nguồn từ sự ban tặng sức mạnh thần thánh đến từ Thượng Đế Toàn Năng.” Đối với tình huống này, Nostradamus cũng đã kể lại cho con trai ông trong bức thư mở đầu, trong đó có đoạn: “Sở dĩ những người trong tương lai có thể được người hiện tại nhìn thấy, là vì Thượng Đế Toàn Năng thông qua hình tượng hé lộ cho chúng ta, cùng với các bí mật khác nhau của tương lai được trao cho thuật chiêm tinh chính thống, cũng như trong quá khứ, để sức mạnh và lời tiên đoán đi xuyên qua họ, và ngọn lửa thần truyền cảm hứng để họ công bố chúng cho cả người và Thần.” Chúng tôi chỉ nhận định sơ bộ qua một số khổ thơ, bởi số lượng lời tiên tri rất nhiều bao gồm của cả các nhà tiên tri khác trên thế giới. Nền tảng để phân tích và nhận định dựa trên tiên tri của dân tộc Maya và so sánh, đối chiếu với các lời tiên tri khác, dĩ nhiên, không ngoài việc đã nhận biết một số sự kiện sắp xảy ra. Tại (3) Các Thế Kỷ II, Khổ 29: Người phương Đông sẽ rời chỗ của ngài, Vượt qua dãy núi Apennine để trông thấy nước Pháp. Ngài sẽ bay vượt qua bầu trời, nước và tuyết, Đánh thức mọi người bằng cây gậy thần của ngài. Khổ thơ tiên tri về một Thánh nhân sẽ xuất hiện tại phương Đông rồi đi sang phương Tây, có năng lực như thần Hermes “Đánh thức mọi người bằng cây gậy thần của ngài”, tương đồng với tiên tri về Chúa Cứu Thế (Messiah) mà Do Thái giáo nói tới và tiên tri Phật Di Lạc ra đời của Phật giáo. Các Thế Kỷ IV, Khổ 30 Hơn 11 lần Mặt trăng Mặt trời sẽ không muốn, Tất cả thăng lên và hạ xuống bởi cấp bậc. Và đặt thật thấp để người sẽ khâu sợi chỉ nhỏ vàng, Như vậy sau nạn đói dịch bệnh, bí mật được tiết lộ. “Người sẽ khâu sợi chỉ nhỏ vàng” đây là kết quả tu luyện đạt được của một hành giả, linh hồn có thể thoát ra khỏi thân xác nhờ điều động của ý thức nhưng nó luôn được nối bằng một sợi chỉ vàng tới đỉnh đầu thân xác của hành giả. Như vậy, tiên nói về sự tồn tại của linh hồn và việc chứng minh nó cho tới nay, vẫn chưa có kết quả - phải chăng đây cũng là một bí mật được tiết lộ? Các Thế Kỷ IV, Khổ 31 Trăng tròn trong đêm treo trên đỉnh núi cao, Tân Thánh nhân với đầu óc quạnh hiu nhìn nó. Bởi các đệ tử của ngài mời trở thành bất diệt, Mắt nhìn phương Nam, tay đặt trước ngực, thân thể trong lửa. Vị Thánh nhân hiện ra tại một quốc gia phương Nam của phương Đông, ngài sẽ xuất hiện chứng minh chân lý vũ trụ và sẽ trở nên bất diệt. Phải chăng đó là Thần mặt trăng? Mà mặt trăng cũng là biểu tượng của thần chết Osiris như tiên tri Ai Cập. Các Thế Kỷ I, Khổ 48: Khi hai mươi năm sự thống trị của Mặt Trăng qua đi, Một vật thể khác sẽ tiếp nhận sự thống trị trong bảy ngàn năm. Khi Mặt Trời đã mệt mỏi rã rời tiếp tục chu kỳ vận chuyển, Là lúc lời tiên tri và đe dọa này đi đến hồi kết. Đoạn thơ nói rằng đến lúc ấy hết thảy tiên tri trong Các Thế Kỷ và lời cảnh tỉnh đối với nhân loại sẽ kết thúc đúng lúc. Dĩ nhiên, đoạn thơ không thể xác định được mốc thời gian. Trong các bức tranh được cho là do ông sáng tác, bức tranh số 69 hàm ý kết thúc chu kỳ cung Song Ngư và những bí mật sẽ được đọc lên bởi một người phụ nữ đội vương miện. Hình vẽ số 69 Tranh của Naustradamus file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Ông cũng viết Thiên niên kỷ vĩ đại vào thời khắc quan trọng qua khổ thơ sau: Các Thế Kỷ X, Khổ 74: Sự tuần hoàn của con số bảy vĩ đại, Nó sẽ xuất hiện trong năm đại đào thải. Cách không xa thiên niên kỷ vĩ đại, Khi những ai có thể đi vào sẽ rời ngôi mộ. Những người chết chôn trong các ngôi mộ sẽ sống dậy, điều này có nghĩa linh hồn là vĩnh cửu như đã nói, và những người đang sống có khả năng, sẽ giao tiếp được với họ. Con số 7 vĩ đại là gì? Chúng ta hãy xem tiếp. Các Thế Kỷ I, Khổ 69 Ngọn núi vĩ đại, hình tròn, bảy cái đài, Sau hòa bình, chiến tranh, nạn đói, và lũ lụt. Nó sẽ lan xa, nhấn chìm những quốc gia vĩ đại, Ngay cả các di chỉ và nền móng đồ sộ của chúng. “Bảy cái đài” và “Ngọn núi vĩ đại, hình tròn” ở đây chính có lẽ nói về dãy núi hùng vĩ Himalaya, nơi thánh địa tôn sùng của Đạo giáo, Mật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo... Lịch sử Phật giáo có ghi nhận về thời quá khứ có sáu vị Phật nguyên thủy hạ thế độ nhân, cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni là 7 vị Phật. Ngoài ra trong sách Khải Huyền - Thánh Kinh cũng giảng về bảy phong ấn của Thần... Con số 7 cũng tương ứng với 7 luân xa quan trọng nằm dọc trục xương sống, là các trung tâm phân phối năng lượng mà các hành giả của các tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Bà La Môn giáo, Đạo giáo, Kỳ na giáo… tu luyện Yoga và Thiền nhằm chứng đắc giác ngộ. “Nó sẽ lan xa, nhấn chìm những quốc gia vĩ đại” phải chăng nói đến một học thuyết sẽ làm sáng tỏ chân lý của vũ trụ? Nó sẽ làm sụp đổ các hệ thống lý thuyết cũ xưa của các quốc gia? Tiếp tục xem xét: Các Thế Kỷ X, Khổ 75 Được đợi từ lâu, ngài sẽ không bao giờ trở lại, Ở Châu Âu, ngài sẽ xuất hiện ở Châu Á. Người của liên minh với thần Hermes vĩ đại, Ngài sẽ vượt qua tất cả các vị vua của phương Đông. Thánh nhân phương Đông như “được đợi từ lâu” sẽ đến nhân gian vào thời mạt thế để cứu độ chúng sinh sẽ xuất hiện ở Châu Á, ngài cũng đã cư ngụ từng “ở Châu Âu. Thần Hermes (biểu tượng sao Kim trong thiên văn hiện đại), theo thần thoại Hy Lạp, là một trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus; Ngài vừa là vị thiên sứ truyền ý chỉ của Thần đến nhân gian, lại cũng chưởng quản ngôn ngữ, văn tự, khẩu thuật… Do đó câu thơ này nói vị Thánh nhân sẽ là người giảng Đạo cho nhân loại. Ngài sẽ là “vua của các vị vua” chân chính. Các Thế Kỷ VIII, Khổ 27 Đi đường phụ, hết mái vòm này đến mái vòm khác, Hoang phế rất nhiều, ngoại trừ người dũng cảm và chú mèo. Những chữ viết của hoàng đế Phượng Hoàng, Ngài nhìn thấy rằng chính không phải ai khác. Điều khiến người ta khó hiểu nhất chính là hai câu sau bài thơ: “Những chữ viết của hoàng đế Phượng Hoàng - Ngài nhìn thấy rằng chính không phải ai khác”, Phượng Hoàng là một loài chim linh thiêng đối với hầu hết các dân tộc trên thế giới, có khả năng tái sinh và bất từ từ đống tro tàn của mình.Phượng hoàng là biểu tượng của đế vương phương Đông của thời cổ đại, biểu tượng của phương Nam trên trái đất và là một trong Tứ Linh Long, Ly, Quy, Phượng - biểu tượng các chòm sao tên bầu trời. Phượng hoàng là loài chim không có thật, nhưng đều tồn tại dưới dạng tranh vẽ tại các quốc gia. Các Thế Kỷ V, Khổ 79 Sự huy hoàng thần thánh sẽ hạ thấp các lối đi, Thông qua sự đi tới của nhà lập pháp vĩ đại: Ngài sẽ nâng đỡ người khiêm tốn, làm phật ý những kẻ nổi loạn, Sẽ không có đối thủ trên Trái đất này. Vị Thánh nhân là người bất khả chiến bại, không có đối thủ trên trái đất và ngài sẽ lập ra chính pháp cho nhân gian, giúp đỡ những người khiêm tốn và là phật ý những kẻ nổi loạn. Các Thế Kỷ VII, Khổ 14 Ngài sẽ tới để phơi bày những hình tượng giả dối, Những cái vạc (nước) cổ xưa bất hủ sẽ được mở ra Môn phái và triết lý thần thánh sẽ phát triển mạnh, Đen thay cho trắng và mới thay cho cũ. Chính pháp và triết lý mà ngài mang tới để phơi bày những hình tượng giả dối, những học thuyết sai lệch đang được rao giảng, những cái “vạc” - pháp khí trong các tôn giáo cổ Đông Phương, được bố trí những nơi thờ tự, có vẻ nó mang những bí mật cần được giả mã. Trong cuốn Kinh Dịch, san định bởi Khổng Tử, “vạc” trong hình tượng quẻ Thủy Hỏa ký tế nói về một vận hội mới tốt đẹp. Các Thế Kỷ III, Khổ 67 Một môn phái mới của những nhà triết học, Xem thường cái chết, vàng, danh dự và của cải. Sẽ không chỉ giới hạn trên những ngọn núi của nước Đức, Để theo họ, họ sẽ có quyền năng và những đám đông. Minh triết mới sẽ chứng minh vàng bạc, quyền năng chỉ là hữu hạn, còn có những minh triết siêu đẳng không thể so sánh, giúp cho mỗi con người vươn tới những tầm cao trí tuệ và hạnh phúc viên mãn. Các Thế Kỷ VII, Khổ 17 Vị Hoàng Tử với lòng trắc ẩn và nhân từ hiếm có, Sau hòa bình, những thùng nước vĩ đại của ngài. Sẽ cải biến qua đại thẩm phán với người chết, Bằng tái tạo vĩ đại, thống trị tinh xảo. Khổ thơ này có vẻ nói khi bước vào thời đại Bảo Bình qua hình tượng một người nữ đang đổ bình nước từ trên trời xuống, Thánh nhân với chính pháp của ngài sẽ giúp nhiều chúng sinh được cứu độ. Tái tạo lại quy tắc đạo đức trên dương thế. Các Thế Kỷ III, Khổ 2 Lời của Thần sẽ ban cho vật chất, Bao gồm thiên đàng, mặt đất, vàng ẩn trong dải Ngân Hà thần bí. Thân thể, linh hồn, tinh thần có mọi sức mạnh, Tít mãi dưới chân như Thiên Thượng thấy. Minh triết của Thánh nhân sẽ ban cho vật chất bao gồm thiên đàng, mặt đất, vàng ẩn trong dải Ngân hà thần bí hàm ý về Đại Pháp vĩ đại; giảng cho các Thần, và chúng sinh trong vũ trụ, có sức mạnh và trí tuệ cho cả cơ thể và linh hồn. Giọng nói êm dịu của người bạn thiêng liêng được nghe nơi mảnh đất thánh, Ngọn lửa nhân loại chiếu sáng giọng nói thần thánh. Nó sẽ làm trái đất bị kéo căng bởi máu của những tu sĩ xuất gia, Và tiêu hủy những ngôi đền linh thiêng (hay giả dối) của những kẻ ô uế. Đoạn thơ bốn câu này tiên đoán rằng tôn giáo có tổ chức sẽ bị tiêu hủy bởi chân lý được giảng ra do “người bạn” thông qua “ngọn lửa nhân loại” của một tôn giáo mới. Các tòa tháp phát nổ và bốc cháy Tranh của Naustradamus file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Ngài sẽ lấy ngày của Nữ thần Diana, Làm ngày cho sự nghỉ ngơi bình yên của Ngài. Ngài sẽ đi xa và rộng với sự thôi thúc để làm nổi giận, Giải cứu một dân tộc vĩ đại khỏi sự khuất phục. Mặt trăng và sự kiện đi sang phương Tây của một vị Thầy phương Đông. Nostradamus ám chỉ rằng ngài chỉ nghỉ ngơi vào ngày của nữ thần Diana, tức là ngày thứ Hai, ngày Mặt Trăng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Thánh nhân chính là thần chết Osiris trong tôn giáo cổ Ai Cập và Mặt trăng cũng là biểu tượng của nữ thần Isis - người vợ của ngài. Ngài sẽ giải cứu một dân tộc vĩ đại, chắc chắn đó phải là dân tộc của ngài. Tuy nhiên, thần Osiris và Isis chưa chắc chắn là người Ai Cập bởi vì rằng: còn một vùng “Đất của Thần” mà người dân Ai Cập phải vượt qua vài vùng biển mới tới được, đó là nơi nào được xác định chính xác trong lịch sử tôn giáo cổ đại Ai Cập? Các Thế Kỷ III, Khổ 94 Trong hơn 500 năm, người ta sẽ ngóng tới Ngài Ngài là vinh diệu cho thời đại của Ngài: Rồi đột nhiên, ánh sáng vĩ đại Ngài sẽ ban cho, Ngài sẽ đưa họ về thật viên mãn trong thế kỷ này. Chính pháp của Ngài giúp cho đạt được sự viên mãn. Trong 500 năm cũng đủ giúp những người không rõ cũng trở nên hiểu biết. Nữ tiên tri Vanga, Bungari Bà Vanga (1911-1996) sống ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary, bà mất thị lực năm 12 tuổi sau khi bị cuốn đi bởi một cơn lốc lớn, người ta tìm thấy cô gái nhỏ vẫn còn thoi thóp hơi thở nằm vùi lấp giữa bụi và đá, và bà làm bạn với bóng tối từ đó. Khả năng tiên tri của Vanga đạt đến độ chín năm 30 tuổi, có nhiều người tìm đến bà để xin những lời tiên tri, trong đó có cả Adolf Hitler. “Một học thuyết thông thái và cổ nhất sẽ quay lại với họ”. Người ta hỏi dì: “khi nào thì thời kỳ đó tới?” không nhanh đâu! Xiry vẫn còn chưa bị sụp đổ (câu chuyện được ghi lại vào tháng 5 năm 1979 và xin thề là tôi không biết ý nghĩa phù thủy gì bao hàm trong bốn từ cuối cùng) trang 246 Bí ẩn của các Nhà tiên tri trên thế giới, tác giả Lê Nguyễn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005 Lời tiên tri của bà đã xác định: “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại", khái niệm "nhân loại" cho thấy sự bao trùm của lý thuyết đó. Với khái niệm "Lý thuyết" thì nó phải là một hệ thống những nhận thức vũ trụ, thiên nhiên, xã hội cuộc sống và con người, có tính nhất quán, hoàn chỉnh, vừa thỏa mãn những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học và phải tương thích để lý giải được các quan niệm tôn giáo với mọi vấn đề minh triết về xã hội, cuộc sống và con người. Tương lai nhân loại còn tiếp tục phát triển với sự tồn tại, phát sinh của các tôn giáo, tín ngưỡng và cả những tri thức khoa học được công nhận tính chân lý trong hiện tại cộng với tất cả những tri thức khoa học hay nói rõ hơn: Nền văn minh nhân loại còn tiếp tục phát triển trong tương lai, nhưng vẫn phải thừa nhận tính vượt trội với sự tương thích của lý thuyết này trong văn minh tương lai của nhân loại. Có nghĩa là lý thuyết này phải thỏa mãn và giải thích được cả niềm tin tôn giáo và những tri thức khoa học đã khám phá và cả những bí ẩn của vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống, xã hội và con người trong tương lai theo tiêu chí khoa học. Để thỏa mãn điều kiện này thì Lý thuyết đó phải chính là "Lý thuyết thống nhất vũ trụ", vì chỉ có một lý thuyết thống nhất mới đủ khả năng tương thích mang tính bao trùm khái niệm "nhân loại". Về phương diện lịch sử,vì là một lý thuyết cổ xưa nên nó phải đang tồn tại trên thực tế hiện đại dưới dạng nào đó từ một quá khứ xa xăm mà tri thức nhân loại chưa phát hiện được, nhưng thừa nhận những giá trị của nó đã tồn tại trong quá khứ. Nhưng văn minh phương Đông tồn tại một hệ phương pháp luận rời rạc, mâu thuẫn cục bộ giữa các mảng kiến thức liên quan đến một lý thuyết gọi là Thuyết Âm Dương Ngũ Hành, vốn được coi là có cội nguồn xuất xứ từ văn minh Hán. Ngay cả các tri thức khoa học hiện đại đã cất công tìm hiểu cũng không giải thích được và đành phải coi là một sự huyền bí vĩ đại. Bởi vậy, mặc dù những cố gắng của tri thức khoa học hiện đại cho đến lúc này chưa khám phá được những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền bí, nhưng họ vẫn phải