-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 07/11/2012 in all areas
-
Bách Việt
Quản Trị Viên 10 and 3 others liked a post in a topic by Lãn Miên
Bách Việt Nguồn: [ www.cqvip.com/qk/80164…] Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt Trung Quốc , thành lập năm 1980, mỗi hai năm tổ chức một lần hội thảo trong nước hoặc quốc tế, chuyên đề Bách Việt . Hội do đoàn thể nghiên cứu học thuật có tính toàn quốc thuộc khoa nghiên cứu nhân loại học Học viện nhân văn Đại học Hạ Môn phụ trách, văn phòng tại phòng 303 tầng 3 Bảo tàng nhân loại học Đại học Hạ Môn. Hàm nghĩa “Bách Việt ”: Bách Việt còn gọi là Việt Tộc hoặc Cổ Việt Nhân, là tên gọi dân tộc cổ đại vùng Đông Nam và Nam TQ. Tên Bách Việt có ghi sớm nhất trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là phía nam đất Hán là đất Bách Việt.. Các nhà sử học cho rằng dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc. Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời. Như Nghiêu, Thuấn, Vũ trong truyền thuyết chính là tiên dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu. Thời Thương sử thư có ghi lại hoạt động của dân tộc Việt. Cái tên Việt là do lấy tên công cụ và binh khí của họ là “Dương Việt “ là tên chung nhất. Không gian phân bố của họ rất rộng. Bộ phận gần Hoa Hạ nhất gọi là Ư Việt, nhưng họ rõ rang khác hẳn Hoa Hạ. Do Việt Tộc có nhiều chi hệ, lại phân bố rất rộng nên sử thư cuối thời Chiến Quốc gọi chung họ là Bách Việt. [ Đoạn trên nói Dương Việt 扬 越 là tên gọi công cụ đồng thời là binh khí, mệnh danh cho Việt Tộc. Bản thân chữ Dương Việt 扬 越 theo biểu ý của chữ là Giơ Vẹt (QT Tơi-Rỡi: Giơ Vẹt = Dương Việt) . Vẹt là cái rìu đá hình vuông dẹt ( QT Lướt: “Vuông Dẹt” = Vẹt, mà khảo cổ Quảng Tây gọi là cái “xẻng đá”, Tiếng Việt còn có các dụng cụ khác như cái bàn Vét là công cụ làm nông, cái Vá làm bằng miếng vỏ gáo dừa ] Sử thư gọi chung dân phương Nam là Man hoặc Tam Miêu, họ có chung cội nguồn sâu xa với Bách Việt. Đại khái đến đầu thời Thương, dân tộc vùng Bách Việt đã từ Man, Miêu phân chia ra nhiều dân tộc có tên gọi khác nhau, như theo《 Dật Chu thư. Vương Hội giải 逸 周 书• 王 会 解》 là các tên Khu Thâm 沤 深, Việt Khu 越 沤, Đặng 邓, Quế Quốc 桂 国, Tổn Tử 损 子, Sản Lý 产 里, Bách Bộc 百 濮, Cửu Quốc 九 国, Đông Việt 东 越, Âu Nhân 瓯 人, Ư Việt 于 越, Cô Muội 姑 妹, Thả Âu 且 瓯, Cộng Nhân 共 人 v.v. đều nằm ở đất phía Đông hoặc phía Nam vương triều Thương Chu, đại bộ phận tộc xưng trên đều có quan hệ với hệ thống Bách Việt. Thời kỳ Tây Chu, danh xưng Việt 越 đã xuất hiện phổ biến . Ngoài sách trên, sách 《Chu lễ. Đông quan khảo công ký 周 礼• 冬 官 考 工 记》 có danh xưng Ngô Việt “吴 粤”; sách 《Trúc thư kỷ niên 竹 书 纪 年》 ghi Chu Thành Vương năm thứ 24 ( 1040 BC) có “Ư Việt lai tân 于 越 来 宾 khách Ư Việt đến thăm”, trong đó có “吴” tức Ngô Quốc, thuộc một chi của Bách Việt; có “Ư Việt 于 越” tức tộc xưng Việt Quốc. Ngoài đó ra trong sách 《Chu lễ. Chức phương thị 周 礼• 职 方 氏 》 còn nói đến tên gọi “Thất Mân 七 闽 ” . Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc lịch sử Việt Tộc tiến vào thời kỳ lịch sử mới, người Việt vùng là Giang Tô, Triết Giang ngày nay kiến lập nên Ngô Quốc và Việt Quốc, quật khởi ở vùng hạ du Trường Giang tiến hành tham gia tranh bá, người Việt ở các vùng khác cũng rất là hoạt bát, bởi vậy lúc này danh xưng Việt Tộc đã đại hiển ư thế, danh xưng này được sử gia dùng phổ biến. Trong sử thư “Bách Việt” ngoài được gọi là “Dương Việt 扬 越 ” cũng còn được gọi là “Di Việt 夷 越 ” . [ QT Tơi-Rỡi thì Giơ= Dương = Dứ = Dí = Di , là một nôi khái niệm “hành động” . Giơ Vẹt = Dương Việt là mệnh danh cho Việt Tộc tức là Bách Việt. Kẻ dính Bách Việt lại để lập nên quốc gia là một người Kinh là Kinh Dương Vương, là kẻ dẫn đầu các chi hệ Bách Việt lập nên quốc gia Văn Lang ở Nam Dương Tử cách nay 5000 năm. Kẻ Dính = Kẻ Dẻo = Cần Keo = = Gắn Kết ( Tiếng Việt “Kẻ” nghĩa là người, tiếng Tày “Cần Keo” nghĩa là người Kinh. “Kẻ Dính” = Kinh .Thành ngữ “dính như bánh chưng” nói ý quyến luyến mãi ngày Tết . Truyền thuyết “Bánh Chưng bánh Dầy” đã nói rõ người Kinh là chủ bản quyền của bánh chưng. “Kẻ Dính” = “Câu Đinh” = Kinh. Sách Thủy Kinh Chú có ghi bốn ngàn năm trước công nguyên có quốc gia cổ đại gọi là Câu Đinh 勾 町 , mà diện tích bao trùm vùng rộng lớn ngày nay thuộc Vân Nam - Điền, Qúi Châu, Quảng Tây - Quế , Quảng Đông và Việt Nam ] Câu Ngô và Ư Việt trong thời Chiến Quốc đã bị diệt quốc. Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc xong tại đất cũ của Ngô Việt đặt thành quận Cối Kê. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” ngoài ghi lại sử của Ngô Việt thời Tiên Tần như các cuốn “Ngô thế gia”, “Việt thế gia” còn ghi các cuốn chuyên là “Nam Việt liệt truyện” và “Đông Việt liệt truyện”. Đến thời kỳ Tần Hán thì trong thư tịch xuất hiện các từ “Mân Việt”, “Đông Âu”, “Nam Hải”, “Nam Việt”, “Tây Âu”, “Lạc Việt”, “Điền Việt” v.v. là quốc danh hoặc tộc danh của người Việt. Những danh xưng này tuy xuất hiện muộn hơn trong lịch sử, nhưng không có nghĩa là những tộc hay nước này của Bách Việt đến đời Hán mới xuất hiện. Họ giống nhau là có một lịch sử phát triển lâu dài, cùng một dân tộc cổ xưa. [ Nhận định này đúng như cái tên chung của “cùng một dân tộc cổ xưa” mà trong Tiếng Việt có thể thấy bằng QT Tơi-Rỡi: Nam Việt = Nậm Việt = Nước Việt = Nác Việt = Lạc Việt = Lắm Việt = Trăm Việt = Bẵm Việt = Bẫm Việt = Bộc Việt = Bách Việt ] Trong Hán Thư 《汉书》 đã đem đổi chữ Việt “越” thành chữ Việt “粤”. Thế nhưng, thời kỳ này từ và chữ “Bách Việt 百 越” đa phần là dùng để chỉ người Việt ở vùng Lĩnh Nam. Ngoài đó ra còn theo phương vị để xưng hô như Đông Việt, Nam Việt, Tây Việt v.v. trong Sử Ký có chỗ dùng từ Đông Việt để chỉ Mân Việt, cũng có dùng để chỉ Đông Âu, nhưng có chỗ dùng chỉ tộc xưng và quốc danh xưng như Nam Việt, thành ra về tộc xưng có nhiều hỗn loạn. Sau khi Hán Vũ Đế thống nhất Tây Nam Di, Nam Việt và Mân Việt thì danh xưng Bách Việt và danh xưng các chi tộc Việt dần dần biến mất, người Việt tụ cư ở ven biển Đông Nam bị cưỡng bức di cư lên vùng Giang Hoài, có bộ phận thì bị Hán Tộc đồng hóa. Nhưng vẫn có bộ phận người Việt tản cư ở Giang Tây, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, lui vào các vùng núi và bị gọi là Sơn Việt “山 越”. Sơn Việtlà hậu duệ của Bách Việt. Từ thời Đường về sau danh xưng Sơn Việt cũng biến mất.4 likes -
Làm gì có ai muốn nghiên cứu - ngoại trừ những người có tâm và tầm nhìn trí tuệ, cũng đam mê môn này. Số người này rất ít. Còn phần lớn là một đám lởm khởm, có chút ít chữ nghĩa, bày đặt chê bai để đánh bóng tên tuổi thì đầy. Chimchichbong lãng mạn quá. Hi. Lịch sử văn hóa truyền thống của cả một dân tộc còn bị chúng bôi nhọ trắng trợn thì luận điểm của Thiên Sứ chúng bâu vào xâu xé có gì là lạ đâu.Một vấn nạn nữa của tử vi và môn dự báo nói chung còn ở điểm này: Thiệu Vĩ Hoa, ngôi sao Bắc Đẩu Dịch học của Trung Quốc đã bói đúng cho hoàng gia Thái Lan khiến họ vô cùng khen ngợi - đã phát biểu rằng: Mọi giờ trên thế giới , khi dự đoán phải quy về giờ Bắc Kinh. Luận điêu "tự tôn dân tộc" phản khoa học này đã bị tôi phản bác và xác định rằng: Người thày dự đoán ở đâu thì lấy vị trí không gian, thời gian ở đó làm Trung tâm. Cụ thể nếu coi trong phạm vi quốc gia thì lấy tỉnh của sự kiện dự đoán; nếu coi trong tỉnh thì lấy quận, huyện của sự kiện dự đoán. Nếu coi tầm cỡ quốc tế thì lấy quốc gia có sự kiện dự đoán. Luận điểm này lần đầu tôi công bố ở tuvilyso.com . Đến nay có mấy vấn nạn xảy ra: 1/ Trong khi các cao thủ bàn tán về lá số Tử Vi của anh Vantu về giờ sinh đích thực của anh ấy. Tôi có chọn giờ A (Cụ thể tôi quên). Tôi xác định: Nếu anh Vantu sinh đúng giờ A thì vào đúng 12 giờ trưa của 8 ngày sau đó, anh ấy sẽ đang ngồi trên máy bay. Sau đó anh Vantu hồi âm lại cho tôi: Đúng 12 giờ trưa vào ngày tôi dự báo, anh ấy đang ngồi trên máy bay thật. Nhưng mà để về Hoa Kỳ. Cũng vào đúng ngày đó - nhưng theo lịch Hoa Kỳ, chậm một ngày so với Việt Nam thì anh ấy lại đang ngủ.... 2/ Sự kiện dự báo cháy rừng trên toàn bang Clorado chắc anh chị em còn nhớ: Tôi xác định hai ngày sau thì toàn bang Clorado phải có mưa và làm tắt ngay lập tức đám cháy rừng này. Nếu theo tính tuyệt đối của ngày ghi trên lịch thì về thời gian sự xác định của tôi chính xác. Nhưng so với lịch Việt thì nó chậm một ngày. 3/ Đây là vấn nạn mà Hoàng Triều Hải đã nêu trong mục phong thủy: Một người sinh sau Tết Việt Lịch, nhưng trước Lập Xuân thì tính tuổi như thế nào để xác định mệnh trạch? Chưa hết, lại còn thế này nữa: Tuổi thật thì năm A, tuổi khai sinh thì năm B. Trong phong thủy và dự báo lấy tuổi nào? Tôi chỉ lấy những sự kiện liên quan đến cá nhân tôi và của anh chị em trên diễn đàn làm thí dụ. Còn thực tế bói toán của các cao thủ trong ngoài diễn đàn - chứ không phải đám lông gà lông vịt - thì đầy. Chúng ta sẽ phải có một hệ thống luận cứ khoa học để xác định vấn nạn thời gian trong các môn ứng dụng và hệ thống lý luận của Lý học Đông phương. Điều này thì đơn giản, nên tôi sẽ trình bày trong một cuộc Offline do anh chị em các lớp Phong Thủy Lạc Việt tổ chức. Quay phim và đưa vào trong lớp PTLV nâng cao. Một trong những luận điểm có tính nguyên lý căn bản để xác đinh tính thời gian trong Lý học Đông phương - khác với vật lý hiện đại là: Thời gian giới hạn trong vũ trụ là tuyệt đối - bằng /0/. Tính quy ước của thời gian tuy thuộc vào hệ quy chiếu tương quan giữa sự vận động của các phần tử quan sát trong hệ quy chiếu đó - mà tổ tiên chúng ta gọi là "các cõi khác nhau". Vấn đề này tôi cũng sẽ trình bày lại trong Tử Vi Lạc Việt. ================= PS: Mục Đồng giúp tôi đánh máy, dàn trang , sưu tầm tư liệu đang vào mùa thi nên nghỉ. Cuốn Tử Vi Lạc Việt vì thế cho đến hôm nay gần như chưa tiến triển chút nào. Mong anh chị em ủng hộ thông cảm.4 likes
-
Lời Tiên Tri 2012
Ks.TranNgocHai and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
Có lẽ tôi phải nói rõ hơn thế này:Ngài Obama cũng sẽ phải có những thái độ rất kiên quyết trong vấn đề quyết định chiến tranh hay hòa bình từ những quốc gia đồng minh. Nếu không ngài sẽ bị mất chức giữa nhiệm kỳ vào cuối năm 2014, hoặc trong năm 2015.3 likes -
'chiêu' Biến Đường Thành Mật Ong
ATN and 2 others liked a post in a topic by Thiên Sứ
'Chiêu' biến đường thành mật ong Thứ ba, 6/11/2012, 15:01 GMT+7 Chỉ bằng tiểu xảo đơn giản, hỗn hợp đường, nước và phèn chua đã mau chóng biến thành loại thực phẩm bổ dưỡng. Các chuyên gia khuyến cáo loại mật ong giả này có nhiều nguy hại đối với sức khỏe. Quanh phố Lãn Ông (Hà Nội), mật ong được bày bán với đủ mức giá và chủng loại. Mật ong nuôi có giá 55.000-80.000 đồng mỗi chai (loại 750 ml). Mật ong rừng vốn được xem là đặc sản, quý hiếm cũng chỉ dao động từ 100.000 đến 150.000 đồng mỗi chai. Mua về, không ít khách hàng phàn nàn về chất lượng của chúng. Chị Trần Thị Thanh Phương (Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội) cho hay: “Chỉ sau vài lần sử dụng, mật ong bỗng dưng mất mùi, khi uống toàn thấy vị đường ngọt khé cổ. Nhờ bạn bè kiểm tra, tôi mới té ngửa đây là mật giả”. Theo ông Nguyễn Văn Dĩnh, một người nuôi ong có hơn 30 năm trong nghề ở Quảng Châu (Hưng Yên), không ít loại mật ong trên thị trường là mật pha. Đường pha vào nước phèn chua có màu vàng sánh y như mật ong thật. Mật ong giả được rắc sáp ong nghiền nhỏ để tăng niềm tin với khách hàng. Ảnh: Phụ nữ TP HCM. Một người đàn ông từng làm mật ong giả tại xã Xuân Tín, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa cho biết, trước đây người làm mật ong giả ở làng thường mang hàng xuống chợ huyện để bán. Sau này bị phát hiện, họ tản đi tứ xứ, từ Hà Nội, Nghệ An đến TP HCM… Mật ong giả có hình thức rất đẹp, màu sáng, trong dễ nhầm tưởng đó là loại mật hảo hạng. Ông này cũng cho biết, không có gì dễ như nấu mật giả, chỉ cần nói qua một lần, ai cũng có thể làm được. Trong chiếc nồi lớn, một người chuyên nấu mật giả bỏ chừng 500 ml nước giếng, vài hạt muối và gần lưng thìa bột trắng, đun sôi. Tiếp đó, đổ đường trắng vào nồi và quấy đều tay cho đến khi đường tan chảy hết. Sau khi đun sôi, hỗn hợp này sẽ tạo thành màu vàng nhạt, trông rất giống mật ong, sánh và trong. Nếu muốn mật có màu đậm hơn, có thể nấu chung đường trắng với đường mía hoặc pha nước nghệ. Tuy nhiên, nếu dùng hai cách này, mật ong sẽ bị “lộ mùi”. Để mật có màu đẹp như ý muốn mà không tạo ra mùi lạ, người nấu chỉ cần đẽo một nắm vỏ cây nục nạc - một loại cây có quả dài như trái mướp, dễ dàng tìm thấy trong làng. Vỏ cây này được đem sao lên cho vàng theo nhu cầu tạo màu rồi đổ nước và đường để nấu. Bí kíp quan trọng nhất để đường không bị kết tinh sau khi nấu đó chính là thìa bột trắng được hòa vào ngay từ lúc đầu - là phèn chua. Sau khi hỗn hợp đường nước nguội, có thể lấy một chén mật thật có màu tương ứng đổ lên phía trên, tạo mùi thơm đặc trưng. Cuối cùng, người nấu lấy ra một gói sáp ong dằm nhuyễn rồi rắc lên trên khiến khách hàng tin rằng, đây là loại mật được khai thác từ tự nhiên. Với công thức này, mỗi kg đường sẽ nấu được hơn một kg mật ong. Mật ong giả bán với giá 120.000-150.000 đồng một kg, trong khi giá trị thực chưa tới 25.000 đồng. Như vậy với mỗi kg mật giả, người bán thu về 100.000 đồng tiền lãi. Những người nấu mật ong giả thường cho rằng, mặt hàng họ tạo ra chỉ là đường, có giá thành chênh lệch chứ hoàn toàn không gây hại tới người tiêu dùng. Phó giáo sư Phan Thị Sửu, Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật an toàn thực phẩm, Hội Khoa học kỹ thuật An toàn thực phẩm Việt Nam cho hay, nếu khách hàng vô tình dùng phải loại mật ong giả sẽ bị “tác dụng ngược”. Mật ong là loại thực phẩm bổ dưỡng. Chứa tới 80% đường, trong mật ong có nhiều vitamin và khoáng chất nên không những không khiến người sử dụng bị tăng cân mà còn có tác dụng cân bằng hệ tiêu hóa. Trong khi đó, mật giả chỉ có đường đơn thuần nên không tốt cho người béo phì. Đặc biệt, việc sử dụng phèn chua sẽ gây nguy hiểm cho sức khỏe. Theo bà Sửu, phèn chua là muối sunfat nhôm sắt hay còn gọi “muối kép”, được dùng để kết tủa cặn nước hoặc để sát trùng chứ không bao giờ đưa trực tiếp vào thực phẩm. “Sử dụng phèn chua sẽ gây hại cho sức khỏe. Hợp chất chứa sắt, nhôm khi vào cơ thể sẽ khiến cho chức năng dạ dày bị rối loạn và ảnh hưởng trực tiếp đến đường tiêu hóa, làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể”, bà Sửu phân tích. Ông Lâm Quang Vinh - Công ty Cổ phần Mật ong rừng U Minh cho biết, có một số cách đơn giản để phân biệt mật ong thật và mật ong giả. Cách thứ nhất là lấy hai muỗng cà phê mật ong cho vào ngăn đá tủ lạnh trong vòng 2-3 tiếng. Mật ong nguyên chất sẽ chỉ sánh lại, còn mật ong pha đường sẽ bị đóng đông ngay lập tức. Cách thứ hai là đổ mật ong vào lòng đỏ trứng gà, sau chừng một giờ đồng hồ, lòng đỏ trứng đóng một lớp màng cứng như bị chín thì đó là mật thật. Ngoài ra, còn có những cách thử mật ong không tốn nhiều thời gian như: nhỏ một giọt mật ong trên áo, mật chảy thành cục tròn và rớt xuống là mật ong thật, mật thấm vào vải nhanh là mật giả. Khách hàng cũng có thể sử dụng hành lá nhúng vào mật ong. Nếu là mật ong thật, chỉ sau 1-2 phút lá hành sẽ bị héo. Theo Phụ nữ TP HCM3 likes -
MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ Tác Giả: Nguyên Thành biên soạn ĐÔI DÒNG CẢM TƯỞNG Tôi là người rất ngại “viết lách”. Viết, đối với tôi là cả một cuộc “vật lộn” với chữ nghĩa. Vậy mà từ khi được duyên may mắn, là người đầu tiên đọc tác phẩm Một đời người, một câu thần chú của giáo thọ Nguyên Thành vừa viết xong, như có ai đó thúc giục tôi một cách mãnh liệt, rằng phải viết lên những niềm hỷ lạc mà tôi đã nhận được từ sự gia trì của Bổn Tôn qua tác phẩm này. Do vậy, tôi “đành” phải “chấp bút”.Tuy là người đã hành trì giáo pháp Mật tông, và cũng đã đọc một số kinh điển giảng luận của các đạo sư và các thánh tăng, viết về lợi ích của việc thực hành trì niệm thần chú nhưng tôi vẫn không khỏi bàng hoàng và choáng ngợp bởi sự hoành tráng, đầy đủ mọi khía cạnh nông sâu của thần chú Om mani padme hum. Tựa như những viên pha lê đầy màu sắc trước kia để ẩn khuất từng nơi, nay được gom tụ vào một chỗ thì ánh sáng lấp lánh của chúng tăng lên gấp ngàn lần vậy. Tôi như một chú ếch đã tạm hiểu được sự rộng sâu của một dòng sông nhưng vẫn phải nổ tung trước sự mênh mông bao la không bến bờ của đại dương. Vậy đối với những ai có duyên lành với Phật pháp và mong muốn am tường về thần chú Om mani padme hum của Bồ Tát Quán Âm, thì Một đời người, một câu thần chú là một tác phẩm chứa đựng đầy đủ. Như một nhà họa sĩ tài ba với cành cọ khéo léo, một năng khiếu mỹ thuật, một tấm lòng bi mẫn chân thành, giáo thọ Nguyên Thành đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tráng lệ, làm cho hàng căn cơ chậm lụt như tôi càng đọc tín tâm càng thâm sâu hơn vào sức gia trì và lòng bi mẫn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chỉ một câu thần chú ngắn ngủi sáu âm mà chứa đựng vạn pháp! Từng chương trong tác phẩm mang những hình ảnh, khía cạnh khác nhau của thần chú Lục tự đại minh, cũng giống như mỗi màu sắc trong một bức tranh, càng tăng phần sinh động, mà vẫn mang đầy đủ ý nghĩa về lòng bi mẫn siêu phàm của Bồ Tát Quán Thế Âm nhất là những đại nguyện của Ngài dành cho tất cả chúng sanh với tâm không phân biệt, dù cho căn cơ của mỗi chúng sanh khác biệt cũng đều được hưởng lợi lạc như nhau. Càng đi sâu, ta như lạc vào một hòn đảo chứa đầy những viên ngọc quý giá và chính mình cũng được chiếu soi từ ánh sáng ngọc quý, không những thế mà ta còn được tùy nghi sử dụng. Niềm hỷ lạc dâng trào vì thấy mình quá may mắn gặp được Phật pháp trong đời này và đang hành trì pháp môn trì tụng thần chú Lục tự đại minh. Để đền đáp phần nào ơn tri ngộ với bậc thiện tri thức qua tác phẩm quý báu này, tôi chỉ biết hết lòng cầu nguyện cho bất cứ ai có duyên may đến được hòn đảo châu báu Om mani padme hum đều sẽ khởi tâm tin nhận hành trì để được phần lợi lạc, không phải trở về tay không! Bà Rịa Vũng Tàu Ngày 22 tháng 3 năm 2009 Mật Diệu Kính đề LỜI NÓI ĐẦU Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa. Trong Mật chú thừa, hình tượng vị Phật mà các hành giả tu tập thiền quán Bổn tôn thường chọn nhất có lẽ là hình tượng đức Quán Âm Tứ Thủ, và thần chú do Ngài tuyên thuyết là thần chú Mani cũng được nhiều người thọ trì nhất, còn gọi là thần chú Lục tự đại minh hay thần chú Sáu âm. Từ xưa đến nay đã có biết bao thế hệ hành giả Mật chú thừa sử dụng thần chú Mani làm nền tảng tiến tu và nhận Bồ Tát Quán Âm là Bổn tôn thiền quán.Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư thực hành Mật giáo của người viết, cũng noi theo những tấm gương đó. Trong những năm tháng thực hành pháp môn trì chú song song với pháp quán tưởng Bổn tôn, người viết cũng như những đồng môn khác như đạo hữu Mật Diệu, Mật Hải, Mật Tuệ, Mật Tấn, Mật Hạnh... đều cảm nhận được không ít lợi lạc trong đời sống, cả về mặt tâm linh cũng như thể chất. Thật sự không thể kể hết được ân phước gia hộ từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini, là suối nguồn tâm linh đã mang đến cho chúng tôi tất cả những gì có thể gọi là quý giá của kiếp người, bao gồm cả niềm hạnh phúc trong đời sống hằng ngày cũng như những pháp vị được trải nghiệm qua từng thời khóa hành trì! Với tâm nguyện là niềm vui nên chia sẻ với mọi người, tựa như ổ bánh ngọt thơm ngon muốn nhiều người cùng ăn chung cho biết mùi vị, người viết không ngại tài sơ trí thiển, cố dồn tâm lực vào tác phẩm này để chia sẻ những nhận thức của mình về thần chú Mani, cũng như những trải nghiệm tâm linh trên đường tu Mật giáo mà bản thân đã kinh qua, mong có thể giúp ích ít nhiều cho những ai chưa biết đến Mật giáo, những ai có thiện cảm với Mật tông, cũng như những ai đang là hành giả Mật giáo. Trong tác phẩm “Một đời người, một câu thần chú” này, người viết cố gắng thể hiện những quan kiến Mật giáo về pháp môn trì niệm thần chú Mani từ nhiều khía cạnh khác nhau. Khi trình bày, người viết cố gắng y cứ theo những luận chứng trong kinh điển để tránh tình trạng “tri kiến lập tri”, tức là luận giải chủ quan của cá nhân mình. Tuy vậy, về sự vi diệu của thần chú Mani thì có lẽ chỉ chư Phật mới có thể luận bàn rốt ráo. Vì vậy, người viết khó có thể tránh được nhiều sai sót, khuyết điểm. Rất mong quý bạn đọc gần xa niệm tình tha thứ, người viết chân thành cảm kích. Được chút thiện hạnh nào, người viết xin nguyện hồi hướng về cho mọi chúng sanh hữu tình, vô tình trong pháp giới. Mật gia Song Nguyễn Phật lịch 2552 Thinley Nguyên Thành Cẩn chí ĐẠI SĨ LIÊN HOA SANH (tức GURU RINPOCHE) Đạo sư của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo ĐẠI THÀNH TỰU GIẢ LONGCHENPA và các vị đệ tử dòng truyền thừa Nyingma ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA XIV Lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng DẪN NHẬP Vùng cao nguyên Ladakh thuộc đất nước Nepal, vào ngày 4 tháng 3 năm 2009. Thời tiết âm 180C! Không cần nói, ai cũng nhận thấy cái rét buốt da ở đây. Nhưng người dân địa phương lại cho biết, so với năm ngoái vào thời điểm này thời tiết còn xuống đến âm 280C. Được như hôm nay là đã ấm hơn nhiều!Song, vấn đề không phải chuyện ấm lạnh, mà là đang có đến hàng vạn người quy tụ về địa điểm Shey, thuộc cao nguyên Ladakh, không quản mưa lạnh giá rét! Họ tham gia lễ cầu nguyện và trì tụng thần chú Mani cùng thần chú Kim cương Thượng sư một trăm triệu biến mỗi loại. Nghi lễ tâm linh này được diễn ra dưới sự hướng dẫn của đức Pháp vương Gyalwang Drukpa XII. Thành phần tham gia có đủ tứ chúng trong Phật giáo: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Tất cả đều cầu nguyện cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình, bản thân tinh tấn tu hành để làm lợi lạc cho chúng sanh và chính mình. Trên thực tế, sự kiện trọng đại này đã có khoảng 45.000 người tham gia. Điều này cho thấy niềm tin mãnh liệt của họ về công năng bất khả tư nghị của thần chú. Vậy thần chú là gì mà có thể trở thành một phương tiện thiện xảo như thế? THẦN CHÚ LÀ GÌ? Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật ngữ của chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội, đúc kết tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng Phạn, thần chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát khỏi uế trược, phiền não. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương tiện ban vui, cứu khổ.Trong Phật giáo Mật tông, thần chú là một phương tiện được sử dụng song hành với phương pháp thiền quán Hộ Phật Du Già (Yidam Yoga), hay còn gọi là thiền quán Bổn tôn. Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách Mật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây: 1. Kính ái: ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến; 2. Tăng ích: được gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt; 3. Tiêu tai: tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn trình từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không còn nữa; 4. Hàng phục: trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người; 5. Câu triệu: tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu... Nhưng đó chỉ là những lợi ích thuộc về pháp hữu vi, chưa nói đến các lợi ích cao siêu hơn thuộc về pháp vô vi. Trong pháp hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng ngay cả các bậc đại Bồ Tát cũng cần trì chú. Từ đó có thể thấy rằng thần chú thực sự hữu ích cho chúng sanh hữu tình, trong đó có loài người chúng ta. Sau đây là một trích dẫn từ kinh Thủ Lăng Nghiêm để thấy rõ oai lực của thần chú: “Giả sử có chúng sanh trong tâm còn tán loạn, nhưng nếu trì niệm thần chú này cũng vẫn thường được 84.000 hằng hà sa Kim cang thần ngày đêm đi theo giữ gìn hộ vệ... Các quỷ thần ác phải xa lánh vị thiện nhân này ngoài 10 do-tuần, và chúng ma muốn rình rập quấy nhiễu cũng không thể được...” Ngoại đạo có thần chú hay không? Hành giả ngoại đạo cũng có những mật chú riêng, có công năng khác nhau, nhưng không thể gọi là thần chú. Ở họ có thể gọi là thiên chú, tiên chú, quỷ chú, yêu chú... tùy theo đạo giáo của họ. Chẳng hạn, trong Bà la môn giáo có Phạm thiên chú, trong Lão giáo có tiên chú, trong giáo phái thờ quỷ thần, yêu ma thì có loại quỷ chú, yêu chú... Nhưng chỉ riêng trong Phật giáo mới có mật chú được gọi là thần chú. Vì sao vậy? Chữ “thần” ở đây không có nghĩa là cõi thần, mà là “thần diệu khôn lường”, diệu dụng vô công, là thần lực của chư Phật. Ngoại đạo không đạt đến cảnh giới siêu phàm đó, nên không thể gọi là thần chú. Lược nói đơn giản là như thế, nhưng để thấu triệt cần phải phân tích thêm... Nguyên nhân ở chỗ là do định lực của mỗi đạo nông sâu khác nhau. Những tu sĩ ngoại đạo dù chuyên cần tu luyện đến đâu cũng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong phạm vi tứ thiền, bát định; có nghĩa là từ sơ thiền lên đến tứ thiền, rồi dần lên đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng là hết mức. Theo lời Phật dạy, nếu họ gột sạch được tập khí chấp ngã, họ cũng có thể đạt tới Diệt tận định, thoát khỏi luân hồi. Nhưng vì họ tu tập trên căn bản vẫn còn chấp ngã nên điều này là không thể xảy ra. Và vì thế mà thành tựu cao nhất này chỉ có ở hành giả Phật giáo, những người tu tập giáo pháp vô ngã. Chính vì vậy mà hành giả ngoại đạo chỉ có thể đạt tới những mức định thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, nghĩa là không ra khỏi Tam giới. Do đó, họ vẫn còn trôi lăn trong cõi luân hồi chịu khổ não, cho dù các vị trời Vô sắc giới sống lâu đến nhiều đại kiếp. Các hành giả Tiểu thừa có thể đạt đến Diệt tận định, làm vắng bặt được thọ ấm, tưởng ấm cùng những tập khí ô nhiễm chấp ngã của hành ấm, chạm vào mép cửa của tàng thức sơ năng biến, đã thoát khỏi vòng cương tỏa luân hồi. Nhưng đến đây vẫn còn sự biến dịch vi tế và mãnh liệt của những vọng tưởng hư vô vi tế của tàng thức. Bởi vậy, họ chưa đạt được Đại định Tam-muội. Riêng trong Phật giáo Đại thừa, Mật thừa, các hành giả tu theo con đường Bồ Tát đạo, Phật đạo, thường quán chiếu các pháp như huyễn, thực hành phương tiện và trí huệ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thẩm thấu đại bi đồng thể và tự tâm huyễn hiện... nên đạt được thần lực của Đại định tam-muội, như Thủ lăng nghiêm tam-muội, Như huyễn tam-muội, Chân như tam-muội, Kim cang tam-muội... Khi có được đại định ấy gọi là Diệu định quả sắc, trở thành bậc Đại thánh trong Phật giáo, vô ngại tự tại ra vào sanh tử mà chẳng chút nhiễm ô, hóa độ vô lượng chúng sanh hàng vô số kiếp mà không chút dụng công. Đó là đặc điểm của diệu tâm, và từ diệu tâm nên các ngài mới có thể tuyên thuyết thần chú. Do đó có thể hiểu rằng thần chú là phương tiện thần diệu. Cũng với ý nghĩa này, hòa thượng Tuyên Hóa từng giải thích về thần thông pháp lực. Ngài cho rằng có quỷ thông (phép tắc biến hiện của quỷ), tiên thông (phép tắc biến hiện của tiên, chư thiên cõi trời), ma thông (phép tắc biến hiện của ma), yêu thông (phép tắc biến hiện của yêu quái). Tất cả các loại phép tắc biến hiện đó đều gọi là “nghiệp thông”, Chỉ riêng ở hành giả đạo Phật mới được gọi là “thần thông”, tức là biến hóa tự tại, phân thân vô số ức... Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, Phẩm thứ hai ghi lại một đoạn như sau: “Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa thế giới; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết-bàn an lạc...” Sở dĩ được như vậy là vì bậc thánh trong đạo Phật có đạt được “Lậu tận thông” làm nền tảng mà các hành giả ngoại đạo không thể. Từ điểm tham chiếu này có thể hiểu rằng thần chú là danh từ chỉ có ý nghĩa chuẩn xác nhất khi được dùng trong Phật giáo, nhất là Mật tông. Cũng từ đó ta có thể suy ra, chỉ có thần chú trong đạo Phật mới có được đầy đủ 5 công năng lợi ích vi diệu như đã nêu trên ở bình diện thế gian, còn những thành tựu xuất thế gian sẽ tiếp tục được luận giải ở chương sau. Thần chú trong đạo Phật được chia làm 4 loại với những cấp độ khác nhau. Trong Tâm kinh Bát-nhã có đề cập đến: “Đây là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có khả năng trừ được hết thảy khổ não, chân thật không hư dối.” Cũng có một cách phân loại thần chú gồm: đảnh chú, tâm chú và tùy tâm chú. Thông thường, chỉ có chư Phật mới lưu xuất đảnh chú, thí dụ như “Đại Phật đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm” hoặc “Phật đảnh Tôn thắng thần chú”... Về mặt lý thì thần chú của chư Phật cao hơn chư Bồ Tát đẳng giác, tức là các đại Bồ Tát. Tuy nhiên, về mặt sự thì tất cả thần chú trên đều lưu xuất từ Đại định Tam-muội nên công năng vi diệu đều là bất khả tư nghị. Trong các nghi quỹ thực hành thần chú có chỉ dạy cách đọc tụng, trì niệm. Nói chung, đọc thần chú là phát ra thành tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ, còn tụng thần chú là ngâm nga trầm bổng theo tiếng chuông mõ như hiện đang thực hiện ở các chùa, tu viện Đại thừa. Nếu đọc thần chú thành tiếng thì nên tránh tám lỗi sau đây mà “Nghi quỹ Do Subahu thỉnh cầu” đã đề ra: 1. Quá nhanh, 2. Quá chậm, 3. Quá lớn, 4. Quá nhỏ, 5. Gián đoạn vì nói chuyện với người khác, 6. Xao lãng 7. Âm dài, đọc ngắn, 8. Âm ngắn, đọc dài. Sau đây là giải thích cặn kẽ: Quá nhanh là khi các âm của thần chú lẫn vào nhau, không rõ ràng. Quá chậm là khi hành giả không đọc hết số câu thần chú trong khoảng thời gian vừa phải Quá lớn là đọc như sấm, hoặc đọc làm cho người khác nghe thấy lớn tiếng. Quá nhỏ là đọc mà chính mình cũng không nghe. Nói chuyện với người khác là làm gián đoạn việc đọc thần chú. Xao lãng là không tập trung vào câu thần chú mà mình đang đọc. Âm dài đọc ngắn là phát âm sai những chữ của thần chú. Âm ngắn đọc dài cũng là phát âm sai. Riêng niệm thần chú tức là đọc thầm trong trí, hoặc đọc rì rầm mà người ta thường ví là chỉ đọc cho cổ áo nghe. Niệm chú gồm có 6 cách sau đây, được ghi lại trong “Thánh nữ kinh” (hay còn gọi là “Giáo huấn Dakini”) do Đại sĩ Liên Hoa Sanh chỉ dạy: – Một là niệm kim cương, có nghĩa là niệm mà chỉ có chuỗi đeo cổ của mình có thể nghe thấy. – Niệm có âm điệu kim cương, được dùng trong những dịp thực hành thành tựu lớn. – Niệm bí mật kim cương là niệm thầm trong trí. – Niệm như luân xa, là tưởng tượng âm thanh khi niệm ra khỏi miệng, đi vào vùng rốn, rồi tan hòa ngược lên vùng trung tâm tim. – Niệm như tràng hoa, là xoay tràng hoa thần chú xung quanh mỗi chủng tự thần chú trong trung tâm tim và chú tâm hoàn toàn vào các chủng tự. – Niệm chú tập trung vào âm thanh là khi niệm chú luôn tập trung chú tâm hoàn toàn vào âm thanh phát ra của câu thần chú. Mặc dù niệm thần chú có thể áp dụng trong mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi..., nhưng khi ngồi theo tư thế kiết già để niệm thần chú là tốt nhất. Đặc biệt, trong “Thánh nữ kinh” cũng khuyến cáo, nếu hành giả đọc các thần chú Mật thừa hoặc thần chú của các vị bổn tôn hung nộ quá lớn thì oai lực của thần chú sẽ giảm đi đồng thời còn khiến cho các loài phi nhân và ma quỷ sẽ hoảng hốt mà bất tỉnh. Cũng đừng khạc nhổ những nơi có người qua lại, vì như vậy gây trở ngại cho năng lực thần chú. Riêng sự phát âm chưa đúng không phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc trì tụng thần chú, mà chủ yếu là sự chí thành, miên mật. CHUYỆN KỂ VỀ THẦN CHÚ Chuyện kể răng thuở xưa có một bà lão nghèo sống đơn độc trên một đỉnh núi ở Tây Tạng suốt ngày, ngồi dùng cơm ra, bà lão luôn lẩm nhẩm câu thần chú Lục tự đại minh của Bồ Tát Quán Thế Âm.Qua nhiều năm như vậy, một hôm bà lão đọc thần chú khiến hạt đậu nhảy qua, nhảy lại hai cái rổ tre của mình. Từ đó, bà có một trò chơi như vậy. Bà sống với niềm vui đó suốt cuộc đời còn lại và không một chút vướng bận thế tục. Ngày nọ, một hành giả Mật thừa tình cờ leo lên đỉnh núi, thấy hào quang phát sáng ở trong hang động nhỏ. Ông lần mò vào xem và thấy một cụ già đang lẩm nhẩm gì đó. Và mỗi lần như vậy hào quang lại phát ra từ trong động lờ mờ kia, nơi cụ già đang cư ngụ. Vị hành giả thầm hiểu cụ già đó đã đạt Nhất tâm tam-muội do pháp môn trì niệm thần chú. Chuyện kể rằng, thuở xưa có một người được gọi là “mũi trái rạ”, vì hồi nhỏ anh ta bị bệnh trái rạ để lại những vết sẹo đỏ hồng trên mũi. Suốt ngày anh ta chỉ lo việc chăn bò ngoài đồng cỏ, còn những người trong gia đình thì chăm chỉ học tập kinh điển với một vị Lạt-ma. Họ cho rằng anh dốt nát nên mỗi lần anh muốn dò hỏi họ học những gì ở vị Lạt-ma, hay vị Lạt-ma làm gì, nói gì..., liền bị gạt qua một bên. Họ cho rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng có thể biết được! Có lần anh ta gạn hỏi: “Các người học được mấy điều?” Họ trả lời: “Chỉ có 3 điều thôi! Thậm chí chỉ có 3 chữ mà bao quát toàn bộ tri kiến Phật.” Gia đình không ai để ý đến anh ta, ngoài việc bảo anh ta dẫn bò xuống làng bán hoặc mua thực phẩm. Anh tha thiết được học như họ, nhưng hầu như không ai cho anh được toại ý. Vài năm sau đó, anh âm thầm trốn khỏi nhà, tìm cầu học đạo để mong được như những người khác. Vượt qua nhiều gian nan, anh cũng gặp được giáo pháp. Đó là nơi một vị Lạt-ma đang thuyết giảng cho những tu sĩ khác ở một trại lều cạnh chân núi. Anh mon men vào nghe. Quả thật là Phật pháp cao sâu, anh chẳng hiểu một tí gì sau hai giờ liền chăm chú lắng nghe. Vị Lạt-ma giảng những gì mà phức tạp, khó hiểu, càng nghe càng rối bời. Còn 3 chữ chứa đựng toàn bộ tri kiến Phật mà gia đình anh nói, chẳng nghe gì cả! Anh buồn rầu tâm sự với vị Lạt-ma nọ. Thông cảm với anh, vị Lạt-ma liền hứa sẽ mời vị thầy chứng đắc của mình dạy bảo tinh túy giáo pháp cho anh. Sáng hôm sau, khi mặt trời ửng hồng ở chân trời phía đông, anh chăn bò ham học giáo pháp đã đứng trước vị sư Mật giáo được tôn vinh là thành tựu giả. Ngài yên lặng lắng nghe anh yêu cầu trao truyền 3 chữ tinh yếu ấy. Ngài biết rõ, nếu tâm thức chín mùi, căn cơ lanh lợi thì dù chỉ một từ, một tiếng cũng có thể giúp người đệ tử đắc pháp và nhập tri kiến giải thoát. Nhưng nhìn anh chăn bò có “mũi trái rạ” này, Ngài không thể nói gì hơn bởi sự đần độn lộ ra vẻ ngoài của anh ta. Ngài mỉm cười nói lãng sang chuyện khác. Anh chăn bò tưởng vị sư ích kỷ, giấu giếm tuyệt học, liền lên giọng thô lỗ, văng tục không ngớt. Thị giả của sư trưởng không chịu nỗi, lấy chuỗi hạt đeo trên cổ đập vào đầu anh ta và gằn giọng: “Này mũi trái rạ, đâu có gì! Benza Hung Phat!” Nghe thế, tự dưng anh chăn bò vỗ tay cái đét vào đùi mình rồi hét lên: “Dạ, cảm ơn Lạt-ma, con xin ghi nhớ mật chú của Ngài dạy, đó là tinh túy giáo pháp. Benza Hung Phat! Đúng rồi! Benza Hung Phat! Con nhớ rồi! Benza Hung Phat!” Con cảm ơn nhiều!” Thế là anh chăn bò khấp khởi trong lòng lên đường về nhà, anh đã tìm được cái mà người khác không thể ngờ. Người nhà thấy anh hoan hỷ lộ ra mặt khác với sự đăm chiêu, khắc khổ ngày thường. Họ hỏi anh tại sao, anh ưỡn ngực trả lời: “Mọi người chắc không tin ta đâu! Ta đã học được tinh túy của giáo pháp chỉ thu gọn trong 3 chữ.” Trầm ngâm một lát, anh nói tiếp: “Ba chữ này bí mật ta phải giữ kín, mỗi ngày đều phải trì niệm.” Những ngày sau, anh trở lại với công việc chăn bò như cũ, chỉ khác trước kia là anh có một chỗ ngồi thiền định trên tấm rạ sau khi xong việc. Anh ngồi kiết già, tập trung cao độ trì niệm câu thần chú. Trong lúc chăn bò, mỗi lần cảm thấy tâm mình buông lung, anh lại nhẩm đọc “Benza Hung Phat”. Không bao giờ anh tìm hiểu 3 chữ ấy mang ý nghĩa gì. Đối với anh “mũi trái rạ” này, chỉ đơn giản là 3 chữ đó bao trùm toàn thể vạn vật. Với tâm chí thành tu tập, dần dần chàng “mũi trái rạ” của chúng ta trở thành một hành giả Mật tông có trình độ thâm sâu, mặc dù anh không tự biết chứng nghiệm của mình đến đâu. Nhiều năm trôi qua, có một hôm có người tìm đến “Mũi trái rạ” để nhờ anh chữa trị bệnh tà mà bà vợ của một phú hộ bị mắc phải. Anh ta từ chối, nhưng họ nằng nặc cố mời “mũi trái rạ” đi xuống làng, vì mọi người tin rằng anh có câu mật chú thiêng liêng. Vạn bất đắc dĩ, anh đành theo họ vì lòng bi mẫn thôi thúc, mặc dù anh không dám tin vào khả năng của mình. Đến nơi, anh vào thăm người bệnh đang vật vã. Anh bắt chước thầy mình, lấy chuỗi hạt trên cổ ra, đập vào đầu người bệnh và gọi lớn: “Mũi trái rạ, đâu có gì. Benza Hung Phat!” Lạ thay, người bệnh bỗng nhiên hết bị tà ám, trở lại bình thường, ngơ ngác nhìn mọi người như vừa mới tỉnh cơn mê. Gia chủ cảm ơn rối rít và cúng dường anh ta nhiều phẩm vật. Từ đó, “Mũi trái rạ” không còn là người chăn bò tầm thường nữa, ông ta được nhiều người trọng nể. Giờ đây, ông chỉ ngồi thiền với câu mật chú của mình, gác hết mọi việc đời qua một bên. Người nhà không dám để ông chăn bò nữa mà dọn cho ông một túp lều có tiện nghi đầy đủ, dâng cơm đến hằng ngày. “Mũi trái rạ” chỉ còn duy nhất một việc làm: chữa trị bệnh tà và một số bệnh khác cho dân làng. Rồi một ngày kia, vị Lạt-ma trước đây đã từng truyền thần chú cho “Mũi trái rạ” cũng bị bệnh. Nghe danh một hành giả có cái mũi trái rạ nào đó, có câu mật chú kỳ diệu trị được nhiều bệnh khác nhau, đồ chúng liền đón rước anh chăn bò năm xưa về chữa trị bệnh sưng cổ họng cho vị Lạt-ma của mình. “Mũi trái rạ” nghe tin thầy cũ bị bệnh liền tức tốc tìm đến, vén lều bước vào. Đến bên giường, ông chuẩn bị rút chuỗi hạt thì vị Lạt-ma hỏi thị giả, tên khùng này là ai mà sắp đập chuỗi hạt vào đầu mình. Lúc đó, người chăn bò năm xưa quỳ xuống nói: “Thầy không nhận ra con sao? Con đến đây để thực hành phép chữa bệnh mà Thầy đã dạy cho con với lòng bi mẫn vô hạn. Nhờ đó mà con đã giúp được nhiều người”. Tìm lại trong ký ức, vị Lạt-ma dần dần nhớ ra là ông từng thốt lời giận dữ, đập chuỗi hạt trúng đầu tên khùng này và đọc một câu thần chú đuổi quỷ: Benza Hung Phat.” Vị đạo sư cười lớn vì không ngờ hành vi năm xưa đó có hiệu quả vô biên. Thị giả Ngài cũng cười theo và cả người chăn bò cũng cười. Họ cùng nhau cười vang và nhờ vậy đờm độc trong cổ vị Lạt-ma bị tống ra ngoài. Ngài tự nhiên lành bệnh. Một câu chuyện có thật khác đã xảy ra vào thời Đức Phật còn tại thế, được ghi chép trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Một ngày nọ, vị đệ tử thị giả của Phật là A-nan đi khất thực trên một con đường làng quê nọ. Lúc ấy, có một thôn nữ tên là Madanga (Ma-đăng-già) thuộc hàng tiện dân, thoạt nhìn thấy phong mạo của thầy Anan liền mê mẫn tâm thần. Từ đó, nàng bỏ ăn, mất ngủ rồi sinh ra bệnh tương tư. Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân, bà mẹ cầu viện pháp sư của Bà-la-môn xin câu Phạm thiên chú có tác dụng mê hoặc đàn ông. Lần sau, khi thầy Anan đi qua đường làng này, thôn nữ Madanga nhẩm đọc Phạm thiên chú khiến Anan quên hết mọi sự, từ từ đi theo nàng vào phòng ngủ. Bấy giờ, Đức Phật đang ngụ tại Kỳ Viên tinh xá, biết được sự cố liền bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trì niệm thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới bảo toàn được giới thể của thầy Anan. Sau đó, nhân nguyên cớ này mà có pháp hội Lăng Nghiêm để Phật tuyên thuyết đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm dùng để đối trị ái dục nam nữ, giúp tăng ni vượt qua cửa ải sắc dục, vững bước tiến tu trên đường giải thoát. Ba trường hợp có thật vừa kể trên chứng minh sống động về công năng của mật chú. Thần chú mặc dù khác nhau nhưng bất cứ ai nỗ lực và chí thành thực hành miên mật cũng đều sẽ được thành tựu không thể nghĩ bàn. CHỈ MỘT THẦN CHÚ MANI LÀ ĐỦ Ngày nay, hầu hết những người theo đạo Phật đều được nghe đến thuật ngữ “thần chú”. Mỗi vị Phật và đại Bồ Tát đều có lưu xuất thần chú riêng, tùy theo nguyện lực của mình. Trong rất nhiều thần chú, người ta thường nghe nhắc đến thần chú “Om mani padme hum” tiếng Phạn (phát âm theo tiếng Việt là: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum). Đây gọi là thần chú “Lục tự đại minh” hay gọi nôm na là thần chú sáu âm, thần chú sáu chữ, và cách gọi chuẩn xác nhất là thần chú Mani... Người Tây Tạng đọc chú này là “Om mani peme hung”. Ở nước ta, trước đây người Phật tử thường đọc theo âm Hán-Việt là “Án ma ni bát di hồng”. Cho dù mỗi dân tộc có cách đọc khác nhau, nhưng ai nấy đều biết đó là thần chú lưu xuất từ đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm. Có lẽ quen thuộc nhất với câu thần chú này là người dân Tây Tạng. Ở đó, từ thuở nhỏ các em bé chập chững tập nói đã bắt đầu đọc thần chú “Om mani padme hum”. Người lớn thì luôn luôn tâm niệm câu thần chú này. Họ còn khắc nó trên vách đá, trên cây, trên tường, làm bánh xe xoay thần chú... Người Tây Tạng tin rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là vị thần bảo hộ của Xứ Tuyết này, nên câu thần chú “Om mani padme hum” từ lâu đã trở thành quen thuộc và thân thiết đối với họ. Có nhiều người dân Tây Tạng chọn câu thần chú này làm pháp môn tu tập cho cả đời mình. Từ khi nhập đạo cho đến lúc lâm chung, họ thường xuyên trì niệm “Om mani padme hum”, hoặc rõ tiếng hoặc niệm thầm, hoặc ngâm nga trầm bổng theo nhịp điệu. Trong sách này, chúng ta chỉ đề cập đến Lục tự đại minh thần chú (thần chú Mani) làm nòng cốt trong sự tu tập. Sở dĩ có sự lựa chọn này là vì đức Phật Thích-ca đã xác quyết rằng Bồ Tát Quán Thế Âm có nhân duyên sâu dày với chúng ta. Nhờ đó mà Ngài dễ hóa độ chúng ta bằng những phương tiện thiện xảo của Ngài, trong đó có thần chú Lục tự đại minh. Nhờ vào thần chú này, hành giả chúng ta sẽ dễ dàng tương thông với thần lực từ cảnh giới thù thắng của Ngài với sức gia trì vô dụng công. Sau đây là bằng chứng xác thực được trích ra từ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phẩm thứ 12: Thấy, nghe đều được lợi ích: “Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: ‘Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta-bà. Nếu hàng trời, rồng, hoặc kẻ nam, người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục đạo, nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho.’” Kinh điển có ghi rằng Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát khởi 12 đại nguyện, trong đó nguyện rằng bất cứ ai trì niệm thần chú của Ngài, thiền định về sắc tướng Ngài, niệm danh hiệu của Ngài, đều sẽ tránh được 15 loại ác tử, còn được 15 loại thiện sanh, và giờ phút lâm chung Ngài sẽ cùng Thánh chúng đến đón rước về cõi Tây phương Cực lạc của Đức A-di-đà Phật. Trong kinh Pháp Hoa cũng có dạy rằng, chỉ cần thốt lên danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm hoặc đảnh lễ Ngài một lần thôi, cũng tương đương với việc lễ lạy và cúng dường Hằng hà sa số chư Phật. Trong Mật kinh “Đại Bi Quán Tự Tại Thập Nhất Diện Thần Chú” có ghi rõ: “Đối với chúng sanh bị giam cầm, thần chú của Ta sẽ là mái ấm, một nơi che chở, một chốn nương thân, một người bạn lữ của họ. Cho dù là loài quỷ dữ ăn thịt người và hung tợn đi nữa, nghe thần chú này cũng phải hồi tâm cảnh tỉnh. Họ sẽ được dẫn dắt về nơi tối thượng và hoàn toàn Giác ngộ. Theo đó thì hộ chú của Ta có một thần lực vô biên. Hành giả nào biết trì tụng thần chú này, dù chỉ một biến, cũng rửa sạch được tội ác ngũ nghịch và được gột rửa khỏi bất cứ tội chướng nào... “Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về công đức của những người chí tâm chí thành tu tập pháp môn này như đã được chỉ dạy. Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về những người chí tâm trì tụng và thể nhập vào Ta trong sự thiền quán của họ. Mọi nguyện ước của họ dĩ nhiên sẽ được thành tựu. Hành giả nào ghi nhớ danh hiệu Ta trong tâm thức có sức rung cảm đến Hằng hà sa số chư Phật. Chúng sanh nào tưởng nhớ đến danh hiệu của Ta đều đạt quả vị bất lai, đều tiêu trừ mọi bệnh tật và được giải thoát khỏi mọi sở tri chướng, và mọi bất thiện nghiệp về thân, khẩu, ý. Những hành giả tu tập pháp môn này một cách tinh chuyên sẽ chóng thành Phật quả.” Nên biết, Bồ Tát Quán Âm lưu xuất những thần chú như thần chú Đại bi, thần chú Bát-nhã, thần chú Chuẩn Đề, thần chú Đại bi Thập nhất diện... Tuy các thần chú khác nhau nhưng tựu trung mọi thần chú của Ngài đều có công năng như nhau, không khác biệt, tùy theo hành giả nào có duyên với câu chú nào thì trì niệm câu chú đó. Trên thực tế, thần chú Lục tự đại minh là được phổ biến nhất. Trên đây là những xác quyết trong kinh điển Mật giáo và Hiển giáo, nhưng mới đây nhất là một bằng chứng sinh động về duyên lành của chúng ta với Bồ Tát Quán Tự Tại qua nữ Delog Dawa Drolma, người đã mất vào năm 1941. Delog Dawa Drolma được công nhận là hóa thân của Đức Tara Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ vì sự trường thọ và giải thoát cho chúng sanh. Dawa Drolma là thân mẫu của đạo sư Chagdud Tulku, một thành tựu giả Kim cương thừa của Tây Tạng, qua Hoa Kỳ vào năm 1979, thiết lập viện Chagdud Gonpa ở nhiều bang của Hoa Kỳ, ở Canada và cả Brazil. Trên hành trình đến các cõi bên kia cái chết, Dawa Drolma đã được diện kiến Đức Quán Âm Tứ Thủ (Avalokiteshvara) cao quý. Ngài miêu tả lại cảnh giới ở trụ xứ Potala của Đức Quán Âm Tứ Thủ như sau: “... Ở đây tôi tìm thấy một tòa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và hình thành tức thời, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Lâu đài này trong suốt nên có thể nhìn xuyên qua từ bên trong cũng như bên ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cột pha lê và tráng lệ nhờ những đà mái làm bằng châu ngọc. Nó được tô điểm bởi những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. “Chung quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa. Phía trên là một mái vòm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có đầu makara, những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những chiếc chuông và chuông chùm nhỏ xíu, phát ra những âm thanh thú vị. “Bốn phía tòa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số những báu vật cúng dường được sắp xếp một cách trang nhã nhất, thậm chí số lượng còn nhiều hơn cả của cải của những đại thiên trong cõi trời Hóa lạc thiên. “Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh mở ra là Đức Quán Thế Âm cao quý, bậc điều phục chúng sinh bi mẫn tối thượng, với vẻ thanh xuân của một thiếu niên 16 tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay thứ nhất chắp lại nơi tim và cầm một viên ngọc. Bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành hoa sen trắng nở ra rực rỡ cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài. Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi tréo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với Ngài Drimed Khakyod Wangpo, vị Lạt-ma gốc của tôi...” Trong bối cảnh trang nghiêm và tráng lệ như thế Dawa Drolma được nghe Đức Quán Thế Âm ban Pháp âm về những đại nguyện bi mẫn của Ngài, trong đó nhấn mạnh: “... Hãy trì niệm liên tục thần chú sáu âm, chỉ một điều đó thôi là đủ.” Không mảy may hư vọng, vì điều này được nói ra bởi một bậc Đại thánh như Bồ Tát Quán Thế Âm. Trải qua nhiều thế kỷ, hàng triệu hành giả Mật giáo đã trì niệm thần chú Lục tự đại minh Om mani padme hum, đều được lợi lạc vô song. Đó là bằng chứng sống động về năng lực siêu nhiên vi diệu của thần chú sáu âm này. Đạo sư Patrul Rinpoche, một đại thành tựu giả, phiêu bồng và lãng tử nhất ở xứ Kham thuộc Tây Tạng, vào thế kỷ thứ 19 (1808 – 1887), khi viết bản văn “Kho tàng Tâm của các Bậc Giác ngộ” gồm 82 bài kệ, trở thành tác phẩm kinh điển của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo, luôn nhấn mạnh mỗi câu cuối của bài kệ là “Hãy trì tụng thần chú sáu âm”. Đặc biệt, trong đoạn kệ 64 Ngài viết: “Một Bổn tôn, Quán Thế Âm, hiện thân của tất cả chư Phật; “Một thần chú, sáu âm, hiện thân của mọi thần chú; “Một Pháp, tâm Bồ-đề, hiện thân của hết thảy thực hành trong giai đoạn phát triển và thành tựu. “Biết cái một, điều đó giải thoát cho tất cả, hãy trì tụng thần chú sáu âm.” Nhiều câu chuyện kể lại rằng Đạo sư Patrul mỗi lần nhận được vật phẩm cúng dường thường gọi những anh thợ đẽo đá và điêu khắc đến nhận hết. Ngài không quên động viên họ cố gắng khắc thần chú Mani trên đá càng nhiều càng tốt. Khi luận giải về giá trị vô song của thần chú sáu âm, Đạo sư Dilgo Khyentse, thành tựu giả Mật tông (1910 – 1991) khẳng định rằng thần chú có nhiều loại, nhưng không thần chú nào có thể được xem là cao hơn thần chú sáu âm Om mani padme hum, vì nó bao gồm không chỉ tất cả công năng mà còn tất cả năng lực và sự gia trì của mọi thần chú khác. Những bậc thánh trí quá khứ chẳng hạn như ngài Karma Chagme vĩ đại (1613- 1678) đã tìm khắp trong kinh điển không có một thần chú nào lợi lạc tinh túy hơn hay dễ dàng thực hành hơn thần chú sáu âm. Bởi thế các ngài dùng thần chú này làm sự thực hành chính. Thậm chí chỉ cần được nghe thần chú sáu âm cũng đủ để giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Chuyện kể rằng, có lần năm trăm con trùng giành giựt nhau để sống trong một hố đất bẩn thỉu. Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót cho sự đau khổ của chúng, liền hóa thành con ong vàng bay trên cái hố, vo ve thần chú sáu âm. Những con trùng nghe được âm thanh thần chú, liền thoát khỏi khổ đau và thác sanh vào cõi trời. Sáu âm trong thần chú Om mani padme hum không phải là những âm thanh bình thường, là chuỗi âm thanh thế gian. Trái lại, những âm thanh này chứa đựng tất cả sự gia trì và lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nói cách khác, thần chú này chính là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm trong hình thức âm thanh. Ngài thấu biết chúng ta bị nghiệp báo ngăn che, không thể gặp gỡ Ngài trong cõi thuần tịnh của Ngài, nên Ngài ban cho thần chú sáu âm để khi trì niệm, tụng đọc, viết ra bằng chữ vàng... đều có tác dụng như chúng ta được hiện diện trước Ngài. Sáu âm này biểu lộ sáu Ba-la-mật của Ngài, và như chính Ngài đã khẳng định, bất cứ ai trì niệm thần chú sáu âm này sẽ tự nhiên dần dần hoàn thiện đủ sáu Ba-la-mật và tịnh hóa mọi lỗi lầm, nghiệp chướng. Chúng ta đã thấy được lòng bi mẫn diệu kỳ của Bồ Tát Quán Thế Âm qua những luận giải và xác quyết của các bậc đạo sư thành tựu như vừa nêu trên. Tuy vậy, không phải ai cũng được duyên lành đến với Ngài qua nhịp cầu thần chú Mani. Trên thế giới có hơn 165 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có Tây Tạng được công nhận là trụ xứ của thần chú Mani. Trong số những quốc gia theo Phật giáo, không phải nước nào cũng có sự hiện diện của Mật chú thừa, bởi hầu hết đều hành trì theo Đại thừa Hiển giáo hoặc Tiểu thừa. Trong những nước theo Phật giáo có Mật giáo lưu hành, cũng không phải đều là “thuần Mật”, như ở Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, Singapore... Và trong những nước có phát triển Mật giáo thuần túy như một số nước châu Âu, châu Mỹ, không phải hành giả nào cũng thực hiện pháp môn trì niệm thần chú Mani. Đó là chưa nói đến những quốc gia Trung Đông, nơi chỉ độc tôn Hồi giáo, hoặc các nước châu Phi, là những nơi mà người ta hầu như không hề biết đến khái niệm “thần chú”. Bởi vậy, khi viết những dòng chữ này, tôi vô cùng hoan hỷ trước duyên lành của những hành giả Mật giáo mà tôi được biết chính xác là đã và đang hành trì thần chú Mani. Ở thành phố Biên Hòa có vợ chồng đạo hữu Mật Tấn, Mật Hạnh, hành trì gần 3 năm qua. Hai vợ chồng tuy mỗi người một công việc mưu sinh riêng, nhưng cả hai đều hành trì đều đặn mỗi ngày ít nhất là một lần. Họ dần dần xác lập được chánh kiến qua việc thờ tự hình ảnh và ngẫu tượng. Ở thành phố Vũng Tàu có đạo hữu Mật Hải (trước kia pháp danh là Minh Liễu), đang là nhân viên ngân hàng, hành trì Mật giáo miên mật hơn 4 năm qua. Mật Hải đọc nhiều giáo điển, am hiểu giáo nghĩa, ứng dụng thành công trong sự tu tập và phát triển lòng sùng mộ Tam bảo, là yếu tố cốt tủy của Mật thừa, là nền móng xây dựng lâu đài Giác Ngộ. Tại thành phố Hồ Chí Minh, quận 7, có đạo hữu Mật Tuệ, sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại, đến với Mật giáo hơn 6 năm qua, trong 2 năm gần đây miên mật hành trì thần chú Mani. Mật Tuệ không những hành trì riêng mình mà còn thực hành giúp đỡ người khác khi có cơ duyên. Tại thành phố Đà Nẵng có đạo hữu Mật Giác, có duyên lành tự mình tham cứu kinh sách Mật giáo rồi hành trì thần chú Mani. Là một giám đốc cơ quan Nhà nước, có học vị thạc sĩ, đã công tác qua 16 nước khác nhau trên thế giới, Mật Giác bén duyên với Mật giáo ở tại quê hương mình. Thông qua tham cứu kinh sách Mật tông, đạo hữu Mật Giác tự mình hành trì cho đến khi được gặp giáo thọ thiện tri thức. Đặc biệt là Huệ Thông, một hành giả 17 tuổi, tuy thất học đường đời nhưng trên đường đạo Huệ Thông thực sự tỏ rõ bản lĩnh của hành giả Mật giáo một cách bất ngờ. Huệ Thông học một biết mười, biết ứng dụng, tận dụng những điều đã học trong mọi hoàn cảnh, tình huống để cho câu thần chú được in sâu vào tâm thức. Còn không ít trường hợp khác đến với Mật giáo bằng nhiệt tâm và sáng suốt. Một đạo hữu ở thành phố Hồ Chí Minh , trước kia là thợ may, đã từng thực hành tâm linh nhiều năm trong đạo Công giáo. Tuy vậy, làm sao để tháo gỡ ràng buộc thế gian? Câu hỏi dằn vặt qua nhiều năm tháng! Cuối cùng đạo hữu ấy tìm được pháp môn thích hợp và đem lại hiệu quả giải thoát toàn diện: trì niệm thần chú Mani! Qua 6 năm hành trì, đạo hữu này trở thành một nữ hành giả có trình độ tâm linh đáng kể, chuyển hóa hoàn toàn mọi nỗi lo sầu, ưu tư trước đây thành niềm vui bất tận trong sự tu tập... Hầu hết những hành giả kể trên đều nhờ hành trì thần chú Mani mà được lợi lạc vô song, trong đời sống tinh thần cũng như vật chất. Nhưng vấn đề cốt lõi ở đây không phải là giàu lên, phát tài ra, có thêm nhiều tiện nghi vật chất... mà là tâm tư được thoải mái với sự an lạc nội tại, giúp họ vượt qua dễ dàng những mối bận tâm thế tục. Ở những người này dần dần hình thành niềm tự hào thiêng liêng là đang hành trì thần chú Mani. Đạo hữu Mật Hạnh cho biết: “Tôi may mắn được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm qua câu thần chú Mani. Đã nhận thức được con đường ngắn nhất và nhanh nhất để đạt đến Giải thoát, tôi bước đi bằng niềm tin kiên định, đã trải nghiệm qua thực tế 2 năm nay.” TƯỚNG TRẠNG CỦA THẦN CHÚ MANI Nhiều hành giả Mật giáo suốt đời trì niệm thần chú sáu âm với niềm tin không lay chuyển và lòng sùng mộ vô biên Đức Quán Âm Tứ Thủ. Một khi niềm tin đã kiên cố thì người ta không cần tìm hiểu thêm những góc cạnh khác của thần chú Mani. Tuy nhiên, để dọn đường cho những hành giả sơ phát tâm tu tập bước đi dễ dàng vào đạo lộ tinh tấn và trí huệ, trong sách này chúng tôi thiết nghĩ cần mô tả sơ qua về cái gọi là tướng trạng của thần chú Mani.Thần chú Mani có 6 âm, mỗi âm có một ý nghĩa và công năng riêng. Khi trì chú thì những âm trong thần chú kết thành tràng hoa, trang hoàng cho sự giải thoát. Giờ đây chúng ta sẽ đi vào chi tiết. Theo quan điểm Mật giáo Tây Tạng thì thần chú Mani được phân nghĩa chiết tự như sau: OM có nghĩa là quy mạng, hướng cả 3 nghiệp thân, khẩu, ý về Phật pháp. MANI có nghĩa là viên ngọc như ý của trí huệ. PADME có nghĩa là bên trong hoa sen, tức là lòng Đại bi nảy nở tựa như hoa sen vươn lên khỏi bùn lầy. HUM có nghĩa là ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống. Tóm lại, nội dung thần chú có thể tạm diễn dịch như sau: “Viên ngọc như ý trong hoa sen trí huệ giúp con thoát khỏi bùn lầy vô minh, làm cao đẹp cuộc sống.” Theo giải thích của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV trong tác phẩm “Kindness Clarity and Insight” thì: OM: tạo bằng 3 chữ A, U, M tượng trưng cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của hành giả, chúng cũng tượng trưng cho thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật. MANI: viên ngọc, tượng trưng cho phương tiện đạt giác ngộ. Đại bi, Đại từ như là những viên ngọc như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sinh muốn đạt giác ngộ cho mình và đem lại giác ngộ cho người khác. PADME: hoa sen, trượng trưng cho Trí huệ, bởi hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Khi thiếu trí huệ mọi rắc rối sẽ xảy ra với chúng ta HUM: dấu hiệu hợp nhất của phương tiện và trí huệ để đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn. Tóm lại, qua thực hành hợp nhất giữa phương tiện và trí huệ, chúng ta có khả năng làm cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của mình thành thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật. Ngoài ra, theo giải thích của Đạo sư Tangtong Gyalbo thì: OM: bao gồm năm trí siêu việt của chư Phật. MANI: viên ngọc như ý (Bảo châu) PADME: hoa sen. Hợp hai nghĩa này với nhau thì MANI PADME có nghĩa là “Ngài là Bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu” và đây cũng chính là tôn hiệu khác của Bồ Tát Quán Thế Âm. HUM: có công năng bảo hộ chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Tóm lại, ý nghĩa của thần chú Mani là: “Hỡi Bậc Đạo sư của năm thân Phật và năm trí Như Lai, Bậc Trì thủ Liên hoa Bảo châu! Xin Ngài hoan hỷ gia hộ chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi vượt qua thống khổ.” Đạo sư Tangtong Gyalbo nhấn mạnh rằng, thần chú Mani có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng khi trì tụng không nhất thiết phải nghĩ tới ý nghĩa. Trong cách tự nhiên, thần diệu của sáu âm tiết thần chú phát ra từ tâm hay khẩu sẽ dần dần truyền đến hành giả trí huệ và đại bi của Đức Quán Thế Âm. Từ đó, hành giả cũng sẽ lan tỏa đến những chúng sanh liên hệ với mình trong hiện kiếp hoặc tiền kiếp. Nói chung, khi trì chú Mani thì chính ngay lúc ấy chúng ta đóng cửa luân hồi trong sáu nẻo, hướng đến cõi tịnh độ giải thoát. Tuy nhiên, tướng trạng của thần chú Mani không tách rời vị Bổn tôn là Bồ Tát Quán Thế Âm. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV từng giải thích trong luận đề về giáo lý Phật giáo được trình bày ở trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 1981 rằng, trì tụng thần chú trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn có công năng mạnh mẽ hơn. Thế nào là quán tưởng Bổn tôn? Đó là linh ảnh của Đức Quán Âm Tứ Thủ mà hành giả quán tưởng trước mặt bằng cách hưng vận tâm thức, đồng thời cùng lúc trì niệm thần chú. Sau đây là vài nét sơ lược về quán tưởng Bổn tôn. Quán tưởng là cách thực hành thiền quán bằng việc niệm câu thần chú kết hợp với sự hình dung một vị Phật hay Đại Bồ Tát do hành giả tự chọn theo hướng dẫn của vị thầy. Đây là một pháp môn rất hữu hiệu của Mật tông. Trước khi đi vào chi tiết, cần phải biết qua một vài khía cạnh ngữ nghĩa. Pháp quán tưởng đang được đề cập ở đây là sự quán chiếu và hình dung một đối tượng kính ngưỡng nhằm mục đích tu tập. Điều này khác hẳn với sự tưởng tượng đơn thuần là thêu dệt ra những hình ảnh mà mình ưa thích hoặc ham muốn, hoặc do sợ sệt... vốn đều không có nền tảng của sự quán chiếu. Sự tưởng tượng như vậy chỉ là viễn vông, không có ý nghĩa xác thực gì. Tuy nhiên, vì là một hoạt động của tâm thức nên sự tưởng tượng đó vẫn có những sức mạnh, tiềm năng mạnh mẽ của nó. Khi cường độ của sự tưởng tượng trở nên sâu sắc, mãnh liệt, nó có thể khiến cho chủ thể của sự tưởng tượng sẽ nhận thức thực tại giống như trong tưởng tượng của mình. Trong nền kịch nghệ nhân loại, người ta biết đến loại hoạt động tâm thức này qua vở kịch nổi tiếng “Người bệnh tưởng” của Molière (1622-1673), một kịch sĩ tài hoa của nước Pháp. Trong vở kịch, nhân vật chính luôn ám ảnh mình bị bệnh nặng, nhưng thực tế anh ta không có bệnh. Hậu quả là anh ta gây ra nhiều trò dở khóc dở cười, và kết cuộc anh chết vì căn bệnh tưởng hoàn toàn không có thật của mình. Trên sân khấu là vậy, nhưng trong thực tế cũng có không ít trường hợp tương tự. Chẳng hạn, khi ở nơi hoang vắng như nghĩa địa, rừng sâu, người lữ khách có thể sợ sệt vì tưởng tượng đến quỷ ma. Đến một mức độ nào đó, anh ta có thể thấy ma quỷ xuất hiện... cho dù thực tế đó chỉ là những cây khô hay các vật thể nào đó... Đó là do sự tưởng tượng trong tâm thức chi phối nhận thức về thực tại khách quan. Phương pháp quán tưởng được nêu ra ở đây để gia tăng oai lực của thần chú là hoàn toàn khác, vì việc hình dung chính mình là vị Phật hay Bồ Tát (trong Mật giáo gọi là Bổn tôn) được dựa trên một nền tảng có thật là sự tương đồng về các phẩm tính tốt đẹp giữa bản thân hành giả với vị Bổn tôn được quán tưởng. Giải thích về điều này, Lạt-ma Thubten Yeshe khẳng định rằng, khi quán tưởng chính mình là Bổn tôn tức là ta đang kích hoạt những phẩm tính sâu xa tốt đẹp nhất có sẵn trong ta, cái gọi là Phật tánh, Chân như. Đương nhiên, khi quán tưởng mình là Bổn tôn, chúng ta không phải tự dối mình, mà là thực sự đang làm hiển lộ những phẩm tính thiêng liêng vốn luôn hiện hữu trong ta. Trước hết, hành giả quán chiếu về những phẩm tính cao quý nơi vị Bổn tôn, như từ bi, trí huệ...; tiếp đến, hành giả quán chiếu về những phẩm tính đó đang tiềm ẩn trong chính mình, đang cần phải tu tập để hiển lộ, và qua đó hành giả thấy được sự tương đồng giữa vị Bổn tôn với chính mình. Hành giả càng “nhập vai” vào sự quán tưởng thì sự hình dung càng rõ nét và năng lực thần chú càng gia tăng, bởi đối tượng trì niệm thần chú lúc ấy không còn là phàm phu như chúng ta nữa, mà thông qua sức quán tưởng đã trở thành tương đồng với vị Phật hoặc Bồ Tát được quán tưởng. Đó là phương pháp quán tưởng vị Phật bên trong. Nếu thấy khó thực hiện, chúng ta có thể chọn phương pháp đơn giản hơn là quán tưởng vị Phật bên ngoài. Theo cách này, chúng ta tôn trí linh ảnh của vị Bổn tôn là Đức Quán Âm Tứ Thủ ngay trước mặt, với kích cỡ tùy chọn khoảng 9 x 12 cm hoặc 20 x 25cm. Ngồi xuống trên tấm đệm, thư giãn tâm trí rồi bắt đầu chiêm ngưỡng linh ảnh Ngài. Có thể nhìn ngắm Ngài chi tiết hoặc toàn diện. Có nghĩa là tập trung vào từng chi tiết như đầu, tay, chân, mão... của Ngài, hoặc nhìn ngắm toàn thể thánh tướng của Ngài. Trong khi tập trung chiêm ngưỡng linh ảnh, chúng ta niệm thần chú Mani. Nói chung, việc trì niệm trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn sẽ phát huy tối đa công năng thần chú. Bởi lẽ lúc bấy giờ chúng ta bước vào kinh nghiệm của một niềm kiêu hãnh thiêng liêng là hóa thân một vị Phật, Bồ Tát. Tâm thức vượt thoát khỏi mọi giới hạn thông thường, được nâng lên một tầm cao giác ngộ. Tướng trạng thần chú do đó sẽ phát ra những ba động quang minh vi tế, khiến hành giả được trầm mình trong sóng lực tâm linh thần diệu. Từ đó có thể tương thông với bản nguyện bi mẫn vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm. Mặt khác, khi trì chú Mani hành giả sẽ được các loài quỷ thần, dù thiện dù ác, đều hết lòng ủng hộ, không để những tai ương xâm hại đến chỗ ở, đừng nói gì vào tận cửa nhà. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã xác quyết như thế trong Phẩm thứ 12. Tướng trạng thần chú Mani còn được biểu hiện ở khẩu lực của hành giả. Sau những năm tháng trì niệm, khẩu ngữ của hành giả sẽ tuôn tràn những lời chánh ngữ, có ý nghĩa nội dung cùng với sức thuyết phục cao. Phong mạo của hành giả dần dần chuyển qua đạo phong cốt cách một cách tự nhiên không cần lưu tâm cố gắng. Đặc biệt là lòng từ bi nảy nở trong hành giả mỗi ngày một lớn theo công phu trì niệm thần chú Mani. Những căn bệnh mãn tính tưởng chừng bất trị sẽ dần dần giảm xuống cho đến khi hoàn toàn khỏi hẳn. Trong trường hợp bệnh nan y không thể chữa lành, hành giả trì niệm thần chú Mani tuy vẫn có sự đau khổ về thân xác nhưng trong tinh thần không còn sự lo sợ, phiền não như trước kia... Những biểu hiện đó cho thấy tướng trạng của thần chú Mani đã lộ xuất, chứng minh sống động công phu tu tập của hành giả. Sẽ là thiếu sót nếu bàn về pháp thiền quán Bổn tôn mà không đặc tả thánh tướng của Đức Quán Âm Tứ Thủ. Trong bài nguyện nổi tiếng “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sinh”, Đạo sư Tangtong Gyalbo mô tả như sau: “Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng. Cho đến khi con thành Chánh giác. Nguyện các công đức con tạo được. Như bố thí, trì giới, vân vân... Khiến con thành Phật để độ sinh. Chúng con chúng sanh đầy hư không. Đảnh đầu đều có hoa sen trắng. Và vầng trăng hiện Mật từ Hrih. Đấng chí tôn thánh giả Quán Thế Âm. Khiết bạch quang minh rực năm màu. Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng. Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu. Hai tay trong bốn, trên chắp lại. Hai tay phía dưới của Ngài cầm. Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê. Lụa châu trang sức nghiêm thánh thể. Choàng ngực da nai đội bảo quan. Trên mão có Phật A-mi-đà. Đang ngồi trong thế già phu tọa. Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi. Ngài là chân tính là diệu thể. Tất cả nương về để quy y. Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm. Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng. Thân báo thanh tịnh suốt một màu. Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật. Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh...” Có lẽ thánh tướng của Ngài được miêu tả mới nhất là trong chuyện kể của Delog Dawa Drolma khi bà được may mắn du hành đến cảnh giới của Ngài. Đối chiếu với những gì miêu tả trong kinh điển đều thấy chính xác và giống nhau. MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT CÂU THẦN CHÚ Đời người ngắn ngủi, bất quá chỉ được trăm năm. Trong đó, thời gian dành cho ăn ngủ, công việc, giải trí... chiếm hết khoảng 80%. Thời gian thực sự đến với thực hành giáo pháp, dù bất kỳ tôn giáo nào, cũng thật hiếm có. Đó là chưa kể đến bản tính giải đãi, tập quán ương ngạnh và niệm tưởng bất chánh khiến chúng sanh cứ mãi lang thang trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ. Đức Quán Thế Âm dõi mắt xót thương muôn loài nên Ngài bi mẫn chỉ ra một mô thức cao siêu vi diệu, giúp chúng sanh vượt cõi luân hồi vào tịnh độ. Ngài dạy: “Thiền quán về thánh tướng của Ta, trì tụng tâm chú của Ta, và cử hành nghi lễ chay tịnh vì Ta. Những ai nỗ lực thực hành như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián, Ta vẫn sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc Tây Phương.” Đây là thông điệp mới nhất mà Ngài đã phán truyền lại cho Delog Dawa Drolma vào đầu thế kỷ 20. Đạo sư Dilgo Khyentse khi bình giảng tác phẩm “Kho tàng tâm của các bậc Giác Ngộ” của Đại thành tựu giả Patrul Rinpoche cũng đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho công việc ý nghĩa nhất của đời người: “Trong thời đại suy đồi này, vì trí năng hạn hẹp và thiếu quyết tâm, người ta cần thực hành Pháp trong một hình thức được tinh chế. Sự thực hành phối hợp lòng sùng mộ vị thầy như Bồ Tát Quán Thế Âm, kết hợp với trì tụng thần chú Mani (Om mani padme hum) đáp ứng tốt cho nhu cầu ấy. Thần chú Mani rất dễ nhớ để trì tụng nhưng lại tập trung tinh hoa của kinh điển Phật giáo. Nó là tinh túy tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm và sức gia trì là vô cùng, vô tận. Nếu bạn lấy nó làm sự thực hành chính cho mình thì người, trời và ngay cả nhưng ma quỷ xấu ác cũng sẽ tự nguyện giúp đỡ bạn, và bạn sẽ có một đời sống lâu dài, thoát khỏi bệnh tật và chướng ngại. Trong đời sau, bạn sẽ được sanh vào cõi Cực Lạc của trụ xứ Potala, hay ít nhất cũng vào một quốc độ có Phật pháp thịnh hành. Đó là bởi thần chú Quán Thế Âm chứa đựng sự gia trì và lòng bi mẫn vô biên của chư Phật...” Qua đây, chúng ta nhận thức rằng cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi ta biết thực hành Chánh pháp. Kinh điển Phật giáo khẳng định sự cao quý của loài người chỉ thể hiện thực sự khi họ biết tu tập Phật pháp để vượt sinh tử luân hồi. Vì các loài thuộc cảnh giới cao hơn như loài trời, loài thần cũng đều không có khả năng thích hợp cho việc tu tập Phật pháp như loài người. Và trong việc tu tập Phật pháp vào thời đại suy đồi này thì chỉ có thực hành trì tụng thần chú Mani là thích hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, một đời người sẽ có được giá trị đích thực nhờ sự nối kết với một câu thần chú tinh túy sáu âm của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chuyện kể rằng, vào thế kỷ 10 có một công chúa của vương quốc Ấn Độ, xuất gia khi còn trẻ, có pháp danh là Gelongma Palmo (hay tỳ-kheo ni Lakshmi). Bà thọ nhận nhiều giáo lý từ những Đạo sư vĩ đại và thực hành tinh tấn miên mật. Do nghiệp quá khứ chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi, bị mọi người xa lánh, ném vào rừng. Bà có thị kiến về Vua Indrabodhi, Ngài khuyên bà nên thực hành pháp Avalokiteshvara (tức là pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm). Bà đã trì chú của Đức Quán Thế Âm nhiều năm liền và liên tục thực hành nhập thất Nyungne, là một thực hành chay tịnh đặc biệt để tịnh hóa nghiệp chướng và tăng thêm sinh khí cho hành giả. Nhờ lòng sùng mộ và tinh tấn không ngừng, bà dần dần khỏi hẳn bệnh phong cùi. Bà cũng đồng thời phát triển tâm đại bi vô hạn đối với mọi chúng sanh. Bà trở thành ni sư giác ngộ, dẫn dắt nhiều đệ tử trong việc thực hành pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Một hành giả vĩ đại khác suốt đời hành trì pháp Quán Thế Âm là Tangtong Gyalbo (1385-1509). Ngài sinh ra ở miền Tsang thượng của Tây Tạng. Một hôm, khi đang thực hành trì niệm thần chú Mani, Đức Quán Thế Âm siêu phàm hiện ra trước mắt Ngài và chỉ dạy, ban phép quán đảnh. Ngài đạt giác ngộ nhờ tinh tấn tu hành. Dựa trên sự thành tựu của mình, Ngài biên soạn Nghi quỹ thực hành pháp “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” để hướng dẫn chúng sanh thực hành pháp tu Quán Thế Âm. Sau khi giác ngộ, Ngài cũng khám phá nhiều bí lục giáo pháp và giới thiệu cho nhiều người tu học. Ngài đã tôn tạo vô số hình tượng, tháp thờ... tượng trưng cho thân, ngữ, tâm của Đức Phật. Ngài đã xây dựng hơn 100 cầu, phà và cầu treo bằng sắt để làm lợi ích cho chúng sanh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng và để hỗ trợ cho phí tổn công việc xây dựng, Ngài đã miêu tả cuộc đời những Bồ Tát trong quá khứ, đặc biệt là Bồ Tát Quán Thế Âm bằng hình thức biểu diễn nhạc kịch dân gian. Hoạt động hoằng dương giáo pháp, hóa độ quần sanh của Ngài thật là không thể nghĩ bàn... Để có thêm luận cứ về xác quyết trên, chúng ta có thể tham cứu thêm những lời tâm huyết của Lạt-ma Zopa Rinpoche, người hiện nay đang lãnh đạo Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Phật giáo Đại thừa trên thế giới. Lời dạy của Ngài thông qua bài giảng mang tựa đề “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú Om mani padme hum”. Đương nhiên, dù chỉ một lần đọc tụng thần chú Mani cũng được lợi lạc vô cùng, nhưng để được kết quả khả quan trong đời hiện tại và đời sau nữa, chúng ta cần tinh tấn trì niệm suốt một đời người. Sau đây là bản văn chi tiết: “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thật là vô biên, như bầu trời bao la vô tận. “Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết chỉ là câu thần chú Om mani padme hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch, thoát khỏi bám luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om mani padme hum, thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. “Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó hoàn toàn không đơn giản. Ở đây tôi sẽ đề cập cốt lõi của những lợi lạc vô biên đó. “Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn này chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hóa sự phá vỡ bốn giới nguyện gốc của Biệt giới giải thoát, và năm tội nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián. “Trong các tantra (mật điển) cũng đề cập rằng, nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc lâm chung sẽ được thấy Đức Phật và hào quang xuất hiện trên bầu trời; có chư thiên hiện ra cúng dường; không bao giờ bị tái sanh vào các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bạn sẽ tái sanh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay vào một cõi tái sinh tốt đẹp. “Khi một người trì tụng mỗi ngày 10 chuỗi thần chú này bơi lội trong sông, biển... thì nước chạm vào thân thể người ấy cũng có được sức gia trì. “Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên của người đó không còn bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú, thân thể với lực gia trì của những người trì tụng thần chú và quán tưởng chính họ trong thánh tướng của đức Quán Thế Âm trở nên mạnh mẽ với lực gia trì động đến tâm thức cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy cũng sẽ không bị tái sanh vào các cõi thấp. “Vì thế, khi một người mỗi ngày từng trì tụng 10 chuỗi thần chú Om mani padme hum đi xuống sông hay biển, nước chạm vào thân người ấy cũng sẽ có được lực gia trì, rồi chất nước có lực gia trì đó sẽ có thể tịnh hóa hàng tỉ tỉ chúng sinh sống trong nước. Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng được ở các cõi thấp. Lợi lạc như vậy thật đến mức khó tin! “Khi một người trì chú như thế đi trên đường, gió chạm vào người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng có thể giúp cho những nghiệp bất thiện của chúng được tịnh hóa, và nhờ đó chúng sẽ có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi người ấy xúc chạm vào thân người khác, nghiệp bất thiện của người kia cũng sẽ được tịnh hóa. “Một người như thế thì việc ngắm nhìn cũng thật ý nghĩa! Việc nhìn và xúc chạm trở thành phương tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hóa được nghiệp bất thiện của họ. Bất kỳ sinh vật nào uống nước trong dòng chảy từng có người trì chú như thế bơi lội cũng đều được tịnh hóa. “Chúng ta may mắn lạ lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền quán về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là phương pháp dễ dàng tịnh hóa bất kỳ nghiệp bất thiện nào mà ta từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa. “Bởi chúng ta từng gặp được Phật pháp và đặc biệt là phương pháp [trì chú] này, thật dễ dàng để tịnh hóa nghiệp bất thiện và tích tập công đức vô biên, và do đó thành tựu Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn không ngờ. “Như thế, chẳng còn gì ngu muội hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội làm người này. Nói chung, chúng ta thường xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế, mọi hành vi về thân, ngữ, tâm đều bị hoen ố bởi tham, sân, si, tạo nên nghiệp bất thiện, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì ngu muội hơn việc sử dụng thân người hoàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ...” Trong khi những dòng chữ này đang được viết ra thì ở Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ và Ladakh đều đang thực hiện khóa nhập thất Quán Âm Tứ Thủ và trì niệm 100 triệu biến thần chú Om mani padme hum. Khóa nhập thất này cũng được tổ chức ở Viện Chenrezig dưới sự hướng dẫn của Tổ chức FPMT (Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa), mỗi năm chỉ diễn ra một lần! Ở nước ta chưa có những cuộc nhập thất như vậy, mặc dù không thiếu phương tiện và điều kiện tổ chức. Một số tăng ni cho rằng trì niệm thần chú chỉ để phát triển thần thông, không liên quan gì đến tinh thần từ bi của Đại thừa. Song, vấn đề không phải vậy. Bởi thần chú là bản tâm của chư Phật, cho nên càng trì niệm bao nhiêu, hành giả càng đến gần với bản tâm của chư Phật bấy nhiêu, cho đến khi trở thành hợp nhất. Nhận định về luận điểm này, Lạt-ma Thubten Zopa nói: “Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách thiền quán tâm Bồ-đề, bạn vẫn cần thọ nhận những lực gia trì đặc biệt của vị Bổn tôn, Đức Phật Bi Mẫn. Bạn nhận những lực gia trì này bằng cách thực hiện thiền định và trì niệm thần chú Om mani padme hum. Như thế, việc thực hành tâm linh này cũng là một phương pháp thể nhập tâm Bồ-đề, chuyển hóa tâm bạn thành tâm Bồ-đề và làm cho việc thiền quán tâm Bồ-đề của bạn có hiệu quả.” Lạt-ma Zopa còn cho biết, ở trụ xứ của Ngài tại Solu Khumbu trong rặng Hy-mã-lạp sơn thuộc địa giới Nepal có những người sống cuộc đời bằng việc làm duy nhất: Trì tụng Om mani padme hum, nhưng không biết một chút gì về giáo nghĩa. Mặc dù họ không thể đọc được chữ viết, nhưng họ có lòng sùng mộ vĩ đại đối với Bồ Tát Quán Thế Âm. Và như thế họ trải nghiệm một cuộc sống ý nghĩa cao cả mà chính bản thân họ cũng không ngờ được. Dĩ nhiên, mỗi hành giả Mật chú thừa cần phải nhận lễ Quán Đảnh để cho sự hành trì thần chú Mani được kết quả cao, đặc biệt là nhận được nhiều sự gia trì từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini. Ý nghĩa của việc Quán Đảnh như thế nào, người viết đã có lần đề cập đếntrong một tác phẩm trước đây. Trong trường hợp chưa được nhận phép Quán Đảnh, hành giả vẫn có thể hành trì cho đến khi có duyên lành gặp được thiện tri thức, đạo sư, chứ không vì vậy mà cô phụ lòng bi mẫn của Đức Quán Thế Âm. Đó là trường hợp của đạo hữu Mật Giác tại thành phố Đà Nẵng. VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ Nhờ nguyện lực vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm, thần chú Mani của Ngài mang đến lợi ích cho vô lượng chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Từ việc được nghe, đọc tụng cho đến trì niệm và quán tưởng, liên hệ đến sáu âm Om mani padme hum đều được lợi lạc không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, do căn cơ của mỗi người đều khác biệt, cho nên cần biết phương pháp hành trì thần chú Lục tự đại minh này để phát huy hết nội lực của mình. Cũng như những hoạt động tâm linh khác, phương pháp hành trì thần chú Mani nên đi từ mức độ dễ đến khó, từ giản đơn cho đến tinh tế. Song, ở bất kỳ trình độ nào mà hành giả có sự chuyên chú, nhất tâm đều sẽ triển khai được thần lực của thần chú. Tất cả hoạt động của thân, ngữ, tâm để phát ra câu thần chú Mani một cách đều đặn, thường xuyên gọi là “trì chú”. Giờ đây chúng ta đi vào từng cấp độ một: thần chú thông dụng, đại thần chú, đại minh thần chú, vô thượng thần chú, vô đẳng đẳng thần chú. 1. Thần chú thông dụng: hành giả đọc, tụng, trì niệm sáu âm Om mani padme hum bằng khẩu và ý. Khẩu là đọc hoặc tụng, ý là niệm thầm trong tâm trí. 2. Đại thần chú: Cách trì chú cũng như trên nhưng bổ sung thêm thủ ấn. Trong kinh “Mật giáo Đà la ni thủ ấn đồ tập”, thủ ấn đi kèm theo thần chú Mani là “Quán Âm Thanh Cảnh Ấn”. 3. Đại minh thần chú: Cách trì chú cũng như cách thứ hai nhưng khi trì chú, hành giả dùng cách niệm kim cương vào ra theo hơi thở. Thở vào niệm Om mani, thở ra niệm Padme hum. 4. Thần chú vô thượng: Cách trì chú cũng như cách thứ ba nhưng hành giả cần đi thêm một bước nữa là quán tưởng hình ảnh Bổn tôn (Quán Âm Tứ Thủ) ở trên đầu hoặc trước mặt. 5. Thần chú vô đẳng đẳng: Cách trì chú giống cách cách thứ ba nhưng ở đây hành giả quán tưởng chính mình là vị Bổn tôn. Như đã nêu trên, trong 4 oai nghi của con người thì khi ngồi theo thế kiết già hành giả sẽ trì chú có hiệu quả nhất. Trong trường hợp đi đường, lái xe, ngồi xe buýt, máy bay... hoặc ngồi chờ ai đó nơi công sở... hành giả nên sử dụng cách trì chú thứ nhất là tiện lợi nhất. Cách trì chú thứ tư và thứ năm tức là “thần chú vô thượng”, “thần chú vô đẳng đẳng” khó thực hành hơn. Chỉ khi nào thuần thục quán tưởng trong thiền phòng hoặc thiền đường rồi mới có thể áp dụng ở những nơi khác. Chúng ta đã biết công năng không thể nghĩ bàn của thần chú Mani. Tuy nhiên, tùy theo mỗi cấp độ mà hiệu quả có phần khác nhau. Thuần thục ở hai cấp độ của “thần chú thông dụng” và “đại thần chú”, hành giả phát huy được thần thông thông thường (kính ái, tăng ích, tiêu tai, hàng phục, câu triệu). Ở cấp độ “thần chú đại minh” khi đã thuần thục, tâm thức của hành giả hòa nhập với cõi trời Sắc giới (đạt định từ cấp một đến cấp bốn). Lúc này, hành giả đạt được thắng trí, có thể khai triển thần thông dễ dàng và lợi mãnh hơn hai cấp độ đầu. Ở cấp độ của “thần chú vô thượng” (có nghĩa là không gì cao hơn) hành giả bắt đầu bước vào mép cửa của thần thông tối thượng là trí huệ Bát-nhã. Sau khi thuần thục ở cấp độ “thần chú vô thượng” hành giả đi vào căn nhà trí huệ Bát-nhã như nó là của mình, cho nên gọi là “thần chú vô đẳng đẳng” (không gì có thể so sánh được). Trong giai đoạn trì niệm này, hành giả dần dần thẩm nhập trí huệ Bát-nhã mà cụ thể là các loại trí huệ như: đại huệ, minh huệ, diệu huệ, pháp huệ, trí huệ biện tài vô ngại, trí huệ tổng hợp. (Geshe Achaya Thubten Loden viết trong tác phẩm “Biển Phương tiện và Trí huệ bất khả phân). Ở đây cần giải thích trí thứ sáu là “trí huệ biện tài vô ngại”, còn gọi là “Tứ vô ngại biện”, tức là bốn loại tài trí biện luận không bị ngăn ngại như sau: 1. Pháp vô ngại biện: rõ biết tất cả các pháp không ngăn ngại, từ các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát hay chư Phật. 2. Nghĩa vô ngại biện: rõ biết nghĩa lý không ngăn ngại, tuy có phân ra ba thừa khác nhau biết rõ là rốt ráo chỉ quy về một thừa chân thật, không thấy là có tướng khác nhau. 3. Từ vô ngại biện: khả năng sử dụng ngôn từ không ngăn ngại, đối với một pháp vẫn có thể tùy nghi sử dụng vô số tên gọi. 4. Nhạo thuyết vô ngại biện: khả năng thuyết pháp không ngăn ngại, có thể vì chúng sanh hoan hỷ diễn thuyết tất cả các pháp, khiến người nghe vui thích. Bảy trí huệ trên thành tựu, hành giả sẽ được Ngũ trí Như Lai: đó là Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Thành sở tác trí và Pháp giới trí. Lúc đó gọi là trí huệ của vị Phật chánh đẳng chánh giác. Trên con đường Bồ Tát Đại thừa, hành giả phải đi qua tuần tự năm con đường đạo gọi là “ngũ đạo lộ”, tức là trải qua 51 nấc thang tu tiến, nhưng trong Mật thừa thì pháp môn trì chú cũng giúp cho hành giả tự nhiên được đi qua các đạo lộ đó. Đây là luận giải của Đạo sư Tultsim Gyaltsen, đại hành giả Mật tông của Tây Tạng, xuất thân từ tu viện Ganden, sáng lập ra Đại học Phật giáo Mật tông Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, bang California, Hoa Kỳ. Ngài cho rằng “Đại thần chú” liên hệ đến Tư lương đạo (giai đoạn tích lũy), “Đại minh chú” liên hệ đến Gia hành đạo (giai đoạn chuẩn bị), “Vô thượng thần chú” liên hệ đến Kiến đạo (giai đoạn thấu hiểu) và “Vô đẳng đẳng thần chú” liên hệ đến Thiền định đạo (giai đoạn tu tập), được chỉ ra trong năm đạo lộ phải đi qua của Bồ Tát Đại thừa. Từ đây có thể cho chúng ta thấy giá trị vô song của thần chú Mani. Qua luận giải, chúng ta đã nhận thức sâu sắc về tướng trạng của thần chú, công năng cao siêu vi diệu của thần chú. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải sử dụng “Ba phương tiện tối thượng”: – Thứ nhất là chuẩn bị tâm qua việc phát tâm Bồ-đề. – Thứ nhì là pháp thực hành chính yếu, tức là trì niệm thần chú Lục tự đại minh không xao lãng. – Thứ ba là kết thúc mỗi thời khóa hành trì chúng ta đều hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong tác phẩm “Diệu pháp đạt Giác Ngộ” Đạo sư Dilgo Khyentse nhấn mạnh: “Ba phương tiện này phải được ứng dụng cho bất cứ pháp thực hành nào, dù chỉ là trong giai đoạn phát sinh hay giai đoạn thành tựu của Mật giáo, hoặc đối với pháp hành Đại thủ ấn, Đại toàn thiện, Trung đạo. Thiếu một trong Ba phương tiện này thì không thể đạt được kết quả tốt.” Cụ thể chi tiết của nghi quỹ hành trì thần chú Mani được trình bày rõ ràng như sau: Phương tiện thứ nhất: Trong đạo phục nghiêm trang, hành giả ngồi kiết già hoặc bán già trên tọa cụ xướng ngôn: “Đệ tử là... xin quy y Đạo sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng từ đây cho đến khi giác ngộ tối thượng! (3 lần) Để giải thoát chúng sanh khỏi lục đạo luân hồi, đệ tử hôm nay thực hành trì chú Mani, xin Đức Bổn tôn chứng minh và gia hộ!” Phương tiện thứ nhì: Hành giả đi vào phần chính cũng tác bạch Bổn tôn: “Giờ đây đệ tử bước vào phần chính của trì chú, xin Đức Bổn tôn gia trì thần lực.” Hành giả bắt đầu trì chú Tùy theo trình độ, mỗi hành giả trì niệm các cấp độ thần chú khác nhau. Riêng “thần chú vô thượng” và “thần chú vô đẳng đẳng” có phối hợp quán tưởng Bổn tôn bên ngoài và bên trong nên hành giả cũng cần tiến hành tuần tự theo diễn trình sau đây: – Đối với Bổn tôn bên ngoài, hành giả quán tưởng trên đầu một hoa sen lớn màu trắng hoặc màu khác tùy theo sở thích, trên đó là một chủng tự Hrih tỏa hào quang. Lúc này, hành giả bắt ấn triệu thỉnh và niệm tinh túy thần chú là 3 âm : OM AH HUM. Liền sau đó linh ảnh của Quán Âm Tứ Thủ hiện lên từ chỗ chủng tự. Bấy giờ trong tâm thức hành giả, thánh tướng của Ngài dần dần xuất hiện đầy đủ những tướng hảo chánh và phụ. – Nếu không quán tưởng được như trên hành giả chỉ cần đọc bài nguyện “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” của Đạo sư Tangtong Gyalbo là Bổn tôn sẽ xuất hiện trên đỉnh đầu. Trong bối cảnh có Bổn tôn lấp lánh hào quang, đôi mắt bi mẫn nhìn chúng sanh, hành giả trì niệm thần chú Om mani padme hum. – Để quán tưởng Bổn tôn bên trong, hành giả dùng thủ ấn thỉnh nhập niệm Om ah hum, hình dung Bổn tôn trên đầu hòa nhập với ta thành một. Bấy giờ hành giả mang thánh tướng của Bổn tôn với đầy đủ những tướng chánh và phụ của Bồ Tát đẳng giác. Lúc này, hành giả trì niệm thần chú Mani cũng không gì khác biệt với Đức Quán Âm Tứ Thủ tuyên thuyết thần chú. Muôn ngàn tia sáng đủ màu phóng xuất ra từ hành giả trong thân tướng Bồ Tát làm lợi lạc chúng sanh muôn loài đang khổ đau và mong cầu giải thoát. Ánh sáng màu trắng làm lợi lạc cho những người thân (cha mẹ, ông bà, anh em... đã chết) ở vị trí bên tay trái hành giả; ánh sáng vàng làm lợi lạc cho những người thân đang còn sống, ở bên tay phải hành giả; ánh sáng màu đỏ làm lợi lạc cho những kẻ thù, kẻ đối nghịch, ở phía trước mặt hành giả; ánh sáng màu xanh làm lợi lạc cho bằng hữu của hành giả, ở phía sau lưng; ánh sáng màu tím nhạt làm lợi lạc cho những oan hồn uổng tử, ở về phía sau chót. Công phu càng sâu dày, thần chú của hành giả càng phát ra công năng mãnh liệt, cho đến khi hành giả và vị Bổn tôn trở thành tương thông hợp nhất. Đây là công phu của “thần chú vô đẳng đẳng”. Sau thời thiền, hành giả quán tưởng những ánh sáng năm màu ấy biến thành hàng ngàn, hàng vạn quả cầu nhập vào tim hành giả. Từ đây, hành giả trong thánh tướng Bổn tôn thể nhập vào tim Phật A-di-đà ở trên cao, đang chứng minh sự gia trì của hành giả trong thánh tướng Bổn tôn đến tất cả chúng sanh. Sau đó, toàn thân Phật A-di-đà biến thành ánh sáng hoàng kim, phóng xuất về trụ xứ Tây phương Cực lạc. Hành giả an trú trong trạng thái đó cho đến khi không còn tập trung được nữa. 3. Phương tiện thứ ba Hành giả bắt ấn xả thiền rồi đọc kệ hồi hướng: “Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sanh. Đều trọn thành Phật đạo.” Đạo sư Dilgo Khyentse dạy rằng: “Khi công đức được hồi hướng, quả tốt của công đức sẽ gia tăng liên tục thay vì tàn lụi dần, như chất men theo thời gian sẽ nảy nở thêm. Khi hành giả hồi hướng, nên ý thức rõ ràng về việc hồi hướng của mình, giống như đang dâng lễ vật cho từng chúng sanh một. Không nên nghĩ rằng công đức được chia ra cho mọi chúng sinh, mà là mọi chúng sanh đều sẽ nhận được trọn vẹn công đức đó...” Tóm lại, mọi hoạt động tâm linh dựa trên ba phương tiện tối thượng này, thì dù một việc nhỏ nhặt cũng sẽ mang lại cho hành giả những lợi ích vô cùng. Đây là nền móng giúp cho hành giả xây dựng lâu đài Giác ngộ ở Cực lạc Tây phương. TỰ QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TÂM LINH Người Phật tử tại gia nếu giữ được trọn vẹn Năm giới (Ngũ giới) thì sau khi chết chắc chắn sẽ được tái sanh vào cõi người. Năm giới đó là: không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm và không uống rượu. Tương tự, để được tái sanh lên các cõi Trời cần phải tu tập đủ Mười điều lành (Thập thiện đạo), bao gồm: 1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh. 2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người. 3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng. 4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật. 5. Không nói trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi. 6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau. 7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận. 8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn. 9. Không sân nhuế, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục. 10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến. Việc thực hiện được như trên là một quá trình tự thân phấn đấu lâu dài, mới có thể khiến cho sự trì giới hay tu tập thiện hạnh trở thành hoạt động tự nhiên của thân, ngữ, tâm. Trên thực tế, nếu không có một sự quyết tâm kiên trì thì quả thực rất khó để làm được trọn vẹn. Đó là vì sự tu tập đơn thuần như trên được gọi là con đường lập hạnh bằng tự lực bản thân. Con đường này tuy hoàn toàn đúng đắn nhưng trong thực tế là quá khó để thực hiện trong kiếp người ngắn ngủi! Bởi lẽ, sự huân tập các tập khí xấu ác của mỗi chúng ta đều đã bắt đầu từ vô thủy đến nay, mà sự tu tập thiện hạnh thì hầu như quá ít ỏi. (Đây cũng chính là một trong các lý do khiến chúng ta hôm nay đang hiện hữu trong cõi Ta-bà này.) Mặt khác, việc hình thành được một tính tốt cần phải hành trì nhiều năm, nhưng sự nhiễm ô một thói xấu chỉ cần trong vài ngày! Nếu làm một bài toán bù trừ qua lại sẽ thấy rõ: việc xấu gia tăng theo cấp số nhân, trong khi việc thiện gia tăng theo cấp số cộng! Tiện thể, người viết cũng xin nêu ra sự gia tăng của một nghiệp xấu đã tạo như thế nào qua sự xác quyết của giáo điển: “Nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà không tu hành tịnh hóa ngay trong ngày, sức nặng của nghiệp bất thiện đó sẽ tăng lên gấp đôi ở ngày kế tiếp; ngày thứ ba lại tăng gấp đôi, ngày thứ 15 sẽ nặng như giết một con người. Đạo sư Pabongka Decheng Nyingpo còn xác quyết rằng vào ngày thứ 18 thì nghiệp xấu này sẽ tăng lên gấp 131.072 lần. Và như thế, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm trôi qua, một nghiệp bất thiện nhỏ sẽ nhân lên nhiều lần, sớm muộn gì cũng sẽ trở thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó trở nên quá đỗi nặng nề...” Với thực tế như vậy, làm sao chúng ta có thể trở nên một người hiền thiện hoàn hảo? Tựa như kẻ nghèo khó, dẫu nỗ lực đến đâu cũng chỉ làm ra được 100 đồng mà việc chi tiêu nuôi sống hằng ngày đã mất cả 1.000 đồng, biết bao giờ có tiền tích trữ phòng khi ốm đau, nói chi đến chuyện làm giàu? Sự bế tắc của vấn đề ở đây chỉ có thể được giải quyết nhờ biết sử dụng kèm theo một sức mạnh giúp đỡ từ bên ngoài. Ví như người nghèo khó kia, bỗng nhiên nhận lại được quan hệ với cha mẹ giàu có từ lâu thất lạc, liền được cha mẹ giúp cho những khoản tiền lớn, cộng thêm với sự cần kiệm và chịu khó của mình nên chẳng mấy chốc sẽ trở nên giàu có, thoát khỏi nỗi khổ đói nghèo. Đức Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi vô lượng chính là cha mẹ giàu có đã từ lâu thất lạc của tất cả chúng ta. Khi chúng ta đặt niềm tin vững chắc vào Ngài, đó là ta thiết lập lại mối quan hệ mà chính ta đã từ lâu đánh mất do sự si mê. Ngay khi đó, ta sẽ nhận được sự giúp đỡ của Ngài với những “khoản tiền lớn” là lực gia trì thông qua việc trì niệm thần chú Mani. Với sự giúp đỡ to lớn này, kèm theo với nỗ lực tu tập của tự thân chúng ta, chắc chắn ta sẽ trở nên giàu có cả về mặt tâm linh cũng như thể chất: khi còn sống sẽ được khang an, thịnh vượng, hạnh phúc và khi qua đời chắc chắn sẽ được vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà. Vì sao được như vậy? Mật điển Ghuyasamaja khẳng định: “Ai tìm giải thoát trong chốn luân hồi, thì ngay tại đó họ cũng được tăng trưởng thịnh vượng trong cuộc sống đời thường.” Phương pháp hành trì thật đơn giản như đã nêu trên. Phần tự lực của hành giả tất nhiên là thiết yếu, nhưng thành tựu chính là nhờ vào phần tha lực gia trì vô song của vị Bổn tôn Quán Âm Tứ Thủ. Nhờ đó, hành giả khi đã nỗ lực hành trì thì chắc chắn sẽ dễ dàng thành tựu, và chính trong quá trình hành trì miên mật đó mà việc trì giới và tu tập thiện hạnh cũng tự nhiên được thành tựu. Điều này sở dĩ có được là vì hành giả đã thông qua sự hành trì mà chuyển hóa được tâm thức, và khi tâm thức đã chuyển hóa thì mọi hành vi cũng như nghiệp lực đều dần dần được chuyển hóa theo hướng tốt đẹp hơn. Đây là một đặc điểm ưu việt của Mật thừa, mà ở đây cụ thể là chúng ta đang áp dụng phương pháp trì niệm thần chú Mani do Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ dạy. Sau đây là một câu chuyện có thật ở Tây Tạng, chứng minh rằng khi thực hành Mật thừa cũng là cùng lúc thực hành cả Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Lạt-ma Rinchen Zangpo là đạo sư danh tiếng nhất Tây Tạng, được Nhà vua cử làm phiên dịch cho Đạo sư Atisha từ Ấn Độ sang giáo hóa. Ngài Rinchen Zangpo lớn hơn Ngài Atisha đến 24 tuổi, đã làu thông kinh điển Phật giáo. Bởi vậy, thật tự hào khi Ngài Zangpo kể ra hàng loạt kinh luận mình đã đọc và thực hành. Ngài Atisha khâm phục thốt lên: “Sau khi gặp Ngài, tôi thấy thật ra chẳng cần tôi ở Tây Tạng làm gì, vì đã có một vị đạo sư như Ngài là quá đủ rồi!” Tuy vậy, muốn thử nghiệm lại việc thực hành Pháp như thế nào để quyết định việc trở lại Ấn Độ, Ngài Atisha đặt câu hỏi: “Theo Ngài thì thế nào, Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp theo thứ tự có trước có sau hay có thể hành trì cùng lúc?” Ngài Rinchen Zangpo đáp ngay: “Theo thứ tự có trước, có sau.” Nghe câu trả lời này, Atisha không đồng ý, Ngài nói một giọng như ra lệnh: “Tất cả các giáo pháp được hành trì cùng một lúc. Tất cả các vị thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần chứng ngộ các vị đó trong một khoảnh khắc duy nhất. Hoàn toàn vô ích nếu như hiểu biết hàng ngàn pháp sự mà bỏ quên đi phút giây mà tất cả đều hội tụ và tất cả đều giải thoát.” Thấy vị tỳ-kheo Tây Tạng có vẻ chưa tin hẳn, Đạo sư Atisha nói tiếp: “Bây giờ tôi đã biết vì sao tôi phải đến Tây Tạng!” Sau đó, Ngài Rinchen Zangpo được Đạo sư Atisha chỉ giáo, chuyển sang thực hành thiền quán Bổn tôn. Mười năm sau, vị tỳ kheo già đó đã chứng đạt tự tại, không lệ thuộc vào bất kỳ phương tiện nào nữa. Trước khi chết, Ngài Rinchen Zangpo, người đã giác ngộ, tập hợp đệ tử lại và tâm sự: “Tới lúc ta cao tuổi, ta còn phải học và tu tập thiền định Thanh văn. Sau khi gặp Atisha, tâm ta mới được giải thoát trong phép thiền quán đích thực.” Trong tác phẩm “Mật thừa Tây Tạng”, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV chỉ ra 31 điểm tinh yếu về sự khác biệt giữa Tiểu thừa (Thanh văn, Độc giác thừa) và Đại thừa (gồm Thừa Hoàn Thiện là Đại thừa Hiển giáo, Kim cương thừa là Đại thừa Mật giáo), trong đó Ngài đối chiếu đặc điểm ưu việt của Mật thừa so với Thừa Hoàn Thiện (Đại thừa Hiển giáo) qua các điểm như sau: Hai Đại thừa, tức là Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa, có cùng quả vị và trí huệ; bởi thế sự khác biệt nằm ở phương tiện, đó là đặc trưng đặc biệt Yoga hóa thần của Tantra. (Điểm khác biệt thứ 18) Phương tiện trong Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa là như nhau về nền tảng của thực hành, đó là tâm Bồ-đề và những công hạnh song hành là Lục Ba-la-mật. Tuy nhiên, Mật thừa có đặc trưng phụ trội là Yoga Hóa thần. Tánh không là đặc trưng của Yoga Hóa thần vì Bổn tôn lưu xuất từ Chân tâm của hành giả, chứ không từ đâu khác như Yoga Hóa thần của ngoại đạo phi Phật giáo. (Điểm khác biệt thứ 20) Sự khác biệt về tốc độ giữa hai Đại thừa là do một sự tích tập công đức nhanh hơn trong Mật thừa (nếu người ta có thể thực hành nó), có từ sự trau giồi Yoga Hóa thần. Đây là phương pháp thiền quán Bổn tôn trong bối cảnh thanh tịnh triệt để: nơi chốn một đức Như Lai trụ xứ sau khi giác ngộ viên mãn; thân thể là sự biểu lộ của Pháp thân trong môi trường chung quanh và những thánh chúng tùy tùng; những y báo hiển lộ của cấp độ Phật tánh; những đại lực vô dụng công của một vị Phật giáo hóa chúng sanh. Những trạng thái tương tự với 4 yếu tố này là thánh tướng của vị Phật được thiền quán trong Mật thừa. (Điểm khác biệt thứ 21) Thừa Hoàn Thiện không có thiền quán Bổn tôn (Yoga Hóa thần) dù cho có sự thiền định trau giồi một hình thức tương tự của Pháp thân, tức là thiền quán Chân như, tánh Không. (Điểm khác biệt thứ 26) Đối với Mật thừa, thì sự khác biệt trong tốc độ nhanh hơn so với Thừa Hoàn Thiện là đoạn đường từ lúc bắt đầu con đường “Tư lương đạo” đến “Kiến đạo” nhanh hơn một A-tăng-kỳ kiếp so với thời gian cần thiết trong Thừa Hoàn Thiện. (Điểm khác biệt thứ 29) Ngoài ra, Đạo sư Khetsun Sangpo, người được Đức Đạt-lai Lạt-ma đặc cử giảng dạy ở Nhật Bản 10 năm, đã khẳng định: “Mật thừa giống như một căn nhà ở giữa cánh đồng rộng mà chúng ta có thể vào từ bất cứ hướng nào: đông, tây, nam, bắc. Hành giả không bị bắt buộc phải vào một lối nào, vì có đủ các pháp môn thích hợp cho từng hạng người. Trong các thừa Thanh văn và Bồ Tát, hành giả phải đi theo một con đường hẹp, còn trong Thần chú thừa (Mật thừa) thì có nhiều phương tiện dị thường để tích lũy công đức và trí huệ một cách nhanh chóng, vì vậy hành giả mau đạt giác ngộ. Nhanh và dễ là đặc điểm của Mật thừa.” Đức Đạt-lai Lạt-ma dạy rằng, đã là người là Phật tử thì nên chọn theo Tantra (Mật chú thừa), và nên theo Tantra Yoga Tối Thượng (Du-già Tối thượng của Mật thừa) nếu có thể được, bởi vì đó là chọn lựa tốt nhất, bởi vì Vajradhara chỉ dạy Tantra Yoga Tối thượng. Nhưng Ngài chỉ dạy điều này với những ai có thể thực hành. Với những người mà Tantra Yoga Tối Thượng không thích hợp thì Ngài dạy Tantra Yoga (Du-già Tương tục). Với những người mà Tantra Yoga không thích hợp thì Ngài dạy Tantra Thực Hiện. Với những người không thích hợp với Tantra Thực Hiện thì Ngài dạy Tantra Hoạt Động. Với những người không thích hợp với Tantra Hoạt Động thì Ngài dạy theo kinh điển, trong đó ngay cả tên gọi Mật thừa cũng không có. Như vậy, những hành giả Mật thừa sẽ có cơ hội tu hành ở những giai đoạn Du-già khác nhau tùy theo khả năng của mình. Nếu chư vị nào đang tu hành theo Tịnh độ tông, có nghĩa là chuyên tâm niệm Phật A-mi-đà thì cũng có trì chú trong thời công phu của mình như thần chú Thủ lăng nghiêm, chú Đại bi, chú Vãng sanh, chú Thiên nữ, chú Kiết tường... bao gồm 10 thần chú gọi là “thập chú”. Các thiền sư vĩ đại cũng khuyên mọi người trì chú như Ngài Vĩnh Minh, Hám Sơn ngày xưa. Ngày nay thì có các Ngài Quảng Khâm, Tuyên Hóa... Tuy vậy, cách hành trì xen kẽ như thế không “thuần Mật” như Mật thừa Tây Tạng hiện nay. Một số Phật tử có thể sẽ hỏi rằng, hành giả Tịnh độ tông khi qua đời sẽ vãng sanh về cõi Phật A-mi-đà, còn hành giả Mật tông thì sẽ về đâu? Ngay từ đầu sách, người viết đã nêu rõ đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm là khi trì niệm thần chú Mani của Ngài, lúc lâm chung Ngài sẽ đón rước về Tây phương Cực lạc của Phật A-mi-đà, cho dù trước kia người đó từng phạm tội ngũ nghịch. Tuy nhiên, cần nên biết rằng pháp môn trì niệm thần chú ở đây có thể đi đôi với sự phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc. Đó là quan điểm của Mật gia Song Nguyễn chúng tôi, đã xác định ngay từ buổi đầu tu học. Vì sao như vậy? Bởi vì người con nào cũng muốn theo cha mẹ sinh sống để được thương yêu, che chở. Cũng vậy, chúng ta hành trì pháp môn trì chú Mani của Mật thừa Tây Tạng là đương nhiên công nhận người bảo hộ cao quý nhất, hiệu quả nhất của mình là Bồ Tát Quán Thế Âm. Hiện nay, trụ xứ của Ngài là ở hai cõi tịnh độ: Tây phương Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà, và cõi Hoan Hỷ Cực lạc là cảnh giới Potala của Ngài. Trong khi sống chúng ta theo chân Ngài, phát nguyện trở về cảnh giới của Ngài. Dĩ nhiên, sau khi chết ta cũng theo Ngài về cõi Tịnh độ, vì câu thần chú của Ngài là kim chỉ nam cho chúng ta nhắm hướng. Với niềm tin kiên cố qua nhiều năm tháng hành trì, chúng ta sẽ không sợ hãi vào lúc lâm chung, mà ngược lại đó là lúc cảm nhận niềm vui sắp được giải thoát khỏi thân nghiệp, được về với quốc độ Cực Lạc của Ngài. Chúng tôi sẽ dựa vào một số luận điển để giải thích thêm về niềm tin này. Theo giáo pháp Mật tông, sau khi mạng chung, thần thức chúng ta sẽ mang thân trung ấm trong một cảnh giới trung gian giữa đời sống cũ và đời sống mới (cõi trung ấm), vậy thần chú Mani có tác dụng gì vào lúc đó? Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm (quyển 8) thì vào lúc chết có hai cách mà tâm thức chúng sinh có thể đi tới: đi thẳng lên hoặc đi thẳng xuống. Đi thẳng lên cõi Tịnh độ là cách của một hành giả thượng thặng được giải thoát ngay sau khi chấm dứt hơi thở sau cùng. Đi thẳng xuống địa ngục là những ai đã phạm tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết Thánh tăng, gây chia rẽ Tăng đoàn, phỉ báng Giáo pháp của Đức Phật. Sự báng bổ Giáo pháp có nghĩa là sau khi bắt đầu con đường tu tập và tự hứa giữ giới luật, giới nguyện, sau khi đã đặt niềm tin và sự sùng mộ nơi Pháp, đã hoàn toàn tin tưởng vào Đức Phật và Phật pháp, rồi lại hoàn toàn thay đổi thái độ, phát triển cái thấy sai lệch (tà kiến) và cho rằng các giáo lý đều không chân thật, và không có nhân quả, không có gì là ác hạnh. Đối với hành giả giác ngộ giải thoát không có thân trung ấm (bardo). Họ đạt giải thoát vào Pháp thân khi trút hơi thở cuối cùng. Nếu điều đó không xảy ra với chúng ta, những hành giả bình thường, thì vào lúc đó khi mang thân bardo, chúng ta bắt đầu tri giác các hiện tượng. Năm màu ánh sáng sẽ xuất hiện và từ đó các cõi tịnh độ của các Bổn tôn sẽ phô diễn. Nếu chúng ta có thói quen thực hành thiền quán Bổn tôn, thì nhờ niềm tin của mình, khi ta nhìn thấy Ngài trong bardo, ta sẽ cảm nhận được sự cuốn hút về phía Ngài và được giải thoát trong giác tánh Báo thân. Khi đang mang thân bardo, một câu thần chú Mani lúc đó có hiệu quả mãnh liệt, vì nó báo hiệu cho ta biết đâu là Bổn tôn của mình. Đây là lý do cơ bản để chúng ta tự nhắc nhở mình hành trì pháp môn này suốt cuộc đời để sử dụng trong giây phút hệ trọng đó. Một số Phật tử hoài nghi rằng lâu nay họ quen tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để cầu siêu cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích, như vậy áp dụng trì niệm thần chú Mani cho việc hộ niệm, cầu siêu có được kết quả chăng? Để giải thích vướng mắc này, người viết xin trích dẫn lời dạy xác quyết mới đây nhất vào năm 1986 ở Mỹ Quốc của Hòa thượng Tuyên Hóa, cao tăng đắc đạo người Trung Quốc, khi thuyết giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Bồ Tát Địa Tạng khuyến khích mọi người niệm thần chú Lục tự đại minh. Nếu quý vị nào trì niệm thì khi cầu xin bất cứ điều gì cũng sẽ được toại nguyện.” Một số khác lại suy diễn, khi hộ niệm người hấp hối lúc lâm chung, người ta thường quen mời chư tăng ni tụng kinh A-di-đà, hoặc đọc thần chú Vãng sanh của Ngài. Như vậy, thần chú Mani của Bồ Tát Quán Âm áp dụng lúc đó có linh nghiệm không? Tiện đây, người viết xin xác quyết lại một lần nữa: Bồ Tát Quán Âm đã tuyên xưng Ngài là hiện thân của tất cả chư Phật, còn thần chú Mani của Ngài có công năng đóng cửa sáu nẻo luân hồi, thì sự hộ niệm bằng thần chú Mani có tác dụng như khi đọc thần chú Vãng sanh hoặc đọc tụng kinh A-di-đà. Dĩ nhiên, điều này dễ dàng hơn cho mọi người vì thần chú Mani chỉ có sáu âm tiết, ai cũng có thể đọc tụng hoặc trì niệm được. ° Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư tu tập của người viết, đã từ lâu chọn pháp môn trì chú Mani làm cốt lõi tu tập, song hành với phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc. Những hành giả của Mật gia Song Nguyễn tuy ở những trình độ tâm linh khác nhau nhưng đều dùng thần chú Mani làm nền tảng tiến tu. Ở đây, khi tọa thiền đều thực hành theo Nghi quỹ Mật giáo, áp dụng Ba phương tiện tối thượng, trong đó phần chính là trì niệm thần chú Mani. Cần nhấn mạnh rằng từ “trì niệm” có nghĩa là đọc thầm trong tâm trí, không phát ra âm thanh như khi “trì tụng”. Ở thiền phòng luôn tôn trí linh ảnh, hoặc tôn tượng Đức Quán Âm Tứ Thủ trước mặt hành giả để dễ thiền quán Bổn tôn bên ngoài. Bên cạnh đó, ngoài những phẩm vật cúng dường cố định, còn có trang trí đồ hình Mạn-đà-la, đồ hình các câu thần chú Mật tông. Tư thế tọa thiền tuy không bắt buộc ngồi kiết già, nhưng đây là một mục tiêu đầu tiên cần phải đạt được trước khi muốn tiến nhanh trên đạo lộ giải thoát. Việc tọa thiền không ấn định số lần trong ngày và thời gian mỗi lần, chỉ tùy theo khả năng và tâm trạng của mỗi hành giả. Hành giả có thể ngồi 5 phút một thời thiền, hoặc nhiều cho đến bao nhiêu tùy ý. Hành giả ngồi thiền bao nhiêu thời trong ngày