-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 26/11/2012 in all areas
-
Quan Quân Việt Xưa
Ks.TranNgocHai and one other liked a post in a topic by Thiên Đồng
Thủy quân triều Nguyễn (Tin tuc) - “Chắc chắn rằng người An Nam phải là những kỹ thuật gia về thủy quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này ...”. Từ đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng người Mỹ John White đã thốt lên khi thăm các xưởng đóng tàu hải quân nhà Nguyễn. Những xưởng đóng tàu chiến Từ biển Vũng Tàu, tôi vào Sài Gòn theo hải trình qua cửa biển Cần Giờ mà tàu Franklin xưa của John White đã đi. Hai trăm năm trôi qua, bến bờ hoang sơ mà viên thuyền trưởng người Mỹ từng mô tả đã đổi thay nhiều, nhưng cặp mắt hàng hải của ông vẫn nhìn đến thời nay khi nó vẫn là thủy lộ huyết mạch nối thế giới bên ngoài với cảng Sài Gòn. Một chiến thuyền nhỏ của thủy quân nhà Nguyễn - Ảnh tư liệu Trong hồi ký Chuyến đi đến “Nam Hà”, John White kể ông đến Sài Gòn vào tháng 10-1819 và rất thích thú các xưởng đóng tàu: “Về phía đông bắc, trên bờ sông sâu, người ta thấy một công trường xây dựng và một xưởng đóng tàu thủy quân. Tại xưởng này, thời loạn lạc, người ta đã đóng những chiếc thuyền chiến to lớn có nhiều buồm ... Chỗ đóng tàu này đã tạo danh dự cho người An Nam hơn bất cứ cái gì hiện có trong xứ sở họ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng đóng tàu tốt nhất của châu Âu ... Xưởng đầy ắp vật liệu có phẩm chất tuyệt vời để đóng nhiều hộ tống hạm. Các thứ gỗ để đóng tàu và những lớp vỏ lòng tàu đều là những thứ đẹp nhất mà tôi chưa bao giờ được thấy ...”. Bị thu hút bởi xưởng đóng tàu thủy quân, John White liệt kê: “Có khoảng 150 chiếc thuyền chiến được đóng rất tốt nằm dưới các nhà chái... Có một vài chiếc được trang bị đến 16 khẩu đại bác bắn đạn nặng ba cân Anh. Nhiều chiếc khác được trang bị từ bốn đến sáu canông bắn đạn nặng từ 4-12 cân Anh. Tất cả đều bằng đồng và đúc rất đẹp. Ngoài ra còn có độ 40 thuyền chiến đang neo đậu trên sông, chuẩn bị tham gia một chuyến tuần thám bất ngờ mà quan tổng trấn sẽ thực hiện ở miền thượng lưu con sông, ngay lúc ông từ Huế trở về... Chắc chắn người An Nam phải là những kỹ thuật gia về hải quân và công trình của họ có một vẻ đẹp khéo léo. Tôi bị ấn tượng rất mạnh bởi ngành này của nền kinh tế chính trị của họ, nên tôi đã đến thăm viếng xưởng đóng tàu rất nhiều lần ...”. Thời điểm năm 1819, những gì John White quan sát là kết quả chiến lược phát triển hải quân hùng mạnh của Nguyễn Ánh để bảo vệ bờ cõi, chủ quyền biển đất nước. Đến nước Việt sớm hơn John White, nam tước John Barrow, người Anh đi biển lừng danh đã sáng lập Hội Địa lý hoàng gia, tường thuật tỉ mỉ nỗ lực của Nguyễn Ánh xây dựng các hạm đội hùng mạnh. Trong du ký A voyage to Cochinchina in the years 1792 - 1793 (Một chuyến du hành tới Nam Hà trong các năm 1792 - 1793), John Barrow kể rằng: “Ông (Nguyễn Ánh - PV) đặc biệt lưu ý về những gì liên quan đến kỹ thuật hàng hải và kỹ nghệ đóng tàu... Để nắm vững kiến thức về thực hành cũng như lý thuyết của kỹ thuật đóng tàu châu Âu, ông đã mua một chiếc tàu Bồ Đào Nha với mục đích chỉ để tháo ra từng bộ phận, từng tấm ván một, rồi tự tay lắp vào một tấm ván mới có hình dáng và kích thước tương tự cái cũ mà ông đã tháo ra, cho tới khi mọi thanh sàn tàu, xà ngang tàu, thanh gỗ khớp nối được thay thế bằng những cái mới, và như vậy con tàu hoàn toàn đổi mới... Nhà vua là người quản đốc các cảng biển và kho quân dụng, thợ cả trong các xưởng đóng tàu, kỹ sư trưởng trong mọi công trình, không có việc gì dự định thực hiện mà không có lời khuyên bảo và chỉ dẫn của ông. Trong việc đóng tàu, không có cái đinh nào được đóng mà không có sự tham vấn ban đầu của ông, không có một khẩu đại bác nào được đưa lên vị trí mà không có lệnh của ông”. Phải khẳng định John Barrow viết rất cẩn trọng, tham khảo, đối chiếu nhiều nguồn tư liệu khác như từ chính ghi chép của Barysi, cố vấn đắc lực cho Nguyễn Ánh. Nhờ đó, John Barrow chân thực kể về Nguyễn Ánh rằng: “Ông đi đến các xưởng quân dụng hải quân, xem xét những công việc được thực hiện khi ông vắng mặt, cho thuyền chèo quanh các hải cảng, kiểm tra những thuyền chiến. Ông đặc biệt chú ý đến các sở quân cụ, các lò đúc được dựng nên trong các sở binh khí, các cỡ súng đại bác đã được đúc ra theo đủ loại kích cỡ ... Ông dùng bữa ngay ở xưởng đóng tàu, gồm một ít cơm ăn với cá khô. Khi đó vua lại trở dậy, hội kiến với các sĩ quan quân đội và hải quân”. Hơn hai vạn thủy quân Chiến lược phát triển hải quân của Nguyễn Ánh đã được John Barrow kể lại kết quả từ chính những gì ông thấy và tư liệu xác thực từ viên thuyền trưởng Barysi, từng là trợ thủ hải quân của Nguyễn Ánh: trong năm 1800, lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh đã đến 26.800 người. Trong đó chỉ riêng thợ xưởng hải quân đã có 8.000 người, 8.000 lính trên 100 chiến thuyền chèo tay, 1.200 lính trên chiến thuyền đóng kiểu châu Âu, 1.600 lính phục vụ trên các thuyền mành và 8.000 lính thường trực ở cảng. Thuyền trưởng Mỹ John White bổ sung số liệu hải quân nhà Nguyễn năm ông ta có mặt ở nước này: “Ở Huế, nhà vua cũng có một đội thuyền chiến và vào năm 1819, 200 chiến thuyền khác có trang bị 14 khẩu thần công đang được đóng. Trong số 200 chiến thuyền này, có khoảng 50 chiếc được trang bị buồm chão bằng buồm dọc và có một phần được đóng theo kiểu châu Âu”. Đến triều Minh Mạng, bộ sử Đại Nam hội điển sự lệ ghi rõ số lượng tàu thuyền lúc ấy đã phát triển thêm rất nhiều như năm 1828, chỉ riêng ở kinh sư đã có 379 chiếc thuyền định ngạch, còn các tỉnh thành lớn như Gia Định có 105 chiếc, Nam Định 85 chiếc, Nghệ An 40 chiếc, Quảng Nam 40 chiếc, Quảng Ngãi 25 chiếc ... Những nhà hàng hải nước ngoài cho rằng sự phát triển hải quân nhà Nguyễn đã có bước ngoặt lớn trong thời Nguyễn Ánh. Ngoài tầm nhìn xa trông rộng của vị vua này còn có sự trợ giúp của một số người Pháp. Nhưng họ cũng thừa nhận thời tổ tiên Nguyễn Ánh đã có hải quân hùng mạnh lập nhiều chiến thắng hiển hách. Trong đó lẫy lừng nhất là trận cửa Eo, Thuận An, năm 1644, chúa Nguyễn Phúc Lan với chiến thuyền nhỏ đánh bại đội tàu chiến Hà Lan. Dù dày dạn kinh nghiệm hải chiến với tàu lớn, pháo hạng nặng, nhưng tàu Hà Lan đã bị nhà Nguyễn vô hiệu hóa bằng chiến thuật áp sát thần tốc của chiến thuyền nhỏ. Một chiến hạm Hà Lan bị đắm tại chỗ, một chiếc cùng đường phải cho nổ kho thuốc súng hủy tàu và chiếc còn lại quay đầu chạy. Ngoài hải chiến cửa Eo, hải quân nhà Nguyễn cũng nhiều lần gây khiếp vía cho các tàu cướp phá đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan. (Còn nữa) Theo Quốc Việt (Tuổi Trẻ)2 likes -
