• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 02/12/2012 in all areas

  1. Người đã chết rồi còn coi số làm chi nữa, mà cũng đây là lần thứ nhất trong đời tôi thấy có 1 người nhờ đi xem số cho người đã chết.
    6 likes
  2. Nghĩ là duyên số và đừng buồn. Cung Tử có Tuần nên phải mất 1-2 đoạn con, đã cố gắnng hết sức, ko qua được số đành chịu. Hạn năm Tỵ và năm Ngọ đều có hỉ tín có con. Yếu sinh lý nhiều khi không ảnh hưởng đến chuyện có con.
    4 likes
  3. Cảnh sát Trung Quốc truy đuổi tàu nước ngoài VnMedia - 24 giờ trước 3681 lượt xem Trung Quốc đã cho lực lượng cảnh sát tuần tra biên giới của nước này quyền được xông lên khám xét và truy đuổi tàu thuyền nước khác hoạt động trong vùng lãnh hải tranh chấp ở Biển Đông, báo chí địa phương hôm qua (30/11) đưa tin. Tàu thuyền của chính phủ Philippines và Trung Quốc đã có một cuộc đối đầu căng thẳng ở bãi cạn Scarborough hồi tháng 4. Luật mới có hiệu lực từ ngày 1/1 tới sẽ cho phép lực lượng cảnh sát ở tỉnh Hải Nam, phía nam Trung Quốc, xông lên lục soát và chiếm giữ những tàu nước khác mà nước này tuyên bố là “đi vào vùng lãnh hải của Trung Quốc một cách bất hợp pháp”. “Cảnh sát cũng có quyền bắt các con tàu này phải chấm dứt hành trình và đổi hướng”, tờ China Daily – tờ báo chính thức của Trung Quốc, cho biết. Động thái trên chắc chắn sẽ lại một lần nữa đốt nóng căng thẳng ở khu vực Biển Đông vốn đã chứng kiến rất nhiều sóng gió trong thời gian vừa qua. Việc Trung Quốc đòi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông khiến các nước láng giềng bất bình. Biển Đông hiện tại đang là điểm nóng có nguy cơ bùng phát xung đột lớn nhất ở khu vực Châu Á do có nhiều nước tranh chấp lãnh hải ở đây. Biển Đông vốn là khu vực giàu dầu mỏ và khí đốt. Hơn nữa, với tư cách là tuyến đường ngắn nhất nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Biển Đông chứa đựng một số trong những tuyến đường biển bận rộn nhất thế giới. Hơn một nửa nguồn cung cấp dầu mỏ cho toàn cầu đi qua đây. Philippines, một trong những mục tiêu chính của luật mới mà Trung Quốc vừa đưa ra, hiện tại chưa thể xác nhận tính chính xác của thông tin nói trên. Ông Raul Hernandez, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Philippines, cho biết cơ quan này đang thu thập thêm thông tin về luật mới của Trung Quốc. “Nếu điều đó là đúng thì điều này không chỉ gây lo ngại cho Philippines mà cho cả cộng đồng quốc tế”, ông Hernandez cho biết. Trong khi đó, ở Malacanãng, phát ngôn viên của Tổng thống Philippines – ông Edwin Lacierda nói: “Thay vì đề nghị chính phủ Philippines bình luận về lập trường của một quan chức chính quyền địa phương của Trung Quốc, tại sao báo chí không đặt câu hỏi cho Đại sứ quán Trung Quốc tại đây và hỏi xem liệu đó có phải là lập trường mà họ đang áp dụng hiện nay hay không?”. Tuy nhiên, quân đội Philippines có phản ứng quyết liệt hơn và cho rằng luật mới của Trung Quốc “đã đi quá xa”. “Điều đó là không thể. Đó là sự vi phạm các quyền quốc tế. Điều đó đã đi quá giới hạn. Trong khi chúng tôi đang cố tìm kiếm các biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp thì họ lại làm việc đó”, Trung tướng hải quân Juancho Sabban, chỉ huy các lực lượng vũ trang phía tây Philippines (Wescom), cho biết qua điện thoại từ Trại Aguinaldo. Diễn biến trên diễn ra trong bối cảnh các nước trong khu vực đang nổi giận trước việc Trung Quốc hôm 22/11 thông báo đưa bản đồ nước này, trong đó có cả những vùng lãnh thổ tranh chấp, vào trong hộ chiếu phổ thông cấp cho người dân. Động thái đưa “đường lưỡi bò” vào hộ chiếu của Trung Quốc đã vấp phải một làn sóng phản đối mạnh mẽ và cả những động thái trả đũa của các nước trong khu vực gồm Philippines, Việt Nam, Ấn Độ và Vùng lãnh thổ Đài Loan. Việt Nam và Philippines kiên quyết không đóng dấu vào hộ chiếu mới của Trung Quốc trong khi Ấn Độ đáp trả bằng cách cách tiến hành cấp thị thực mới cho công dân Trung Quốc. Thị thực này được in hình bản đồ của Ấn Độ trong đó bao gồm đầy đủ những phần lãnh thổ đang nằm trong tranh chấp giữa nước này với Trung Quốc. Mỹ cũng tuyên bố không công nhận bản đồ mới gây tranh cãi mà Trung Quốc cho in lên hộ chiếu của họ. Washington cho biết, nước này sẽ đưa vấn đề hộ chiếu mới ra thảo luận với Bắc Kinh bởi đây là vấn đề đang gây “căng thẳng và lo ngại” trong khu vực. Philippines kiên quyết yêu cầu tàu thuyền Trung Quốc rời khỏi vùng tranh chấp Trong một diễn biến khác có liên quan đến tình hình Biển Đông, Philippines sẽ tiếp tục kiên quyết yêu cầu Trung Quốc rút 3 tàu của nước này khỏi vùng bãi cạn tranh chấp ở Biển Đông sau gần 6 tháng chính phủ Trung Quốc cam kết thực hiện việc này, Bộ Ngoại giao Philippines hôm qua (29/11) cho biết. Ngoại trưởng Philippines – ông Albert F. del Rosario cho hay, trong khi Manila đã rút toàn bộ tàu thuyền của mình ra khỏi bãi cạn Scarborough hôm 4/6 như thỏa thuận mà hai nước đạt được thì 3 tàu của chính phủ Trung Quốc vẫn tiếp tục bám trụ ở đây. "Hiện tại, họ vẫn để 3 chiếc tàu neo đậu trong khu vực. Chúng chưa từng rời đi. Chúng tôi sẽ tiếp tục yêu cầu họ tôn trọng chủ quyền của chúng tôi và chúng tôi cũng yêu cầu họ rút toàn bộ tàu thuyền ra khỏi khu vực như đã cam kết trước đó”, ông Rosario nhấn mạnh. Tàu thuyền của chính phủ Philippines và Trung Quốc đã có một cuộc đối đầu căng thẳng ở bãi cạn Scarborough hồi tháng 4. Cuộc đối đầu này là nguồn cơn gây ra “trận sóng to gió lớn” kéo dài gần 2 tháng trời ở Biển Đông. Trong một nỗ lực làm dịu tình hình căng thẳng trong khu vực, Manila và Bắc Kinh hôm 4/6 đã nhất trí rút toàn bộ tàu thuyền của hai nước ra khỏi vùng tranh chấp. Tuy nhiên, trong khi Philippines tôn trọng cam kết này thì Trung Quốc lại không, Ngoại trưởng Rosario cho biết. Theo lời ông Rosario, hồi tháng 6, một quan chức Trung Quốc ban đầu đã đưa ra lý do biển động để giải thích cho việc họ chưa rút tàu thuyền ra khỏi bãi cạn Scarborough như cam kết. Vị quan chức này không cho biết khi nào tàu thuyền của họ sẽ rút đi. Tuy nhiên, gần 6 tháng đã trôi qua mà tàu thuyền Trung Quốc vẫn ở nguyên vị trí. Điều này đã khiến chính phủ Philippines tức giận. Kiệt Linh - (theo Inquirer, Business World, Reuters) ================ Khi luật này có hiệu lực vào ngày 1.1. 2013 nhằm ngày 20. 11 Nhâm Thìn Việt lịch. Tình đến 15. tháng Giêng Việt lịch còn đúng 55 ngày nữa. Trong 100 ngày của độ số Hà Lạc thì nó vừa đi hết độ số Lạc Thư là 45 - tức hết độ số Dương - và sang độ số Âm của Hà Đồ là 55. Thật là một sự trùng hợp kỳ lạ. Mặc dù tôi xác định rằng: Trong vòng 100 ngày đầu tính đến 15 Tháng Giêng, Quý Tỵ Việt lịch sẽ quyết định cái gì sẽ xảy ra và hậu quả của nó cho cuộc đối đầu Trung Mỹ. Nhưng thực ra, chỉ một hành vi này của Trung Quốc - nếu được thực hiện, dù chỉ rất cục bộ và có tính làm mẫu - thì - có thể nói là "Định mệnh đã an bài". Nếu họ long trong công nhận Hoàng Sa và Trường Sa và một số vùng đất khác là của Việt Nam - Đồng thời long trọng công nhận Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử thì lịch sử nhân loại sẽ khác đi một chút về phương thức hội nhập toàn cầu. Thiên Sứ tôi rất nghiêm túc khi phát biểu điều này ở đây. Nhưng đừng để quá muộn.
    4 likes
  4. BQT quyết định treo nick thành viên PCNDL 1 tuần và hạ 1 mức trở về "hội viên mới" vì vi phạm quảng cáo đến website khác trong phần chữ ký. Sau 1 tuần, nếu tiếp tục vi phạm, chúng tôi sẽ trục xuất thành viên PCNDL ra khỏi diễn đàn. Trân trọng.
    2 likes
  5. Cháu k biết ngày giờ sinh của anh chồng có chính xác k, nhưng Bác lấy thử lá sau 23h
    1 like
  6. Cả 2 lá số cha và con cho thấy có tang, của người cha thì không biết tang ai, của người con thì thấy rõ là mẹ. Cô con gái sau nầy rất đẹp ,thuộc hạng chân dài ,có thể trở thành diễn viên hay người mẫu, nhưng cuọc đời thì thuộc hồng nhan truân chuyên.
    1 like
  7. haizz, cháu chờ dài cả cổ, gần tới lượt mình thì bác PCNDL lại bị treo nick...buồn! Post bài mà không ai xem giúp,nếu có cũng qua loa 1,2 câu. Topic này bác PCNDL nói chi tiết và cặn kẽ nhất thì bị khóa mất rồi...http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/public/style_emoticons/default/crying.gif
    1 like
  8. Em sinh giờ Mão, năm sau chắc yêu đơn phương ai đó, cẩn thận chuyện làm ăn, năm sau có thể bị rỗng túi.
    1 like
  9. Lá số này là vợ của anh bs quân y đó à?! Bản tính không thích mua bán, nhưng làm được, thu nhập chủ yếu là do kinh doanh, khi tính toán nên cẩn thẩn kẻo bị lừa gạt về tiền bạc. Sau này vừa đi làm, vừa kinh doanh. Nếu so sánh thì gia đình chồng có khá giả hơn?
    1 like
  10. Nếu gia đình khá giả không bận vì sinh kế thì cứ tiếp tục học, mean while thời buổi khó khăn chưa có việc làm thì đi học tiếp cũng tốt.
    1 like
  11. 1 like
  12. Video - Tọa đàm Phong Thủy trong Kinh doanh - P1 http-~~-//www.youtube.com/watch?v=PeZ5-2yPUu8 Video - Tọa đàm Phong Thủy trong Kinh doanh - P1 http-~~-//www.youtube.com/watch?v=WhTdW3MQkpY
    1 like
  13. Cứu cánh của con người vẫn là tâm linh, hãy đọc kinh Quan Âm cứu khổ ...
    1 like
  14. TRÍ THỨC là: một người có 1 quan điễm rỏ ràng ,tư tưởng khoáng đạt mở rộng khám phá và nhận thức chân lý đúng sai ,chấp nhận cái lý của người khác...Nó phản nghĩa cho TRÍ NGỦ là ; 1 người có tư tưởng bảo thủ hẹp hòi , cứ dựa vào cấp bằng chứng chỉ ,tầm nhận thức cận thị chỉ muốn người khác chấp nhận cái quan điễm của mình ,không phân biệt giữa điều đúng sai.
