• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 06/11/2012 in all areas

  1. Ba Luồng Ánh Sáng Trắng Trong quá khứ có một người sống tại một vùng núi non hẻo lánh, nên từ nhỏ không hề được giáo dục, chưa từng nghe Phật pháp, chỉ biết cần kiệm làm bổn phận cho qua kiếp con người. Bởi vì phước báo quá ít ỏi nên cho đến già mà vẫn còn nghèo nàn cùng khổ. Khi đã 60 tuổi, sau nửa năm bệnh hoạn, ông tiều tụy yếu ớt hẳn, biết sẽ không còn sống lâu trên đời nên gọi hai đứa con đến bên giường bệnh cho ông dặn dò lần cuối. Ông bảo đứa con trưởng rằng: – Em con còn nhỏ lắm, con thì đã biết làm việc rồi, con phải cẩn thận chăm lo cho em, con phải giữ trách nhiệm của người anh cả. Vài ngày sau, ông rời bỏ nhân thế khổ đau, khiến hai đứa con buồn khóc thảm thiết. Ba năm sau, người anh cưới một thiếu nữ sống cùng thôn làm vợ. Cô này là người không có giáo dục, lại tâm địa độc ác không biết đến tình nghĩa huynh đệ. Thấy chồng hậu đãi em, cô không bằng lòng. Cô thường nói với chồng rằng: – Hay là chúng ta cho nó một vài thứ trong nhà rồi bảo nó tự lập kế mưu sinh. Hiện giờ còn nhỏ nó sẽ không làm gì khác được chứ mai mốt nó lớn lên thì phiền lắm, anh muốn đuổi nó đi, chưa chắc nó đã chịu đi! Nhưng người anh vẫn còn cái tình nghĩa chất phác của người miền núi, lại còn nhớ rõ lời di chúc của cha nên mỗi khi nghe vợ nói thì bịt tai lắc đầu quầy quậy. Tục ngữ nói rất đúng, gần mực thì đen gần đèn thì sáng. Sống cả ngày gần một người vợ tâm địa xấu xa, cứ thừa mọi dịp nói đi nói lại mãi những lời độc ác, dần dà người anh bị huân tập, làm sao không biến thành ác độc? Lời nói giả dối mà cứ lặp đi lặp lại mãi cũng trở thành chân thật. Cuối cùng người anh cũng giống như vợ, bắt đầu ghét bỏ người em. Một hôm, người anh nghe lời vợ, đem người em tới nghĩa địa rất xa thành phố. Đó là một nơi rất ghê rợn, vì theo tập tục Ấn Độ, người chết đi thì đem tử thi vứt vào đấy cho chim chóc thú vật tới mổ rỉa mà ăn. Nghĩa địa rất u ám, xương trắng ngổn ngang, luôn luôn có tiếng chim kêu thê lương như tiếng quỷ khóc trong địa ngục. Vào bên trong thì cái khí âm u của nghĩa địa làm cho người ta lạnh run lên. Vào sâu bên trong nữa có một ngọn cây cao đến tận từng mây, cành lá chằng chịt che trùm cả khe núi. Người anh lấy một sợi dây thừng mang theo, trói thúc người em lại rồi treo lên một cành cây to, vừa trói vừa bảo em: – Không phải anh tàn nhẫn, nhưng nói thật em làm cho anh phiền lo nhiều quá. Em hãy ở đây suy nghĩ cho kỹ anh nói có đúng không, vài bữa nữa anh tới đón em về. Nói xong, người anh quay đầu chạy mau trở về nhà, không màng tới tiếng kêu van xin bi thảm của em. Thật ra người anh rất mâu thuẫn, lòng thương em rất mực đã bị bà vợ dùng giọng nói nét mặt nghiêm khắc đàn áp xuống. Anh ta rất đau khổ nhưng không đủ sức chống lại vợ. “Thôi, để cho nó đánh cuộc với định mệnh xem sao! Nếu nó thoát được miệng hổ lang thì đó là nó có phúc báo, còn nếu không thì coi như là số của nó đã định như vậy. Ta đối với nó như thế đã là từ bi lắm rồi, thay vì nghe lời vợ cầm dao giết nó!” Trên đường về, ngươi anh nghĩ như thế để tự trấn an mình. Trời dần dần tối. Trong màn đêm đen kịt, tiếng chim kêu thảm khốc càng ngày càng to. Rồi lại có thêm những âm thanh kỳ quái hỗn tạp cũng vọng lại, như báo hiệu yêu quỷ sắp hiện hình. Đêm sâu dần, hổ, báo, sư tử, chó sói cũng lục tục kéo đến, rống lên từng hồi như muốn hớp hết hồn phách của người ta. Những tia mắt xanh lè, tham lam hung ác đổ dồn về phía gốc cây cổ thụ. Trên cây, người em cố hết sức giãy giụa khóc la: – Cứu tôi với! Trời ơi! Thần thánh ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!... Nó la hét như một người điên cho đến nỗi máu tươi từ trong miệng trào ra. Ngay lúc ấy, tại thành Vương Xá xa xôi, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang trụ trong Kim Cương Tam Muội. Ngài nghe tiếng kêu cầu của đứa trẻ đáng thương, và nhìn thấy rõ tình cảnh nguy ngập mà nó đang lâm phải, nên Ngài dùng thần lực phóng ra một luồng ánh sáng từ giữa hai lông mày. Trong nghĩa địa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng trắng kỳ dị chiếu tới khiến khe núi u ám rợn người ấy chợt rực sáng lên. Những con dã thú hung hăng bị luồng ánh sáng trắng chiếu tới, lùi dần từng bước, từng bước, có con quay mình chạy chí tử. Lại có một luồng ánh sáng màu trắng khác mạnh mẽ hơn chiếu thẳng tới sợi dây thừng trên người đứa em. Như thể bị chạm phải một ngọn lửa mạnh hay một lưỡi dao bén, sợi dây kêu lên răng rắc và đứt đoạn từng khúc một. Tiếp theo lại có một luồng ánh sáng trắng thứ ba, dịu dàng chiếu lên thân đứa em. Nó như bị tê liệt rơi xuống đất, đau đớn nhức nhối ngất lịm đi. Bỗng nó cảm thấy như có người đang nhẹ nhàng vỗ về khiến cho nó cảm thấy thư thái lạ kỳ. – Con thật là đáng thương! Một giọng nói dịu dàng từ ái vang lên bên tai. Nó tỉnh lại và có một cảm giác lạ lùng khiến bao nhiêu đau đớn trong người tan biến hết. Ngẩng đầu lên nhìn, nó thấy một người cao lớn trang nghiêm đang đứng trước mặt nó, người ấy lại hiền từ nhìn nó mỉm cười. Kinh ngạc quá độ, nó ấp úng không biết phải nói gì: – Ngài là... ngài là... – Ta là Phật! – A! Ngài là Phật tổ đó sao! Con thấy Ngài thật rất uy nghi khả kính. Con nguyện sau này sẽ làm Phật giống như Ngài để cứu mình và cứu người! Đứa bé liền phủ phục năm vóc xuống đất lễ lạy. Đức Phật cho nó quy y và đưa nó về thành Vương Xá. Từ đó, người em sống trong tăng đoàn, cùng chúng đệ tử của đức Phật tu hành, nghe kinh thính Pháp, không lâu sau thì chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn. Người em chứng đạo rồi nhớ đến anh mình, liền đến trước đức Phật bạch rằng: – Bạch Thế Tôn! Anh con tuy đã có lòng ám hại con, nhưng nhờ thế mà con được gặp Phật và được Phật cứu độ. Như vậy, thành tựu hôm nay của con là nhờ anh con mà có. Nay con muốn về hóa độ anh ấy, nên con xin phép Thế Tôn cho con vắng mặt một thời gian. – Rất tốt! Ta rất ngợi khen suy nghĩ đó của con. Người em bèn dùng thần thông bay về nhà của anh. Bà chị dâu thấy được, vội vàng chạy vào nhà trốn. Bà tưởng rằng người em bị hại nhưng không chết nên nay trở về báo thù. Nhưng người em đã gọi lớn: – Anh chị ơi, anh chị không cần chạy trốn. Em không oán hận anh chị chút nào mà còn muốn tạ ơn anh chị nữa. Nhờ anh chị mà em gặp được ân sư là đức Phật, chứng được quả vị, thoát khỏi sinh tử. Em đặc biệt trở về đây để cám ơn anh chị. Em cũng hy vọng anh chị có thể tu học Phật pháp để sớm thoát khổ. Tài sản, của cải cho đến tính mệnh của chúng ta trên thế giới này đều là vô thường, nếu làm đủ cách để truy cầu chúng thì dẫu có được đi nữa, cũng có ngày chúng sẽ bỏ chúng ta mà đi. Anh chị nghĩ kỹ xem, có gì thật sự thuộc về chúng ta đâu? Hãy bỏ chúng đi, lấy cái tâm tưởng và tinh lực để truy cầu chúng dành cho việc truy cầu Phật pháp, vì đó mới là kho tàng chân chính. Kho tàng này mới thật sự vĩnh cửu không bao giờ mất, đem lại cho chúng ta gia tài bảo vật và cả niềm an vui nữa. Những lời nói ấy làm cho vợ chồng người anh như bừng tỉnh mộng, nhất là lòng khoan dung độ lượng của người em, đã không oán trách lỗi lầm xưa mà còn lo nghĩ tới niềm phúc lạc của họ nữa. Đó chính là sức mạnh đã giúp họ có can đảm sám hối tội đã làm. Chỉnh đốn việc gia đình nhà cửa xong xuôi, cả ba cùng sánh vai nhau tiến về hướng tinh xá Trúc Lâm. Và từ đó họ trở thành những đệ tử tinh chuyên nhất của Phật-đà. Truyện cổ Phật giáo Diệu Hạnh Giao Trinh dịch
    3 likes
  2. Trong những truyền thuyết liên quan đến Phật giáo và gần như trở thành chính thống trong văn hóa Phật giáo, chính là đoạn mô tả dòng họ Thích Ca bị vua Lưu Ly tiêu diệt. Và đức Phật cùng các chư Phật đã không thể cửu dòng họ Thích. Theo tôi đây là một mâu thuẫn lớn nhất trong văn hóa Phật giáo. Nếu như có một đề nghị nào với các vị Thiền Sư cao cấp nhất của Phật giáo có quyền năng hóa giải thì tôi đề nghị loại bỏ truyền thuyết này ra khỏi văn hóa Phật giáo. Lập luận của tôi như sau: 1/ Trước hết, truyền thuyết này rõ ràng không phải là kinh Phật chính thống. Tất cả kính Phật chính thống - đều bắt đầu phải bắt đầu bằng câu " Tôi từng nghe...." (Như thị ngã văn...). Truyền thuyết này mô tả một sự kiện đức Phật đã nhập Niết bàn sau vài trăm năm. Đó là bằng chứng thể hiện nội dung này không thể do Đức Phật truyền giảng. Trong một tạng kinh - tôi quên mất tên - Đức Phật đã nói - Đại ý: "Sau này khi ta mất đi, sẽ có những kẻ nói giống như ta, nhưng không phải ý của ta. Nhưng nó xuyên tạc chân lý của ta và có tính phá hoại Phật Pháp. Đó là Ma Ba Tuần ". Truyền thuyết nói trên không phải trong tạng kinh chính thống của Phật pháp - như tôi phân tích ở trên và điều này quá rõ ràng. Bởi vậy phủ nhận nội dung của truyền thuyết này trong văn hóa Phật giáo, tôi không xúc phạm đến Phật pháp. Nhân đây tôi nói thêm để so sánh - vì web của chúng ta nghiên cứu về cổ văn hóa sử - rằng: Tôi nhận thấy sự tương đồng về việc lưu truyền những truyền thuyết lịch sử về Thời Hùng Vương với phương pháp lưu truyền văn bản chính thống của Phật pháp có nhiều điểm tương đồng. Đó là, những truyền thuyết lịch sử chính thống về thời Hùng Vương bao giờ cũng bắt đầu bằng câu "Vào thời Hùng Vương thứ....", nhằm xác định không gian, thời gian; thì các tạng kinh chính thống của Phật Pháp bao giờ cũng bắt đầu bằng câu "Tôi từng nghe....". Sư tương đồng về phương pháp lưu truyền những giá trị chính thống trong cổ sử Việt và Kinh Phật đã chứng tỏ dấu ấn của sự hội nhập văn hóa giữa nền văn hiến Việt và Phật Pháp . Thời Hùng Vương sụp đổ vào năm 258 BC thì tất yếu Phật pháp phải giao lưu và được truyền bá trong xã hội Văn Lang ở Nam Dương tử từ rất lâu trước đó. Đây cũng là dấu ấn hóa thạch phi vật thể xác định Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam rất lâu. Điều này cũng làm sáng tỏ thêm về một tồn nghi trong lịch sử phát triển Phật giáo liên quan đến văn hiến Việt về một đất nước Vàng bí ẩn được ghi nhận trong công cuộc xiển dương Phật pháp ở những quốc gia gần gũi. Sự hòa nhập giữa hai tư tưởng minh triết Đông phương thuộc về văn hiến Việt là Đạo giáo và Phật pháp còn để lại rất nhiều ở các đình , chùa, đền miếu trong xã hội Việt Nam hiện nay, mà tôi nhận thấy trong những cuộc tham quan, du ngoạn ở các đinh chùa cổ Việt Nam. Nhưng đây thuộc về một đề tài khác không nằm trong topic này. Chúng ta sẽ bàn sau. 2/ BÀI CHƯA HOÀN CHỈNH
    3 likes
  3. Trời xanh mây trắng nắng chang chang. Cắt bánh nào... Rót rượu tình nồng thắm duyên ta... Một hai ba zô nào, kéo pháo ta vượt qua đèo... Tập trung vào chuyên môn. Một khúc tình ca... Tác nghiệp mọi lúc, mọi nơi... Mời anh chị em món tráng miệng... Đưng đây tinh thần thật sảng khoái, nỗi buồn chợt tiêu tan. Nhớ về tuổi thơ với trò chơi đá cỏ gà ngày xưa...
    3 likes
  4. CHÚC MỪNG HẠNH PHÚC THIÊN ANH CHÚC TÂN LANG TÂN NƯƠNG BÁCH NIÊN GIAI LÃO - VĨNH KẾT ĐỒNG TÂM Chủ Nhật ngày 04/11/2012, đoàn "đai biểu" đại diện Trung Tâm Nghiên Cứu - Lý Học Đông Phương đã có mặt tại Định Quán - tỉnh Đồng Nai để tham dự bữa tiệc thân mật cùng chúc cho đôi bạn Hoàng Anh - Châu Phương nên duyên mới cầm sắc, trăm năm hạnh phúc. Sau đi là 1 số hình ảnh ghi nhận từ chuyến đi. Thiên Anh & Thiên Em Đoàn "đại biểu" Lý Học Đông Phương Chú rể rất bảnh Cùng rót ly rượu hạnh phúc Đi ăn tiệc nên ai cũng hớn hở, ha ha Từ trái qua, đứng : longphibaccai, BabyWoft ngồi : viethq22, Thiên Đồng, Tùng Mỗi người 1 vẻ, 10 phân vẹn 11 Từ trái qua : tranlong07, Hạt gạo làng, BabyWoft, TrungNhan Ca sĩ Thiên Đồng trổ tài góp vui chúc mừng đôi tân gia nhân
    2 likes
  5. Luật Nghiệp Quả và Tướng Diện Trên thế gian nầy không một ai lại muốn mình xấu xí bao giờ, vì thế nếu có người sinh ra với dáng hình xinh đẹp thì hạnh phúc vui tươi còn kẻ khác có tướng mạo xấu xa thì lo âu buồn rầu. Thêm nữa, người có gương mặt khả ái thì dễ dàng thành công hơn trong vấn đề giao tế xã hội. Cũng vì tầm quan trọng về sắc đẹp nên hàng năm cộng đồng Việt Nam khắp mọi nơi thường tổ chức tuyển chọn hoa khôi để hãnh diện cho cộng đồng. Phái nữ thì thế còn phía nam phái thì cũng không khác biệt bao nhiêu, chúng ta thấy những tài tử nổi tiếng như Tom Cruise, Lý Tiểu Long, Trần Quang… thì người nào cũng thuộc hạng handsome boy cả. Ngày Đức Phật còn tại thế, hoàng hậu Mallika có hỏi Đức Phật về nguyên nhân nào để được sanh ra đẹp xấu. Đức Phật trả lời rằng:” Người có tâm nhu hòa, nhẫn nhục sẽ được đẹp đẽ và kẻ có tâm sân hận sẽ chịu xấu xí”Theo quan niệm của Đức Phật thì nét đẹp được tạo nên từ một tâm lý đạo đức lúc nào cũng có giá trị hơn là chỉ có cái đẹp bên ngoài mà không có một giá trị đạo đức bên trong. Dựa theo Luật Nghiệp Quả thì chúng ta có thể gây ra nhiều nghiệp nhân khác nhau để cuối cùng nhận được một quả báo xinh đẹp. Nhưng sắc đẹp nầy chưa chắc là một nét đẹp chân thật, hiền hòa. Trong lịch sử nhân loại từ Đông qua Tây chúng ta thấy rất nhiều những người đàn bà tuyệt đẹp với nhiều thủ đoạn độc ác để chiếm đoạt quyền hành và gây sóng gió khắp nơi. Cái phước xinh đẹp được gây từ nhiều nhân tốt mà thiếu mất cái nhân đạo đức chân thật, vì vậy từ nơi cái phước xinh đẹp họ đạt được đỉnh vinh quang mà cũng gieo rắc đau khổ cho nhiều người khác Vì sự giả dối, tạm bợ và không bền chắc của sắc đẹp nên Đức Phật luôn luôn khuyên chúng sinh nên vun bồi cái đạo đức bên trong thì nó sẽ là nên móng căn bản cho sắc đẹp bên ngoài và đây mới chính thật là một sắc đẹp nhận hậu và bền vững. Mỹ nhân trên thế gian nầy thì có đủ hạng. Có nét đẹp gây nên sự quý mến kính trọng trong sạch và cũng có nét đẹp gây nên sự ham muốn chiếm đoạt thấp hèn. Đôi khi chúng ta thấy có nét đẹp bày tỏ sự cao thượng từ tốn thì ngược lại cũng có nét đẹp lộ ra sự kiêu hãnh tự phụ. Có cô thì đẹp kín đáo và cũng có cô thì đẹp lẳng lơ. Phật dạy sở dĩ có sự khác nhau giữa các nét đẹp như thế bởi vì mỗi người đã gieo cho mình trong tiền kiếp những nghiệp nhân khác nhau. Nếu tự mình khéo gieo nhân, thì người ấy cũng có thể tạo cho mình một quả báo để có diện mạo đẹp đẽ về sau, nhưng nét đẹp đó không liên quan gì tới đạo đức. Do đó họ có thể là tuyệt thế mỹ nhân nhưng họ vẫn có thể là người ác. Gần đây nhiều bác sĩ tâm lý học đã đưa ra nhận xét là một người càng chú trọng tới việc trang điểm cá nhân nhiều chừng nào thì tâm địa càng hẹp hòi chừng ấy. Còn người đứng đắn là người chỉnh tề, vừa phải và không se xua chưng diện quá đáng. Sau cùng họ kết luận rằng một người có đôi mắt lẳng lơ cũng là người có tính tình độc ác hung dữ. Vì thế thói lẳng lơ hoa nguyệt với tính hung ác thường đi chung với nhau.Đối với quan niệm của Đông phương thì chữ đẹp thường đi đôi với chữ duyên lý do là dầu cho người đó có đẹp cách mấy thì sắc đẹp đó chỉ có thể thu hút kẻ khác những lúc ban đầu nhưng không giữ được tình cảm lâu bền vì không có duyên. Chữ duyên nói lên cái gì ẩn dấu kín đáo bên trong mà làm cho người khác phải xiêu lòng vì thế người có duyên mới là người giữ được tình cảm tốt của người khác một cách bền bĩ lâu dài.Người có duyên hiểu theo tinh thần đạo Phật là người đã từng kiên trì giữ giới hạnh, sắc son chung thủy với bạn đời, tín nghĩa với bạn bè, hiếu để với cha mẹ, trung hậu với chủ nhân và luôn cúng dường bố thí… Chính những cái phước duyên nầy đã kết tập để tạo cho họ một cái duyên ở đời sau làm cho mọi người quý mến họ mãi mãi. Do đó hầu hết các mệnh phụ phu nhân đều thuộc về hạng người có duyên nầy, còn các kỷ nữ thì phần lớn thuộc về loại đẹp mà vô duyên.Nếu có những người tính tình hay thay đổi, lòng dạ không thủy chung, hiếu để chẳng tròn, chữ tín không giữ ngay cả phát tâm làm phước rồi bỏ cuộc nửa chừng sẽ cảm nhận quả báo vô duyên ở đời sau. Vì vậy dù sắc đẹp lộng lẫy đi chăng nữa, họ cũng chỉ chiếm đoạt được cảm tình của người khác trong thời gian ngắn mà thôi. Cái duyên nó thường tiềm ẩn bên trong ánh mắt, làn da và phảng phất qua tiếng nói giọng cười vì vậy người vừa đẹp mà có duyên thì dĩ nhiên vừa được cảm tình của người mà còn được người quý mến.Nói chung con người tạo nghiệp trong quá khứ thì hiện tại những chủng tử của nghiệp báo sẽ tác tạo cái hình dáng của người đó dựa theo những quả báo của họ. Chẳng hạn một người trong quá khứ từng làm nhiều điều phước thiện như bố thí, giúp đỡ người nghèo khổ, ban niềm vui hạnh phúc cho kẻ khác do đó khi qua kiếp nầy thì người đó sẽ trở thành một kẻ giàu sang sung sướng. Luật Ngiệp Báo không dừng lại ở đây mà còn an bài thêm cho họ một gương mặt vui tươi, bình tĩnh, miệng cười duyên dáng, dáng điệu khoan thai và sắc da tươi mát. Trong thế gian, các nhà xem tướng số đã căn cứ vào hình tướng và sắc diện để đánh giá cuộc đời của một người. Chẳng hạn như người có tai to thì đại thọ còn kẻ có tai dày là sung mãn về tài vật. Người có răng trong đẹp là phú quý còn kẻ có lông mày gần mắt là hẹp hòi. Kẻ có trán rộng là vinh hiển sớm còn người có mũi to đầy kín là tạo được sự nghiệp kết xù. Sự hiểu biết và chính xác của các nhà tướng số chẳng qua là khả năng nhìn kỹ vào sắc diện và thần tướng của con người mà thôi. Thí dụ nhà tướng số nói năm nay anh sẽ bị tai nạn, xui xẻo, nhưng nếu cố làm điều thiện có thể tai qua nạn khỏi. Khi trông thấy thân chủ có sắc diện bất thường, con người nóng nảy, mặt mày không nhân hậu thì trước sau cũng xảy ra tai họa mà thôi. Nhưng sau một năm mà không thấy chuyện gì xảy ra thì nhà tướng số nói nhờ tu phước nên tai họa biến mất. Như thế thì đàng nào nhà tướng số cũng nói đúng cả. Vì tướng mạo là biểu hiện của nghiệp do đó nếu nghiệp thay đổi thì tướng mạo chắc chắn sẽ đổi theo. Ngày xưa có vị đại sư khi nhìn thấy những vầng đen trên trán của một đệ tử thì đoán rằng vận mệnh của người học trò nầy không thọ quá ba tháng nên cho phép người đệ tử được về quê thăm cha mẹ. Trên đường đi người đệ tử thấy một đàn kiến lớn sắp bị chết đuối ở bờ sông. Cậu ta bèn nhảy xuống sông dùng những khúc cây lớn để vớt từng nhóm kiến và sau đó đặt chúng lên bờ cho chạy đi. Sau khi về thăm và ở lại với cha mẹ ba tháng thì người đệ tử trở lại cửa thiền. Khi thấy người đệ tử còn sống trở về làm cho vị đại sư hết sức ngạc nhiên. Ngài quan sát tướng diện của cậu bé thì thấy những vầng đen trên trán đã biến mất không còn nữa và được thay bằng một làn da hồng hào tươi mát. Vị hòa thượng hỏi rõ ngọn ngành thì mới biết nghiệp thiện mà người đệ tử tạo ra đã cải đổi vận mệnh và thần tướng của người đệ tử nầy. Một câu chuyện khác là có anh bán than nghèo khổ lang thang được thầy tướng số cho biết là tương lai sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia anh bán than gặp một thiếu nữ đang ngồi khóc nức nở bên bờ giếng. Hỏi ra mới biết là cô đem vàng đi chuộc tội oan cho cha, nhưng chẳng may khi múc nước để uống thì cô đã đánh rơi túi vàng xuống giếng. Cô không dám xuống vì dưới giếng người ta nói có con rắn lớn rất hung dữ. Vì quá tuyệt vọng thiếu nữ muốn quyên sinh. Nghe xong anh bán than tự nghĩ trước sau mình cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được túi vàng cho cô gái. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Khi gặp lại, nhà tướng số rất đổi kinh ngạc nói với người bán than là tướng chết đói của ông ta đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ huy hoàng.Thật vậy, vì mang ơn cứu gia đình nên thiếu nữ đem anh bán than về dạy dỗ và kết nghĩa vợ chồng. Sau đó vì muốn tiến thân, cha thiếu nữ gởi gấm chàng bán than sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Trên bước đường tiến thân, anh bán than ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn. Nhưng vừa mới gặp, nhà tướng số lại bảo tướng chết đói lại hiện trở lại làm anh bán than tức giận bỏ đi.Sau khi được làm quan, anh bán than đã đánh mất nhân cách, chỉ lo cưỡng bức các cô gái đẹp nên bị triều đình hạ lịnh bắt về kinh trị tội. Quá sợ hãi, anh trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một tảng đá. Người vợ đau khổ tìm chồng trông thấy xác chết cũng gục chết theo. Khi liều mình để cứu người khác là sự bố thí nội tài rộng lớn. Cái phước đức đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để giúp cho anh bán than được công danh vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cứng ngắc cố định. Nếu nghiệp thay đổi thì tướng mạo cũng đổi thay. Do đó hằng ngày nếu chúng ta luôn thực tập môn bố thí từ nội tài đến ngoại tài để cứu giúp mọi người thì chắc chắn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp viên mãn. Nếu nghiệp đã in dấu lên diện mạo của một người thì nghiệp cũng in dấu lên thời điểm ra đời của người đó. Dựa vào ngày giờ năm sinh của một người mà môn tử vi được xuất hiện. Thật vậy vào cuối đời nhà Đường bên Tàu có ông Trần Đoàn đã khám phá ra phương pháp lập một lá số tử vi dựa vào ngày giờ năm sinh của một người. Nhân lúc chạy loạn ông có gặp một ngườì đàn bà đang gánh hai đứa con nhỏ trong cái thúng. Thấy tướng diện khác thường của hai đứa bé, ông bèn hỏi về ngày và năm sinh của chúng để gieo một quẻ thì lá tử vi của chúng rơi vào mạng đế vương. Ông nói với mẹ của chúng là thằng bé sau nầy sẽ được làm vua và nếu được thế thì ông chỉ xin vùng núi Hoa Sơn nầy. Bà mẹ bán tín bán nghi nhưng cũng xé miếng vải đưa ông ta để làm tin. Quả thật về sau, hai đứa bé nầy tức là Triệu Công Dẩn và em là Triệu Công Nghĩa, trở thành vua và khởi nguyên cho nhà Tống.Y như lời nguyện, nhà vua phong tặng cho Trần Đoàn vùng núi Hoa Sơn và từ đó ông ta nổi tiếng với danh hiệu là Hi Di Lão Tổ. Có hơn 100 ngôi sao sắp xếp quanh 12 cung và sự phối hợp của các ngôi sao nói lên tính chất đặc biệt của mỗi cá nhân. Thí dụ nếu sao Thiên Quý đóng tại cung Sửu, Mùi thì người đó sẽ là anh hùng trong thiên hạ…Nhưng nếu nhìn kỹ lại thì tử vi chỉ chú trọng vào quả báo mà không để ý đến nghiệp nhân, bởi vì một khi quả báo hiện diện tức là nghiệp nhân đã có mặt rồi. Nếu lá số tử vi nói rằng người đó giàu sang thì có nghĩa là người nầy đã từng bố thí rất nhiều trong quá khứ. Còn nếu lá tử vi nói rằng anh kia sẽ gặp thất bại thì anh đó có tính xấu, hẹp hòi và ít kiên nhẫn. Thật ra ngày nay khoa tử vi không còn được xem là khoa học huyền bí nữa vì nó không thể giải thích từng trường hợp của mỗi người một cách suông sẻ và hợp lý. Thí dụ trên thế giới hiện giờ có trên 6 tỷ người, mà nếu dựa vào một ngày giờ năm sanh nhất định thì có được 512,000 lá số tử vi cho tất cả mọi người. Nếu sinh cùng giờ thìn, năm thìn thì có biết bao người trùng lá tử vi, nhưng có người thì sung sướng sao có kẻ lại khổ đau thì lá tử vi nầy đâu còn đúng được. Để giải thích sự sai lệch nầy, các nhà tử vi lý luận rằng ngoài ngày giờ năm sanh, lá tử vi còn tùy thuộc vào phước đức của họ và gia đình của họ. Thế thì nói đi nói lại thì mọi sự tiên đoán của tử vi cũng chỉ dựa vào Luật Nghiệp Quả của nhà Phật mà thôi.