ngạc nhiên và thừa nhận tính hiệu quả của các phương pháp ứng dụng trên cơ sở phương pháp luận của một hệ thống lý thuyết có vẻ rất mơ hồ liên quan đến nó. Khoa chiêm tinh Tử vi dựa trên cơ sở ngày tháng năm sinh của một con người để dự đoán một cách chính xác có hiệu quả những hành vi của người đó trong tương lai. Phương pháp luận của khoa Tử vi hoàn toàn sử dụng những khái niệm và cơ sở lý luận của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mà trong đó tất cả các đại lượng của môn này - gọi là các sao - đều được phân loại theo thuyết này. Nó hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một phương pháp được coi là khoa học. Đông y là phương pháp chẩn trị bệnh chủ yếu bằng các loại y dược được lấy trực tiếp từ thiên nhiên. Sự bào chế thuộc từ các dược liệu này thành các loại thuốc viên rất hạn chế và cũng chỉ là sự chế tác đơn giản. Nhưng để chẩn trị bệnh và khám bệnh bệnh thì rất đáng chú ý vì phương pháp tiếp cận bệnh vô cùng bí ẩn ít nhất với phương pháp phổ biến của y học hiện đại. Nếu y học hiện đại dùng các phương tiện tối tân để chẩn trị bệnh thì trong Đông y, thầy thuốc dùng phương pháp "bắt mạch". Trong phương pháp này thầy thuốc trong dùng ngón tay cái đặt lên động mạch ở cổ tay, dưới ngón trỏ của bệnh nhân. Căn cứ vào mạch đập, cùng với các quan sát và dò hỏi hiện tượng bệnh, thầy thuốc xác định chính xác bệnh tật và căn cứ vào đó để bốc thuốc. Vấn đề được đặt ra là: Cơ chế nào để các thầy thuốc căn cứ vào mạch đập ở cổ tay liên quan đến tình trạng bệnh tật của các bộ phận trong cơ thể? Mặc dù đó là một phương pháp ứng dụng có hiệu quả và lưu truyền từ hàng ngàn năm nay trong xã hội Đông phương còn đầy huyền bí trong tri thức khoa học hiện đại? Vào năm 1967, các nhà khoa học Pháp đã làm thí nghiệm cho các chất đồng vị phóng xạ vào các huyệt theo phương pháp Đông y, sau đó dùng tia phóng xạ chiếu vào cơ thể người thí nghiệm để kiểm tra. Họ đã xác định một hệ thống vận động hoàn toàn trùng khớp với các đường Kinh Lạc miêu tả của Đông Y trong cơ thể người. Tuy nhiên, tri thức khoa học hiện đại chưa tìm hiểu được bản chất của "Khí" là một khái niệm miêu tả sự tồn tại của một dạng vật chất tương tác cả bên trong lẫn bên ngoài cơ thể thông qua các đường Kinh Lạc đã được thừa nhận. Những cây kim dùng để châm cứu đào được trong ngôi mộ thời Tây Hán Mãn Thành, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. cách đây hơn hai thế kỷ trước Công nguyên. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Mô hình người “Kinh lạc huyệt vị bằng thủy tinh” Giáo vụ giảng dạy châm cứu file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpg Như vậy, những bí ẩn của Đông y đôi khi vì tính phổ biến trong ứng dụng làm người ta thấy bình thường những hiện tượng đó với cái nhìn của người Đông phương và khi nền văn minh Đông Tây giao lưu thì lại cho rằng đó là những sự huyền bí. Một cuốn sách nổi tiếng, đứng đầu trong tất cả những cuốn sách mang tính lý luận của Đông y chính là cuốn Hoàng Đế Nội kinh tố vấn. Nhưng mọi việc chưa dừng ở đây, Đông y nói riêng và tất cả các phương pháp ứng dụng các bộ môn khác bao trùm mọi lĩnh vực trong cuộc sống, sinh hoạt và xã hội đều có một hệ thống phương pháp luận của nó. Qua những sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng: Với giả thuyết lời tiên tri của bà Vanga đúng thì duy nhất có thuyết Âm Dương Ngũ Hành phù hợp và đó chính là Lý thuyết thống nhất vũ trụ mà những nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước (trích bài viết của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh). Vạn Hạnh thiền sư, Việt Nam Trong thế kỷ thứ X, cũng tại Bắc Ninh xuất hiện một thiền sư nổi tiếng, có đóng góp rất lớn trong việc mở ra triều đại nhà Lý, một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam, đó là thiền sư Vạn Hạnh (938-1025), ông là cố vấn của vua Lê Đại Hành, cũng là người thầy của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước và sau khi triều Lý thành lập. Ông họ Nguyễn, quê châu Cổ Pháp nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, từ thuở nhỏ đã thông minh, học thông Nho, Lão, Phật và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo. Năm 21 tuổi ông xuất gia, tu học với bạn là thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ. Sau khi Thiền Ông mất, ông bắt đầu chuyên thực tập Tổng Trì Tam Ma Ðịa, nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm. Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Năm 980, Hầu Nhân Bảo của nhà Tống mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại. Ông đáp trong vòng từ ba đến bảy ngày giặc sẽ rút lui. Lời này sau ứng nghiệm. Trong cuộc vận động Lý Công Uẩn lên ngôi, ông đã tác động dư luận quần chúng bằng sấm truyền rất hữu hiệu. Vạn Hạnh chuẩn bị khai thị nhân tâm, vận động lòng dân bằng sấm truyền một cách siêu dị. Sách Đại Việt Sử Ký ghi lại rằng: Trong thời Lê Phong Đỉnh sét đã đánh lên cây gạo ở chùa Minh Châu, làng Cổ Pháp (do Thiền Sư La Quí An trồng năm 936) in thành chữ: Thọ căn diễu diễu - Mộc biểu thanh thanh. Hoa đào mộc lạc - Thập bát tử thành. Đông A nhập địa - Dị mộc tái sanh. Chấn cung kiến nhật - Đoài cung ẩn tinh. Lục thất niên gian - Thiên hạ thái bình. Gốc cây thăm thẳm - Ngọn cây xanh xanh. Cây hoa đào rụng - Mười tám hạt thành. Cành Đông xuống đất - Cành khác lại sinh. Đông mặt trời mọc - Tây sao ẩn hình. Sáu bảy năm nữa - Thiên hạ thái bình. Thiền sư Vạn Hạnh đã đưa ra lời lý giải như sau: trong câu “Thụ căn diểu diểu” chữ Căn là gốc, gốc tức là vua, chữ Diểu đồng âm với chữ Yểu, thế là nhà vua (Lê Long Đĩnh) chết yểu. Trong câu “Mộc biểu thanh thanh” chữ Biểu là ngọn, ngọn là bầy tôi, chữ Thanh đồng âm với chữ Thịnh, thế là một người trong số quần thần (Lý Công Uẩn) sẽ lên nắm chính quyền. Ba chữ Hòa, Đao, Mộc góp lại (theo Hán tự) là chữ Lê, Lạc là rụng, tức là nhà Lê rụng. Ba chữ Thập, Bát, Tử góp lại là chữ Lý. Chữ Lý họp với chữ Thành, là nhà Lý lên. Ngày Rằm tháng Năm năm Thuận Thiên thứ 16 (tức 13 tháng 6 năm 1025), thiền sư không bệnh nhưng đã linh cảm trước được kết cục đang gần, đã gọi các đệ tử đến và đọc cho nghe bài kệ: Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. Nhậm vận thịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Thân như bóng chớp, có rồi không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng. Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi, Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông. Sau khi thiền sư qua đời, vua Lý Thái Tổ và triều thần nhà Lý đến làm lễ trà tỳ, thỉnh xá lợi của ông về thờ tại chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh. Vua Lý Nhân Tông (1066-1127) có làm bài kệ truy tán: Vạn Hạnh dung tam thế, Chân phủ cổ sấm kị. Hương quan danh Cổ Pháp, Trụ tích trấn vương kỳ. Vạn Hạnh thông ba cõi, Lời sư nghiệm sấm thi. Từ làng quê Cổ Pháp, Chống gậy trấn kinh kỳ. Trong bài thơ tiên tri của thiền sư Vạn Hạnh luận ra chữ “Lý” và sự lên ngôi của vua Lý Công Uẩn, tuy nhiên chữ Lý cũng đã xuất hiện trong những dự ngôn của các nhà tiên tri của Trung Quốc. Như vậy, “Lý” có thể mang nghĩa kép là biểu tượng của vị Thánh nhân trong tương lai. Tiên tri tương tự cũng đã được Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhắc lại trong cuốn Tùy Đường diễn nghĩa, tại Hồi 29: “Tùy Dượng Đế hai viện xem hoa - Chúng phi tần một thuyền chơi biển” với ba câu kệ sau đây: Đuôi trâu, đầu cọp. Binh đao loạn lạc, Ai sẽ làm vua, con người thợ Mộc. Nếu lấy chữ “mộc” với chữ “tử” là con mà đặt chữ “mộc” trên, “tử” dưới thì là chữ “Lý”. Sấm Trạng Trình, Việt Nam Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), quê ở làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Nhờ hiểu rõ thuyết Âm Dương Ngũ hành và Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là "nhà tiên tri số một” của Việt Nam và người Trung Quốc coi là "An Nam lý số hữu Trình Tuyền". Ông đã sáng tác những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là Sấm Trạng Trình. Năm 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Buổi lễ tổ chức vào ngày mồng 10 tháng Mười âm lịch ở Văn Miếu, là ngày Tết cơm mới, ngày mà dân tộc ta có truyền thống hướng về tổ tiên. Ngày diễn ra lễ kỷ niệm, trời lại mưa, từ 7h sáng trở đi mưa rất to nhưng đến khoảng 8h30 thì trời tạnh, không khí, khung cảnh ở Văn Miếu sạch sẽ, thoáng đãng. Sau đó trời nắng lên rất đẹp. Buổi lễ bắt đầu vào giờ Tỵ, trong buổi lễ điều cảm động nhất là khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thắp hương thì bát hương bùng cháy lớn, lửa của bát hương hóa rơi vào 4 chén rượu thờ cùng bốc cháy (tham khảo bài viết Sự trở lại của Sấm Trạng Trình, tác giả Lã Xưa). Bản đồ chẳng sót cho ai, Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn. Vững nền vương cha truyền con nối, Dõi muôn đời một mối xa thư. Đoạn thơ nói về hệ thống bản đồ, mật ngữ… được xem là những bức thư của các vua Hùng gửi lại cho hậu thế, làm bằng chứng của một thời kỳ lịch sử huy hoàng. Xem tượng trời biết đường đời trị, Ngẫm về sau họ Lý xưa nên. Dòng nhà để thấy dấu truyền, Ngẫm xem bốn báu còn in đời đời. Thần Quy cơ nổ giữa trời, Để làm thần khí thuở nơi thị trường. Xem thiên văn biết nước Việt sẽ tới đời thịnh trị, nhà Lý thời xưa về sau lại dấy nghiệp lên. Bốn báu đời Lý để lại cho nước Nam ta là tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lạc chùa Quỳnh Lâm, Vạc Phổ Minh, Chuông Quy Điền, còn gọi là An Nam tứ đại pháp khí do quốc sư Nguyễn Minh Không chủ xướng như là dấu ấn của triều đại thịnh trị. Mặt khác, bốn báu cũng có thể hiểu là Tứ Linh: Long, Ly, Quy, Phượng hình tượng của các chòm sao thiên văn trên bầu trời, được diễn họa trên bức tranh dân gian Đông Hồ Tứ Linh. “Thần Quy cơ nổ giữa trời” Quy cũng là một trong Tứ Linh, trogn truyền thuyết dân gian có thần Kim Quy giúp cho vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa và đưa ngài xuống biển, cũng như Lê Lợi trả lại thanh gươm “Thuận Thiên” cho Rùa vàng tại hồ Hoàn Kiếm. Phong đăng, hòa cốc chứa chan, Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây. Chính cung phương Khảm vần xoay, Thực thay Thiên tử là tay trị đời... Kết hợp với đoạn thơ trên, “Chính cung phương Khảm vần xoay” sẽ hiểu là chòm sao Bắc Đẩu và chòm sao Tiểu Hùng Tinh, với Tứ Linh và “mây, mưa, sấm, chớp” vần xoay xung quanh. Tuy nhiên, phương Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc trên bầu trời ứng phương Nam dưới mặt đất “kim chỉ Nam”, do vậy phương Nam trên bầu trời có thể hiểu là phương Bắc, tức chòm sao Nam Cực - biểu tượng cho Nam Cực tiên ông Thọ Tinh. Nhìn xem phong cảnh cũng xinh, Tả long triều lại có thành đợt vây. Hữu hổ quấn khúc giang này, Minh đường Thất diệu trước bày mặt tai. Ở xa thấy một con voi, Cúi đầu quen bụi trông về hồ sâu. Ấy điềm Thiên tử về chầu, Tượng trưng Đế Thánh tộ lâu trị đời. Đoạn thơ mô tả địa thế phong thủy của khu vực Đền Hùng, ngọn núi Vạn phía bên tay trái Đền Hùng có hình như một con voi to đang quỳ chầu về. Núi Vạn hình con voi quỳ chầu về Đền Hùng Ảnh chụp tại khu vực Đền Hùng file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Cửu cửu Càn Khôn dĩ định, Thanh minh thời tiết hoa tàn. Trực đáo Dương đầu Mã vĩ, Hồ binh Bát Vạn nhập Trường An. Bảo Giang Thiên tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. Lê dân bào bảo noãn, Tứ hải lạc âu ca. Đoạn thơ đề cập đến quy tắc vận động tương tác của vũ trụ tới trái đất, các phương pháp ứng dụng tính toán như Huyền Không phi tinh, Thái Ất thần kinh… hết xuân rồi đến hạ, vòng quay của đất trời. “Đầu con dê đuôi con ngựa” có vẻ hàm ý cung Tốn và cung Khôn chuyển đổi tức được mở khóa, thì quân phương Nam tiến vào Trường An, kinh đô nhà Đường Trung Quốc, thời kỳ khuếch trương Phật giáo. “Bát Vạn” trùng với tên núi Bát Vạn, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nơi Bồ Tát Nguyễn Minh Không trấn yểm 80.000 cây tháp đất nung 5 tầng nhằm giúp cho quốc gia và Phật giáo hưng thịnh, đồng thời ngăn chặn sự trấn yểm hủy diệt của các thế lực phương Bắc. Như vậy, nội dung đoạn thơ nói về sự xuất hiện của “Thiên tử” cùng với cương vị của Phật? Lúc này nhân dân ca ngợi, bốn biển thanh bình. Chẳng nhẽ đấy lại là Phật Vương Di Lạc như các tiên tri của các tôn giáo mới tại Việt Nam sau này như đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương nhận định?. Trong đoạn thơ có nói đến “Bảo giang”, nếu liên hệ đến đoạn thơ nói về phong thủy Đền Hùng thì Bảo giang khả năng là sông Nhị hà tức sông Hồng. Mặt khác Giang cũng mang hình tượng con Rồng, nên hiểu là Thiên tử mang biểu tượng con Rồng, Bảo giang là con Rồng quý, là Thiên tử tức “con Trời”, vậy ông Trời hay Thượng Đế là vị nào? Trong Sấm còn có đoạn thơ khẳng định con sông Hồng: Nhị hà một giải quanh co, Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào. Khắp hòa thiên hạ nao nao, Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng? Đoạn thơ khẳng định đế đô nằm cạnh con sông Nhị hà chính là Thăng Long thành, Hà Nội ngày nay, có lẽ hàm ý nơi đây chính là đế đô của nước Văn Lang thời cổ đại, bởi vì trong những khổ thơ đầu, tác giả đã đề cập đến vua Lạc Long Quân. Một cơn sấm dậy đất bằng, Thánh nhân ra mới cứu hằng sinh linh. Lược thao văn vũ tài tình, Mới hay phú quí hiển vinh lạ lung. Tam Công gập hội vui mừng, Bõ khi cá nước vẫy vùng biển sông. Bõ khi chém rắn vẽ rồng, Bõ khi non Bắc ải Đông mịt mù. Bõ khi kẻ Việt người Hồ, Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường. Đoạn thơ mang ý