Nhất thiết duy Tâm tạo 1) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo". Nghĩa là: Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là: vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh sự thì sự sanh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bảo. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăng lộn xộn, chỉ đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi. Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau: "Tội tùng tâm khởi tương tâm sám/ Tâm nhược diệt thời tội diệc vong/ Tội vong tâm diệt lưỡng câu không/ Thị tắc danh vi chân sám hối." Dịch là: Tội từ tâm khởi đem tâm sám/ Tâm đã diệt rồi tội cũng vong/ Tội vong tâm diệt cả hai không/ Đó chính thực là chân sám hối. Nghĩa là: Tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, thì phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí. Đó mới thực là sự sám hối chân chánh. 2) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện". Nghĩa là: Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào. Trong sách có câu:“Tâm buồn cảnh được vui sao/ Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.” Nghĩa là: Cùng một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo não, chúng ta không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là chúng ta? Cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá. Vậy, hãy thử nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm không tốt? Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như vậy, thực không phải là chúng ta. 3) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn". Nghĩa là: Khi nào dứt sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết bàn. Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên, chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham của con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo, tìm kiếm ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm sân nổi lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, vì sự tức giận, vì sự bất mãn. Dù tâm tham không còn, tâm sân cũng tai hại vô cùng. 4) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai". Nghĩa là: Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Khi tâm si nổi lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách: hãm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác và gia đình họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời. Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc. 5) Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: "Người nào giữ được nhất tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được vãng sanh tây phương". 6) Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền năo, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề". Nghĩa là: Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là: nhất tâm bất loạn. Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề. Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ. Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp. 7) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng Tâm". "Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân Tâm". Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng. Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm trọn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện. Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là: chân tâm.Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành: vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm lăng xăng lộn xộn. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường. 8) Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Cũng vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng". "Trong muôn sự, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm vẩn đục thì khổ não sẽ theo ta như bánh xe lăn theo chân con vật kéo." - Kinh Pháp Cú số 1 - 9) Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: "Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh. Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp".Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây não loạn cho người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay! Chính vì biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng! 10) Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc/ Hiện tại tâm bất khả đắc./ Vị lai tâm bất khả đắc". Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn làm được điều này, ở trong gia đình hay ngoài xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không? Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu. Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả báo. Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ư bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp. 11) Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy: "Tâm tịnh thì độ tịnh. Tâm địa bình thì thế giới bình". Nghĩa là: Khi những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Đến đây, người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị phi, không còn phải quấy, không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn tạo tội, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhất tâm bất loạn. Lúc đó, tâm tịnh, tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì có thể ngăn ngại được, gây lo sợ khủng khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo, là bỏ được mộng tuởng, đạt được cứu kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Thế giới chung quanh thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy. 12) Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt". Thắng được vạn quân, con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài, của cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời. Nhưng tâm người đó vẫn sống trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, cho nên vẫn còn phiền não khổ đau, vẫn còn sanh tử luân hồi. Muốn xuất được tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát tâm chính mình: Khi nào tâm tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không theo. Lúc đó chúng ta đã tự thắng mình: tức là tự kềm chế hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ của chính mình. Người ta công kích, khích bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục, mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề thì dễ quá, thường quá. Người nào tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính phục, mới là điều cao quí nhứt. 13) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tâm khẩu nhất như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác". Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng nam mô. Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố ai lấy thước để đo lòng người. Trong sách có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm,” nghĩa là: biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán sát tâm chính mình, để giữ tâm khẩu nhứt như. 14) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện". Nghĩa là: Khi khắc chế được tâm ư, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc gì người tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận được một cách thông suốt. TK. Thích Chân Tuệ1 like