    2 likes
  6. Một số hình ảnh lưu niệm Từ trái qua : Longphibaccai, chuyên gia bấm huyệt chữa bệnh, cô dâu chú rể, Panda Hiền, KhanhHoang Từ trái qua : Thiên Luân, BabyWoft, CD-CR, Sư Mẫu, Thiên Bồng, Viethq22, TrungNhan Từ trái qua : Hạt gạo làng, CD-CR, PhucND, Thiên Bồng, Thiên Luân Từ trái qua : Longphibaccai, CD-CR, Tranlong07, Thiên Đồng
    2 likes
  7. Đức Phật đã nói: 'Học thuyết của Như Lai chỉ có một vị. Đó là vị giải thoát". Sự cao siêu được coi là của phái này, phái kia chẳng qua chí là chấp của các vị tăng sĩ mà thôi.
    2 likes
  8. Bách Việt Nguồn: [ www.cqvip.com/qk/80164…] Hội nghiên cứu sử dân tộc Bách Việt Trung Quốc , thành lập năm 1980, mỗi hai năm tổ chức một lần hội thảo trong nước hoặc quốc tế, chuyên đề Bách Việt . Hội do đoàn thể nghiên cứu học thuật có tính toàn quốc thuộc khoa nghiên cứu nhân loại học Học viện nhân văn Đại học Hạ Môn phụ trách, văn phòng tại phòng 303 tầng 3 Bảo tàng nhân loại học Đại học Hạ Môn. Hàm nghĩa “Bách Việt ”: Bách Việt còn gọi là Việt Tộc hoặc Cổ Việt Nhân, là tên gọi dân tộc cổ đại vùng Đông Nam và Nam TQ. Tên Bách Việt có ghi sớm nhất trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” nghĩa là phía nam đất Hán là đất Bách Việt.. Các nhà sử học cho rằng dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc. Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời. Như Nghiêu, Thuấn, Vũ trong truyền thuyết chính là tiên dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu. Thời Thương sử thư có ghi lại hoạt động của dân tộc Việt. Cái tên Việt là do lấy tên công cụ và binh khí của họ là “Dương Việt “ là tên chung nhất. Không gian phân bố của họ rất rộng. Bộ phận gần Hoa Hạ nhất gọi là Ư Việt, nhưng họ rõ rang khác hẳn Hoa Hạ. Do Việt Tộc có nhiều chi hệ, lại phân bố rất rộng nên sử thư cuối thời Chiến Quốc gọi chung họ là Bách Việt. [ Đoạn trên nói Dương Việt 扬 越 là tên gọi công cụ đồng thời là binh khí, mệnh danh cho Việt Tộc. Bản thân chữ Dương Việt 扬 越 theo biểu ý của chữ là Giơ Vẹt (QT Tơi-Rỡi: Giơ Vẹt = Dương Việt) . Vẹt là cái rìu đá hình vuông dẹt ( QT Lướt: “Vuông Dẹt” = Vẹt, mà khảo cổ Quảng Tây gọi là cái “xẻng đá”, Tiếng Việt còn có các dụng cụ khác như cái bàn Vét là công cụ làm nông, cái Vá làm bằng miếng vỏ gáo dừa ] Sử thư gọi chung dân phương Nam là Man hoặc Tam Miêu, họ có chung cội nguồn sâu xa với Bách Việt. Đại khái đến đầu thời Thương, dân tộc vùng Bách Việt đã từ Man, Miêu phân chia ra nhiều dân tộc có tên gọi khác nhau, như theo《 Dật Chu thư. Vương Hội giải 逸 周 书• 王 会 解》 là các tên Khu Thâm 沤 深, Việt Khu 越 沤, Đặng 邓, Quế Quốc 桂 国, Tổn Tử 损 子, Sản Lý 产 里, Bách Bộc 百 濮, Cửu Quốc 九 国, Đông Việt 东 越, Âu Nhân 瓯 人, Ư Việt 于 越, Cô Muội 姑 妹, Thả Âu 且 瓯, Cộng Nhân 共 人 v.v. đều nằm ở đất phía Đông hoặc phía Nam vương triều Thương Chu, đại bộ phận tộc xưng trên đều có quan hệ với hệ thống Bách Việt. Thời kỳ Tây Chu, danh xưng Việt 越 đã xuất hiện phổ biến . Ngoài sách trên, sách 《Chu lễ. Đông quan khảo công ký 周 礼• 冬 官 考 工 记》 có danh xưng Ngô Việt “吴 粤”; sách 《Trúc thư kỷ niên 竹 书 纪 年》 ghi Chu Thành Vương năm thứ 24 ( 1040 BC) có “Ư Việt lai tân 于 越 来 宾 khách Ư Việt đến thăm”, trong đó có “吴” tức Ngô Quốc, thuộc một chi của Bách Việt; có “Ư Việt 于 越” tức tộc xưng Việt Quốc. Ngoài đó ra trong sách 《Chu lễ. Chức phương thị 周 礼• 职 方 氏 》 còn nói đến tên gọi “Thất Mân 七 闽 ” . Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc lịch sử Việt Tộc tiến vào thời kỳ lịch sử mới, người Việt vùng là Giang Tô, Triết Giang ngày nay kiến lập nên Ngô Quốc và Việt Quốc, quật khởi ở vùng hạ du Trường Giang tiến hành tham gia tranh bá, người Việt ở các vùng khác cũng rất là hoạt bát, bởi vậy lúc này danh xưng Việt Tộc đã đại hiển ư thế, danh xưng này được sử gia dùng phổ biến. Trong sử thư “Bách Việt” ngoài được gọi là “Dương Việt 扬 越 ” cũng còn được gọi là “Di Việt 夷 越 ” . [ QT Tơi-Rỡi thì Giơ= Dương = Dứ = Dí = Di , là một nôi khái niệm “hành động” . Giơ Vẹt = Dương Việt là mệnh danh cho Việt Tộc tức là Bách Việt. Kẻ dính Bách Việt lại để lập nên quốc gia là một người Kinh là Kinh Dương Vương, là kẻ dẫn đầu các chi hệ Bách Việt lập nên quốc gia Văn Lang ở Nam Dương Tử cách nay 5000 năm. Kẻ Dính = Kẻ Dẻo = Cần Keo = = Gắn Kết ( Tiếng Việt “Kẻ” nghĩa là người, tiếng Tày “Cần Keo” nghĩa là người Kinh. “Kẻ Dính” = Kinh .Thành ngữ “dính như bánh chưng” nói ý quyến luyến mãi ngày Tết . Truyền thuyết “Bánh Chưng bánh Dầy” đã nói rõ người Kinh là chủ bản quyền của bánh chưng. “Kẻ Dính” = “Câu Đinh” = Kinh. Sách Thủy Kinh Chú có ghi bốn ngàn năm trước công nguyên có quốc gia cổ đại gọi là Câu Đinh 勾 町 , mà diện tích bao trùm vùng rộng lớn ngày nay thuộc Vân Nam - Điền, Qúi Châu, Quảng Tây - Quế , Quảng Đông và Việt Nam ] Câu Ngô và Ư Việt trong thời Chiến Quốc đã bị diệt quốc. Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc xong tại đất cũ của Ngô Việt đặt thành quận Cối Kê. Tư Mã Thiên trong “Sử Ký” ngoài ghi lại sử của Ngô Việt thời Tiên Tần như các cuốn “Ngô thế gia”, “Việt thế gia” còn ghi các cuốn chuyên là “Nam Việt liệt truyện” và “Đông Việt liệt truyện”. Đến thời kỳ Tần Hán thì trong thư tịch xuất hiện các từ “Mân Việt”, “Đông Âu”, “Nam Hải”, “Nam Việt”, “Tây Âu”, “Lạc Việt”, “Điền Việt” v.v. là quốc danh hoặc tộc danh của người Việt. Những danh xưng này tuy xuất hiện muộn hơn trong lịch sử, nhưng không có nghĩa là những tộc hay nước này của Bách Việt đến đời Hán mới xuất hiện. Họ giống nhau là có một lịch sử phát triển lâu dài, cùng một dân tộc cổ xưa. [ Nhận định này đúng như cái tên chung của “cùng một dân tộc cổ xưa” mà trong Tiếng Việt có thể thấy bằng QT Tơi-Rỡi: Nam Việt = Nậm Việt = Nước Việt = Nác Việt = Lạc Việt = Lắm Việt = Trăm Việt = Bẵm Việt = Bẫm Việt = Bộc Việt = Bách Việt ] Trong Hán Thư 《汉书》 đã đem đổi chữ Việt “越” thành chữ Việt “粤”. Thế nhưng, thời kỳ này từ và chữ “Bách Việt 百 越” đa phần là dùng để chỉ người Việt ở vùng Lĩnh Nam. Ngoài đó ra còn theo phương vị để xưng hô như Đông Việt, Nam Việt, Tây Việt v.v. trong Sử Ký có chỗ dùng từ Đông Việt để chỉ Mân Việt, cũng có dùng để chỉ Đông Âu, nhưng có chỗ dùng chỉ tộc xưng và quốc danh xưng như Nam Việt, thành ra về tộc xưng có nhiều hỗn loạn. Sau khi Hán Vũ Đế thống nhất Tây Nam Di, Nam Việt và Mân Việt thì danh xưng Bách Việt và danh xưng các chi tộc Việt dần dần biến mất, người Việt tụ cư ở ven biển Đông Nam bị cưỡng bức di cư lên vùng Giang Hoài, có bộ phận thì bị Hán Tộc đồng hóa. Nhưng vẫn có bộ phận người Việt tản cư ở Giang Tây, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam, lui vào các vùng núi và bị gọi là Sơn Việt “山 越”. Sơn Việtlà hậu duệ của Bách Việt. Từ thời Đường về sau danh xưng Sơn Việt cũng biến mất.
    1 like
  9. Làm gì có ai muốn nghiên cứu - ngoại trừ những người có tâm và tầm nhìn trí tuệ, cũng đam mê môn này. Số người này rất ít. Còn phần lớn là một đám lởm khởm, có chút ít chữ nghĩa, bày đặt chê bai để đánh bóng tên tuổi thì đầy. Chimchichbong lãng mạn quá. Hi. Lịch sử văn hóa truyền thống của cả một dân tộc còn bị chúng bôi nhọ trắng trợn thì luận điểm của Thiên Sứ chúng bâu vào xâu xé có gì là lạ đâu.Một vấn nạn nữa của tử vi và môn dự báo nói chung còn ở điểm này: Thiệu Vĩ Hoa, ngôi sao Bắc Đẩu Dịch học của Trung Quốc đã bói đúng cho hoàng gia Thái Lan khiến họ vô cùng khen ngợi - đã phát biểu rằng: Mọi giờ trên thế giới , khi dự đoán phải quy về giờ Bắc Kinh. Luận điêu "tự tôn dân tộc" phản khoa học này đã bị tôi phản bác và xác định rằng: Người thày dự đoán ở đâu thì lấy vị trí không gian, thời gian ở đó làm Trung tâm. Cụ thể nếu coi trong phạm vi quốc gia thì lấy tỉnh của sự kiện dự đoán; nếu coi trong tỉnh thì lấy quận, huyện của sự kiện dự đoán. Nếu coi tầm cỡ quốc tế thì lấy quốc gia có sự kiện dự đoán. Luận điểm này lần đầu tôi công bố ở tuvilyso.com . Đến nay có mấy vấn nạn xảy ra: 1/ Trong khi các cao thủ bàn tán về lá số Tử Vi của anh Vantu về giờ sinh đích thực của anh ấy. Tôi có chọn giờ A (Cụ thể tôi quên). Tôi xác định: Nếu anh Vantu sinh đúng giờ A thì vào đúng 12 giờ trưa của 8 ngày sau đó, anh ấy sẽ đang ngồi trên máy bay. Sau đó anh Vantu hồi âm lại cho tôi: Đúng 12 giờ trưa vào ngày tôi dự báo, anh ấy đang ngồi trên máy bay thật. Nhưng mà để về Hoa Kỳ. Cũng vào đúng ngày đó - nhưng theo lịch Hoa Kỳ, chậm một ngày so với Việt Nam thì anh ấy lại đang ngủ.... 2/ Sự kiện dự báo cháy rừng trên toàn bang Clorado chắc anh chị em còn nhớ: Tôi xác định hai ngày sau thì toàn bang Clorado phải có mưa và làm tắt ngay lập tức đám cháy rừng này. Nếu theo tính tuyệt đối của ngày ghi trên lịch thì về thời gian sự xác định của tôi chính xác. Nhưng so với lịch Việt thì nó chậm một ngày. 3/ Đây là vấn nạn mà Hoàng Triều Hải đã nêu trong mục phong thủy: Một người sinh sau Tết Việt Lịch, nhưng trước Lập Xuân thì tính tuổi như thế nào để xác định mệnh trạch? Chưa hết, lại còn thế này nữa: Tuổi thật thì năm A, tuổi khai sinh thì năm B. Trong phong thủy và dự báo lấy tuổi nào? Tôi chỉ lấy những sự kiện liên quan đến cá nhân tôi và của anh chị em trên diễn đàn làm thí dụ. Còn thực tế bói toán của các cao thủ trong ngoài diễn đàn - chứ không phải đám lông gà lông vịt - thì đầy. Chúng ta sẽ phải có một hệ thống luận cứ khoa học để xác định vấn nạn thời gian trong các môn ứng dụng và hệ thống lý luận của Lý học Đông phương. Điều này thì đơn giản, nên tôi sẽ trình bày trong một cuộc Offline do anh chị em các lớp Phong Thủy Lạc Việt tổ chức. Quay phim và đưa vào trong lớp PTLV nâng cao. Một trong những luận điểm có tính nguyên lý căn bản để xác đinh tính thời gian trong Lý học Đông phương - khác với vật lý hiện đại là: Thời gian giới hạn trong vũ trụ là tuyệt đối - bằng /0/. Tính quy ước của thời gian tuy thuộc vào hệ quy chiếu tương quan giữa sự vận động của các phần tử quan sát trong hệ quy chiếu đó - mà tổ tiên chúng ta gọi là "các cõi khác nhau". Vấn đề này tôi cũng sẽ trình bày lại trong Tử Vi Lạc Việt. ================= PS: Mục Đồng giúp tôi đánh máy, dàn trang , sưu tầm tư liệu đang vào mùa thi nên nghỉ. Cuốn Tử Vi Lạc Việt vì thế cho đến hôm nay gần như chưa tiến triển chút nào. Mong anh chị em ủng hộ thông cảm.
    1 like
  10. Có lẽ tôi phải nói rõ hơn thế này:Ngài Obama cũng sẽ phải có những thái độ rất kiên quyết trong vấn đề quyết định chiến tranh hay hòa bình từ những quốc gia đồng minh. Nếu không ngài sẽ bị mất chức giữa nhiệm kỳ vào cuối năm 2014, hoặc trong năm 2015.
    1 like
  11. MỘT ĐỜI NGƯỜI MỘT CÂU THẦN CHÚ Tác Giả: Nguyên Thành biên soạn ĐÔI DÒNG CẢM TƯỞNG Tôi là người rất ngại “viết lách”. Viết, đối với tôi là cả một cuộc “vật lộn” với chữ nghĩa. Vậy mà từ khi được duyên may mắn, là người đầu tiên đọc tác phẩm Một đời người, một câu thần chú của giáo thọ Nguyên Thành vừa viết xong, như có ai đó thúc giục tôi một cách mãnh liệt, rằng phải viết lên những niềm hỷ lạc mà tôi đã nhận được từ sự gia trì của Bổn Tôn qua tác phẩm này. Do vậy, tôi “đành” phải “chấp bút”.Tuy là người đã hành trì giáo pháp Mật tông, và cũng đã đọc một số kinh điển giảng luận của các đạo sư và các thánh tăng, viết về lợi ích của việc thực hành trì niệm thần chú nhưng tôi vẫn không khỏi bàng hoàng và choáng ngợp bởi sự hoành tráng, đầy đủ mọi khía cạnh nông sâu của thần chú Om mani padme hum. Tựa như những viên pha lê đầy màu sắc trước kia để ẩn khuất từng nơi, nay được gom tụ vào một chỗ thì ánh sáng lấp lánh của chúng tăng lên gấp ngàn lần vậy. Tôi như một chú ếch đã tạm hiểu được sự rộng sâu của một dòng sông nhưng vẫn phải nổ tung trước sự mênh mông bao la không bến bờ của đại dương. Vậy đối với những ai có duyên lành với Phật pháp và mong muốn am tường về thần chú Om mani padme hum của Bồ Tát Quán Âm, thì Một đời người, một câu thần chú là một tác phẩm chứa đựng đầy đủ. Như một nhà họa sĩ tài ba với cành cọ khéo léo, một năng khiếu mỹ thuật, một tấm lòng bi mẫn chân thành, giáo thọ Nguyên Thành đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh tráng lệ, làm cho hàng căn cơ chậm lụt như tôi càng đọc tín tâm càng thâm sâu hơn vào sức gia trì và lòng bi mẫn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chỉ một câu thần chú ngắn ngủi sáu âm mà chứa đựng vạn pháp! Từng chương trong tác phẩm mang những hình ảnh, khía cạnh khác nhau của thần chú Lục tự đại minh, cũng giống như mỗi màu sắc trong một bức tranh, càng tăng phần sinh động, mà vẫn mang đầy đủ ý nghĩa về lòng bi mẫn siêu phàm của Bồ Tát Quán Thế Âm nhất là những đại nguyện của Ngài dành cho tất cả chúng sanh với tâm không phân biệt, dù cho căn cơ của mỗi chúng sanh khác biệt cũng đều được hưởng lợi lạc như nhau. Càng đi sâu, ta như lạc vào một hòn đảo chứa đầy những viên ngọc quý giá và chính mình cũng được chiếu soi từ ánh sáng ngọc quý, không những thế mà ta còn được tùy nghi sử dụng. Niềm hỷ lạc dâng trào vì thấy mình quá may mắn gặp được Phật pháp trong đời này và đang hành trì pháp môn trì tụng thần chú Lục tự đại minh. Để đền đáp phần nào ơn tri ngộ với bậc thiện tri thức qua tác phẩm quý báu này, tôi chỉ biết hết lòng cầu nguyện cho bất cứ ai có duyên may đến được hòn đảo châu báu Om mani padme hum đều sẽ khởi tâm tin nhận hành trì để được phần lợi lạc, không phải trở về tay không! Bà Rịa Vũng Tàu Ngày 22 tháng 3 năm 2009 Mật Diệu Kính đề LỜI NÓI ĐẦU Thần chú là một đặc trưng của giáo pháp Phật giáo Mật tông, bởi vậy nên gọi là Mật chú thừa hay là Kim cang thừa. Trong Mật chú thừa, hình tượng vị Phật mà các hành giả tu tập thiền quán Bổn tôn thường chọn nhất có lẽ là hình tượng đức Quán Âm Tứ Thủ, và thần chú do Ngài tuyên thuyết là thần chú Mani cũng được nhiều người thọ trì nhất, còn gọi là thần chú Lục tự đại minh hay thần chú Sáu âm. Từ xưa đến nay đã có biết bao thế hệ hành giả Mật chú thừa sử dụng thần chú Mani làm nền tảng tiến tu và nhận Bồ Tát Quán Âm là Bổn tôn thiền quán.Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư thực hành Mật giáo của người viết, cũng noi theo những tấm gương đó. Trong những năm tháng thực hành pháp môn trì chú song song với pháp quán tưởng Bổn tôn, người viết cũng như những đồng môn khác như đạo hữu Mật Diệu, Mật Hải, Mật Tuệ, Mật Tấn, Mật Hạnh... đều cảm nhận được không ít lợi lạc trong đời sống, cả về mặt tâm linh cũng như thể chất. Thật sự không thể kể hết được ân phước gia hộ từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini, là suối nguồn tâm linh đã mang đến cho chúng tôi tất cả những gì có thể gọi là quý giá của kiếp người, bao gồm cả niềm hạnh phúc trong đời sống hằng ngày cũng như những pháp vị được trải nghiệm qua từng thời khóa hành trì! Với tâm nguyện là niềm vui nên chia sẻ với mọi người, tựa như ổ bánh ngọt thơm ngon muốn nhiều người cùng ăn chung cho biết mùi vị, người viết không ngại tài sơ trí thiển, cố dồn tâm lực vào tác phẩm này để chia sẻ những nhận thức của mình về thần chú Mani, cũng như những trải nghiệm tâm linh trên đường tu Mật giáo mà bản thân đã kinh qua, mong có thể giúp ích ít nhiều cho những ai chưa biết đến Mật giáo, những ai có thiện cảm với Mật tông, cũng như những ai đang là hành giả Mật giáo. Trong tác phẩm “Một đời người, một câu thần chú” này, người viết cố gắng thể hiện những quan kiến Mật giáo về pháp môn trì niệm thần chú Mani từ nhiều khía cạnh khác nhau. Khi trình bày, người viết cố gắng y cứ theo những luận chứng trong kinh điển để tránh tình trạng “tri kiến lập tri”, tức là luận giải chủ quan của cá nhân mình. Tuy vậy, về sự vi diệu của thần chú Mani thì có lẽ chỉ chư Phật mới có thể luận bàn rốt ráo. Vì vậy, người viết khó có thể tránh được nhiều sai sót, khuyết điểm. Rất mong quý bạn đọc gần xa niệm tình tha thứ, người viết chân thành cảm kích. Được chút thiện hạnh nào, người viết xin nguyện hồi hướng về cho mọi chúng sanh hữu tình, vô tình trong pháp giới. Mật gia Song Nguyễn Phật lịch 2552 Thinley Nguyên Thành Cẩn chí ĐẠI SĨ LIÊN HOA SANH (tức GURU RINPOCHE) Đạo sư của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo ĐẠI THÀNH TỰU GIẢ LONGCHENPA và các vị đệ tử dòng truyền thừa Nyingma ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA XIV Lãnh tụ tinh thần của Phật giáo Tây Tạng DẪN NHẬP Vùng cao nguyên Ladakh thuộc đất nước Nepal, vào ngày 4 tháng 3 năm 2009. Thời tiết âm 180C! Không cần nói, ai cũng nhận thấy cái rét buốt da ở đây. Nhưng người dân địa phương lại cho biết, so với năm ngoái vào thời điểm này thời tiết còn xuống đến âm 280C. Được như hôm nay là đã ấm hơn nhiều!Song, vấn đề không phải chuyện ấm lạnh, mà là đang có đến hàng vạn người quy tụ về địa điểm Shey, thuộc cao nguyên Ladakh, không quản mưa lạnh giá rét! Họ tham gia lễ cầu nguyện và trì tụng thần chú Mani cùng thần chú Kim cương Thượng sư một trăm triệu biến mỗi loại. Nghi lễ tâm linh này được diễn ra dưới sự hướng dẫn của đức Pháp vương Gyalwang Drukpa XII. Thành phần tham gia có đủ tứ chúng trong Phật giáo: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, cư sĩ nam và cư sĩ nữ. Tất cả đều cầu nguyện cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình, bản thân tinh tấn tu hành để làm lợi lạc cho chúng sanh và chính mình. Trên thực tế, sự kiện trọng đại này đã có khoảng 45.000 người tham gia. Điều này cho thấy niềm tin mãnh liệt của họ về công năng bất khả tư nghị của thần chú. Vậy thần chú là gì mà có thể trở thành một phương tiện thiện xảo như thế? THẦN CHÚ LÀ GÌ? Thần chú là bản tâm của chư Phật, là mật ngữ của chư Phật, chư đại Bồ Tát, lưu xuất từ trong đại định tam muội, đúc kết tất cả tinh hoa vi diệu trong vũ trụ. Theo nguyên ngữ tiếng Phạn, thần chú được gọi là “mantra”, có nghĩa là “bảo hộ tâm thức” thoát khỏi uế trược, phiền não. Do đó, có thể hiểu nôm na thần chú là phương tiện ban vui, cứu khổ.Trong Phật giáo Mật tông, thần chú là một phương tiện được sử dụng song hành với phương pháp thiền quán Hộ Phật Du Già (Yidam Yoga), hay còn gọi là thiền quán Bổn tôn. Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách Mật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây: 1. Kính ái: ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến; 2. Tăng ích: được gia tăng những lợi ích trong đời sống như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt; 3. Tiêu tai: tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn trình từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không còn nữa; 4. Hàng phục: trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người; 5. Câu triệu: tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu... Nhưng đó chỉ là những lợi ích thuộc về pháp hữu vi, chưa nói đến các lợi ích cao siêu hơn thuộc về pháp vô vi. Trong pháp hội Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng ngay cả các bậc đại Bồ Tát cũng cần trì chú. Từ đó có thể thấy rằng thần chú thực sự hữu ích cho chúng sanh hữu tình, trong đó có loài người chúng ta. Sau đây là một trích dẫn từ kinh Thủ Lăng Nghiêm để thấy rõ oai lực của thần chú: “Giả sử có chúng sanh trong tâm còn tán loạn, nhưng nếu trì niệm thần chú này cũng vẫn thường được 84.000 hằng hà sa Kim cang thần ngày đêm đi theo giữ gìn hộ vệ... Các quỷ thần ác phải xa lánh vị thiện nhân này ngoài 10 do-tuần, và chúng ma muốn rình rập quấy nhiễu cũng không thể được...” Ngoại đạo có thần chú hay không? Hành giả ngoại đạo cũng có những mật chú riêng, có công năng khác nhau, nhưng không thể gọi là thần chú. Ở họ có thể gọi là thiên chú, tiên chú, quỷ chú, yêu chú... tùy theo đạo giáo của họ. Chẳng hạn, trong Bà la môn giáo có Phạm thiên chú, trong Lão giáo có tiên chú, trong giáo phái thờ quỷ thần, yêu ma thì có loại quỷ chú, yêu chú... Nhưng chỉ riêng trong Phật giáo mới có mật chú được gọi là thần chú. Vì sao vậy? Chữ “thần” ở đây không có nghĩa là cõi thần, mà là “thần diệu khôn lường”, diệu dụng vô công, là thần lực của chư Phật. Ngoại đạo không đạt đến cảnh giới siêu phàm đó, nên không thể gọi là thần chú. Lược nói đơn giản là như thế, nhưng để thấu triệt cần phải phân tích thêm... Nguyên nhân ở chỗ là do định lực của mỗi đạo nông sâu khác nhau. Những tu sĩ ngoại đạo dù chuyên cần tu luyện đến đâu cũng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong phạm vi tứ thiền, bát định; có nghĩa là từ sơ thiền lên đến tứ thiền, rồi dần lên đến cảnh giới Phi tưởng phi phi tưởng là hết mức. Theo lời Phật dạy, nếu họ gột sạch được tập khí chấp ngã, họ cũng có thể đạt tới Diệt tận định, thoát khỏi luân hồi. Nhưng vì họ tu tập trên căn bản vẫn còn chấp ngã nên điều này là không thể xảy ra. Và vì thế mà thành tựu cao nhất này chỉ có ở hành giả Phật giáo, những người tu tập giáo pháp vô ngã. Chính vì vậy mà hành giả ngoại đạo chỉ có thể đạt tới những mức định thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, nghĩa là không ra khỏi Tam giới. Do đó, họ vẫn còn trôi lăn trong cõi luân hồi chịu khổ não, cho dù các vị trời Vô sắc giới sống lâu đến nhiều đại kiếp. Các hành giả Tiểu thừa có thể đạt đến Diệt tận định, làm vắng bặt được thọ ấm, tưởng ấm cùng những tập khí ô nhiễm chấp ngã của hành ấm, chạm vào mép cửa của tàng thức sơ năng biến, đã thoát khỏi vòng cương tỏa luân hồi. Nhưng đến đây vẫn còn sự biến dịch vi tế và mãnh liệt của những vọng tưởng hư vô vi tế của tàng thức. Bởi vậy, họ chưa đạt được Đại định Tam-muội. Riêng trong Phật giáo Đại thừa, Mật thừa, các hành giả tu theo con đường Bồ Tát đạo, Phật đạo, thường quán chiếu các pháp như huyễn, thực hành phương tiện và trí huệ Bát-nhã ba-la-mật-đa, thẩm thấu