nghĩa chính phương Bắc và phương Nam có cùng chung một nguồn gốc, nếu chúng ta xem lại truyền thuyết Hồng Bàng Thị và nội dung một số gia phả khác, thì Vua Đế Minh giao cho người em sinh đôi là Đế Nghi làm vua phương Bắc - Bắc sông Dương tử và con trai cả Kinh Dương Vương làm vua phương Nam - Nam sông Dương Tử. Cả hai người lập lời thề trên núi Thiên Đài, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, dấu vết nay vẫn còn (tham khảo bài viết Biên cương nước Việt cổ, tác giả Trần Đại Sỹ). Hiệu xưng “Thiên hạ Thái Bình”, Đông Tây vô sự, Nam thành quốc gia. Nam thành quốc gia chính là nước Việt Nam, tuy nhiên hiệu xưng “Thiên hạ Thái Bình” có thể nói về hiệu của vị Thiên tử là “Thái Bình”. Ô hô thế sự tự bềnh bồng, Nam Bắc hà thời thiết lộ thông. Hổ ẩn trên non mao thấy trắng, Kinh ngoi ngoài biển huyết loang hồng. Gà kêu cây ngọc nghiêng trời Bắc, Trâu đến lam điền Nhật chính Đông. Đến khi ưng về sư tử dậy, Thái bình mới tỏa khắp non sông. Nam Bắc thông điều này chỉ được mở ra khi hai cung Tốn Khôn chuyển đổi tức trước đây bị khóa “Tịch Địa”, ý này cũng được giải thích trong đoạn thơ về độ số 2 cung Khôn (Rắn) và độ số 4 cung Tốn (Dê). Khi sự thật hai cung này bị sai số, thực sự làm cho nhiều người bất ngờ nhưng vẫn còn bảo thủ, khó chịu về việc này. Rồng nằm bể cạn dễ ai hay, Rắn mới hai đầu khó chịu thay. Ngựa để gác yên không ai cưỡi, Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây. Chỉ đến khi Thánh nhân xuất hiện, giống như con chim ưng (chim đại bàng thường được biểu tượng cho phương Bắc, mùa Đông qua những bức tranh thủy mặc phổ biến Đại Bàng - Tùng) và sư tử thuộc cung Càn trong Hậu Thiên Bát quái, hình ảnh của “ông Trời”, thì thái bình tỏa khắp đất nước Việt và theo như nội dung toàn bài Sấm Trạng Trình, thì ảnh hưởng tới toàn thế giới. Vậy thời gian nào Thánh nhân sẽ xuất hiện? Chờ cho động đất chuyển trời, Bấy giờ Thánh mới nên trai anh hùng. Dù cho ai chửa biết tường, Nhất thổ thời sĩ Khảm phương thuở này. Ý ra Lục Thất gian nay, Thời vận đã định tuần này hưng vương. Trí xem nhiệm nhặt cho tường, Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở này. Ngày Thiên tử xuất hiện chính là “động đất chuyển trời” nhưng rất khó hiểu. Tuy nhiên, Trạng Trình lại có đoạn thơ: Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ, Hưng tộ diên trường ức vạn xuân. Đất nước Hồng Lam sau ta năm trăm năm, Sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân Như vậy, thời điểm Thánh nhân xuất hiện có thể được xem là trùng khớp tiên tri của dân tộc Maya tức năm 2012 bởi năm 1991 là năm kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, so với năm 2012 cách đúng một con giáp. Ông còn tiên tri thêm: Sau ta hơn nữa tám đời, Khắp nơi binh lửa, nơi nơi chiến trường. Ngưu giang hợp với Bảo giang, Đại nhân chính vị bốn phương một nhà. Cùng thời gian này, sẽ xuất hiện một Đại nhân cùng với Thánh nhân “Bảo giang” với ngụ ý “Ngưu giang”? Chúng tôi sẽ minh chứng trong các chương sách sau. Cuối cùng, xuất hiện một sự kiện hy hữu, vào dịp cuối năm 2010, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn, nhà ngoại cảm mọi người đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng. Sách lịch sử, văn hóa, khoa học trên thế giới Kinh Dịch Cùng với những dự ngôn khác nhau, thì lời tiên tri của tiền nhân cũng được ghi chép lại trong cuốn Kinh Dịch, do Khổng Tử san định, đây một trong những cuốn sách thời cổ đại còn lưu giữ cho tới nay. Thuyết quái truyện vốn được không ít các học giả cho rằng mang tính dị đoan. Điều này được thể hiện ở nhiều cuốn Kinh Dịch Việt ngữ đã bỏ không dịch Thuyết quái. Tuy nhiên, Tiết 5 của Thuyết quái lại được coi là sự bảo chứng cho cấu hình Hậu thiên Bát quái, vì tính trùng khớp với thứ tự thuận chiều của nó. Tiết 5 - Thuyết Quái viết: “Đế xuất hồ Chấn. Tề hồ Tốn. Tương kiến hồ Ly. Chí dịch hồ Khôn. Duyệt ngôn hồ Đoài. Chiến hồ Kiền. Lao hồ Khảm. Thành ngôn hồ Cấn”. Sự trùng khớp theo thứ tự thuận chiều với đồ hình Hậu thiên Bát quái theo cổ thư chữ Hán bắt đầu từ quái Chấn như sau: Hậu thiên Bát quái Trích Kinh dịch - Đạo của người quân tử, dịch giả Nguyễn Hiến Lê. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Nhưng với sự diễn đạt ở trên thì nội dung Thuyết quái không trực tiếp thể hiện cấu trúc phương vị Hậu thiên Bát quái. Nghĩa đen của Tiết 5 - Thuyết quái chỉ có thể hiểu là: Đế xuất hồ Chấn; Vua ra cửa Chấn; Tề* hồ Tốn; Làm bằng cửa Tốn; Tương kiến hồ Ly; Gặp gỡ cửa Ly; Trí dịch hồ Khôn; Suy nghĩ chuyển cửa Khôn; Thuyết ngôn hồ Đoài; Vui vẻ cửa Đoài; Chiến hồ Càn; Tranh chấp cửa Càn; Lao hồ Khảm; Mệt nhọc ở cửa Khảm; Thành ngôn hồ Cấn. Nói xong ở cửa Cấn. * Chú thích: Tề - Động từ; tiếng cổ có nghĩa là: làm bằng, cào bằng, làm cho cùn, tà. Hiện ở đồng bằng Nam Bộ, người ta vẫn còn dùng với nghĩa trên. Như vậy, rõ ràng ý nghĩa trực tiếp của câu 2 và 4 trong tiết 5 là: san bằng cửa Tốn, suy nghĩ để chuyển cửa Khôn tức nghĩa là chuyển đổi Tốn Khôn như tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chứng minh tính hợp lý trong cuốn Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt và Tìm về cội nguồn Kinh dịch của mình. Khổng Tử miếu Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Bên trong Khổng miếu trưng bày hơn 2.000 bia đá thuộc các triều đại Trung Quốc, là một trong những rừng bia đá cỡ lớn của Trung Quốc. Trong đó, có những hơn 50 tấm Ngự bia tức bia có bút tích của vua, đã thể hiện đầy đủ địa vị cao cả của Khổng Tử trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Mặt khác, trong Tiết 5 - Thuyết quái còn nói đến “Vua ra cửa Chấn”, Chấn là phương Đông, hướng của mặt trời mọc, vậy thì “Vua” ở đây mang ý nghĩa là “Mặt Trời”… hay có ẩn nghĩa tiên tri nào khác? Chúng ta cũng sẽ được biết chính xác câu trả lời trong các chương sách sau. Chữ Khoa đẩu Một trang cổ thư của người Việt vùng Giang Nam, là một vuông chữ Khoa đẩu ngoằn ngoèo có 56 chữ. Cạnh đó là một bản chữ Nho, cũng gồm 56 chữ, hẳn là của người đời sau còn giữ hiểu được chữ Khoa đẩu dịch lại, như sau: 一 歲 兩 歲 三 歲 參。 Nhất tuế, lưỡng tuế, tam tuế tham, 一 正 兩 劃 分 頭 辦 Nhất chính, lưỡng hoạch phân đầu biện. 正 寺 上 下 靈 九 天。 Chính tự thượng hạ linh cửu thiên, 半 字 兩 遺 流 八 川。 Bán tự lưỡng di lưu bát xuyên. 潛 字 左 右 留 一 萬, Tiềm tự tả hữu lưu nhất vạn, 遺 字 前 後 留 五 千。 Di tự tiền hậu lưu ngũ thiên. 八 卦 倒 傳 乾 坤 定, Bát quái đảo truyền, Càn Khôn định, 天 圖 地 方 才 算 完。 Thiên đồ địa phóng tài toán hoàn. Ý người xưa muốn nhắn rằng phải bỏ công liên tục nhiều năm để học cho hiểu ký tự một vạch kẻ, hai vạch kẻ của Bát Quái vì nó rất linh nghiệm tới 9 tầng trời. Người xưa đã di lưu lại nền văn minh ở 8 dòng sông. Người xưa đã dấu lại khoảng 15.000 con chữ ẩn náu. Phải đổi ngược lại vị trí của Bát Quái thì mới đúng với qui luật của trời đất, và lúc đó cái bản đồ vũ trụ và trái đất mới coi là xong hoàn toàn. 15.000 con chữ ẩn náu chính là toàn bộ nội dung Kinh Dịch và Đạo Đức Kinh và ý nghĩa của 8 dòng sông chính là cấu trúc của Hậu Thiên Bát quái phối Hà Đồ. Bên cạnh đó còn có một bài chữ Nho, như sau: 三 皇 五 帝 春 秋 史, Tam Hoàng Ngũ Đế Xuân Thu sử, 萬 歲 天 秋 北 鬥 尊。 Vạn tuế thiên thu Bắc Đẩu tôn. 天 外 兩 星 露 中 見, Thiên ngoại lưỡng tinh lộ trung kiến, 人 間 七 子 同 時 生。 Nhân gian Thất Tử đồng thời sinh. Kèm theo có đánh dấu sự thay đổi vị trí các sao trong chòm sao Bắc Đẩu, như sau: + + + + + + + (96.000 năm trước) + + + + + + + (hiện tại) + + + + + + + (96.000 năm sau)<br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Trong câu thứ nhất và thứ hai, ý người xưa muốn nhắn rằng cứ theo như cổ sử thời Tam Hoàng Ngũ Đế thì muôn đời tôn thờ sao Bắc Đẩu như là một Đế Vương (sao Bắc Đẩu đang biến đổi hình dạng của nó theo chu kỳ). Câu thứ ba và bốn thì nói về nhận thức sự hòa hợp lưỡng tinh tức mặt trời và mặt trăng hay chính là Âm Dương, sẽ hiểu được sự vận động vạn vật. Lúc này, sẽ tìm ra bí ẩn của sự sống con người và lịch sử “Vua của các vị vua“ ở phương Nam (Thất là 7 là độ số của phương Nam theo Hà Đồ). Ý nghĩa này cũng tượng tự như những tiên tri khác trên thế giới về sự trở lại của một vị Thánh nhân vĩ đại. Sự đánh dấu chu kỳ 96.000 năm ở trên, có lẽ nói đến một chu kỳ lớn hơn gọi là Đại Nguyên 129.600 năm, mà thế giới chúng ta đang ở trong khoảng thời gian đó (trích bài viết Chữ Khoa đẩu, tác giả Lãn Miên). Tây Du Ký Trong cuốn Tây Du Ký, tại Hồi 66: “Các thần gặp độc thủ, Di Lạc trói yêu ma, tác giả đề cập tới hội Long Hoa, còn được gọi là “Đại hội quần Tiên” mà giáo chủ là Đương Lai Tôn Phật Di Lạc - Di Lạc Phật Vương. Ngài sẽ là vị Phật Thứ Năm chuyển luân từ Phật Thích Ca Mâu Ni trong tương lai. Trong hồi này có nói Đại Thánh tới núi Vu Thai, Nam Thiệm Bộ Châu nhờ Quốc Sư Vương Bồ Tát. Dưới tay có Trương Thái Tử và bốn đại tướng. Bài thơ nói về Trương Thái Tử: Quê hương là nước Lưu Sa, Cha ta vốn dĩ chính là quốc vương. Ấu thơ lắm bệnh khôn lường, Mệnh phạm Hoa Cái nhiều phương giữ mình. Theo thầy học phép trường sinh, Ơn duyên nên gặp thuốc linh tuyệt vời. Đan sa nửa hạt bệnh lui, Tu hành từ đấy, lên ngôi chẳng bàn. Thọ ngang trời đất vô vàn, Mà người vẫn trẻ như chàng thiếu niên. Hội Long Hoa đã dự tên… Tác giả cũng hàm ý sẽ dự tham dự Hội Long Hoa như những dự ngôn truyền trong dân gian, cũng như các tôn giáo từ xưa tới nay. 3.000 năm một kiếp luân hồi Chúng ta cùng tham khảo một phần nội dung từ cuốn sách 3.000 năm một kiếp luân hồi, nguyên tác Jonathan Cott, dịch giả Thích Tâm Quang: Có một cuốn sách bằng giấy cói papyrus từ thời Ptolemy (304-30 tr.CN) nói rằng các Thần tức giận Ai Cập bỏ nước ra đi, vì lẽ đó chim hạc, hoa sen và cây cói đều biến mất và Ai Cập bị ngoại bang thống trị cho đến khi các Thần tha thứ mới thôi. Lúc đó, chim hạc, hoa sen, cây cói mới trở lại và người Ai Cập sẽ tự mình cai trị nước mình. Khi Bá Tước Cromer, Đại sứ Anh tại Cairo, người nắm giữ mọi quyền hành đằng sau ngai vàng ở tiền bán thế kỷ, nghe được chuyện về cuốn sách này đã ra lệnh đốt hết… Bấy giờ, tôi còn ngụ tại Giza, trong số láng giềng của tôi có một người Anh và người em gái của ông, cả hai đều chưa lập gia đình. Ông này có một vườn xoài ở phái Bắc các Kim tự tháp nằm trên đường Alexandria. Một hôm ông đến thăm tôi và cho biết: “Cô có biết gì không? Tôi trông thấy một bông hoa sen xanh trên con kênh”. Tôi nói là không khi nào có được, nhưng ông ta quả quyết đó là sự thật. Lần sau đến thăm tôi, ông đã mang đến cho tôi một bông. Sau đó không lâu, tôi cũng nghe nó chim hạc đã xuất hiện ở phía Nam Luxor. Và ngay sau đó, cói cũng đã mọc lên tại đồng bằng sông Nile. Đến năm 1953 cuộc cách mạng bùng nổ, Ai Cập giành lại được độc lập. Theo lời tiên tri của Ptolemaic thì Horus sẽ trị vì Ai Cập, rồi đến Osiris. Tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải thuần phục. Tôi tin đều đó sẽ đến, không phải ngay lúc này, mà phải một thời gian nữa… ngày đó sẽ đến. Omm Sety thường nói với tôi dưới đất Ngôi Đền Sety có một kho tàng đang chờ khám phá và một tài liệu độc nhất vô nhị đang chờ được ráp nối lại. Đó là Nhật ký của Vua Sety được viết trên giấy cói đã hơn 3000 năm qua, giờ đây hẳn đã rời ra từng mảnh hay không chừng thành nhiều mảnh vụn li ti… Omm Sety nhấn mạnh là tài liệu và kho tàng này là có thực, không phải nghi ngờ gì nữa vì lẽ ở ngay trên các bức tường của Ngôi Đền cũng còn khắc những dòng chữ cho biết cả hai thứ đó đều được chôn dấu ở một nơi nào đó trong ngôi đền… Có lần tôi hỏi quan trọng như thế nào? thì Bà trả lời: “Tôi cho rằng việc tìm ra Biên niên sử là khám phá vĩ đại nhất vì trong đó ghi mọi biến cố trong thời gian khủng hoảng nhất của lịch sử Ai Cập. Biên niên sử này được dấu trong triều Đại Vua Ptolemy Đệ Tam (246-221 tr.CN) khi vua này hạ lệnh tất cả các đền trong Ai Cập phải nộp hết sách cho thư viện vĩ đại Alexandria. Không còn chút nghi ngờ, tất cả các sách vở đều phải nộp cho thư viện này, có thể vài bài ca ngợi các vị thần Ptolemaic, vài cuốn Sách về người chết, vài quyển thánh ca là hoàn toàn không cần thiết. Những sách quan trọng thì được dấu biệt.”. Bà Omm Sety khẳng định về sự phục sinh của thần chết Osiris sẽ xảy trong thời gian sắp tới, và các quốc gia trên thế giới đều thuần phục trước ngài. Ai Cập huyền bí Chúng ta hãy cùng xem xét đoạn trích Chương XVIII. Tôi gặp một vị Chân sư của cuốn Ai Cập huyền bí, nguyên giả Paul Brunton, dịch giả Chi Lan và Lê Tuyên, Nxb Tổng hợp T.p Hồ Chí Minh, 2004: Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đã gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi vì tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố, và bởi vì những điều ấy có thể làm cho cái thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quý độc giả. Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại. … Tôi vừa quay lại, và đi vài bước thì chính lúc đó, tôi nhìn thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc. Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi bé, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu ngắn. Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nhìn thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi. Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương phản rõ rệt với tròng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục. Chúng tôi im lặng nhìn nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng. Một bộ phận nào bí mật thình lình hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác hình như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm. Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh. Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Đông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu gì để vào đề, thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói: - Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài. Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên: - Phải tôi hiểu. Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, vì điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng. Đôi mắt của dị nhân lại nhìn tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói: - Chính tôi đã có ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy. - Ngài muốn nói chi? - Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã. Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đã nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nhìn vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác. Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu. Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Đôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói: - Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài. - Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đã điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên tình cờ, trước hết đã ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta. Tôi lắng nghe, mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững tình hình. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người co mộtù trình độ tâm linh cao cả như thế. Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả. Người còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị Chân sư. Người nói: - Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một Chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai. Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm. Tôi cảm thấy dị nhân nói có lý. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị Chân sư đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền diệu của cõi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết. Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong vòng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đệ tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử. Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian. Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động. Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ: - Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton. Tôi thụt lùi vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài: - Tôi có thể được biết quý danh của ngài chăng? Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa. Tôi nhìn gương mặt cao quý của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói: - Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ra-Mak-Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu ý nghĩa của nó. Theo tôi nó nghĩa là “Bình An”. Xứ sở Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thế giới. Tôi đã từng chu du khắp năm châu bốn biển. Tôi có thân xác người phương Đông, nhưng còn tinh thần thì không thuộc về một miền nào duy nhất và trái tim tôi chỉ thuộc về cảnh “Thanh Bình”. Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi. Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rõ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một trình độ tâm linh và giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hiện giờ. Ngài nói một cách thành thật, và thậm chi cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nile, trong đền thờ Louqsor. Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy. Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt Chân sư, vì cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn. Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trượt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn lên đỉnh đồi hùng vĩ. Chân sư Ra-Mak-Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó? tuy "rất bận rộn," nhưng ngài vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng? khi màn đêm buông xuống bao phủ trọn dãy đồi Lybie. Chân sư với cái tên Ra-Mak-Hotep chắc chắn không phải là Thần mặt trời Ra vì tên Ra đã đặt trước, trong đoạn văn nói đến cảnh “Thanh Bình”, hay cũng có thể xem cung Bảo Bình trong thiên văn Ai Cập mang ý nghĩa hòa bình. Tuy nhiên, với quý danh của chân sư được lý giải nhẹ nhàng và có lẽ, ngài không phải là người Ai Cập. Điều này nảy sinh sự hoài nghi: các thần thánh Ai Cập đến từ mảnh đất khác, mà truyền thuyết ghi nhận về “đất của Thần” ở phương Nam mà đội thuyền Ai Cập phải vượt vài vùng biển mới tới nơi. Hành trình về phương Đông Theo Hành trình về Phương Đông, tác giả Blair T.Spalding, dịch giả Nguyên Phong, Nxb Hồng Đức, có đoạn: Cuộc gặp gỡ những đạo sư đại diện cho nền minh triết cổ truyền xứ Ấn đã làm cho phái đoàn phấn khởi, nhưng còn các bậc Chân sư thì họ như thế nào? Tại sao một vị Chân sư bí mật gửi thông điệp cho các đạo sư yêu cầu giúp đỡ phái đoàn? Đây là một dấu hỏi lớn mà mọi người hết sức thắc mắc. Liệu chúng tôi có thể gặp các bậc Chân sư không? Những vị này ở đâu? Giáo sư Mortimer đã hỏi giáo sư Kavir, và ông này cho biết có quen một đạo sĩ tu hành tên Akila Bakhtir vốn thường qua lại nhiều trong dãy Tuyết Sơn và có kiến thức rộng về những hiền triết ẩn tu nơi đây. Phái đoàn bèn tìm đến đạo sĩ này, đó là một ông lão gầy như hạc, vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười. Giáo sư Mortimer nôn nóng : - Theo lời truyền tụng thì ông đã có dịp tiếp xúc với các đạo sĩ Tuyết Sơn? Đạo sĩ xác nhận : - Đúng thế, tôi đã có dịp gặp gỡ các bậc Thánh nhân đó. - Ông tin rằng họ là những Thánh nhân? - Dĩ nhiên, không những tôi tin mà còn biết rõ họ là những bậc hiền giả. - Dựa vào tiêu chuẩn nào mà ông quả quyết như vậy? Họ có biểu diễn quyền năng hay làm gì khác người không? Liệu có thể có những bậc siêu nhân như vậy không? Đạo sĩ gật đầu: - Sự có mặt trên thế gian của những bậc thánh nhân là điều hợp lý, nếu ta tin các luật Luân hồi, Nhân quả và Tiến hoá. Nếu quan sát, ta sẽ thấy con người đều có các trình độ khác nhau. Có người kém ta rất xa, có người lại hơn ta rõ rệt. Nếu nhân loại tuần tự tiến hoá thì trải qua nhiều kiếp sống, và thời gian, tất phải có những người đã tiến bộ rất xa chứ. Theo tôi biết, đã có những người tiến xa hơn hàng ngũ nhân loại hiện nay, đã khai mở một vài giác quan thượng đẳng, quyền năng siêu việt mà ta gọi là bậc Thánh nhân. Sự thực, các quyền năng này đều tiềm tàng trong mọi người chúng ta, chờ đợi cơ hội khai mở, khi khai mở các quyền năng này, ta sẽ thấy rõ các nấc thang tiến hoá của nhân loại và nhận định rằng ở mỗi nấc thang đều đã có kẻ đạt đến. Lịch sử các quốc gia đều chứa đựng công trình vĩ đại của các bậc vĩ nhân trên mọi lãnh vực hoạt động. Những người này, trong phạm vi riêng biệt của họ đã vượt xa quần chúng và tầm hiểu biết của những người đương thời, thí dụ như các bác học, các nhà tư tưởng lớn. Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị vì sự sống vô cùng cần được biểu lộ qua hình thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lý do sự kết tinh đến mức tuyệt đỉnh của một con đường tiến hoá dài và liên tục. Tất cả kinh điển mọi tôn giáo đều chứng minh sự hiện diện của các bậc siêu nhân. Mọi tôn giáo khi thành lập đều có các bậc Thánh nhân xuất hiện. Người Ấn có các thần linh như Brahman, Vishnu, Shiva hoặc các Đấng cao cả như Krishna, Sancharacharya. Tín đồ Phật giáo thì có đức Phật Thích Ca, đức Quan Thế Âm. Tín đồ Thiên chúa giáo thì có đấng Jesus, các nhà tiên tri, các bậc Thánh. Các bộ lạc man dã cũng có các thần linh riêng của họ. - Xin ông giải thích rõ hơn về sự tiến hoá này? - Luật tiến hoá vũ trụ định rằng mọi vật đều thay đổi theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm còn tùy cá nhân và hoàn cảnh xung quanh. Loài thảo mộc là kết tinh của loài kim thạch, loài cầm thú sau thảo mộc, và loài người tiếp theo loài cầm thú. Cũng như thế, loài người có một cứu cánh nhất định, một giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói cách khác, trên loài người là đời sống Siêu nhân loại. Trong mỗi con người có ba phần chính: xác thân, linh hồn và tinh thần. Tinh thần là điểm linh quang tiềm tàng trong mọi con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân ngã, Thần tính v.v... - Bằng chứng vào đâu mà ông đưa ra thuyết này? - Đây không phải là một giả thuyết, trong sự tu luyện, tôi ý thức được điều này. Các tôn giáo lớn cũng nói như thế. Đức Phật đã nói: “Mọi chúng sinh đều có Phật tính.”. Thánh Paul định nghĩa con người gồm ba phần: xác, hồn, thần... Sự tiến hoá là trở về với Thượng Đế, trở về với con người thật của mình, phát triển Phật tính của mình trọn vẹn, để giác ngộ. Danh từ tuy khác nhưng nội dung đều giống nhau, tôi cố gắng giải thích theo quan niệm mà người Âu có thể hiểu được, sự hợp nhất với Thượng Đế nghĩa là trở về với Ngài vì chúng ta đều là một phần của Ngài. Theo sự hiểu biết của tôi về luật Tiến hoá thì với con người, Thể xác họ đã phát triển khá hoàn hảo, nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân. Một người tiến cao là người đã chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lý trí và linh hồn. Một người kém tiến hoá là người còn nhiều thú tính, chỉ lo nghĩ đến các đòi hỏi của thể xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính. Chính vì thế, họ sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ trị xác thân. Thế gian là một trường học mà trong đó có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị được xác thân là người tuy đã kiểm soát được hành động của xác thân, nhưng vẫn còn để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một đường hướng nào nhất định. Sự định trí, bắt tư tưởng phải theo một đường hướng suy nghĩ sẽ đưa ta đến sự kiểm soát Thể vía. Sau đó là kiểm soát Thể trí, nghĩa là sử dụng trí tuệ để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Định trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính, đúng đắn lại là một việc khác. Chỉ khi nào cả ba là thể xác, thể vía và thể trí hoàn toàn được kiểm soát thì ta sẽ hòa hợp với Chân ngã. Từ đó, phàm nhân và chân nhân hoà hợp làm một, con người sẽ tiến hoá đến một giai đoạn mới, trở nên một bậc Chân tiên. Khi đó, con người bước vào một đời sống trường cửu của tinh thần, đời sống của đấng Thượng Đế. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. - Ông tin rằng tất cả đều tiến tới đời sống đó? - Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn con đường đó. Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược dòng tiến hóa, nhưng làm thế ta chỉ làm chậm trễ sự tiến bộ của mình, nhưng không thể chặn đứng được dòng tiến hoá của nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi dòng, ngược dòng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng dòng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước sau gì thì ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận Thiên ý là bơi xuôi dòng, nghịch Thiên ý là ngược dòng. Đa số con người thường chơi vơi, không nhất quyết, lúc chìm đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược dòng, có khi lại xuôi dòng vì chưa ý thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo. - Nhưng làm sao biết đường nào là đường phải theo? - Chính vì con người bơ vơ, lạc lối nên mới có các bậc Thánh nhân chỉ bảo, hướng dẫn. Sự hiện diện của các bậc như Đức Phật, Đức Chúa, Đức Krishna... và các vị giáo chủ khác là để hướng dẫn cho nhân loại. Tiếc thay, con người chỉ thích nghe những ai nói thuận ý mình, đúng với điều mình mong ước, chứ không thích những điều đúng sự thật, không thích bị đánh thức... - Làm sao mình có thể biết được đâu là “đúng sự thật”? - Con người có trí khôn, có óc phân biệt để làm gì? Tại sao không chịu sử dụng chúng để lựa chọn một con đường tốt đẹp? - Ông muốn nói đến con đường Đạo? Làm sao ta có thể bước vào cửa Đạo? Đạo sĩ vuốt bộ râu mỉm cười: - Có bốn nhân duyên đưa ta đến cửa Đạo. Nhân duyên thứ nhất là gần gũi, tiếp xúc, thân cận với những bậc thiện tri thức, những người đang đi trên đường Đạo. Thí dụ như trong một tiền kiếp ta có dịp tiếp xúc với một vị đạo sư, giám mục, một người bề trên có kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Ta hết sức khâm phục và thiết tha mong rằng mình sẽ có các kinh nghiệm như vậy. Một hoài bão như thế chắc chắn sẽ giúp ta gặp Đạo trong kiếp sau. Nhân duyên thứ hai là nghiên cứu sách vở, nghe giảng giải về đạo lý. Càng ham nghiên cứu ta càng muốn tìm hiểu và đi sâu vào Đạo nhiều hơn, dĩ nhiên khi hiểu biết, ta sẽ thay đổi đời sống để cho nó có ý nghĩa hơn và đó là bước chân vào đường Đạo. Nhân duyên thứ ba là sự mở mang trí tuệ, vì một lý do nào đó, ta nhận thức những việc xảy ra rồi phân vân, đặt câu hỏi tại sao nó lại xảy ra như vậy? Từ sự hoài nghi ta suy ngẫm, quan sát, học hỏi bằng sức mạnh của tư tưởng và có thể khám phá ra chìa khoá mầu nhiệm, các nguyên tắc đạo lý. Đây là con đường tu Thiền mà các ông đã nghe nói đến. Nhân duyên thứ tư là sự trau dồi hạnh kiểm, tu thân, làm những việc thiện, mở rộng lòng bác ái, quên mình để giúp đỡ mọi người và dần dần ánh sáng tâm linh sẽ soi sáng tâm hồn ta. - Xin ông cho biết thêm về các bậc Siêu nhân mà ông đã từng tiếp xúc. Bakhtir mỉm cười, vuốt nhẹ chùm râu bạc: - Tôi đã gặp nhiều đạo sư có quyền năng siêu việt, có vị đã sống nhiều thế kỷ và đạt quả vị rất cao. Điều đặc biệt là các ngài xét mọi sự vật với quan niệm khác hẳn chúng ta vì trong tư tưởng các ngài không còn