    1 like
  15. Các bạn thân mến! Tôi nghĩ trong một Diễn đàn về Lý học mà tôi trình bày một bài viết như thế này thật là khác thường, nhưng vì xét cho cùng đây là công việc chẳng đặng đừng do bản chất của Lý học theo tôi vốn không chỉ dừng lại ở mức định tính hoặc chỉ thích hợp với các cuộc lý luận tranh biện. Vì vậy, tương tự như các ngành khoa học lý thuyết khác, tôi xin mạo muội đặt tên cho loại các công trình nghiên cứu về Lý học theo hướng này là "Lý học lý thuyết". Tôi tin rằng bằng con đường này, các nhà nghiên cứu lý học, các nhà khoa học lý thuyết Đông, Tây sẽ có nhiều cơ hội hơn để đóng góp công sức giúp cho Lý học Đông phương với học thuyết Âm Dương Ngũ Hành nền tảng sẽ khoa học hơn, hoàn thiện hơn xứng tầm với một học thuyết chỉ nam cho nhân loại. Tuy công việc còn bề bộn, nhưng vì bạn Laviedt đã giới thiệu bài viết "E7 và Tử vi", vốn còn là bản nháp trên diễn đàn nên tôi đành phải post lại bài viết này. Đại số Lie ngoại lệ E7 và Tử Vi Tóm tắt Tử vi đã có lịch sử rất lâu đời nhưng hiện tại nó vẫn có ảnh hưởng rất đáng kể trong đời sống xã hội ở Phương Đông. Yếu tố thiên văn, dáng vấp thiên văn là những điều rất dễ để nhận thấy trong cách thức trình bày của Tử vi. Tuy vậy quan điểm của bài viết này xem "Bầu trời Hoàng đạo" được liên kết đến các sao trong Tử vi có ý nghĩa chủ yếu là "khung biểu đạt thời gian lý tưởng" để diễn đạt "chương trình sống" của các đối tượng đã đạt tầm "ý thức lượng tử" như con người. Đại số Clifford Cl(16), đại số Octonion, đại số Jordan, đại số Sedenion [1]... và nhất là đại số Lie ngoại lệ E7 theo các nghiên cứu nghiêm túc gần đây cho thấy chúng rất thích hợp để mô tả các ManyWorld trong MacroSpace. Trên thực tế, mỗi một con người đều đạt được bậc liên kết thông tin > 10^18 tubulin nên đều có thể xem là một "Tiểu vũ trụ" (ManyWorld) [2], vì vậy việc sử dụng "đa tạp + nhóm" 133 chiều của đại số Lie E7 trong hệ thống Tử vi của Người xưa, rất nhiều khả năng là hiện thực... 1. Mở đầu Con số 14 từ ngôi sao 14 cánh ở tâm của Trống đồng Ngọc Lủ theo tôi chắc chắn phải mang một thông điệp hoặc một ý tứ nào đó rất thông thái từ Người xưa. Ta hãy để ý nếu cộng con số "18 chim lạc ở vòng ngoài" với "14 chim và 20 hươu ở vòng kế" thì tổng số sẽ bằng 52. Tiếp tục, nếu kể đến "12 người "lớn" ở vòng trong cùng" và "14 cánh sao ở trung tâm" thì tổng số lại bằng 78 (xem hình). Vì vậy, tôi nghĩ thật ngây thơ khi cho rằng đây chỉ đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên hoặc chỉ là những họa tiết trang trí. Theo tôi chúng cũng không đơn thuần chỉ là một nghi biểu tín ngưỡng. Tử vi cũng có 14 Chính tinh, bài Tây có 52 lá, bài Tarot có 78 lá... và trên thực tế người ta thường dùng chúng như các công cụ để tiên đoán về vận mệnh của con người. Hệ Can Chi được sử dụng trong Lý học để phân hoạch thời gian, nó có chu kỳ 60 và mỗi cung có ý nghĩa rất riêng mang tính chương trình. Với bán kỳ là 30, có sự liên hệ nào không trong khi nhóm Lie ngoại lệ E8 - 248 chiều cũng có biểu diễn 240 chiều phân hoạch theo 30 cung ?... Thiên bàn, Địa bàn trong Tử vi chia thành 12 cung phải chăng chúng có sự liên hệ nào đó đến các nhóm Lie ngoại lệ G2, F4, E6 và E7 vì cấu trúc biểu diễn của các nhóm này luôn lập thành 12 cung ? (Lưu ý chi tiết 60 là bội số chung nhỏ nhất của 30 và 12) Biểu diễn 72 root system của nhóm E6 - 78 chiều Lý học Đông phương lại có môn Thái ất, với 16 cung phải chăng Thái ất có mối quan hệ nào đó đến đối tượng toán học rất đặc biệt là Sedenion hay đại số Clifford Cl(8) tương tự như cấu trúc IFA của nền văn minh cổ xưa ở Đông Phi [4]?... Trong bài viết này chúng ta sẽ quan tâm đặc biệt đến sự tương đồng về cấu trúc của Tử vi và đối tượng toán học E7 - 133 chiều. Việc đầu tiên chúng ta hãy thử đếm xem Tử vi trên thực tế ứng dụng ở Viêt Nam có tất cả bao nhiêu sao. Hãy đếm một cách tự nhiên, không có sự gò ép, hể có sao nào được biểu diễn trên Địa bàn của Tử vi là ta đếm dù sao đó có lặp lại 2 lần như trong trường hợp các cặp Tuần lộ không vong và Triệt lộ không vong. Theo cách này, Lá số của Tử vi Lạc Việt có đúng 126 sao. Các Lá số trên website xemtuong.com, tuviglobal.com … chỉ đếm được 113 vì người ta đã bỏ qua 4 sao Thiên sát, Ấm sát, Nguyệt sát, Quan sách và chưa kể đến 9 sao lưu động (113 + 4 + 9 = 126). Về chi tiết 126 sao trong các lá số "Tử vi Việt Nam" gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Thiên quan, Thiên phúc, Thiên trù, Thiên khôi, Thiên việt, Lưu hà, Văn tinh, Bác sĩ, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù (12). + Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa, Hóa kỵ (4 sao). + Thiên khốc, Thiên hư, Long trì, Phượng các, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên đức, Nguyệt đức, Giải thần (9 sao) + Thiên hình, Tả phù, Hữu bật, Thiên giải, Địa giải, Thiên riêu, Thiên y, Âm sát (8 sao). + Địa kiếp, Địa không, Văn xương, Văn khúc, Thai phụ, Phong cáo (6 sao). + Thiên không, Cô thần, Quả tú, Phá toái, Quan sách (5 sao). + Tam thai - Bát tọa (2 sao) + Ấn quang - Thiên quý (2 sao). + Thiên tài - Thiên thọ - Đẩu quân (3 sao). + Thiên thương - Thiên sứ (2 sao). + Hỏa tinh, Linh tinh (2 sao) + Thiên la - Địa võng (2 sao). + Triệt, Tuần (tính là 4 sao, do mỗi sao được gọi tên 2 lần và được an trên 2 cung của Địa bàn). + Lưu Thái tuế, Lưu Lộc tồn, Lưu Thiên mã, Lưu Tang môn, Lưu Thiên hư, Lưu Thiên khốc, Lưu Bạch hổ, Lưu Kình dương, Lưu Đà la (9 sao). Tổng cộng ta có : 14 + 12 + 12 + 12 + 6 + 12 + 4 + 9 + 8 + 6 + 5 + 2 + 2 + 3 + 2 + 2 + 2 + 4 + 9 = 126. Ngoài ra, rất có thể người ta đã không kể đến 7 sao nữa vì 133 mới là con số đủ so với chuổi số đặc biệt 14, 52, 78, 133 và 248. Nhưng với con số 126 sao như trong Tử vi Lạc Việt đã là mô hình tốt, trong biểu diễn nhóm Lie E7 người ta cũng chỉ thể hiện 126 root đỉnh. Lưu ý các phép (+) ở đây là phép lấy tổng trực tiếp trong lý thuyết biểu diễn, chúng làm thay đổi bậc kích thước của đa tạp, không phải là tổng của các giá trị đại số. Thật hay, nếu chúng ta kể đến 7 sao còn lại của vòng Tướng tinh vốn không còn được kể đến trong các Lá số tử vi Việt Nam gồm có “Tướng tinh - Phan an – Tuế dịch -Tức Thân - Tai Sát - Chỉ Bối - Vong Thần” thì ta đã được con số 126 + 7 = 133, tức là đúng bằng kích thước của nhóm Lie ngoại lệ E7 – 133 chiều. Về nguyên tắc chúng ta sẽ dựa vào những điều đã được chứng minh chắc chắn về các nhóm Lie ngoại lệ, đại số Octonion, đại số Clifford, đại số Jordan… cũng như về các cấu trúc octonionic để khảo sát các cấu trúc khả dĩ tương đồng của Tử vi, ta không làm điều ngược lại. Ngoài ra cũng nên lưu ý rằng, việc người ta có thể đã bỏ bớt một số sao mà theo họ là ít quan trọng trong kinh nghiệm giải đoán khi xây dựng một số lá số Tử vi là việc bình thường. Mục đích chính lâu nay vẫn là để “coi bói” chứ không phải là làm toán. Ngay trong khoa học người ta cũng thường giải các bài toán trong điều kiện hạn chế… phù hợp với các ứng dụng cụ thể hơn là giải chính xác. 2. Về các nhóm Lie và Ma phương Freudenthal-Tits... Tự nhiên tồn tại và chỉ tồn tại 5 nhóm Lie ngoại lệ. Nhóm G2 - 14 chiều là nhóm bé nhất trong bộ 5 nhóm Lie ngoại lệ G2 - F4 - E6 - E7 - E8. Nhóm E7 - 133 chiều - 126 root đỉnh là đối tượng mà chúng ta đang quan tâm. Chỉ có một số ít cấu trúc “đa tạp + nhóm” là nhóm Lie. Nhóm Lie của các phép biến đổi trong không gian n-chiều chỉ gồm 4 họ, chúng liên quan đến các không gian đối xứng chẳng hạn như không gian chiếu và các mặt cầu nhiều chiều. Cụ thể ta có: An - nhóm các phép biến đổi unitarity trong không gian phức n chiều CPn = SU(n+1)/S(U(n)xU(1)), mặt cầu S(2n+1) = SU(n+1)/SU(n) Bn - nhóm các phép quay trong không gian thực có số chiều lẻ, mặt cầu trên đó có số chiều chẵn S(2n) = SO(2n+1)/SO(2n) Cn - nhóm các phép biến đổi trong không gian quaternion n chiều HPn = Sp(n+1)/Sp(n)xSp(1), mặt cầu S(4n+3) = Sp(n+1)/Sp(n) Dn - nhóm các phép quay trong không gian thực có số chiều chẵn, mặt cầu trên đó có số chiều lẻ S(2n+1) = SO(2n+2)/SO(2n+1) Bn, Dn là nhóm các phép quay thực, gọi là nhóm Spin(2n+1) và Spin(2n) An là nhóm các phép quay phức tổng quát, gọi là nhóm unitarity SU(n+1) Cn là nhóm các phép quay quarternion tổng quát, gọi là nhóm symplectic Sp(n) Ngoài ra ta chỉ có 5 nhóm Lie khác gọi là các nhóm Lie ngoại lệ : G2, F4, E6, E7, và E8. Các nhóm Lie ngoại lệ đều liên hệ đến các octonion, chúng không làm thành một họ vô hạn do tính không kết hợp của các octonion. G2 là nhóm tự đẳng cấu của các octonion. G2 có 14 chiều, biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 7 chiều F4 là nhóm tự đẳng cấu của các ma trận octonion 3x3. F4 có 52 chiều - 48 root đỉnh, biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 26 chiều. E6 là nhóm F4 mở rộng với binion (đại số phức). E6 có 78 chiều – 72 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 27 chiều. E7 là nhóm F4 mở rộng với quarternion. E7 có 133 chiều – 126 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất là 56 chiều. E8 là nhóm F4 mở rộng với octonion. E8 có 248 chiều – 240 root đỉnh và biểu diễn không tầm thường nhỏ nhất cũng là 248 chiều. Các nhóm F4 - E6 - E7 - E8 tương ứng với quan hệ của octonion-real, octonion-complex, octonion-quaternion và octonion-octonion. Chỉ số n của An, Bn, Cn, Dn và các con số của G2, F4, E6, E7, E8 thể hiện hạng của nhóm Lie tương ứng với đại số con Cartan Abel lớn nhất của chúng. Đó cũng là kích thước của không gian Euclide theo giản đồ root vector vốn là những đối xứng xác định nhóm Weyl của chúng. Với S3 = SU(2) = Spin(3) = Sp(1) và J3(O)o - 26 chiều là ma trận octonion traceless 3x3 của đại số Jordan ngoại lệ, ta có: E6 = F4 + J3(O)o. E6/(Spin(10)xU(1)) có 78 – 45 – 1 = 32 chiều thực hay 16 chiều phức và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (CxO)P2 E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o). E7/(Spin(12)xSU(2)) có 133 – 66 – 3 = 64 chiều thực hay 32 chiều phức và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (HxO)P2 E8 = F4 + G2 + (S7 x J3(O)o). E8/Spin(16) có 248 – 120 = 128 chiều thực và nó là mặt phẳng chiếu Rosenfeld (OxO)P2 Để xác định mặt cầu nào là nhóm Lie, đầu tiên ta xét các phép quay thỏa bảng nhân nhóm. Ta chỉ có các phép quay của các mặt cầu trong không gian của các đại số có phép chia định chuẩn gồm R, C, H và O. Riêng với số thực R là mặt cầu 0 - chiều nên ta không xét. Vậy thì ta sẽ có các đại số phức C, đại số quarternion H và đại số octonion O. Họ An chứa các phép quay phức trong mặt cầu đơn vị S1 - S1 là một nhóm Lie. Họ Bn và Cn đều chứa các phép quay quarternion trên mặt cầu đơn vị S3 - S3 cũng là một nhóm Lie. Họ Dn chứa nhóm Lorentz trong không gian 4 chiều, gồm 2 phiên bản của S3 (3 rotate và 3 boost). Tuy nhiên, S7 không phải là một nhóm Lie do tính không kết hợp của octonion. Tính không kết hợp của octonion sẽ làm cho S7 giãn nở do nhận dạng Jacobi của các octonion khác không. Do đó S7 chỉ là một mặt cầu đơn vị 7 chiều trong đại số có phép chia định chuẩn octonion. Cụ thể S7 giãn nở theo tích xoắn (x) của S7(x)S7(x)G2 - 28 chiều tương ứng với nhóm Lie D4 hay Spin(8). Spin(8) là nhóm các phép quay trong không gian 8 chiều – không gian của các octonion. Spin(8) vừa là nhóm Lie tiêu chuẩn D4, vừa tồn tại trong các nhóm Lie ngoại lệ của các octonion, do đó Spin(8) là một nhóm Lie rất đặc biệt với 28 chiều. Đây cũng là nhóm thể hiện siêu đối xứng triality. Siêu đối xứng triality D4 = Spin(8) Đến đây chúng ta lại có sự tương đồng về kích thước của nhóm Spin(8) – 28 chiều và con số 28 trong “Nhị thập bát tú” của Lý học. Ngoài ra, theo tôi siêu đối xứng triality thể hiện trong giản đồ Dynkin của D4 = Spin(8) có sự tương ứng rất sâu sắc với siêu đối xứng Tam