đại bi đồng thể và tự tâm huyễn hiện... nên đạt được thần lực của Đại định tam-muội, như Thủ lăng nghiêm tam-muội, Như huyễn tam-muội, Chân như tam-muội, Kim cang tam-muội... Khi có được đại định ấy gọi là Diệu định quả sắc, trở thành bậc Đại thánh trong Phật giáo, vô ngại tự tại ra vào sanh tử mà chẳng chút nhiễm ô, hóa độ vô lượng chúng sanh hàng vô số kiếp mà không chút dụng công. Đó là đặc điểm của diệu tâm, và từ diệu tâm nên các ngài mới có thể tuyên thuyết thần chú. Do đó có thể hiểu rằng thần chú là phương tiện thần diệu. Cũng với ý nghĩa này, hòa thượng Tuyên Hóa từng giải thích về thần thông pháp lực. Ngài cho rằng có quỷ thông (phép tắc biến hiện của quỷ), tiên thông (phép tắc biến hiện của tiên, chư thiên cõi trời), ma thông (phép tắc biến hiện của ma), yêu thông (phép tắc biến hiện của yêu quái). Tất cả các loại phép tắc biến hiện đó đều gọi là “nghiệp thông”, Chỉ riêng ở hành giả đạo Phật mới được gọi là “thần thông”, tức là biến hóa tự tại, phân thân vô số ức... Trong kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn nguyện, Phẩm thứ hai ghi lại một đoạn như sau: “Các phân thân của con thị hiện ở khắp trăm ngàn muôn ức Hằng hà sa thế giới; trong mỗi thế giới hóa hiện trăm ngàn muôn ức thân, mỗi một thân đó hóa độ trăm ngàn muôn ức người, khiến cho họ quy kính Tam bảo, vĩnh viễn xa lìa sanh tử, đến được Niết-bàn an lạc...” Sở dĩ được như vậy là vì bậc thánh trong đạo Phật có đạt được “Lậu tận thông” làm nền tảng mà các hành giả ngoại đạo không thể. Từ điểm tham chiếu này có thể hiểu rằng thần chú là danh từ chỉ có ý nghĩa chuẩn xác nhất khi được dùng trong Phật giáo, nhất là Mật tông. Cũng từ đó ta có thể suy ra, chỉ có thần chú trong đạo Phật mới có được đầy đủ 5 công năng lợi ích vi diệu như đã nêu trên ở bình diện thế gian, còn những thành tựu xuất thế gian sẽ tiếp tục được luận giải ở chương sau. Thần chú trong đạo Phật được chia làm 4 loại với những cấp độ khác nhau. Trong Tâm kinh Bát-nhã có đề cập đến: “Đây là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú, có khả năng trừ được hết thảy khổ não, chân thật không hư dối.” Cũng có một cách phân loại thần chú gồm: đảnh chú, tâm chú và tùy tâm chú. Thông thường, chỉ có chư Phật mới lưu xuất đảnh chú, thí dụ như “Đại Phật đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm” hoặc “Phật đảnh Tôn thắng thần chú”... Về mặt lý thì thần chú của chư Phật cao hơn chư Bồ Tát đẳng giác, tức là các đại Bồ Tát. Tuy nhiên, về mặt sự thì tất cả thần chú trên đều lưu xuất từ Đại định Tam-muội nên công năng vi diệu đều là bất khả tư nghị. Trong các nghi quỹ thực hành thần chú có chỉ dạy cách đọc tụng, trì niệm. Nói chung, đọc thần chú là phát ra thành tiếng hoặc lớn hoặc nhỏ, còn tụng thần chú là ngâm nga trầm bổng theo tiếng chuông mõ như hiện đang thực hiện ở các chùa, tu viện Đại thừa. Nếu đọc thần chú thành tiếng thì nên tránh tám lỗi sau đây mà “Nghi quỹ Do Subahu thỉnh cầu” đã đề ra: 1. Quá nhanh, 2. Quá chậm, 3. Quá lớn, 4. Quá nhỏ, 5. Gián đoạn vì nói chuyện với người khác, 6. Xao lãng 7. Âm dài, đọc ngắn, 8. Âm ngắn, đọc dài. Sau đây là giải thích cặn kẽ: Quá nhanh là khi các âm của thần chú lẫn vào nhau, không rõ ràng. Quá chậm là khi hành giả không đọc hết số câu thần chú trong khoảng thời gian vừa phải Quá lớn là đọc như sấm, hoặc đọc làm cho người khác nghe thấy lớn tiếng. Quá nhỏ là đọc mà chính mình cũng không nghe. Nói chuyện với người khác là làm gián đoạn việc đọc thần chú. Xao lãng là không tập trung vào câu thần chú mà mình đang đọc. Âm dài đọc ngắn là phát âm sai những chữ của thần chú. Âm ngắn đọc dài cũng là phát âm sai. Riêng niệm thần chú tức là đọc thầm trong trí, hoặc đọc rì rầm mà người ta thường ví là chỉ đọc cho cổ áo nghe. Niệm chú gồm có 6 cách sau đây, được ghi lại trong “Thánh nữ kinh” (hay còn gọi là “Giáo huấn Dakini”) do Đại sĩ Liên Hoa Sanh chỉ dạy: – Một là niệm kim cương, có nghĩa là niệm mà chỉ có chuỗi đeo cổ của mình có thể nghe thấy. – Niệm có âm điệu kim cương, được dùng trong những dịp thực hành thành tựu lớn. – Niệm bí mật kim cương là niệm thầm trong trí. – Niệm như luân xa, là tưởng tượng âm thanh khi niệm ra khỏi miệng, đi vào vùng rốn, rồi tan hòa ngược lên vùng trung tâm tim. – Niệm như tràng hoa, là xoay tràng hoa thần chú xung quanh mỗi chủng tự thần chú trong trung tâm tim và chú tâm hoàn toàn vào các chủng tự. – Niệm chú tập trung vào âm thanh là khi niệm chú luôn tập trung chú tâm hoàn toàn vào âm thanh phát ra của câu thần chú. Mặc dù niệm thần chú có thể áp dụng trong mọi oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi..., nhưng khi ngồi theo tư thế kiết già để niệm thần chú là tốt nhất. Đặc biệt, trong “Thánh nữ kinh” cũng khuyến cáo, nếu hành giả đọc các thần chú Mật thừa hoặc thần chú của các vị bổn tôn hung nộ quá lớn thì oai lực của thần chú sẽ giảm đi đồng thời còn khiến cho các loài phi nhân và ma quỷ sẽ hoảng hốt mà bất tỉnh. Cũng đừng khạc nhổ những nơi có người qua lại, vì như vậy gây trở ngại cho năng lực thần chú. Riêng sự phát âm chưa đúng không phải là vấn đề quan trọng nhất trong việc trì tụng thần chú, mà chủ yếu là sự chí thành, miên mật. CHUYỆN KỂ VỀ THẦN CHÚ Chuyện kể răng thuở xưa có một bà lão nghèo sống đơn độc trên một đỉnh núi ở Tây Tạng suốt ngày, ngồi dùng cơm ra, bà lão luôn lẩm nhẩm câu thần chú Lục tự đại minh của Bồ Tát Quán Thế Âm.Qua nhiều năm như vậy, một hôm bà lão đọc thần chú khiến hạt đậu nhảy qua, nhảy lại hai cái rổ tre của mình. Từ đó, bà có một trò chơi như vậy. Bà sống với niềm vui đó suốt cuộc đời còn lại và không một chút vướng bận thế tục. Ngày nọ, một hành giả Mật thừa tình cờ leo lên đỉnh núi, thấy hào quang phát sáng ở trong hang động nhỏ. Ông lần mò vào xem và thấy một cụ già đang lẩm nhẩm gì đó. Và mỗi lần như vậy hào quang lại phát ra từ trong động lờ mờ kia, nơi cụ già đang cư ngụ. Vị hành giả thầm hiểu cụ già đó đã đạt Nhất tâm tam-muội do pháp môn trì niệm thần chú. Chuyện kể rằng, thuở xưa có một người được gọi là “mũi trái rạ”, vì hồi nhỏ anh ta bị bệnh trái rạ để lại những vết sẹo đỏ hồng trên mũi. Suốt ngày anh ta chỉ lo việc chăn bò ngoài đồng cỏ, còn những người trong gia đình thì chăm chỉ học tập kinh điển với một vị Lạt-ma. Họ cho rằng anh dốt nát nên mỗi lần anh muốn dò hỏi họ học những gì ở vị Lạt-ma, hay vị Lạt-ma làm gì, nói gì..., liền bị gạt qua một bên. Họ cho rằng đó là “Mật giáo”, không phải ai cũng có thể biết được! Có lần anh ta gạn hỏi: “Các người học được mấy điều?” Họ trả lời: “Chỉ có 3 điều thôi! Thậm chí chỉ có 3 chữ mà bao quát toàn bộ tri kiến Phật.” Gia đình không ai để ý đến anh ta, ngoài việc bảo anh ta dẫn bò xuống làng bán hoặc mua thực phẩm. Anh tha thiết được học như họ, nhưng hầu như không ai cho anh được toại ý. Vài năm sau đó, anh âm thầm trốn khỏi nhà, tìm cầu học đạo để mong được như những người khác. Vượt qua nhiều gian nan, anh cũng gặp được giáo pháp. Đó là nơi một vị Lạt-ma đang thuyết giảng cho những tu sĩ khác ở một trại lều cạnh chân núi. Anh mon men vào nghe. Quả thật là Phật pháp cao sâu, anh chẳng hiểu một tí gì sau hai giờ liền chăm chú lắng nghe. Vị Lạt-ma giảng những gì mà phức tạp, khó hiểu, càng nghe càng rối bời. Còn 3 chữ chứa đựng toàn bộ tri kiến Phật mà gia đình anh nói, chẳng nghe gì cả! Anh buồn rầu tâm sự với vị Lạt-ma nọ. Thông cảm với anh, vị Lạt-ma liền hứa sẽ mời vị thầy chứng đắc của mình dạy bảo tinh túy giáo pháp cho anh. Sáng hôm sau, khi mặt trời ửng hồng ở chân trời phía đông, anh chăn bò ham học giáo pháp đã đứng trước vị sư Mật giáo được tôn vinh là thành tựu giả. Ngài yên lặng lắng nghe anh yêu cầu trao truyền 3 chữ tinh yếu ấy. Ngài biết rõ, nếu tâm thức chín mùi, căn cơ lanh lợi thì dù chỉ một từ, một tiếng cũng có thể giúp người đệ tử đắc pháp và nhập tri kiến giải thoát. Nhưng nhìn anh chăn bò có “mũi trái rạ” này, Ngài không thể nói gì hơn bởi sự đần độn lộ ra vẻ ngoài của anh ta. Ngài mỉm cười nói lãng sang chuyện khác. Anh chăn bò tưởng vị sư ích kỷ, giấu giếm tuyệt học, liền lên giọng thô lỗ, văng tục không ngớt. Thị giả của sư trưởng không chịu nỗi, lấy chuỗi hạt đeo trên cổ đập vào đầu anh ta và gằn giọng: “Này mũi trái rạ, đâu có gì! Benza Hung Phat!” Nghe thế, tự dưng anh chăn bò vỗ tay cái đét vào đùi mình rồi hét lên: “Dạ, cảm ơn Lạt-ma, con xin ghi nhớ mật chú của Ngài dạy, đó là tinh túy giáo pháp. Benza Hung Phat! Đúng rồi! Benza Hung Phat! Con nhớ rồi! Benza Hung Phat!” Con cảm ơn nhiều!” Thế là anh chăn bò khấp khởi trong lòng lên đường về nhà, anh đã tìm được cái mà người khác không thể ngờ. Người nhà thấy anh hoan hỷ lộ ra mặt khác với sự đăm chiêu, khắc khổ ngày thường. Họ hỏi anh tại sao, anh ưỡn ngực trả lời: “Mọi người chắc không tin ta đâu! Ta đã học được tinh túy của giáo pháp chỉ thu gọn trong 3 chữ.” Trầm ngâm một lát, anh nói tiếp: “Ba chữ này bí mật ta phải giữ kín, mỗi ngày đều phải trì niệm.” Những ngày sau, anh trở lại với công việc chăn bò như cũ, chỉ khác trước kia là anh có một chỗ ngồi thiền định trên tấm rạ sau khi xong việc. Anh ngồi kiết già, tập trung cao độ trì niệm câu thần chú. Trong lúc chăn bò, mỗi lần cảm thấy tâm mình buông lung, anh lại nhẩm đọc “Benza Hung Phat”. Không bao giờ anh tìm hiểu 3 chữ ấy mang ý nghĩa gì. Đối với anh “mũi trái rạ” này, chỉ đơn giản là 3 chữ đó bao trùm toàn thể vạn vật. Với tâm chí thành tu tập, dần dần chàng “mũi trái rạ” của chúng ta trở thành một hành giả Mật tông có trình độ thâm sâu, mặc dù anh không tự biết chứng nghiệm của mình đến đâu. Nhiều năm trôi qua, có một hôm có người tìm đến “Mũi trái rạ” để nhờ anh chữa trị bệnh tà mà bà vợ của một phú hộ bị mắc phải. Anh ta từ chối, nhưng họ nằng nặc cố mời “mũi trái rạ” đi xuống làng, vì mọi người tin rằng anh có câu mật chú thiêng liêng. Vạn bất đắc dĩ, anh đành theo họ vì lòng bi mẫn thôi thúc, mặc dù anh không dám tin vào khả năng của mình. Đến nơi, anh vào thăm người bệnh đang vật vã. Anh bắt chước thầy mình, lấy chuỗi hạt trên cổ ra, đập vào đầu người bệnh và gọi lớn: “Mũi trái rạ, đâu có gì. Benza Hung Phat!” Lạ thay, người bệnh bỗng nhiên hết bị tà ám, trở lại bình thường, ngơ ngác nhìn mọi người như vừa mới tỉnh cơn mê. Gia chủ cảm ơn rối rít và cúng dường anh ta nhiều phẩm vật. Từ đó, “Mũi trái rạ” không còn là người chăn bò tầm thường nữa, ông ta được nhiều người trọng nể. Giờ đây, ông chỉ ngồi thiền với câu mật chú của mình, gác hết mọi việc đời qua một bên. Người nhà không dám để ông chăn bò nữa mà dọn cho ông một túp lều có tiện nghi đầy đủ, dâng cơm đến hằng ngày. “Mũi trái rạ” chỉ còn duy nhất một việc làm: chữa trị bệnh tà và một số bệnh khác cho dân làng. Rồi một ngày kia, vị Lạt-ma trước đây đã từng truyền thần chú cho “Mũi trái rạ” cũng bị bệnh. Nghe danh một hành giả có cái mũi trái rạ nào đó, có câu mật chú kỳ diệu trị được nhiều bệnh khác nhau, đồ chúng liền đón rước anh chăn bò năm xưa về chữa trị bệnh sưng cổ họng cho vị Lạt-ma của mình. “Mũi trái rạ” nghe tin thầy cũ bị bệnh liền tức tốc tìm đến, vén lều bước vào. Đến bên giường, ông chuẩn bị rút chuỗi hạt thì vị Lạt-ma hỏi thị giả, tên khùng này là ai mà sắp đập chuỗi hạt vào đầu mình. Lúc đó, người chăn bò năm xưa quỳ xuống nói: “Thầy không nhận ra con sao? Con đến đây để thực hành phép chữa bệnh mà Thầy đã dạy cho con với lòng bi mẫn vô hạn. Nhờ đó mà con đã giúp được nhiều người”. Tìm lại trong ký ức, vị Lạt-ma dần dần nhớ ra là ông từng thốt lời giận dữ, đập chuỗi hạt trúng đầu tên khùng này và đọc một câu thần chú đuổi quỷ: Benza Hung Phat.” Vị đạo sư cười lớn vì không ngờ hành vi năm xưa đó có hiệu quả vô biên. Thị giả Ngài cũng cười theo và cả người chăn bò cũng cười. Họ cùng nhau cười vang và nhờ vậy đờm độc trong cổ vị Lạt-ma bị tống ra ngoài. Ngài tự nhiên lành bệnh. Một câu chuyện có thật khác đã xảy ra vào thời Đức Phật còn tại thế, được ghi chép trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Một ngày nọ, vị đệ tử thị giả của Phật là A-nan đi khất thực trên một con đường làng quê nọ. Lúc ấy, có một thôn nữ tên là Madanga (Ma-đăng-già) thuộc hàng tiện dân, thoạt nhìn thấy phong mạo của thầy Anan liền mê mẫn tâm thần. Từ đó, nàng bỏ ăn, mất ngủ rồi sinh ra bệnh tương tư. Sau khi tìm hiểu được nguyên nhân, bà mẹ cầu viện pháp sư của Bà-la-môn xin câu Phạm thiên chú có tác dụng mê hoặc đàn ông. Lần sau, khi thầy Anan đi qua đường làng này, thôn nữ Madanga nhẩm đọc Phạm thiên chú khiến Anan quên hết mọi sự, từ từ đi theo nàng vào phòng ngủ. Bấy giờ, Đức Phật đang ngụ tại Kỳ Viên tinh xá, biết được sự cố liền bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trì niệm thần chú Thủ Lăng Nghiêm mới bảo toàn được giới thể của thầy Anan. Sau đó, nhân nguyên cớ này mà có pháp hội Lăng Nghiêm để Phật tuyên thuyết đảnh chú Thủ Lăng Nghiêm dùng để đối trị ái dục nam nữ, giúp tăng ni vượt qua cửa ải sắc dục, vững bước tiến tu trên đường giải thoát. Ba trường hợp có thật vừa kể trên chứng minh sống động về công năng của mật chú. Thần chú mặc dù khác nhau nhưng bất cứ ai nỗ lực và chí thành thực hành miên mật cũng đều sẽ được thành tựu không thể nghĩ bàn. CHỈ MỘT THẦN CHÚ MANI LÀ ĐỦ Ngày nay, hầu hết những người theo đạo Phật đều được nghe đến thuật ngữ “thần chú”. Mỗi vị Phật và đại Bồ Tát đều có lưu xuất thần chú riêng, tùy theo nguyện lực của mình. Trong rất nhiều thần chú, người ta thường nghe nhắc đến thần chú “Om mani padme hum” tiếng Phạn (phát âm theo tiếng Việt là: Ôm Ma Ni Pat Mê Hum). Đây gọi là thần chú “Lục tự đại minh” hay gọi nôm na là thần chú sáu âm, thần chú sáu chữ, và cách gọi chuẩn xác nhất là thần chú Mani... Người Tây Tạng đọc chú này là “Om mani peme hung”. Ở nước ta, trước đây người Phật tử thường đọc theo âm Hán-Việt là “Án ma ni bát di hồng”. Cho dù mỗi dân tộc có cách đọc khác nhau, nhưng ai nấy đều biết đó là thần chú lưu xuất từ đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm. Có lẽ quen thuộc nhất với câu thần chú này là người dân Tây Tạng. Ở đó, từ thuở nhỏ các em bé chập chững tập nói đã bắt đầu đọc thần chú “Om mani padme hum”. Người lớn thì luôn luôn tâm niệm câu thần chú này. Họ còn khắc nó trên vách đá, trên cây, trên tường, làm bánh xe xoay thần chú... Người Tây Tạng tin rằng Bồ Tát Quán Thế Âm là vị thần bảo hộ của Xứ Tuyết này, nên câu thần chú “Om mani padme hum” từ lâu đã trở thành quen thuộc và thân thiết đối với họ. Có nhiều người dân Tây Tạng chọn câu thần chú này làm pháp môn tu tập cho cả đời mình. Từ khi nhập đạo cho đến lúc lâm chung, họ thường xuyên trì niệm “Om mani padme hum”, hoặc rõ tiếng hoặc niệm thầm, hoặc ngâm nga trầm bổng theo nhịp điệu. Trong sách này, chúng ta chỉ đề cập đến Lục tự đại minh thần chú (thần chú Mani) làm nòng cốt trong sự tu tập. Sở dĩ có sự lựa chọn này là vì đức Phật Thích-ca đã xác quyết rằng Bồ Tát Quán Thế Âm có nhân duyên sâu dày với chúng ta. Nhờ đó mà Ngài dễ hóa độ chúng ta bằng những phương tiện thiện xảo của Ngài, trong đó có thần chú Lục tự đại minh. Nhờ vào thần chú này, hành giả chúng ta sẽ dễ dàng tương thông với thần lực từ cảnh giới thù thắng của Ngài với sức gia trì vô dụng công. Sau đây là bằng chứng xác thực được trích ra từ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phẩm thứ 12: Thấy, nghe đều được lợi ích: “Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: ‘Ông có đại nhân duyên với thế giới Ta-bà. Nếu hàng trời, rồng, hoặc kẻ nam, người nữ, hoặc thần hoặc quỷ, cho đến các chúng sanh tội khổ trong Lục đạo, nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, mến tưởng đến ông, khen ngợi ông, thì những chúng sanh ấy đều ở nơi Đạo Vô Thượng quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời, hưởng đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho.’” Kinh điển có ghi rằng Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát khởi 12 đại nguyện, trong đó nguyện rằng bất cứ ai trì niệm thần chú của Ngài, thiền định về sắc tướng Ngài, niệm danh hiệu của Ngài, đều sẽ tránh được 15 loại ác tử, còn được 15 loại thiện sanh, và giờ phút lâm chung Ngài sẽ cùng Thánh chúng đến đón rước về cõi Tây phương Cực lạc của Đức A-di-đà Phật. Trong kinh Pháp Hoa cũng có dạy rằng, chỉ cần thốt lên danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm hoặc đảnh lễ Ngài một lần thôi, cũng tương đương với việc lễ lạy và cúng dường Hằng hà sa số chư Phật. Trong Mật kinh “Đại Bi Quán Tự Tại Thập Nhất Diện Thần Chú” có ghi rõ: “Đối với chúng sanh bị giam cầm, thần chú của Ta sẽ là mái ấm, một nơi che chở, một chốn nương thân, một người bạn lữ của họ. Cho dù là loài quỷ dữ ăn thịt người và hung tợn đi nữa, nghe thần chú này cũng phải hồi tâm cảnh tỉnh. Họ sẽ được dẫn dắt về nơi tối thượng và hoàn toàn Giác ngộ. Theo đó thì hộ chú của Ta có một thần lực vô biên. Hành giả nào biết trì tụng thần chú này, dù chỉ một biến, cũng rửa sạch được tội ác ngũ nghịch và được gột rửa khỏi bất cứ tội chướng nào... “Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về công đức của những người chí tâm chí thành tu tập pháp môn này như đã được chỉ dạy. Thiết tưởng không còn gì để nghĩ bàn về những người chí tâm trì tụng và thể nhập vào Ta trong sự thiền quán của họ. Mọi nguyện ước của họ dĩ nhiên sẽ được thành tựu. Hành giả nào ghi nhớ danh hiệu Ta trong tâm thức có sức rung cảm đến Hằng hà sa số chư Phật. Chúng sanh nào tưởng nhớ đến danh hiệu của Ta đều đạt quả vị bất lai, đều tiêu trừ mọi bệnh tật và được giải thoát khỏi mọi sở tri chướng, và mọi bất thiện nghiệp về thân, khẩu, ý. Những hành giả tu tập pháp môn này một cách tinh chuyên sẽ chóng thành Phật quả.” Nên biết, Bồ Tát Quán Âm lưu xuất những thần chú như thần chú Đại bi, thần chú Bát-nhã, thần chú Chuẩn Đề, thần chú Đại bi Thập nhất diện... Tuy các thần chú khác nhau nhưng tựu trung mọi thần chú của Ngài đều có công năng như nhau, không khác biệt, tùy theo hành giả nào có duyên với câu chú nào thì trì niệm câu chú đó. Trên thực tế, thần chú Lục tự đại minh là được phổ biến nhất. Trên đây là những xác quyết trong kinh điển Mật giáo và Hiển giáo, nhưng mới đây nhất là một bằng chứng sinh động về duyên lành của chúng ta với Bồ Tát Quán Tự Tại qua nữ Delog Dawa Drolma, người đã mất vào năm 1941. Delog Dawa Drolma được công nhận là hóa thân của Đức Tara Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ vì sự trường thọ và giải thoát cho chúng sanh. Dawa Drolma là thân mẫu của đạo sư Chagdud Tulku, một thành tựu giả Kim cương thừa của Tây Tạng, qua Hoa Kỳ vào năm 1979, thiết lập viện Chagdud Gonpa ở nhiều bang của Hoa Kỳ, ở Canada và cả Brazil. Trên hành trình đến các cõi bên kia cái chết, Dawa Drolma đã được diện kiến Đức Quán Âm Tứ Thủ (Avalokiteshvara) cao quý. Ngài miêu tả lại cảnh giới ở trụ xứ Potala của Đức Quán Âm Tứ Thủ như sau: “... Ở đây tôi tìm thấy một tòa lâu đài đẹp tuyệt vời, tự xuất hiện và hình thành tức thời, tường làm bằng năm lớp riêng biệt. Lâu đài này trong suốt nên có thể nhìn xuyên qua từ bên trong cũng như bên ngoài, được nâng đỡ bằng một ngàn cột pha lê và tráng lệ nhờ những đà mái làm bằng châu ngọc. Nó được tô điểm bởi những cái rèm ánh sáng cầu vồng, như thể được thắp sáng bởi một ngàn mặt trời và mặt trăng. Những đà tường làm bằng lam ngọc, đầu tường bằng san hô, những bậc thang bằng ngọc trai. “Chung quanh dinh thự làm bằng năm loại châu báu này là một bậc thềm thấp bằng hồng ngọc, trên đó nhiều ngàn thiên nữ cúng dường nhảy múa vui đùa. Phía trên là một mái vòm bằng vàng, với những chiếc dù bằng lụa trắng và một Pháp luân có nai quỳ gối và lắng nghe ở hai bên. Ở bốn bên của lâu đài là những đầu máng xối có đầu makara, những sợi dây bằng ngọc trai treo từ miệng chúng với những chiếc chuông và chuông chùm nhỏ xíu, phát ra những âm thanh thú vị. “Bốn phía tòa lâu đài được trang trí bằng bốn cửa. Tôi đi vào cửa phía tây và gặp một thiên nữ giác tánh nguyên sơ. Đi sâu vào trong, tôi thấy vô số của cải và những thú vui cảm giác, như thể đang ở trong một ảo giác. Vô số những báu vật cúng dường được sắp xếp một cách trang nhã nhất, thậm chí số lượng còn nhiều hơn cả của cải của những đại thiên trong cõi trời Hóa lạc thiên. “Ở giữa những thứ này, trên một hoa sen trắng trăm ngàn cánh mở ra là Đức Quán Thế Âm cao quý, bậc điều phục chúng sinh bi mẫn tối thượng, với vẻ thanh xuân của một thiếu niên 16 tuổi. Thân Ngài có sắc trắng chói lọi, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay thứ nhất chắp lại nơi tim và cầm một viên ngọc. Bàn tay phải của đôi tay thứ hai cầm một chuỗi hạt pha lê và bàn tay trái cầm một cành hoa sen trắng nở ra rực rỡ cạnh tai Ngài. Tôi bị thu hút bởi những tướng chính và phụ trên thân tướng toàn hảo của Ngài. Ngài mặc y phục bằng lụa và những vật trang sức bằng những châu báu khác nhau, trên vai choàng bộ da linh dương krisnasaranga trùm qua phía trái ngực. Ngài ngồi tréo chân trong tư thế kim cương, thân Ngài chói lọi với vô số tia sáng. Trong tâm tôi, Ngài không khác với Ngài Drimed Khakyod Wangpo, vị Lạt-ma gốc của tôi...” Trong bối cảnh trang nghiêm và tráng lệ như thế Dawa Drolma được nghe Đức Quán Thế Âm ban Pháp âm về những đại nguyện bi mẫn của Ngài, trong đó nhấn mạnh: “... Hãy trì niệm liên tục thần chú sáu âm, chỉ một điều đó thôi là đủ.” Không mảy may hư vọng, vì điều này được nói ra bởi một bậc Đại thánh như Bồ Tát Quán Thế Âm. Trải qua nhiều thế kỷ, hàng triệu hành giả Mật giáo đã trì niệm thần chú Lục tự đại minh Om mani padme hum, đều được lợi lạc vô song. Đó là bằng chứng sống động về năng lực siêu nhiên vi diệu của thần chú sáu âm này. Đạo sư Patrul Rinpoche, một đại thành tựu giả, phiêu bồng và lãng tử nhất ở xứ Kham thuộc Tây Tạng, vào thế kỷ thứ 19 (1808 – 1887), khi viết bản văn “Kho tàng Tâm của các Bậc Giác ngộ” gồm 82 bài kệ, trở thành tác phẩm kinh điển của nhiều thế hệ hành giả Mật giáo, luôn nhấn mạnh mỗi câu cuối của bài kệ là “Hãy trì tụng thần chú sáu âm”. Đặc biệt, trong đoạn kệ 64 Ngài viết: “Một Bổn tôn, Quán Thế Âm, hiện thân của tất cả chư Phật; “Một thần chú, sáu âm, hiện thân của mọi thần chú; “Một Pháp, tâm Bồ-đề, hiện thân của hết thảy thực hành trong giai đoạn phát triển và thành tựu. “Biết cái một, điều đó giải thoát cho tất cả, hãy trì tụng thần chú sáu âm.” Nhiều câu chuyện kể lại rằng Đạo sư Patrul mỗi lần nhận được vật phẩm cúng dường thường gọi những anh thợ đẽo đá và điêu khắc đến nhận hết. Ngài không quên động viên họ cố gắng khắc thần chú Mani trên đá càng nhiều càng tốt. Khi luận giải về giá trị vô song của thần chú sáu âm, Đạo sư Dilgo Khyentse, thành tựu giả Mật tông (1910 – 1991) khẳng định rằng thần chú có nhiều loại, nhưng không thần chú nào có thể được xem là cao hơn thần chú sáu âm Om mani padme hum, vì nó bao gồm không chỉ tất cả công năng mà còn tất cả năng lực và sự gia trì của mọi thần chú khác. Những bậc thánh trí quá khứ chẳng hạn như ngài Karma Chagme vĩ đại (1613- 1678) đã tìm khắp trong kinh điển không có một thần chú nào lợi lạc tinh túy hơn hay dễ dàng thực hành hơn thần chú sáu âm. Bởi thế các ngài dùng thần chú này làm sự thực hành chính. Thậm chí chỉ cần được nghe thần chú sáu âm cũng đủ để giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử. Chuyện kể rằng, có lần năm trăm con trùng giành giựt nhau để sống trong một hố đất bẩn thỉu. Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót cho sự đau khổ của chúng, liền hóa thành con ong vàng bay trên cái hố, vo ve thần chú sáu âm. Những con trùng nghe được âm thanh thần chú, liền thoát khỏi khổ đau và thác sanh vào cõi trời. Sáu âm trong thần chú Om mani padme hum không phải là những âm thanh bình thường, là chuỗi âm thanh thế gian. Trái lại, những âm thanh này chứa đựng tất cả sự gia trì và lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nói cách khác, thần chú này chính là hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm trong hình thức âm thanh. Ngài thấu biết chúng ta bị nghiệp báo ngăn che, không thể gặp gỡ Ngài trong cõi thuần tịnh của Ngài, nên Ngài ban cho thần chú sáu âm để khi trì niệm, tụng đọc, viết ra bằng chữ vàng... đều có tác dụng như chúng ta được hiện diện trước Ngài. Sáu âm này biểu lộ sáu Ba-la-mật của Ngài, và như chính Ngài đã khẳng định, bất cứ ai trì niệm thần chú sáu âm này sẽ tự nhiên dần dần hoàn thiện đủ sáu Ba-la-mật và tịnh hóa mọi lỗi lầm, nghiệp chướng. Chúng ta đã thấy được lòng bi mẫn diệu kỳ của Bồ Tát Quán Thế Âm qua những luận giải và xác quyết của các bậc đạo sư thành tựu như vừa nêu trên. Tuy vậy, không phải ai cũng được duyên lành đến với Ngài qua nhịp cầu thần chú Mani. Trên thế giới có hơn 165 quốc gia và vùng lãnh thổ, chỉ có Tây Tạng được công nhận là trụ xứ của thần chú Mani. Trong số những quốc gia theo Phật giáo, không phải nước nào cũng có sự hiện diện của Mật chú thừa, bởi hầu hết đều hành trì theo Đại thừa Hiển giáo hoặc Tiểu thừa. Trong những nước theo Phật giáo có Mật giáo lưu hành, cũng không phải đều là “thuần Mật”, như ở Việt Nam, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia, Singapore... Và trong những nước có phát triển Mật giáo thuần túy như một số nước châu Âu, châu Mỹ, không phải hành giả nào cũng thực hiện pháp môn trì niệm thần chú Mani. Đó là chưa nói đến những quốc gia Trung Đông, nơi chỉ độc tôn Hồi giáo, hoặc các nước châu Phi, là những nơi mà người ta hầu như không hề biết đến khái niệm “thần chú”. Bởi vậy, khi viết những dòng chữ này, tôi vô cùng hoan hỷ trước duyên lành của những hành giả Mật giáo mà tôi được biết chính xác là đã và đang hành trì thần chú Mani. Ở thành phố Biên Hòa có vợ chồng đạo hữu Mật Tấn, Mật Hạnh, hành trì gần 3 năm qua. Hai vợ chồng tuy mỗi người một công việc mưu sinh riêng, nhưng cả hai đều hành trì đều đặn mỗi ngày ít nhất là một lần. Họ dần dần xác lập được chánh kiến qua việc thờ tự hình ảnh và ngẫu tượng. Ở thành phố Vũng Tàu có đạo hữu Mật Hải (trước kia pháp danh là Minh Liễu), đang là nhân viên ngân hàng, hành trì Mật giáo miên mật hơn 4 năm qua. Mật Hải đọc nhiều giáo điển, am hiểu giáo nghĩa, ứng dụng thành công trong sự tu tập và phát triển lòng sùng mộ Tam bảo, là yếu tố cốt tủy của Mật thừa, là nền móng xây dựng lâu đài Giác Ngộ. Tại thành phố Hồ Chí Minh, quận 7, có đạo hữu Mật Tuệ, sinh viên trường Cao đẳng Kinh tế Đối ngoại, đến với Mật giáo hơn 6 năm qua, trong 2 năm gần đây miên mật hành trì thần chú Mani. Mật Tuệ không những hành trì riêng mình mà còn thực hành giúp đỡ người khác khi có cơ duyên. Tại thành phố Đà Nẵng có đạo hữu Mật Giác, có duyên lành tự mình tham cứu kinh sách Mật giáo rồi hành trì thần chú Mani. Là một giám đốc cơ quan Nhà nước, có học vị thạc sĩ, đã công tác qua 16 nước khác nhau trên thế giới, Mật Giác bén duyên với Mật giáo ở tại quê hương mình. Thông qua tham cứu kinh sách Mật tông, đạo hữu Mật Giác tự mình hành trì cho đến khi được gặp giáo thọ thiện tri thức. Đặc biệt là Huệ Thông, một hành giả 17 tuổi, tuy thất học đường đời nhưng trên đường đạo Huệ Thông thực sự tỏ rõ bản lĩnh của hành giả Mật giáo một cách bất ngờ. Huệ Thông học một biết mười, biết ứng dụng, tận dụng những điều đã học trong mọi hoàn cảnh, tình huống để cho câu thần chú được in sâu vào tâm thức. Còn không ít trường hợp khác đến với Mật giáo bằng nhiệt tâm và sáng suốt. Một đạo hữu ở thành phố Hồ Chí Minh , trước kia là thợ may, đã từng thực hành tâm linh nhiều năm trong đạo Công giáo. Tuy vậy, làm sao để tháo gỡ ràng buộc thế gian? Câu hỏi dằn vặt qua nhiều năm tháng! Cuối cùng đạo hữu ấy tìm được pháp môn thích hợp và đem lại hiệu quả giải thoát toàn diện: trì niệm thần chú Mani! Qua 6 năm hành trì, đạo hữu này trở thành một nữ hành giả có trình độ tâm linh đáng kể, chuyển hóa hoàn toàn mọi nỗi lo sầu, ưu tư trước đây thành niềm vui bất tận trong sự tu tập... Hầu hết những hành giả kể trên đều nhờ hành trì thần chú Mani mà được lợi lạc vô song, trong đời sống tinh thần cũng như vật chất. Nhưng vấn đề cốt lõi ở đây không phải là giàu lên, phát tài ra, có thêm nhiều tiện nghi vật chất... mà là tâm tư được thoải mái với sự an lạc nội tại, giúp họ vượt qua dễ dàng những mối bận tâm thế tục. Ở những người này dần dần hình thành niềm tự hào thiêng liêng là đang hành trì thần chú Mani. Đạo hữu Mật Hạnh cho biết: “Tôi may mắn được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm qua câu thần chú Mani. Đã nhận thức được con đường ngắn nhất và nhanh nhất để đạt đến Giải thoát, tôi bước đi bằng niềm tin kiên định, đã trải nghiệm qua thực tế 2 năm nay.” TƯỚNG TRẠNG CỦA THẦN CHÚ MANI Nhiều hành giả Mật giáo suốt đời trì niệm thần chú sáu âm với niềm tin không lay chuyển và lòng sùng mộ vô biên Đức Quán Âm Tứ Thủ. Một khi niềm tin đã kiên cố thì người ta không cần tìm hiểu thêm những góc cạnh khác của thần chú Mani. Tuy nhiên, để dọn đường cho những hành giả sơ phát tâm tu tập bước đi dễ dàng vào đạo lộ tinh tấn và trí huệ, trong sách này chúng tôi thiết nghĩ cần mô tả sơ qua về cái gọi là tướng trạng của thần chú Mani.Thần chú Mani có 6 âm, mỗi âm có một ý nghĩa và công năng riêng. Khi trì chú thì những âm trong thần chú kết thành tràng hoa, trang hoàng cho sự giải thoát. Giờ đây chúng ta sẽ đi vào chi tiết. Theo quan điểm Mật giáo Tây Tạng thì thần chú Mani được phân nghĩa chiết tự như sau: OM có nghĩa là quy mạng, hướng cả 3 nghiệp thân, khẩu, ý về Phật pháp. MANI có nghĩa là viên ngọc như ý của trí huệ. PADME có nghĩa là bên trong hoa sen, tức là lòng Đại bi nảy nở tựa như hoa sen vươn lên khỏi bùn lầy. HUM có nghĩa là ý nghĩa cao đẹp của cuộc sống. Tóm lại, nội dung thần chú có thể tạm diễn dịch như sau: “Viên ngọc như ý trong hoa sen trí huệ giúp con thoát khỏi bùn lầy vô minh, làm cao đẹp cuộc sống.” Theo giải thích của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV trong tác phẩm “Kindness Clarity and Insight” thì: OM: tạo bằng 3 chữ A, U, M tượng trưng cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của hành giả, chúng cũng tượng trưng cho thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật. MANI: viên ngọc, tượng trưng cho phương tiện đạt giác ngộ. Đại bi, Đại từ như là những viên ngọc như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sinh muốn đạt giác ngộ cho mình và đem lại giác ngộ cho người khác. PADME: hoa sen, trượng trưng cho Trí huệ, bởi hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Khi thiếu trí huệ mọi rắc rối sẽ xảy ra với chúng ta HUM: dấu hiệu hợp nhất của phương tiện và trí huệ để đạt được sự tịnh hóa hoàn toàn. Tóm lại, qua thực hành hợp nhất giữa phương tiện và trí huệ, chúng ta có khả năng làm cho thân, ngữ, tâm bất tịnh của mình thành thân, ngữ, tâm thuần tịnh của một vị Phật. Ngoài ra, theo giải thích của Đạo sư Tangtong Gyalbo thì: OM: bao gồm năm trí siêu việt của chư Phật. MANI: viên ngọc như ý (Bảo châu) PADME: hoa sen. Hợp hai nghĩa này với nhau thì MANI PADME có nghĩa là “Ngài là Bậc Thủ Trì Liên Hoa và Bảo Châu” và đây cũng chính là tôn hiệu khác của Bồ Tát Quán Thế Âm. HUM: có công năng bảo hộ chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Tóm lại, ý nghĩa của thần chú Mani là: “Hỡi Bậc Đạo sư của năm thân Phật và năm trí Như Lai, Bậc Trì thủ Liên hoa Bảo châu! Xin Ngài hoan hỷ gia hộ chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi vượt qua thống khổ.” Đạo sư Tangtong Gyalbo nhấn mạnh rằng, thần chú Mani có nhiều cách giải thích khác nhau. Nhưng khi trì tụng không nhất thiết phải nghĩ tới ý nghĩa. Trong cách tự nhiên, thần diệu của sáu âm tiết thần chú phát ra từ tâm hay khẩu sẽ dần dần truyền đến hành giả trí huệ và đại bi của Đức Quán Thế Âm. Từ đó, hành giả cũng sẽ lan tỏa đến những chúng sanh liên hệ với mình trong hiện kiếp hoặc tiền kiếp. Nói chung, khi trì chú Mani thì chính ngay lúc ấy chúng ta đóng cửa luân hồi trong sáu nẻo, hướng đến cõi tịnh độ giải thoát. Tuy nhiên, tướng trạng của thần chú Mani không tách rời vị Bổn tôn là Bồ Tát Quán Thế Âm. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV từng giải thích trong luận đề về giáo lý Phật giáo được trình bày ở trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) vào tháng 8 năm 1981 rằng, trì tụng thần chú trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn có công năng mạnh mẽ hơn. Thế nào là quán tưởng Bổn tôn? Đó là linh ảnh của Đức Quán Âm Tứ Thủ mà hành giả quán tưởng trước mặt bằng cách hưng vận tâm thức, đồng thời cùng lúc trì niệm thần chú. Sau đây là vài nét sơ lược về quán tưởng Bổn tôn. Quán tưởng là cách thực hành thiền quán bằng việc niệm câu thần chú kết hợp với sự hình dung một vị Phật hay Đại Bồ Tát do hành giả tự chọn theo hướng dẫn của vị thầy. Đây là một pháp môn rất hữu hiệu của Mật tông. Trước khi đi vào chi tiết, cần phải biết qua một vài khía cạnh ngữ nghĩa. Pháp quán tưởng đang được đề cập ở đây là sự quán chiếu và hình dung một đối tượng kính ngưỡng nhằm mục đích tu tập. Điều này khác hẳn với sự tưởng tượng đơn thuần là thêu dệt ra những hình ảnh mà mình ưa thích hoặc ham muốn, hoặc do sợ sệt... vốn đều không có nền tảng của sự quán chiếu. Sự tưởng tượng như vậy chỉ là viễn vông, không có ý nghĩa xác thực gì. Tuy nhiên, vì là một hoạt động của tâm thức nên sự tưởng tượng đó vẫn có những sức mạnh, tiềm năng mạnh mẽ của nó. Khi cường độ của sự tưởng tượng trở nên sâu sắc, mãnh liệt, nó có thể khiến cho chủ thể của sự tưởng tượng sẽ nhận thức thực tại giống như trong tưởng tượng của mình. Trong nền kịch nghệ nhân loại, người ta biết đến loại hoạt động tâm thức này qua vở kịch nổi tiếng “Người bệnh tưởng” của Molière (1622-1673), một kịch sĩ tài hoa của nước Pháp. Trong vở kịch, nhân vật chính luôn ám ảnh mình bị bệnh nặng, nhưng thực tế anh ta không có bệnh. Hậu quả là anh ta gây ra nhiều trò dở khóc dở cười, và kết cuộc anh chết vì căn bệnh tưởng hoàn toàn không có thật của mình. Trên sân khấu là vậy, nhưng trong thực tế cũng có không ít trường hợp tương tự. Chẳng hạn, khi ở nơi hoang vắng như nghĩa địa, rừng sâu, người lữ khách có thể sợ sệt vì tưởng tượng đến quỷ ma. Đến một mức độ nào đó, anh ta có thể thấy ma quỷ xuất hiện... cho dù thực tế đó chỉ là những cây khô hay các vật thể nào đó... Đó là do sự tưởng tượng trong tâm thức chi phối nhận thức về thực tại khách quan. Phương pháp quán tưởng được nêu ra ở đây để gia tăng oai lực của thần chú là hoàn toàn khác, vì việc hình dung chính mình là vị Phật hay Bồ Tát (trong Mật giáo gọi là Bổn tôn) được dựa trên một nền tảng có thật là sự tương đồng về các phẩm tính tốt đẹp giữa bản thân hành giả với vị Bổn tôn được quán tưởng. Giải thích về điều này, Lạt-ma Thubten Yeshe khẳng định rằng, khi quán tưởng chính mình là Bổn tôn tức là ta đang kích hoạt những phẩm tính sâu xa tốt đẹp nhất có sẵn trong ta, cái gọi là Phật tánh, Chân như. Đương nhiên, khi quán tưởng mình là Bổn tôn, chúng ta không phải tự dối mình, mà là thực sự đang làm hiển lộ những phẩm tính thiêng liêng vốn luôn hiện hữu trong ta. Trước hết, hành giả quán chiếu về những phẩm tính cao quý nơi vị Bổn tôn, như từ bi, trí huệ...; tiếp đến, hành giả quán chiếu về những phẩm tính đó đang tiềm ẩn trong chính mình, đang cần phải tu tập để hiển lộ, và qua đó hành giả thấy được sự tương đồng giữa vị Bổn tôn với chính mình. Hành giả càng “nhập vai” vào sự quán tưởng thì sự hình dung càng rõ nét và năng lực thần chú càng gia tăng, bởi đối tượng trì niệm thần chú lúc ấy không còn là phàm phu như chúng ta nữa, mà thông qua sức quán tưởng đã trở thành tương đồng với vị Phật hoặc Bồ Tát được quán tưởng. Đó là phương pháp quán tưởng vị Phật bên trong. Nếu thấy khó thực hiện, chúng ta có thể chọn phương pháp đơn giản hơn là quán tưởng vị Phật bên ngoài. Theo cách này, chúng ta tôn trí linh ảnh của vị Bổn tôn là Đức Quán Âm Tứ Thủ ngay trước mặt, với kích cỡ tùy chọn khoảng 9 x 12 cm hoặc 20 x 25cm. Ngồi xuống trên tấm đệm, thư giãn tâm trí rồi bắt đầu chiêm ngưỡng linh ảnh Ngài. Có thể nhìn ngắm Ngài chi tiết hoặc toàn diện. Có nghĩa là tập trung vào từng chi tiết như đầu, tay, chân, mão... của Ngài, hoặc nhìn ngắm toàn thể thánh tướng của Ngài. Trong khi tập trung chiêm ngưỡng linh ảnh, chúng ta niệm thần chú Mani. Nói chung, việc trì niệm trong bối cảnh quán tưởng Bổn tôn sẽ phát huy tối đa công năng thần chú. Bởi lẽ lúc bấy giờ chúng ta bước vào kinh nghiệm của một niềm kiêu hãnh thiêng liêng là hóa thân một vị Phật, Bồ Tát. Tâm thức vượt thoát khỏi mọi giới hạn thông thường, được nâng lên một tầm cao giác ngộ. Tướng trạng thần chú do đó sẽ phát ra những ba động quang minh vi tế, khiến hành giả được trầm mình trong sóng lực tâm linh thần diệu. Từ đó có thể tương thông với bản nguyện bi mẫn vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm. Mặt khác, khi trì chú Mani hành giả sẽ được các loài quỷ thần, dù thiện dù ác, đều hết lòng ủng hộ, không để những tai ương xâm hại đến chỗ ở, đừng nói gì vào tận cửa nhà. Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã xác quyết như thế trong Phẩm thứ 12. Tướng trạng thần chú Mani còn được biểu hiện ở khẩu lực của hành giả. Sau những năm tháng trì niệm, khẩu ngữ của hành giả sẽ tuôn tràn những lời chánh ngữ, có ý nghĩa nội dung cùng với sức thuyết phục cao. Phong mạo của hành giả dần dần chuyển qua đạo phong cốt cách một cách tự nhiên không cần lưu tâm cố gắng. Đặc biệt là lòng từ bi nảy nở trong hành giả mỗi ngày một lớn theo công phu trì niệm thần chú Mani. Những căn bệnh mãn tính tưởng chừng bất trị sẽ dần dần giảm xuống cho đến khi hoàn toàn khỏi hẳn. Trong trường hợp bệnh nan y không thể chữa lành, hành giả trì niệm thần chú Mani tuy vẫn có sự đau khổ về thân xác nhưng trong tinh thần không còn sự lo sợ, phiền não như trước kia... Những biểu hiện đó cho thấy tướng trạng của thần chú Mani đã lộ xuất, chứng minh sống động công phu tu tập của hành giả. Sẽ là thiếu sót nếu bàn về pháp thiền quán Bổn tôn mà không đặc tả thánh tướng của Đức Quán Âm Tứ Thủ. Trong bài nguyện nổi tiếng “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sinh”, Đạo sư Tangtong Gyalbo mô tả như sau: “Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng. Cho đến khi con thành Chánh giác. Nguyện các công đức con tạo được. Như bố thí, trì giới, vân vân... Khiến con thành Phật để độ sinh. Chúng con chúng sanh đầy hư không. Đảnh đầu đều có hoa sen trắng. Và vầng trăng hiện Mật từ Hrih. Đấng chí tôn thánh giả Quán Thế Âm. Khiết bạch quang minh rực năm màu. Mỉm cười bi mẫn nhìn sanh chúng. Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu. Hai tay trong bốn, trên chắp lại. Hai tay phía dưới của Ngài cầm. Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê. Lụa châu trang sức nghiêm thánh thể. Choàng ngực da nai đội bảo quan. Trên mão có Phật A-mi-đà. Đang ngồi trong thế già phu tọa. Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi. Ngài là chân tính là diệu thể. Tất cả nương về để quy y. Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm. Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng. Thân báo thanh tịnh suốt một màu. Đỉnh đầu nghiêm sức viên mãn Phật. Bi mẫn từ tâm nhìn chúng sanh...” Có lẽ thánh tướng của Ngài được miêu tả mới nhất là trong chuyện kể của Delog Dawa Drolma khi bà được may mắn du hành đến cảnh giới của Ngài. Đối chiếu với những gì miêu tả trong kinh điển đều thấy chính xác và giống nhau. MỘT ĐỜI NGƯỜI, MỘT CÂU THẦN CHÚ Đời người ngắn ngủi, bất quá chỉ được trăm năm. Trong đó, thời gian dành cho ăn ngủ, công việc, giải trí... chiếm hết khoảng 80%. Thời gian thực sự đến với thực hành giáo pháp, dù bất kỳ tôn giáo nào, cũng thật hiếm có. Đó là chưa kể đến bản tính giải đãi, tập quán ương ngạnh và niệm tưởng bất chánh khiến chúng sanh cứ mãi lang thang trong vực sâu tăm tối của tam đồ ác khổ. Đức Quán Thế Âm dõi mắt xót thương muôn loài nên Ngài bi mẫn chỉ ra một mô thức cao siêu vi diệu, giúp chúng sanh vượt cõi luân hồi vào tịnh độ. Ngài dạy: “Thiền quán về thánh tướng của Ta, trì tụng tâm chú của Ta, và cử hành nghi lễ chay tịnh vì Ta. Những ai nỗ lực thực hành như thế, mặc dù họ từng phạm một trong các tội ác ngũ nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián, Ta vẫn sẽ dẫn họ tới cõi Cực Lạc Tây Phương.” Đây là thông điệp mới nhất mà Ngài đã phán truyền lại cho Delog Dawa Drolma vào đầu thế kỷ 20. Đạo sư Dilgo Khyentse khi bình giảng tác phẩm “Kho tàng tâm của các bậc Giác Ngộ” của Đại thành tựu giả Patrul Rinpoche cũng đưa ra những lời khuyên chân thành dành cho công việc ý nghĩa nhất của đời người: “Trong thời đại suy đồi này, vì trí năng hạn hẹp và thiếu quyết tâm, người ta cần thực hành Pháp trong một hình thức được tinh chế. Sự thực hành phối hợp lòng sùng mộ vị thầy như Bồ Tát Quán Thế Âm, kết hợp với trì tụng thần chú Mani (Om mani padme hum) đáp ứng tốt cho nhu cầu ấy. Thần chú Mani rất dễ nhớ để trì tụng nhưng lại tập trung tinh hoa của kinh điển Phật giáo. Nó là tinh túy tâm đại bi của Bồ Tát Quán Thế Âm và sức gia trì là vô cùng, vô tận. Nếu bạn lấy nó làm sự thực hành chính cho mình thì người, trời và ngay cả nhưng ma quỷ xấu ác cũng sẽ tự nguyện giúp đỡ bạn, và bạn sẽ có một đời sống lâu dài, thoát khỏi bệnh tật và chướng ngại. Trong đời sau, bạn sẽ được sanh vào cõi Cực Lạc của trụ xứ Potala, hay ít nhất cũng vào một quốc độ có Phật pháp thịnh hành. Đó là bởi thần chú Quán Thế Âm chứa đựng sự gia trì và lòng bi mẫn vô biên của chư Phật...” Qua đây, chúng ta nhận thức rằng cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi ta biết thực hành Chánh pháp. Kinh điển Phật giáo khẳng định sự cao quý của loài người chỉ thể hiện thực sự khi họ biết tu tập Phật pháp để vượt sinh tử luân hồi. Vì các loài thuộc cảnh giới cao hơn như loài trời, loài thần cũng đều không có khả năng thích hợp cho việc tu tập Phật pháp như loài người. Và trong việc tu tập Phật pháp vào thời đại suy đồi này thì chỉ có thực hành trì tụng thần chú Mani là thích hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Bởi vậy, một đời người sẽ có được giá trị đích thực nhờ sự nối kết với một câu thần chú tinh túy sáu âm của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chuyện kể rằng, vào thế kỷ 10 có một công chúa của vương quốc Ấn Độ, xuất gia khi còn trẻ, có pháp danh là Gelongma Palmo (hay tỳ-kheo ni Lakshmi). Bà thọ nhận nhiều giáo lý từ những Đạo sư vĩ đại và thực hành tinh tấn miên mật. Do nghiệp quá khứ chín mùi, bà bị mắc bệnh phong cùi, bị mọi người xa lánh, ném vào rừng. Bà có thị kiến về Vua Indrabodhi, Ngài khuyên bà nên thực hành pháp Avalokiteshvara (tức là pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm). Bà đã trì chú của Đức Quán Thế Âm nhiều năm liền và liên tục thực hành nhập thất Nyungne, là một thực hành chay tịnh đặc biệt để tịnh hóa nghiệp chướng và tăng thêm sinh khí cho hành giả. Nhờ lòng sùng mộ và tinh tấn không ngừng, bà dần dần khỏi hẳn bệnh phong cùi. Bà cũng đồng thời phát triển tâm đại bi vô hạn đối với mọi chúng sanh. Bà trở