cũng được, nhưng ít nhất là mỗi ngày một thời. Tuy nhiên, hành giả Mật gia Song Nguyễn không được bỏ tọa thiền quá 3 ngày liên tục. Theo truyền thống, mỗi ba tháng một lần vào ngày mồng một âm lịch có chương trình Pháp hội mang tên là “Đêm trắng Mật gia”. Đêm đó, mỗi hành giả tham gia thực hành tâm linh từ 23 giờ cho đến 5 giờ sáng hôm sau. Chương trình gồm những hoạt động Phật pháp khác nhau. Tiêu biểu dưới đây là chương trình Pháp hội “Đêm trắng Mật gia” được tổ chức vào mồng một tháng Giêng năm Kỷ sửu (2009): I. Tọa thiền từ 23 giờ đến 24 giờ II. Thiền hành từ 24g10 đến 24g30 III. Đọc tụng giới nguyện Mật giáo từ 1h30 đến 2g00 IV. Thiền hành từ 2g00 đến 2g20 V. Pháp thoại từ 2g30 đến 3g30 VI. Thiền hành từ 3g40 đến 4.00 VII. Giảng pháp từ 4g00 đến 5g00 Ở đây cần có vài giải thích. Thiền hành tức là thiền trong tư thế đang đi. Phương pháp thiền hành ở Mật gia là khi đi trì niệm thần chú Mani. Chân trái bước trước niệm Om mani, chân phải bước sau niệm Padme hum. Pháp thoại là lời tự bạch của mỗi hành giả về kinh nghiệm tu tập của mình, hoặc có khi là ý kiến của mỗi hành giả về một chủ đề chung, chẳng hạn như “Vai trò của niềm tin trong đạo Phật”. Giảng pháp là việc của Giáo thọ thiện tri thức, mỗi chương trình Pháp hội sẽ có mỗi bài thuyết pháp khác nhau. Sau đó là thảo luận, giải đáp thắc mắc về Phật pháp. Đặc biệt cần nhấn mạnh là việc đọc tụng giới luật Biệt giải thoát, giới nguyện Mật giáo và giới nguyện Bồ-đề tâm của hành giả Mật tông. Trong Mật gia Song Nguyễn, có hành giả phát nguyện giữ đầy đủ 98 giới (10 Biệt giới giải thoát, 24 giới nguyện Mật giáo, 64 giới nguyện Bồ-đề tâm ), có hành giả thọ trì 5 giới hoặc 10 giới Biệt giải thoát... Tuy nhiên, ít nhất hành giả cũng phải thệ nguyện giữ được 5 giới Biệt giải thoát. Mỗi tháng 2 lần đọc tụng giới nguyện vào ngày rằm và mồng một âm lịch. Có như vậy, thần lực của thần chú mới được gia tăng theo thời gian. Vai trò tối quan trọng của giới luật được Đức Phật nhấn mạnh trong kinh Đại Bát Niết-bàn, được thuyết giảng ngay trước khi ngài nhập diệt: “Này A-nan! Giới luật [Phật đã chế định sẽ] là bậc thầy lớn nhất của các ông, y theo đó mà tu hành có thể đạt được định và tuệ rất thâm sâu, thoát khỏi thế tục.” Thiển nghĩ, cho dù không am hiểu giáo lý Mật tông của Phật giáo, nhưng hình ảnh của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV đang mang ánh sáng Mật tông đến với hàng triệu người, được hoan nghênh nhiệt liệt trên thế giới hiện nay, qua đó chúng ta cũng đủ cơ sở xác quyết rằng việc thực hành giáo pháp đem lại lợi lạc cho nhiều người, mà trước hết là bản thân ta. Lạt-ma Thubten Zopa, người mà chúng ta biết đã khuyến tấn đệ tử của mình là đạo hữu Iran Green thực hiện công trình điêu khắc Ngọc Phật “Polar Pride” (Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực), rồi sau đó triển lãm tại Việt Nam, vào giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 4 năm 2009, khẳng định: “Mọi vấn đề rắc rối xảy ra đều do không thực hành Pháp; mọi sự trở nên hanh thông là nhờ thực hành Pháp.” Bản thân Ngài là một minh chứng sống động hiện nay về thực hành pháp môn trì chú Mani, đã làm lợi lạc cho vô số chúng sanh qua những kỳ nhập thất trì tụng thần chú Mani được tổ chức ở đất nước Nepal, cả ở phương Tây dưới sự chủ trì của chi nhánh Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa (FPMT). Thêm một Đạo sư vĩ đại với công hạnh siêu phàm khác là Pháp vương Gyalwang Drukpa thứ XII, đứng đầu dòng phái Drukpa có chiều dài truyền thừa qua 800 năm, đã phát động phong trào “Sống để yêu thương” trên toàn thế giới. Ngài còn chủ trương giáo hóa nhiều nước Á Châu, trong đó có Việt Nam bằng chuyến hoằng hóa giáo pháp Mật tông, ban lễ Quán đảnh cho Phật tử ở nước ta liên tiếp 2 lần (2007 và 2008). Ngài đã chủ trì buổi lễ cầu nguyện cho thế giới hòa bình bằng trì niệm tập thể thần chú Mani 100 triệu biến như đã nêu ở đầu sách. Thực sung sướng biết bao khi chúng ta được biết, và những ai là hành giả Mật tông đều công nhận, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV, Pháp vương Gyalwang thứ XII, là những hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Để kết luận, người viết xin được trích dẫn hai điều tâm huyết trong tác phẩm “37 Pháp hành Bồ Tát đạo” của Đạo sư Thogme Zangpo khuyên chúng ta nên thực hiện: – Đã được thân người quý hiếm với đầy đủ tự do và thuận lợi, vậy hãy chuyên cần lắng nghe, suy gẫm và thực hành giáo pháp bất kể ngày đêm, để giải thoát cho mình và chúng sanh khỏi biển khổ luân hồi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành thứ nhất) – Thân bằng quyến thuộc lâu năm rồi cũng sẽ chia tay. Tài sản tạo dựng bằng mồ hôi và nước mắt rồi cũng phải bỏ lại. Thần thức là khách trọ trong căn nhà thân xác rồi cũng phải ra đi. Đừng bám víu vào kiếp sống này. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành thứ tư) Giờ đây, mỗi người chúng ta hãy tự quyết định vận mệnh tâm linh của chính mình! Cho dù ở phương diện nào đi nữa, chúng ta cũng phải hiểu rằng chìa khóa thành công trong mọi nỗ lực là sự tinh tấn, có nghĩa là quyết tâm và chí khí. Nếu bạn quyết tâm được giàu có, bắt đầu với chỉ số tiền nhỏ, cuối cùng bạn cũng có thể là triệu phú. Nếu bạn quyết tâm học, rồi bạn sẽ trở thành uyên bác. Nếu bạn quyết định thiền tập, rồi bạn sẽ tìm ra phương thức giải thoát khỏi ràng buộc thế sự, để tập trung cho thực hành Pháp. Tùy bạn chọn lựa mục đích thế gian hay xuất thế gian. Qua thực hành Pháp, giống như một nhà vô địch khuất phục những đối thủ truyền kiếp của mình, bạn sẽ đánh bại một lần cho tất cả mai sau, sự chấp ngã đã ăn sâu tận gốc rễ tâm thức của mình trong vô số tiền kiếp. Đó là lời khuyên chân thành và sáng suốt của Đạo sư Dilgo Khyentse. Và người viết xin nêu ra một yếu tính giác ngộ được chỉ rõ trong kinh sách: “Không ai sở hữu được Phật pháp, ngoại trừ những người kiên trì thực hành Pháp.” Cuối cùng là quy định cần thiết bảo đảm thành công trong thực hành Pháp mà Mật gia Song Nguyễn tuân thủ, gồm 4 điều sau đây: (1) niềm tin kiên định, (2) không mảy may nghi ngờ pháp môn mình đang hành trì dù bị tác động tiêu cực từ thế sự; (3) thực hành đều đặn và (4) giữ kín việc tu tập. Viết xong tại Mật gia Song Nguyễn ngày 21 tháng 3 năm 2009, nhân dịp Đại lễ Bồ Tát Quán Thế Âm 19 tháng 2 năm Kỷ Sửu và sự kiện Tượng Phật Ngọc “Polar Pride” được triển lãm tại Việt Nam. thuvienhoasen.org.vn3 likes
-
Thông Tin Cập Nhật
maket171 and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Có thể có hàng chục, hàng trăm cuộc họp, hội thảo từ nay đến năm 2015. Những khuyết điểm có thể được vạch ra, những nguyên nhân yếu kém có thể được đề cập, những vấn đề bức xúc có thể được thể hiện, những giải pháp cũng sẽ được nói đến...vv...và ....vv....Nhưng một khí chân lý bị vùi dập - Việt sử 5000 năm văn hiến không được xác định, bởi sự né tránh - thì nó sẽ như một thứ ung thư di căn phá hỏng toàn bộ nền tảng giáo dục, chứ chưa nói đến môn lịch sử. Những cái đầu có chỉ số Bo cao thì không thể nào liên hệ được sự phủ nhận chân lý đến tất cả các vấn đề liên quan. Cũng như họ không tưởng tượng nổi vì sao một con bướm vỗ cánh ở rừng Amon lại có thể gây bão ở Thái Bình Dương. Bởi vậy, từ lâu tôi đã xác định rằng: Nếu không thừa nhận chân lý: Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử thì tất cả những cải cách giáo dục đều thất bại. Tất nhiên sự thất bại của ngành giáo dục sẽ lan sang các vấn đề khoa học ở mọi lĩnh vực. "Nền khoa học Việt Nam đang tuyệt tự" Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu đã phát biểu như vậy. Rất tiếc Mọi chuyện cũng sẽ không dừng ở đây. Nhưng khả năng cá nhân tôi cũng chỉ nói được đến đấy.2 likes -
Thiên Hỏa trả lời chuẩn: Chọn ngày giờ tốt chỉ là một yếu tố giảm cái xấu, chứ không phải yếu tố quyết định hạnh phúc. Thiên hạ cứ làm như chọn ngày giờ tốt thì vợ chồng cãi nhau do lỗi tại ông thày vậy. Rồ cả người. Híc! Nhất là mấy bà nhà quê nữa mới khổ. Nhưng cũng phải rất cảm ơn mấy bà nhà quê "mê tín dị đoan" ấy. Nếu không có mấy bà tin thầy như sấm thì nền tảng lý học đã bị tiêu diệt từ hàng ngàn năm nay rồi. Làm gì còn đến bây giờ để thày trò có chỗ nói chuyện. Hi. Vấn đề còn lại là phải nói làm sao cho mấy bà ân nhân của Lý học, hiểu được bản chất khoa học của lý thuyết cao cấp này. Cô có thể chọn ngày tốt đăng ký kết hôn và nhận giấy đăng ký kết hôn. Tổ chức một bữa tiệc gia đình đơn giản và công bố trên mạng xã hội về đám cưới của mình. Sau khi tốt nghiệp xong, đợi có con tổ chức một bữa thôi nôi ra trò để trả nợ miệng cũng được.2 likes
-
Trao Đổi Phật Pháp
caibang and one other liked a post in a topic by wildlavender
Luật Nghiệp Quả và Tướng Diện Trên thế gian nầy không một ai lại muốn mình xấu xí bao giờ, vì thế nếu có người sinh ra với dáng hình xinh đẹp thì hạnh phúc vui tươi còn kẻ khác có tướng mạo xấu xa thì lo âu buồn rầu. Thêm nữa, người có gương mặt khả ái thì dễ dàng thành công hơn trong vấn đề giao tế xã hội. Cũng vì tầm quan trọng về sắc đẹp nên hàng năm cộng đồng Việt Nam khắp mọi nơi thường tổ chức tuyển chọn hoa khôi để hãnh diện cho cộng đồng. Phái nữ thì thế còn phía nam phái thì cũng không khác biệt bao nhiêu, chúng ta thấy những tài tử nổi tiếng như Tom Cruise, Lý Tiểu Long, Trần Quang… thì người nào cũng thuộc hạng handsome boy cả. Ngày Đức Phật còn tại thế, hoàng hậu Mallika có hỏi Đức Phật về nguyên nhân nào để được sanh ra đẹp xấu. Đức Phật trả lời rằng:” Người có tâm nhu hòa, nhẫn nhục sẽ được đẹp đẽ và kẻ có tâm sân hận sẽ chịu xấu xí”Theo quan niệm của Đức Phật thì nét đẹp được tạo nên từ một tâm lý đạo đức lúc nào cũng có giá trị hơn là chỉ có cái đẹp bên ngoài mà không có một giá trị đạo đức bên trong. Dựa theo Luật Nghiệp Quả thì chúng ta có thể gây ra nhiều nghiệp nhân khác nhau để cuối cùng nhận được một quả báo xinh đẹp. Nhưng sắc đẹp nầy chưa chắc là một nét đẹp chân thật, hiền hòa. Trong lịch sử nhân loại từ Đông qua Tây chúng ta thấy rất nhiều những người đàn bà tuyệt đẹp với nhiều thủ đoạn độc ác để chiếm đoạt quyền hành và gây sóng gió khắp nơi. Cái phước xinh đẹp được gây từ nhiều nhân tốt mà thiếu mất cái nhân đạo đức chân thật, vì vậy từ nơi cái phước xinh đẹp họ đạt được đỉnh vinh quang mà cũng gieo rắc đau khổ cho nhiều người khác Vì sự giả dối, tạm bợ và không bền chắc của sắc đẹp nên Đức Phật luôn luôn khuyên chúng sinh nên vun bồi cái đạo đức bên trong thì nó sẽ là nên móng căn bản cho sắc đẹp bên ngoài và đây mới chính thật là một sắc đẹp nhận hậu và bền vững. Mỹ nhân trên thế gian nầy thì có đủ hạng. Có nét đẹp gây nên sự quý mến kính trọng trong sạch và cũng có nét đẹp gây nên sự ham muốn chiếm đoạt thấp hèn. Đôi khi chúng ta thấy có nét đẹp bày tỏ sự cao thượng từ tốn thì ngược lại cũng có nét đẹp lộ ra sự kiêu hãnh tự phụ. Có cô thì đẹp kín đáo và cũng có cô thì đẹp lẳng lơ. Phật dạy sở dĩ có sự khác nhau giữa các nét đẹp như thế bởi vì mỗi người đã gieo cho mình trong tiền kiếp những nghiệp nhân khác nhau. Nếu tự mình khéo gieo nhân, thì người ấy cũng có thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức. Do đó họ có thể là tuyệt thế mỹ nhân nhưng họ vẫn có thể là người ác. Gần đây nhiều bác sĩ tâm lý học đã đưa ra nhận xét là một người càng chú trọng tới việc trang điểm cá nhân nhiều chừng nào thì tâm địa càng hẹp hòi chừng ấy. Còn người đứng đắn là người chỉnh tề, vừa phải và không se xua chưng diện quá đáng. Sau cùng họ kết luận rằng một người có đôi mắt lẳng lơ cũng là người có tính tình độc ác hung dữ. Vì thế thói lẳng lơ hoa nguyệt với tính hung ác thường đi chung với nhau.Đối với quan niệm của Đông phương thì chữ đẹp thường đi đôi với chữ duyên lý do là dầu cho người đó có đẹp cách mấy thì sắc đẹp đó chỉ có thể thu hút kẻ khác những lúc ban đầu nhưng không giữ được tình cảm lâu bền vì không có duyên. Chữ duyên nói lên cái gì ẩn dấu kín đáo bên trong mà làm cho người khác phải xiêu lòng vì thế người có duyên mới là người giữ được tình cảm tốt của người khác một cách bền bĩ lâu dài.Người có duyên hiểu theo tinh thần đạo Phật là người đã từng kiên trì giữ giới hạnh, sắc son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, hiếu để với cha mẹ, trung hậu với chủ nhân và luôn cúng dường bố thí… Chính những cái phước duyên nầy đã kết tập để tạo cho họ một cái duyên ở đời sau làm cho mọi người quý mến họ mãi mãi. Do đó hầu hết các mệnh phụ phu nhân đều thuộc về hạng người có duyên nầy, còn các kỷ nữ thì phần lớn thuộc về loại đẹp mà vô duyên.Nếu có những người tính tình hay thay đổi, lòng dạ không thủy chung, hiếu để chẳng tròn, chữ tín không giữ ngay cả phát tâm làm phước rồi bỏ cuộc nửa chừng sẽ cảm nhận quả báo vô duyên ở đời sau. Vì vậy dù sắc đẹp lộng lẫy đi chăng nữa, họ cũng chỉ chiếm đoạt được cảm tình của người khác trong thời gian ngắn mà thôi. Cái duyên nó thường tiềm ẩn bên trong ánh mắt, làn da và phảng phất qua tiếng nói giọng cười vì vậy người vừa đẹp mà có duyên thì dĩ nhiên vừa được cảm tình của người mà còn được người quý mến.Nói chung con người tạo nghiệp trong quá khứ thì hiện tại những chủng tử của nghiệp báo sẽ tác tạo cái hình dáng của người đó dựa theo những quả báo của họ. Chẳng hạn một người trong quá khứ từng làm nhiều điều phước thiện như bố thí, giúp đỡ người nghèo khổ, ban niềm vui hạnh phúc cho kẻ khác do đó khi qua kiếp nầy thì người đó sẽ trở thành một kẻ giàu sang sung sướng. Luật Ngiệp Báo không dừng lại ở đây mà còn an bài thêm cho họ một gương mặt vui tươi, bình tĩnh, miệng cười duyên dáng, dáng điệu khoan thai và sắc da tươi mát. Trong thế gian, các nhà xem tướng số đã căn cứ vào hình tướng và sắc diện để đánh giá cuộc đời của một người. Chẳng hạn như người có tai to thì đại thọ còn kẻ có tai dày là sung mãn về tài vật. Người có răng trong đẹp là phú quý còn kẻ có lông mày gần mắt là hẹp hòi. Kẻ có trán rộng là vinh hiển sớm còn người có mũi to đầy kín là tạo được sự nghiệp kết xù. Sự hiểu biết và chính xác của các nhà tướng số chẳng qua là khả năng nhìn kỹ vào sắc diện và thần tướng của con người mà thôi. Thí dụ nhà tướng số nói năm nay anh sẽ bị tai nạn, xui xẻo, nhưng nếu cố làm điều thiện có thể tai qua nạn khỏi. Khi trông thấy thân chủ có sắc diện bất thường, con người nóng nảy, mặt mày không nhân hậu thì trước sau cũng xảy ra tai họa mà thôi. Nhưng sau một năm mà không thấy chuyện gì xảy ra thì nhà tướng số nói nhờ tu phước nên tai họa biến mất. Như thế thì đàng nào nhà tướng số cũng nói đúng cả. Vì tướng mạo là biểu hiện của nghiệp do đó nếu nghiệp thay đổi thì tướng mạo chắc chắn sẽ đổi theo. Ngày xưa có vị đại sư khi nhìn thấy những vầng đen trên trán của một đệ tử thì đoán rằng vận mệnh của người học trò nầy không thọ quá ba tháng nên cho phép người đệ tử được về quê thăm cha mẹ. Trên đường đi người đệ tử thấy một đàn kiến lớn sắp bị chết đuối ở bờ sông. Cậu ta bèn nhảy xuống sông dùng những khúc cây lớn để vớt từng nhóm kiến và sau đó đặt chúng lên bờ cho chạy đi. Sau khi về thăm và ở lại với cha mẹ ba tháng thì người đệ tử trở lại cửa thiền. Khi thấy người đệ tử còn sống trở về làm cho vị đại sư hết sức ngạc nhiên. Ngài quan sát tướng diện của cậu bé thì thấy những vầng đen trên trán đã biến mất không còn nữa và được thay bằng một làn da hồng hào tươi mát. Vị hòa thượng hỏi rõ ngọn ngành thì mới biết nghiệp thiện mà người đệ tử tạo ra đã cải đổi vận mệnh và thần tướng của người đệ tử nầy. Một câu chuyện khác là có anh bán than nghèo khổ lang thang được thầy tướng số cho biết là tương lai sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia anh bán than gặp một thiếu nữ đang ngồi khóc nức nở bên bờ giếng. Hỏi ra mới biết là cô đem vàng đi chuộc tội oan cho cha, nhưng chẳng may khi múc nước để uống thì cô đã đánh rơi túi vàng xuống giếng. Cô không dám xuống vì dưới giếng người ta nói có con rắn lớn rất hung dữ. Vì quá tuyệt vọng thiếu nữ muốn quyên sinh. Nghe xong anh bán than tự nghĩ trước sau mình cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được túi vàng cho cô gái. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Khi gặp lại, nhà tướng số rất đổi kinh ngạc nói với người bán than là tướng chết đói của ông ta đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ huy hoàng.Thật vậy, vì mang ơn cứu gia đình nên thiếu nữ đem anh bán than về dạy dỗ và kết nghĩa vợ chồng. Sau đó vì muốn tiến thân, cha thiếu nữ gởi gấm chàng bán than sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Trên bước đường tiến thân, anh bán than ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn. Nhưng vừa mới gặp, nhà tướng số lại bảo tướng chết đói lại hiện trở lại làm anh bán than tức giận bỏ đi.Sau khi được làm quan, anh bán than đã đánh mất nhân cách, chỉ lo cưỡng bức các cô gái đẹp nên bị triều đình hạ lịnh bắt về kinh trị tội. Quá sợ hãi, anh trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một tảng đá. Người vợ đau khổ tìm chồng trông thấy xác chết cũng gục chết theo. Khi liều mình để cứu người khác là sự bố thí nội tài rộng lớn. Cái phước đức đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để giúp cho anh bán than được công danh vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cứng ngắc cố định. Nếu nghiệp thay đổi thì tướng mạo cũng đổi thay. Do đó hằng ngày nếu chúng ta luôn thực tập môn bố thí từ nội tài đến ngoại tài để cứu giúp mọi người thì chắc chắn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp viên mãn. Nếu nghiệp đã in dấu lên diện mạo của một người thì nghiệp cũng in dấu lên thời điểm ra đời của người đó. Dựa vào ngày giờ năm sinh của một người mà môn tử vi được xuất hiện. Thật vậy vào cuối đời nhà Đường bên Tàu có ông Trần Đoàn đã khám phá ra phương pháp lập một lá số tử vi dựa vào ngày giờ năm sinh của một người. Nhân lúc chạy loạn ông có gặp một ngườì đàn bà đang gánh hai đứa con nhỏ trong cái thúng. Thấy tướng diện khác thường của hai đứa bé, ông bèn hỏi về ngày và năm sinh của chúng để gieo một quẻ thì lá tử vi của chúng rơi vào mạng đế vương. Ông nói với mẹ của chúng là thằng bé sau nầy sẽ được làm vua và nếu được thế thì ông chỉ xin vùng núi Hoa Sơn nầy. Bà mẹ bán tín bán nghi nhưng cũng xé miếng vải đưa ông ta để làm tin. Quả thật về sau, hai đứa bé nầy tức là Triệu Công Dẩn và em là Triệu Công Nghĩa, trở thành vua và khởi nguyên cho nhà Tống.Y như lời nguyện, nhà vua phong tặng cho Trần Đoàn vùng núi Hoa Sơn và từ đó ông ta nổi tiếng với danh hiệu là Hi Di Lão Tổ. Có hơn 100 ngôi sao sắp xếp quanh 12 cung và sự phối hợp của các ngôi sao nói lên tính chất đặc biệt của mỗi cá nhân. Thí dụ nếu sao Thiên Quý đóng tại cung Sửu, Mùi thì người đó sẽ là anh hùng trong thiên hạ…Nhưng nếu nhìn kỹ lại thì tử vi chỉ chú trọng vào quả báo mà không để ý đến nghiệp nhân, bởi vì một khi quả báo hiện diện tức là nghiệp nhân đã có mặt rồi. Nếu lá số tử vi nói rằng người đó giàu sang thì có nghĩa là người nầy đã từng bố thí rất nhiều trong quá khứ. Còn nếu lá tử vi nói rằng anh kia sẽ gặp thất bại thì anh đó có tính xấu, hẹp hòi và ít kiên nhẫn. Thật ra ngày nay khoa tử vi không còn được xem là khoa học huyền bí nữa vì nó không thể giải thích từng trường hợp của mỗi người một cách suông sẻ và hợp lý. Thí dụ trên thế giới hiện giờ có trên 6 tỷ người, mà nếu dựa vào một ngày giờ năm sanh nhất định thì có được 512,000 lá số tử vi cho tất cả mọi người. Nếu sinh cùng giờ thìn, năm thìn thì có biết bao người trùng lá tử vi, nhưng có người thì sung sướng sao có kẻ lại khổ đau thì lá tử vi nầy đâu còn đúng được. Để giải thích sự sai lệch nầy, các nhà tử vi lý luận rằng ngoài ngày giờ năm sanh, lá tử vi còn tùy thuộc vào phước đức của họ và gia đình của họ. Thế thì nói đi nói lại thì mọi sự tiên đoán của tử vi cũng chỉ dựa vào Luật Nghiệp Quả của nhà Phật mà thôi.2 likes -
Ở đây tôi thấy có vài người tuy bề ngoài tỏ ra bàng quan, nhưng thực ra thì cứ hở ra thấy cái gì có vẻ như phản biện những lý thuyết gì của Lý học Việt thì tỏ ý ủng hộ, hoặc lâu lâu lại chọt vàì bài gián tiếp phủ nhận văn hiến Việt. Tôi không có thời gian nhiều để trình bày, phản biện đám lởm khởm đó. Bởi vậy, sắp tới đây sẽ có đợt cải tổ lại diễn đàn và thu hẹp số thành viên có quyền đưa bài - kể cả mục dành cho các hội viên mới. Mục tư vấn có thể lấy phí, hoặc phải nộp lệ phí thành viên đối với những thành viên mới.Chúng tôi cần phải có thù lao thích đáng cho nhưng vị tư vấn có uy tín ở đây.2 likes
-