-
Lang thang trên mạng, tình cờ HaChau Nguyen đọc được một câu chuyện thấy cũng khá hay, sâu sắc của Quán Như (1) nên mạn phép chia sẻ cùng các bác, các cô chú, anh chị em trên diễn đàn của Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương. ------------------------------ (1): Quán Như có Pháp danh Vạn lợi, pháp tự Giác Tấn, pháp hiệu Quán Như. Xuất gia năm 1997 tại Tổ đình Sơn Long, Quy Nhơn Bình Định. Năm 2004 tốt nghiệp Trung cấp Phật học Nguyên Thiều. Năm 2009 tốt nghiệp cử nhân tại học viện Phật giáo Viên Quang Đài Loan. Hiện tại là nghiên cứu sinh thạc sỹ tại viện nghiên cứu Phật học Viên Quang Đài Loan. Thân ái HaChau Nguyen ----------o0o----------- BẢY BÁT NƯỚC CỨU KHỔ Quán Như Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có một gia đình bá hộ nối tiếng giàu có nhất vùng. Người người nể phục, nhà cao cửa rộng, đồng ruộng thì mênh mông bát ngát, thẳng cánh có bay, gia súc thì từng đàn, lúa chất đầy bồ, trong nhà không thiếu thứ gì, kẻ ăn người ở có tới chừng mấy mươi người. Cao lương mỹ vị ăn mãi không hết. Gia đình bá hộ có hai người con, một trai một gái. Ai cũng khôi ngô tuấn tú, xinh đẹp và nết na. Nhưng rồi tai họa đã giáng xuống gia đình họ, khi người con gái vì uất ức với mối tình cùng chàng thi sĩ mà quyên sinh, còn cậu con trai trong một lần đi săn trong rừng sâu, bất cẩn bị sập bẫy mà trở thành kẻ tàn phế. Người mẹ vô cùng đau khổ và tuyệt vọng. Bà sống trong nỗi ám ảnh và oán hờn. Ngày ngày bà ăn chay niệm Phật cầu xin được bình an và không còn phiền muộn. Rồi một ngày kia, bà cho gọi tất cả những người dân mang nợ với gia đình bà đến và phán rằng: - Từ xưa tới nay, gia đình ta ăn ở có trên có dưới, ai khó khăn ta đều cứu giúp, cho vay bạc và lúa gạo, sau mỗi lần thu hoạch thì gia đình các ngươi đều có trả nhưng vẫn không thể hết. Nay ta cho gọi các ngươi tới để xóa tất cả các món nợ từ trước đến nay. Dù nợ nhiều hay ít. Từ nay trở về sau, giữa gia đình ta và gia đình những nông dân này không còn bất kỳ món nợ nào. Những người nông dân nghèo khổ vui mừng khôn xiết, tay bắt mặt mừng, có những người đã quỳ lạy cảm tạ tấm lòng của bà mà khóc nức nở, nguyện làm thân trâu ngựa để báo đáp ơn này. Nhưng bà một lòng từ chối “Kẻ ăn người ở trong gia đình ta nay đã có đủ vì vậy ta không cần thêm nữa, các ngươi hãy về lo làm ăn và sống cuộc sống như mình mong muốn” Việc làm này của bà, những tưởng rằng như vậy thì trong lòng bà sẽ thấy thanh thản nhưng sao vẫn nặng trĩu một nỗi buồn. Nhân dịp một lần vào viếng chùa, bà đã xin gặp vị Hòa thượng và bạch rằng hãy cho bà xin một bài thuốc để diệt trừ khổ đau và phiền não. Vị Hòa thượng mỉm cười hiền hậu nhìn người phụ nữ sang trọng, quý phái nhưng có khuôn mặt đượm buồn mà nói, bà hãy tìm đến bảy gia đình chưa bao giờ biết khổ, xin mỗi gia đình một bát nước. Với bảy bát nước đặc biệt này, tôi sẽ nấu thành một loại thuốc giải cứu những sầu muộn trong lòng bà. Ngay sau đó, bà lên đường tới thăm gia đình thứ nhất mà bà quen biết bấy lâu nay, bà nghĩ rằng ắt hẳn gia đình này đang hạnh phúc và bà có thể xin được một bát nước. Quả là éo le, sau khi nghe bà trình bày, chủ nhà nhìn bà với ánh mắt ngấn lệ, rằng bà đã đến không đúng nhà và tìm không đúng người. Lúc này, người chủ nhà bắt đầu kể về câu chuyện gia đình, họ đã sống những ngày đau khổ, bất hạnh ra sao, con cái khiến họ mệt mỏi và buồn phiền như thế nào v.v… Nghe xong, bà lại nói những lời động viên, an ủi, vỗ về yêu thương trước khi bà tới thăm gia đình khác. Cả ngày hôm ấy, bà không xin được một bát nước nào. Nước là thứ đi đâu cũng có thể lấy, dễ tìm nhưng sao bà không thể xin được. Gia đình nào cũng có nỗi sầu khổ riêng, không ai giống ai và tất cả những điều ấy khiến bà chạnh lòng, như một phản xạ rất tự nhiên, của một người phụ nữ đã trải qua những mất mát những đau thương trong cuộc sống, bà đều nói lời khích lệ tinh thần, hay đơn chỉ là lắng nghe họ tâm sự đề thấu hiểu những gì họ đã trải qua bằng tất cả tình yêu thương vốn có. Suốt những tháng ngày sau đó, bà kiên nhẫn đi xin, nhưng cũng không tìm thấy gia đình nào hạnh phúc thật sự như bà vẫn thấy. Nơi nào cũng chất chứa nỗi niềm khổ đau và hờn tủi. Bà luôn bận tâm suy nghĩ làm thế nào để an ủi, giúp mọi người thoát khỏi phiền não, xoa dịu đau thương, và bà đã quên đi đau khổ của chính mình. Giờ đây hơn bao giờ hết, bà thấy lòng mình thật thanh thản, nhẹ nhàng. Khi ta cho đi cũng là khi ta nhận lại nhiều hơn thế, nỗi buồn sẽ vơi đi khi ta cởi mở lòng mình, đón nhận lời sẻ chia, lời thân thiện từ những người xung quanh. Chúng ta không nên bỏ cuộc khi chúng ta còn điều gì đó để cho đi. Không có gì là hoàn toàn bế tắc, sự việc chỉ thật sự trở nên bế tắc khi chúng ta thôi không cố gắng nữa. Niềm tin là sức mạnh biến điều không thể thành điều có thể, và họ có thể quên đi lời chúng ta nói nhưng điều chúng ta làm cho họ sẽ không bao giờ nhạt phai. Qua câu chuyện này, chúng ta ngộ ra một điều, ai cũng có nỗi buồn, nỗi khổ riêng. Cái mà chúng ta thấy chỉ là một phần nhỏ trong toàn thể con người của một ai đó, còn mặt chúng ta không thấy thì rất nhiều. Họ có thể cười đó, vui vẻ đó nhưng chưa hẳn họ đang hạnh phúc như chúng ta thường nghĩ. Và chúng ta cũng tự hỏi tại sao vị Hòa thượng kia lại nói người phụ nữ ấy, xin bảy bát nước mà không phải là sáu hay tám? Phải chăng ở đây có ẩn ý sâu xa hơn chăng? Con số bảy nhắc chúng ta nhớ đến rất nhiều điều : - Bảy bước chân của Thái tử Tất-đạt-đa khi Ngài chào đời, cùng bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc. - Theo quan niệm triết học Phương Đông, con số bảy tượng trưng cho sự hoàn hảo của vũ trụ, nó được xác lập trên bảy nguyên tắc của không gian và thời gian: Không gian thì có bốn phương, Đông, Tây, Nam, Bắc, thời gian thì có quá khứ, hiện tại và vị lai, và là con số tròn theo cách nhìn: chính giữa, ở trên, ở dưới, bên phải, bên trái, trước mặt và sau lưng. - Con số bảy trong âm nhạc ứng với bảy nốt, Đồ, Rê, Mi, Pha, Son, La, Si. - Một tuần cũng chỉ có bảy ngày và mỗi ngày như vậy sẽ ứng một thứ kim loại quý. + Chủ nhật: Ngày của thần mặt trời – tương ứng với Vàng + Thứ hai: Ngày của thần mặt