thành ni sư giác ngộ, dẫn dắt nhiều đệ tử trong việc thực hành pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Một hành giả vĩ đại khác suốt đời hành trì pháp Quán Thế Âm là Tangtong Gyalbo (1385-1509). Ngài sinh ra ở miền Tsang thượng của Tây Tạng. Một hôm, khi đang thực hành trì niệm thần chú Mani, Đức Quán Thế Âm siêu phàm hiện ra trước mắt Ngài và chỉ dạy, ban phép quán đảnh. Ngài đạt giác ngộ nhờ tinh tấn tu hành. Dựa trên sự thành tựu của mình, Ngài biên soạn Nghi quỹ thực hành pháp “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” để hướng dẫn chúng sanh thực hành pháp tu Quán Thế Âm. Sau khi giác ngộ, Ngài cũng khám phá nhiều bí lục giáo pháp và giới thiệu cho nhiều người tu học. Ngài đã tôn tạo vô số hình tượng, tháp thờ... tượng trưng cho thân, ngữ, tâm của Đức Phật. Ngài đã xây dựng hơn 100 cầu, phà và cầu treo bằng sắt để làm lợi ích cho chúng sanh. Để khuyến khích thiện hạnh trong dân chúng và để hỗ trợ cho phí tổn công việc xây dựng, Ngài đã miêu tả cuộc đời những Bồ Tát trong quá khứ, đặc biệt là Bồ Tát Quán Thế Âm bằng hình thức biểu diễn nhạc kịch dân gian. Hoạt động hoằng dương giáo pháp, hóa độ quần sanh của Ngài thật là không thể nghĩ bàn... Để có thêm luận cứ về xác quyết trên, chúng ta có thể tham cứu thêm những lời tâm huyết của Lạt-ma Zopa Rinpoche, người hiện nay đang lãnh đạo Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Phật giáo Đại thừa trên thế giới. Lời dạy của Ngài thông qua bài giảng mang tựa đề “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú Om mani padme hum”. Đương nhiên, dù chỉ một lần đọc tụng thần chú Mani cũng được lợi lạc vô cùng, nhưng để được kết quả khả quan trong đời hiện tại và đời sau nữa, chúng ta cần tinh tấn trì niệm suốt một đời người. Sau đây là bản văn chi tiết: “Những ích lợi của việc trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thật là vô biên, như bầu trời bao la vô tận. “Cho dù bạn không hiểu biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết chỉ là câu thần chú Om mani padme hum thì cuộc đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch, thoát khỏi bám luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc trì tụng Om mani padme hum, thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. “Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó hoàn toàn không đơn giản. Ở đây tôi sẽ đề cập cốt lõi của những lợi lạc vô biên đó. “Trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn này chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hóa sự phá vỡ bốn giới nguyện gốc của Biệt giới giải thoát, và năm tội nghịch đáng đọa vào địa ngục Vô gián. “Trong các tantra (mật điển) cũng đề cập rằng, nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc lâm chung sẽ được thấy Đức Phật và hào quang xuất hiện trên bầu trời; có chư thiên hiện ra cúng dường; không bao giờ bị tái sanh vào các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Bạn sẽ tái sanh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay vào một cõi tái sinh tốt đẹp. “Khi một người trì tụng mỗi ngày 10 chuỗi thần chú này bơi lội trong sông, biển... thì nước chạm vào thân thể người ấy cũng có được sức gia trì. “Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên của người đó không còn bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú, thân thể với lực gia trì của những người trì tụng thần chú và quán tưởng chính họ trong thánh tướng của đức Quán Thế Âm trở nên mạnh mẽ với lực gia trì động đến tâm thức cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện, người ấy cũng sẽ không bị tái sanh vào các cõi thấp. “Vì thế, khi một người mỗi ngày từng trì tụng 10 chuỗi thần chú Om mani padme hum đi xuống sông hay biển, nước chạm vào thân người ấy cũng sẽ có được lực gia trì, rồi chất nước có lực gia trì đó sẽ có thể tịnh hóa hàng tỉ tỉ chúng sinh sống trong nước. Người này cứu giúp những sinh vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng được ở các cõi thấp. Lợi lạc như vậy thật đến mức khó tin! “Khi một người trì chú như thế đi trên đường, gió chạm vào người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào những côn trùng có thể giúp cho những nghiệp bất thiện của chúng được tịnh hóa, và nhờ đó chúng sẽ có một tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi người ấy xúc chạm vào thân người khác, nghiệp bất thiện của người kia cũng sẽ được tịnh hóa. “Một người như thế thì việc ngắm nhìn cũng thật ý nghĩa! Việc nhìn và xúc chạm trở thành phương tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hóa được nghiệp bất thiện của họ. Bất kỳ sinh vật nào uống nước trong dòng chảy từng có người trì chú như thế bơi lội cũng đều được tịnh hóa. “Chúng ta may mắn lạ lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền quán về Đức Phật Bi Mẫn. Đó là phương pháp dễ dàng tịnh hóa bất kỳ nghiệp bất thiện nào mà ta từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa. “Bởi chúng ta từng gặp được Phật pháp và đặc biệt là phương pháp [trì chú] này, thật dễ dàng để tịnh hóa nghiệp bất thiện và tích tập công đức vô biên, và do đó thành tựu Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn không ngờ. “Như thế, chẳng còn gì ngu muội hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội làm người này. Nói chung, chúng ta thường xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế, mọi hành vi về thân, ngữ, tâm đều bị hoen ố bởi tham, sân, si, tạo nên nghiệp bất thiện, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì ngu muội hơn việc sử dụng thân người hoàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ...” Trong khi những dòng chữ này đang được viết ra thì ở Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ và Ladakh đều đang thực hiện khóa nhập thất Quán Âm Tứ Thủ và trì niệm 100 triệu biến thần chú Om mani padme hum. Khóa nhập thất này cũng được tổ chức ở Viện Chenrezig dưới sự hướng dẫn của Tổ chức FPMT (Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa), mỗi năm chỉ diễn ra một lần! Ở nước ta chưa có những cuộc nhập thất như vậy, mặc dù không thiếu phương tiện và điều kiện tổ chức. Một số tăng ni cho rằng trì niệm thần chú chỉ để phát triển thần thông, không liên quan gì đến tinh thần từ bi của Đại thừa. Song, vấn đề không phải vậy. Bởi thần chú là bản tâm của chư Phật, cho nên càng trì niệm bao nhiêu, hành giả càng đến gần với bản tâm của chư Phật bấy nhiêu, cho đến khi trở thành hợp nhất. Nhận định về luận điểm này, Lạt-ma Thubten Zopa nói: “Cho dù bạn hiểu biết giáo lý về cách thiền quán tâm Bồ-đề, bạn vẫn cần thọ nhận những lực gia trì đặc biệt của vị Bổn tôn, Đức Phật Bi Mẫn. Bạn nhận những lực gia trì này bằng cách thực hiện thiền định và trì niệm thần chú Om mani padme hum. Như thế, việc thực hành tâm linh này cũng là một phương pháp thể nhập tâm Bồ-đề, chuyển hóa tâm bạn thành tâm Bồ-đề và làm cho việc thiền quán tâm Bồ-đề của bạn có hiệu quả.” Lạt-ma Zopa còn cho biết, ở trụ xứ của Ngài tại Solu Khumbu trong rặng Hy-mã-lạp sơn thuộc địa giới Nepal có những người sống cuộc đời bằng việc làm duy nhất: Trì tụng Om mani padme hum, nhưng không biết một chút gì về giáo nghĩa. Mặc dù họ không thể đọc được chữ viết, nhưng họ có lòng sùng mộ vĩ đại đối với Bồ Tát Quán Thế Âm. Và như thế họ trải nghiệm một cuộc sống ý nghĩa cao cả mà chính bản thân họ cũng không ngờ được. Dĩ nhiên, mỗi hành giả Mật chú thừa cần phải nhận lễ Quán Đảnh để cho sự hành trì thần chú Mani được kết quả cao, đặc biệt là nhận được nhiều sự gia trì từ Bổn tôn, Đạo sư, Dakini. Ý nghĩa của việc Quán Đảnh như thế nào, người viết đã có lần đề cập đếntrong một tác phẩm trước đây. Trong trường hợp chưa được nhận phép Quán Đảnh, hành giả vẫn có thể hành trì cho đến khi có duyên lành gặp được thiện tri thức, đạo sư, chứ không vì vậy mà cô phụ lòng bi mẫn của Đức Quán Thế Âm. Đó là trường hợp của đạo hữu Mật Giác tại thành phố Đà Nẵng. VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ Nhờ nguyện lực vô song của Bồ Tát Quán Thế Âm, thần chú Mani của Ngài mang đến lợi ích cho vô lượng chúng sanh trong sáu cõi luân hồi. Từ việc được nghe, đọc tụng cho đến trì niệm và quán tưởng, liên hệ đến sáu âm Om mani padme hum đều được lợi lạc không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, do căn cơ của mỗi người đều khác biệt, cho nên cần biết phương pháp hành trì thần chú Lục tự đại minh này để phát huy hết nội lực của mình. Cũng như những hoạt động tâm linh khác, phương pháp hành trì thần chú Mani nên đi từ mức độ dễ đến khó, từ giản đơn cho đến tinh tế. Song, ở bất kỳ trình độ nào mà hành giả có sự chuyên chú, nhất tâm đều sẽ triển khai được thần lực của thần chú. Tất cả hoạt động của thân, ngữ, tâm để phát ra câu thần chú Mani một cách đều đặn, thường xuyên gọi là “trì chú”. Giờ đây chúng ta đi vào từng cấp độ một: thần chú thông dụng, đại thần chú, đại minh thần chú, vô thượng thần chú, vô đẳng đẳng thần chú. 1. Thần chú thông dụng: hành giả đọc, tụng, trì niệm sáu âm Om mani padme hum bằng khẩu và ý. Khẩu là đọc hoặc tụng, ý là niệm thầm trong tâm trí. 2. Đại thần chú: Cách trì chú cũng như trên nhưng bổ sung thêm thủ ấn. Trong kinh “Mật giáo Đà la ni thủ ấn đồ tập”, thủ ấn đi kèm theo thần chú Mani là “Quán Âm Thanh Cảnh Ấn”. 3. Đại minh thần chú: Cách trì chú cũng như cách thứ hai nhưng khi trì chú, hành giả dùng cách niệm kim cương vào ra theo hơi thở. Thở vào niệm Om mani, thở ra niệm Padme hum. 4. Thần chú vô thượng: Cách trì chú cũng như cách thứ ba nhưng hành giả cần đi thêm một bước nữa là quán tưởng hình ảnh Bổn tôn (Quán Âm Tứ Thủ) ở trên đầu hoặc trước mặt. 5. Thần chú vô đẳng đẳng: Cách trì chú giống cách cách thứ ba nhưng ở đây hành giả quán tưởng chính mình là vị Bổn tôn. Như đã nêu trên, trong 4 oai nghi của con người thì khi ngồi theo thế kiết già hành giả sẽ trì chú có hiệu quả nhất. Trong trường hợp đi đường, lái xe, ngồi xe buýt, máy bay... hoặc ngồi chờ ai đó nơi công sở... hành giả nên sử dụng cách trì chú thứ nhất là tiện lợi nhất. Cách trì chú thứ tư và thứ năm tức là “thần chú vô thượng”, “thần chú vô đẳng đẳng” khó thực hành hơn. Chỉ khi nào thuần thục quán tưởng trong thiền phòng hoặc thiền đường rồi mới có thể áp dụng ở những nơi khác. Chúng ta đã biết công năng không thể nghĩ bàn của thần chú Mani. Tuy nhiên, tùy theo mỗi cấp độ mà hiệu quả có phần khác nhau. Thuần thục ở hai cấp độ của “thần chú thông dụng” và “đại thần chú”, hành giả phát huy được thần thông thông thường (kính ái, tăng ích, tiêu tai, hàng phục, câu triệu). Ở cấp độ “thần chú đại minh” khi đã thuần thục, tâm thức của hành giả hòa nhập với cõi trời Sắc giới (đạt định từ cấp một đến cấp bốn). Lúc này, hành giả đạt được thắng trí, có thể khai triển thần thông dễ dàng và lợi mãnh hơn hai cấp độ đầu. Ở cấp độ của “thần chú vô thượng” (có nghĩa là không gì cao hơn) hành giả bắt đầu bước vào mép cửa của thần thông tối thượng là trí huệ Bát-nhã. Sau khi thuần thục ở cấp độ “thần chú vô thượng” hành giả đi vào căn nhà trí huệ Bát-nhã như nó là của mình, cho nên gọi là “thần chú vô đẳng đẳng” (không gì có thể so sánh được). Trong giai đoạn trì niệm này, hành giả dần dần thẩm nhập trí huệ Bát-nhã mà cụ thể là các loại trí huệ như: đại huệ, minh huệ, diệu huệ, pháp huệ, trí huệ biện tài vô ngại, trí huệ tổng hợp. (Geshe Achaya Thubten Loden viết trong tác phẩm “Biển Phương tiện và Trí huệ bất khả phân). Ở đây cần giải thích trí thứ sáu là “trí huệ biện tài vô ngại”, còn gọi là “Tứ vô ngại biện”, tức là bốn loại tài trí biện luận không bị ngăn ngại như sau: 1. Pháp vô ngại biện: rõ biết tất cả các pháp không ngăn ngại, từ các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát hay chư Phật. 2. Nghĩa vô ngại biện: rõ biết nghĩa lý không ngăn ngại, tuy có phân ra ba thừa khác nhau biết rõ là rốt ráo chỉ quy về một thừa chân thật, không thấy là có tướng khác nhau. 3. Từ vô ngại biện: khả năng sử dụng ngôn từ không ngăn ngại, đối với một pháp vẫn có thể tùy nghi sử dụng vô số tên gọi. 4. Nhạo thuyết vô ngại biện: khả năng thuyết pháp không ngăn ngại, có thể vì chúng sanh hoan hỷ diễn thuyết tất cả các pháp, khiến người nghe vui thích. Bảy trí huệ trên thành tựu, hành giả sẽ được Ngũ trí Như Lai: đó là Diệu quán sát trí, Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Thành sở tác trí và Pháp giới trí. Lúc đó gọi là trí huệ của vị Phật chánh đẳng chánh giác. Trên con đường Bồ Tát Đại thừa, hành giả phải đi qua tuần tự năm con đường đạo gọi là “ngũ đạo lộ”, tức là trải qua 51 nấc thang tu tiến, nhưng trong Mật thừa thì pháp môn trì chú cũng giúp cho hành giả tự nhiên được đi qua các đạo lộ đó. Đây là luận giải của Đạo sư Tultsim Gyaltsen, đại hành giả Mật tông của Tây Tạng, xuất thân từ tu viện Ganden, sáng lập ra Đại học Phật giáo Mật tông Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, bang California, Hoa Kỳ. Ngài cho rằng “Đại thần chú” liên hệ đến Tư lương đạo (giai đoạn tích lũy), “Đại minh chú” liên hệ đến Gia hành đạo (giai đoạn chuẩn bị), “Vô thượng thần chú” liên hệ đến Kiến đạo (giai đoạn thấu hiểu) và “Vô đẳng đẳng thần chú” liên hệ đến Thiền định đạo (giai đoạn tu tập), được chỉ ra trong năm đạo lộ phải đi qua của Bồ Tát Đại thừa. Từ đây có thể cho chúng ta thấy giá trị vô song của thần chú Mani. Qua luận giải, chúng ta đã nhận thức sâu sắc về tướng trạng của thần chú, công năng cao siêu vi diệu của thần chú. Nhưng để được như vậy, chúng ta phải sử dụng “Ba phương tiện tối thượng”: – Thứ nhất là chuẩn bị tâm qua việc phát tâm Bồ-đề. – Thứ nhì là pháp thực hành chính yếu, tức là trì niệm thần chú Lục tự đại minh không xao lãng. – Thứ ba là kết thúc mỗi thời khóa hành trì chúng ta đều hồi hướng công đức vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong tác phẩm “Diệu pháp đạt Giác Ngộ” Đạo sư Dilgo Khyentse nhấn mạnh: “Ba phương tiện này phải được ứng dụng cho bất cứ pháp thực hành nào, dù chỉ là trong giai đoạn phát sinh hay giai đoạn thành tựu của Mật giáo, hoặc đối với pháp hành Đại thủ ấn, Đại toàn thiện, Trung đạo. Thiếu một trong Ba phương tiện này thì không thể đạt được kết quả tốt.” Cụ thể chi tiết của nghi quỹ hành trì thần chú Mani được trình bày rõ ràng như sau: Phương tiện thứ nhất: Trong đạo phục nghiêm trang, hành giả ngồi kiết già hoặc bán già trên tọa cụ xướng ngôn: “Đệ tử là... xin quy y Đạo sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng từ đây cho đến khi giác ngộ tối thượng! (3 lần) Để giải thoát chúng sanh khỏi lục đạo luân hồi, đệ tử hôm nay thực hành trì chú Mani, xin Đức Bổn tôn chứng minh và gia hộ!” Phương tiện thứ nhì: Hành giả đi vào phần chính cũng tác bạch Bổn tôn: “Giờ đây đệ tử bước vào phần chính của trì chú, xin Đức Bổn tôn gia trì thần lực.” Hành giả bắt đầu trì chú Tùy theo trình độ, mỗi hành giả trì niệm các cấp độ thần chú khác nhau. Riêng “thần chú vô thượng” và “thần chú vô đẳng đẳng” có phối hợp quán tưởng Bổn tôn bên ngoài và bên trong nên hành giả cũng cần tiến hành tuần tự theo diễn trình sau đây: – Đối với Bổn tôn bên ngoài, hành giả quán tưởng trên đầu một hoa sen lớn màu trắng hoặc màu khác tùy theo sở thích, trên đó là một chủng tự Hrih tỏa hào quang. Lúc này, hành giả bắt ấn triệu thỉnh và niệm tinh túy thần chú là 3 âm : OM AH HUM. Liền sau đó linh ảnh của Quán Âm Tứ Thủ hiện lên từ chỗ chủng tự. Bấy giờ trong tâm thức hành giả, thánh tướng của Ngài dần dần xuất hiện đầy đủ những tướng hảo chánh và phụ. – Nếu không quán tưởng được như trên hành giả chỉ cần đọc bài nguyện “Làm không gian ngập tràn lợi ích của chúng sanh” của Đạo sư Tangtong Gyalbo là Bổn tôn sẽ xuất hiện trên đỉnh đầu. Trong bối cảnh có Bổn tôn lấp lánh hào quang, đôi mắt bi mẫn nhìn chúng sanh, hành giả trì niệm thần chú Om mani padme hum. – Để quán tưởng Bổn tôn bên trong, hành giả dùng thủ ấn thỉnh nhập niệm Om ah hum, hình dung Bổn tôn trên đầu hòa nhập với ta thành một. Bấy giờ hành giả mang thánh tướng của Bổn tôn với đầy đủ những tướng chánh và phụ của Bồ Tát đẳng giác. Lúc này, hành giả trì niệm thần chú Mani cũng không gì khác biệt với Đức Quán Âm Tứ Thủ tuyên thuyết thần chú. Muôn ngàn tia sáng đủ màu phóng xuất ra từ hành giả trong thân tướng Bồ Tát làm lợi lạc chúng sanh muôn loài đang khổ đau và mong cầu giải thoát. Ánh sáng màu trắng làm lợi lạc cho những người thân (cha mẹ, ông bà, anh em... đã chết) ở vị trí bên tay trái hành giả; ánh sáng vàng làm lợi lạc cho những người thân đang còn sống, ở bên tay phải hành giả; ánh sáng màu đỏ làm lợi lạc cho những kẻ thù, kẻ đối nghịch, ở phía trước mặt hành giả; ánh sáng màu xanh làm lợi lạc cho bằng hữu của hành giả, ở phía sau lưng; ánh sáng màu tím nhạt làm lợi lạc cho những oan hồn uổng tử, ở về phía sau chót. Công phu càng sâu dày, thần chú của hành giả càng phát ra công năng mãnh liệt, cho đến khi hành giả và vị Bổn tôn trở thành tương thông hợp nhất. Đây là công phu của “thần chú vô đẳng đẳng”. Sau thời thiền, hành giả quán tưởng những ánh sáng năm màu ấy biến thành hàng ngàn, hàng vạn quả cầu nhập vào tim hành giả. Từ đây, hành giả trong thánh tướng Bổn tôn thể nhập vào tim Phật A-di-đà ở trên cao, đang chứng minh sự gia trì của hành giả trong thánh tướng Bổn tôn đến tất cả chúng sanh. Sau đó, toàn thân Phật A-di-đà biến thành ánh sáng hoàng kim, phóng xuất về trụ xứ Tây phương Cực lạc. Hành giả an trú trong trạng thái đó cho đến khi không còn tập trung được nữa. 3. Phương tiện thứ ba Hành giả bắt ấn xả thiền rồi đọc kệ hồi hướng: “Nguyện đem công đức này. Hướng về khắp tất cả. Đệ tử và chúng sanh. Đều trọn thành Phật đạo.” Đạo sư Dilgo Khyentse dạy rằng: “Khi công đức được hồi hướng, quả tốt của công đức sẽ gia tăng liên tục thay vì tàn lụi dần, như chất men theo thời gian sẽ nảy nở thêm. Khi hành giả hồi hướng, nên ý thức rõ ràng về việc hồi hướng của mình, giống như đang dâng lễ vật cho từng chúng sanh một. Không nên nghĩ rằng công đức được chia ra cho mọi chúng sinh, mà là mọi chúng sanh đều sẽ nhận được trọn vẹn công đức đó...” Tóm lại, mọi hoạt động tâm linh dựa trên ba phương tiện tối thượng này, thì dù một việc nhỏ nhặt cũng sẽ mang lại cho hành giả những lợi ích vô cùng. Đây là nền móng giúp cho hành giả xây dựng lâu đài Giác ngộ ở Cực lạc Tây phương. TỰ QUYẾT ĐỊNH VẬN MỆNH TÂM LINH Người Phật tử tại gia nếu giữ được trọn vẹn Năm giới (Ngũ giới) thì sau khi chết chắc chắn sẽ được tái sanh vào cõi người. Năm giới đó là: không giết hại, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm và không uống rượu. Tương tự, để được tái sanh lên các cõi Trời cần phải tu tập đủ Mười điều lành (Thập thiện đạo), bao gồm: 1. Không sát sanh, thường làm việc tha thứ và phóng sanh. 2. Không trộm cắp, thường tu hạnh bố thí, giúp đỡ, san sẻ với mọi người. 3. Không tà dâm, luôn giữ lòng chung thủy một vợ một chồng. 4. Không nói dối, luôn nói lời chân thật. 5. Không nói trau chuốt, thô tục, thường nói những lời có ý nghĩa, có ích lợi. 6. Không nói đâm thọc, gây chia rẽ, thường nói những lời tạo ra sự đoàn kết, thương yêu nhau. 7. Không nói lời độc ác, gây tổn hại, thường nói những lời ôn hòa, nhu thuận. 