Tài "Thiên - Địa - Nhân" trong Lý học. Các cấu trúc E6 - E7 - E8 có thể xây dựng dựa trên Ma phương Freudenthal-Tits, ma phương này thể hiện mối quan hệ giữa Đại số có phép chia định chuẩn (R, C, H, O) và Đại số ma trận. Trong đó: Đại số có phép chia định chuẩn định nghĩa các hàng của Ma phương. Đại số Jordan định nghĩa các cột của Ma phương. Và Đại số Lie định nghĩa các phần tử của Ma phương. Đại số Jordan là đại số của các ma trận Hermitian với tích đối xứng. Đại số Lie là đại số của các ma trận phản - Hermitian với tích phản xứng. Ma phương Freudenthal-Tits bao gồm tất cả các Đại số Lie ngoại lệ, nhưng chỉ chứa một vài đại số Lie tiêu chuẩn A, B, C, và D. Ta có bảng: + Các cột là các đại số Jordan J = R, J3®, J3©, J3(H), J3(O) (J3(K) là đại số của các ma trận Hermitian 3x3 trên K) + Các hàng là các đại số A = R, C, H, O + Các phần tử ma phương 4x5 là các đại số Lie L được tạo thành bởi qui tắc: L = Der(A) + (A0xJ0) + Der (J) Trong đó Der là phép lấy vi phân, + là tổng trực tiếp, x là tích tensor, A0 là các phần tử thuần ảo của A, R0=S0, C0=S1, H0=S3, O0=S7 và J0 là các phần tử trace - zero của đại số Jordan J. Sn là đại số của các vector tangent trên mặt cầu n-chiều. S0, S1, S3 là các đại số Lie và S7 là một đại số Malcev. Lưu ý: A1 = SU(2), A2 = SU(3), A5 = SU(6), C3 = Sp(3), D6 = SO(12) (Spin(12) và G2, F4, E6, E7, và E8 là các đại số Lie ngoại lệ. Xét kích thước của các đại số Lie : Nếu Aij có k – kích thước thì Aii thực, kích thước ma trận là 3k + 3. Nếu trace = tổng các phần tử trên đường chéo = 0, kích thước ma trận sẽ là 3k + 2 chiều. Do đó đối với: R: 3x1 + 2 = 5 C: 3x2 + 2 = 8 H: 3x4 + 2 = 14 O: 3x8 + 2 = 26 Ma phương Freudenthal-Tits có thể định dạng E8. Bắt đầu với D4 = Spin(8) ta có: 28 = 28 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 + 0 Thêm 2 spinor và 1 vector ta được F4: 52 = 28 + 8 + 8 + 8 + 0 + 0 + 0 Bây giờ, "phức hóa" phần 8+8+8 của F4 ta được E6: 78 = 28 + 16 + 16 + 16 + 1 + 0 + 1 Kế tiếp, "quaternion hóa" phần 8+8+8 của F4 ta được E7: 133 = 28 + 32 + 32 + 32 + 3 + 3 + 3 Cuối cùng, "octonion hóa" phần 8+8+8 của F4 ta có E8: 248 = 28 + 64 + 64 + 64 + 7 + 14 + 7 3. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm G2 và nhóm 14 Chính tinh Không gian biểu diễn root system của G2-14 chiều - 12 root đỉnh thể hiện như hình 1. Biểu diễn trên mặt phẳng được phân thành 2 lớp 6/8 như hình 2. Tương tự như trong hình 2, với đúng 14 chính tinh của Tử vi ta có 2 lớp 6/8 đã được đặt tên : Tử vi – Liêm trinh – Thiên đồng – Vũ khúc – Thái dương – Thiên cơ và Thiên phủ - Thái âm– Tham lang – Cự môn – Thiên tướng – Thiên lương – Thất sát – Phá quân. Các trục màu đỏ sẽ được gọi là trục Tử vi và trục màu xanh được gọi là trục Thiên phủ. 4. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm F4 và nhóm 48 sao có cấu trúc riêng Xin lưu ý khái niệm có cấu trúc riêng (đặc biêt) được dùng ở đây xét theo nghĩa có cấu trúc biểu diễn rất riêng đã được thể hiện trên Địa bàn. Theo nghĩa này ta có: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng Tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao) . + Triệt - Tuần (4 sao) Tổng cộng ta có: 14 + 12 + 12 + 6 + 4 = 48 sao, ta tạm gọi là nhóm 48 sao có cấu trúc riêng hay 48 sao đặc biệt theo nghĩa đơn giản là để phân biệt với nhóm các sao còn lại trên Địa bàn. Không gian biểu diễn của F4 - 52 chiều , 48 root đỉnh biểu diễn trên mặt phẳng được thể hiện như ở hình 3. Biểu diễn root system của F4 trong mối liên hệ đến Tử vi được thể hiện ở hình 4. Một cách hình thức ta có: + 14 chính tinh tương ứng với các root vector trên đỉnh 2 ngôi sao 6 cánh và 2 root vector biểu thị bằng 2 hình tròn nhỏ màu vàng. + 12 sao của vòng Thái tuế tương ứng với 12 root vector trên vòng tròn màu đỏ. + 12 sao của vòng Tràng sinh tương ứng với 12 root vector trên vòng tròn màu xám. + 6 sao vòng Thiên mã tương ứng với 6 đỉnh trong của 6 tam giác màu vàng. + 2 sao Triệt và 2 sao Tuần tương ứng với các root vector biểu thị bằng 2 hình tròn nhỏ màu đỏ và 2 hình tròn nhỏ màu xanh. 5. Về sự tương đồng hình thức biểu diễn của nhóm E7 và các sao của Tử vi E6 = F4 + (S1 x J3(O)o) có 72 root đỉnh biểu diễn như hình 5. Ta có E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o) , trong đó có 52 chiều của F4 + 3 chiều của SU(2) + 78 chiều của (S3xJ3(O)o) = 133 chiều. Không gian biểu diễn của E7-133 chiều - 126 root đỉnh biểu diễn trên mặt phẳng được thể hiện như ở hình 6. E7 = E6 + U(1) + J3(O) x (1 + 1*) Ma trận octonionic J3(O): (8 + 8 + 8 + 1 + 1 + 1= 27 chiều, trong đó ký hiệu O biểu thị các Octonion) Biểu diễn 126 root system khác của E7 trong mối liên hệ khả dĩ đến Tử vi có thể được thể hiện ở hình 7. E7 = F4 + SU(2) + (S3 x J3(O)o) Ma trận traceless octonionic J3(O)o :(12 + 12 + 1 + 1 = 26 chiều) Xét biểu diễn E7 trên hình 7, bộ 48 sao trung tâm trong Tử vi một cách hình thức gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) Với 78 sao còn lại biểu diễn trên Địa bàn của Tử vi một cách hình thức ta tạm xếp làm 3 nhóm 26 sao: + Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ + Thiên quan, Thiên phúc, Lưu hà, Thiên trù, Văn tinh, Thiên khôi, Thiên việt, Kình dương, Đà la, Bác sĩ, Quốc ấn, đường phù + Thiên la, Địa võng + Thiên không, Cô thần, Quả tú, Phá toái, Quan sách + Thiên khốc, Thiên hư, Long trì, Phượng các, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên đức, Nguyệt đức, Giải thần, Tả phù, Hữu bật, Thiên giải, Địa giải, Thiên riêu, Thiên y, Âm sát + Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa, Hóa kỵ + Tam thai, Bát tọa + Ấn quang, Thiên quý + Thiên tài, Thiên thọ, Đẩu quân + Thiên thương, Thiên sứ + Văn xương, Văn khúc, Thai phụ, Phong cáo, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp + Lưu Thái tuế, Lưu Lộc tồn, Lưu Thiên mã, Lưu Tang môn, Lưu Thiên hư, Lưu Thiên khốc, Lưu Bạch hổ, Lưu Kình dương, Lưu Đà la 6. Khái quát qui tắc an sao của Tử vi Nhằm xác định sự phụ thuộc chính xác của từng sao tử vi vào các tham số thời gian gồm ngày, tháng, năm (can/chi), giờ sinh và giới tính tôi đã cố gắng khái quát qui tắc an sao thành các công thức số học hoặc các bảng tra, sao cho chúng hoàn toàn tương đương với cách thức an sao truyền thống. Ký hiệu: / : phép chia lấy phần nguyên % : phép chia lấy phần dư Lấy ngày, tháng, năm và giờ sinh theo hệ can chi (âm lịch) Đặt: Chi tháng sinh N(tháng) = [tháng sinh + 9]% 12 Chi giờ sinh N(giờ) = [giờ sinh % 2 + giờ sinh/2 + 10] % 12 Chỉ số ngày sinh N(ngày) = ngày sinh (âm lịch) Nam : p = 0, Nữ: p = 1 và bit dấu s = (-1)^[N(năm) + p] Dưới đây là công thức hoặc qui tắc an 126 sao Sao định vị Địa bàn: 2 sao N(thiên la) = 2 N(địa võng) = 8 Phân cung Địa bàn N(huynh đệ) = [11 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phụ mẫu) = [13 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phúc đức) = [14 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(điền trạch) = [15 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(quan lộc) = [16 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(nô bộc) = [17 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên di) = [18 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tật ách) = [19 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tài bạch) = [20 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(tử tức) = [21 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(phu thê) = [22 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thân) = [ 4 + N(tháng)+ N(giờ)] % 12 Cục phụ thuộc vào thiên can, tháng sinh và giờ sinh Vòng chính tinh: 14 sao Đặt: k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục l = (Cục – k) /Cục m = N(ngày)/Cục N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] N(liêm trinh) = [N(tử vi) + 4] % 12 N(thiên đồng) = [N(tử vi) + 7] % 12 N(vũ khúc) = [N(tử vi) + 8] % 12 N(thái dương) = [N(tử vi) + 9] % 12 N(thiên cơ) = [N(tử vi) +11] % 12 N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi) % 6))] % 12 N(thái âm) = [N(thiên phủ) + 1] % 12 N(tham lang) = [N(thiên phủ) + 2] % 12 N(cự môn) = [N(thiên phủ) + 3] % 12 N(thiên tướng) = [N(thiên phủ) + 4] % 12 N(thiên lương) = [N(thiên phủ) + 5] % 12 N(thất sát) = [N(thiên phủ) + 6] % 12 N(phá quân) = [N(thiên phủ) +10] % 12 Các sao vòng chính tinh phụ thuộc vào tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh và can của năm sinh. Vòng tràng sinh: 12 sao Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]] Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2]] N(mộc dục) = [12 + N(trường sinh) + 1s] % 12 N(quan đới) = [12 + N(trường sinh) + 2s] % 12 N(lâm quan) = [12 + N(trường sinh) + 3s] % 12 N(đế vượng) = [12 + N(trường sinh) + 4s] % 12 N(suy) = [12 + N(trường sinh) + 5s] % 12 N(bệnh) = [12 + N(trường sinh) + 6s] % 12 N(tử) = [12 + N(trường sinh) + 7s] % 12 N(mộ) = [12 + N(trường sinh) + 8s] % 12 N(tuyệt) = [12 + N(trường sinh) + 9s] % 12 N(thai) = [12 + N(trường sinh) +10s] % 12 N(dưỡng) = [12 + N(trường sinh) +11s] % 12 Các sao vòng tràng sinh phụ thuộc vào cục và bit dấu tức là phụ thuộc vào tháng sinh, giờ sinh, giới tính và can/chi của năm sinh. Vòng Thái tuế: 12 sao N(thái tuế) = N(năm) N(thiếu dương) = [ 1 + N(năm)] % 12 N(tang môn) = [ 2 + N(năm)] % 12 N(thiếu âm) = [ 3 + N(năm)] % 12 N(quan phù) = [ 4 + N(năm)] % 12 N(tử phù) = [ 5 + N(năm)] % 12 N(tuế phá) = [ 6 + N(năm)] % 12 N(long đức) = [ 7 + N(năm)] % 12 N(bạch hổ) = [ 8 + N(năm)] % 12 N(phúc đức) = [ 9 + N(năm)] % 12 N(điếu khách) = [ 10 + N(năm)] % 12 N(trực phù) = [ 11 + N(năm)] % 12 Các sao vòng thái tuế chỉ phụ thuộc vào chi của năm sinh Vòng Thiên mã: 6 sao N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm) % 4 + 1)%2) + 6((N(năm) % 4)/2) ] % 12 N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2] % 12 N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3] % 12 N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4] % 12 N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5] % 12 N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7] % 12 Các sao vòng thiên mã chỉ phụ thuộc vào chi của năm sinh Vòng Lộc tồn: 12 sao N(Lộc tồn) tra theo bảng: N(lực sĩ) = [12 + N(lộc tồn) + 1s] % 12 N(thanh long) = [(12 + N(lộc tồn) + 2s] % 12 N(tiểu hao) = [12 + N(lộc tồn) + 3s] % 12 N(tướng quân) = [12 + N(lộc tồn) + 4s] % 12 N(tấu thơ) = [12 + N(lộc tồn) + 5s] % 12 N(phi liêm) = [12 + N(lộc tồn) + 6s] % 12 N(hỷ thần) = [12 + N(lộc tồn) + 7s] % 12 N(bệnh phù) = [12 + N(lộc tồn) + 8s] % 12 N(đại hao) = [12 + N(lộc tồn) + 9s] % 12 N(phục binh) = [12 + N(lộc tồn) +10s] % 12 N(quan phủ) = [12 + N(lộc tồn) +11s] % 12 Các sao vòng lộc tồn phụ thuộc vào can của năm sinh và bit dấu tức là phụ thuộc vào can/chi của năm sinh và giới tính Sao triệt : 2 sao N(triệt1) = [2((9 – M(năm)) % 5) + 10] % 12 N(triệt2) = [2((9 – M(năm)) % 5) + 10] % 12 + 1 Các sao triệt chỉ phụ thuộc vào can của năm sinh Sao tuần : 2 sao N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)] % 12 N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)] % 12 Các sao tuần phụ thuộc vào can/chi của năm sinh Sao thuần chi: 11 sao N(thiên không) = [ 1 + N(năm)] % 12 N(long trì) = [ 4 + N(năm)] % 12 N(nguyệt đức) = [ 5 + N(năm)] % 12 N(thiên hư) = [ 6 + N(năm)] % 12 N(thiên đức) = [ 9 + N(năm)] % 12 N(quan sách) = [ 11 + N(năm)] % 12 N(thiên khốc) = [ 14 – N(năm)] % 12 N(thiên hỉ) = [ 17 – N(năm)] % 12 N(phượng các) = [ 18 – N(năm)] % 12 N(giải thần) = [ 18 – N(năm)] % 12 N(hồng loan) = [ 23 – N(năm)] % 12 Sao thuần tháng: 8 sao N(thiên riêu) = [ 1 + N(tháng)] % 12 N(thiên y) = [ 1 + N(tháng)] % 12 N(tả phù) = [ 4 + N(tháng)] % 12 N(địa giải) = [ 7 + N(tháng)] % 12 N(thiên giải) = [ 8 + N(tháng)] % 12 N(thiên hình) = [ 9 + N(tháng)] % 12 N(hữu bật) = [18 – N(tháng)] % 12 N(âm sát) = [32 – 2N(tháng)] % 12 Sao thuần giờ: 6 sao N(văn khúc) = [ 4 + N(giờ)] % 12 N(thai phụ) = [ 6 + N(giờ)] % 12 N(phong cáo) = [ 2 + N(giờ)] % 12 N(địa kiếp) = [11 + N(giờ)] % 12 N(văn xương) = [18 - N(giờ)] % 12 N(địa không) = [19 - N(giờ)] % 12 Sao tháng – ngày: 2 sao N(tam thai) = [3 + N(tháng) + N(ngày)] % 12 N(bát tọa) = [43 - N(tháng) - N(ngày)] % 12 Sao tháng – giờ: 2 sao N(thiên thương) = [17 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên sứ) = [19 + N(tháng) – N(giờ)] % 12 Sao năm – tháng – giờ: 3 sao N(thiên tài) = [14 + N(năm) + N(tháng) – N(giờ)] % 12 N(thiên thọ) = [ 6 + N(năm) + N(tháng) + N(giờ)] % 12 N(đẩu quân) = [12 + N(năm) – N(tháng) + N(giờ)] % 12 Sao giờ - ngày: 2 sao N(thiên quý) = [30 - N(ngày) + N(giờ)] % 12 N(ấn quang) = [50 - N(ngày) - N(giờ)] % 12 Sao năm – giờ: 2 sao N(hỏa tinh) = [((N(năm)%4 + 1)/2 + 11) % 12 + sN(giờ)] % 12 N(linh tinh) = [12 + (5( 4 - N(năm) %4 ) /4 ) + 8) % 12 - sN(giờ)] % 12 Sao thuần can: 12 sao Tra theo bảng Bộ tứ hóa: 4 sao Hóa quyền và Hóa lộc chỉ đồng cung với các sao của vòng chính tinh, tức là luôn phụ thuộc vào tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh và can của năm sinh. Hóa khoa ngoài khả năng an đồng cung với các chính tinh đôi khi chỉ đồng cung với các sao Văn xương, Văn khúc, Tả phù, Hữu bật vốn là các sao chỉ phụ thuộc vào giờ sinh (Văn xương, Văn khúc ) hoặc tháng sinh (Tả phù, Hữu bật). Hóa kỵ có thể an đồng cung với các chính tinh hoặc đồng cung với các sao Văn xương, Văn khúc vốn là các sao chỉ phụ thuộc vào giờ sinh. Bảng an tứ hóa Sao lưu động: 9 sao Chi năm lưu động N(năm_lđ) = [năm_lđ + 6] % 12 Can năm lưu động M(năm_lđ) =[năm_lđ + 6] % 10 N(lưu thái tuế) = N(năm_lđ) N(lưu tang môn) = [N(năm_lđ) + 2]%12 N(lưu bạch hổ) = [N(năm_lđ) + 8]%12 N(lưu thiên hư) = [ 6 + N(năm_lđ)] % 12 N(lưu thiên khốc) = [ 14 – N(năm_lđ)] % 12 N(lưu thiên mã) = [3 + 3((N(năm_lđ) % 4 + 1)%2) + 6((N(năm_lđ) % 4)/2) ] % 12 An sao Lưu Lộc tồn tương tự sao Lộc tồn trong đó thay M(năm) -> M(năm_lđ) và thay N(lộc tồn) bằng N(lưu Lộc tồn) theo bảng: N(lưu kình dương) = [N(lưu lộc tồn) + 1]%12 N(lưu đà la) = [N(lưu lộc tồn) + 11]%12 Trong bài viết có nói đến các sao còn lai của vòng Tướng tinh, dưới đây là công thức an 7 sao này: N(tướng tinh) = 1 + 3[(N(năm) % 4 + 1)%2] + 6[(N(năm) % 4)/2] N(phan an) = (N(tướng tinh) + 1) % 12 N(tuế dịch) = (N(tướng tinh) + 2) % 12 N(tức thân) = (N(tướng tinh) + 3) % 12 N(chỉ bối) = (N(tướng tinh) + 8) % 12 N(tai sát) = (N(tướng tinh) +10) % 12 N(vong thần) = (N(tướng tinh) +11) % 12 7. Cấu trúc root system của Nhóm G2 và sự tương đồng với qui tắc an sao của 14 Chính tinh Chi tiết hơn bây giờ ta sẽ xét qui tắc an sao của vòng Tử vi trong sự tương đồng khả dĩ với cấu trúc root vector của nhóm G2. Xem hình 8. Ta biết theo Tử vi thì :”Sau khi an sao Tử Vi, theo chiều thuận cách sao Tử vi 3 cung an sao Liêm trinh, cách Liêm trinh 2 cung an sao Thiên đồng, tiếp theo Thiên đồng là sao Vũ khúc, sau Vũ khúc là Thái dương, cách Thaí dương 1 cung an sao Thiên cơ”. Tương tự, ta xét qui tắc an sao của vòng Thiên phủ. Theo Tử vi: “sau khi an sao Thiên phủ, theo chiều thuận, lần lượt mỗi cung an một sao, theo thứ tự: Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát. Cách Thất sát 3 cung an sao Phá Quân”. 8. Cấu trúc root system của Nhóm F4 và sự tương đồng với qui tắc an sao của 48 sao trung tâm 48 sao trung tâm gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) Chi tiết hơn bây giờ ta sẽ xét qui tắc an sao của 48 sao trung tâm trong sự tương đồng khả dĩ với cấu trúc root vector của nhóm F4. Xem hình 9. Xét lá số: Nam, giờ tuất, ngày 1, tháng 3 năm kỷ mão N(năm) = mão = 1 M(năm) = kỷ = 5 N(tháng) = tháng 3 = 0 N(ngày) = ngày = 1 N(giờ) = tuất = 8 Vậy: N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)]%12 = 4 = ngọ N(thân) = [4 + N(tháng) + N(giờ)]%12 = 12%12 = 0 = dần i = [(N(mệnh) + 1)%2 + N(mệnh) -1]/2 = [(4+1)%2 + 4 -1]/2 = 2 j = M(năm)%5 = 5%5 = 0 Theo bảng tra cục => Cục[2,0] = 5 = Thổ ngũ cục k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục = ((5 - 1)%5)%5 = 4 l = (Cục – k) /Cục = (5-1)/5 = 0 m = N(ngày) /Cục = 1/5 = 0 N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] = (12+4)%12 = 4 = ngọ N(liêm trinh) = (N(tử vi) + 4) % 12 = 8 = tuất N(thiên đồng) = (N(tử vi) + 7) % 12 = 11 = sửu N(vũ khúc) = (N(tử vi) + 8) % 12 = 0 = dần N(thái dương) = (N(tử vi) + 9) % 12 = 13%12 = 1 = mão N(thiên cơ) = (N(tử vi) +11) % 12 = 15%12 = 3 = tỵ N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi)%6))]%12 = [4+(12-2(4%6))]%12 = 8 = tuất N(thái âm) = (N(thiên phủ) + 1) % 12 = 9 = hợi N(tham lang) = (N(thiên phủ) + 2) % 12 = 10 = tý N(cự môn) = (N(thiên phủ) + 3) % 12 = 11 = sửu N(thiên tướng) = (N(thiên phủ) + 4) % 12 = 12%12 = 0 = dần N(thiên lương) = (N(thiên phủ) + 5) % 12 = 13%12 = 1 = mão N(thất sát) = (N(thiên phủ) + 6) % 12 = 14%12 = 2 = thìn N(phá quân) = (N(thiên phủ) +10) % 12 = 18%12 = 6 = thân N(thái tuế) = N(năm) = 1 = mão Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]]= 6 = thân Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2] = 3 = tỵ N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm)%4 + 1)%2) + 6((N(năm)%4)/2)]%12 = 3 = tỵ N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2]%12 = 5 = mùi N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3]%12 = 6 = thân N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4]%12 = 7 = dậu N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5]%12 = 8 = tuất N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7]%12 = 10 = tý N(triệt1) = [2((9 – M(năm))%5) + 10]%12 = 18%12 = 6 = thân N(triệt2) = [2((9 – M(năm))%5) + 10] % 12 + 1 = 7 = dậu N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 6 = thân N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 7 = dậu Tử vi an tại ngọ. Trục tử vi tương ứng với trục Tý – Ngọ màu đỏ, trục thiên phủ tương ứng với trục Thìn – Tuất màu xanh và Thiên phủ sẽ được an tại Tuất. Tương tự như mục 7, các sao của vòng Tử vi tương ứng với các đỉnh của ngôi sao 6 cánh ở trung tâm, các sao của vòng Thiên phủ sẽ tương ứng với các đỉnh của ngôi sao 6 cánh lớn ở ngoài và 2 root màu vàng tương ứng với các sao Thất sát và Phá quân như trên hình 9. Tiếp theo: Vòng Thái tuế có 12 sao tương ứng với 12 root nằm trên vòng tròn màu đỏ. Vòng Tràng sanh có 12 sao tương ứng với 12 root nằm trên vòng tròn màu xám. Vòng Tướng tinh thiếu hay vòng Thiên mã gồm 6 sao: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa nằm đúng trên các root thuộc 6 đỉnh phía trong của 6 tam giác màu vàng. 9. Cấu trúc root system của Nhóm E6 và qui tắc an sao của 72 sao trung tâm Tuy chưa thật tường minh nhưng vẫn còn một khả năng khác trong đó cấu trúc trung tâm của Tử vi tuân theo nhóm E6 (xem hình 6). Trong trường hợp này 72 sao trung tâm của Tử vi có thể gồm: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng Thiên mã: Thiên mã, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Đào hoa (6 sao) + Triệt - Tuần (4 sao) + Vòng 12 sao sẽ được chọn thích hợp theo qui tắc an sao tử vi đã biết ? Hoặc với cấu trúc khác: + Vòng chính tinh: Tử vi, Liêm trinh, Thiên đồng, Vũ khúc, Thái dương, Thiên cơ - Thiên phủ, Thái âm, Tham lang, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, Thất sát, Phá quân (14 sao). + Vòng Thái tuế: Thái tuế, Thiếu dương, Tang môn , Thiếu âm, Quan phù, Tử phù, Tuế phá, Long đức, Bạch hổ , Phúc đức, Điếu khách, Trực phù (12 sao). + Vòng tràng sinh: Trường sinh. Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng (12 sao). + Vòng Lộc tồn: Lộc tồn, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân,Tấu thơ, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ (12 sao). + Vòng Tướng tinh: Tướng tinh, Phan an, tuế dịch, Tức thân, Hoa cái, Kiếp sát, Thiên sát, Nguyệt sát, Chỉ bối, Đào hoa, Tai sát, Vong thần (12 sao). + Triệt - Tuần (4 sao) + Vòng 6 sao sẽ được chọn thích hợp theo qui tắc an sao tử vi đã biết ? Xét lá số: Nữ, giờ ngọ, ngày 12, tháng 6 năm mậu thân N(năm) = thân = 6 M(năm) = mậu = 4 N(tháng) = tháng 6 = 3 N(ngày) = ngày = 12 N(giờ) = ngọ = 4 Vậy: N(mệnh) = [12 + N(tháng) – N(giờ)]%12 = 11 = sửu N(thân) = [4 + N(tháng) + N(giờ)]%12 = 11 = sửu i = [(N(mệnh) + 1)%2 + N(mệnh) - 1]/2 = 5 j = M(năm)%5 = 4 Theo bảng tra cục => Cục[5,4] = 4 = Kim tứ cục k = (Cục – N(ngày) % Cục) % Cục = ((4 - 0)%4)%4 = 0 l = (Cục – k) /Cục = 1 m = N(ngày) /Cục = 12/4 = 3 N(tử vi) = [(l + 1) % 2] [ (12 + m + k x (– 1)^k) % 12] + l [(m - 1) % 12] = 2 = thìn N(liêm trinh) = (N(tử vi) + 4) % 12 = 6 = thân N(thiên đồng) = (N(tử vi) + 7) % 12 = 9 = hợi N(vũ khúc) = (N(tử vi) + 8) % 12 = 10 = tý N(thái dương) = (N(tử vi) + 9) % 12 = 11 = sửu N(thiên cơ) = (N(tử vi) +11) % 12 = 1 = mão N(thiên phủ) = [N(tử vi) + (12 – 2 (N(tử vi)%6))]%12 = [2+(12-2(2%6))]%12 = 10 = tý N(thái âm) = (N(thiên phủ) + 1) % 12 = 11 = sửu N(tham lang) = (N(thiên phủ) + 2) % 12 = 0 = dần N(cự môn) = (N(thiên phủ) + 3) % 12 = 1 = mão N(thiên tướng) = (N(thiên phủ) + 4) % 12 = 2 = thìn N(thiên lương) = (N(thiên phủ) + 5) % 12 = 3 = tỵ N(thất sát) = (N(thiên phủ) + 6) % 12 = 4 = ngọ N(phá quân) = (N(thiên phủ) +10) % 12 = 8 = tuất N(thái tuế) = N(năm) = 6 = thân Theo tử vi đẩu số: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3((6 – Cục)/2)] + [Cục%2][6 + 3[(6 – Cục)/2]]= 3 = tỵ Theo tử vi Lạc Việt: N(trường sinh) = [(Cục + 1)%2][3(Cục/3)] + [Cục%2][3 + 6[(6 – Cục)/2] = 3 = tỵ N(thiên mã) = [3 + 3((N(năm)%4 + 1)%2) + 6((N(năm)%4)/2)]%12 = [3 + 3 + 6]%12= 0 = dần N(hoa cái) = [N(thiên mã) + 2]%12 = 2 = thìn N(kiếp sát) = [N(thiên mã) + 3]%12 = 3 = tỵ N(thiên sát) = [N(thiên mã) + 4]%12 = 4 = ngọ N(nguyệt sát) = [N(thiên mã) + 5]%12 = 5 = mùi N(đào hoa) = [N(thiên mã) + 7]%12 = 7 = dậu N(triệt1) = [2((9 – M(năm))%5) + 10]%12 = 10 = tý N(triệt2) = [2((9 – M(năm))%5) + 10] % 12 + 1 = 11 = sửu N(tuần1) = 10 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 10 = tý N(tuần2) = 11 - [12 + M(năm) – N(năm)]%12 = 7 = sửu Vòng Chính tinh, vòng Thái tuế, vòng Tràng sinh, vòng Thiên mã và các sao Tuần - Triệt được an tương tự như mục 8. Vòng Lộc tồn tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lam. Như vậy thì 12 sao được an trên vòng 12 sao trên vòng tròn màu xanh lá phải được chọn thích hợp trong các sao còn lại của Tử vi. Hoặc: Vòng Chính tinh, vòng Thái tuế, vòng Tràng sinh và các sao Tuần - Triệt được an tương tự như mục 8. Vòng Lộc tồn tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lá. Giả thiết vòng Tướng tinh tương ứng với 12 sao trên vòng tròn màu xanh lam, vậy thì 6 sao được an trên 6 đỉnh trong của 6 tam giác màu vàng phải được chọn thích hợp trong các sao còn lại của Tử vi. (còn tiếp) Tài liệu tham khảo [1] Octonions - J. Baez [2] Physics of E8 and Cl(16) - Frank D. Smith - 7/2008 [3] Clifford Algebra as Quantum Language - James Baugh, David Ritz Finkelstein, Andrei Galiautdinov - 01/2009 [4] Physics from Ancient African Oracle to E8 - Frank D. Smith - 2008 [5] Tử vi đẩu số toàn thư - Hi Di Trần Đoàn / Vũ Tài Lục biên dịch và bình chú. [6] Tử vi khảo luận - Hoàng Thường, Hàm Chương [7] Tử vi đẩu số tân biên - Vân Đằng Thái Thứ Lang [8] Tử vi tinh điển - Vũ Tài Lục [9] Tử vi hàm số - Nguyễn Phát Lộc [10] Số Tử vi dưới mắt Khoa Học - Hà Thúc Hồng, Vu Thiên, Nguyễn Đắc Lộc. [11] Tử vi ảo bí biện chứng học- Hà Lạc Dã Phu Việt Viêm Tử [12] Tử vi tướng pháp trọn đời - Bửu Sơn [13] Tử vi tổng hợp - Nguyễn Phát Lộc [14] Tử vi hoàn toàn khoa học - Đằng Sơn [15] Sách tử vi - Trừ Mê Tín [16] Magic Squares of LIE Algebras - C.H. Barton and A. Sudbery - 2008 [17] Triality, Exceptional LIE Algebras and Deligne Dimension Formulas - J.M. Landsberg and L. Manivel [18] An Exceptionally Simple Theory of Everything - A. Garrett Lisi Nguyễn Xuân Quang 12/05/2009