trăng, vị thần canh giấc ngủ cho mọi người - tương ứng với Bạc. + Thứ ba: Ngày của vị thần chiến tranh (sao Hỏa) - ứng với Sắt + Thứ tư: Ngày của vị thần thương mại - ứng với nguyên tố Thủy Ngân, một dạng kim loại di động – Sao Thủy. + Thứ năm: Ngày của vị thần chúa tể (thần của các vị thần) - ứng với Kẽm, tượng trưng cho sức mạnh vô địch. Một loại kim loại không bao giờ rỉ sét. Nó còn được gọi là thần sấm chớp - Sao Mộc + Thứ sáu: Ngày của nữ thần tình yêu - ứng với Đồng, mềm dẻo, phản sáng, lấp lánh và quyến rũ – Sao Kim + Thứ bảy: Ngày của vị thần gây bao đau khổ cho nhân loại – Sao Thổ - ứng với kim loại là Chì - Con số bảy của phương pháp Tumo Yoga, số bảy là số thứ tự cuối cùng của hệ thống tinh lực thu tóm toàn năng vũ trụ trong cơ thể một con người. + Trung tâm thứ nhất nằm ở dưới cuối xương sống (nơi đây được coi là chổ trú của con rắn lửa) + Trung tâm thứ hai nằm ở cuối bụng dưới + Trung tâm thứ ba nằm ở sau rốn + Trung tâm thứ tư nằm ở chỗ trái tim + Trung tâm thứ năm nằm ở nơi yết hầu + Trung tâm thứ sáu nằm ở giữa hai lông mày + Trung tâm thứ bảy nằm ở hai đỉnh đầu - Ngay cả thần thức của chúng sinh khi qua đời, cũng phải trải qua bảy ngày luân chuyển một lần và phải đợi bảy lần bốn mươi chín ngày như thế mới chuyển sinh cõi khác. Sẽ không có bất kỳ loại thuốc nào có thể “chữa lành” những phiền muộn trong mỗi thân thể con người. Cách mà vị Hòa thượng chỉ cho người phụ nữ bất hạnh kia thật sâu sắc và ý nhị. Sự từng trải, lòng khoan dung, tình yêu thương của một người đàn bà từng làm vợ, làm mẹ của những đứa con, đã giúp bà nhận ra rất nhiều thứ xung quanh cuộc sống này. Điều mà từ trước tới giờ bà chưa một lần được biết và thấu hiểu. Bảy bát nước, bà mãi không bao giờ tìm thấy nhưng con số bảy cho bà nhiều trải nghiệm đáng quý, nó giống như thiên thần hộ mệnh dẫn dắt bà đến với những điều bản thân tưởng chừng như không thể. Nỗi đau mà bà đang chịu đựng rất nhỏ so với những người khác, phải chăng đó là một điều hạnh phúc? Đôi khi trong cuộc sống, có những thời điểm mà tất cả mọi thứ chống lại bạn, đến nỗi bạn cảm tưởng rằng mình không thể chịu đựng hơn được nữa, nhưng hãy cố gắng đừng buông xuôi và bỏ cuộc, vì sớm muộn gì rồi mọi thứ cũng sẽ qua đi. Chính nụ cười của bạn mang lại hạnh phúc cho những người xung quanh, và tất nhiên nó cũng mang lại hạnh phúc cho chính bản thân bạn nữa. Điều ngọt ngào nhất bao giờ cũng đến phía sau những nỗi cô đơn dù không thể diễn tả thành lời.1 like
-
Ồ, sinh nhật Lão Nhị gia hả? Chúc mừng nha!1 like
-
Võ bùa hay Thất Sơn thần quyền. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch...Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật. Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này. Cao nhân ẩn tích Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không? Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt". Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào. Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thủa trước, Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng một hội khỏe năm 1986. Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay - ông Chín. Phận duyên tiền định Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn thần quyền với ông như có duyên trời định. Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp. Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua. Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy. Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi. Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hi vọng của mình. Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về. Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp. Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 15 cây số, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy. Võ phái kỳ lạ "Ngày tốt" ấy là ngày 9/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình. Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn thần quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học thần quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành. (Có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn). Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này. Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (Càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái. Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hoà vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước. Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần. Thần chú vào... võ công ra Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền. Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó. Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu. Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thày không chỉ bảo được. Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân. Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết. Tỉ thí tranh tài Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ". Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, ở bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 25 cây số. Thần quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy. Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy. Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động. Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín. Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình. Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên... Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp. Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh. Dựng nghiệp bất thành Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn thần quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái. Để khẳng định sức mạnh của Thần quyền, Hội khoẻ Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi. Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục thần quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người. Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hoá, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn thần quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực. Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi. Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục thần quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia. Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã thôi không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai... sưu tầm1 like
-
Quán vắng!
HungNguyen liked a post in a topic by Thiên Sứ
Hungnguyen có phương pháp suy tư rất chuẩn. Vấn đề không phải là bộ nhớ chưa bao nhiêu beat, mà là phương pháp chọn lọc, tổng hợp và ứng dụng những kiến thức đó.1 like -