một chút ích kỷ như đa số chúng ta. Các ngài đã loại trừ bản ngã thấp hèn, không còn sống cho mình mà cho tất cả. Ngoài đặc tính đó, các ngài còn phát triển hoàn toàn về mọi phương diện. Đa số chúng ta đều bất toàn, không mấy ai đạt đến trình độ cao tột. Ngay cả các nhà thông thái, bác học cũng chỉ đạt đến trình độ cao tột trên một phương diện nào đó thôi, và còn nhiều khía cạnh khác chưa được hoàn hảo. Chúng ta đều có mầm mống của mọi đặc tính, nhưng chỉ một vài phần thức động và phát triển không đồng đều. Các bậc Siêu nhân là người đã phát triển toàn vẹn mọi đặc tính trên phương diện ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Phần lớn các vị Siêu nhân đều có hình dáng bề ngoài tốt đẹp. Xác thân các ngài đều hoàn toàn về mọi phương diện và ít chịu ảnh hưởng của thời gian, có vị đã sống nhiều thế kỷ mà trông vẫn khoẻ mạnh như một người ngũ tuần. Tôi đã gặp một vị đạo sư sống hơn 2.000 năm nay, ngài cai quản một viện cổ tàng trong lòng núi. Viện cổ tàng này chứa đựng rất nhiều tài liệu dồi dào, phong phú dường như để ghi lại dấu tích toàn thể lịch sử tiến hoá của nhân loại. Trong đó có chứa đựng các hình thể của nhiều giống người đã sống trên mặt địa cầu, từ giống dân Lemura đến các loài người khổng lồ từ thời xa xưa. Có các mô hình diễn tả sự biến đổi của lớp vỏ địa cầu sau các thiên tai, cũng như sự di chuyển của các giống dân trên các lục địa. Có các bản thảo bút tự rất cổ của những bậc đạo sư, giáo chủ, như có một bản viết của chính Đức Phật khi Ngài còn là Thái tử Siđharta. Có các ngăn tủ bằng gỗ lim kiên cố chứa các tài liệu giáo lý nhiệm mầu, có thứ viết bằng các văn tự lạ lùng của những nền văn minh đã biến mất từ lâu. Ngoài ra còn có các bản đồ, mô hình các thành phố cổ xưa của quá khứ cũng như các di tích động vật rất cổ xưa... Giáo sư Mortimer lên tiếng: - Ông có nhớ chỗ đó không? Làm sao có thể đến nơi đó được? Đạo sĩ nghiêm nghị: - Dãy Hy Mã Lạp Sơn không phải nơi ai muốn đi, muốn đến dễ dàng vì nó chứa đựng nhiều bí mật huyền bí và có các tinh linh canh giữ, phải có một nhân duyên lớn mới có thể đến các thánh địa đó được. - Nhưng tại sao các bậc Siêu nhân lại cứ ẩn lánh, không ra mặt giúp đỡ nhân loại, không công bố các tài liệu mầu nhiệm đó cho mọi người? Cất dấu như thế có lợi gì đâu? - Các ngài lúc nào cũng giúp đỡ nhân loại bằng cách ban rải các luồng thần lực xuống trần gian để muôn loài có thể hưởng thụ, chả khác nào ánh sáng mặt trời đối với cây cỏ. Sự giúp đỡ của các ngài hết sức rộng lớn, ngoài sự tưởng tượng và tầm hiểu biết của con người. Việc công bố hay cất dấu các tài liệu đều có lý do mà ta không thể nghĩ bàn được... - Theo thuyết tiến hoá ông vừa trình bày, thì trên con người còn có một đời sống siêu nhân, và như thế hẳn còn các bậc cao cấp nữa? Bakhtir bật cười một hồi rồi mới trả lời: - Các ông vẫn còn quan niệm cấp bậc, hơn kém, chức tước... Một khi đã giải thoát khỏi luân hồi, sinh tử, trở nên một bậc Chân tiên thì thánh đạo chia ra làm bảy con đường cho các ngài chọn lựa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết của tôi còn nông cạn và thiếu sót nên tôi chỉ có thể cắt nghĩa một cách sơ lược. Các ngài có thể bước vào những cảnh giới vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta, các cảnh giới này có tên gọi như: Thượng thiên, Phi tưởng xứ, Phi phi tưởng xứ, Niết bàn... Sau khi bước vào các cõi này, một ngày nào đó các ngài sẽ chuyển kiếp xuống trần gian trong bầu thế giới tương lai như một bậc giáo chủ. Đây là con đường Dharmakaya. Các ngài có thể bước vào trạng thái tâm linh với một ý nghĩa huyền bí mà tôi không biết rõ, đây là con đường Sambhogakya. Các ngài có thể hoà hợp với kho thần lực vũ trụ để làm các công việc hợp với định luật vũ trụ, đây là con đường Nirmanakya. Các ngài có thể ở lại thế gian, giúp đỡ nhân loại, dưới hình thức một vị Bồ Tát, đây là con đường Bồ Tát Đạo (Boshivartakya). Những con đường khác ra sao, tôi không được biết rõ. Theo sự hiểu biết của tôi thì số người giải thoát đã ít, mà số người ở lại để giúp đỡ thế gian còn ít hơn. Hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một Đức Chưởng giáo tương lai mà danh từ chính xác nhất được gọi là Di Lạc Bồ Tát. Bakhtir im lặng một hồi rồi tuyên bố: - Một ngày nào đó các ông sẽ hiểu biết rõ hơn điều tôi muốn nói. Thật ra các điều này đã được tiên đoán từ lâu và lưu trữ trong một viện cổ tàng ngầm dưới lòng núi xứ Tây Tạng. Các tài liệu này được các đức Lạt Ma giữ gìn rất cẩn thận. - Làm sao chúng tôi có thể xem các tài liệu vô giá đó. Xứ Tây Tạng vẫn còn chính sách bế môn toả cảng, không giao tiếp với bên ngoài, nhất là với người da trắng? Bakhtir mỉm cười bí mật: - Này các ông bạn, tôi chỉ có thể nói như thế này thôi. Sự hiện diện của các ông tại xứ Ấn không phải một việc ngẫu nhiên. Các ông tốn suốt mấy năm đi sưu tầm chân lý mà có thấy gì đâu, có đúng không? Đó chẳng qua chỉ là một thử thách mà thôi. Các ông không thấy chỉ một thời gian ngắn mà các ông đã tiếp xúc với các đạo sư minh triết nổi tiếng nhất Ấn Độ và được tiết lộ những điều chưa từng công bố cho một người Âu nào? Nếu không có thông điệp của một vị Chân sư thì làm sao các ông gặp được những người mà ngay cả tín đồ thuần hành nhất xứ Ấn cũng không dễ gì gặp được. Trong một xã hội đầy dị đoan, mê tín, hình bóng chân lý gần như phai mờ, người dân xứ này muốn còn phải mất công, thế mà các ông được chỉ dẫn những điều vô giá một cách dễ dàng. Có bao giờ các ông tự hỏi tại sao không? Một người Âu chả bao giờ chịu ngồi chung chiếu với người Ấn, vì hệ thống dị biệt, nhưng các ông đã gác bỏ thành kiến đó, dẹp bỏ tự hào dân tộc để ngồi cạnh những đạo sư rách rưới, đó là một cố gắng không nhỏ. Các ông đã vạch qua rừng người mê tín, các đạo sĩ giả mạo, bịp bợm, các tu sĩ không chân chính để tìm gặp những người đáng gặp gỡ và chăm chú nghe dạy bảo. Đó không phải là việc dễ dàng, có thể các ông không biết, nhưng các ông đã vượt qua những thử thách phi thường. Tây Tạng không bao giờ đón nhận một du khách bên ngoài, nhưng với các ông sẽ là một ngoại lệ, vì các ông được che chở bởi một vị Chân sư. Các ông sẽ lãnh một sứ mạng lớn là kêu gọi thế giới bên ngoài hãy quay về phương Đông, với quê hương tinh thần của họ. Quay về không phải để tìm kiếm một chân lý mới, một tôn giáo mới hay một kiến thức gì mới lạ. Nhưng để hiểu biết rằng chân lý luôn luôn ẩn tàng khắp nơi, tôn giáo chỉ là những con đường khác nhau đưa đến chân lý. Toàn thể phái đoàn yên lặng nhìn nhau, quả là chỉ một thời gian ngắn họ đã gặp biết bao đạo sư, được chỉ dạy những chân lý quý báu. Đó không phải một may mắn tình cờ mà như có sự sắp đặt trước. - Ông biết rằng có một vị Chân sư muốn giúp đỡ chúng tôi? - Đúng thế! Tôi biết rõ chuyện này nên các ông mới có thể gặp tôi hôm nay. Tôi biết các ông đang khao khát sự hiểu biết, thật ra một số trong các ông đã từng học Đạo từ tiền kiếp, nay trở lại Ấn Độ dưới bộ da người ngoại quốc. Tuy nhiên, các ông không nhớ những điều đã học. Nhưng khi nhân duyên đến, các ông sẽ phục hồi ký ức. Định mệnh đã dẫn dắt các ông trở lại Á Châu để hoàn tất một sứ mạng cao cả... Toàn thể mọi người ngạc nhiên và xúc động vô cùng. Lòng ao ước gặp vị Chân sư bí mật gia tăng. Giáo sư Mortimer cố gắng thốt lên vài câu: - Nhưng đến bao giờ chúng tôi mới có thể gặp Ngài? - Thời gian không còn lâu nữa, đến khi đó các ông sẽ biết. Tôi chỉ có thể nói đến đây thôi. Phái đoàn im lặng hồi lâu, sau cùng giáo sư Wentz lên tiếng: - Chúng tôi nghe nói ông biết thuật khinh công? Đạo sĩ bật cười: - Điều này đâu có gì lạ. Chỉ là một phương tiện di chuyển tầm thường, nhỏ mọn mà thôi. - Nhưng điều này phản khoa học, làm sao có thể chứng minh được? Bakhtir mỉm cười gõ nhẹ lên chiếc gậy trúc, bất ngờ thân hình ông ta nhấc bổng lên không trung như có một sợi dây vô hình kéo lên. Ông ta vẫn ngồi yên trong tư thế liên hoa không cử động. Toàn thể mọi người sửng sốt, tuy họ đã chứng kiến nhiều phép lạ nhưng sự kiện bay bổng lên không trung là một điều lạ lùng, ngoài tưởng tượng. Đạo sĩ bỗng xoay mình, thân thể ông bỗng như một cơn lốc bay vọt ra xa với một tốc độ rất nhanh, chỉ trong chớp mắt ông đã xa cách phái đoàn đến mấy chục thước. Đạo sĩ nói vọng lại: - Này các ông, tại sao con người lại phải bò lết trên mặt đất? Nếu loài người có quyền năng hơn loài thú thì y phải bay cao hơn chim, lội nhanh hơn cá chứ? Tại sao y không làm được như vậy? Phải chăng đó là quan niệm duy vật về bản chất của mình? Tư tưởng của y nghĩ rằng mình chỉ có thể đi được mà thôi. Tùy cảm nghĩ mà con người bị giới hạn hay không giới hạn, tự do hay nô lệ. Nếu biết rõ mình và phát triển khả năng của mình một cách đúng đắn, họ có thể làm hầu như mọi chuyện. Đạo sĩ lao mình vùn vụt trên con đường đất ngoằn ngoèo, chỉ qua mấy phút ông đã mất hút, chỉ để lại phía sau một đám bụi mờ. Tất cả mọi người xúc động, không ai nói nên lời, giáo sư Mortimer cầm máy ảnh nhưng không sao chụp được. … Giáo sư Mortimer run giọng: - Vậy theo ông việc gì sẽ xảy ra cho thế kỷ XX này? Sudeih Babu - Nhà chiêm tinh giỏi nhất Ấn Độ im lặng suy nghĩ một lúc rồi trả lời: Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cùng thuyết “Tiến hóa” của Darwin, và phong trào Thiên Chúa giáo tự do. Từ đây băt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. CÓ hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Thế kỷ XX bắt đầu với sự phát triển cực thịnh của thuyết Duy vật. Con người bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp các thử thách mà như cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách mãnh liệt. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thức đẩy sự tiến hóa tâm linh. Cuối thế kỷ XX, phong trào Duy vật sẽ sụp đổ, hiện tương nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu. Này các ông bạn, bạn là những người đi tiên phong. Trước khi một sự phổ thông “Bí giáo” được thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nảy mầm. Đó là lý do các bạn được thúc đẩy để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí phương Đông. Tác giả viết rằng: hiện nay, tất cả đang chuẩn bị cho một vận hội mới, đó là sự lâm phàm của một Đức Chưởng giáo tương lai, mà danh từ chính xác nhất được gọi là Di Lạc Bồ Tát và sự phổ thông của Bí giáo được thực hiện giúp cho nhân loại tiến bộ torng lĩnh vực tâm linh. Hội Thông Thiên Học Người lập ra hội Thông Thiên Học hàng đầu của thế kỷ XIX, bà Blavatsky (1831-1891) đã tiên đoán rằng đức Di Lạc sẽ lộ diện tại Á Châu trong khoảng năm 1950: “chúng ta đang ở trong giai đoạn cuối của chu kỳ 5.000 năm của thời kỳ Mạt pháp (Kali-yuga) hay là thời kỳ hắc ám, sau thời kỳ này là thời kỳ ánh sáng. Một sứ giả tâm linh mới sẽ được gởi đến các quốc gia phương Tây với một thông điệp tinh thần hoàn toàn mới lạ.”. Các tác phẩm quan trọng nhất của bà Blavatsky bao gồm: Những học thuyết bí ẩn, Nữ thần Isis lộ diện… Họ là những người được kính trọng, những người đã truyền cảm hứng cho việc tìm kiếm xã hội Thần bí vào năm 1875 ở New York. Qua người đại diện H.P Blavatsky, họ đã được thực hiện một bước khác trong kế hoạch chủ yếu của mình để nâng cao trình độ cho con người và đánh dấu sự khởi đầu cho một thời đại Hoàng Kim. Ở thời đại của chúng ta, kế hoạch này đòi hỏi sự đi xuống từ dãy Himalaya và sự xuất hiện trong thế giới bởi những bậc thầy vị tha bất tử, đã được dẫn dắt những bậc thầy đó không phải ai khác hơn là Thánh Di Lạc (Maitreya), bậc thầy của những bậc thầy, bậc hiền nhân của nhân loại trong kỷ nguyên mới. (trích cuốn Tiếng gọi của mặt trời, tác giả Surya Green, dịch giả Nguyễn Kim Dân, Nxb Từ điển Bách khoa, 2009). Cờ Phật giáo Tác giả Henry Steel Olcott, Hoa Kỳ file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpg Người phác họa ra lá cờ Phật Giáo Thế Giới là ông Henry Steel Olcott, sinh ngày 2-8-1832 tại New Jersey - Hoa Kỳ và mất ngày 17-2-1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Khoảng năm 1875, ông chưa hề học hỏi về giáo lý nhà Phật, nhưng khi cơ duyên đã tới, ông là phóng viên của tờ báo The New-York Daily Graphic, đã giao cho ông nhiệm vụ gặp một phụ nữ người Nga tên là Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891) để viết bài về những sự kiện huyền bí. Tại nông trại của Eddys ở New York, hai người đã gặp nhau, từ đó bà Blavatsky đã hướng dẫn ông trên con đường đạo. Ngoài ra, trong hội Thông Thiên Học, còn có ngài Ziddu Khrisna Murti (1895-1986) triết gia Ấn Độ, với biệt danh người trầm tưởng vĩ đại. Khrisna Murti được các người thuộc hội Thông Thiên Học tôn sùng như hóa thân của Phật Di Lạc, nhưng sau này ông đã quyết liệt từ chối danh xưng trên và đã rời bỏ hội. Những lời tiên tri đã ứng nghiệm trong thực tế Câu chuyện kể về cuộc đời “Phật Sống” Lưu Công Danh giống như một huyền thoại. Ông sinh ngày 29/12/1900 tại tỉnh Kiên Giang, Việt Nam và hóa vào ngày 31/5/2003. Cuộc đời ông trải qua bao thăng trầm, từ việc ra đi tìm kế sinh nhai, có cơ duyên lập gia đình với người vợ Ấn Độ, sau đó đi tu thành Phật (năm vào rừng 1934, năm ra khỏi rừng 1939, cũng năm này ông về Ấn Độ và năm 1941 sang Campuchia trụ trì ở chùa Prệp Pra), du hành qua nhiều quốc gia và quay trở về tổ quốc. Ông là người thứ ba đắc quả vị Phật Sống tại ngôi chùa Tây Phương, chính tay Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni cùng các đệ tử xây dựng hơn 2.500 năm trước, trong khu rừng già xứ sở Ấn Độ. Ông đã thông linh trực tiếp với Đấng Tam Tông, hỏi về tình hình cá nhân mình, của Việt Nam và thế giới, và nghe