    1 like
  16. Bài II Nguồn: thegioinguoiviet.net Tùy Vân giới thiệu. Luận về tử vi Hôm trước tôi có đọc một đoạn viết của mấy bác thắc mắc về chuyện tử vi tướng số rằng tại sao nhiều người sinh cùng ngày cùng giờ thậm chí cùng nowi nhưng số phận lại ko giống nhau. Tôi có đọc được một đoạn viết cũng hay ở một trang web khác về vấn đề này . "Những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm, tại sao có cuộc đời khác nhau ? Mười năm qua, có khi vì mưu sinh, có khi đi du lịch, tới nơi nào tôi cũng được những bạn nghiên cứu Tử Vi dành cho sự tiếp đón nồng hậu nhất . Khi dưới ngọn đèn, khi trong vườn hoa, khi bên sườn núi, chúng tôi mượn chén rượu cùng nhau đàm đạo, tìm hiểu lẽ sinh tử, cùng số mệnh con người . Tôi tiếp nhận không biết bao nhiêu là thắc mắc, không biết bao nhiêu kinh nghiêm. Nhưng những thắc mắc tựu trung được đặt ra tóm gọn như sau: NHỮNG NGƯỜI CÓ CÙNG SỐ TỬ VI Câu hỏi được đặt ra đối với các "thầy" Tử vi là : Nếu có những người cùng một lá số tử vi, như sinh cùng giờ, ngày , tháng, năm tại sao lại có cuộc đời khác nhau ? Để trả lời câu hỏi, tôi xin quý vị hãy trở về với hai dẫn chứng lịch sử khá quan trọng : *** Dẫn chứng thứ nhất, xảy ra trong lịch sử VN: Năm 1426, Bình định Vương Lê Lợi đem quân vây đánh Đông Đô (Hà nội ngày nay) . Trên đường ra Đông Đô, ngài ghé qua Lam sơn thăm quê nhà . Bấy giờ, đế nghiệp của ngài đã thấy trước mắt . Các vị chức sắc trong làng tụ họp lại chúc mừng ngài . Có một ông tiều hỏi ngài rằng: --Vương với tôi cùng quê, lại sinh cùng giờ, cùng ngày, cùng tháng, cùng năm . Tại sao sự nghiệp của Vương to lớn như vậy ? Mà tôi thì vẫn là tiều phu ? Bình định Vương cười, rót chén rượu mời ông tiều, mà không trả lời . Đại tướng quân Lê Sát nói: --Chúa tôi là chân mệnh đế vương, con của Thượng đế sai xuống cai trị thiên hạ, nên trong thế gian này không ai có thể so sánh đươc với ngài . Nguyễn Trãi trả lời: --Chúa tôi với ông cùng niên canh, cùng quê, nhưng chúa tôi ôm hoài bão, chí lớn, trăm nghìn cay đắng, mới cứu được con đỏ Đại Việt . Còn ông thì an phận ở quê, sống cuộc đời nhàn tản, thì còn than thở làm chi . Nhưng đại tướng quân Trần Nguyên Hãn, là người biết Tử vi, trả lời: --Số Tử vi của ông với chúa tôi, tuy giống nhau nhưng lại khác nhau . Ông tiều không chịu, hỏi tiếp: --Giống thì giống rồi, còn khác thì khác ở chỗ nào ? Đáp: Trong khoa Tử vi, quan trọng nhất là cung Phúc Đức . Tử vi kinh nói : PHÚ, THỌ, QUÍ, VINH, YỂU, BẦN, AI, KHỔ Do ư phúc trạch cát hung THƯƠNG, TANG, HÌNH, KHÔN, HẠNH, LẠC, HỈ, HOAN Thi tại vần hành hung cát . Nghĩa là: 4 điều tốt: giầu, sống lâu, làm lớn, danh tiếng 4 điều xấu: chết non, nghèo khó, khốn khổ, buồn thương . Đều do cung phúc tốt hay xấu . Còn lại: 4 điều rủi là đau đớn, tang chế, tù tội, cùng cực . 4 điều sung sướng là gặp may, khoái lạc, mừng, vui, đều do vận hạn mà được đen hay đỏ, xấu hay tốt ... Ông tiều không chịu, lấy lá số tử vi trình ra: --Đại tướng quân nói rằng: "cung phúc" thì cung phúc của tôi với đại vương đều đóng ở Hợi, có Thái âm tọa thủ, thêm Hoá kị, thì đều tốt vô cùng, có khác gì nhau đâu ? Đáp: --Ông biết tử vi, nhưng chỉ biết một, mà không biết hai . Đã đành cung phúc của chúa tôi và ông giống nhau, nhưng ông đâu có biết rằng cả hai cùng bẩm sinh ngôi mộ của tổ mẫu (bà nội) . Tổ mẫu của chúng tôi táng tại thế đất hoàng long, phát đế nghiệp 400 năm, như Cao Tổ nhà Hán . Còn Tổ mẫu của ông để vào đất tầm thường, thì phát đế nghiệp sao nổi . Giai thoại trên cho thấy đại tướng quân Lê Sát không biết tử vi, chỉ tin vào hoang đường, đưa ra câu nói rất được lòng Bình định Vương . Bởi vậy sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà, để di chúc lại cho ông làm phụ chính đại thần . Còn Trần Nguyên Hãn vì am tường địa lý, tử vi, nên vua Lê Thái Tổ nghi ngờ . Cho đến lúc thành đại nghiệp rồi, thì cho bắt về kinh giết . Giữa đường được Quang Từ thiền sư cứu . Sau đó Trần Nguyên Hãn oán vua Lê, mang thanh Dương kiếm vào Thanh Hóa cắt đứt long mạch ngôi mộ của nhà Lê " Đào Tiềm-một thi sỹ thời Tấn nói rằng: "Đạt nhân tiền bất khả ngôn mệnh" , nghĩa là người đã giác ngộ không nên nói chuyện số mệnh. Lã Tài đời Đường cũng viết rằng : "Người phú quý đất Nam Dương, hai mười tám tướng, không lẽ người nào cũng được cung lục hợp???, Quân bị chôn ở đất Tràng Bình, bốn chục vạn người, không hẳn ngừõi nào cũng bị hạn tam hình". Thật vậy, Nếu khoa Tử Vi Đẩu Số chỉ dựa vào năm tháng, ngày gìơ và các vị tinh tú để quyết đoán định mệnh của một đời người thì ssẽ không tránh khỏi nhiều khiếm khuyết nếu không muốn nói là sai lầm. Sách có câu:" Nhân định thắng thiên" "Đức năng thắng số" nghĩa là người định có thể thắng được trời , và phúc đức có thể thắng được số mệnh. Nếu thế, thử hỏi rằng, tài giỏi như Gia Cát Lượng Khổng Minh sao vẫn không xoay được mệnh trời? Đã biết thỉên hạ sẽ chia ba, nhưng vẫn Lục thất Kỳ Sơn để rồi cam thất bại ???. Đức độ không ai bằng Khổng Phu Tử, mà đương thời không người dùng đến,phải bị khốn ở đất Trần Sái ?? và bị người đơừi bảo rằng : " lơ láo như chó mất chủ". Hẳn ta phải công nhận rằng : mỗi cá nhân là một định mệnhvà trong cái định mệnh ấy , đã có ngầm cái Nhân Quả Luân Hồi. Tuy nhiên, "Nhân" không thể tự mình sinh ra "QUả" được mà phải có "Duyên" trợ lực. Chẳng hạn, một hạt dưa "Nhân" phải có đất, hơi ẩm, ánh sáng mặt trời, phân bón ..."Duyên" để mọc thành cây và sinh ttrái "Quả" .Nhưng nếu gặp cái "Duyên" xấu tức là ngoại cảnh không thích hợp, thì cái "Nhân" phải bị hư thối , mục nát. Thành thử, cùng một "Nhân" mà khác "Duyên" tất không sinh ra "Quả" giống nhau, ngược lại, cùng một "Duyên" mà khác "Nhân" thì cũng chẳng sinh ra cùng một loại "Quả" . Vì thế, con người cũng là một sinh vật, tất không thể không chịu chung một định luật Nhân-Quả ấy. Nếu hai mươi tám tướng ở đất Nam Dương đều được phú quý, thì chắc chắn là họ khác "Nhân" nhưng có chung "Duyên" tốt. Bốn mươi vạn quân bị chôn ở đất Tràng Bình tuy cũng ưkhác "Nhân" hẳn cùng chung "Duyên" xấu. Vậy ta không nên vội vã kết luận rằng khoa Tử Vi Đẩu Số là huyền hoặc nếu đã chấp nhận mỗi "Định Mệnh" là một cái "Nhân" sẽ tuỳ thuộc vào "Duyên" mà phát triểnnếu cái "Duyên" ấy (tạm gọi là Âm Đức) thì khoa Tử Vi đã hơn một lần ứng nghiệm chính xác. Hơn nữa, triết lý của người xưa không đòi hỏi ở sự tuyệt đối mà tuân theo đạo "Trung Dung" thì khoa học ấy, tự nó cũng nói lên một phần giá trị. Cho nên, khi Hán Cao Tổ Lưu Bang gồm thâu thiên hạ, một ngày kia, khi đi tuần du gặp một lão nhà quê chân đất mắt toét có hỏi rằng : - Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần có một điều kính xin bệ hạ chỉ giáo, ! Cùng sinh một tháng, một năm, một ngày, một giờ, mà sao bệ hạ là bậc đế vương, thống nhất thiên hạ, khiếp phục chư hầu, mà hạ thần chỉ là một kẻ ngu dân nơi cô lâu này ??? Hán Cao Tổ nghe nói lấy làm lạ, ngẫm nghĩ và hỏi rằng : - Vậy hiện nay nhà ngươi làm nghề gì ? - Muon tâu thánh thượng, hạ thần làm nghề nuôi o*ng, và hịên có 9 tổ o*ng đang kéo mật. Lưu Bang vỗ tay cười ha hả, nói : - Nếu thếthì nhà ngươi còn sung sướng hơn ta nhiều, ta chỉ làm vua có một nước Trung Hoa mà vẫn chưa được yên, ngoài lo chế ngự chư hầu, trong lo bầy tôi làm phản. Nhà ngươi làm vua chín nước, loài o*ng cũng có quân thần, phụ tửchẵng khác gì loài người, lại không phản phúc, tất ngươi diễm phúc hơn ta còn than nỗi gì nữa ??? Sự tích này, có nhiều quyển kể chệch đi, có thể sai khác về nhân vật, nhưng cốt lõi vẫn chỉ để giải thích cho những băn khoăn, thắc mắc, cùng những bất mãn của mỗi người trong chúng ta về môn Tử Vi Đẩu Số nói riêng và toán mệnh phương pháp nói chung. Cái khó của Tử Vi là coi xuôi, mấy ông tuớng bàn nguợc, nghĩa là so sánh hai sự việc sảy ra rồi mới bàn . Giả sử đưa ông Trần nguyên Hãn lá số hai nguời độ vài chục năm truớc mà không thấy mặt mũi hai nguời thì ông cũng đoán chưa chắc đúng . Lời bàn của Nguyễn Trãi là lời giải thích hay nhất . Tạo hóa tạo ra con nguời bao phức tạp , do khí huyêt bẩm sinh từ cha mẹ , do âm duơng vận chuyển của trời đất mà ra, khi lớn lên cũng do những ảnh huởng đó mà nuôi lớn và hình thành . Sự hình thành con nguời cũng hơi giống như nấu một món ăn, cứ công thức đó thì tạo ra món chả giò chă?ng hạn nhưng ngon hay không còn tùy thuộc vào tay đầu bếp , hôm đó thit có tuơi , củ đậu có non, rồi còn nuớc chấm nữa ( Nguyễn Trãi, Lê Sát , Trần Nguyên Hãn ? ) có đầy đủ rồi còn tùy thuộc nguời thuởng thức nữa, đó có thể gọi là cái thời . Dân Việt lúc đó chă?ng khát khao thoát vòng nô lệ sao ? Luật nào cũng có ngoại luật , luật tạo hóa cũng thế . Lê Lợi là nguời ôm hoài bão mạo hiểm chọn theo ngoại luật, chấp nhận thử thách hơn là suôi theo dòng và tạo hóa đã ban cho con nguời sự lựa chọn đó, suôi theo dòng đời , đấu tranh trừ gian diệt bao. giết nguời cuớp của hay cảm hóa lòng nguời, một trăm năm cuộc đời đó , tạo hóa vẫn giữ sổ tử . Kinh Phật chă?ng dạy phải biêt thân nguời là quí vì đuợc kiêp nguời là đuợc lựa chọn , mà còn có cái duyên gặp Pháp nữa thì hãy theo mối duyên đó mà vuợt thoát lên, nếu không khi hết thân nguời rồi thì không biết khi nào ra khỏi . Thuơng Đế chẳng phải dùng hình ngài tạo ra con nguời và ban cho linh hồn sao ? Và rồi sự lựa chon theo sự cám dỗ cúa Satan hay "ta là đuờng đi lẽ thật và sự sống , chă?ng bởi ta không ai đến đuợc cùng cha" . Theo ý tôi lá số là nhân, cuộc đời là thời tiết khí hậu đất đai, sự hình thành là quả . Cứ theo luật nhân quả ,thì đem lá số ra xem cũng như nguời lấy nhân mà suy quả, bất quá như thấy nhân táo thì không ra quả cam đuợc; rồi thì đôi khi nhìn quanh quẩn xem khí hậu đất đai , nếu gặp tay trồng trọt giỏi thì biết thêm đuợc cây có lớn hay sai quả khộng Tôn giáo lúc nào nói đến tuơng lai cũng có chữ "Nếu" ? Tuơng lai chă?ng phải là do nhân quả mà ra đó sao ? Quá mênh mông "Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt. Thế gian này, việc như ý thì ít,việc bất như ý thì nhiều, người đắc chí thì ít, mà người bất đắc chí thì nhiều hằng hà sa số. Thực ra từ ngàn xưa đã vậy, bất luận là phương đông hay phương tây. Tại sao?? Đó là câu hỏi gắn liền với đời sống nhân loại từ khi loài người nhận thấy sự thọ yểu của sinh mệnh. Nó lại càng gây thắc mắc hơn khi người ta sống tụ lại thành "Xã Hội" .Có lẽ nào nguyên lý cuộc sống lại là do sự an bài của các đấng tối linh như là trời, phật, thựõng đế (?) như các tôn giáotín ngưỡng lập luận? Hay là ngược lại hoàn toàn theo triết lý nhân văn, khoa học, phương pháp học, ý chí quyền lực , chủ nghĩa Mác Xít.....