Phát hiện lại nguồn gốc Việt nhân ca và Lục Bát (26/09/2012) Được xem là một trong những bài thơ tình cổ nhất của nhân loại (có từ 2800 năm trước), "Việt nhân ca" từng gây tranh cãi trong giới học giả, nghiên cứu cổ ngữ và văn hóa nhiều nước trên thế giới. Gần đây, nhà nghiên cứu Đỗ Thành (Nhạn Nam Phi) cho công bố bài viết"Phát hiện lại Việt nhân ca" với nhiều chứng cứ thuyết phục. Đoạncuối của bài viêt này có một chi tiết thú vị liên quan đến nguồn gốc tác phẩmvà thơ Lục Bát... Tóm tắt về bối cảnhra đời của Việt nhân ca: Lưu Hướng (刘向) là cháu bốn đời của Lưu Giao (刘交). Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦), cao tổ của nhà Hán. Lưu Hướng là tác giả củasách Thuyết uyển (说苑). Sách có chương kểchuyện “Tương Thành Quân thủy phong chi nhật” (襄成 君始封之日). Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王) tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫). Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân TửTích (鄂君子皙) là vua SởHùng Ngạc (楚熊咢) dùng thuyềndạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân ca Việt.Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng"Sở" là bài "Việt nhân ca". Nguyên văn đoạn đó như sau: " 襄 成君始封之日,衣翠衣,带玉剑,履缟舄(舄:xi4,古代一种双层底加有木垫的鞋;缟舄:白色细生绢做的鞋),立于游水之上,大夫拥钟锤(钟锤:敲击乐鼓 的锤子),县令执桴(桴:鼓槌) 号令,呼:“谁能渡王者于是也?”楚大夫庄辛,过而说之,遂造托(造托:上前求见)而拜谒,起立曰: “臣愿把君之手,其可 乎?”襄成君忿然作色而不言。庄辛迁延(迁延:退却貌)沓手(沓:盥之误字,盥手即洗手)而称曰:“君 独不闻夫鄂君子皙之泛舟于新波之 中也?乘青翰之舟(青翰:舟名,刻成鸟形的黑色的船),极(:man2,上艹下两;芘:bi4。芘:不详为何物,疑为船上帐幔之类),张翠盖而检(检:插上)犀 尾,班(班,同“斑”)丽袿(袿:gui1,衣服后襟,指上衣)衽(衽:ren4,下裳),会钟鼓之音,毕榜枻(榜:船;枻,yi4,桨。榜 枻:这里指代船工)越人拥楫而 歌,歌辞曰:‘滥兮抃草滥予,昌枑泽予昌州州,饣甚州州焉乎秦胥胥,缦予乎昭,澶秦踰渗,惿随河湖。’鄂君子皙曰:‘吾 不知越歌,子试为我楚说之。’于 是乃召越译,乃楚说之曰:‘今 夕何夕兮,搴中洲流。今日何日兮,得与王子同舟。蒙羞被好兮,不訾诟耻。心几顽而不绝兮,知得王子。山有木兮木有枝,心说君兮君不知。’ 于是鄂君子皙乃揄修袂,行而拥之,举绣被而覆之。鄂君子皙,亲楚王母弟也。官为令尹,爵为执圭,一榜枻越人犹得交欢尽意焉。今君何以踰于鄂君子皙,臣何以 独不若榜枻之人,愿把君之手,其不可何也?”襄成君乃奉手而进之,曰:“吾 少之时,亦尝以色称于长者矣。未 尝过僇(僇:lu4,羞辱)如此之卒也。自今以后,愿以壮少之礼谨 命。” Dịchnghĩa: “Ngàyđầu tiên Tương Thành Quân được phong quan tước, mặc áo đẹp, đeokiếm ngọc, mang cao guốc, đứng phía trên dòng nước, đại phu gõ nhạc,đánh trống. Lệnh rằng: "Ai có thể đưa ta lên đò?" Sở đại phuTrang Tân bước lên phía trước bái kiến, đứng thẳng nói rằng:"Thần nguyện nắm tay của quân vương, có được không ?" TươngThành Vương phẫn nộ, mặt biến sắc và im lặng. Trang Tân mất mặt, phủitay nói rằng: " Quân vương không nghe qua chuyện Ngạc Quân Tử Tíchdạo thuyền trên làn sóng mới sao? Trên thuyền Thanh Hàn, cắm cờ xí,khoác áo choàng đẹp. Trong tiếng chuông trống, người chèo thuyền làngười Việt đã hát. Lời hát là "Lạm hề biện thảo biện dư,xương hoàn trạch dư xương châu châu, Thực thẩm châu châu yên hô tần tư tư,mạn dư hô chiêu, thẳn tần du sâm, đề tùy hà hồ ." Ngạc QuânTử nói: " Ta không hiểu Việt ca, thử cho ta hiểu bằng tiếngSở." Thế là cho người phiên dịch, bằng tiếng Sở nghĩa là: "Kimtịch hà tịch hề, khiên trung châu lưu, kim nhật hà nhật hề, đắc dĩvương tử đồng Chu. mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sĩ. tâm kỷ phiềnnhi bất tuyệt hề, tri đắc vương tử. Sơn hửu mục hề mục hửu chi, tâmthuyết quân hề quân bất tri.” Nghe xong, Ngạc Quân Tử Tích xăn tayáo, đến ôm lấy, dùng mền thêu mà đắp lên. Ngạc Quân Tử Tích làem cùng mẹ với Sở vương, làm quan Lịnh-Doãn, tước vị cao sang, mà còncó thể cùng vui tận hết ý với người chèo thuyền Việt.Nay sao quân vương lại do dự hơn Ngạc Quân Tử Tích, thần tại saokhông bằng người chèo thuyền, muốn nắm tay quân vương, tại sao lạikhông được ?" Tương Thành Quân đưa tay ra bước tới, nói: "Ta từnhỏ đã được người lớn khen đàng hoàng, chưa từng bất ngờ gập quacảnh nầy. Từ nay về sau xin nghe lời chỉ dạy của tiên sinh." Chính nhờ đoạn văn này mà Bài cacủa người Việt còn tới ngày nay. Từ văn bản Hán ngữ: 今夕何夕兮,搴舟中流。 Kim tịch hà tịch hề?khiênchu trung lưu. 今日何日兮,得与王子同舟。 Kim nhật hà nhật hề?đắc dữ vương tử đồng chu! file:///C:/Users/pc/AppData/Local/Temp/msohtmlclip1/01/clip_image001.jpg 蒙羞被好兮,不訾诟 耻。 Mông tu bị hảo hề,bất hiềmcấu sỉ. 心几烦而不绝兮,得知王 子。 Tâm kỉ phiền nhi bất tuyệt hề,đắc tri vương tử. 山有木兮木有枝 ,心悦君兮君不知! Sơn hữu mộc hề mộc hữuchi,tâm thuyết quân hề quân bất tri! Và đây là bản dịch có thểđược coi là chuẩn: Việt nhân ca Đêm nay đêm nào chừ, chèothuyền giữa sông Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng. Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông Non có cây chừ, cây có cànhchừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không? (Bản dịch Việt ngữ trênDiễn Đàn của Viện Việt Học) Hiện giờ Việt nhân ca đượcbiết như là bài dân ca của dân tộc "Choang", được ghi lại bằngký âm bởi người Sở thời Xuân-Thu.* Một số ý kiến cho rằng lịnh doãnnước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việtrồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở. Sở quá rộng lớn nênBắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sởhay Tượng Sở. Trong lịch sử xưa có khi Nam Sở tách ra độc lập lànước Dương Việt. Nếu ngược thời Xuân thu đi về xa nữa, thì tận xa xưacó “lịnh doãn" của nước Sở là Tử Văn vào triều đình nhà Chu nóichuyện bằng tiếng Sở mà nhà Chu xưng là Hoa lại không ai hiểu... Điềunầy được ghi nhận trong Sử ký. Xin quí vị xét kỹ yếu tố câu chuyệnnầy mà đừng lầm rằng tiếng Sở là tiếng Hoa. Ngay cả"lịnh-doãn" nước Sở nghĩa là gì thì người Hoa cũng khôngbiết, nên chỉ ghi chú: quan "lịnh-doãn" là chức quantương đương với "tể tướng" hay gọi là "thừa tướng".Thực ra lịnh-doãn (令尹) là từ đa âmcổ: quan lịnh-doãn hay quan loãn à quan loan à quan lang chỉ có trong tiếngViệt và người Việt mới hiểu. Quan chức người Việt thời Hùng Vươngđược gọi là quan lang à loan, khi ký âm bằng chữ vuông thì biến thành lịnh- doãn (令尹). Thời Xuân thuvẫn dùng ngôn ngữ Việt làm tiếng phổ thông giữa các quốc gia nhỏ ởTrung Nguyên và gọi là Nhã ngữ. Nhã ngữ là Việt ngữ mà ngày nay cũngbị gọi là Hoa ngữ, đã đơn âm hóa nên nhiều người lầm tưởng"Việt" "Hoa" là hai ngôn ngữ khác nhau. Ví dụ"Trữ-la" thôn thì thực ra là "Tử la" thôn có nghĩa là“thôn Tả". "Trả" “tả” hay "trái" chính là"Tó" (Triều Châu), “Chỏ" (Quảng Đông),"Chò" (Bắc Kinh) dù chung một gốc mà sau khi biến âm thì vùngnầy lại không hiểu ngôn ngữ vùng kia. Nay tôi xin thử phục nguyên bàica Việt trình bạn đọc. Ký âm tiếng Việt của bàica được ghi lại là: 滥兮抃草滥予 Lạm hề biện thảo lạm dư 昌枑泽予昌州州 Xương hằng trạch dư xươngchâu châu 饣甚州焉乎秦胥胥 Thực thầm châu yên hồ tần tưtư 缦予乎昭 Mạn dư hồ chiêu 澶秦逾渗惿随河湖 Thìn tần du sâm, đề tùy hàhồ So sánh hai bản văn ta thấy khácnhau rõ rệt. Bản dịch có 54 chữ, trong khi nguyên bản chỉ có 33 chữ. Ở bảndịch, câu thứ 3 bị thiếu chữ "饣",đó chính là chữ 飠-Thực.Trong khi đó bản dịch bị thêm câu cuối, chỉ mang tính đưa đẩy vô nghĩa“non có cây, cây có cành.” Có vấn đề cần lưu ý là sự hình thành của hai bản văntrên: Bài ca bằng tiếng Việt của người Việt. Người Sở nghe không hiểu nên yêucầu được dịch sang tiếng Sở. Nhưng rồi cả bản tiếng Việt cả bản tiếng Sở đượcký âm bằng chữ vuông Hán ngữ. Nếu dịch là diệt thì đây cũng là ví dụ tiêu biểu.Tiếng Việt cổ của 2800 năm trước là ngôn ngữ đa âm, “bị” chuyển thành Hán tựđơn âm cách nay 2000 năm là sự mất. Mất chữ dẫn tới mất nghĩa… Qua quá trìnhchuyển ngữ như thế, tất cả đều thay đổi. Nhìn khách quan, đó là hai bản vănkhác nhau hầu như hoàn toàn về văn tự. Có lẽ chỉ chung nhau ở phong cảnh sôngnước, nỗi quyến luyến của người chèo thuyền và chàng vương tử, vậy thôi! Hơnhai nghìn năm nay, giai thoại vẫn nằm trong sách. Bao thế hệ đã đọc và ngợi cađều bằng lòng với bản dịch mà chưa ai nghiên cứu nguyên văn của bài ca tức làbản tiếng Việt! Phải chăng đó là thứ ngôn ngữ bị mai một mà bao tháng nămdo không hiểu được nên lớp lớp tài tử văn nhân bằng lòng với cái bóng, cáihình? Rất khó xác định giữa nguyên bản và bản dịch, cái nào hay hơn. Có thể dochất trữ tình của bản dịch cụ thể hơn cộng với nhịp điệu đưa đẩy của bài ca gâyấn tượng cho người đọc khiến hàng nghìn năm người đọc bị dẫn dụ sang bài cakhác mà không phải bài ca của người Việt? Chính vì vậy, việc khảo cứu, phụcnguyên văn bản gốc của bài ca Việt càng trở nên ý nghĩa. Phiên dịch ra Hán Việt cho mộtbài dùng chữ tượng hình cổ để "phiên âm" tiếng Việt thì sẽrất là khó vì có chữ không còn được dùng nữa, nên không có trong từđiển. Mà dù cho có tra tự điển thì chưa chắc đúng bởi vì giọng đọc ởcác địa phương khác nhau. Thêm nữa, cách nhau đến ngàn năm thì tiếngnói và cách viết của một số chữ có thể thay đổi và lại biến âm theotừng miền ngôn ngữ v v... Bản ký âm nầy cho đến nay vẫn bị cho là phiênâm để ghi lại tiếng "Choang" tức là tiếng "Thái" củaTráng tộc. Xin trình bày lại vàxếp theo ý tôi: 滥 兮 抃 草 滥 予 昌 枑 泽 予 昌 州 州 飠 甚 州 焉 乎 秦 胥 胥 缦 予 乎 昭 澶 秦 踰 渗 惿 随 ... 河 湖。 Xin sắp xếp lại lần nữa, vìrất quan trọng, cho đúng 6-8: (chú ý hai chữ có gạch nối là một chữ đaâm) 滥 兮 抃 - 草 滥 予 Lạm hề biện-thảo lạm dư 昌 枑 泽 - 予 昌 州 州 飠 Xương hoàng trạch-dư xương châu châu thực 甚 州 焉 乎-秦 胥 胥 Thẩm châu yên hô-tần tư tư 缦 予 乎-昭 澶 秦 踰 渗 惿-随 Mạn dư hô-chiêu thìn tần du sâm đề-tùy. ...河 湖。 Hà Hồ. Để dịch bài này từ tiếng Việt xưara tiếng Việt nay xin giải thích những ký âm của Việt nhân ca: 滥 : "Lạm" là"Lam" hay "nam" tức là "Năm", "L" và"N" thường là biến âm, ngày nay màu "Lam" tiếng TriềuChâu là "Nam". Rất nhiều nơi ở Quảng, Triều, Việt thường lẫnlộn "L" và "N". 兮: Hề... hầy,nầy, nè, đây... nhiều biến âm. 抃草: Biện-thảolà từ đa âm của "bảo". 予: "Dư"còn có âm "ia" (Triều Châu, Bắc kinh). Năm "dư" cóthể như ngày nay là "năm kia", "năm xưa." 昌: ký âm"xương" là "thương". Ngày nay tiếng QuảngĐông-thuần Việt là "Sẹc", Triều Châu-thuần Mân Việt là"Siaiê". 枑: "Hằng"hay "Hoàng". 泽予: "Trạch-Dư"hay "Trạch-Dử" là "Trử” hay "Tử", 飠: Thực,tiếng Quảng Đông à sực, Bắc kinh à Sữa: phát âm như là "Xưa". 甚 : Thẩmhay Thậm là Sẩm, sửm, sơm tiếng tiếng Quảng Đông, và Bắckinh "Sum" phát âm như "Sớm". 州: Châu phátâm Mân Việt -Triều Châu thì đọc là "Chiêu", "Chiệu"như "Chiều". 焉: (zen) phátâm tiếng Bắc Kinh như em. 乎秦: "Hô-tần" đaâm, là "Hận" đơn âm. 乎昭: "Hô-chiêu" đaâm là "Hiểu" đơn âm. 澶:"Thẳn" hay "Đặng" hay "được". Nếu tra tựđiển và phiên dịch là "Thìn" hay "chiền" là khôngđúng! Bên trái là bộ "Thủy" và bên phải là chữ"Đàn", đọc là "Thẳn" hay "đặng" và nghĩalà "nước xối... thẳng, thông, đặng". Tiếng Quảng Đông:"Thànn", Tiếng Triều Châu: "thànn" hay"thạnn". 胥胥: "tư tư" làTương Tư. 秦 踰: Tần Du, là ký âm "tình duyên" hay"tình yêu", 秦là Tsình của tiếng Triều Châu ngày nay, 踰 , du, Duyè (Quảng đông), Dua (Triều Châu). 渗: "Sâm"là Sâu, tiếng Quảng Đông ngày nay "sâu" vẫn là "Sâm". 惿随: "Đề-Tuỳ" đaâm là "đùy" đơn âm, là "đầy" 河- Hà: hớ 湖- Hồ: hò Như vậy, nghĩa Việt củabài ca như sau: Năm nầy bảo nămxưa Thương Hoàng tử thương chiều chiều xưa Sớm chiều em hận tương tư Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. ....Hò Hớ Theo khảo cứu của tôi thìViệt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp với câu hò củadân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày nay thì sẽlà: Hò... ... hớ... Năm nầy bảo với năm xưa Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa Sớm chiều em hận tương tư Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy. Việc khảo cứu và giải mã bímật của Việt nhân ca, đối với tôi rất là dễ bởi vì tôi biết chữ tượnghình người Hoa đang dùng vốn là chữ Việt. Khi nghiên cứu cổ sử, tôithường đọc theo nhiều phương ngữ khác nhau là Bắc Kinh, Quảng Đông,Triều Châu, Hán Việt. Vì thế có thể nói, nhìn vào Việt nhân ca làthấy được bài thơ Việt liền! Thích thú với chi tiết 2800 năm vềtrước, tiếng Việt đã dùng "biện- thảo" là "bảo" ,"nầy" kia, "nầy" xưa, "thương chiều chiềuxưa", "em hận tương tư" v v... Nhưng có điều tôi chưa biết"Hò... hớ" là nghĩa gì và cũng chưa bao giờ nghĩ đến sẽtìm hiểu "Hò......Hớ" là gì! Vậy mà Việt nhân ca bản gốcđã làm tôi kinh ngạc và "ngộ" ra rằng "Hò... hớ"là dân ca của người Việt khi gắn bó với sông hồ, với ghe, thuyền:Hò... Hớ nghĩa là "Hà 河"..."Hồ 湖" Sacramento, 12. 09 Tác giả Đỗ Thành1 like
-
Con đầu có thể sinh Quý Tỵ 2013 hoặc Giáp Ngọ 2014, con út quan trong hơn, phải sinh vào năm tốt nhất, là năm Canh Tý 2020 hoặc Quý Mão 2023. 2023 con út tốt hơn. Ưu tiên gái trước trai sau, nhưng điều này ko bắt buộc, quan trọng sinh con út hợp năm là được. Thân mến.1 like
-
Sử truyện ngày xưa, đại khái là có một vị Ni Sư khuyên các chị em đi tu. Chị em thấy tu có kết quả thì cũng thích nhưng cũng không dám tu vì sợ phạm giới rồi lại bị đọa địa ngục. Nhưng mà Ni Sư vẫn khuyến khích. Tì kheo phạm giới vẫn hơn chúng sinh rất nhiều. Cảnh giới của chúng sinh sướng hay khổ thì vẫn là trầm luôn muôn kiếp, cảnh giới của người xuất gia chưa được bất thoái nhưng rồi sẽ đến lúc họ đạt đến sự bất thoái trên con đường giác ngộ.1 like
-
Cô cám ơn về sự đóng góp của Rubi nhé ! Đã đổi tiêu đề vì tính chuẩn xác !1 like
-
Sự việc xảy ra, hậu quả khôn lường. Nhưng một điểm cần biết là, khi thấy một vi xuất gia phạm lỗi mà hàng tại gia chỉ trích thì (sự chỉ trích) lại là phạm giới trong giới Bồ Tát Tại Gia.1 like
-
1 like
-
1 like
-
Cảnh giác với 7 loại trái cây có vấn đề (VTC News) - Một bộ phận thương nhân đã sử dụng bất hợp pháp các loại như hormone, lưu huỳnh, ethephon... để làm cho trái cây có quả to hơn hoặc đẹp mã hơn. >> Giảm đau xương khớp bằng cây nhà lá vườn >> 9 triệu chứng của bệnh mất trí nhớ Táo đánh sáp: Táo để lâu sẽ bị quắt hoặc thối, nhưng sau khi được đánh sáp, táo để lâu vẫn tươi mượt như ban đầu, cần cẩn thận khi chọn mua. Dâu tây hormone: Dâu ở giữa rỗng, hình dạng không đều và rất to, thường là do bị dùng hormone quá liều. Chuối lưu huỳnh: Dioxide lưu huỳnh độc hại với cơ thể người. Nhưng để làm cho vỏ chuối trở nên vàng đẹp hơn, có những thương lái đã sử dụng dioxide lưu huỳnh để “thúc chín”, nhưng ruột quả thì ăn vẫn thấy còn sượng, không hề ngọt tí nào. Dưa hấu độc hại: Sử dụng chất kích thích, chất làm to và thuốc trừ sâu cực độc. Loại dưa này có sọc vàng xanh trên vỏ không đều, cắt ra thấy thịt quả tươi khác thường, nhưng hạt lại có màu trắng, ăn vào chẳng có vị gì. Nho đổi màu: Nho dùng ethephon làm chất thúc chín. Nho màu xanh chưa chín vào ngâm trong đó, 1-2 ngày sau nho xanh sẽ biến thành nho tím chín nẫu. Nhãn độc hại: Sử dụng sulfur dioxide quá chuẩn cho phép sẽ thúc chín quả nhãn, gây ngộ độ thực phẩm. Cam nhuộm màu: Có những thương lái đã cho cam còn non vào ngâm trong nước ấm có pha chất nhuộm màu, bột màu, chất làm ngọt, sẽ làm cho vỏ quả biến thành màu chín đỏ. Chất tạo màu Citrus Red 2 tồn dư trong vỏ cam là chất gây ung thư. n.nang.yahoo.com1 like
-
Chúc Hoàng Anh và Châu Phương hạnh phúc, gắn kết keo sơn.1 like
-
CUỘC SỐNG QUANH TA Thời gian trôi qua mọi thứ rồi cũng sẽ thay đổi theo quy luật của cuộc sống Trung tâm thương mại và khu dân cư Eden nay đã không còn nữa đã phá dỡ và xây dựng lại thành khu thương mại Vincom B trông hoành tráng hơn xưa nhưng vẫn thấy tiếc nhớ về những hình ảnh mà rất nhiều người vẫn còn lưu giữ trong tiềm thức Từ nhà hát lớn TP chụp qua Phá dỡ toàn bộ Trung tâm và khu dân cư Eden cũ Tốc độ xây dựng nhanh thật,chụp từ KS Caravel Hơn 1 năm sau hoàn thành.Ảnh chụp từ TT thương mại TAX Chợt nhớ tới bà cụ với đôi gánh dừa tươi đã từng ngồi ở khu Eden này TÌNH MẸ Gánh hàng nuớc mát quê huơng Dừa xanh Mẹ bán bên đuờng nuôi ai Cả đời trĩu nặng đôi vai Trong đôi mắt Mẹ thấy lời tháng năm Gánh hàng này nặng lắm,toàn dừa và nước suối,Gặp TT đô thị còn phải chạy nữa Gần 2 năm sau vẫn mầu áo cũ và thêm thùng xốp có chữ Lavie ... Đúng là cuộc sống.Thấy bà cụ có vẻ mệt mỏi hơn trước Tuổi già bươn chải tảo tần Phố hoa mệt mỏi trăm năm bộn bề Dáng xưa còm cõi đi ...về Vẫn manh áo cũ bên hè mưu sinh Thêm 3 năm nữa gặp lại cũng mầu áo cũ Một đời vì tấm chân tình Vì ai nên nỗi quên mình tha phương Quê nghèo ai có biết chăng Một đôi quang gánh nặng mang tình già Không hiểu bà cụ này tảo tần nuôi ai nhỉ??? .Chắc nuôi đến đời cháu .1 like
-
Mỗi lần như vậy thì ghi âm lại, lâu lâu bật lại cho chồng nghe hỏi anh học mấy từ này ở đâu chỉ em với, em muốn học để chúng ta hòa hợp cùng tần số <_<1 like
-
Đám cưới hồi nào lẹ vậy ta. Xin chúc mừng Thiên Anh và bà xã sống với nhau luôn được hạnh phúc. Tình yêu, sự tin tưởng, và thủy chung sẽ giúp 2 vợ chồng vượt qua hết mọi khó khăn. Thân chúc răng long đầu bạc !1 like
-
Dần và Tỵ thì không bị xung. Anh đọc kỹ bài CHÚ Ý ở bên ngoài để hiểu rõ. Hai anh em thương nhau nhưng hay khắc khẩu!1 like
-
Dần và Tỵ chỉ Hình nhau, trong các hình khắc của địa chi thì Tuyệt là nặng nhất, xung cung nặng, hình và hại thì ko đáng kể, chỉ hay khắc khẩu. Còn về Tứ Hành Xung có lẻ bạn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Tứ Hành Xung cũng là Tứ Hành Sinh tùy theo 1 số điều kiện xem sét, đc tứ Sinh thì phát to, ko phải lúc nào Dần Thân Tị Hợi là Tứ Hành Xung nhé. Thân mến.1 like
-
Nếu thế thì con thứ 2 thì anh muốn sinh năm nào cũng đc, chỉ miễn làm sao có được con út vào năm mà huynh Thiên Luân tư vấn là được. Nhưng nhớ rằng, trước Mậu Tuất thì không có năm nào tốt hết.1 like
-
Nếu vậy thì thấy tiện năm nào thì cứ sinh, rồi 2018 sinh con út là được, quan trọng ở con út mới quyết định hạnh phúc sung túc gia đình sau này! Các con trước năm tốt nhưng con út ko hợp thì phá hết! Thân mến.1 like
-
Chào bạn. theo cách tính của PTLV bạn có thể chọn tuổi sau sẽ không bị phạm Kim Lâu và Hoang ốc: Nếu xây năm 2012 lấy tuổi : 1979 hoặc 1973 Nếu xây năm 2013 lấy tuổi : 1980 hoặc 19741 like
-
Nói thêm thế này: Trước đây trên blog của tôi - nay là web riêng - tôi đã định định nghĩa danh từ "khoa học" và từ đó xác định "cơ sở khoa học" - đang viết dở chừng - nhưng chợt nhớ ra rằng: những kẻ mà tôi phải phản bác chính là cái đám tư duy "ở trần đóng khố" trong "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học thế giới" phủ nhận văn hóa truyền thống Việt, nên "câm" luôn. Để tụi này biết được định nghĩa thế nào là "khoa học" thì thêm chật vật và mất thời giờ. Tôi vốn không phải là kẻ hợm hĩnh và kiêu ngạo. Nhưng đối với đám này thì tôi buộc phải thể hiện như vậy. Các bạn hãy cảm thông với tôi.1 like
-
Vợ chồng cùng tuổi thì năm hợp sinh trai, năm kỵ sinh gái. Năm hợp tiếp theo để sinh con là 2018 Mậu Tuất nhé. Con đầu ko hợp, lại bướng, phải sinh con sau hợp để hóa giải và cải thiện hơn nữa về công danh sự nghiệp cũng như hạnh phúc gia đình. Thân mến.1 like
-
Do là gái tuổi Mùi nên tháng cưới tốt nhất là 5 hoặc 11 âm lịch. Đừng chọn tháng 12 âm lịch mà phạm "thê chủ" (người con gái gặp hạn). Ngày cưới thì là để mọi việc diễn ra thuận lợi, cho nên cứ hỏi thầy xem ngày bên ngoài là được. Miễn là nhớ tổ chức vào tháng 11 âm lịch là được. Còn đãi tiệc nhà hàng thì lúc nào cũng đc, không quan trọng.1 like
-
Không khắc, con hợp mẹ là ưu tiên 1, sau đó mới tính hợp cha. Cho dù hợp cha mà ko hợp mẹ cũng vứt, 2013 là tốt nhất và gần nhất, nếu kéo dài xa hơn thì ko đảm bảo vì mẹ có tuổi rồi. Thiên can cha Tân sinh con Quý là rất tốt, Tỵ với Hợi ko có gì xấu đâu, chỉ khắc khẩu thôi nhé. Tôi đảm bảo anh/chị sinh đc con 2013 thì nhà sẽ khá lên về nhiều mặt đấy. Thân mến.1 like
-
CHÚC MỪNG HẠNH PHÚC HUYNH THIÊN ANH! CHÚC ANH CHỊ TRĂM NĂM HẠNH PHÚC!1 like
-
theo tôi bạn sinh vào giờ Thân.1 like
-
Như vậy, chính người Tàu cũng thừa nhận "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở" và là một nền văn minh có từ 5000 năm trước. Nhưng đám tư duy "Ở trần đóng khố" thì cứ gân cổ chứng minh: Lạc Việt chỉ là một bộ phận của Bách Việt và thời Hùng Vương chỉ là một "liên minh bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". Luận điểm của họ chỉ dựa trên sự hoài nghi những di sản còn lại sau 1000 năm Bắc thuộc, nền gần như mơ hồ. Chẳng có một chút gì để gọi là có "cơ sở khoa học" - ngoại trừ nếu họ can đảm nói rằng: Cơ sở khoa học để phủ nhận văn hiến Việt của họ là họ không nhìn thấy những di vật khảo cổ về Thời Hùng Vương 5000 năm văn hiến. Cơ sở khoa học của họ là gì, đến nay cũng rất mơ hồ ngay cả đối với họ về chính nội hàm của cụm từ này. Đúng là đám tư duy "ở trần đóng khố".1 like
-
1 like
-
01 Tháng mười 2012 - 03:27 PM Bác ơi, bác xem giúp cháu đường công danh,sự nghiệp có tương lai sáng sủa không ạ ? Cung Thê cháu có đẹp không ạ , vợ chồng hay cãi nhau nên cháu rất lo và cung Tử Tức cháu sẽ có mấy đứa con, có đủ trai gái không ạ ? Cháu đang có 2 con trai ! Đây là lá số của cháu ! Cháu xin cám ơn bác nhiều ạ ! Xin chào lullu Bạn có khả năng làm thân với người lạ mau lẹ, cư xử với mọi người thật tình, tình cãm như có ma lực . Trong thi đua đạt thắng lợi dễ dàng hơn người khác. Bạn là người can đảm, uy dũng, có oai phong, có tính tình nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang, bất kể hậu quả. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, thích làm kẻ anh hùng trọng nghĩa. Bạn thích quyền lực, muốn được mọi người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát và biết quyền biến. Do đó những tính cách này hợp lại cho nên bạn là người nhiều năng động, nhất định đạt mục tiêu bất kể phương pháp, tạo thành cảnh ngoài tốt đẹp nhưng bên trong chẳng có gì, khổ tâm không dám tiết lộ . Đời sống vì thế chỉ đạt được vật chất, còn tinh thần thiếu thốn . Chỉ đạt mục tiêu ngắn hạn, mà không chịu nhìn xa, đời khó lòng định hướng nên có đôi lúc trở nên dễ cô độc. Tính tình hào phóng, bất chấp tiểu tiết, dám làm dám chịu, khi lâm sự bất kể gian khổ, hiểm nguy, xử sự đơn giản mau chóng, có tình thần hiệp nghĩa, biết tôn trọng danh dự kẻ khác, đầu óc rộng rãi. Thích gì làm nấy, do nóng tính nên thiếu suy nghĩ cặn kẽ dể lâm vào nhiều cảnh khó khăn. Thiếu may mắn về đường hôn nhân, thường bị miệng tiếng thị phi, thường vô tình đụng chạm kẻ khác mà bị phiền toái. Số mạng làm quan nhưng không lớn, đề phòng tai nạn ngoài đường hoặc nạn về tiền tài. Tiền tài trước khó sau dễ, trung niên trở ra thì đầy đủ. Miệng nói ra tiền nhưng hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro. Chuyện vợ chồng do tính tình cứng cỏi, cương nghị nên người này hay lấn át người kia, do đó gia đạo thường có cải vã, vợ chồng bất hòa, khắc khẩu và cô đơn có lẽ do bạn rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc cho nên vợ bạn hay ghen. Cung Phu thê của bạn không tốt nha bạn, đề phòng ly hôn, tái hôn. Về con cái thì bạn vừa có trai vừa có gái. Vài dòng chia sẽ1 like