Chúc mừng sinh nhật sư huynh Nhị Địa Sinh. Thành công - Hạnh Phúc - Sức Khỏe - May Mắn1 like
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT NHIDIASINH CHÚC MỘT CUỘC ĐỜI AN LÀNH VÀ ĐẦY HẠNH PHÚC.1 like
-
Chúng tôi đã công bố lý do chọn lịch Van niên dịch học phổ thông của Thiệu Vĩ Hoa - Nxb Dân tộc xuất bản - làm lịch chuẩn của web này.Anh có thể tự tìm hiểu lý do và tự thẩm định.1 like
-
LỜI TIÊN TRI 2012 Bất động sản chết lâm sàng..... =========================== Nhà đất 'chết lặng' cuối năm 25/11/2012 11:00 - Mặc dù đã cuối năm nhưng thị trường bất động sản vẫn chưa có dấu hiệu ấm lên. Với phân khúc nhà đất biệt thự, liền kề tại các khu đô thị mới, câu chuyện không dừng lại ở việc giảm giá mà ở tính thanh khoản rất kém. Nhà đất Hà Đông la liệt giảm giá, cắt lỗ Tan vỡ gia đình vì... đầu tư nhà đất thua lỗ Xem bài khác trên Vef.vn Đất nền đua giảm giá Trong nhiều tháng qua, thị trường đất nền biệt thự liền kề tại các dự án gần như đóng băng. Khảo sát cho thấy, giá nhà đất giảm mạnh, nhất là các dự án xa trung tâm, thiếu hạ tầng, chưa triển khai xây dựng phần thô. Tại dự án Thanh Hà, Kim Chung Di Trạch, đất liền kề được rao bán chỉ từ khoảng 20 triệu đồng/m2, trong khi hồi đầu năm chào bán giá thấp cũng đã 28-30 triệu đồng/m2. Giá chào bán đất nền tại dự án Kim Chung Di Trạch đã giảm khoảng 20 đến 25 triệu đồng/m2 tùy loại, giảm 40% so với thời điểm sốt nóng. Cuối năm 2010, giá đất dự án này đã tăng lên gấp đôi so với năm 2009, và được giao dịch ở mức khoảng 37 triệu đồng/m2 với loại lô liền kề đường 10,5m và sau đó, được đẩy lên đến 50-55 triệu đồng/m2. Chỉ 1 năm sau, giá đất tại đây rớt thảm hại và được xem là có mức giảm mạnh nhất tại Hà Nội thời gian qua. Tại Mê Linh, nhiều dự án chào bán đất nền chỉ dưới 10 triệu đồng/m2. Ngay cả các dự án đã hoàn thiện xây thô bàn giao nhà, tình trạng giảm giá, bán cắt lỗ vẫn diễn ra ồ ạt. Một số dự án được xem như "hàng hot" trên thị trường như Văn Phú, An Hưng, Dương Nội, Văn Khê, Geleximco,Vân Canh HUD... giá mỗi căn liền kề dao động trung bình khoảng từ 40-60 triệu đồng/m2, thậm chí là 90 triệu đồng/m2 vào hồi cuối năm 2011 đầu năm 2012, nhưng hiện nay mặt bằng giá chỉ dao động còn khoảng 25-35 triệu đồng/m2 tùy vào vị trí, hoặc cao cũng vào khoảng 50-60 triệu đồng/m2. Tình hình đất thổ cư cũng không mấy sáng sủa. Chịu ảnh hưởng chung xu thế giảm giá của thị trường bất động sản, giá đất thổ cư cũng giảm nhẹ từ 3-5 triệu đồng/m2. Hiện tượng chào bán tăng mạnh do thời điểm cuối năm, áp lực đáo nợ tín dụng tăng cao khiến tình trạng vỡ nợ lan rộng. Trước đây, đất thổ cư được xem là phân khúc ổn định nhất và luôn giữ giá. Nay nhiều người muốn bán đất cũng phải rao nhiều lần, chấp nhận mất tiền trăm cho bên môi giới. Giá bán đất nền tại dự án Kim Chung Di Trạch đã giảm khoảng 20 đến 25 triệu đồng/m2 tùy loại. Khu vực An Khánh, An Thượng, Hoài Đức có giá giảm mạnh nhất, mỗi lô ở đây chỉ khoảng 12-15 triệu đồng/m2. Chủ nhà chia ra làm nhiều mảnh nhỏ, khoảng 30m2/lô nên mức giá rất hấp dẫn. Tương tự, khu vực Hà Đông, tại Yên Nghĩa, nhiều lô mặt đường 3,5m, ôtô đỗ cửa giá chỉ 14-15 triệu đồng/m2. Khu trung tâm như Dương Nội, Vạn Phúc, La Khê giá đất thổ cư dao động khoảng 25-30 triệu đồng/m2,... Khu Tây Mỗ, Hoài Đức giá khoảng từ 25-35 triệu đồng/m2, trong khi trước đó khoảng 35-40 triệu đồng; khu Cổ Nhuế khoảng 35-40 triệu đồng/m2 còn trước đó là 42-45 triệu đồng... Khu Mỹ Đình, giá đất thổ cư trong ngõ hiện dao động khoảng 45-52 triệu đồng/m2, khu Xuân Đỉnh khoảng 43-47 triệu đồng/m2,... Trong nội đô, tình trạng vỡ nợ, bán tháo nhà cửa khiến nhiều căn nhà tiền tỷ giảm giá mạnh. Một ngôi nhà 7 tầng tại Mỹ Đình được xây dựng cách đây hơn 1 năm đang rao bán với giá khoảng 20 tỷ, thời điểm vừa mới xây xong giá tới 32 tỷ đồng. Hiện tại, chủ nhà đang chào bán với mức giá còn hấp dẫn hơn, sẵn sàng thuê lại sau khi bán. Một nhà khác 3 tầng ở Khương Đình, chủ nhà cũng rao bán gấp trong tuần giá chỉ 2,1 tỷ đồng, có thương lượng và chịu mọi khoản phí. Tương tự, nhà 5 tầng ôtô đỗ cửa ở phố Nguyễn Ngọc Nại đang rao bán gấp giá 5,2 tỷ đồng. Chưa có tín hiệu tốt về thanh khoản Ông Phạm Đức Toàn, đại diện EZ Property Vietnam, nhận xét, giao dịch bất động sản vẫn ảm đạm, chưa có dấu hiệu tốt về thanh khoản do xuất hiện lượng lớn hàng phát mại của các ngân hàng tung ra thị trường. Các tài sản này khi giao dịch thường được ký thỏa thuận 3 bên giữa khách mua, chủ sở hữu và ngân hàng. Tỷ lệ thành công của mảng sản phẩm này khá cao do giá cả hợp lý, an toàn do pháp lý của sản phẩm đã được ngân hàng thẩm định. Nhu cầu nhà đất về cuối năm thường cao hơn các quý trong năm, lượng khách hàng liên hệ tới sàn giao dịch cũng nhiều hơn. Tuy nhiên, việc giao dịch thành công một hợp đồng mất nhiều thời gian và công sức của nhân viên sàn do khách hàng có nhiều lựa chọn và mặc cả về giá bán. Lý giải về việc đất nền giảm mạnh, ông Toàn cho rằng, phân khúc này trầm lắng - nhất là đất tại các dự án mới - do nhiều nguyên nhân, trong đó lý do chính là giá đất được thổi lên quá cao trong thời gian trước, vượt xa giá trị thực. Đến khi thị trường bất động sản suy thoái, tâm lý của những người bán chưa sẵn sàng hạ giá, người mua kỳ vọng giá xuống thấp hơn nữa nên cung cầu chưa gặp nhau. Trong khi đó, bất động sản loại này thường có giá trị cao. Một lô đất nếu đã có nhà xây thô thường có giá tri lên tới vài tỷ đồng, không phải khách hàng nào cũng có khả năng chi trả. Bên cạnh đó, nguồn cung lại bùng nổ trong giai đoạn 2008 - 2010 với hàng trăm dự án được tung ra thị trường, vấn đề hạ tầng đồng bộ các khu đô thi mới chưa hoàn thiện, chưa được đấu nối kỹ thuật với hạ tầng hiện hữu cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng trầm lắng của phân khúc đất nền. Một đại diện sàn giao dịch Nhadat24h.net cho rằng, các tin rao bán BĐS với giá ngày càng giảm thời gian qua cho thấy tâm lý nhiều khách hàng có phần hoảng loạn. Ngoài ra, để tăng tính thanh khoản, nhiều nhà đầu tư sẵn sàng giảm mạnh giá bán trực tiếp cho khách hàng, khiến giá thương lượng trên thực tế tiếp tục thấp hơn khoảng 30% so với mức giá đã rao bán trước đó. Theo Savills Việt Nam, giá biệt thự liền kề giảm mạnh nhất trong 1 năm trở lại đây. Mặc dù giá chào bán vẫn tiếp tục giảm nhưng thanh khoản thị trường rất thấp. Nhận định về thị trường thời gian tới, nhiều sàn bất động sản cũng như các chuyên gia đều tỏ ra bi quan. Ông Nguyễn Văn Hiệp, Công ty GP - Invest nhận định, phải đến giữa năm 2013, hệ thống ngân hàng mới được tái cấu trúc xong nên thời điểm đó mới tạo hy vọng cho thị trường bất động sản. Ít nhất đến cuối năm 2013, may ra thị trường mới có thể phục hồi. Duy