- tất cả là do người định ??? Vũ trụ quanh ta không chống lại ta mà cũng không ban ân huệ cho ta. Nó quay cuồng đảo lộn, không hề có dự mưu gì cả, hoàn toàn ngẫu nhiên. Trong quay cuồng đảo lộn, chính con người tự điều khiển, tự cai quản, vựõt mọi trở ngại để chiến thắng . Alain gọi là Ôđisê (hay Ôlyssê - một nhân trong sử thi của Homerơ, tác giả coỏ xưa htời văn minh Hy-La, đã vượt qua tất cả các sức mạnh của thiên nhiênmà đại diện là các thần biển cả,...trên đường trở về quê hương với người vợ hiền sau cuộc chiến TƠROA trong khi đó thì các bạn đều chết hết dọc đường) Đọc bộ "Bà Comédia" của horone de Balzac, ta thấy rất nhiều nhân tương tự như : Vautrin tên đầu trộm đuôi cướp sau trở thành tổng giám đốc Mật Vụ hay Rastignac điếm đàng làm thủ tướng Pháp, trong khi những người như Louis Lambert , Rabourdin tài giỏi, đức độ lại ngậm đắng nuốt cay, thất bại ê trề . Không phải Balzac đã tưởng tượng mà là ông đã kể lại toàn chuyện thực của Paris thời ấy thời cực thịnh của chủ nghĩa HÃNH TIẾN ĂN MAY . Có biết bao nhiêu Ôđysê chiến đấu nhưng không chống lại bọn "Arriviste" nghĩa là bọn có thời vận, tốt sỗ, may hơn khôn. Lenin từng nói : "Tuyệt vọng đưa dẫn người ta đến tín ngưỡng " Hitle tuyệt đối tin vào ý chí quyền lực, các sử gia đã đưa nhiều bằng cớ cho thấy nhà lãnh tụ Quốc Xã luôn lo lắng cho số mệnh. Tảo vận Cam La vãn Thái Công Thạch Sùng phú quý, Phạm Đan cùng Bành Tổ thọ trường, Nhan Hồi yểu tại sao Cam La 12 tuổi đã đăng đàn bái tướng? Còn ông Lã Vọng ngồi câu chết dí ở sông Vị đến 90 tuổi mới gặp được Chu Văn Vương ?? Tại sao Thạch Sùng thì châu báu đầy nhà, giàu không nhớ nổi còn Phạm Đanlại chạy ăn từng bữa ? Sao Bành Tổ sống lâu, trong khi thâỳ Nhan Hồi chết ngay năm 27 tuổi ? Thực chất thì khoa tướng số phủ định lý luận tại trời , con người vô năng không thể biết và cũng chẳng thể làm gì với số mệnh đã an bài đó. Khoa này lại có một địnnh nghĩa riêng cho Thiên Mệnh không phải như trời là một đấng tối linh, mà là sự kết hợp của ngũ hành : Kim Mộc , thuỷ Hoả Thổ - năm yếu tố cấu thành vũ trụ và hai khí âm dương làm vũ trụ chuyển động. giả nhời cho câu hỏi về 6 nhân ở trên khoa này giải thích : Lục nhân đô tại ngũ hành trung Giàu sang, phú quý, cơ cực, bần hàn.thọ yểu đều do mệnh vận và tướng cácch mà biết. Tính mệnh vận đặt trên nguyên tắc toán số, coi tướng cách đặt trên nguyên tắc cơ cấu Kiến trúc và Mỹ học .Nó chống lại quan niệm mê muội thần quyền và làm giàu thêm cho khoa học nhân văn . Trong thực tế cuộc sống, ta gặp không biết bao nhiêu chuyện lạ nếu không đem khoa tướng mệnh học giải thích thì không còn cách gì có thể hiểu nổi những hiện tượng đó ví như: người giàu nhưng vẫn vất vả, người nghèo vẫn phong lưu, người trước sang sau hèn, tiền bần hậu phú ...v.v Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm : "khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống" .......... Chứng tỏ hai chữ "Tri Mệnh" mà các cụ bô lão nhắc tới mang trên mình một triết lý nhân sinh rất cao, cũng là một phương pháp đấu tranh rất sát với thực tiễn( biết cơ vận cuả mình mà coi thường mọi sự, coi vinh nhục cùng cội rễ, tử sinh cùng gốc, vậy thì sợ gì sống chết, sợ gì biến động ) Tri mệnh không có nghĩa là từ bỏ đấu tranh,mà trái lại, cốt để biết lẽ cùng thông, lúc nào đáng làm, lúc nào nên dừng, lúc cần biến, lúc cần tĩnh cần thủ.... Dục ngộ biến nhi vô sương hoành Tu hướng thường thời niệm niệm thủ đắc định Dục lâm tử nhi vô tham luyến Tu hướng sinh thời sự sự khán đắc khinh. Tử vi từ xýa đến nay vẫn là một đề tài vô cùng lý thú của Khoa Học. Có rất nhiều ý kiến tranh cãi nhau xung quanh vấn đề giá trị thực của nó đúng sai đến đâu. Có lẽ rất khó tìm ra chân lý cuối cùng, nhưng việc tử vi tồn tại trong đowì sống mọt cách vô cùng mạnh mẽ trong nhiều thế kỷ nay chứng tỏ nó mang những giá trị nhất định không thể phủ nhận. ( Từ đoạn dưới đây tôi nói đến tử vi thì các bác cũng hiểu giúp cho là nó bao gồm ( ko toàn bộ) cả chiêm tinh, bói toán, xem tướng và các hình thức tiên đoán khác. Tất nhiên là loại trừ máy ông bói toán bịp bợm nhá, ta chỉ tính đến những cái đó dưới góc độ nguyên lý của vấn đề thôi ). Những thắc mắc xung quanh tử vi chủ yếu là những vấn đề sau: - TV có đúng hay ko? TV là 1 KH hay là một trò bịp bợm? - Tại sao những người sinh cùng thời điểm, cùng địa điểm lại có số phận ko giống nhau? - Tại sao những người chết cùng thời điểm, địa điểm nhu chiến tranh, tai nạn... những người trên đó không sinh cùng ngày cùng giờ mà chết cùng một lúc. - Tại sao ngay ca những anh em sinh đôi ( cùng địa điểm, cùng bố mẹ ) lại có số phận khác nhau? ... - Tóm lại là TV nếu được coi là chính xác thì tại sao những người có lá số TV giống nhau lại có sphận khác nhau? TV có đáng tin ko? Cá nhân tôi cho rằng CÓ. Nhưng có đáng tin tuyệt đối ko thì câu trả lời là ko. TV là một KH thống kê chứ ko phải là chuyện bịa đặt. Nó là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm, suy ngẫm và đúc kết dài lâu về số phận con ngưòi, về quy luật biến đổi của tự nhiên và XH trong nhiều trăm, nhiều nghìn năm và đến nay vẫn tiếp diễn của nhiều dân tộc trên thế giới. Mỗi khu vực sẽ có một "loại TV" của riêng mình, xuất phát từ những quan niệm của mỗi vùng về vũ trụ và nhân sinh. Có nghĩa Có 3 phương pháp suy doan tuong lai phổ biến nhất trên TG cổ kim -TV phýõng Đông xuất phát từ tư tưởng triết học cổ đại của PĐ, trong đó vạn vật được coi là nằm trong chu kỳ liên hệ, vận động ( DỊCH chuyển) mật thiết và ko ngừng chuyển hoá lẫn nhau. Nó biểu hieẹn rất cụ thể owr thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Âm dương coi vạn vật từ 2 khí Âm và khí Dương mà tạo thành ( khí là mọt hình ảnh cụ thể để người ta hình dung ra được âm dương là cái khỉ gió gì, còn thưc sự nó ko cóhình hài cụ thể nào cả các bác ạ), trong bất kỳ sự vật, hiện tượng, sự kiện gì cũng đều cos 2 mặt Âm và Dương, trong cái âm lớn của sự vật lại có cái dưong nhỏ, trong dương lớn lại có âm nhỏ ( Thái âm , Thái dương, Thiếu âm, thiếu dương)> Hình ảnh của thuyết này là hình Thái Cực. Còn Ngũ hành là quan niệm coi vạn vật hình thành từ 5 yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Giữa 5 yếu tố này có một vòng tương sinh (hỗ trợ nhau) và một vòng tương khắc ( kiềm chế nhau)(Vd Thổ sinh mộc hoặc Thuỷ khắc Hoả ... ) 2 chiều tác động ấy đảm bảo sự tồn tại cân bằng của toàn bọ tự nhiên va XH. TV phương Đông coi số phận con người ứng vowí mối quan hệ của 14 chính tinh và 114 bàng tinh, hung tinh sắp đạt trong 12 cung ( mỗi cung ứng với 1 con giáp). - Còn chiêm tinh PTây thì phản ánh quan niệm coi trái đất là trung tâm của vũ trụ. Số mệnh con nguwowì là do ảnh hưởng của 12 chòm sao: Thiên xứng, Nhân mã, Nam Dương, Bảo bình, Song ngư, Dương cưu, Kim ngưu , Song nam, Bắc giải, Hải sư, Xử nữ mà tạo thành. Họ cũng căn cứ vào gio ngày tháng năm , nowi sinh và giơisw tính để xác định số phận. Trong đó mỗi sphaạn sẽ thuộc về ảnh hưởng của 1 chòm sao nào đó. 2 cái trên và 1 số cái tương tự xuất phát từ tư tưởng, chủ yếu là thế giới quan của con người. Tuy nghe có vẻ thô sơ và chất phác, nhưng những kết quả suy đoán của nó đã làm kinh ngạc loài người từ hàng nhiều thế kỷ nay. Tử vi PĐ và Chiêm tinh PT có một điểm chung khó giải thích là giá trị của các chòm sao ứng với số phaạn hoàn toàn là VÕ ĐOÁN. Có nghĩa, giá trị của chòm Bảo bình( 21/1-19/2) thường là sáng tạo hay sao Đào hoa ứng vowí óc thẩm mỹ, ngoại hình đẹp ,,, là hoàn toàn do con người gán ghép mà thành. Điều này phản ánh tính chất chiêm nghiệm, đúc kết kno (gọi 1 cách KH là xác suất thống kê) quá khứ của tiền nhân trong việc giải đoán tương lai. - Biểu hiện rõ nhất của phương pháp này là phép suy đoán thứ 3, TƯỚNG SỐ- nôm na là nhìn ngoại hình mà đoán tâm tính và số phận. Cái món này KH hình sự và phỏng vấn tuyển người là áp dụng nhiều nhất. Trong các trường an ninh hoặc khoa Tâm lý ... có mọt bọ môn gọi là tội phạm học hay nhân tướng học, căn cứ và dáng người, các đưwòng nét trên khuôn mặt, giọng nói và hình dáng các bộ phận khác trên cơ thể để xác định khí chất của con nguwời này thuộc loại gì, có khuynh hướng phạm tội hay ko? ( về mặt tố chất thôi) Thực chất nó chinhs là một KH thống kê xác suất được áp dụng phổ biến tren TG. Mà phép này thì nhiều dân tộc o*n TG từ xa xưa đã sử dụng, trong đó VN ta là một dân tộc ứng dụng từ rất sớm ( các bác cứ đọc các loại ngạn ngữ thì rõ nhất ) Chính vì nó là một dạng thống kê xác suất và đúc rút kinh nghiệm nên có thể khẳng định tính chính xác của TV là đúng một cách tương đối. Ngay cả các bộ môn KH cũng vậy, cũng là một quá trình đúc kết mang tính "kinh nghiệm", chẳng có phát minh sáng chế hay lý thuyết KH nào tự nhiên xuất hieẹn mà ko có sự kế thừa từ nhưng thành tưwụ trước đó cả và tínhđúng đắn của mọi lý thuyết KH cũng đều là tương đối và nhất thời mà thôi.. Chính vì thế tu TK 20 người ta đã bắt đầu coi TV, chiêm tinh, tướng số và một số phuwong pháp suy đoán tuwowng lai khac là một môn KH thay vì nghĩ nó là mê tín dị đoan như trước. 2) Có một câu hỏi thú vị là Vậy thì TV đúng được bao nhiêu phần trăm? Đa số thống nhất với nhau ở một con số dễ chịu là 70%. Tất nhiên về mặt nguyên lý TV được coi là đúng 1 cách tương đối, có nghĩa là lớn hơn... 0% và nhỏ hơn 100% . Đúng được bao nhiêu thì là do rất nhiều yếu tố, trong đó ko thể ko kể đến trình độ nhận thức và lý giải của "thầy" bởi nhiều thí nghiệm cho thấy cùng mọt lá số nhưng cách giải thích của mỗi ông thầy lại khác nhau 1 ít, cá biệt có t hợp mâu thuẫn nhau. Sự khác biệt đó là do mỗi một yếu tố dùng để tiên đoán lại mang trong bản thân nó nhiều giá trị khac nhau, đồng thời mỗi một yếu tố được giải mã ra lại là k quả của sự kết hợp một hoặc một số trong tổng số những giá trị của các yếu tố dùng để tiên đoán. Thành thử người giải mã lá số TV hay chiêm tinh cần phải có một năng lực nắm bắt suy luận và liên hệ rất lớn. Trong 1 cung, Phu thê chẳng hạn , xuất hiện độ 10 sao cả tốt lẫn xấu, mỗi sao lại mang độ 5-7 ý nghĩa thì để lý giải cuộc sống hônn nhân của bạn thật khó lắm thay. Lúc đó phải căn cứ vào tương sinh tương khắc của mạng, của sao, xem sao nào kết hợp với sao nào thì tạo ra được cái gì, át đi được cái gì... 1 VD cụ thể, Thái âm, Thái dương la 2 sao rất tốt nhưng nếu cùng đóng ở cung Quan lộc hoặc Phụ mẫu thì lại thành Nhật nguyệt tranh huy, công danh sự nghiệp của các bác ắt lụn bại. Nhưng nếu trong cung đó lại có Thiên Khôi, Thiên Đức, Quý nhân. Hữu bật cùng đóng chẳng hạn hoặc cung Phúc đức và Mệnh của các bác đều tốt cả thì cái Nhật nguyệt tranh huy kia lại bị át đi phần nhiều... Tất nhiên cái VD đó mowí chỉ là 1 t hợp rất đơn giản thôi. 3) Thú vị hơn là vấn đè tại sao những ngướì có cùng lá số tử vi nhưng số phận lại ko giống nhau. Cái này các bác nên xem lại một số phần tôi đã trích dẫn ở trang trước. Tôi xin nói rõ hơn như sau. Con người sinh ra và pt nhn rõ ràng là có một phần ảnh hưởng rất lớn của tự nhiên mà TV hay Chiêm tinh gọi đó là ảnh huwởng do vị trí sắp xếp của các sao trên bầu trowì vào thời điểm sinh ra gây nen. Cái này rat co lý bởi các bác cũng biết rằng các thiên thể trên bầu trời có tác động lấn nhau bằng các lực và phản lực, mỗi điểm trên trái đất này chịu vô số lực( cứ nôm na như vậy nhá ) và mỗi điểm khác nhau tại nhuwng thời điểm khác nhau, dù chỉ 1 giây cũng đã chịu ảnh hưởng của những lực rất khác nhau ( các bác cũng biết vận tốc quay và tự quay của thiên thể trong vũ trụ là rất lớn). Tuy vậy con người sinh ra ko chỉ chịu ảnh hưởng của những thiên thể mà còn vô số các yếu tố khác nữa, trong đó đáng kể nhất là gen di truyền và chế độ dinh dưỡng mà thai nhi tiếp nhận . Rõ ràng là 2 gia đình có sống chung giwờng đi chăng nữa thì nếu một bên bố mạ mang những tố chất thể lưc khoẻ mạnh, dinh dưỡng đaày đủ chắc chắn sẽ sinh ra một đứa con khác với cặp bố mẹ kia có tiền sử bệnh tật ốm yếu ( bệnh thần kinh chẳng hạn là thứ bênh di truyền khngr khiếp), thiếu ăn... cho dù 2 đứa có sinh ra cùng một lúc, một nơi đi chăng nữa. Còn những người chết cùng lúc cùng nơi như trong tai nạn hay chiến tranh chẳng hạn thì ko có gì khó hiểu, chẳng hạn cùng 1 kết quả là 10 thì cũng đã có rất nhiều phép tính để dẫn đến nó, 1+1+8=10 hoặc 2+5+3=10 hoặc 11-1 hay 5*2 thì cũng =10, do vậy chẳng có bắt buộc những người chết cùng chỗ cùng lúc thì phải có số phận như nhau cả. 4) . Nhưng lại có một chuyện còn thú vị hơn nữa. Những ANH EM SINH ĐÔI, rõ ràng cùng thời điểm, địa điểm, cùng bố mẹ và các yếu tố di truyền, dinh duỡng, thậm chí cùng lớn lên, cùng một chế độ nuôi dạy nhu nhau thì liệu số phận có giống nhau ko? Cái này tôi đã đọc một tài liệu mà nay ko còn giữ được, nó nói rằng những truwờng hợp