-
Năm sau rất tốt để sinh con Út: mạng và thiên can cha mẹsinh cho con, cộng với Dậu - Tỵ lại tam hợp. Tháng sinh thì lúc nào cũng được, không quan trọng. Cãi vã thì tôn trọng và nhường nhịn nhau là hết. Còn cương thì ko bao giờ hết!1 like
-
Năm nay tuổi nam đang ở kỳ cuối Tam Tai, vì vậy ko nên cưới, nên cưới sang năm, chọn 1 trong các tháng 1,6 hoặc 12 âm lịch. Thân mến.1 like
-
Cuộc sống đầy bon chen mà vẫn có một câu chuyện cổ tích giữa đời thường thế này , e thương một ng phụ nữ đầy mạnh mẽ nhưng lại phải chịu nhiều sóng gió như c nhưng c sẽ có một kết thúc tốt đẹp , trời không phụ ng tốt. Cảm phục thay một con người dùng tài đức của mình giúp đỡ người khác , con chúc bác Thiên Sứ thật nhiều sức khỏe để có thể giúp đỡ thật nhiều người nữa . Có ai đó nói xã hội vô tâm nhưng đọc hết topic này , cảm thấy thật vui mừng khi biết bao người cùng giúp đỡ một ng họ không hề quen biết một cách chân thành nhất . Thế mới thấy , cái bản chất thương người của người Việt Nam vẫn còn đấy . Nam Mô A Di Đà Phật1 like
-
Hai cố vấn hth và tl nói đúng về giờ sinh của cháu đấy. Mệnh của cháu có bộ sao Sat, Phá, Tham, lại nằm ở vị trí hãm địa . Theo kinh nghiệm của tôi thì 100 người phụ nữ có bộ sao này ở cung Mệnh hay cung Phu thì có đến 90% hai lần đò. chỉ còn phụ thuộc vào sinh con vào năm nào thôi. nâm nay bố cháu mât cũng nằm trong số mà bản Tử Vi đã nói lên điều đó. có sao Tang môn và lưu Tang môn, Bạch hổ .v.v.vSoos cháu luôn có nỗi buồn sâu lắng1 like -
Cháu kính chao bác Thiên Sứ va các cô chú, các anh chị em va các bạn trên diễn đàn, Trước tiên, HP gửi lời xin lỗi tới các bác, các cô chú vì trong suốt thời gian qua đã không lên diễn đàn thông báo tình hình chồng HP, phụ sự quan tâm của mọi người. HP rất mong bác Thiên Sứ cùng các anh chị em trên diễn đàn thông cảm. Lý do chính mà HP lâu không lên diễn đàn là vì tuy chồng HP đã được bác Thiên Sứ cứu giúp qua cơn nguy kích nhưng không phải một sớm một chiều có thể bình phục được. Vì vậy, mỗi lần lên diễn đàn mà không có tình hình gì mới để chia sẻ với mọi người bản thân HP cũng thấy rất buồn. Chính vì vậy mà HP muốn để một thời gian khi chồng HP có nhiều tiến triển hơn sẽ lên diễn đàn chia sẻ với mọi người. Trong suốt thời gian qua, cũng có những lúc HP thực sự rất đau khổ và mệt mỏi, nhưng cứ nhớ đến lời bác Thiên Sứ rằng chồng HP sẽ hồi phục, HP lại thấy rằng mình vẫn có quyền hi vọng. Hiện giờ chồng HP đã khá hơn rất nhiều rồi. Trí nhớ của chồng HP đã phục hồi khoảng được 70% (anh ấy thậm chí nhớ được cả số chứng minh thư của mình), đã có thể giao tiếp, trò chuyện với mọi người. Tuy nhiên thì chồng HP nói vẫn rất ngọng, chưa rõ tiếng. Đối với bạn bè, đồng nghiệp, người thân, anh ấy hầu như không quên ai cả. Về vấn đề tâm lý thì hơi không ổn một chút vì anh ấy đã phải nằm bệnh gần 3 năm rồi, vì thế mà dễ cáu, dễ buồn. Điều làm HP thấy an ủi rất nhiều là tình cảm của chồng HP vẫn như xưa, anh ấy vẫn rất yêu và thương HP. Chỉ có điều, hiện giờ HP không thể hàng ngày ở bên cạnh anh ấy được vì do điều kiện kinh tế gia đình có hạn, thời gian cần để chồng HP hồi phục lại quá dài nên HP đã đưa chồng về quê từ 2 tháng nay. HP đã thuê bác sĩ ở quê đến điều trị, cuối tuần làm việc xong HP lại về quê với chồng, sáng thứ 2 lên Hà Nội sớm để đi làm. Tuy biết chồng HP rất buồn nhưng do nhiều lý do và điều kiện kinh tế không cho phép nên HP đành làm vậy. Tuy nhiên, ngôi nhà chồng HP ở quê đã được bác Thiên Sứ về sửa phong thủy rất cẩn thận nên HP cũng thấy yên tâm hơn rất nhiều. Từ ngày về nhà, HP cũng cảm thấy sức khỏe anh ấy cũng có tốt hơn. Hiện tại chồng HP đã tập đứng được rồi. Đây là một tiến bộ vượt bậc của anh ấy vì từ trước tới giờ chỉ có thể nằm một chỗ. Tuy thời gian đứng được của anh ấy mới chỉ gần 2 phút/lần nhưng HP cũng thấy rất mừng rồi. Giờ vấn đề lớn nhất của chồng HP là phải tập vận động phục hồi chức năng. HP cũng vừa đọc thấy trên diễn đàn có đề cập đến thầy Yên trong Bình Dương và ngoài Bắc có sư thấy Nghĩa ở Ứng Hòa, HP sẽ cố gắng đi hỏi thăm thêm. Nếu thầy Yên có ra ngoài Bắc chữa trị xin cô Wild và các anh chị em cho HP được biết. HP xin cám ơn rất nhiều. Như vậy là cũng đã 2 năm rưỡi kể từ khi vợ chồng HP gặp tai nạn, cũng là hơn 2 năm HP may mắn được bác Thiên Sứ giúp đỡ, nhận được sự quan tâm chia sẻ của các cô chú và các anh chị em trên diễn đàn. HP xin một lần nữa được gửi lời cám ơn chân thành tới tất cả các cô chú, các anh chị em trên diễn đàn, những người HP chưa từng gặp mặt, đã luôn động viên, giúp đỡ HP trong suốt thời gian qua. Với bác Thiên Sứ, người mà HP mang ơn suốt đời, HP thực sự không biết nói gì. HP mong một ngày anh ấy có thể bình phục, đi lại được, HP sẽ cùng anh ấy đến gặp bác Thiên Sứ như một lời cám ơn tấm lòng mà bác đã dành cho vợ chồng HP. HP mong bác Thiên Sứ cùng mọi người sẽ giúp đỡ HP trên con đường phía trước. Vì HP biết rằng tuy giai đoạn nguy kịch đã qua đi nhưng một cuộc chiến đấu khác đã lại bắt đầu. HP tự gọi đó là cuộc chiến đấu với số phận. HP cũng không biết đức năng có thắng được số không, nhưng HP chắc chắn sẽ cố gắng. HP chỉ mong mình sẽ có đủ nghị lực và niềm tin và sự kiên trì nữa. Bác Thiên Sứ đã một lần giúp chồng HP giành lại được cuộc sống, đã giúp chồng HP tỉnh lại (trong khi tây y đã kết luận là rất khó nếu không muốn nói là ko có khả năng hồi tỉnh). Vì thế HP sẽ hi vọng... Xin cám ơn tất cả mọi người1 like
-
Những điểm nhất của Bạch Dương Dễ bị hiểu lầm nhất, không sợ bị chụp hình nhất, biện luận giỏi nhất, mùi vị nam tính nhất, tò mò nhất, thích kích thích nhất, không sợ phiền não nhất, dễ bất hòa với người khác vì 1 lời nói nhất, to gan nhất, chịu thú tội nhất, xung động nhất, sức khỏe nhất, chủ nghĩa đại nam nhân nhất, trong lúc khó khăn không bình tĩnh nhất, dũng cảm để thay đổi nhất, tích cực nhất, bất cẩn nhất, kiên cường nhất, tốt bụng nhất, xem trọng bằng hữu nhất Những điểm nhất của Kim Ngưu Không thích cờ bạc nhất, ăn nhiều nhất, động tác chậm nhất, sợ thay đổi nhất, bảo thủ nhất, yêu hòa bình nhất, có khí chất nghệ thuật nhất, chăm chỉ nhất, trì hoãn nhất, giữ trật tự nhất, chịu đựng giỏi nhất, thích nấu ăn nhất, dịu dàng nhất, truyền thống nhất, tận dụng thời gian nhất, yêu tiền nhất, cố chấp nhất, tiếng hát hay nhất, dễ xấu hổ nhất, sợ lãng phí nhất, thường nghiêm trọng hóa nhất, có nhân duyên lạ nhất, có đi có lại nhất, cũng có phần nữ tính nhất Những điểm nhất của Song Tử Có nhân duyên nhất, hòa nhã nhất, biết nắm lấy cơ hội nhất, không có nguyên tắc nhất, nhiều may mắn nhất, nhiều tưởng tượng nhất, lời nói trái với lòng nhất, có khả năng hôn nhân quốc tế nhất, dễ dàng phân tâm nhất, có ngôn ngữ cơ thể nhất, cầm lên được bỏ xuống được nhất, mâu thuẫn nhất, nhiều khả năng gả vào nhà hào môn nhất, nhiều nữ cường nhân nhất, tranh luận giỏi nhất, thất thường nhất, sẽ học được chí ít 2 ngôn ngữ nhất, thích kích thích nhất, nhiều tính cách nhất, cũng tự chế nhạo mình nhất Những điểm nhất của Cự Giải Tình cảm nhất, quan tâm nhất, yêu gia đình nhất, yêu hòa bình nhất, không có chủ kiến nhất, si tình nhất, dễ mắc cỡ nhất, có mùi vị tình nhân nhất, gan nhỏ nhất, thích phiền muộn nhất, ít nữ cường nhân nhất, dễ dàng cảm thấy mãn nguyện nhất, không có mưu mô nhất, dùng tâm nhiều nhất, biết tự đánh giá bản thân nhất, lo nghĩ cho gia đình nhất Những điểm nhất của Sư Tử Thích náo nhiệt nhất, thích phát biểu nhất, chủ quan nhất, tự trọng nhất, giữ thời gian nhất, không thích dò xét nhất, thích chỉ huy người khác nhất, thích nói nghĩa khí nhất, thích tự luyến nhất, xung động nhất, không chịu thua nhất, thích bảo vệ nhất, không có bí mật nhất, lúc khó khăn không bình tĩnh nhất, táo bạo nhất, sợ cô đơn nhất, quang minh lỗi lạc nhất, dễ nhìn thấu nhất, thích trang phục màu sắc nhất, không có lòng kiên nhẫn nhất, tự tin nhất Những điểm nhất của Xử Nữ Thận trọng nhất, thuần khiết nhất, sẽ tự đánh giá bản thân nhất, thích xem tivi nhất, mong cầu tri thức nhất, nói lời trái với lòng nhất, thực tế nhất, có quan niệm thời gian nhất, điều kiện lựa chọn cao nhất, cũng thô lỗ mưu mẹo nhất, có khả năng kết hôn muộn nhất, dễ dàng làm giàu nhất, dễ nhìn thấy sự thật nhất, dễ ghi hận nhất, xem trọng thi cử nhất, lý trí nhất, hùng biện nhất, cần nơi nương tựa nhất, thích sạch sẽ nhất, có nhân duyên lạ nhất, không chủ động thú nhận nhất, chủ nghĩa hoàn mỹ nhất Những điểm nhất của Thiên Bình Tranh luận nhất, xa vời nhất, thích an nhàn không thích lao động nhất, khách quan nhất, công chính nhất, thích xem tivi nhất, yêu cái đẹp nhất, không chịu thua nhất, thích kết giao bạn bè nhất, thích do dự nhất, thích giả khờ nhất, xem trọng bề ngoài nhất, có xu hướng sùng bái nhất, thích nói điện thoại nhất, thích thời trang nhất, thích tự luyến nhất, thích nhiều anh đẹp trai chị đẹp gái nhất, hoang phí tiền nhất, có nhân duyên lạ nhất, thú vui theo đuổi tình ái nhất, không ghi hận nhất. Những điểm nhất của Thiên Yết Giữ bí mật nhất, làm theo chủ ý nhất, ghi hận trong lòng nhất, gợi cảm nhất, không tin vào bản chất con người nhất, có nhân duyên lạ nhất, nói lời trái với lòng nhất, nguy hiểm nhất, lo âu xa xôi nhất, sợ ồn ào nhất, chiếm hữu mạnh nhất, chủ nghĩa đại nam nhân nhất, dễ dàng mắc cỡ nhất, kiểm tra triệt để nhất, háo sắc nhất, lúc giận đáng sợ nhất, nhiều mỹ nữ nhất, có phán đoán nhất, tìm ra bí mật nhất, có sức hút nhất, thích hợp làm 007 nhất Những điểm nhất của Nhân Mã Không có lòng kiên trì nhất,thích kết giao bạn bè nhất,yêu hòa bình nhất, không thích dùng lực nhất, động tác nhanh nhất, nhiều anh đẹp trai nhất, dễ dàng kết giao bạn xấu nhất, thích sự kích thích nhất, dễ có bụng bia nhất, tổn thương người khác nhất, lạc quan nhất, vui vẻ nhất, thành thật nhất, không ăn mặc cẩu thả nhất, không ghi hận nhất, yêu chuộng bên ngoài nhất, sợ nhàm chán nhất, cầm lên được bỏ xuống được nhất, không có phiền não nhất, thích cười giỡn nhất Những điểm nhất của Ma Kết Không lãng mạn nhất, dễ làm giàu nhất, lý trí nhất, chăm chỉ nhất, sợ những thứ "kinh" nhất, có lòng thăng tiến nhất, suy nghĩ trước người khác nhất, chú ý tập trung cao nhất, làm theo chủ ý nhất, không biết nắm bắt cơ hội nhất, không chịu được những lời chỉ trích nhất, được nhờ cậy tín nhiệm nhất, xem trọng thi cử nhất, khi yêu dùng tình cảm nhất Những điểm nhất của Thủy Bình Không xem trọng tiền nhất, quái nhất, thích yêu một mình nhất, không có khái niệm về giới tính nhất, trì hoãn thời gian nhất, không xem trọng quy tắc nhất, thích ảo tưởng nhất, thích tán gẫu nhất, thích học hỏi bên ngoài nhất, cần không gian cho bản thân nhất, nảy sinh ra ý tưởng nhất, thích ngủ nhất, lười nhất, lý trí nhất, tự nhiên nhất, hành động theo cách riêng nhất, có khả năng thành "ngựa chiến" nhất, lúc khó khăn giữ bình tĩnh nhất, khó hiểu nhất, tự cường nhất Những điểm nhất của Song Ngư Mộng tưởng loạn lạc nhất, cảm giác chuẩn nhất, thích làm mặt hề nhất, lương thiện nhất, dịu dàng ngất, không có quan niệm tiền bạc nhất, có mùi vị phụ nữ nhất, nhớ kỷ niệm cũ nhất, có tinh thần hy sinh nhất, hiểu ý người khác nhất, ngây thơ nhất, thích khóc nhất, bộ nhớ tốt nhất, dễ bị lừa nhất, lãng mạn nhất, biện luận giỏi nhất, lạc quan nhất, thích nhàn nhã không thích làm việc nhất, có tinh thần phục vụ nhất, cùng "tộc mèo" thức đêm nhất1 like
-
12 chòm sao đối với người yêu cũ của mình như thế nào ? Bạch Dương: lạnh nhạt, Kim Ngưu: tự trách, Song Tử: không để ý, Cự Giải: nghĩ trong lòng, Sư Tử: hạ mình chờ đợi .. phục thù, Xử Nữ: nguội lòng, Thiên Bình: bồi hồi, Thiên Yết: thù hận, Nhân Mã: quyết không quay đầu, Ma Kết: kiên tâm chờ đợi Thủy Bình: có niềm vui mới ko tính chuyện cũ, Song Ngư: dò đoán, vẫn không cắt đứt được Đừng bao giờ cùng 12 chòm sao thi đấu cái gì ? Đừng đấu Khí với Bạch Dương. Đừng đấu Kiên Nhẫn với Kim Ngưu. Đừng đấu Trí với Song Tử. Đừng đấu Sức Ăn với Cự Giải. Đừng đấu Dũng Cảm với Sư Tử. Đừng đấu Sạch Sẽ với Xử Nữ. Đừng đấu Mồm với Thiên Bình. Đừng đấu Nguy Hiểm với Thiên Yết. Đừng đấu Tốc Độ với Nhân Mã. Đừng đấu Vững Chắc với Ma Kết. Đừng đấu Trí Nhớ với Thủy Bình. Đừng đấu Nước Mắt với Song Ngư. 12 chòm sao ai là "vua ghen" trong các vua ghen Thiên Bình ★; Sư Tử ★★; Song Tử ★★; Ma Kết ★★; Nhân Mã ★★★; Bạch Dương ★★★; Thủy Bình ★★★; Song Ngư ★★★★; Kim Ngưu ★★★★; Xử Nữ ★★★★; Thiên Yết ★★★★; Cự Giải ★★★★★1 like
-
Tình hình 12 chòm sao sau nổi giận Bạch Dương: ra vẻ lạnh lùng thờ ơ, Kim Ngưu: để thời gian trôi qua bình tĩnh lại, Song Tử:tự kỷ, Cự Giải: chiến tranh lạnh, Sư Tử: sẽ không chủ động cúi đầu, Xử Nữ: hợp thì đến không hợp thì tan tốt hơn, Thiên Bình: sinh hoạt bị lẫn lộn, Thiên Yết: lạnh lùng như băng, Nhân Mã: lát sau là quên sạch, Ma Kết: cố làm như kiên cường, không lộ sắc mặt, Thủy Bình: chủ động hòa giải, Song Ngư: dùng nước mắt thay lời nói Những chuyện ngốc nghếch mà 12 chòm sao thường làm Bạch Dương: lái xe lạc đường, Kim Ngưu: không phân nặng nhẹ chuyện ăn uống, Song Tử: nghĩ rằng mình là người cầm đầu, Cự Giải: bỏ học 1 tuần lễ chỉ vì bạn trai, Sư Tử: chơi quá độ quên làm bài tập, Xử Nữ: hành động không đúng bối cảnh, Thiên Bình: thấy người khác có cái gì cũng muốn, Thiên Yết: xài tiền hoang phí, Nhân Mã: cách ngày bỏ học vì chơi đến trời sáng, Thủy Bình: chơi trò nghi ngờ, Song Ngư: "phóng điện" bừa bãi 12 chòm sao thích "giả" cái gì nhất ? Bạch Dương: giả vĩ đại, Kim Ngưu: giả thành thật, Song Tử: giả khoan dung, Cự Giải: giả dịu dàng, Sư Tử: giả hiểu biết, Xử Nữ: giả hoàn mỹ, Thiên Bình: giả yếu ớt, Thiên Yết: giả thần bí, Nhân Mã: giả ngọt ngào, Ma Kết: giả chín chắn, Thủy Bình: giả lý trí, Song Ngư: giả khờ Xếp hạng 12 chòm sao nhìn xa trông rộng, có thể tự kế hoạch cho tương lai của mình Quán Quân : Thiên Yết, Á Quân : Thiên Bình, Quý Quân : Nhân Mã, Hạng 4 : Xử Nữ, Hạng 5 : Cự Giải, Hạng 6 : Ma Kết, Hạng 7 : Thủy Bình, Hạng 8 : Kim Ngưu, Hạng 9 : Sư Tử, Hạng 10 : Bạch Dương, Hạng 11 : Song Ngư, Hạng 12 : Song Tử. Xếp hạng 12 chòm sao, ai yêu khóc nhất Quán Quân : Song Ngư, Á Quân : Cự Giải, Quý Quân : Song Tử, Hạng 4 : Xử Nữ, Hạng 5 : Thiên Yết, Hạng 6 : Sư Tử, Hạng 7 : Thiên Bình, Hạng 8 : Kim Ngưu, Hạng 9 : Ma Kết, Hạng 10 : Thủy Bình, Hạng 11 : Bạch Dương, Hạng 12 : Nhân Mã1 like
-
12 chòm sao ai có tinh thần trầm cảm cao độ Quán Quân : Thủy Bình, Á Quân : Cự Giải, Quý Quân : Bạch Dương, Hạng 4 : Thiên Yết, Hạng 5 : Xử Nữ, Hạng 6 : Song Ngư, Hạng 7 : Ma Kết, Hạng 8 : Kim Ngưu, Hạng 9 : Song Tử, Hạng 10 : Sư Tử, Hạng 11 : Thiên Bình, Hạng 12 : Nhân Mã 12 chòm sao và những quan hệ mờ ám Song Tử: quan hệ thầy trò mờ ám, Thiên Bình: mạng lưới mờ ám, Thiên Yết: tình cảm khác nước mờ ám, Nhân Mã: bí mật mờ ám, Kim Ngưu: tình cảm cùng giới mờ ám, Thủy Bình: sự vô ý mờ ám, Song Ngư: tình cảm tỷ-đệ or huynh-mụôi mờ ám, Bạch Dương: tình cảm đồng nghiệp mờ ám, Ma Kết: sự tình cờ mờ ám, Cự Giải: bản thân mờ ám, Xử Nữ: tình sử mờ ám, Sư Tử: bức bách mờ ám Sức mê hoặc của 12 sao nam Bạch Dương : mạnh mẽ và thẳng thắn, Kim Ngưu : hành sự cẩn trọng và bác học, Song Tử : phong thái cười đùa và thông minh, Cự Giải : đầy tính trách nhiệm và dịu dàng, Sư Tử : tính tình bá đạo nhưng rộng lượng, Xử Nữ : cẩn thận, tinh tế và đáng yêu. Thiên Bình : phong độ đẹp trai có khí chất, Thiên Yết : chủ nghĩa cố chấp nhưng chung tình, Nhân Mã : vui vẻ hòa đồng và hào phóng. Ma Kết : hoạch định tính toán đúng và hiệu quả, Thủy Bình : nghe lời, thuận theo lại chu đáo, Song Ngư : lương thiện hiểu ý và chân thành. Sau khi chia tay, chòm sao nào đau lòng nhất Nhân Mã => Không dễ dàng rời khỏi Nhân Mã đâu Xếp hạng "dùng tình cảm sâu nhất" của 12 chòm sao Quán Quân : Bạch Dương, Á Quân : Kim Ngưu, Quý Quân : Song Ngư, Hạng 4 : Sư Tử, Hạng 5 : Xử Nữ, Hạng 6 : Thiên Yết, Hạng 7 : Ma Kết, Hạng 8 : Cự Giải, Hạng 9 : Nhân Mã, Hạng 10 : Thiên Bình, Hạng 11 : Thủy Bình, Hạng 12 : Song Tử. 12 chòm sao và biểu hiện lúc yêu thích 1 người Bạch Dương : không có chuyện cũng ân cần, Kim Ngưu : đối với bạn đột nhiên hào phóng, Song Tử : thường bắt bạn cùng chơi đùa, Cự Giải : thường gửi tin nhắn hỏi han bạn, Sư Tử : mượn cơ hội để hẹn bạn, Xử Nữ : đối với bạn rất quan tâm, Thiên Bình : không dám nhìn thẳng bạn, Thiên Yết : đối với bạn đặc biệt nhiệt tình, Nhân Mã : hát sai điệu với bạn, Ma Kết : nói chuyện về cuộc sống và công việc với bạn, Thủy Bình : đối với bạn lúc nóng lúc lạnh, Song Ngư : gặp bạn là sẽ đỏ mặt.1 like
-
Cần bao nhiêu thời gian để 12 chòm sao quên đi 1 người Song Ngư : 10 năm, Bạch Dương : 3 ngày, Kim Ngưu : 5 năm, Song Tử : 6 tháng, Cự Giải : cả đời, Sư Tử : 1 năm, Xử Nữ : 3 năm, Thiên Bình : 3 tháng, Thiên Yết : 1 tháng, Nhân Mã : 1 phút, Ma Kết : 3 tháng, Thủy Bình : 2 tuần Nét riêng biệt nhất của 12 chòm sao Bạch Dương : bướng bỉnh nhất, Kim Ngưu : hiện thực nhất, Song Tử : ồn ào nhất, Cự Giải : thần kinh nhất, Sư Tử : sĩ diện nhất, Xử Nữ : am tường nhất, Thiên Bình : chính nghĩa nhất, Thiên Yết : không nhìn ra được nhất, Nhân Mã : vui vẻ nhất, Ma Kết : điềm đạm nhất, Thủy Bình : khó hiểu nhất, Song Ngư : thích khóc nhất. Điểm đẹp của 12 chòm sao Bạch Dương : hiệu suất, Kim Ngưu : chân thành, Song Tử : linh hoạt, Cự Giải : dịu dàng, Sư Tử : chủ kiến, Xử Nữ : cẩn thận, Thiên Bình : thanh nhã, Thiên Yết : trực giác, Nhân Mã : rộng rãi, Ma Kết : thành thật, Thủy Bình : chân lý, Song Ngư : tốt bụng Thú vui lớn của 12 chòm sao Ma Kết: làm việc Thủy Bình: biến đổi ý tưởng Song Ngư: yêu đương Bạch Dương: du lịch Kim Ngưu: xài tiền Song Tử: tưởng tượng và giao tiếp Cự Giải: ở nhà Sư Tử: chia sẻ Xử Nữ: lựa chọn Thiên Yết: ngồi coi nhà Nhân Mã: tất cả đều chơi Thiên Bình: chơi điện thoại, Ipad Chỉ số đo được chòm sao nào "lộn xộn" nhất Nhân Mã (97%), Song Tử (95%), Song Ngư (94%), Thủy Bình (90%), Thiên Bình (85%)1 like
-
12 chòm sao khi đối diện với khó khăn Bạch Dương : dốc toàn sức đập tan khó khăn, Kim Ngưu : vất vả phấn đấu giải quyết nguy khó, Song Tử : đẩy cho người khác, Cự Giải : dù mệt cũng cố gắng làm xong, Sư Tử : không chịu tiếp tay, Xử Nữ : lao vào tiếp tục làm, Thiên Bình : gọi người tình nguyện giúp, Thiên Yết : động đất hay núi sập cũng không ngăn được quyết tâm, Nhân Mã : tiếp tục chơi, Ma Kết : không nói 2 lời - lập tức hoàn thành, Thủy Bình : ra nhiều chủ ý quỷ quái, Song Ngư : bên thì ảo tưởng, bên thì gấp gáp hoàn thành 12 chòm sao khi bị áp lực có biểu hiện Bạch Dương : nổi cơn nóng nảy, Kim Ngưu : cuồng ăn, Song Tử : không ngừng nói chuyện, Cự Giải : trốn trong chăn, Sư Tử : thô bạo, Xử Nữ : không ngủ, Thiên Bình : len lén rơi nước mắt, Thiên Yết : viết nhật ký, Nhân Mã : mất tích, Ma Kết : chia sẽ với người yêu, Thủy Bình : bỏ đi thứ gì đó, Song Ngư : cần nước. Chòm sao tình nhân, đến "chết rồi" vẫn còn muốn yêu TOP1 : Bạch Dương nam - Nhân Mã nữ, TOP2 : Sư Tử nam - Kim Ngưu nữ, TOP3 : Cự Giải nam - Ma Kết nữ, TOP4 : Kim Ngưu nam - Song Ngư nữ, TOP5 : Thiên Yết nam - Bạch Dương Nữ. Lương thực "tinh thần" của 12 chòm sao Bạch Dương : kinh nghiệm, Kim Ngưu : giải thưởng, Song Tử : bộ phim kinh điển, Cự Giải : tình thân, Sư Tử : khen thưởng, Xử Nữ : sách, Thiên Bình : âm nhạc, Thiên Yết : tình yêu, Nhân Mã : vui vẻ, Ma Kết : mục tiêu, Thủy Bình : tình bạn, Song Ngư : mộng đẹp Đứa con của 12 chòm sao sẽ như thế nào ? đứa trẻ của Bạch Dương : tài hoa xuất chúng. đứa trẻ của Kim Ngưu : ngoan hiền, khéo léo. đứa trẻ của Song Tử : nhân duyên tốt. đứa trẻ của Cự Giải : là vấn đề khó (ko đoán được). đứa trẻ của Sư Tử : có tiềm chất triết học. đứa trẻ của Xử Nữ : có bàn tay kỹ thuật đứa trẻ của Thiên Bình : độc lập hào hiệp. đứa trẻ của Thiên Yết : rất yêu kiều, dễ mến. đứa trẻ của Nhân Mã : sức sống mạnh mẽ. đứa trẻ của Ma Kết : có tầm nhìn cao về tiền bạc. đứa trẻ của Thủy Bình : thông minh tuyệt đỉnh chuyện gì cũng biết. đứa trẻ của Song Ngư : có khí chất văn nghệ sĩ.1 like