những bài thuyết pháp chính từ Đấng Tam Tông (Đấng lo tôn giáo cho loài người) hết sức cụ thể, đến từng chi tiết xảy ra trong tương lai. Sau đây là nội dung tiên tri: Tiên đoán số phận Phật Sống Khi đi gần 6 năm, khi về độ hai năm vì ngươi ghé lại các chùa và nhờ sự giúp đỡ đưa đón của các chùa, chỉ đường cho ngươi đi nhanh, đức tin giúp cho ngươi có sức mạnh. Về đến nước Ấn Độ, hai năm sau đó chính quyền Anh đưa ngươi về Anh quốc vì sợ uy tín của ngươi động viên dân Ấn đòi dộc lập. Sang Anh quốc, ngươi được bảo vệ chu đáo, ăn ở sang trọng nhưng bị biệt lập. Ở Anh quốc hai năm, ngươi nhờ chính phủ Ấn can thiệp cho ngươi về một quốc gia có biên giới liền với nước ngươi được sinh ra. Ở vương quốc này, ngươi được vị vua cất cung điện cho ngươi và được tôn vinh vì sự thành chính quả của ngươi là Đức Phật Sống. Lục vua của nước này cũng được cá chùa ở Ấn báo tin sự đắc quả của ngươi thành Phật Sống. Các chùa này cũng mong nhà ngươi đến thuyết pháp. Các chùa đã báo tin cho các chùa lớn torgn toàn quốc. Ngươi ở lại vương quốc này cho đến khi nước Việt Nam có chính kiến đòi độc lập với Pháp, ngươi phải trở về nước tham gia vào việc chống ngoại xâm. Sau đó ngươi được gặp lại người vợ ở Ấn. Tiếp đó ngươi được cử qua một nước ở Châu Âu để học quân sự hơn một năm. Tại nơi học, tâm linh của ngươi đã được báo trước nước này sẽ có chính biến lớn đổi thay cả màu cờ, cả khối tan rã. Ngươi đem việc này ra nói với với người cùng học. Sau đó ngươi được cho về nước với lý do học kém vì sợ ảnh hưởng đến ngoại giao hai nước. Về nước, đến khi nước nhà toàn thắng, ngươi được vế quê quán trở lại đời thường và và tịch diệt ở nơi hẻo lánh. Tiên đoán về thế sự Độ 4800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có trăng. Đấng Tam Tông kết luận: có con người là có tất cả, không có con người là không có gì cả. Thiên nhiên tính ôn hòa nhưng con người đang làm thái quá phá hủy quy luật ôn hòa thì sẽ bị chính thiên nhiên trừng phạt bằng hai hình thức: nóng đến cực điểm và lạnh đến cực điểm. Sự sống trên trái đất sẽ bị diệt vong hoàn toàn. Độ 10 năm nữa có cuộc chiến Á Âu lớn lắm. Sau cuộc chiến này có nhiều nước thoát khỏi cảnh sống nô lệ. Thế giới lập lại nền trật tự mới. Thế lực các nước giằng co nhau. Nước gây chiến tranh bại trận đầu hàng. Sau chiến tranh, Ấn Độ được độc lập nhưng không còn nguyên vẹn: Đông Hồi, Tây Hồi, Nepal không còn là tiểu vương quốc của Ấn Độ nữa. Còn Kashmir cũng bị chia làm ba: Ấn Độ một phần, Trung Quốc một phần và Tây Hồi một phần. Cuộc tranh giàng tại đó giữa Ấn Độ và Trung Quốc khó tránh khỏi nổ ra chiến tranh. Nhưng sau chiến tranh là hòa bình lâu dài. Còn Ấn Độ với Tây Hồi thì có sự cạnh tranh chấp rất lâu dài vì không ai nhường cho ai, người dân chịu nhiều đau khổ. Phải chờ đến khi tổng thống Tây Hồi là người Ấn Độ sinh ra tại Tây Hồi, như tiền định. Vì nhớ cội nguồn nên sự thù hằn, tranh chấp được giải quyết ôn hòa đi đến hòa bình lâu dài. Vì nghĩa cũ tình xưa nơi cất tiếng khóc chào đời, nhớ lại dòng sữa ban đầu rồi cơm ăn nước uống mà việc giải quyết có tình có lý êm đẹp hơn. Sau chiến tranh, Việt Nam độc lập nhưng còn phải trải qua hai cuộc chiến tranh chống xâm lược xong rồi mới hoàn toàn độc lập thống nhất, được thế giới kính nể. Trung Quốc độc lập sau Ấn Độ nhưng không trọn vẹn lãnh thổ. Chế độ quân chủ bị xóa hoàn toàn. Chế độ mới vì người nghèo được thành lập. Còn Cao Miên, Ai Lao nhờ cùng Việt Nam đứng lên chống xâm lược nên cũng được độc lập. Riêng nước Cao Miên phải gặp một đại họa, sau đại họa thì được an cư. Nước Cao Ly độc lập chia hai thành Nam, Bắc là do cường quốc chiến thắng muốn “chia sức mạnh”. Nhật đầu hàng vô điều kiện nhưng vẫn còn vua. Vua lỗi thời, trước sau cũng bị phế truất. Kết quả là những lời tiên tri hầu hết hoàn toàn chính xác, đặc biệt trong đó có nói: “Độ 4.800 năm nữa, ngày Chúa giáng sinh không có trăng” và “Sự sống trên trái đất sẽ bị diệt vong hoàn toàn”. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu trong các chương sau. Sự kiện xảy ra trong cuộc đời Phật Sống Lưu Công Danh là bằng chứng cho biết những lời tiên tri đã ứng nghiệm, và vì vậy những lời tiên tri khác trên thế cũng có khả năng chính xác, bởi sự giống nhau trong những lời tiên tri đều nhận định chung về một vị Thánh nhân sẽ xuất hiện và rao giảng chính pháp cho nhân gian. (Trích một phần nội dung từ cuốn Di ngôn Phật Sống Lưu Công Danh, tác giả Hà Văn Thùy, Nxb Văn học, 2008). Những người có khả năng đặc biệt Người có điển lành cô Trúc Lâm Nương, Việt Nam Cô Trúc Lâm Nương cũng giải thuyết rằng thời kỳ này là thời kỳ mạt pháp, cuộc đời sẽ tiến đến cơ tiêu diệt, mà đó cũng chẳng qua là luật tuần hoàn đã định, vì chúng sinh gây quá nhiều quả báo, cho nên hễ vay nhiều thì phải trả nặng. Và để cứu vớt chúng sinh trong thời kỳ mạt pháp, các đấng Phật, Thánh, Thần, Tiên lâm phàm: Là tri kỷ, đôi lời ta in nhắn, Phật, Thánh, Tiên xuất hiện nước non nhà. Độ chúng sinh, giữ vững khắp sơn hà, Đời mạt pháp hoằng khai thành chính pháp. Chính nhờ phép màu của Phật, Thánh, Tiên mà các hùng binh đều giải giáp, Thánh Chúa xuất hiện tại Việt Nam, lập lên đời Thượng nguyên vô cùng rực rỡ. Chúa thánh trong bài thơ có khả năng là vua Lạc Long Quân: Cơ màu nhiệm hùng binh đều giải giáp, Đời Thượng nguyên rực rỡ áng mây hồng. Khắp bầu trời tỏ rạng bóng Lạc Long, Cùng Chúa Thánh điểm tô sông núi Việt. Trước khi đi đến Hội Long Hoa, loài người phải điêu linh về tai trời ách nước như chiến tranh, nạn hồng thủy, sóng thần, dịch bệnh…, lúc này Việt Nam có Thánh chúa giáng lâm và sẽ truyền bá chính pháp ra toàn thế giới, làm rạng danh non sông Việt, Cô Trúc Lâm Nương viết: Bão tố đầy trời ngoại xứ Âu, Nước tràn lợp đất đổ nghiêng bầu. Đau lòng bạt gió chim sa bẫy, Não dạ mê mồi cá mắc câu. Rồng lộn sông vàng mây tái mặt, Sấm rền rừng thẳm núi tơi đầu. Việt Nam tỏ rạng màu Anh Thánh, Rưới đức năm châu, chủ bá hầu. Về Hội Long Hoa, cô Trúc lâm Nương có bài thơ sau đây, với câu khoán thủ “ Long Hoa Đại Hội hợp nhất linh căn”, không chỉ Phật Di Lạc ngự tại Việt Nam mà có lẽ, còn có Quan Âm Bồ Tát nữa?: Long môn Di Lạc ngự tòa sen, Hoa quí Quan Âm tọa trước đèn. Đại mở chân thần nhuần thạch thủy, Hội hòa kim tánh đượm hương sen. Hợp hoàn chín cõi trên thềm ngọc, Nhất thống năm châu dưới ánh đèn. Linh diệu phép màu qui một mối, Căn nguyên hòan bổn thắm mùi sen. Một bài thơ đã giải về cõi đời Hạ nguyên, hiện tượng khi “ba tiếng sấm nổ”, báo hiệu Hội Long Hoa bắt đầu: “Tam giáo qui nhất - Ngũ Chi hiệp Thiên đạo” nghĩa là thống nhất Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các tôn giáo lớn như Bà La Môn giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo… hiệp chung Thiên Đạo nhưng không đồng nghĩa bỏ đạo của minh theo đạo mới, mà biểu hiện công cuộc hồi sinh Chính pháp của Đức Chí Tôn. Chính pháp thể hiện ra ở ở chỗ tổng hợp tinh hoa, đắc nhất của Tam giáo và các tôn giáo khác. Giống dân Hồng Lạc sẽ lập nên dòng Bích Ngọc, vạn quốc tới chiêm bái Thánh địa: Việt Nam xuất hiện Hạ nguyên kỳ, Thánh Tổ lâm phàm hiệp Ngũ Chi. Ba tiếng sấm vang khai địa huyệt, Bảy nguồn Thủy dựng tảo sơn kỳ. Rồng mây Phật Hội Phong Thần mạng, Sen nở, Long Hoa vạn quốc qui. Ớ hỡi! Lạc Hồng nền bích ngọc, Vững lòng Chúa ẩn, hạnh duyên tùy. Cô Trúc Lâm Nương cho rằng giống dân Lạc Hồng sẽ trổ mặt, bình trị bốn phương, các nước đều lai đầu Minh Chúa: Non tòng vị thắm chảy tràn Âu, Bát ngát hương bay khắp trọn bầu. Đương lúc gió đùa cây đổi lá, Giữa mùa sóng bủa cá vương câu. Ra nhân mở khóa năm châu hội, Trổ đức khai cơ tám hướng chầu. Hồng Lạc làu làu lòa ngọc chiếu, Bốn phương bình trị đến minh hầu. Giống dân Lạc Hồng qui phục được năm cõi mà lập nên đời Nghiêu Thuấn, chính pháp sẽ đưa con người về miền an lạc, ngay cả trong cõi đời này: Thuyền Giác muốn chèo đến bến Âu, Đón đưa căn quí hội chung bầu. Bởi xa rừng Thánh, hùm sa lưới, Vì đắm bến Trần, ngạc vướng câu. Rối dạ gió đùa dê tản lạc, Thỏa lòng biển cạn nước quay đầu. Ai hay Hồng Lạc qui năm cõi, Đất Thuấn Trời Nghiêu tụ một bầu. Cô Trúc lâm Nương nhận định rằng đến thời kỳ lập đời Thượng nguyên, đất Thuấn trời Nghiêu, thì Tam giáo qui nhất, Đức Phật Vương Di Lạc ra mặt hoằng khai chính pháp, các thánh thần tụ họp trong hội Bàn đào của Tây Vương Mẫu: Lập đời thượng cổ Đạo cao thâm, Tam giáo qui nguyên định chẳng lầm. Chính pháp hoằng khai ngôi Di Lạc, Quần tu phổ độ sắc Quan Âm. Tam thiên Ngũ hiệp qui lai thế, Thất thập nhị hiền tụ giáng lâm. Bốn hướng tuần du công Thánh Mẫu, Bàn đào mở hội đón linh căn. Chính đó là thời kỳ bình trị, muôn dân lạc nghiệp âu ca, chừng đó mới biết nhà Nam có chốn mang tên “Bảo Hà”: Lạc Hồng rỡ rỡ chốn triều ca, Mới biết nhà Nam có Bảo hà. Xích Tử ra đời an vạn quốc, Hào quang chói rạng khắp gần xa. Xà chuyển ánh hồng rọi sắc Long, Mới hay cháu Phụng với con Rồng. Càn Khôn chuyển máy Âm Dương định, Rực rỡ muôn năm ánh Lạc Hồng. Thượng cổ lai hoàn dấu Lạc Long, Huyền cơ xoay chuyển rực trời hồng. Vân môn trước địa chi thiên lý, Hội chốn Bảo hà mới rõ thông. Nhưng chốn Bảo Hà cũng thường gọi là Bảo Giang ở đâu? chính đó là bí quyết để tìm ra chỗ Thánh vương xuất hiện, mà cô Trúc Lâm Nương thường thử thách: Đố ai biết Bảo giang môn? Là nơi Thánh địa Thiên Tôn định phần. Làu làu ngọc chiếu cảnh trần, Là nơi Tiên, Phật, Thánh, Thần xuất thân. Xuất kim thân hóa kim thân, Ly nơi Đông thổ xoay vần Tây phương. Hay: Tìm cho đến Bảo giang môn, Là nơi Chúa Thánh Chí Tôn tọa thiền. Cầu xin được phép diệu huyền, Hài vân thoăn thoát đến miền Đế Kinh. Đợi thời trăng lặng bể kình, Long Hoa thành tựu phỉ tình ngao du. Về danh từ Bảo Giang hay Bảo Hà, chúng ta thấy cô vẫn nhắc đến luôn nhưng Bảo giang ở nơi nào? Nếu nghiên cứu về Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chắc nhận thấy danh từ Bảo Giang cũng được xuất hiện: Lại nói sự Hoàng giang sinh Thánh, Sông Bảo giang Thiên định ai hay? Hoặc là: Trí xem nhiệm nhặt cho tường, Bảo giang Thánh xuất trung ương thuở này. Hay là: Bảo giang Thiên tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành. Cô cho biết Bảo giang là nơi xuất Thánh nhưng không chỉ Bảo giang là ở nơi nào. Cô rất tha thiết trông mong Thánh vương xuất hiện: Chí khí công minh chí nguyện thành, Tâm hòa ý đẹp nhất tầm sinh. Mộng người đại đức nơi thềm ngọc, Tưởng kẻ từ bi chốn cửa thanh. Thánh đạo nghiệp duyên còn chọn đón, Vương minh ngôi vị sẵn riêng dành. Xuất năm Rồng giỡn cùng non nước, Hiện giữa trời Nam một giống lành. Giáo huấn tâm linh của tiến sĩ Lương Minh Đáng Giáo sư, Bác sĩ, Tiến sĩ, Huân tước, Đại hiệp sĩ Prof. Dr. Sir Master Lương Minh Đáng (1942-2007), người sáng lập ra pháp môn Nhân Điện trên toàn thế giới với mục đích ”Nhân Loại - Giác ngộ - Tình thương”. Sau khi mất, các môn sinh thông linh trực tiếp với linh hồn ông và nhận được một số giáo huấn tâm linh, dưới đây là trích dẫn nội dung Giáo huấn số 8 của giáo chủ Lương Minh Đáng 21 tháng 8, năm 2008: Hơn thầy, trần gian sẽ có, Sẽ có một người, thầy thường nhắc luôn. Một người thương hết mọi người, Mọi người cũng sẽ yêu thương người này. Người này linh hồn thuở xưa, Thuở xưa trở lại, Thượng Thiên mong chờ. Mong chờ xuất thế lập đời, Lập đời, đổi hết từ trong ra ngoài. Thánh nhân trở lại ở trong tình trạng “linh hồn”, được sự mong chờ của Thượng Thiên đã từ lâu. Vị Thánh nhân này chắc có lẽ, mọi người thực ra cũng đã biết?, ngài sẽ xuất thế lập đời, trùng tổ canh tân. Thông điệp tâm linh của một thiền sinh Thiền sinh nhận được một số thông điệp tâm linh, tuy nhiên chỉ ghi nhận một phần nội dung Thông điệp số 2, giai đoạn 3 ngày 07/06/2010: … Thời nay, may mắn là có hai vị Tự Chủ xuống trần gian, ở cùng một địa cầu và xuống cùng một Thánh địa Âu Lạc nữa. Là điều quan trọng Ngài Tạo Hóa đã ân điển và sắp xếp rồi, ngày nay địa cầu này là may mắn nhất so với các tinh cầu khác, vũ trụ và hằng hà sa số đại vũ trụ Càn Khôn nữa. Sư phụ Tự chủ Đấng sáng tạo nói tiếp, từ lúc bây giờ đây là thời cuối, kết thúc của đại chu kỳ này, là thanh lọc sạch sẽ, sửa sang tất cả lại, thì sự việc này đâu có dễ chút nào đâu. Nên chúng ta hãy cẩn thận mà trân quý từng giây phút này để nhận được năng lực to lớn vô cùng tận. Khi Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo hiện hữu tại thế là vô cùng quý báu, chưa từng có bao giờ, đừng để chậm lại thì uổng lắm đó. Hãy trân quý, trân quý từng sátna, từng giây, từng phút, từng giờ. Trong giây phút khẩn cấp, nóng bỏng này, nhớ ghi lấy lời Ngài dạy và gìn giữ không được gợn động, giữ im lặng. Nhớ nhất là trong khi Ngài giảng kinh tạng sống thì chấn động lực phát ra trực tiếp từ Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo vô cùng mạnh mẽ và xóa đi biết bao nhiêu kiếp sống của con người từ hữu hình đến vô hình, còn tồn tại trong thân của chúng ta, mỗi một kiếp sống lại tạo ra biết bao nhiêu nghiệp chướng. Giờ đây may mắn quá sức rồi, được Ngài gội rửa đi, chứ nói tu gì đâu mà tu, ân điển thời mạt pháp này Ngài xuống để cứu rỗi những linh hồn đang đắm chìm triền miên, khổ ải không biết bao tỷ tỷ năm nữa cả, nên họ ở mãi đó thôi, làm sao thoát cho được. Nên thời nay mạt pháp, đúng lẽ ra không bao giờ có cả, chỉ có thời đại chính pháp các Ngài mới xuất hiện mà thôi. Nhưng ân điển quá lớn, thời mạt pháp lại có hai vị Tự Chủ xuống cùng một lúc, ở cùng một địa cầu, tại cùng Thánh địa Âu Lạc. Vô cùng, vô cùng quý báu, quý báu, mà con người lại còn làm chuyện vô minh nữa, không biết đời nào mới thoát ra được, nên giờ đây Ngài