8. Không tham lam, luôn quán xét rằng mọi thứ của cải vật chất đều chỉ là giả tạm, không thường tồn. 9. Không sân nhuế, thường tu tập hạnh từ bi, nhẫn nhục. 10. Không ngu mê, tà kiến, thường sáng suốt tu tập theo chánh kiến. Việc thực hiện được như trên là một quá trình tự thân phấn đấu lâu dài, mới có thể khiến cho sự trì giới hay tu tập thiện hạnh trở thành hoạt động tự nhiên của thân, ngữ, tâm. Trên thực tế, nếu không có một sự quyết tâm kiên trì thì quả thực rất khó để làm được trọn vẹn. Đó là vì sự tu tập đơn thuần như trên được gọi là con đường lập hạnh bằng tự lực bản thân. Con đường này tuy hoàn toàn đúng đắn nhưng trong thực tế là quá khó để thực hiện trong kiếp người ngắn ngủi! Bởi lẽ, sự huân tập các tập khí xấu ác của mỗi chúng ta đều đã bắt đầu từ vô thủy đến nay, mà sự tu tập thiện hạnh thì hầu như quá ít ỏi. (Đây cũng chính là một trong các lý do khiến chúng ta hôm nay đang hiện hữu trong cõi Ta-bà này.) Mặt khác, việc hình thành được một tính tốt cần phải hành trì nhiều năm, nhưng sự nhiễm ô một thói xấu chỉ cần trong vài ngày! Nếu làm một bài toán bù trừ qua lại sẽ thấy rõ: việc xấu gia tăng theo cấp số nhân, trong khi việc thiện gia tăng theo cấp số cộng! Tiện thể, người viết cũng xin nêu ra sự gia tăng của một nghiệp xấu đã tạo như thế nào qua sự xác quyết của giáo điển: “Nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà không tu hành tịnh hóa ngay trong ngày, sức nặng của nghiệp bất thiện đó sẽ tăng lên gấp đôi ở ngày kế tiếp; ngày thứ ba lại tăng gấp đôi, ngày thứ 15 sẽ nặng như giết một con người. Đạo sư Pabongka Decheng Nyingpo còn xác quyết rằng vào ngày thứ 18 thì nghiệp xấu này sẽ tăng lên gấp 131.072 lần. Và như thế, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm trôi qua, một nghiệp bất thiện nhỏ sẽ nhân lên nhiều lần, sớm muộn gì cũng sẽ trở thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó trở nên quá đỗi nặng nề...” Với thực tế như vậy, làm sao chúng ta có thể trở nên một người hiền thiện hoàn hảo? Tựa như kẻ nghèo khó, dẫu nỗ lực đến đâu cũng chỉ làm ra được 100 đồng mà việc chi tiêu nuôi sống hằng ngày đã mất cả 1.000 đồng, biết bao giờ có tiền tích trữ phòng khi ốm đau, nói chi đến chuyện làm giàu? Sự bế tắc của vấn đề ở đây chỉ có thể được giải quyết nhờ biết sử dụng kèm theo một sức mạnh giúp đỡ từ bên ngoài. Ví như người nghèo khó kia, bỗng nhiên nhận lại được quan hệ với cha mẹ giàu có từ lâu thất lạc, liền được cha mẹ giúp cho những khoản tiền lớn, cộng thêm với sự cần kiệm và chịu khó của mình nên chẳng mấy chốc sẽ trở nên giàu có, thoát khỏi nỗi khổ đói nghèo. Đức Bồ Tát Quán Thế Âm từ bi vô lượng chính là cha mẹ giàu có đã từ lâu thất lạc của tất cả chúng ta. Khi chúng ta đặt niềm tin vững chắc vào Ngài, đó là ta thiết lập lại mối quan hệ mà chính ta đã từ lâu đánh mất do sự si mê. Ngay khi đó, ta sẽ nhận được sự giúp đỡ của Ngài với những “khoản tiền lớn” là lực gia trì thông qua việc trì niệm thần chú Mani. Với sự giúp đỡ to lớn này, kèm theo với nỗ lực tu tập của tự thân chúng ta, chắc chắn ta sẽ trở nên giàu có cả về mặt tâm linh cũng như thể chất: khi còn sống sẽ được khang an, thịnh vượng, hạnh phúc và khi qua đời chắc chắn sẽ được vãng sanh về thế giới Tây phương Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà. Vì sao được như vậy? Mật điển Ghuyasamaja khẳng định: “Ai tìm giải thoát trong chốn luân hồi, thì ngay tại đó họ cũng được tăng trưởng thịnh vượng trong cuộc sống đời thường.” Phương pháp hành trì thật đơn giản như đã nêu trên. Phần tự lực của hành giả tất nhiên là thiết yếu, nhưng thành tựu chính là nhờ vào phần tha lực gia trì vô song của vị Bổn tôn Quán Âm Tứ Thủ. Nhờ đó, hành giả khi đã nỗ lực hành trì thì chắc chắn sẽ dễ dàng thành tựu, và chính trong quá trình hành trì miên mật đó mà việc trì giới và tu tập thiện hạnh cũng tự nhiên được thành tựu. Điều này sở dĩ có được là vì hành giả đã thông qua sự hành trì mà chuyển hóa được tâm thức, và khi tâm thức đã chuyển hóa thì mọi hành vi cũng như nghiệp lực đều dần dần được chuyển hóa theo hướng tốt đẹp hơn. Đây là một đặc điểm ưu việt của Mật thừa, mà ở đây cụ thể là chúng ta đang áp dụng phương pháp trì niệm thần chú Mani do Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ dạy. Sau đây là một câu chuyện có thật ở Tây Tạng, chứng minh rằng khi thực hành Mật thừa cũng là cùng lúc thực hành cả Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Lạt-ma Rinchen Zangpo là đạo sư danh tiếng nhất Tây Tạng, được Nhà vua cử làm phiên dịch cho Đạo sư Atisha từ Ấn Độ sang giáo hóa. Ngài Rinchen Zangpo lớn hơn Ngài Atisha đến 24 tuổi, đã làu thông kinh điển Phật giáo. Bởi vậy, thật tự hào khi Ngài Zangpo kể ra hàng loạt kinh luận mình đã đọc và thực hành. Ngài Atisha khâm phục thốt lên: “Sau khi gặp Ngài, tôi thấy thật ra chẳng cần tôi ở Tây Tạng làm gì, vì đã có một vị đạo sư như Ngài là quá đủ rồi!” Tuy vậy, muốn thử nghiệm lại việc thực hành Pháp như thế nào để quyết định việc trở lại Ấn Độ, Ngài Atisha đặt câu hỏi: “Theo Ngài thì thế nào, Rinchen Zangpo, ta nên tu các giáo pháp theo thứ tự có trước có sau hay có thể hành trì cùng lúc?” Ngài Rinchen Zangpo đáp ngay: “Theo thứ tự có trước, có sau.” Nghe câu trả lời này, Atisha không đồng ý, Ngài nói một giọng như ra lệnh: “Tất cả các giáo pháp được hành trì cùng một lúc. Tất cả các vị thánh đều hiện thân từ một gốc, và chỉ cần chứng ngộ các vị đó trong một khoảnh khắc duy nhất. Hoàn toàn vô ích nếu như hiểu biết hàng ngàn pháp sự mà bỏ quên đi phút giây mà tất cả đều hội tụ và tất cả đều giải thoát.” Thấy vị tỳ-kheo Tây Tạng có vẻ chưa tin hẳn, Đạo sư Atisha nói tiếp: “Bây giờ tôi đã biết vì sao tôi phải đến Tây Tạng!” Sau đó, Ngài Rinchen Zangpo được Đạo sư Atisha chỉ giáo, chuyển sang thực hành thiền quán Bổn tôn. Mười năm sau, vị tỳ kheo già đó đã chứng đạt tự tại, không lệ thuộc vào bất kỳ phương tiện nào nữa. Trước khi chết, Ngài Rinchen Zangpo, người đã giác ngộ, tập hợp đệ tử lại và tâm sự: “Tới lúc ta cao tuổi, ta còn phải học và tu tập thiền định Thanh văn. Sau khi gặp Atisha, tâm ta mới được giải thoát trong phép thiền quán đích thực.” Trong tác phẩm “Mật thừa Tây Tạng”, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV chỉ ra 31 điểm tinh yếu về sự khác biệt giữa Tiểu thừa (Thanh văn, Độc giác thừa) và Đại thừa (gồm Thừa Hoàn Thiện là Đại thừa Hiển giáo, Kim cương thừa là Đại thừa Mật giáo), trong đó Ngài đối chiếu đặc điểm ưu việt của Mật thừa so với Thừa Hoàn Thiện (Đại thừa Hiển giáo) qua các điểm như sau: Hai Đại thừa, tức là Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa, có cùng quả vị và trí huệ; bởi thế sự khác biệt nằm ở phương tiện, đó là đặc trưng đặc biệt Yoga hóa thần của Tantra. (Điểm khác biệt thứ 18) Phương tiện trong Thừa Hoàn Thiện và Mật thừa là như nhau về nền tảng của thực hành, đó là tâm Bồ-đề và những công hạnh song hành là Lục Ba-la-mật. Tuy nhiên, Mật thừa có đặc trưng phụ trội là Yoga Hóa thần. Tánh không là đặc trưng của Yoga Hóa thần vì Bổn tôn lưu xuất từ Chân tâm của hành giả, chứ không từ đâu khác như Yoga Hóa thần của ngoại đạo phi Phật giáo. (Điểm khác biệt thứ 20) Sự khác biệt về tốc độ giữa hai Đại thừa là do một sự tích tập công đức nhanh hơn trong Mật thừa (nếu người ta có thể thực hành nó), có từ sự trau giồi Yoga Hóa thần. Đây là phương pháp thiền quán Bổn tôn trong bối cảnh thanh tịnh triệt để: nơi chốn một đức Như Lai trụ xứ sau khi giác ngộ viên mãn; thân thể là sự biểu lộ của Pháp thân trong môi trường chung quanh và những thánh chúng tùy tùng; những y báo hiển lộ của cấp độ Phật tánh; những đại lực vô dụng công của một vị Phật giáo hóa chúng sanh. Những trạng thái tương tự với 4 yếu tố này là thánh tướng của vị Phật được thiền quán trong Mật thừa. (Điểm khác biệt thứ 21) Thừa Hoàn Thiện không có thiền quán Bổn tôn (Yoga Hóa thần) dù cho có sự thiền định trau giồi một hình thức tương tự của Pháp thân, tức là thiền quán Chân như, tánh Không. (Điểm khác biệt thứ 26) Đối với Mật thừa, thì sự khác biệt trong tốc độ nhanh hơn so với Thừa Hoàn Thiện là đoạn đường từ lúc bắt đầu con đường “Tư lương đạo” đến “Kiến đạo” nhanh hơn một A-tăng-kỳ kiếp so với thời gian cần thiết trong Thừa Hoàn Thiện. (Điểm khác biệt thứ 29) Ngoài ra, Đạo sư Khetsun Sangpo, người được Đức Đạt-lai Lạt-ma đặc cử giảng dạy ở Nhật Bản 10 năm, đã khẳng định: “Mật thừa giống như một căn nhà ở giữa cánh đồng rộng mà chúng ta có thể vào từ bất cứ hướng nào: đông, tây, nam, bắc. Hành giả không bị bắt buộc phải vào một lối nào, vì có đủ các pháp môn thích hợp cho từng hạng người. Trong các thừa Thanh văn và Bồ Tát, hành giả phải đi theo một con đường hẹp, còn trong Thần chú thừa (Mật thừa) thì có nhiều phương tiện dị thường để tích lũy công đức và trí huệ một cách nhanh chóng, vì vậy hành giả mau đạt giác ngộ. Nhanh và dễ là đặc điểm của Mật thừa.” Đức Đạt-lai Lạt-ma dạy rằng, đã là người là Phật tử thì nên chọn theo Tantra (Mật chú thừa), và nên theo Tantra Yoga Tối Thượng (Du-già Tối thượng của Mật thừa) nếu có thể được, bởi vì đó là chọn lựa tốt nhất, bởi vì Vajradhara chỉ dạy Tantra Yoga Tối thượng. Nhưng Ngài chỉ dạy điều này với những ai có thể thực hành. Với những người mà Tantra Yoga Tối Thượng không thích hợp thì Ngài dạy Tantra Yoga (Du-già Tương tục). Với những người mà Tantra Yoga không thích hợp thì Ngài dạy Tantra Thực Hiện. Với những người không thích hợp với Tantra Thực Hiện thì Ngài dạy Tantra Hoạt Động. Với những người không thích hợp với Tantra Hoạt Động thì Ngài dạy theo kinh điển, trong đó ngay cả tên gọi Mật thừa cũng không có. Như vậy, những hành giả Mật thừa sẽ có cơ hội tu hành ở những giai đoạn Du-già khác nhau tùy theo khả năng của mình. Nếu chư vị nào đang tu hành theo Tịnh độ tông, có nghĩa là chuyên tâm niệm Phật A-mi-đà thì cũng có trì chú trong thời công phu của mình như thần chú Thủ lăng nghiêm, chú Đại bi, chú Vãng sanh, chú Thiên nữ, chú Kiết tường... bao gồm 10 thần chú gọi là “thập chú”. Các thiền sư vĩ đại cũng khuyên mọi người trì chú như Ngài Vĩnh Minh, Hám Sơn ngày xưa. Ngày nay thì có các Ngài Quảng Khâm, Tuyên Hóa... Tuy vậy, cách hành trì xen kẽ như thế không “thuần Mật” như Mật thừa Tây Tạng hiện nay. Một số Phật tử có thể sẽ hỏi rằng, hành giả Tịnh độ tông khi qua đời sẽ vãng sanh về cõi Phật A-mi-đà, còn hành giả Mật tông thì sẽ về đâu? Ngay từ đầu sách, người viết đã nêu rõ đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm là khi trì niệm thần chú Mani của Ngài, lúc lâm chung Ngài sẽ đón rước về Tây phương Cực lạc của Phật A-mi-đà, cho dù trước kia người đó từng phạm tội ngũ nghịch. Tuy nhiên, cần nên biết rằng pháp môn trì niệm thần chú ở đây có thể đi đôi với sự phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc. Đó là quan điểm của Mật gia Song Nguyễn chúng tôi, đã xác định ngay từ buổi đầu tu học. Vì sao như vậy? Bởi vì người con nào cũng muốn theo cha mẹ sinh sống để được thương yêu, che chở. Cũng vậy, chúng ta hành trì pháp môn trì chú Mani của Mật thừa Tây Tạng là đương nhiên công nhận người bảo hộ cao quý nhất, hiệu quả nhất của mình là Bồ Tát Quán Thế Âm. Hiện nay, trụ xứ của Ngài là ở hai cõi tịnh độ: Tây phương Cực lạc của Đức Phật A-mi-đà, và cõi Hoan Hỷ Cực lạc là cảnh giới Potala của Ngài. Trong khi sống chúng ta theo chân Ngài, phát nguyện trở về cảnh giới của Ngài. Dĩ nhiên, sau khi chết ta cũng theo Ngài về cõi Tịnh độ, vì câu thần chú của Ngài là kim chỉ nam cho chúng ta nhắm hướng. Với niềm tin kiên cố qua nhiều năm tháng hành trì, chúng ta sẽ không sợ hãi vào lúc lâm chung, mà ngược lại đó là lúc cảm nhận niềm vui sắp được giải thoát khỏi thân nghiệp, được về với quốc độ Cực Lạc của Ngài. Chúng tôi sẽ dựa vào một số luận điển để giải thích thêm về niềm tin này. Theo giáo pháp Mật tông, sau khi mạng chung, thần thức chúng ta sẽ mang thân trung ấm trong một cảnh giới trung gian giữa đời sống cũ và đời sống mới (cõi trung ấm), vậy thần chú Mani có tác dụng gì vào lúc đó? Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm (quyển 8) thì vào lúc chết có hai cách mà tâm thức chúng sinh có thể đi tới: đi thẳng lên hoặc đi thẳng xuống. Đi thẳng lên cõi Tịnh độ là cách của một hành giả thượng thặng được giải thoát ngay sau khi chấm dứt hơi thở sau cùng. Đi thẳng xuống địa ngục là những ai đã phạm tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết Thánh tăng, gây chia rẽ Tăng đoàn, phỉ báng Giáo pháp của Đức Phật. Sự báng bổ Giáo pháp có nghĩa là sau khi bắt đầu con đường tu tập và tự hứa giữ giới luật, giới nguyện, sau khi đã đặt niềm tin và sự sùng mộ nơi Pháp, đã hoàn toàn tin tưởng vào Đức Phật và Phật pháp, rồi lại hoàn toàn thay đổi thái độ, phát triển cái thấy sai lệch (tà kiến) và cho rằng các giáo lý đều không chân thật, và không có nhân quả, không có gì là ác hạnh. Đối với hành giả giác ngộ giải thoát không có thân trung ấm (bardo). Họ đạt giải thoát vào Pháp thân khi trút hơi thở cuối cùng. Nếu điều đó không xảy ra với chúng ta, những hành giả bình thường, thì vào lúc đó khi mang thân bardo, chúng ta bắt đầu tri giác các hiện tượng. Năm màu ánh sáng sẽ xuất hiện và từ đó các cõi tịnh độ của các Bổn tôn sẽ phô diễn. Nếu chúng ta có thói quen thực hành thiền quán Bổn tôn, thì nhờ niềm tin của mình, khi ta nhìn thấy Ngài trong bardo, ta sẽ cảm nhận được sự cuốn hút về phía Ngài và được giải thoát trong giác tánh Báo thân. Khi đang mang thân bardo, một câu thần chú Mani lúc đó có hiệu quả mãnh liệt, vì nó báo hiệu cho ta biết đâu là Bổn tôn của mình. Đây là lý do cơ bản để chúng ta tự nhắc nhở mình hành trì pháp môn này suốt cuộc đời để sử dụng trong giây phút hệ trọng đó. Một số Phật tử hoài nghi rằng lâu nay họ quen tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện để cầu siêu cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích, như vậy áp dụng trì niệm thần chú Mani cho việc hộ niệm, cầu siêu có được kết quả chăng? Để giải thích vướng mắc này, người viết xin trích dẫn lời dạy xác quyết mới đây nhất vào năm 1986 ở Mỹ Quốc của Hòa thượng Tuyên Hóa, cao tăng đắc đạo người Trung Quốc, khi thuyết giảng kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện có nói: “Bồ Tát Địa Tạng khuyến khích mọi người niệm thần chú Lục tự đại minh. Nếu quý vị nào trì niệm thì khi cầu xin bất cứ điều gì cũng sẽ được toại nguyện.” Một số khác lại suy diễn, khi hộ niệm người hấp hối lúc lâm chung, người ta thường quen mời chư tăng ni tụng kinh A-di-đà, hoặc đọc thần chú Vãng sanh của Ngài. Như vậy, thần chú Mani của Bồ Tát Quán Âm áp dụng lúc đó có linh nghiệm không? Tiện đây, người viết xin xác quyết lại một lần nữa: Bồ Tát Quán Âm đã tuyên xưng Ngài là hiện thân của tất cả chư Phật, còn thần chú Mani của Ngài có công năng đóng cửa sáu nẻo luân hồi, thì sự hộ niệm bằng thần chú Mani có tác dụng như khi đọc thần chú Vãng sanh hoặc đọc tụng kinh A-di-đà. Dĩ nhiên, điều này dễ dàng hơn cho mọi người vì thần chú Mani chỉ có sáu âm tiết, ai cũng có thể đọc tụng hoặc trì niệm được. ° Mật gia Song Nguyễn là nơi tịnh cư tu tập của người viết, đã từ lâu chọn pháp môn trì chú Mani làm cốt lõi tu tập, song hành với phát nguyện vãng sanh Tây phương Cực lạc. Những hành giả của Mật gia Song Nguyễn tuy ở những trình độ tâm linh khác nhau nhưng đều dùng thần chú Mani làm nền tảng tiến tu. Ở đây, khi tọa thiền đều thực hành theo Nghi quỹ Mật giáo, áp dụng Ba phương tiện tối thượng, trong đó phần chính là trì niệm thần chú Mani. Cần nhấn mạnh rằng từ “trì niệm” có nghĩa là đọc thầm trong tâm trí, không phát ra âm thanh như khi “trì tụng”. Ở thiền phòng luôn tôn trí linh ảnh, hoặc tôn tượng Đức Quán Âm Tứ Thủ trước mặt hành giả để dễ thiền quán Bổn tôn bên ngoài. Bên cạnh đó, ngoài những phẩm vật cúng dường cố định, còn có trang trí đồ hình Mạn-đà-la, đồ hình các câu thần chú Mật tông. Tư thế tọa thiền tuy không bắt buộc ngồi kiết già, nhưng đây là một mục tiêu đầu tiên cần phải đạt được trước khi muốn tiến nhanh trên đạo lộ giải thoát. Việc tọa thiền không ấn định số lần trong ngày và thời gian mỗi lần, chỉ tùy theo khả năng và tâm trạng của mỗi hành giả. Hành giả có thể ngồi 5 phút một thời thiền, hoặc nhiều cho đến bao nhiêu tùy ý. Hành giả ngồi thiền bao nhiêu thời trong ngày cũng được, nhưng ít nhất là mỗi ngày một thời. Tuy nhiên, hành giả Mật gia Song Nguyễn không được bỏ tọa thiền quá 3 ngày liên tục. Theo truyền thống, mỗi ba tháng một lần vào ngày mồng một âm lịch có chương trình Pháp hội mang tên là “Đêm trắng Mật gia”. Đêm đó, mỗi hành giả tham gia thực hành tâm linh từ 23 giờ cho đến 5 giờ sáng hôm sau. Chương trình gồm những hoạt động Phật pháp khác nhau. Tiêu biểu dưới đây là chương trình Pháp hội “Đêm trắng Mật gia” được tổ chức vào mồng một tháng Giêng năm Kỷ sửu (2009): I. Tọa thiền từ 23 giờ đến 24 giờ II. Thiền hành từ 24g10 đến 24g30 III. Đọc tụng giới nguyện Mật giáo từ 1h30 đến 2g00 IV. Thiền hành từ 2g00 đến 2g20 V. Pháp thoại từ 2g30 đến 3g30 VI. Thiền hành từ 3g40 đến 4.00 VII. Giảng pháp từ 4g00 đến 5g00 Ở đây cần có vài giải thích. Thiền hành tức là thiền trong tư thế đang đi. Phương pháp thiền hành ở Mật gia là khi đi trì niệm thần chú Mani. Chân trái bước trước niệm Om mani, chân phải bước sau niệm Padme hum. Pháp thoại là lời tự bạch của mỗi hành giả về kinh nghiệm tu tập của mình, hoặc có khi là ý kiến của mỗi hành giả về một chủ đề chung, chẳng hạn như “Vai trò của niềm tin trong đạo Phật”. Giảng pháp là việc của Giáo thọ thiện tri thức, mỗi chương trình Pháp hội sẽ có mỗi bài thuyết pháp khác nhau. Sau đó là thảo luận, giải đáp thắc mắc về Phật pháp. Đặc biệt cần nhấn mạnh là việc đọc tụng giới luật Biệt giải thoát, giới nguyện Mật giáo và giới nguyện Bồ-đề tâm của hành giả Mật tông. Trong Mật gia Song Nguyễn, có hành giả phát nguyện giữ đầy đủ 98 giới (10 Biệt giới giải thoát, 24 giới nguyện Mật giáo, 64 giới nguyện Bồ-đề tâm ), có hành giả thọ trì 5 giới hoặc 10 giới Biệt giải thoát... Tuy nhiên, ít nhất hành giả cũng phải thệ nguyện giữ được 5 giới Biệt giải thoát. Mỗi tháng 2 lần đọc tụng giới nguyện vào ngày rằm và mồng một âm lịch. Có như vậy, thần lực của thần chú mới được gia tăng theo thời gian. Vai trò tối quan trọng của giới luật được Đức Phật nhấn mạnh trong kinh Đại Bát Niết-bàn, được thuyết giảng ngay trước khi ngài nhập diệt: “Này A-nan! Giới luật [Phật đã chế định sẽ] là bậc thầy lớn nhất của các ông, y theo đó mà tu hành có thể đạt được định và tuệ rất thâm sâu, thoát khỏi thế tục.” Thiển nghĩ, cho dù không am hiểu giáo lý Mật tông của Phật giáo, nhưng hình ảnh của Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV đang mang ánh sáng Mật tông đến với hàng triệu người, được hoan nghênh nhiệt liệt trên thế giới hiện nay, qua đó chúng ta cũng đủ cơ sở xác quyết rằng việc thực hành giáo pháp đem lại lợi lạc cho nhiều người, mà trước hết là bản thân ta. Lạt-ma Thubten Zopa, người mà chúng ta biết đã khuyến tấn đệ tử của mình là đạo hữu Iran Green thực hiện công trình điêu khắc Ngọc Phật “Polar Pride” (Niềm kiêu hãnh của Bắc Cực), rồi sau đó triển lãm tại Việt Nam, vào giữa tháng 3 cho đến giữa tháng 4 năm 2009, khẳng định: “Mọi vấn đề rắc rối xảy ra đều do không thực hành Pháp; mọi sự trở nên hanh thông là nhờ thực hành Pháp.” Bản thân Ngài là một minh chứng sống động hiện nay về thực hành pháp môn trì chú Mani, đã làm lợi lạc cho vô số chúng sanh qua những kỳ nhập thất trì tụng thần chú Mani được tổ chức ở đất nước Nepal, cả ở phương Tây dưới sự chủ trì của chi nhánh Tổ chức Bảo vệ Truyền thống Đại thừa (FPMT). Thêm một Đạo sư vĩ đại với công hạnh siêu phàm khác là Pháp vương Gyalwang Drukpa thứ XII, đứng đầu dòng phái Drukpa có chiều dài truyền thừa qua 800 năm, đã phát động phong trào “Sống để yêu thương” trên toàn thế giới. Ngài còn chủ trương giáo hóa nhiều nước Á Châu, trong đó có Việt Nam bằng chuyến hoằng hóa giáo pháp Mật tông, ban lễ Quán đảnh cho Phật tử ở nước ta liên tiếp 2 lần (2007 và 2008). Ngài đã chủ trì buổi lễ cầu nguyện cho thế giới hòa bình bằng trì niệm tập thể thần chú Mani 100 triệu biến như đã nêu ở đầu sách. Thực sung sướng biết bao khi chúng ta được biết, và những ai là hành giả Mật tông đều công nhận, Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV, Pháp vương Gyalwang thứ XII, là những hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Để kết luận, người viết xin được trích dẫn hai điều tâm huyết trong tác phẩm “37 Pháp hành Bồ Tát đạo” của Đạo sư Thogme Zangpo khuyên chúng ta nên thực hiện: – Đã được thân người quý hiếm với đầy đủ tự do và thuận lợi, vậy hãy chuyên cần lắng nghe, suy gẫm và thực hành giáo pháp bất kể ngày đêm, để giải thoát cho mình và chúng sanh khỏi biển khổ luân hồi. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành thứ nhất) – Thân bằng quyến thuộc lâu năm rồi cũng sẽ chia tay. Tài sản tạo dựng bằng mồ hôi và nước mắt rồi cũng phải bỏ lại. Thần thức là khách trọ trong căn nhà thân xác rồi cũng phải ra đi. Đừng bám víu vào kiếp sống này. Đó là pháp hành Bồ Tát đạo. (Pháp hành thứ tư) Giờ đây, mỗi người chúng ta hãy tự quyết định vận mệnh tâm linh của chính mình! Cho dù ở phương diện nào đi nữa, chúng ta cũng phải hiểu rằng chìa khóa thành công trong mọi nỗ lực là sự tinh tấn, có nghĩa là quyết tâm và chí khí. Nếu bạn quyết tâm được giàu có, bắt đầu với chỉ số tiền nhỏ, cuối cùng bạn cũng có thể là triệu phú. Nếu bạn quyết tâm học, rồi bạn sẽ trở thành uyên bác. Nếu bạn quyết định thiền tập, rồi bạn sẽ tìm ra phương thức giải thoát khỏi ràng buộc thế sự, để tập trung cho thực hành Pháp. Tùy bạn chọn lựa mục đích thế gian hay xuất thế gian. Qua thực hành Pháp, giống như một nhà vô địch khuất phục những đối thủ truyền kiếp của mình, bạn sẽ đánh bại một lần cho tất cả mai sau, sự chấp ngã đã ăn sâu tận gốc rễ tâm thức của mình trong vô số tiền kiếp. Đó là lời khuyên chân thành và sáng suốt của Đạo sư Dilgo Khyentse. Và người viết xin nêu ra một yếu tính giác ngộ được chỉ rõ trong kinh sách: “Không ai sở hữu được Phật pháp, ngoại trừ những người kiên trì thực hành Pháp.” Cuối cùng là quy định cần thiết bảo đảm thành công trong thực hành Pháp mà Mật gia Song Nguyễn tuân thủ, gồm 4 điều sau đây: (1) niềm tin kiên định, (2) không mảy may nghi ngờ pháp môn mình đang hành trì dù bị tác động tiêu cực từ thế sự; (3) thực hành đều đặn và (4) giữ kín việc tu tập. Viết xong tại Mật gia Song Nguyễn ngày 21 tháng 3 năm 2009, nhân dịp Đại lễ Bồ Tát Quán Thế Âm 19 tháng 2 năm Kỷ Sửu và sự kiện Tượng Phật Ngọc “Polar Pride” được triển lãm tại Việt Nam. thuvienhoasen.org.vn
    1 like
  12. 1 like
  13. Chính vì hỏi như vậy nên tôi chỉ xem cho một lần này thôi vì tôi không có thời gian chọn kiểu thế đâu. Bạn cứ tưởng tượng ai cũng làm như bạn thì sao mà tôi kiếm được. Trong 1000 số chỉ có được vài chục số tốt chứ không phải là vài trăm nên kiếm như vậy là rất mất thời gian. Thân mến
    1 like
  14. Như vậy, chính người Tàu cũng thừa nhận "Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở" và là một nền văn minh có từ 5000 năm trước. Nhưng đám tư duy "Ở trần đóng khố" thì cứ gân cổ chứng minh: Lạc Việt chỉ là một bộ phận của Bách Việt và thời Hùng Vương chỉ là một "liên minh bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". Luận điểm của họ chỉ dựa trên sự hoài nghi những di sản còn lại sau 1000 năm Bắc thuộc, nền gần như mơ hồ. Chẳng có một chút gì để gọi là có "cơ sở khoa học" - ngoại trừ nếu họ can đảm nói rằng: Cơ sở khoa học để phủ nhận văn hiến Việt của họ là họ không nhìn thấy những di vật khảo cổ về Thời Hùng Vương 5000 năm văn hiến. Cơ sở khoa học của họ là gì, đến nay cũng rất mơ hồ ngay cả đối với họ về chính nội hàm của cụm từ này. Đúng là đám tư duy "ở trần đóng khố".