Anh ============= Nhờ hồi đầu năm, các chiêm tình gia, phong thủy gia, các nhà quản lý liên quan đến Bất động sản, cả trong nước và quốc tế đều tỏ ra hài lòng và hy vọng về thị trường Bật động sản cả Việt Nam và thế giới trong năm 2012. Chỉ có web của Lý học Đông phương xác định: Bất động sản chết lâm sàng. Ngày ấy - và cả bây giờ Thiên Sứ tui vẫn chơi với ông Vũ Tiến Tùng (Vẫn túng tiền), nên đã đề nghị giúp bất cứ Cty Bất động sản nào muốn thoát hiểm thì chịu mua lại miếng đất qui hoạch treo của Thiên Sứ. Chẳng ma nào ngó tới. Bây giờ thì có cho tiền tỷ, Thiên Sứ cũng botay.com. Ở cõi trần gian này, cái gì cũng có giới hạn thời gian thôi. Sang năm, mọi chuyên sẽ còn khó khăn hơn rất nhiều. Đến giờ này thì ngay cả bà bán ve chai cũng nhận thức đươc điều đó, mà không cần phải đến cao nhân, trí thức phân tích nhận định vấn đề. Cứu cánh duy nhất là Việt sử 5000 năm văn hiến phải được tôn vinh. Mọi người có quyền không tin điều này. Đến lúc này, Thiên Sứ tôi cũng không còn thời gian để thuyết phục nữa. Đã 15 năm rồi, nên bây giờ chỉ nhắc vậy thôi.1 like
-
Quảng bá rộng rãi bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa Sau khi tiếp nhận 90 bản đồ khẳng định Trung Quốc không có Hoàng Sa từ ông Trần Thắng (Việt kiều Mỹ) hiến tặng, Đà Nẵng sẽ quảng bá rộng rãi cho giới nghiên cứu và người dân ở nhiều tỉnh, thành phố. > Người sưu tầm 100 bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa Chiều 24/11, ông Trần Thắng (42 tuổi), Chủ tịch Hội Văn hóa - Giáo dục Việt Nam tại Mỹ, cho VnExpress.net biết, những bản đồ quý ông cất công sưu tầm suốt ba tháng qua đã về đến Đà Nẵng. Ông mong muốn bản đồ sẽ được quảng bá rộng rãi để người dân và giới nghiên cứu cùng xem. Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa (TP Đà Nẵng) Đặng Công Ngữ cho hay, đã tiếp nhận 90 bản đồ quốc tế cùng 5 tập sách, tạp chí được xuất bản tại Trung Quốc, Mỹ và nhiều nước châu Âu từ năm 1626 đến 1979. Petroleum News SE Asia, Hong Kong, năm 1979 chứng minh lãnh thổ Trung Quôc chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam. Ảnh: Trần ThắngSố bản đồ này có thể chia thành hai nhóm chính đó là các bản đồ Trung Quốc không có Hoàng Sa và Trường Sa, và nhóm bản đồ Việt Nam hoặc bản đồ khu vực châu Á trong đó thể hiện Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Mới nhất là những bản đồ về dầu mỏ và khoáng sản của Trung Quốc trong cuốn The People's Republic of China xuất bản năm 1949 được Mỹ in lại xuất bản năm 1975 cho thấy, biên giới Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. "Đây là những tư liệu lịch sử quý báu giúp Việt Nam đấu tranh khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, khẳng định Hoàng Sa là đơn vị hành chính của thành phố Đà Nẵng", ông Ngữ nói và cho biết, rất cảm động trước sự cống hiến của ông Thắng, đồng thời sẽ viết thư cảm ơn 11 người Việt Nam đã góp kinh phí 12.000 USD cùng với ngân sách của thành phố để mua lại số bản đồ quý này. Theo Giáo sư sử học Phan Huy Lê, ý nghĩa của những tấm bản đồ gắn liền với ý nghĩa lịch sử và pháp lý. Tất cả bản đồ đều ghi rõ lãnh thổ của Trung Quốc kéo dài đến đảo Hải Nam, và chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa gắn liền với Việt Nam. Dự kiến, những bản đồ này sẽ được trưng bày tại Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế, TP HCM, Bộ Thông tin - Truyền thông và tỉnh Khánh Hòa nhân "Tuần lễ Biển" năm 2013. Nguyễn Đông1 like
-
Tết Đoan Ngọ và Bách Việt tộc http://su.people.com.cn/GB/channel109/200706/19/1537.html Tết Đoan Ngọ nguyên do là ngày Tế totem của dân tộc Bách Việt. Số lượng lớn văn vật khai quật được thời cận đại cùng với nghiên cứu khảo cổ đã chứng thực: Khu vực rộng lớn ở trung du và hạ du sông Trường Giang, vào thời đại đồ đá mới, có di tồn văn hóa đặc trưng là đồ gốm có in hoa văn kỷ hà học, di tồn văn hóa này thuộc về dân tộc có totem Rồng, sùng bái Rồng- sử gọi là tộc Bách Việt. Tộc Bách Việt là tên chung chỉ các tộc liên quan đến người Việt cổ đại sống ở vùng mà ngày nay là miền nam Trung Quốc, sử thư ghi là “Bách Việt百粤”, “Việt 粤”, “Việt Tộc 越 族”. Trang trí trên các đồ gốm khai quật và truyền thuyết lịch sử đã làm sáng tỏ rằng họ sống ở làng ven sông, có tập tục cắt tóc ngắn, xăm mình, tự cho là con cháu của Rồng, cho rằng cắt tóc ngắn để dễ làm ăn dưới nước, và xăm mình hình con giao long để không bị các động vật dưới nước làm hại. Đến thời Tần Hán vẫn còn người Bách Việt, tết Đoan Ngọ chính là do họ sáng lập dùng ở ngày tế Tổ. Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm, đại bộ phận người Bách Việt đã hòa nhập vào trong khối Hán tộc, vì vậy Tết Đoan Ngọ đã trở thành ngày Tết của toàn dân tộc Trung Hoa. Trong lịch sử Trung Quốc, toàn bộ vùng đất Giang Nam rộng lớn, tức vùng từng được gọi “từ Giao Chỉ đến Cối Kê bảy tám ngàn dặm”, trước thời Tần Hán đều là nơi cư trú của Bách Việt tộc, họ dùng là cổ Việt ngữ, khác rất xa cổ Hán ngữ của người phương bắc Trung Quốc dùng, hai bên không thể hiểu được nhau. Theo các nhà ngôn ngữ học, cái gọi là 7 phương ngôn lớn ở Trung Quốc hiện nay thì phương ngôn phương bắc (quan bắc thoại) có thể coi là kết quả phát triển hàng ngàn năm từ cổ Hán ngữ, còn lại 6 phương ngôn kia là hình thành do hàng ngàn năm ảnh hưởng lẫn nhau giữa ngôn ngữ phương nam và ngôn ngữ phương bắc do người phương bắc di cư xuống phía nam. Nhất là Ngô ngữ (Thượng Hải-Triết Giang), Mân ngữ (Phúc Kiến) và Việt ngữ (Lưỡng Quảng) càng có quan hệ mật thiết với cổ Việt ngữ của dân tộc Bách Việt. Bách Việt thời Xuân Thu gọi là Ư Việt, lúc đầu trung tâm của Ư Việt là Cối Kê, đến Câu Tiễn kiến lập Việt Quốc. Cuối thời Xuân Thu, nước Ngô và nước Việt thường đánh chiếm lẫn nhau, năm 492 BC Việt Quốc bị vua Ngô là Phù Sai đánh bại, 19 năm sau vua Việt Quốc là Câu Tiễn lại đánh bại Phù Sai, tiêu diệt nước Ngô, xưng là Bá Chủ. Câu Tiễn trở thành một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu. Các dân tộc thiểu số sống ở miền nam Trung Quốc ngày nay, dù ngôn ngữ và phong tục có khác nhau, nhưng đều có quan hệ nhất định với dân tộc Bách Việt cổ đại. Ngoài ra nhiều học giả còn cho rằng nhiều dân tộc ở lục địa ĐNÁ như người Thái ở Thái Lan, người Đán ở Miến Điện, người Kinh và người Mường ở Việt Nam, thậm chí các dân tộc Nam Đảo là thổ dân ở Đài Loan đều có quan hệ mật thiết nhất định với Bách Việt tộc. [Nghiên cứu của Đài Loan cho rằng 6000 năm trước, người Việt cổ, khi chưa tiếp xúc với người Hán, đã từ Phúc Kiến đi ra đảo Đài Loan, thành thổ dân Đài Loan, còn người Mân ngữ chỉ là về sau ra Đài Loan vào thời Minh]. Đến thời Tam Quốc thì Bách Việt tộc mới dần dần biến mất.1 like
-
Quán vắng!