phải cứu tất cả linh hồn đó, còn có những linh hồn còn sống họ khát khao tìm về chân lý thì Ngài sẽ giúp cho liền và trực tiếp dạy dỗ cho họ. Điểm quan trọng là nơi đây, chứ nói chi ba cái chuyện mà các ông bà lãnh đạo chưa làm được, nên phải cứu giúp họ là ở điểm quan trọng này đây, còn lại những chuyện khác chưa tính tới. Chúng ta quá ư nhiều phước báu, lại ở gần Ngài, trực tiếp gặp Ngài trong Kim Cương thân Ngài nữa. Chao ôi! Quá tuyệt vời rồi, nên chúng ta phải cướp lấy từ giây phút này nhé các bạn. … vì vậy, thời đại nào cũng có Minh Sư cao cấp xuống trần gian để cứu lại địa cầu và giữ được địa cầu, đó là điểm quan trọng. Chứ để loài người sống tự do thì không còn gì mà tồn tại cả, phá hủy hết. Khi Đấng Sáng Tạo đã dày công tạo dựng, tốn biết bao công năng của Tạo Hóa mới tạo được, mà con người sống trong đó coi rất bình thường nên mới phá hủy môt cách an nhiên, không thương tiếc. Con người chúng ta cũng vậy, linh hồn do Ngài sáng tạo mà cũng không gìn giữ, con người đem ba thứ thuốc độc hại chết đi linh hồn, điều này đáng sợ cho con người. Không biết bao giờ mới được làm người, mà không biết trân quý và giữ gìn nó mà học hỏi, tu hành để có được quyền Tự Chủ giống như các Ngài vậy. Tại họ còn quá vô minh, không biết con người quý đến mức nào, nên họ mới lầm lạc ở chỗ này, bỏ lỡ cơ hội làm người rồi thì biết bao lâu mới có được và gặp được Minh Sư cao cấp nữa thì khó đến trăm vạn lần, nên ngày nay là ân điển cho nhân loại quá rồi. Hãy trân quý mà nắm lấy cơ hội lần cuối, giữ gìn nó và bảo bọc để có thể gặp được Kim cương thân của Không Sư phụ Tự chủ Đấng Sáng tạo, về được cội nguồn nguyên thủy không có gì khó nữa. Mong tất cả con người, nhân loại, và tất cả vô giới hạn chúng sinh sớm được ân điển này. … Tại Thánh địa Âu Lạc, đất nước nhỏ bé kia, Mong nhân loại, đồng tu trong và ngoài nước, Hãy mau mau tìm về Âu Lạc quê hương, Thánh địa mẹ hiền ChingHai giáng thế. Hai vị Tự Chủ ở cùng một địa cầu, Nếu không có hai vị Tự Chủ ngự từ lâu, Địa cầu ngày nay thành tro bụi mất rồi, Chứ nói chi đến con người nhỏ mọn. Sống trong địa cầu chẳng biết bảo vệ cho Nếu không có hai vị Tự Chủ anh minh, Giữ được địa cầu tươi sáng lại, Nhờ năng lực Ngài nuôi dưỡng cả Càn Khôn, Bao bọc, thương yêu từng giây, từng phút. … Thông điệp nói về hai vị Thánh nhân tại nước Âu Lạc, Âu Lạc là tên gọi quốc gia Văn Lang thời vua An Dương Vương (thời gian tại vị khoảng từ 257-208 tr.CN). Điều này cho phép nhận định hai vị Thánh nhân có lịch sử trước cả thời cua An Dương Vương, nếu chấp nhận ý nghĩa Giáo huấn từ tiến sĩ Lương Minh Đáng, các vị mang dáng vẻ “linh hồn”. Thông điệp của công chúa Nhật Bản Đó là bài phát biểu của công chúa Nhật Bản Kaoru Nakamaru, trong Hội nghị Pythagoras toàn cầu 2012 vào ngày mồng 02/01/2012 vừa qua. Sau đây là nội dung bài diễn thuyết của bà: Tôi là Kaoru Nakamaru, công chúa Nhật Bản.cháu gái của Nhật hoàng Meiji Về cơ bản, loài người chúng ta là ánh sáng và tình thương, bởi vì đó là một phần của Đấng Tạo Hóa ban cho chúng ta, trong tâm hồn, và rằng chúng ta hiện thân ở đây nhờ thân xác thịt trên Trái đất, nhưng còn tinh thần thì đi, đi mãi, vẫn tiếp tục sống. Trên Trái đất này, tôi có thể nhớ được cuộc sống của mình, nhiều ngàn năm trước ở trên hành tinh này. Và ngoài ra tôi còn từng sống ở nhiều vùng đất khác nhau trên hành tinh này. Tất cả những ký ức đó trở lại với tôi, và tôi thậm chí còn có thể nói thứ ngôn ngữ mà tôi chưa từng học bao giờ [trong kiếp này]. Nghĩa là, thực sự, tôi đã trải nghiệm rằng thuyết luân hồi là sự thật. Vâng,… bất cứ ai lắng nghe hội thảo này đi nữa, cứ nghĩ như thể là loài người đang an toàn. Chúng ta đã bị chia rẽ sâu sắc từ sau năm 1913, một bên là những người tin vào quan niệm [luân hồi] loại này, còn một bên thì không. Họ đã chia rẽ vô cùng sâu sắc. Và với bên những người mà không hiểu điều này hoặc không tin điều này, hoặc hoàn toàn ngờ vực sự tồn tại của thế giới tâm linh, thì họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới khác rất giống như Trái đất này, những nơi đó đầy bạo lực và chiến tranh. Họ sẽ bị sinh ra ở những cảnh giới đó. Vì vậy, giờ đây chúng ta được chuẩn bị sẵn sàng nhờ hội thảo tuyệt diệu này. [Điều đó sẽ đến] rất sớm, rất nhanh. Chúng ta hãy xem tiếp các chương sau để xác minh lại bài pháp biểu này “sự tồn tại của thế giới tâm linh”. Thiên Tượng Kinh văn cổ luôn nói đến khi xuất hiện một vị Phật, Bồ Tát, Chúa, Thánh, Thần, Tiên thì xảy ra những hiện tượng tự nhiên, biểu lộ điềm báo trước sự kiện. Bằng con mắt huyền môn, các bậc chân sư hay những nhà nghiên cứu uyên thâm sẽ phát hiện ra, chúng ta hãy cùng tham khảo một số thiên tượng xảy ra trong thời gian qua, chắc chắn một số người cũng đã từng nhận biết trên các kênh thông tin phổ thông. Hoa Ưu đàm bà la bừng nở Truyền thuyết kể rằng hoa Ưu đàm Bà La (Udumbara) 3000 năm mới nở một lần. Đáng chú ý là trong những năm gần đây, hoa Ưu đàm đã được nhìn thấy khai nở ở nhiều nơi trên thế giới, truyền thuyết trở thành hiện thực, đã khiến hàng ngàn người chứng kiến cảm thấy vô cùng kinh ngạc và thích thú. Hoa Ưu đàm nở đã được trông thấy lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào năm 1997, những bông hoa sau đó đã được tìm thấy tại Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Bắc California, New York và Texas. Sự kiện hoa Ưu đàm khai nở có ý nghĩa gì. Theo kinh Phật ghi chép, “Ưu Đàm Bà La” trong tiếng Phạn, có nghĩa là “một loài hoa mang đến điềm lành từ Thiên đường.”, quyển 8 kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” của Phật giáo viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra, đây là một loài hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài.”. Tức là theo kinh Phật viết, sự khai nở của hoa Ưu đàm báo hiệu Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã tới thế gian, nói cách khác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã có dự ngôn từ rất lâu để nói với con người về thiên cơ rằng hoa Ưu Đàm sẽ khai nở khi Đức Chuyển Luân Thánh Vương truyền Pháp độ nhân. Hoa Ưu Đàm Bà La khai nở Tượng Bồ Tát, chùa Sumi Zen, Suncheon, Hàn Quốc (ảnh Minh Huệ) file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Theo kinh Phật ghi chép, Ưu Đàm Bà La trong tiếng Phạn có nghĩa là “một loài hoa mang đến điềm lành từ Thiên đường”. Quyển 8 kinh Huệ Lâm Âm Nghĩa viết: “Hoa Ưu Đàm do điềm lành linh dị sinh ra; đây là một loài hoa của Trời, trên thế gian không có. Nếu một đấng Như Lai hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện nhờ đại ân và đại đức của Ngài.”. Kinh Phật Vô Lượng Thọ cũng ghi lại rằng “con người sẽ phát hiện ra rằng hoa Ưu Đàm là một dấu hiệu tiên tri”. Sự khai nở của hoa Ưu Đàm, một sự kiện hy hữu chỉ xảy ra 3.000 một lần, là một dấu hiệu cho thấy thời kỳ Phật Pháp hồng truyền tại nhân gian để độ nhân đã bắt đầu. Nói cách khác, Phật Thích Ca Mâu Ni đã có dự ngôn từ rất lâu để nói với con người về thiên cơ rằng: khi hoa Ưu Đàm khai nở thì Đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ có mặt tại nhân gian để truyền pháp độ nhân, đó chính là Phật Di Lạc (Maitreya - Từ Thị), vị Phật lấy từ bi làm gốc. Vương Phật là Phật Vua, tức là vị Phật thay mặt Đức Chí Tôn làm vua cai quản Càn Khôn thế giới và vạn linh trong thời Tam kỳ phổ độ. Di Lạc Vương Phật là vị Phật Vương tương lai, giáng sinh xuống cõi trần làm giáo chủ hội Long Hoa. Trong chùa Labrang thuộc huyện Hạ Hà, tỉnh tự trị dân tộc Tạng ở miền Nam Cam Túc, Trung Quốc có một vài bức tượng tiết lộ huyền cơ về Phật Vương Di Lạc hạ thế độ nhân. Chùa Labrang được xây vào những năm Khang Hy của triều Thanh (năm 1709), gọi tắt là chùa Trát Tây Kỳ tức chùa Cát Tường. Bởi vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng lưỡng tôn Di Lạc Đại Phật trong chùa có ý vị rất thâm thúy. Lưỡng Tôn Phật Chùa Labrang ở Cam Túc, Trung Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg Chùa Labrang, tỉnh Cam Túc, Trung Quốc thuộc Phật giáo Tây Tạng. Trong chùa Labrang là một tượng đồng mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng của Đại Phật Di Lặc, vị Phật tương lai, ám chỉ Phật Di Lặc rời khỏi ngai mang Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân. Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lạc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay đặt trước ngực. Theo lời giải thích của vị Lạt Ma hướng dẫn tham quan khi được hỏi về tư thế tay của Phật: “Di Lạc Vương Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ ngài sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Ở chính giữa Đại Kim Ngõa điện thờ cúng Phật Vương Di Lạc là một tượng đồng mạ vàng khổng lồ. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Vương Di Lạc là một tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị Tôn Phật, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng chính điện quả thực là hiếm thấy. Điện đường thờ cúng Phật Thích Ca Mâu Ni được gọi là Tiểu Kim Ngõa điện, còn Di Lạc Vương Phật điện được gọi là Đại Kim Ngõa điện. Có bài thơ nói về hoa Ưu đàm bà la như sau: Ưu tuyệt vời Tam tòa Thánh giáng cơ, Đàm Thiên Nhân Địa chính Tôn cơ. Hoa Long chi thấu mùi hương lạ, Nở rộ “ba ngàn” tuyết như tơ. Cám cảnh lòng ngay thời mặt thế, Ơn nhờ chiêu tuyết Ngọc Đế ban. Phật Tổ cuối thời buông Chính Pháp, Trước tác vẫn còn Bi Trí Dũng. Kia đã rồi đây Tổ tiếp cờ. Ưu nhất Tiên thiên Đạo tại người, Đàm linh bất hoại bởi Cha Trời. Hoa đào muôn tuổi xuân Thánh đức, Long giáng Rồng thiêng xuất thế chơi. Tam thế Tam ngôi Tam tòa Thánh, Thiên cơ đã thấu đến muôn nơi. Hội này bảy ức muôn năm thịnh, Sáng dạ tay ta đã đến thời. Ưu thuyết chính kinh giảng khắp rồi, Đàm nhân pháp chính đúng một người. Hoa kia Thượng đế gieo mùa đến, Nở khắp nhân gian hợp nhất nuôi. Chuyển trục tâm linh thay tất cả, Thế giới đại đồng một quy khôi. Thay đổi tên xưa quy ba cõi, Ngôi nhị Trung Thiên giáng khắp nơi. Ưu điểm không còn thiếu Đạo cao, Đàm nguyên vũ trụ Bắc Đẩu trao. Hoa màu tuyết trắng linh hồn xuất, Nở khắp nhân gian hợp cội nào. Thiên Đế cho con xuống thế này, Đường xưa nay đón chúng ta nay. Thế Tôn nhập diệt, Thiên Tôn xuống, Gian ngọc thế gian Ngọc Đế Thầy. Thiên trượng Bảy sao quyền Thượng Đế, Đạo chuyển luân vương chính luật đây. (trích của tác giả Trần Thế Thuận Thiên Hành Đạo) Quan Âm Bồ Tát hiển linh Bán đảo Sơn Trà nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 10km về phía Đông Bắc, với độ cao 693m so với mực nước biển là một đặc ân mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Đà Nẵng. Không biết từ bao giờ, ở Sơn Trà có một địa danh mang cái tên rất huyền nhiệm Bãi Bụt. Tương truyền, người dân nhiều lần thấy Quan Thế Âm Bồ Tát tay bồng hài nhi đi từ phía biển vào, nên gọi nơi đây là Bãi Bụt, và thật đúng với câu “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt” của dân gian. Nhìn ra phía trước là vịnh Đà Nẵng, biển lặng yên đẹp như một bức tranh. Bên phải là một phần bán đảo Sơn Trà với bãi biển tuyệt đẹp viền quanh, xa xa là Ngũ Hành Sơn, Cù Lao Chàm nổi lên giữa biển như một con rùa khổng lồ, đèo Hải Vân bềnh bồng trong mây. Trong dáng nhoài người vươn ra biển, Sơn Trà luôn là một bức bình phong khổng lồ che chắn bão giông cho thành phố. Chùa Linh Ứng và bờ biển du lịch Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg <br style="mso-special-character:line-break"> <br style="mso-special-character:line-break"> Ngày 19 tháng 6 năm 2004 (âm lịch), ngôi chùa Linh Ứng Bãi Bụt được khởi công xây dựng, đây là ngôi chùa đẹp nhất, lớn nhất và… trẻ nhất trong 3 ngôi Linh Ứng Tự ở Đà Nẵng. Linh Ứng Non Nước nằm trên hòn Thủy của núi Ngũ Hành Sơn, Linh Ứng Bà Nà nằm trên đỉnh Bà Nà - “Đà Lạt của miền Trung” và Linh Ứng Bãi Bụt nằm ở sườn bán đảo Sơn Trà, cả ba cùng hộ thế một góc biển trời Đà Nẵng. Bằng mắt thường chúng ta có thể định vị được vị trí tam giác của ba ngôi chùa. Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m). Công trình hoành tráng này do điêu khắc gia Thụy Lam xây dựng. Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, Quan Âm Bồ Tát với đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn Tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ. Trên mão tượng Quan Thế Âm có tượng Phật A Di Đà cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”. Tại ngôi chùa Linh Ứng Bãi Bụt đã và đang xảy ra một hiện tượng “màu nhiệm”, đó là hào quang tỏa sáng trên bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Vào lúc khoảng 11h00’ trưa ngày 16/8/2008, giữa lúc đang thi công phần mão tượng, các công nhân bất ngờ thấy một vầng hào quang tỏa sáng ngay trên đầu bức tượng. Ai nấy đều sững sờ trước cảnh tượng quá đỗi kỳ vĩ chưa từng thấy này, mọi người cùng đồng loạt cầm tay nhau múa chung quanh chân tượng. Một vị sư trong chùa nhanh tay chụp lại được hình ảnh đó, nhưng câu chuyện được giữ kín như giữ một “bí mật nhiệm mầu". Không ngờ hiện tượng hào quang tỏa sáng lại tiếp tục diễn ra thêm nhiều lần trên bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và cả ngay trên lễ đài Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhân ngày lễ Phật Đản năm 2009. Hào quang trên tượng Phật Chùa Linh Ứng Bãi Bụt, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Lúc 11h00’ ngày 16/8/2008, lần đầu tiên xuất hiện vầng hào quang khi đang thi công phần mão tượng và vầng hào quang toả sáng rực rỡ trên lễ đài Phật đản lúc 10h10’ ngày 14/4/2009. file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image016.