như vậy, nhất là khi chừng nào còn cugf sinh trưởng trong một môi trường với nhau thì hình như cho towí lúc đó số phận của chúng cũng như tâm tính, trí tuệ... có GIỐNG NHAU thật. Tuy vậy cũng chỉ giong tương đối và chỉ trong thời điểm chúng còn cuìng sống trong một môi truwờng thooi. Còn khi đã trưởng thành thì cuộc đowì của 2 đứa lại # nhau. Cái này liên quan đến một vấn đề như sau. Đoán cuộc đời mỗi con người (coi như bao trùm luôn tất cả những yếu tố khác thuộc về hắn ta các bác nhá) cũng giống như giải 1 bài toán , trong do" có những dữ liệu có sẵn ban đầu như gen di truyền, thời điẻm, địa điểm sinh ra ... và những dữ liệu sau thu thập trong quá trình giải, tức là những gì mà người ấy tiếp nhận trong cuộc sống sau này. Nói chung những dữ kiện ban đầu sẽ laf cơ sở quy định một hệ quả nhất định ( về mặt tiềm năng, khả năng có thể có ) cho cuộc đời của mỗi con người. Nhưng tôi nhấn mạnh là về mặt tiềm năng . Chẳng hạn con cái sinh ra trong một dòng họ trí thức lớn thì bao giwò cũng có khả năng tư duy tốt và phần nhiều sẽ chọn công việc nghiên cứu. Nhưng bài toán cho kêt quả gì thì còn phụ thuộc nhiều vào việc những dữ kiện tiếp theo ntn, môi truờng sinh song, mối quan hệ XH, ý chí ... những dữ kiện sau sẽ tạo ra một biên độ dao động nhất định so với sự quy định của những dữ kiện ban đầu, thậm chí nếu đủ mạnh thì conf có thể gây ra đôt biến. Các bác có thể thấy nhiều nhà bác học,nhiều nghệ sĩ lớn cũng cókhi chỉ xuất thân nông dân. ( nhà bác học vĩ đại Nga Lô-mô-nô-xốp là 1 vd) , ngược lại cũng có những con cái của cac bậc trí giả các nghệ sĩ lớn lại chỉ trở thành một trí thức quèn hoặc một nghệ sĩ hạng lông chẳng hạn. 5) Một vấn đề nữa mà tôi đã trích dẫn owr bài viết trước là " Quy luật nào cũng có ngoại quy luật, kể cả luật tạo hoá". Mỗi vấn đề đưa ra đều phải chấp nhận một độ bí ẩn nhất định ko giải thích được. Người ta phải chấp nhận hoặc thừa nhận nó. Giải mã và khám phá chúng hình như chính là lý do để con người chúng ta tồn tại trên thế giới này. Tử vi mang hình ảnh của một bông hoa mầu tím . Từ ngàn xưa khoa chiêm tinh tướng mênh ddông phương thường dùng loại hoa mầu tím để chiêm bốc. Ngoài ra tử là tím còn vi là huyền diệu. Với khoa tử vi đẩu số trong chiêm tinh các bậc học sĩ ngàn xưa có thể tiên đoán được những biến cố thăng trầm nói lên sụ thành bại tronh đời người. Vào đời Tống , Trần Đoàn tức Hi Di Lão Tổ ( các bạn nhớ là ông ta đã tiên đoán hai anh em Triệu Khuông Dận tức Tống Thái Tổ và Triệu Khuông Nghĩa tức Tống Thái Tôn sẽ làm Hoàng Đế từ khi họ còn bé và đang trong lúc chạy loạn) đã sắp xếp thành một hệ thống gồm những yếu tố có ảnh hưởng tốt xấu đến đời người và những yếu tố này được biểu tượng bằng tên những ngôi sao, khởi đầu là sao Tử vi ( các bạn còn nhớ Thái Bá Ấp không nhỉ trong Phong Thần ý) . Từ đó Tử vi đã trở thành một môn khoa học huyền bí vượt xa các bộ môn khác trong việc tiên đoán việc thọ , yểu, sang hèn, giàu nghèo của kiếp nhân sinh. Lá số Tử vi của mỗi người được thành lập dựa vào các yếu tố Năm tháng ngày và giờ sinh. Lá số gồm mười bốn chính tinh : Tử Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham, Cự Nhất , Thái v..v. cùng ccác phụ tinh mang bản sắc riêng biệt được an định trong 12 cung trên một thiên bàn. Từ đó , người ta cóthểluận đoán để tìm hiểu định mệnh của một đời người. Nguyễn Du đã nói về chuyện nay như sau trong Truyện Kiều: Bắt Phong Trần, phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao Tuy nhiên tử vi cũng chấp nhận có sự thay đổi vận mạng trong nỗ lực hướng thiện của cá nhân bằng sự thi ân bồi đức theo quan niệm " gieo nhân thì gặp quả" , đúng với triết lý phương đông : Xưa nay nhân định tháng thiên cũng nhiều Ngày xưa , khoa Tử vi ở Việt nam chỉ được phổ biến trong cung đình. Mãi sau này Tử vi mới được truyền bá ra dân gian. Qua kinh nghiệm lâu đời cùngóc sáng tạo và cải tiến của tổ tiên ta, khoa Tử vi ngày nay đã mang tính cách đặc thù của người Việt để thích hợp với địa phương, phong thổ cùng bản sắc dân tộc, khác hẳn với bộ môn Tử vi củ người TQ Nghiên cứu Tử vi là để biết mình biết người . Nhờ đó , ta có thể chọn được một thế ứng xử khôn ngoan , tuỳ thời để hành đọng chăng khác gì công dụng của la bàn cho người đi biển. Điều đó cũng nói lên quan niệm : Thuận thiên giả tồn , nghịch thiên giả vong, phù hợp hợp với lý biến dịch nhiệm màu của Vũ Trụ. Bác cừo hay mếu thân mến: Hiện nay có một môn khoa học đã thất truyền tại nước ta : đõ là môn thiên văn đoán vận mênh của Đất nước và của các chính trị gia lớn. Nếu bác có cao kiến già thì xin hãy đăng đàn thuyết pháp về chuyện xem thiên văn cho mọi người cung nghe. Từ Kinh Dịch đến Dịch học ( Tôi dùng Kinh Dịch thay vì Chu Dịch để tránh những rắc rối phát sinh về thuật ngữ) Tử vi đẩu số là một phái thuộc về Dịch học( # Kinh Dịch). Tư tưởng gốc của phái này nằm trong cuốn Kinh Dịch, một trong Ngũ Kinh mà đức Khổng Tử đã san định. Kinh Dịch lúc đầu vốn là một quyển sách bói toán, về sau trở thành một tác phẩm triết học chứa đựng những tư tưởng thâm sâu và kỳ lạ bậc nhất của nền văn minh TQ cổ đại, nhỉnh hơn cả Đạo đức kinh của Lão Tử. Kinh Dịch ko phải do 1 người viết mà là do nhiều người, nhiều đời bổ sung vào, trước khi Khổng Tử san định nó đã manh nha dưới dạng bát quái, khoảng 5-700 năm trước Khổng Tử. Tuy không có một nhà nào gọi là "Dịch gia" như Nho, Lão, Mặc... gia. Nhưng trên thực tế là ở TQ đã xuất hiện một trường phái như vậy và thạm chí từ nó còn phái sinh ra nhiều chi phái #. Phái này tập trung nhiều trí thức , triết gia củanhiều phái # nhau, cùng nghiên cứu Dịch học. Vậy Dịch học là gì? Từ Dịch nghĩa gốc của nó chính là biến, là dịch chuyển, mà đọc dưới góc độ triết học một chút thì hiểu rộng ra là chuyển động, vận động... có quy luật. Dịch học là khoa học nghiên cứu những quy luật vận động, lúc đầu là về số phận con người, sau rộng ra là về tất cả những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và con người. Nó bao trùm toàn bộ những nguyên lý sinh thành và huỷ diệt của vạn vật, chỉ băng một chữ "biến". Kỳ lạ hơn, chữ biến ấy cũng chỉ thể hiện ra bằng 2 tín hiệu một gạch liền và một gạch đứt ( - ; --) Sách Dịch lúc đầu là một sách bói, sau trở thành một sách triết và cho đếnngày nay thì thành một bộ sách về căn bản hàm chứa những tư tưởng, nguyên lý của khoa học thiên văn, y học, lịch học, triết học, tâm lý, xã hội học... Nguyên lý của Dịch tương tự như Âm- Dương. Vạch liền tượng trưng cho cái Dương, vạch đứt tượng trưng cho âm ( Cái này đặc biệt ngẫu hợp với tư tưởng của Lebnit, nhà toán học và triết học Đức, Lebnit đưa ra hệ nhị phân về số học với 2 ký hiệu 0 và 1, đây cũng là cơ sở của ngôn ngữ điện toán ngày nay. Thậm chí người ta còn nói rằng chính người TQ đã tìm ra phép nhị phân, cái mà tận thế kỷ 18 châu Âu mới biết đến. Kinh Dịch gồm 2 phần Kinh và truyện. Kinh là các quẻ bói, Truyện là phần ghi chép những điều xảy ra trong XH. Phần huyền diệu nhất có lẽ nằm ở Kinh với 64 quẻ, mở đầu là quẻ Thuần Càn (Thuần là toàn, Càn là Trời) gồm 6 vạch dương, có ý nghĩa cương, tráng kiện, tự cường, còn gọi là quẻ của người quân tử, của bậc đại nhân, quẻ của bậc đại nhân lập nên nghiệp lớn. Kết thúc bằng quẻ Vị tế, có nghĩa là chưa xong (quẻ liền trước Vị tế là Kí tế- tức mọi việc đã xong), Kí tế rồi lại đến Vị tế, hàm ý quy luật của vũ trụ, của con người vính viễn "biến", ko bao giờ chấm dứt. Giá trị lớn nhất của Dịch để lại cho đời là phương pháp tư duy, còn cái giúp nó sống được với đời lại chính là ... bói toán. Tuy các ông thầy bói lăng nhăng đã biến hình ảnh của Dịch thành một thứ trò mê tín nhảm nhí, nhưng công bằngmà nói thì có lẽ cũng chính nhờ lớp người này mà Dịch còn sống được đến ngày hôm nay. Dịch xuất phát từ Lưỡng nghi ( vạch đứt và vạch liền), sinh ra Tứ tượng ( Thái âm thiếu dương, thái dương, thiếu âm) rồi đến Bát quái gồm : Càn , Khôn, Chấn , Tốn , Cấn , Khảm, Ly, Đoài. Càn có ý nghĩa là Trời, Khôn là đất, Ly là lửa, Thuỷ la nước, Cấn là núi, Đoài là hồ, Tốn là Phong, Chấn là sấm. Tương truyền Phục Hi ( 1 nhân vật nhiều phần là truyền thuyết) lập ra. Chuyeẹn này được ghi trong chính Kinh Dịch, tuy vậy bản thân Kinh ghi nhiều đoạn mâu thuẫn nhau khiến cho người đời său đặt ra nhiều giả thuyết. Nhưng đại ý là Phục hi quan sát tự nhiên mà vẽ ra, hoặc vẽ lại từ một bức đồ trên bờ sông Hà ( Hà đồ) hoặc vẽ lại từ hình một bức đồ hiện ra trên sông Hà và hình vẽ trên lưng một con rùa nổi lên ở sông Lạc ( Lạc Thư). Đại loại là vô cùng rối rắm,tôi chỉ nhắc đến để các bác nhớ lại aHà đồ Lạc thư là cái gi thôi. Nhưng cái hay là ở chỗ 2 cái Hà đồ và Lạc Thư ấy đã thất truyền từ trước khi Khổng Tử san định lại Kinh Dịch, Hà đồ lạc thư ngày nay là cháu đời thứ 12 của Khổng Tử tên là Khổng An đời Hán Vũ Đế ko rõ dựa vào đâu vẽ lại. Bất cứ nghề gì cũng có một số thuật ngữ . Trong khoa Tử Vi Đẩu Số , chữ đẩu ở đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt . Tử Vi Đẩu Số có bao nhiêu sao tất cả ? Ghi trong Tử Vi ĐS toàn thư chỉ thấy chòm sao chính là gồm 14 vị : Tử Vi Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn , Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Sau đây là các phụ tinh : Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi , Thiên Việt, Thiên Mã, Lộc Tồn, Kình Dương, Đà La, Hoả Tinh, Linh Tinh, hoá Quyền, Hoá Lộc, Hoá Khoa, Hoá Kỵ, Thiên Không, Địa Kiếp, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Đức, Nguyệt Đức, Long Trì, Phượng Các, Thai Phụ, Phong cáo, Hồng Loan, Thiên Rươu, Đẩu QUân. Rồi đến các chòm sao đi theo Thái Tuế , chòm sao theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị. Rồi đến Triệt Lộ không vong và Tuần Trung không vong cộng lại là 85 vị. Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên ta để lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn, như các sao : Đào Hoa, Thiên Tài, Thiên Thọ, Phá Toái, Kiếp Sát, Thiên Y, Thiên Trù, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, địa Không, ÂN QUang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Lưu Hà, Thiên Quan, Quý Nhân, Thiên Phúc. Tổng cộng lại là 104 vị. Đến đây thấy cần phải nhắc luôn đến phân chia tinh hệ theo nhóm có ghi trong tử vi đẩu số tân biên, cụ thể như sau : 1 . Tử Vi tinh hệ : Tử Vi, Liêm Trinh, THiên Đồng , Vũ Khúc, Thiên Cơ . 2 . THiên Phủ tinh hệ : Thiên phủ, Thái ÂM, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương ,Thất Sát, Phá Quân. 3 . Thái Tuế tinh hệ : Thái tuế , tang môn, thiếu âm, trực phù, tử phù, túê phá , Long đức , bạch hổ, phúc đức, điếu khách, trực phù. 4 . Lộc tồn tinh hệ : Lộc Tồn, thanh long , tiểu hao, tướng quân , tâú thư, phi liêm , hỷ thần, bệnh phù, đại hao, phục binh , quan phù. 5 . Trường SInh tinh hệ : Trường sinh, mộc dục, quan đới, lâm quan, đế vượng, suy , bệnh , tử , mộ , tuyệt, thai , dưỡng. 6 . Bộ sao lục sát : Kình - Đà - Hoả - Linh. 7 . bộ sao Tả Hữu : tả phù hữu bật 8 . bộ sao xương khúc : Văn Xương , Văn Khúc . 9 . bộ sao long phượng : Long Trì Phượng các 10 . bộ sao khôi việt : Thiên Khôi, thiên Việt 11 . bộ sao khốc hư : Thiên Khốc , Thiên Hư 12 . bộ sao thai toạ : Tam Thai , Bát Toạ 13 . bộ sao quang quý : Ân Quang , thiên QUý 14 . thiên đức, Nguyệt đức . 15 . Hình , Riêu Y 16 . bộ Hồng Loan, Thiên Hỷ . 17 . bộ Quốc Ấn , Đường phù . 18 . bộ thiên địa giải thần : Thiên Giải, Địa Giải, GIải thần 19 . bộ Thai Phụ, Phong Cáo 20 . bộ Tài Thọ : Thiên Tài, Thiên Thọ 21 . Thương Sứ : Thiên Thương , Thiên Sứ 22 . La Võng : Thiên LA, Điạ Võng . 