    1 like
  15. QTV03 có ý kiến ! Lần thứ 2 QTV03 nhắc nhở Thiên Đồng vi phạm, nội dung : Lần thứ nhất Bạn đưa bài không đúng chủ đề (gây tranh cãi không đáng có) Bài của bạn chỉ nên đưa vào Topic giải trí, còn ở đây chủ đề Trao đổi Phật Pháp rành rành ra như thế những bài dạng này chỉ gây sốc cho người đọc và tạo luồng tranh luận vô bổ. Đến giờ phút này Bạn lại đưa tiếp bài thứ 2. Bạn hình dung xem bài của Bạn về chủ đề này có tác dụng tốt cho Topic trên đây không? Hy vọng bài viết của bạn bị cho vào thùng rác lần 2 có thể giúp bạn ý thức tốt hơn về cách xử lý của chúng tôi!
    1 like
  16. 1 like
  17. 01 Tháng mười 2012 - 03:27 PM Bác ơi, bác xem giúp cháu đường công danh,sự nghiệp có tương lai sáng sủa không ạ ? Cung Thê cháu có đẹp không ạ , vợ chồng hay cãi nhau nên cháu rất lo và cung Tử Tức cháu sẽ có mấy đứa con, có đủ trai gái không ạ ? Cháu đang có 2 con trai ! Đây là lá số của cháu ! Cháu xin cám ơn bác nhiều ạ ! Xin chào lullu Bạn có khả năng làm thân với người lạ mau lẹ, cư xử với mọi người thật tình, tình cãm như có ma lực . Trong thi đua đạt thắng lợi dễ dàng hơn người khác. Bạn là người can đảm, uy dũng, có oai phong, có tính tình nóng nảy, đôi khi hiếu thắng, nên hay bất mãn, phá ngang, bất kể hậu quả. Tánh mạnh bạo, cố chấp, ít chịu thua ai, thích làm kẻ anh hùng trọng nghĩa. Bạn thích quyền lực, muốn được mọi người trọng vọng, có tài chỉ huy, dứt khoát và biết quyền biến. Do đó những tính cách này hợp lại cho nên bạn là người nhiều năng động, nhất định đạt mục tiêu bất kể phương pháp, tạo thành cảnh ngoài tốt đẹp nhưng bên trong chẳng có gì, khổ tâm không dám tiết lộ . Đời sống vì thế chỉ đạt được vật chất, còn tinh thần thiếu thốn . Chỉ đạt mục tiêu ngắn hạn, mà không chịu nhìn xa, đời khó lòng định hướng nên có đôi lúc trở nên dễ cô độc. Tính tình hào phóng, bất chấp tiểu tiết, dám làm dám chịu, khi lâm sự bất kể gian khổ, hiểm nguy, xử sự đơn giản mau chóng, có tình thần hiệp nghĩa, biết tôn trọng danh dự kẻ khác, đầu óc rộng rãi. Thích gì làm nấy, do nóng tính nên thiếu suy nghĩ cặn kẽ dể lâm vào nhiều cảnh khó khăn. Thiếu may mắn về đường hôn nhân, thường bị miệng tiếng thị phi, thường vô tình đụng chạm kẻ khác mà bị phiền toái. Số mạng làm quan nhưng không lớn, đề phòng tai nạn ngoài đường hoặc nạn về tiền tài. Tiền tài trước khó sau dễ, trung niên trở ra thì đầy đủ. Miệng nói ra tiền nhưng hay gặp sự tranh chấp về tiền tài, dù có kiếm tiền nhanh, có lợi bất ngờ cũng hay sinh tai họa, rủi ro. Chuyện vợ chồng do tính tình cứng cỏi, cương nghị nên người này hay lấn át người kia, do đó gia đạo thường có cải vã, vợ chồng bất hòa, khắc khẩu và cô đơn có lẽ do bạn rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc cho nên vợ bạn hay ghen. Cung Phu thê của bạn không tốt nha bạn, đề phòng ly hôn, tái hôn. Về con cái thì bạn vừa có trai vừa có gái. Vài dòng chia sẽ
    1 like
  18. Không hiểu ý bạn hỏi điều gì. Bé mạng Mộc - hợp với bố mẹ Mộc+, thiên can cũng hợp. Nói chung là rất tốt.
    1 like
  19. Giám đốc bệnh viện lộng quyền, tư lợi Nhiều bác sĩ trong Bệnh viện Răng Hàm Mặt T.Ư ở TP.HCM phản ánh bác sĩ Lâm Hoài Phương, Giám đốc bệnh viện đưa bệnh nhân ra phòng khám cá nhân thu hàng chục triệu đồng mỗi ca... Bệnh viện Răng Hàm Mặt T.Ư - Ảnh: Thanh Tùng Mổ ở bệnh viện công, thu tiền ở phòng khám cá nhân Theo đơn tố cáo, bác sĩ (BS) Lâm Hoài Phương dùng cơ sở vật chất, trang thiết bị của bệnh viện (BV) nhà nước để mổ, sau đó đưa người bệnh về phòng khám (PK) riêng, gần BV để thu tiền. Tại đây, bệnh nhân (BN) đóng hàng chục triệu đồng, nhưng trên các hóa đơn, giấy tờ lưu ở BV chỉ thể hiện một số tiền “tượng trưng” ít hơn nhiều lần so với số tiền phải đóng ở "sân sau” của bà giám đốc. Điển hình là trường hợp BN tên N.T.T (18 tuổi, ngụ H.Nghĩa Hành, Quảng Ngãi) vào BV Răng Hàm Mặt T.Ư hồi tháng 3.2012 để điều trị biến dạng môi - mũi, với hồ sơ có mã số 12459... Người nhà BN được “mớm” rằng, nếu chờ mổ theo thứ tự thì phải đợi lâu, còn mổ ngoài giờ thì được mổ ngay. Nghe vậy, người nhà BN đồng ý chọn mổ sớm. Sau đó (ngày 19.3), BN đóng những khoản tiền nhỏ tượng trưng ở BV như tiền khám 30.000 đồng, tiền X-quang và xét nghiệm 500.000 đồng. BN được mổ tại BV ngày 19.3 và ngay sau đó được chuyển ra PK Thiện Mỹ (đường Nguyễn Tiểu La, Q.10) của bà Phương. Tại PK, BN đóng một lần tiền lên đến 22 triệu đồng vào ngày 20.3, phiếu thu ghi "chi phí phẫu thuật", tên người thu là điều dưỡng B.T (điều dưỡng của BV). Người thân của BN cho biết: “Đóng một ít tiền ở BV, mổ tại BV xong thì có nhân viên đưa ra xe taxi chở thẳng đến PK của bà Phương, tại đây họ thu 22 triệu đồng, rồi để nằm vài ngày thì cho về nhà luôn. Lúc đó tôi chỉ lo cho người nhà mổ, đâu biết chuyện công, tư...”. Trường hợp khác là BN T.L (29 tuổi, ngụ TP.HCM) đã đóng tại PK của bà Phương số tiền lên đến 49 triệu đồng (phiếu thu của PK cũng ghi lý do thu là “chi phí phẫu thuật”). Thực tế, BN này được chính BS Phương mổ ở BV và các giấy tờ thể hiện tại BV cho thấy BV chỉ thu của BN này hơn 10 triệu đồng (bao gồm cả tiền dụng cụ chỉnh nha gắn cho BN trước khi phẫu thuật). BN T.L nhập viện ngày 28.3.2012, ra viện ngày 4.4.2012, để điều trị tình trạng lệch cằm, do quá triển xương hàm dưới. Yêu cầu làm rõ hàng chục hồ sơ bất thường Rất nhiều y, BS của BV bức xúc về những việc làm sai trái của BS Phương, nhưng nhiều người ngại lên tiếng. Tuy nhiên, mới đây ít nhất đã có 7 lãnh đạo khoa (gồm trưởng và phó của 7 khoa chuyên môn) mạnh dạn đứng tên làm đơn gửi đến Bộ Y tế và các cơ quan chức năng khác để phản ánh những sai trái, tiêu cực của giám đốc BV. Theo các BS, những sai phạm đã xảy ra tại BV trong một thời gian dài, với một số người tham gia mà người đứng đầu là giám đốc BV. Tiếp xúc với PV Thanh Niên, các BS cho rằng nguyện vọng duy nhất của họ là mong muốn BS Phương hãy dừng những việc làm sai trái, gây thất thoát tiền nhà nước, nguy hiểm cho người bệnh (vì có những BN vừa mới mổ xong ở BV được đưa ngay ra PK, nếu có biến chứng sẽ không có phương tiện, con người để xử trí kịp)... Một diễn biến khác, mới đây, các BS đã đề nghị Bộ Y tế làm rõ 28 trường hợp mà họ cho rằng những BN này cũng được mổ tại BV, rồi đưa ra PK bên ngoài để thu tiền. Theo tìm hiểu của chúng tôi, 28 hồ sơ bệnh án này có sự khác thường về mã số nhập viện so với các hồ sơ “chính quy” chung của BV. Do bị động, những ngày qua, những người liên quan đã tìm nhiều cách hòng đối phó trong trường hợp bị kiểm tra... Thanh Tùng ============ Hic, xem lại cái feng sủy đi nha.
    1 like
  20. Chúc mừng Thiên Anh - Châu Phương trăm năm hạnh phúc!
    1 like
  21. 1 like
  22. Hình vẽ bí ẩn trên phiến đá cổ ở Hà Giang 06/11/2012 07:19 (VTC News) - Các nhà nghiên cứu đã có kết luận ban đầu cho rằng, những hình vẽ trên phiến đá cổ ở Nấm Dẩn (Hà Giang) có niên đại khoảng 1.000 năm, tuy nhiên, ý nghĩa của những hình vẽ trên phiến đá này vẫn còn là một bí ẩn chưa được giải mã. Xem Clip: http://tv.vtc.vn/594...-o-ha-giang.htm Nguồn: VTV
    1 like
  23. Dù có gió mưa tơi bời. Dù có sóng cao ngất trời. Ôi tình yêu trao cho em. Năm tháng không bao giờ phai...Mình dắt nhau đi cuối trời. Mình sẽ bên nhau suốt đời. Thế gian đổi thay. Vẫn yêu nhau hoài. Thế gian đổi thay. Mình vẫn yêu nhau.
    1 like
  24. Không được số nào cả. p/s: Tôi không có thời gian để chọn số cho các bạn đâu nhé.
    1 like
  25. CHÚC MỪNG HẠNH PHÚC THIÊN ANH - CHÂU PHƯƠNG. MỘT ĐỜI HẠNH PHÚC VẠN SỰ AN LÀNH. Sư phụ đi Hanoi về sức khỏe giảm sút nên không đi dự được. Thật là đáng tiếc. Đám cưới vui quá!
    1 like
  26. Chúc mừng Thiên Anh và bà xã. Gia đình hạnh phúc tròn đầy trăm năm. Hôm trước vì lý do kỹ thuật, không dự đám cưới được thiệt là tiếc đó nha
    1 like
  27. Chúc mừng HOÀNG ANH & CHÂU PHƯƠNG Hạnh Phúc dài lâu !
    1 like
  28. Minh triết Việt có Ông Địa - Chú Tễu - lúc nào cũng cười. Chứng tỏ rất sướng! Sướng quá Hì.
    1 like
  29. Trung Quốc điều tra tin đồn về tài sản Thủ tướng Ôn Gia Bảo Thứ Hai, 05/11/2012 - 15:33 (Dân trí) – Đảng Cộng sản Trung Quốc đang tiến hành điều tra nội bộ đối với tin đồn về khối tài sản kếch xù 2,7 tỷ USD của gia đình Thủ tướng Ôn Gia Bảo, hãng tin AFP dẫn nguồn tin Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng số phát hành sáng nay cho biết. Trung Quốc đang điều tra thông tin về tài sản của gia đình Thủ tướng Ôn Gia Bảo sau bài viết của báo Mỹ New York Times. Theo bài báo, cuộc điều tra đã được tiến hành bí mật nhằm tìm hiểu toàn bộ những tin đồn được tờ New York Times của Mỹ đưa ra hôm 26/10, trong đó nói rõ gia đình của Thủ tướng Ôn Gia Bảo đang sở hữu lượng tài sản bí mật trị giá ít nhất 2,7 tỷ USD. "Ban thường vụ (Bộ Chính trị) đã đồng ý với đề nghị của ông Ôn Gia Bảo (về việc tiến hành điều tra các tin đồn)", Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, tờ báo của Hồng Kông, dẫn các nguồn tin nêu rõ. Tờ báo cũng dẫn một số phân tích cho rằng đích thân ông Ôn Gia Bảo đã gửi thư yêu cầu Ban Thường vụ Bộ Chính trị mở cuộc điều tra về tin đồn nêu trên. Đề nghị của ông Ôn Gia Bảo cho thấy vị thủ tướng Trung Quốc 70 tuổi muốn nắm lấy cơ hội này để thúc đẩy luật "Ánh dương", theo đó yêu cầu công bố công khai tài sản của các gia đình lãnh đạo cấp cao. Trong khi đó, luật sư của gia đình ông Ôn Gia Bảo đã bác bỏ thông tin đăng tải trên tờ New York Times. Vị luật sư này nói rằng mẹ, anh chị em ruột và các con của ông Ôn Gia Bảo đã tích lũy nhiều tài sản kể từ khi ông còn là Phó Thủ tướng Trung Quốc vào năm 1998. Trước đó, chính phủ Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm đối với trang web của New York Times sau khi tờ báo đăng thông tin trên. Việt Giang =================== Cả cái thế giới này chật vật chống tham nhũng. Nếu như không xác định được bản chất của tham nhũng thì trong tương lai sẽ không một quốc gia nào thoát khỏi hiểm họa này và cả xã hội loài người sẽ tan rã.
    1 like
  30. Hà Nội: Hàng trăm người bao vây, “cấm chợ” Bát Tràng Thứ Hai, 05/11/2012 - 17:06 (Dân trí) - Vụ việc bắt đầu từ sáng nay, 5/11. Hàng trăm người dân kinh doanh trong chợ gốm làng cổ Bát Tràng (Hà Nội) đã đóng cửa quầy, ngừng kinh doanh buôn bán, tập trung tại cổng chợ, phản đối đơn vị quản lý chợ. Ghi nhận của phóng viên, từ sáng sớm, rất đông người dân kinh doanh buôn bán ở chợ gốm Bát Tràng đã quây kín cổng chợ. Mọi người mang theo những tấm bìa các-tông ghi khẩu hiệu cầu cứu các cơ quan chức năng cũng như phản đối đơn vị quản lý chợ là Công ty Cổ phần Sứ Bát Tràng (Hapro Bát Tràng). Các hộ kinh doanh ngừng buôn bán, quây kín cổng chợ. Hai tờ giấy khổ lớn ghi thông báo cáo lỗi của các hộ kinh doanh trong chợ gửi tới du khách được dán ở 2 bên cổng chợ. Theo nội dung thông báo này, nguyên nhân các hộ kinh doanh đóng cửa chợ Bát Tràng là do bức xúc trong việc mua bán các ki-ốt trong chợ. Các du khách đến chợ ngày hôm nay đều được những người tập trung ở cổng chợ giải thích, xin lỗi về sự việc và mời ra về. Theo tìm hiểu của chúng tôi, chợ gốm Bát Tràng ra đời từ năm 2004 với sự hợp tác giữa người dân làng gốm và Công ty CP Sứ Bát Tràng. Theo đó, 2 bên thống nhất đầu tư xây dựng dưới dạng hợp đồng thuê ki-ốt, phía Hapro Bát Tràng có mặt bằng được nhà nước giao sản xuất, phía người dân làng gốm góp tiền xây dựng với diện tích ban đầu là 13,5 m2. Các quầy hàng được quây bạt, ngừng mọi hoạt động kinh doanh. Các hộ kinh doanh tại đây cho hay, do làng nghề chật hẹp, không có nơi giới thiệu sản phẩm, người dân đã hợp tác với Hapro để xây dựng chợ gốm. Đặc biệt, chỉ có người dân làng gốm Bát Tràng mới được góp vốn xây dựng và sau đó kinh doanh tại đây. Bác Phùng Thị Phin (SN 1941, ở xóm 1, Bát Tràng), chủ một ki-ốt trong chợ gốm, cho hay, lúc đầu xây dựng, các ki-ốt đều không có cửa, không vách ngăn. Quá trình kinh doanh, các hộ dân đã tự bỏ tiền ra để xây dựng thêm và hoàn thiện nội thất từng gian hàng. Nghệ nhân Nguyễn Mạnh Hưng bức xúc khi gian hàng mình đang kinh doanh bị đem cho đơn vị khác thuê. Sau khi kết thúc hợp đồng thuê ki-ốt 5 năm, đến nay, giữa người dân và Hapro Bát Tràng vẫn chưa thống nhất được phương án ký kết hợp đồng tiếp theo. Phản ánh của các hộ kinh doanh, trước đây, người dân ký hợp đồng thuê ki-ốt với Hapro Bát Tràng thông qua Hợp tác xã gốm sứ Bát Tràng do chính các hộ kinh doanh tại đây bầu ra. Tuy nhiên, khi thời hạn hợp đồng kết thúc, phía Hapro Bát Tràng đã ra thông báo yêu cầu các hộ kinh doanh ký hợp đồng mới trực tiếp với công ty. Giá thuê cũng được tính cao hơn so với trước kia. Không đồng tình với cách làm mới của Hapro Bát Tràng, các hộ kinh doanh trong chợ vẫn chưa ký hợp đồng mới. Sự việc bắt đầu “nóng” từ ngày 26/10 vừa qua, 5 hộ kinh doanh trong chợ nhận được thông báo từ Công ty Cổ phần Đồng Tiến Thành (trụ sở tại quận Ba Đình, Hà Nội) về việc Công ty Đồng Tiến Thành đã ký hợp đồng thuê 5 ki-ốt mà 5 hộ đang kinh doanh. “Họ thông báo ngày 5/11 chúng tôi phải dọn hàng đi, nếu không dọn họ sẽ cho người đến dọn.” - nghệ nhân Nguyễn Mạnh Hưng (SN 1954), Phó Ban quản lý chợ, một trong 5 chủ ki-ốt trên, bức xúc cho biết. Người dân muốn giữ gìn, phát triển thương hiệu chợ gốm làng cổ Bát Tràng. Điều khiến các hộ kinh doanh trong chợ gốm bức xúc, lo lắng là ngày 2/11, hơn 50 đối tượng “đầu gấu” kéo đến chợ, đe dọa, khủng bố tinh thần người dân từ 11h trưa đến 17h chiều. Sáng nay 5/11, toàn bộ các hộ kinh doanh trong chợ gốm Bát Tràng đã đồng loạt đóng cửa, tập trung tại cổng chợ, phản đối cách làm của Hapro Bát Tràng. Khi sự việc xảy ra, lực lượng công an sở tại đã có mặt, đảm bảo tình hình an ninh trật tự. Không có xô xát hay bất cứ va chạm đáng tiếc nào xảy ra trong suốt buổi sáng nay. Chiều nay, một cuộc họp giữa đại diện các hộ kinh doanh trong chợ với Hapro Bát Tràng và chính quyền địa phương đã diễn ra. Chúng tôi sẽ tiếp tục gửi đến bạn đọc những thông tin mới nhất về vụ việc trên. Tiến Nguyên ================ Giao sản xuất sao lại xây dựng chợ? Sử dụng đất sai mục đích?!Giải pháp nào sẽ được thực hiện để mang lại công bằng và phát triển làng nghề văn hóa truyền thống Việt ở đây?
    1 like
  31. Oh la la, chúc mừng em Phương - trăm năm hạnh phúc !
    1 like
  32. Em nặng về lục hại thái tuế. Cung thái tuế là cung có vị thế rất mạnh, làm chi phối tới các cung xung quanh. Lục hai với cung thái tuế của chị là cung huynh đệ, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới cung lục hại, nó gần như táng tuần- triệt vào cung đó. Nếu tại cung thái tuế mà ko có tuần- triệt án ngữ đề giam lại cái xấu hay tại cung lục hại ko phải là VCD thì sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Theo các nghiên cứu của các bác nói rằng nó sẽ táng sự ảnh hưởng = 50% tuần - triệt thật lên cung lục hại. Em nhìn lá số của chị thấy thế nhưng ko biết kết quả ngoài đời chị có thấy thế ko?