ATN liked a post in a topic by Thiên Sứ
Châu Á chịu tác động gì từ chiến lược mới của Mỹ Thứ sáu, 23/11/2012, 12:08 GMT+7 Chuyến thăm vừa rồi của Tổng thống Mỹ Obama nhằm thúc đẩy chiến lược chuyển trọng tâm về châu Á Thái bình dương. Chính sách này kể từ khi được công bố cách đây một năm đã tác động đến bàn cờ khu vực này như thế nào? Theo đánh giá của hãng AP, Trung Quốc cho rằng chiến lược "chuyển trọng tâm" của Mỹ là nhằm kiềm chế Bắc Kinh, nhưng sự lớn mạnh của nền kinh tế số hai thế giới là không thể ngăn chặn được. Nhật Bản thì dường như phiền lòng với lập trường không rõ rệt của Mỹ khi người đồng minh Tokyo bị cuốn vào khủng hoảng tranh chấp. Các nước Đông Nam Á, qua những diễn biến nóng bỏng suốt một năm qua, có cơ hội hiểu ra những gì có thể - và cả không thể - trông đợi vào Mỹ. Trung Quốc: Sao có thể kiềm chế được con Rồng? Đối với Bắc Kinh, chính sách chuyển trọng tâm của Obama là tàn dư của ý tưởng Chiến tranh lạnh đã lỗi thời. Bắc Kinh tin rằng, do lo sợ về sự trỗi dậy của Trung Quốc Washington đang cố tìm cách đổ thêm dầu vào các cuộc căng thẳng ở khu vực để cô lập họ và khích lệ các nước mà Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ. Hầu như là tất cả các nước láng giềng có cùng biên giới đều có tranh chấp với Trung Quốc. “Sử dụng sự trỗi dậy của Trung Quốc và thuyết ‘mối đe dọa Trung Quốc’, Mỹ muốn làm cho các nước láng giềng của Trung Quốc tin rằng châu Á-Thái Bình Dương cần đến sự hiện diện và bảo vệ của Washington. Mỹ muốn tập hợp họ để kiến tạo ra một thế ‘tái cân bằng chiến lược’ chống lại Trung Quốc ở khu vực” , ông Wang Yusheng, một học giả về an ninh Trung Quốc, viết trên tờ China Daily. Bắc Kinh khẳng định một chiến lược như vậy chắc chắn sẽ thất bại. Trung Quốc cho rằng sự trỗi dậy của mình là đương nhiên và không thể ngăn chặn. Họ cũng tin rằng các nước láng giềng sẽ ngả theo việc xây dựng quan hệ tốt hơn với Trung Quốc trong khi từng bước loại dần ảnh hưởng của Mỹ. Bắc Kinh cũng coi sự thống trị về kinh tế của mình là một ưu thế rõ ràng. Khi Trung Quốc cho chạy thử chiếc tàu sân bay đầu tiên và những máy bay chiến đấu tàng hình, thử khả năng không gian mạng và những loại tên lửa tiên tiến, nóc này đang ngày càng giành được vị thế mạnh hơn để ngăn Mỹ không tiếp cận vùng tiếp giáp lãnh thổ của mình cũng như một số tuyến đường biển quan trọng trên Thái Bình Dương. Tình hình này có thể trở nên phức tạp nếu chính sách của Obama phải chuyển đổi từ thúc giục sang thúc ép. Đọc thêm: Ngoại giao của Trung Quốc thời Tập Cận Bình Nhật Bản: Đã cảm thấy sức nóng Tàu tuần duyên Đài Loan và Nhật Bản trong màn đấu vòi rồng ở vùng biển gần Senkaku/Điếu Ngư hôm 24/9. Ảnh: Huanqiu Chắc chắn là Nhật Bản là đối tác an ninh trung thành nhất của Washington ở Thái Bình Dương. Và Nhật Bản cũng là nước đã chịu tác động nhiều nhất do sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mấy tháng nay Nhật Bản và Trung Quốc đã dính vào vụ tranh chấp ngày càng căng thẳng về một nhóm đảo không người ở trên biển Hoa Đông. Sự hiện diện gần như liên tục của các tàu Trung Quốc xung quanh các đảo này đã làm cho lực lương Bảo vệ bờ biển Nhật Bản bị căng mỏng hết cỡ. Không lực Nhật Bản nói rằng Trung Quốc đã tăng đáng kể các phi vụ bay tuần tra trong khu vực. Lo sợ bị cuốn vào tổ ong của chủ nghĩa dân tộc, sự thù địch trong lịch sử và trò chơi chính trị dân túy, đều là những nhân tố đang tiếp lửa cho các căng thảng, Mỹ đã thận trọng không đứng về một bên nào. Thay vào đó Mỹ đã kêu gọi hai nước tự giải quyết vấn đề của mình, thông qua con đường ngoại giao. Lập trường đó đã làm cho nhiều người Nhật tức giận. Hiện có 52.000 lính Mỹ đang đóng trên đất Nhật theo cam kết được hiệp ước hai nước ký năm 1960, quy định Mỹ có trách nhiệm bảo vệ vùng lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của Nhật Bản. Washington luôn khẳng định rằng hiệp ước đó bao gồm cả các đảo đang nằm trong trung tâm của những căng thẳng hiện tại giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Kazuhiko Togo, một nhà ngoại giao cao cấp và hiện làm Giám đốc Viện nghiên cứu quốc tế tại Đại học Sangyo ở Kyoto nói: “Thật là lạ lùng. Tôi tin rằng Mỹ là đồng minh của chúng tôi, nhưng chúng tôi lại cần phải giải quyết vấn đề ‘trung lập’ của Mỹ”. ASEAN: Sôi lên vì Biển Đông Đầu năm nay Washington cũng đưa ra lập trường có tính không can dự tương tự đối với cuộc tranh chấp giữa một bên là Trung Quốc với các nước Brunei, Malaysia, Philippines và Việt Nam về các đảo trên Biển Đông, khu vực được cho là có chứa nhiều khí và dầu hỏa và án ngữ các tuyến đường biển quan trọng. Philippines, đồng minh thân cận nhất của Mỹ trong cuộc tranh chấp ở đó, cuối cùng đã phải rút các tầu của mình khỏi bãi cạn tranh chấp Scarborough, nhưng các tfu chiến của Trung Quốc vẫn còn đóng cho đến bây giờ. Ramon Casiple, nhà phân tích chính trị tại Manila cho rằng các cuộc tranh chấp làm cho các nước đồng minh của Mỹ hiểu rõ hơn về các điểm yếu của mình, cũng như hiểu họ có thể trông đợi được gì, và không được gì, từ phía Mỹ. Casiple nói: “Mỹ đang có một sự lựa chọn khó khăn. Mỹ phải trấn an các nước đồng minh của mình rằng cuối cùng thì Mỹ vẫn ở phía họ”. Ông nói thêm rằng Mỹ đã nói rõ rằng nước này hiển nhiên không mong muốn một cuộc đối đầu lớn trong đó họ bị buộc phải “hoặc là can thiệp hoặc mất ảnh hưởng.” Thế nhưng cũng có một điều gây chú ý về ý định của Mỹ. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Panetta khi thăm Việt Nam mùa hè này đã nói rằng Mỹ muốn được tiếp cận các cảng biển như là Cam Ranh, nơi quân đội Mỹ từng sử dụng thời chiến. Hà Nội chưa đưa ra bất cứ bình luận gì. Đọc thêm: Vì sao ASEAN thích Obama Chiếc chiến đấu cơ F/A-18F Super Hornet cất cánh từ boong tàu USS George Washington trong một chuyến bay thông thường ngày 17/10 trên Thái Bình Dương. Ảnh: Facebook USS George Washington. Đài Loan: Cảm giác bị bỏ rơi Khi Trung Quốc ngày càng mạnh lên và có tầm quan trọng lớn đối với kinh tế Mỹ, Washington ngày càng cảm thấy tiến thoái lưỡng nan trong việc coi Đài Loan (hòn đảo mà Trung Quốc tuyên bố là một phần lãnh thổ phải thống nhất) là một đối tác an ninh đầy đủ. Điều này là sự thay đổi lớn so với thời kỳ những năm 1950 và 1960, khi hai bên còn có một hiệp ước phòng thủ chính thức, và Mỹ đóng hàng ngàn lính trong một căn cứ lớn, nơi được coi là tiền tiêu để ngăn chặn Trung Quốc. Ngày nay, sự hợp tác giữa hai bên bị hạn chế vào một số lĩnh vực như chia sẻ tin tình báo, huấn luyện nhân lực cho không lực của Đài Loan, đôi khi có tham khảo an ninh và bán hạn chế vũ khí. Tuy nhiên các vũ khí hiện đại hơn như máy bay chiến đấu F-16 và các tầu ngầm chạy dầu diesel mà giới quân sự Đài Loan đang thực sự cần thì Mỹ không bán. Bán đảo Triều Tiên: Lá chắn thép phía trên Seoul? Triều Tiên có một nhà lãnh đạo mới mà thế giới bên ngoài hầu như không biết gì nhiều, một chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo thường được đưa ra để làm căng thẳng khu vực và một thái độ ngang tàng đối với Mỹ. Nhưng Obama có một người bạn ở Seoul. Trong những năm của thập kỷ 1950, Mỹ đã dấn thân vào cuộc chiến tranh Triều Tiên, và đã từng nghĩ đến việc sử dụng bom hạt nhân trước khi chiến tranh kết thúc. Hiện nay Mỹ có khoảng 28.500 quân đóng ở Hàn Quốc và 70% vũ khí của nước này được nhập từ Mỹ. Một hợp đồng cực lớn đang chờ một công ty Mỹ ký ngay sau lễ nhậm chức của Tổng thống Obama, trong đó Hàn Quốc sẽ công bố bên thắng thầu một dự án trị giá 7,6 tỷ USD cung cấp 60 máy bay chiến đấu tiên tiến cho nước này. Thương vụ này sẽ là vụ mua sắm vũ khí lớn nhất của Hàn Quốc. Bên cung cấp dự kiến sẽ là công ty Lockheed Martin với các phiên bản máy bay tiêm kích đa năng F-35. Các hãng Boeing và công ty máy bay khổng lồ châu Âu, EADS cũng sẽ tham gia đấu thầu. Austraila: Sống chung với lính thủy đánh bộ Mỹ Australia là nước đầu tiên đón nhận các đợt sóng của chính sách chuyển trọng tâm khi, năm ngoái Mỹ tuyên bố sẽ luân chuyển 2.500 lính thủy đánh bộ đến thành phố phía bắc nước này là Darwin. Giờ đây Mỹ đang cố gắng tiếp cận với một căn cứ hải quân của Australia ở phía nam của thành phố phía tây Australia là Perth, và mở rộng tầm ném bom đến phía bắc thành phố Outback. Một số chuyên gia an ninh và quốc phòng sợ rằng mối quan hệ này đang đi quá nhanh. Một mặt, trong nội bộ Australia đang có một sự ủng hộ rộng rãi cho mối quan hệ quốc phòng với Mỹ, do đó sự có mặt của lính thủy đánh bộ là một bước đi tự nhiên. Tuy nhiên, nó cũng gây ra các mối lo ngại rằng Washington sẽ đòi hỏi nhiều hơn thế, điều mà Australia có thể chưa sẵn sàng. Trên hết, Trung Quốc là khách hàng trung tâm của nền kinh tế Australia, mua hầu như toàn bộ các nguồn khoáng sản và than đá của nước này. Hugh White, một giáo sư nghiên cứu chiến lược tại trường đại học Quốc gia Australia (ANU) nói rằng: “Điều làm chúng tôi lo ngại là hầu như có thể khẳng định được là Mỹ và Trung Quốc đang ngày càng coi nhau như đối thủ chiến lược.” “Chúng tôi lo ngại về ý tưởng cho rằng mối quan hệ Mỹ-Trung đang trở nên đối địch. Mỹ muốn tiếp tục là một cường quốc thống trị ở châu Á, còn Trung Quốc muốn trở thành một cường quốc thống trị ở châu Á”, ông nói. “Còn điều chúng ta, cũng như những người khác, muốn: là không một nước nào trong hai nước đó trở thành cường quốc thống trị ở châu Á.” Phạm Ngọc Uyển ==================== Thế giới này sẽ phải hội nhập toàn cầu thôi. Cái model của tạo hóa nó vậy rồi. Vấn đề là con người trên trái Đất này có tìm được một giải pháp hợp lý để phát triển theo quy luật của Tạo hóa hay không? Đương nhiên khi hội nhập thì nó cần phải có một "lý thuyết thống nhất" - Đó là nguyên nhân để nhà tiên tri Vanga xác định rằng: Nhưng sự hội nhập này là một quá trình. Đó là nguyên nhân để bà Vanga xác định rằng: , khi bà trả lời câu hỏi về thời gian xảy ra sự kiện. Nhưng, sự hội nhập này còn tùy thuộc vào phương thừc hội nhập, mà con người - nếu đủ khả năng - có thể quyết đinh phương thức đó như thế nào? Còn nếu không thì đó chính là một cuộc chiến lớn giành ngôi bá chủ. Đó là lý do mà bà Vanga xác định rằng Thiên Sứ tôi một lần nữa lưu ý quí vị rằng: Cuộc chiến thế giới thứ II tuy tàn khốc, nhưng chưa một dân tộc nào bị tiêu diệt. Thiên Sứ tôi cũng nh[size="3"]ắc l[size="3"]ại r[size="3"]ằng: Vi[size="3"]ệt s[size="3"]ử 5000 năm văn hiến chính là cứu [/size][/size][/size][/size][/size][size="3"]cánh cho cuộc chiến tàn khốc có thể xảy ra theo lời tiên tri của bà Vanga. [size="3"]Nh[size="3"]ưng ti[size="3"]ếc thay! Qu[size="3"]ỹ[/size] th[size="3"]ời gian ng[size="3"]ày c[size="3"]àng [size="3"]ít [size="3"]đi .....[size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"].[/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size] [size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"][size="3"] [/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size][/size]1 like -
(Đăng hình: 28/10/2012. THÁI NHẤT VÔ CỰC, LƯỠNG NGHI HỮU CỰC)1 like
-
Ngẫm Nghĩ
ATN liked a post in a topic by Thiên Bồng
Bán 3 lít..."bóp bóp" vài cái...xăng vào trong bình chỉ từ 2,7 lít đến 2,85 lít....Lời chỗ này nè... Mịa nó...than với vãn...1 like -
Zdìa chồng thì năm Dần 2010 lấy choàng. Đường công danh thì sau này nên tự làm chủ lấy mình thì hơn (Tự kinh doanh), có ông chồng hiền lành tử tế phụ giúp. Chúc vạn sự an lành.1 like