23 . Tứ Hoá : Hoá QUyền , HOá Lộc , HOá Khoa, Hoá Kỵ 24 . Cô QUả : Cô thần , Quả tú 25 . QUan Phúc : Thiên Quan quý nhân, THiên Phúc quý nhân 26 . Sao Đào HOa 27 . Sao Thiên MÃ 28 . Sao Kiếp Sát 29 . Sao Phá Toái 30 . Sao Hoa Cái 31 . Sao Lưu Hà 32 . Sao Thiên Trù 33 . Sao lưu niên văn tinh :sao này lưu động theo năm tính hạn phụ thuộc chủ yếu vào hàng can của năm sinh 34 . Sao Bác Sỹ 35 . Sao Đẩu Quân (Nguyệt Tướng ) 36 . Sao Thiên Không 37 . Tuần trung không Vong và Triệt Lộ không vong. Các cụ đã căn cứ vào đâu để mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi ĐSTT chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót . Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao : Giải Thần, Địa Giải, Thiên Trù, Thiên Giải, mà chỉ có vài lời nghe rất là gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi ĐSTT bị thiếu vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình ( Tứ Trụ ), và cách an sao không phép tính số Tử Vi. Tính( sao ) còn gọi là Diệu, tthuật ngữ : Mệnh vô chính Diệu là chỉ cung mệnh không có sao chính tinh cư ngụ( chính tinh là sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ.) Sách Đẩu Số mệnh Lý cho rằng : Tả Phụ-Hữu Bật-Văn Xương-Văn Khúc-Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 chính tinh mà thôi. Các sao : Kình Dương – Đà La - Hoả Tinh – Thiên Khôi – THiên Việt thì gọi là thiên diệu. Hoá Lộc – hoá quyền – Hoá khoa – Hoá Kỵ là tứ hoá hay hoá diệu. Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.Lại có những tên gọi riêng như : Tứ Cái( Bốn sao tốt ) là : Lộc, Quý,Quyền Khoa ; Tứ hung (tứ sát ) là : Hoả Linh Dương Đà. Những sao đi đôi (theocặp ) là :Tử -Phủ, Tử - Tướng, Phủ - Tướng , Nhật - Nguyệt , Tả - Hữu, Xương – Khúc , Không - Kiếp, Hoả - Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt. Giải nghĩa Tam Hợp Chiếu : một lá số tử vi chia ra 13 cung, theo 12 chi, mỗi cung khi tính lá số được tính theo tam hợp tức là hợp các sao của cả ba cung lại . Tính tam hợp theo nguyên tắc : - Thân – Tý - Thìn - Tỵ - Dậu - Sửu - Hợi – Mão - Mùi - Dần - Ngọ - Tuất Giải nghĩa Lục Xung : Tí >< Ngọ ; Dần >< Thân ; Sửu >< Mùi ; Thìn >< Tuất ; Tỵ >< Hợi . GIải nghĩa Thủ - Đồng : một chính tinh đóng một cung là thủ, hai chính tinh đóng một cung là đồng . Giải nghĩa Lâm Nhập : hai chữ này cùng một nghĩa, nơi an sao tốt gọi là Lâm, nơi an sao xấu gọi là Nhập( Toạ - Cứ cũng có nghĩa tương đương ) Giải nghĩa Miếu Hãm Đắc Vượng : mỗi sao cần đứng đúng vị trí của nó, tốt nhất trở lại thì là : Miếu địa, Vượng địa, Đắc địa, bình địa, bại địa, hãm địa . Giải nghĩa Bản Phương - Hợp Phương- Lân Phương : Bản phương là cung xét đến hiện tại, Hợp phương là cung tam chiếu hoặc cung xung chiếu , nhị hợp. Lân phương là cung bên cạnh . Giải nghĩa Triều và Xung: sao tốt đóng tại cung khác mà hợp phương với cung xét đến thì gọi là Triều, cùng nghĩa nếu là sao xấu thì gọi Xung. Riêng Thái Dương( Nhật ) Thái Âm ( Nguyệt ) thì gọi là Chiếu . Riêng Lộc Tồn và Hoá Lộc thì gọi là Củng . Giải nghĩa Giáp - Chiếu - Hiệp : sao tốt thuộc cung lân phương của Mệnh thì gọi là Giáp, Chiếu là Sao ở cung đối diện ảnh hưởng tới . Có câu : Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp , câu này không phải áp dụng cho tất cả các sao VD: Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp, Nhật Nguyệt cần Chiếu mới tốt ...... Tử Vi không hoàn toàn là một môn khoa học chính xác, để có được lời giải cho một trường hợp cụ thể thì các ông thày sẽ phải hoặc là rất giỏi, hoặc là nói dựa. Các bác cứ để ý mà xem, khi ta đi coi Tử Vi, không thầy nào là không nhìn vào mặt ta để mà nói đâu, nhiều ông thày còn phải khích ta nói lên, hay nhìn lên,....biểu hiện tình cảm ...v.v.. Nếu thế thì em khẳng định là có nhiều, rất nhiều nếu không muốn nói là tất cả các thày bói coi Tử Vi ngày nay đều phải dựa dẫm ít nhiều vào Tướng số để khẳng định lời giải đoán của mình. Mối quan hệ giữa Tử Vi và Tướng mệnh là vô cùng khăng khít. Nói về toán mệnh phương pháp,... Thế gian này, việc như ý thì ít,việc bất như ý thì nhiều, người đắc chí thì ít, mà người bất đắc chí thì nhiều hằng hà sa số. Thực ra từ ngàn xưa đã vậy, bất luận là phương đông hay phương tây. Tại sao?? Đó là câu hỏi gắn liền với đời sống nhân loại từ khi loài người nhận thấy sự thọ yểu của sinh mệnh. Nó lại càng gây thắc mắc hơn khi người ta sống tụ lại thành "Xã Hội" .Có lẽ nào nguyên lý cuộc sống lại là do sự an bài của các đấng tối linh như là trời, phật, thựõng đế ????? như các tôn giáotín ngưỡng lập luận??? Hay là ngược lại hoàn toàn theo triết lý nhân văn, khoa học, phương pháp học, ý chí quyền lực , chủ nghĩa Mác Xít ???????.....- tất cả là do người định ??? Vũ trụ quanh ta không chống lại ta mà cũng không ban ân huệ cho ta. Nó quay cuồng đảo lộn, không hề có dự mưu gì cả, hoàn toàn ngẫu nhiên. Trong quay cuồng đảo lộn, chính con người tự điều khiển, tự cai quản, vựõt mọi trở ngại để chiến thắng . Alain gọi là Ôđisê (hay Ôlyssê - một nhân trong sử thi của Homerơ, tác giả coỏ xưa htời văn minh Hy-La, đã vượt qua tất cả các sức mạnh của thiên nhiênmà đại diện là các thần biển cả,...trên đường trở về quê hương với người vợ hiền sau cuộc chiến TƠROA trong khi đó thì các bạn đều chết hết dọc đường) Đọc bộ "Bà Comédia" của horone de Balzac, ta thấy rất nhiều nhân tương tự như : Vautrin tên đầu trộm đuôi cướp sau trở thành tổng giám đốc Mật Vụ hay Rastignac điếm đàng làm thủ tướng Pháp, trong khi những người như Louis Lambert , Rabourdin tài giỏi, đức độ lại ngậm đắng nuốt cay, thất bại ê trề . Không phải Balzac đã tưởng tượng mà là ông đã kể lại toàn chuyện thực của Paris thời ấy thời cực thịnh của chủ nghĩa HÃNH TIẾN ĂN MAY . Có biết bao nhiêu Ôđysê chiến đấu nhưng không chống lại bọn "Arriviste" nghĩa là bọn có thời vận, tốt sỗ, may hơn khôn. Lenin từng nói : "Tuyệt vọng đưa dẫn người ta đến tín ngưỡng " Hitle tuyệt đối tin vào ý chí quyền lực, các sử gia đã đưa nhiều bằng cớ cho thấy nhà lãnh tụ Quốc Xã luôn lo lắng cho số mệnh. Tảo vận Cam La vãn Thái Công Thạch Sùng phú quý, Phạm Đan cùng Bành Tổ thọ trường, Nhan Hồi yểu tại sao Cam La 12 tuổi đã đăng đàn bái tướng? Còn ông Lã Vọng ngồi câu chết dí ở sông Vị đến 90 tuổi mới gặp được Chu Văn Vương ?? Tại sao Thạch Sùng thì châu báu đầy nhà, giàu không nhớ nổi còn Phạm Đanlại chạy ăn từng bữa ? Sao Bành Tổ sống lâu, trong khi thâỳ Nhan Hồi chết ngay năm 27 tuổi ? Thực chất thì khoa tướng số phủ định lý luận tại trời , con người vô năng không thể biết và cũng chẳng thể làm gì với số mệnh đã an bài đó. Khoa này lại có một địnnh nghĩa riêng cho Thiên Mệnh không phải như trời là một đấng tối linh, mà là sự kết hợp của ngũ hành : Kim Mộc , thuỷ Hoả Thổ - năm yếu tố cấu thành vũ trụ và hai khí âm dương làm vũ trụ chuyển động. giả nhời cho câu hỏi về 6 nhân ở trên khoa này giải thích : Lục nhân đô tại ngũ hành trung Giàu sang, phú quý, cơ cực, bần hàn.thọ yểu đều do mệnh vận và tướng cácch mà biết. Tính mệnh vận đặt trên nguyên tắc toán số, coi tướng cách đặt trên nguyên tắc cơ cấu Kiến trúc và Mỹ học .Nó chống lại quan niệm mê muội thần quyền và làm giàu thêm cho khoa học nhân văn . Trong thực tế cuộc sống, ta gặp không biết bao nhiêu chuyện lạ nếu không đem khoa tướng mệnh học giải thích thì không còn cách gì có thể hiểu nổi những hiện tượng đó ví như: người giàu nhưng vẫn vất vả, người nghèo vẫn phong lưu, người trước sang sau hèn, tiền bần hậu phú ...v.v Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm : "khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống" .......... Chứng tỏ hai chữ "Tri Mệnh" mà các cụ bô lão nhắc tới mang trên mình một triết lý nhân sinh rất cao, cũng là một phương pháp đấu tranh rất sát với thực tiễn( biết cơ vận cuả mình mà coi thường mọi sự, coi vinh nhục cùng cội rễ, tử sinh cùng gốc, vậy thì sợ gì sống chết, sợ gì biến động ) Tri mệnh không có nghĩa là từ bỏ đấu tranh,mà trái lại, cốt để biết lẽ cùng thông, lúc nào đáng làm, lúc nào nên dừng, lúc cần biến, lúc cần tĩnh cần thủ.... Dục ngộ biến nhi vô sương hoành Tu hướng thường thời niệm niệm thủ đắc định Dục lâm tử nhi vô tham luyến Tu hướng sinh thời sự sự khán đắc khinh. Những câu chuyện chứng minh hai chữ "Tri Mệnh" Chu Á Phu đương thời trọng nhậm chức Thái thú tỉnh Hồ Nam, đến nhờ Hứa Phụ coi tướng, Hứa Phụ bàn : - Ba năm nữa ông được phong hầu, tám năm nữa ông làm tể tướng, Mười năm nữa thì chết đói. Chu Á Phu cười mà rằng : - Đã phú quý tột đỉnh như thế sao mà chết đói được, xin tiên sinh chỉ dạy cho tôi biết tại sao ? Hứa Phụ nói: -Pháp lệnh chạy vào miệng theo tướng pháp gọi là rắn lao vào miệng là tướng chết đói, Ông có tứớng đó. QUả nhiên, chính trị biến động, Chu Á Phu bị giam cầm, năm ngày không ăn , thổ huyết mà chết. Hứa Phụ coi tướng choĐặng Thông báo pháp lệnh nhập khẩu, thế nào cũng chết đói. Vua Hán Văn Đế không chịu phán rằng : - Đặng Thông là triều thần của trẫm, phú quý của Đặng THông là do trẫm định đoạt, trẫm có thể cho Đặng Thông cả núi đồng để đúc tiền . Về sau, Đặng Thông chết đói trong nhà một nông dân đúng như Hứa Phụ tiên đóan. Vua Hán Văn Đế gọi Hứa Phụ vào thưởngcho châu báu rất nhiều. Hứa Phụ coi tướng cho Ban Siêu, nói: - Hàm én, đầu hổ bay mà ăn thịt đúng là tướng vạn lý phong hầu. Ít lâu sau, Ban Siêu bỏ văn theo võ, lập đại công, uy chấn miền Tây Vực được phong làm Định viễn Hầu. An lộc Sơn lúc nhỏ nghèo hèn, đi ở hầu cho nhà Trương Thủ Khuê.< ột lần rữa chân cho chủ,bỗng ngừng tay chăm chú nhìn....Khuê thấy lạ mới nói : - Mày nhìn gì ? - Tại tôi thấy bàn chân trái của ngài có một nốt ruồi lớn. - Đấy là cái tướng phất cờ khởi loạn của tao. - Thưa ngài, cả hai bàn chân tôi đều có như vậy. Khuê hết sức ngạc nhiên, về sau, An lộc Sơn nổi loạn, đốt cháy kinh đô nhà Đường khíên vua tôi Đường Minh Hoàng phải bỏ chạy. Thần Phóng ẩn cư nơi thôn dã , một lần tới thăm HiDi Trần Đoàn (Phóng đang cải dạng làm tiều phu) Trần HiDi trông thấy mà cười rằng : - Tiên sinh tiều phu, hai mươi năm nữa tiên sinh là bậc nhị phẫm nhân thần, thiên hạ ai cũng biết. Đúng 20 năm sau, Thần Phóng làm giám nghị đại phu, rồi thăng chức Công bộ thượng thư. Đời Hậu Hán, Vương Mãng có tướng lạ, trán cao dô, mắt đỏm con ngươi vàng, tiếng nói oang oang, quyền cao, mũi lớn, miệng rộng,. Công Tôn Đề bảo Vương Mãng : - Đầu hhổ, mịêng hổ, tiếng như beo, nếu không ăn được người tất bị người ăn. Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán không thành tựu được bao lâu thì bị giết. Ông Thánh Thán, nhà phê bình văn học danh tiếng đời Thanh đương thời giao du rộng, thường nuôi nhiều bạn bè trong nhà, trong số bạn đó có nhiều nhà tướng mệnh tài danh. Coi tướng cho Thánh Thán, 10 người thì cả 10 đều tỏ ra thương tiếc, và phê tướng cách Thánh Thán là sẽ bất đắc kỳ tử, lúc chết thây không toàn vẹn. Kết cục, quả đúng, Thánh Thán bị kết tội chém ngang lưng . Lại lấy một ví dụ ngay trong Tam Quốc.Tào Tháo sai thích khách đi ám sát Lưu Bị. Thích khách vào yết kiến Lưu, để bày kế diệt Tào, noí chuyện rất tâm đắc, Lưu Bị thích lắm, bất chợt, Ngoạ Long tiên sinh đột ngột xuất hiện, nhìn người khách lạ rồi ngồi yên lặng. Thích khách đi tiểu tiện, Lưu Bị bảo Khổng Minh: - Đó là một kỳ sĩ, có thể giúp cho ông. Khổng thở dài, bảo Lưu rằng : - Người ấy sắc động thần huy, gian hình ngọại lậu, tà tâm nội tàng, tôi chắc chắn là thích khách của Tào Tháo sai phái tới. Lưu cho người đuổi theo thì thích khách đã bỏ chạy trốn thoát rồi. Dương Quý Phi lúc tuổi còn nhỏ, chạy chơi ngoài đồng ruộng, có thầy tướng họ Trương trông thấy, nói: - Người đại phú đại qúy sao lại ở đây >? Bạn hữu hỏi: - Con bé có quý đến bậc tam phẩm không ? - Hơn thế nữa ! - Nhất phẩm ? - Hơn nữa ! - Thế chắc phải là Hoàng Hậu rồi ? - Cũng chưa đúng hẳn. ! Về sau, lịch sử đã công nhận Dương Quý Phi là một trong bốn ngừời đẹp nhất của lịch sử Trung Hoa, từng làm rung chuyển cơ nghiệp nhà Đường. (Langven). Trích từ tuvilyso.net.
    1 like