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image018.jpg Hào quang xuất hiện lúc 10h30’ ngày 19/3 âm lịch, 2009; Lúc 10h30’ ngày 14/5/2009; Ngày 22/5/2009, hào quang tiếp tục xuất hiện; Hòa thượng Thích Thiện Nguyện trước tượng Quan Thế Âm đang xuất hiện vầng hào quang lúc 11h15’ ngày 4/6 âm lịch, 2009; Hào quang chiếu diệu lúc 9h23’ ngày 19/7/2009. Hào quang tỏa sáng là một hiện tượng thiên nhiên khá kỳ thú, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trên bầu trời Đà Nẵng, nhất là từ khoảng cuối xuân đến đầu thu, tuy nhiên đã có một sự trùng hợp kỳ lạ là rất nhiều lần hào quang tỏa chiếu xuống bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát chùa Linh Ứng Bãi Bụt, Đà Nẵng, thật “huyền diệu” và có lẽ hiện tượng này sẽ nói lên những điều gì với chúng ta chăng? Không chỉ vậy, Đà Nẵng cũng là thành phố đầu tiên của Việt Nam cũng như trên thế giới được triển lãm tượng Phật Ngọc, là pho tượng Phật bằng ngọc bích quý lớn nhất thế giới hiện nay, tượng Phật Ngọc thiêng liêng này cũng được gọi là “Phật Ngọc Hòa Bình Thế Giới”. Về xuất xứ khối ngọc thạch, Phật tử Lan Green cho biết, theo giấc mơ về một khối ngọc thạch tỏa sáng trên vùng Bắc Cực của Lat-ma Zopa Rinpoche và lời khuyên của ngài, ông đến mỏ ngọc thạch ở miền Bắc Canada với hy vọng có thể tìm được khối ngọc thạch như ý để tôn tạo tượng Phật. Ông đã tìm thấy khối ngọc thạch có tên gọi Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực (Polar Pride), nặng 18 tấn, không tì vết, được đánh giá là “khám phá của Thiên niên kỷ”, được khai thác trong năm 2000. Ông liền phát tâm bồ đề và đấu giá mua được khối ngọc thạch này, và chuyển đến Thái Lan để tôn tạo tượng Phật. Cuối năm 2008, tượng Phật Ngọc hoàn thành, cao 3.5m, nặng 4.5 tấn và phỏng theo mẫu tượng Phật trong tháp Đại Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Chùa Quan Âm tại Đà Nẵng được chọn là nơi đầu tiên trong chương trình triển lãm Phật Ngọc nhiều nước trên thế giới, Phật Ngọc được cung nghênh từ Thái Lan đến Đà Nẵng và tôn trí tại chùa Quan Thế Âm nhân Lễ hội Quan Âm hằng năm. Tượng Phật Ngọc đã gỡ niêm phong Chùa Quan Thế Âm, Đà Nẵng, Việt Nam Phật Ngọc Quan Âm Chùa Quan Thế Âm, Đà Nẵng, Việt Nam file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image020.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image022.jpg Sau khi hoàn thành “Phật ngọc Hòa bình thế giới”, được sự đồng thuận của Lạt ma Zopa Rinpoche, cùng đạo tâm và lòng ưu ái, ông Ian Green đã nhường một phần khối ngọc còn lại cho Chùa Quan Thế Âm tại Đà Nẵng để chùa thực hiện tôn tượng Phật Bà Quan Âm, hay “Phật Ngọc Quan Âm cho tình thương nhân loại” với ước nguyện cho hòa bình thế giới được bền vững. Lễ chú tượng tại ngôi chùa cổ Đồi Thông, tỉnh ChiangRai, Thái Lan, tại buổi lễ gia trì, vua Sãi của đất nước Chùa Vàng đã trực tiếp khai nhãn cho pho tượng, ông VaNit giám đốc xưởng điêu khắc ngọc tại ChiangRai cho biết: “Qua nhiều đời làm nghề chế tác tượng, lần đầu tiên tôi mới chứng kiến Vua Sãi trực tiếp ấn chú khai nhãn cho tượng Phật, thường thì ngài ngồi từ xa tụng niệm gia trì, đây quả thật là một cơ duyên lớn”. Ngọn núi Ngũ Hành Sơn - đây chính là ngọn núi được đặt tên trong câu truyện nổi tiếng thế giới Tây Du Ký và truyện cổ Sự tích núi Ngũ Hành của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Đặc biệt, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội cũng có ngọn núi tên Ngũ Hành Sơn (tên Nôm là núi Trầm), có ngôi chùa Trầm nằm ngay bên sườn núi, đây là ngôi chùa cổ còn lưu giữ những bí ẩn thời các vua Hùng, trong các chương sách sau chúng ta sẽ được biết. Một góc núi Ngũ Hành Sơn (núi Trầm) Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image024.jpg Trong thời gian gần đây, cũng xuất hiện nhiều các hiện tượng tự nhiên kỳ lạ và đẹp mắt như hình ảnh của các linh thú rồng, lân… ở một số vùng ở Việt Nam, mà dân gian cho rằng chúng là điềm lành của một thời an bình, thịnh trị sẽ tới. Mây hình Rồng và vảy Rồng ở T.p Hồ Chí Minh và Hà Nội Ảnh Nguyễn Thành Chiến, ngày 20/7/2010, T.p Hồ Chí Minh file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image026.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image028.jpg Hành giả đã thay đổi và điều khiển được tâm tính của mình, chứng ngộ được sự nhiệm màu của tạo hóa ở trong ta và trong vạn vật nhưng việc áp dụng vào cuộc đời mới thực sự là một bước không đơn giản, tuy nhiên hành giả vẫn có thể dễ dàng vượt qua. Nếu vượt qua được và phát nguyện “Tâm Bồ Đề” với hành trang “bi, trí, dũng” để hóa độ chúng sinh thì thật sự đã tham dự vào hành Bồ Tát rồi. Kết quả, sự rèn luyện và chứng ngộ của hành giả là không hoàn toàn tách rời khỏi cuộc sống này, khi hành giả đạt “Tính Không” thường trực nhưng vẫn nhận thấy hòa nhập vào cuộc đời, vẫn cảm xúc an lạc hay vẫn tồn tại “Tính Có”, nhưng trong Tâm có lẽ vẫn nhận thức một chân lý: Ta và vạn vật vẫn bất diệt đối với cả cái “chết”, đó chính là điều tuyệt diệu nhất và do vậy mà dân gian có câu: “ Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Hoàng Long vân giáng Đúng 8 giờ sáng ngày 26/8/1998 (tức ngày mồng 5 tháng Bảy âm lịch) là ngày giỗ vua Lý Anh Tông - vị vua thứ sáu của vương triều nhà Lý. Giữa lúc trống giong, cờ mở và lễ hội rực rỡ sắc màu, khi các bô lão đang tiến hành lễ tế thì trên trời bỗng đâu xuất hiện 11 vầng mây trắng, các vầng mây đậu lại trên đỉnh “Thọ lăng Thiên đức” - nơi đặt 11 lăng của các đức trị nhà Lý. Qua hồ bán nguyệt, 3 đám tự nhiên rã ra và 8 vầng mây tụ lại trên trời xanh thăm thẳm, ứng với 8 đời vua nhà Lý. Sự kỳ diệu của tạo hóa chẳng biết có phải là ngẫu nhiên hay không, song nó đã làm nức lòng bao người có mặt, không khí lễ hội trở nên trang trọng lạ thường. Tám vầng mây nằm song song giữa nền xanh thiên thanh, phủ phục trên đỉnh đền cổ kính 45 phút cho tới khi buổi tế kết thúc. Hoàng Long vân giáng Ảnh tác giả Nguyễn Đức Thìn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image002.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image004.jpg Trước cảnh tượng kỳ thú trên, không ít người liên tưởng tới sự kiện vua Lý Thái Tổ dời đô vào năm 1010. Nhà Lý là triều đại mà lúc thịnh thì rất oai hùng, lúc suy thì không để lại nhiều tai tiếng bằng việc chuyển giao quyền lực ôn hòa cho nhà Trần. Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009, lấy hiệu là Lý Thái Tổ, mở đầu triều đại nhà Lý huy hoàng trong lịch sử. Năm 1010, vua Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La, viết Chiếu đời đô, nhân mộng thấy rồng vàng hiện lên trước mũi thuyền nên đổi tên Đại La thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay. Cho tới giai đoạn nhà Lý suy thoái (1009-1225), có sự kiện hoàng tử Lý Long Tường là thứ nam của vua Lý Anh Tông (con của bà phi Lê Mỹ Nga), em của vua Lý Cao Tông (Lý Long Trát) vượt biển sang cư ngụ tại Cao Ly. Trước cuộc binh biến của đất nước, Lý Long Tường đã cùng một số tôn thất nhà Lý vượt biển ẩn tránh ra nước ngoài, điểm đến là huyện Ung Sơn, nước Cao Ly, thuộc Bắc Triều Tiên ngày nay. Nương náu ở Trấn Sơn phía Nam phủ thành, đặt hiệu là Tiểu Vi Tử. Mục đích ra đi của Lý Long Tường là để giữ việc thờ cúng tổ tiên như trường hợp Vi Tử đời Ân đã làm, nên ông đặt hiệu là Tiểu Vi Tử và nơi ở là Vi Tử Động. Tích xưa kể rằng, vua Cao Tông (Kojong) một hôm nằm mộng thấy một con chim rất lớn bay từ phương nam lên đậu ở bờ Tây Hải như điềm báo trước nhà vua sẽ gặp được một vị tướng từ phương xa. Vua Cao Tông đã long trọng tiếp đón vị hoàng tử của nước Đại Việt và đoàn tùy tùng, cấp cho vùng đất ở Ung Tân để làm ăn sinh sống. Ông cùng gia nhân và binh sĩ bắt đầu cuộc sống mới trên xứ người bằng nghề chăn nuôi, trồng trọt và cả đánh cá. Vị hoàng tử còn mở trường học, dạy thi phú lễ nhạc và cả võ thuật nữa, bởi trong lòng còn mang nặng niềm thương nhớ cố quốc và ngày khôi phục lại giang sơn. Năm 1253, đế chế Mông Cổ tiến công xâm lược Cao Ly, đánh vào Quốc Đô và Ủng Tân, nơi tôn thất nhà Lý ở ẩn. Lý Long Tường đã đứng ra tổ chức kháng chiến, cùng với quan quân trong phủ và nhân dân chiến đấu dũng cảm. Hoàng tử Lý Long Tường khi ra tận cỡi ngựa trắng đôn đốc binh sĩ chống trả quân xâm lăng. Bởi vậy sau này người dân trong vùng gọi ông là Bạch Mã Tướng Quân. Ông Lý Hi Uyên kể: Đánh nhau một thời gian không phân thắng bại, quân Mông Cổ trá hàng. Họ bày mưu cống hiến lễ vật đựng trong những cái lu cho hoàng tử nhưng bên trong những cái lu đó giấu binh sĩ Mông Cổ. Biết việc này, hoàng tử sai người đục lu và đổ nước sôi vào, sau đó sai người trả lu lại. Phục trí thông minh của Bạch Mã Tướng Quân, quân Mông Cổ chấp nhận thua và rút lui. Nhà vua rất mừng vui, khen ngợi và cho đổi tên Trấn Sơn thành Hoa Sơn, cấp cho ông 30 dặm vuông đất làm thái ấp để phụng thờ tổ tiên, rồi sai dựng bia ghi công trạng của ông tại nơi quân Mông Nguyên đầu hàng, gọi là Thụ Hàng Môn. Vùng ông ở đổi tên thành Hoa Sơn, nên người dân còn gọi ông là Hoa Sơn Tướng Quân. Thụ hàng môn Hoa Sơn Trung Hiếu Đường Bong-hwa, Đại Hàn file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image006.jpg file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image008.jpg Để con cháu và các đời sau còn nhớ đến quê cha đất tổ, ông đã xây một ngôi đình kiến trúc kiểu Đại Việt để thờ các vị vua nhà Lý, làm nơi con cháu tụ họp. Tại Hoa Sơn có một quả núi gọi là Quảng Đại Sơn, trên đỉnh có một nền đá bằng phẳng, truyền thuyết kể rằng Lý Long Tường thường lên đó ngóng trông về phương Nam, thương nhớ quê nhà ôm mặt khóc, ngọn núi đó vì thế mang tên “Vọng Quốc Đàn”. Mộ của ông ở phía Tây phủ thành Ung Tân, dưới chân núi Di Ất. Kể từ Lý Long Tường, con cháu dòng họ Lý Hoa Sơn ngày càng phát triển và sống hoà nhập vào cộng đồng dân cư nước sở tại và có rất nhiều người thành đạt. Tượng đài hoàng tử Lý Long Tường Quảng trường trung tâm thành phố Seoul, Hàn Quốc file:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image010.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image012.jpgfile:///C:DOCUME~1MINHPH~1LOCALS~1Tempmsohtmlclip11clip_image014.jpg Ngày nay, tượng đài hoàng tử Lý Long Tường được đặt ở quảng trường trung tâm thành phố Seoul, phía sau là tượng vua Cao Tông của nước Cao Ly dựa lưng vào dãy núi, phía trước án ngữ là tượng đài của hoàng tử Lý Long Tường tay cầm bảo kiếm, tương truyền đó chính là thanh bảo kiếm của vua Lý Thái Tổ, cũng chính thanh kiếm này đã cùng ông đánh đuổi quân Nguyên Mông. Ở dưới chân là hình ảnh chiến thuyền của Nhà Lý, chiến thuyền khi hoàng tử tới nước Cao Ly tị nạn, hai bên là tượng của hai chiếc trống trận nhà Lý, nhìn các bài trí có thể thấy người dân nước Cao Ly đã ngưỡng mộ ông như thế nào. Năm 1994 sau gần 800 năm, hậu duệ đời thứ 26 của hoàng tử Lý Long Tường là Lý Xương Căn đã mở đầu cuộc trở về Việt Nam của dòng họ Lý Hoa Sơn bằng chuyến thăm Đình Bảng lễ đền Lý Bát Đế. Người con Việt ở xứ sở Cao Ly cúi đầu trước anh linh tiên tổ, nguyện trở về với tổ quốc góp phần xây dựng quê hương. Tóm tắt Sự trùng hợp của tất cả các lời tiên tri về vị “Thánh nhân” xuất hiện tại phương Đông trong thời kỳ mặt pháp, có lẽ thời gian ứng nghiệm tương ứng với nhận định của lịch pháp Maya tức vào năm 2012. Ngoài ra, còn có sự xuất hiện rất nhiều các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần trên toàn thế giới đồng nghĩa với sự “trở lại” của “linh hồn” nhân loại bởi tự thân của nó là vĩnh cửu, chẳng hạn những linh hồn của những người sống tại lục địa Atlantic đã bị chìm đắm dưới đại dương theo truyền thuyết. Mặt khác, Thánh Nhân xuất hiện “có vẻ” thiên về khía cạnh tôn giáo hơn, tuy nhiên với nội dung của các dự ngôn thì ngài còn có vai trò làm thay đổi cục diện ý thức hệ của nhân loại, điều này hàm nghĩa có liên quan tới cả nền tảng của khoa học nữa, hay có thể tạm hiểu rằng mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học sẽ được giải thích một cách hợp lý hơn thông qua một học thuyết phù hợp. Đặc biệt, sự xuất hiện của vô số các thánh thần từ cổ chí kim trong một đại hội vô tiền khoáng hậu mang tên Hội Long Hoa, như dự ngôn sẽ diễn ra tại Việt Nam cũng là một ẩn số thú vị. Không chỉ vậy, tiên tri còn nhận định một học thuyết cổ xưa sẽ quay trở lại với nhân loại có lẽ đó chính là học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, sản phẩm trí tuệ cổ xưa của nước Văn Lang, nay hậu duệ kế thừa chính là người Việt Nam ngày nay. Thuyết Âm Dương Ngũ Hành chính là học thuyết thống nhất vũ trụ, với sự kết hợp các lý thuyết của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các mối quan hệ với các tôn giáo khác trên thế giới, để có thế lý giải về sự hợp nhất của tôn giáo và khoa học. Ngày phán xét chính là ngày mỗi người phải đối diện với cái chết của thân xác và hiện hữu ở trạng thái linh hồn, như vậy sự chuẩn bị cho cuộc sống mới này như thế nào khi mà ý thức trong cuộc sống đã qua vẫn còn nguyên vẹn, thiện ác vẫn được phân biệt rạch ròi? Và như vậy, rõ ràng công cuộc tìm kiếm chân lý của cuộc sống sẽ phải hoàn toàn thay đổi. Vậy thì, “Ngày tận thế” chắc chắn không thể xảy ra, bởi sự mâu thuẫn của nó với toàn bộ nội dung của các lời tiên tri và nếu nó sẽ xảy ra, thì nhân loại phải chấp sự thật mà thôi. Có bài thơ rằng: Bao nhiêu chuyện xoay vần thế sự, Chung cuộc rồi mới rõ huyền cơ. Nước non trong cuộc tranh đua, Ai hay cũng vẫn hơn thua tại Trời. Chúng tôi sẽ làm rõ kết quả các những lời tiên tri trong các chương sách sau, bây giờ hãy cùng tiếp tục với chương II: TIẾNG TRỐNG HOÀNG KIM.1 like