    1 like
  33. Con 2098 Mậu Tý rất hợp với cha Bính Thìn, vợ Giáp Tý, theo Luận Tuổi lạc Việt và Lạc Thư Hoa Giáp thì thiên can Vợ Giáp sinh chồng Bính, Bính cha lại sinh Mậu con, vợ mạng Kim sinh con mạng Thủy (theo sách Tàu là mạng Hỏa). Nhưng con tuổi Tý trùng mẹ nên sức khỏe cũng hay trục trặc. Nhưng dù sao con đầu hợp tuổi nên cha mẹ đều làm ăn tấn tới và thuận lợi. Con sau thì tốt nhất nên sinh năm Ất Mùi 2015 hoặc Đinh Dậu 2017 nhé. Thân mến.
    1 like
  34. XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN CÁC SƯ HUYNH ĐỆ,ĐẶC BIỆT LÀ SƯ MẪU ĐÃ KHÔNG NGẠI ĐƯỜNG XÁ XA XÔI ĐẾN CHUNG VUI TRONG TIỆC RƯỢU CỦA THIÊN ANH,CÁM ƠN VÀ CHÚC SỨC KHỎE MỌI NGƯỜI
    1 like
  35. Năm tiếp theo để sinh tốt nhất và duy nhất là 2018 Mậu Tuất, các năm trước đó ko nên sinh vì mạng mẹ và con xung khắc. Nếu được con trai út 2018 thì càng tốt, sau này nhà phát nhiều về công danh sự nghiệp. Thân mến.
    1 like
  36. Híc, tại hạ thấy cái chủ đề này bàn mãi nhỉ. Tại hạ nói thẳng ra thế này, sống ở trong đời có 4 cái sướng, mọi người dù dưới bất kểhình thức nào cũng đều cố gắng đạt được một trạng thái, được gọi là sướng. Nhưăn sung mặc sướng, ở sướng, và sướng .... Tất cả những cái ở trần tục muốn sướngthì phải có một nhân tố khác thì mới sướng được. Còn tu tập là để có thể tự sướng, tuy nhiên phải mất công khổ luyện. Cái thần thông, bản thân nhà Phật chẳng coi là cái gì cả nên có thể lý hồng chíthần thông giỏi có thể hơn cả Phật, nhưng thần thông giỏi không có nghĩa là tựmình đã đạt được trạng thái sướng. Nhập niết bàn tức là tự đạt được trạng thái sướng về mọi mặt của thân thể và tinh thần mà không cần có vật dẫn xuất.Còn thần thông thì mới chỉ tới được nấc thứ 3, tức Atula, thế giới của ngã quỷ(trong phong thủy gọi là Ngũ Quỷ). Còn để đạt tới trạng thái nhập niết bàn thìphải tiếp tục tu luyện, vượt qua những cám dỗ bởi vật chất và tinh thần, bởi sựtự ngã (do đạt được thần thông) thì mới có thể đạt được trạng thái tự sướng. Nên bản thân lý hồng chí huyênh hoang là đạt được thần thông mà không hiểu rằng,các ẩn sĩ của Thất Sơn đạt được cái đó từ lâu rồi, có quái gì đâu. Mồm thì nóihơn Phật, nhưng ngay cái tâm tính đã nhuốm tham sân si quá nặng thì sao mà đạtđược, chẳng qua cũng chỉ giống như mấy công ty kinh doanh đa cấp mà thôi. Híc
    1 like
  37. Cây Cầu Phúc Đức Ngày xưa, có một chàng trai chuyên sống bằng nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ già phải nuôi. Tuy có lúc được lúc không, có lúc ít lúc nhiều, nhưng trong nhà chẳng bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa nhịn. Cuộc sống vô cùng nghèo khổ khó khăn. Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng kể lại cho chàng nghe cuộc đời của ông và cha chàng xưa kia. Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được những món đáng bạc chục, bạc trăm, nhưng bị cường hào chèn ép bắt phải cúng nạp cho chúng mới được yên thân, nên khi nhắm mắt xuôi tay cũng không để lại cho cha chàng được chút gì. Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng, lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần bốn chục tuổi đầu. Nghe mẹ kể lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán ngẩm. Chẳng bao lâu sau, mẹ chàng ngã bệnh, nhà lại không có gì để ăn. Nghe có ông thầy đồ xóm bên được học trò biếu nhiều thức ngon lành, chàng liền đến rình nhà, định ăn trộm cái miếng giò lợn treo trên gác bếp. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy đọc tới câu: "Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương"[1]. Chàng bụng bảo dạ: "Phải chăng ông cha ta làm nghề thất đức nên để khổ nhục lại cho ta"? Rồi tự đáp: "Phải, quả thật đúng như vậy". Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm. Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: "Cẩn thận đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!". Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: "Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức họa may mới xóa được mấy tiếng đó". Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu. Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói: - Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở... Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu! Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ. Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi tỉnh. Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện. Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống. Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói: - Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của. Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không? Chàng bắc cầu vui mừng nói: - Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn! Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói: - Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra chợ bán lấy tiền. Viên quan võ thân mật bảo chàng: - Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào? Chàng bắc cầu nói: - Nếu vậy thì còn gì hay hơn! Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ. Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu. Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi. Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom, phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa. Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người tươi cười nói với chàng: - Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà. Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi: - Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở cửa! Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa. Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng. Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn. ít lâu sau, vợ viên quan võ có chửa, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng lấy vợ có con và sống sung sướng đến già. [1]Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương : Ý nói nhà làm nhiều việc thiện sẽ được tiếng thơm và cái phúc về sau, còn nếu làm nhiều việc trái lương tâm ắt gặp phải tai họa muôn đời. ========== Bỏ công và bỏ của, cái nào cũng làm nên được cái cầu phúc đức cả. Bàn chi công hơn hay của hơn? Thiên Đồng
    1 like
  38. Trung Quốc 'khủng bố' tuần duyên Nhật Bản trên Biển Hoa Đông Cập nhật lúc :12:55 PM, 04/11/2012 Tờ New York Times của Mỹ dẫn lời giới phân tích nói rằng Trung Quốc đang áp dụng chiến lược mới trong cuộc tranh chấp ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản. Ảnh article.wn.com Trong những ngày qua, lực lượng tuần duyên Nhật Bản thông báo các tàu của Trung Quốc đã nhiều lần xâm nhập vào vùng biển 22 km xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Trong khi đó, nhiều tàu khác của Trung Quốc gần như hiện diện thường trực ở gần khu vực này. Theo giới phân tích, đây là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh áp dụng một chiến lược mới, dài hạn, mang tính thách thức Nhật Bản. Các nhà phân tích cho rằng dường như Trung Quốc đã tìm cách làm cho Nhật Bản căng thẳng thần kinh, mệt mỏi trong các nỗ lực giải quyết tranh chấp. Qua việc đưa nhiều tàu đến hoạt động trong khu vực, Bắc Kinh hy vọng là có thể xóa tan đi một thực tế là Tokyo đang quản lý thực sự các hòn đảo hoang ở Senkaku. New York Times dẫn lời chuyên gia Kunihiko Miyake thuộc Viện Canon nghiên cứu toàn cầu ở Tokyo cho biết: “Đây là bước khởi đầu của một cuộc chiến tranh hao mòn sinh lực, cuộc đọ sức có thể kéo dài, Trung Quốc sẽ tránh khiêu khích Nhật Bản nhưng tìm cách làm cho Nhật Bản nản lòng trong việc cố gắng tiếp tục duy trì kiểm soát các hòn đảo”. Cũng theo giới phân tích, ít có khả năng Trung Quốc dùng vũ lực bất ngờ đánh chiếm quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Ngược lại, theo ông Kevin Maher - cựu quan chức ngoại giao Mỹ và hiện là cố vấn chính cho công ty tư vấn NMV có trụ sở tại New York, mục đích của Trung Quốc là tìm cách bác bỏ sự khẳng định chủ quyền của Nhật Bản dựa theo luật pháp quốc tế, đồng thời tạo dựng cơ sở pháp lý cho các tuyên bố đòi hỏi của Bắc Kinh./. Theo Vietnam+ ====================== Trong cuộc chiến giữa Nguyên Hữu Cầu (Quận He) với Phạm Đình Trọng. Phạm Đính Trọng án bính bất động, chờ Nguyễn Hữu Cầu suy kiệt rồi mới tấn công. Quân của Quận He hết đợt này đến đợt khác đến khiêu khích, chửi bới. Quân sĩ vào báo với Phạm Đình Trong. Trong trả lời "Hạ quan bị điếc". Ông ta phớt và ngồi xem sách. Người Nhật nên sắm một cái tàu chở dầu đậu ở đảo, khi nào tàu Trung Quốc hết dầu thì bán, tôi nghĩ cũng có lời.
    1 like
  39. Xin lỗi đi, vì đây là diễn đàn trao đổi học thuật cho tất cả mọi người nên mọi câu được phát ngôn ở đây là phải để cho mọi người hiểu theo nghĩa Đại Chúng chứ không thể chi phát ngôn cho một nhóm người. Bằng chứng là nội quy kết nạp các Hội Viên không có điều khoản này.
    1 like
  40. Chúc bạn và em bé mạnh khoẻ, mọi điều tốt lành nhất.
    1 like
  41. Theo lá số của cháu ,thì cháu có chồng phải lớn hơn nhiều tuổi và nên lập gia muộn nếu kết hôn sớm sẽ sinh hình khắc ,người chồng cũng sẽ là con trưởng giàu có ,có quyền chức[ hay là gia thế bên chồng] nhưng tiền bạc thì hơi keo kiết bũn sỉn ,khi cưới xin cũng có nhiều khó khăn trỡ ngại hay phải cưới chạy tang,năm nay không thấy hạn kết hôn ,năm nGỌ thì duyên tình lỡ vỡ , ôm 1 mối nợ đời có thể phá hay bỏ.
    1 like
  42. CHÚC MỪNG Thiên Anh NHỊ HỶ LÂM MÔN! ThanhHuong_Geo, Nhã Khanh VẠN SỰ HANH THÔNG!
    1 like
  43. Đọc những dòng chị ntpt viết cho bạn mà tôi thấy xúc động quá. Tôi cũng đang có em bé thứ 2 là bé gái, bé đầu cũng là bé gái vì vậy mà tôi rất buồn. Có con gái rồi lại mong có con trai. Tôi buồn hơn nữa vì thương chồng, bởi chồng tôi không may mắn từ nhỏ đã bị tai biến liệt dây thần kinh số 7 khiến cho khuôn mặt bị méo, nhìn thương lắm. Chính vì vậy mà tôi lại càng thấy thương hơn. Sinh được 1 đứa con khoẻ mạnh không tài sản nào bằng. Bạn cố gắng ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng và chịu khó tìm hiểu thêm thông tin trên mạng để giúp cho e bé phát triển tốt nhé. Chúc bạn và em bé mọi điều tốt lành.
    1 like
  44. 1 like
  45. ThanhHuong_Geo, Nhã Khanh, Thiên Anh ...chúc mừng nha...dzô dzô dzô!!!....
    1 like
  46. When you in hopeless the miracles will take placesWhere at the end of tunnel you'll see the light in there. What on the rough road will bounce you back
    1 like
  47. Một gia đình tột cùng khốn khó - Thứ Hai, 30/07/2012 14:00 (Congannghean.vn)-Đã đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều cảnh đời, viết nhiều bài về các gia đình khốn khó, nhưng tôi vẫn không sao cầm được nước mắt trước 3 trẻ thơ quấn khăn tang khóc ngằn ngặt trong lúc người bố cười toe toét bên bàn thờ vợ khói hương nghi ngút. Đến bây giờ, anh Phương vẫn không biết mình là ai, bao nhiêu tuổi, bố mẹ ở đâu và quê quán nơi nào? Cơ duyên trời định trong một ngày đầu năm 2003 ở TP Vũng Tàu hoa lệ đã cho anh may mắn gặp được chị Lanh. Chị Cao Thị Lanh (SN 1979) sinh ra đầu óc đã không bình thường, gia đình lại khó khăn nên chị đi lang thang. Năm 2001, chị phiêu dạt vào tận Vũng Tàu. Hôm đó, trời mưa như trút nước, chị chạy vào mái hiên bên đường trú tạm thì gặp anh. Thấy chị run bần bật vì rét, anh cởi chiếc áo đang mặc che cho chị. Hai người nên duyên vợ chồng từ đó, họ nhặt giấy dầu, bìa các tông che một cái chòi trên bãi cát nương tựa vào nhau. <br type="_moz"> Anh ngây ngây, dại dại nhưng được cái vợ bảo gì làm nấy nên ngày ngày dắt dìu nhau đi làm thuê khắp nơi. Năm 2004, họ có bé Nguyễn Thị Mai Hương. Năm 2009, họ có thêm Nguyễn Thị Bích Huệ. Đầu năm 2012, khi đứa con thứ 3 sắp chào đời, trí óc chị bỗng bừng tỉnh. Họ đưa nhau vượt 1.800 km về lại quê chị ở xã Diễn Ngọc (Diễn Châu). Bằng tình thương máu thịt, người em trai lập tức ngăn 1 gian trong ngôi nhà cấp 4 của mình nhường cho anh chị và các cháu ở. Họ đùm bọc thương yêu nhau theo kiểu lá rách ít đùm lá rách nhiều. Hàng ngày, chị dắt anh xuống cảng cá Lạch Vạn mót con tôm, con cá. Trong xóm ngoài thôn ai gọi gì là chị dắt anh đến làm ngay. Rồi cháu Nguyễn Văn Nam ra đời trong hạnh phúc tột cùng của cả gia đình. Vậy nhưng, một cơn bạo bệnh bỗng nhiên ập đến cướp chị đi khi bé Nam mới tròn 7 tháng tuổi. Chỗ dựa cuối cùng của cả gia đình mất đi, không đất, không nhà, không nguồn thu, không tài sản, 4 cha con rơi vào hoàn cảnh tột cùng khốn khó. Bốn bố con anh Phương bên bàn thờ chị Lanh Tôi đến thăm cha con anh. Bé Nam ngằn ngặt khóc vì đói sữa trên tay người bố đang cười ngớ ngẩn. Bé Mai Hương học lớp hai đang nắn nót viết hàng chữ: “Mẹ ơi con nhớ mẹ lắm” rồi khoe với tôi hai giấy chứng nhận học sinh giỏi toàn diện hai năm liền. Điều kỳ lạ là dù bố mẹ đều ngớ ngẩn nhưng Mai Hương lại học rất giỏi, luôn dẫn đầu ở Trường tiểu học Diễn Ngọc. Bé Huệ vừa mới 3 tuổi ngơ ngác nhìn mọi người, cháu còn quá nhỏ nên chưa thể cảm nhận được sự mất mát lớn lao không gì bù đắp được trong cuộc đời. Những ngày qua, bà ngoại 60 tuổi đã phải bế cháu Nam đi xin sữa khắp trong làng cuối xóm. Ai sẽ đưa anh Phương đi làm thuê? Liệu bé Hương có còn được cắp sách đến lớp 3 để tiếp tục chuỗi thành tích đáng khâm phục của mình? Bé Huệ lấy đâu ra cơm ăn để nhập trường? Bé Nam tìm đâu ra sữa uống? Tất cả đang nhìn vào sự cưu mang của các nhà hảo tâm, các tấm lòng vàng, các tổ chức cơ quan doanh nghiệp trong, ngoài nước. Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà ngoại các cháu: Phạm Thị Liên, xóm Yên Quang, xã Diễn Ngọc, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An hoặc Quỹ từ thiện Báo Công an Nghệ An, 43A Hồ Tùng Mậu, TP Vinh. Đình Lộc
    1 like
  48. Quí vị và anh chị em thân mến. Để bảo đảm nội dung đầy đủ của các thông tin liên quan, tôi đã tìm được bài viết của tôi giải mã một bức vẽ liên quan trong các bài viết trên VTCnew từ 12-05-2006 trên web vietlyso, để quí vị và anh chị em quan tâm có thể tham khảo. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh chị em. ============================================== VIỆT DỊCH TRÊN BÃI ĐÁ CỔ SAPA Kính thưa quí vị quan tâm. Từ lâu tôi đã hân hạnh trình bày quan niệm về cội nguồn Kinh Dịch thuộc về một nền văn minh vĩ đại trong cổ sử nhân loại: Nền văn minh Lạc Việt – cội nguồn của dân tộc Việt hiện nay. Đã có một số người tìm cách chứng minh điều này với những phương pháp khác nhau. Trong bài này, tôi xin chứng tỏ thêm cho luận điểm đó, bằng một hiện tượng trên bãi đá cổ Sapa liên quan đến Dịch học mà website của chúng ta đang nghiên cứu. Đó là hình một quẻ Dịch trên bãi đá cổ SaPa kèm theo những hình tượng độc đáo lý giải sự khởi nguyên và tính tuần hoàn của vũ trụ. Trước khi trình bày hiện tượng trên; tôi cũng xin có đôi lời giới thiệu về bãi đá cổ SaPa. Sapa là một thị trấn sát biên giới Việt Trung phía Tây Bắc – Bắc Việt, cách tỉnh lỵ Lao Cai khoảng 100 km. Từ tình lỵ Lao Cai có thể đến đây bằng xe hơi trên một con đường ngoằn ngoèo băng qua những triền núi. Đây là một nơi nghỉ mát nổI tiếng từ thời thuộc Pháp. Ở đây còn toạ lạc một số những biệt thự sang trong với kiến trúc cổ của các chức sắc người Pháp ở Đông Dương. Cách thị trấn SaPa khoảng 40 – 50 km là bãi đá cổ Sapa nổi tiếng. Đây là một trong ba hoặc bốn bãi đá cổ có những ký tự bí ẩn còn lại trên thế giới. Bãi đá cổ này được phát hiện vào khoảng từ năm 1924 đến 1926 do các nhà khoa học Pháp. Các nhà khảo cổ cho rằng chúng được tạo nên từ khoảng hơn 2000 năm nay và thuộc di sản của ngườI Việt cổ (*). Hiện nay chúng chỉ còn lại 198 hòn. Một số khoảng từ 18 đến 20 hòn bị hư hại do khi làm một con đường đi xuyên qua bãi đá đến làng Pò Lùng Chải. Tất cả những phiến đá ở đây đều được khắc những hình vẽ và những ký tự bí ẩn. Đã có rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước cố gắng giải mã những ký tự này. Nhưng chưa có ai có được một sự lý giảI thoả đáng. Rất tiếc mặc dù t/g bài này đã tìm gặp trực tiếp người chỉ huy đội làm đường; nhưng anh không nhớ chính xác số hòn đá bị hư hạI (ít nhất là 18; nhiều không quá 20 hòn). Con số những hòn đá (hiện hữu và đã mất) không chính xác này xấp xỉ con số 216. Tức là xấp xỉ độ số hào Dương trong 64 quẻ Dịch. Rất tiếc đây chỉ là giả thuyết. Vì số lương những hòn đá đã mất không khảo chứng được. Nhưng trong số những hòn đá này; có một hòn liên quan đến điều mà tôi tường vớI anh em ở đây; có hình vẽ như sau: Hình trên này đã có nhiều nhà nghiên cứu giải mã khác nhau. Nhưng đáng chú ý là sự lý giải sau đây của nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn vì tác giả cho rằng: Toàn bộ bãi đá cổ Sa Pa là những kiến thức về Vũ trụ có liên quan đến Kinh Dịch. Tôi xin được trích đăng sau đây đoạn liên quan đến hình vẽ trên để quí vị tham khảo. […lược một đoạn nói về lịch sử thiên văn học Tây Phương…] [..lược một đoạn…] Qua đoạn trích dẫn ở trên tôi chỉ có mục đích giới thiệu về một hiện tượng giải mã những hình vẽ trên bãi đá cổ Sapa của các nhà nghiên cứu. Việc này đã có từ khi bãi đá cổ được phát hiện. Nhưng cho đến mãi gần đây mới có những ý kiến liên hệ những hình vẽ này với một học thuật cổ Đông phương là Kinh Dịch qua đoạn trích dẫn của nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn – đã tường vớI quí vị ở trên. Nhưng theo sở ngộ của tôi thì hình vẽ này còn chứng tỏ một nộI dung sâu sắc hơn nhiều sự kiến giải của ông PN Liễn. Với một cái nhìn khác, tôi xin được tường sở ngộ của mình; hy vọng có sự cống hiến với quí vị và anh em một ý tưởng về cội nguồn của Kinh Dịch và những giá trị đích thưc của nó. Lần lượt những ký hiệu được đánh số trên hình được giải mã theo thứ tự dưới đây: 1) Người đàn ông biểu tượng của tính thuần Dương ở giai đoạn khởI nguyên của vũ trụ. 2) Trong Kinh Dịch quái Càn thuộc Dương, ba vạch dài biểu tượng tính thuần Dương ko có giới hạn (vô lượng vô biên). Hay nói cách khác: Đây chính là tình trạng của Thái Cực. 3) Tính Động xuất hiện tạo vòng xoáy ngược chiều kim đồng hồ. Đây cũng là chiều vận động của các Thiên Hà hiện nay (trong đó bao gồm cả các sao và hành tinh). Chữ Vạn có chiều ngược chính là biểu tượng của tính động xuất hiện ở giai đoạn đầu của vũ trụ. 4) Hình vuông bên cạnh vòng xoáy cho biết khi tính động xuất hiện tức là sinh Âm; đối đãi vớI trạng thái tĩnh khởi nguyên (mẹ tròn con vuông). 5) Khi Âm xuất hiện thì sự vận động và phát triển tiến hoá trong vũ trụ bắt đầu. Điều này được hình tượng bằng một cái cây tiếp nốI từ sự vận động của vòng xoáy. 6) Vòng xoáy thuận chiều kim đồng hồ là biểu tượng cho thấy sự tương tác của vũ trụ theo chiều ngược vớI chiều vận động của các thiên thể. Chữ Vạn có chiều thuận chính là biểu tượng của chiều tương tác vũ trụ. Xin các bạn lưu ý là: Qua các di vật khảo cổ có niên đạI xấp xỉ 10.000 năm cho thấy chữ “Vạn” đã tồn tạI rất lâu trong văn minh nhân loại. 7) Sự chuyển hoá từ Dương sang Âm được biểu tượng bằng người đàn bà. 8) Khi Âm cực thịnh thì sinh Dương được biểu tượng bằng quái Càn trên đầu người đàn bà. 9) Hình này theo t/g PN Liễn là quẻ Sơn Địa Bác. Nhưng theo sở ngộ của tôi thì đây là quẻ Địa Lôi Phục, nếu lật 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ là chiều vận động cũa các thiên thể trong vũ trụ. Theo Kinh Dịch thì ý nghĩa của quẻ này là "Sự trở lại". Như vậy với hình tượng của quẻ Địa lôi Phục cho thấy vũ trụ vận động tới cực điểm sẽ là sự quay trở về. Hay nói một cách khác: Toàn bộ bức tranh này nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khời nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của vũ trụ. (Sự trùng khớp trong cách lý giải sự khởi nguyên vũ trụ trên bãi đá cổ Sapa đã chứng minh trong bài: "Định mệnh có thật hay không?") Nội dung bức tranh của người Lạc Việt trên bãi đá cổ Sapa đã chứng tỏ nguyên lý vũ trụ đã được phát hiện từ lâu và thuộc về nền văn minh này. Kinh Dịch thuộc về nền văn minh này vớI những ký hiệu quẻ trùng khớp vớI ý nghĩa của bức tranh. VớI nộI dung này của bức tranh chúng ta sẽ ko thể tìm thấy trong các cổ thư chữ Hán. Điều này cũng chúng tỏ rằng tên gọI đích thực của cuốn kỳ thư Đông phương này phải là: “Lạc thư chu dịch”. Tức là sách của người Lạc Việt nói về sự vận động tuần hoàn của vũ trụ. Vài lời chân thành tường sở ngộ. Hy vọng góp phần vào việc khám phá những bí ẩn của Kinh dịch trải hàng ngàn năm qua. Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị. ================================== Kính thưa quí vị quan tâm. Từ lâu tôi vẫn xác định rằng: Cá nhân tôi không bao giờ - ít nhất trong thời gian này - coi sự giải mã là bằng chứng khoa học chứng minh cho Việt sử 5000 năm văn hiến. Bởi vì - tri thức của nền văn minh hiện đại - kết quả của toàn bộ lịch sử tiến hóa nhân loại - chưa hề có tiêu chí cho một sự giải mã được coi là đúng. Bởi vậy, tất cả những bài viết của tôi liên quan đến việc giải mã hình tượng trong những di sản văn hóa truyền thống của Việt Nam và các quốc gia khác chỉ có giá trị xác định cho một mình cá nhân tôi trong việc khám phá bí ẩn tri thức cổ Đông phương. Sự công bố mang tính giải mã các di sản văn hóa của tôi trên phương tiện thông tin chỉ dành cho những người đồng cảm có thể chia sẻ và không coi đó là cơ sở khoa học chứng minh cho sự xác định Việt sử 5000 năm văn hiến. Sự xác định Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử được chứng minh bằng chính nền Lý Học Đông phương và những phương tiện khác.
    1 like
  49. Khoa học đã nhìn thấy những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất. Nhưng chúng tương tác với nhau như thế nào và kết quả của sự tương tác đó là gì thì đấy là điều khoa học chưa khám phá được. Ngược lại, nền Lý học Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt xác định những phương pháp tiên tri hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học hiện đại có khả năng tiên tri đến từng hành vi của con người và mọi hiện tượng thiên nhiên xã hội...vv..Điều này cho thấy một nhận thức siêu việt với những quy luật tương tác của vũ trụ của một nền văn minh đã bị vùi lấp. Hoặc là Việt sử 5000 năm văn hiến, hoặc là thế giới này bế tắc và rối loạn. Những nhà khoa học hàng đầu đã có lời khuyên con người nên tìm hành tinh khác để ở sau 200 năm nữa. Đời sống của một cá nhân có thể không cần quan tâm đến điều đó. Nó vẫn cần tiền, vàng và mọi thứ. Nhưng sự phát triển của cả một nền văn minh nhân loại thì không thể thờ ơ điều này được..
    1 like
  50. Con trai tôi - cũng tuổi Hỡi, Nếu nó gặp hoàn cảnh như anh thì tôi sẽ tạo điều kiện cưới ngay năm nay - tất nhiên chọn ngày lành, tháng rách. :rolleyes: - và sinh đưa con đầu Tân Mão là êm mà. Đứa sau Mậu Tuất. Nếu con đầu là gái, con sau là trai thì hết sảy đấy.
    1 like