-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Leaderboard
Popular Content
Showing most liked content on 15/09/2012 in all areas
-
Quán vắng!
Đại Phúc and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Nâng cao hiểu biết lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ 15/09/2012 3:00 Sáng 14.9, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tới dự lễ khai giảng năm học mới của Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn (KHXH-NV), ĐH Quốc gia Hà Nội. Trăn trở về hiện tượng “những năm gần đây, học sinh không hứng thú học môn lịch sử và trong các kỳ thi tuyển sinh ĐH, có khá nhiều điểm 0 về môn học này gây ra sự lo ngại của xã hội về sự hiểu biết lịch sử dân tộc của thế hệ trẻ”, Chủ tịch nước đề nghị: “Trường ĐH KHXH-NV với khả năng của mình, cần tham gia tích cực, có hiệu quả vào việc giải quyết vấn đề này”. Nhân dịp năm học mới, Chủ tịch nước cũng đề nghị Bộ GD-ĐT, các bộ ngành có liên quan cần đổi mới công tác quản lý, nâng cao tính tự chủ, đồng thời nâng cao trách nhiệm của nhà trường, tạo điều kiện cho nhà trường thu hút được những nhà khoa học có tài năng, tâm huyết ở trong và nước ngoài để xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên của nhà trường. Tuệ Nguyễn ====================== Nếu chỉ bình luận cái tựa của bài báo thì tôi đặt vấn đề thế này: Hiểu biết lịch sử là hiểu biết sự thật lịch sử, hay chấp nhận cái nhìn duy ý chỉ và chủ quan của một số người có quyền lực học thuật? Người ta có thể phân tích, nhìn nhận hiện tượng lịch sử theo cái nhìn chủ quan, chứ không thể phủ nhận hiện tượng khách quan. Quan điểm cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc tồn tại vào khoảng thế kỷ thứ VII BC là phủ nhận sự thật lịch sử và không thể chấp nhận được. Cá nhân tôi ủng hộ một cuộc cải cách việc giảng dạy môn sử với sự xác định đúng đắn cội nguồn dân tộc Việt.2 likes -
Quán vắng!
Đại Phúc and one other liked a post in a topic by Thiên Sứ
Tham- sân- si và hội chứng 'Hai Bà...' 15/9/2012 05:00 Có một khái niệm nhanh chóng được “dân…gian” tổng kết. Đó là hội chứng “Hai Bà Trưng”, mà người đời vui đùa gọi là hội chứng Sợ! Ở đây, là sợ va chạm, sợ đụng chạm, và cao nhất là sợ đối diện với sự thật. Có một cái tên, rồi đây, có thể sẽ đi vào lịch sử của ngành năng lượng. Nhưng hẳn là với những ghi chép không mấy sáng sủa, thậm chí biết đâu là bi thảm? Đó là thủy điện Sông Tranh 2- công trình có tổng vốn đầu tư tới gần 5.200 tỷ đồng, với hồ chứa nước dung tích 730 triệu m3, và được thiết kết trên độ cao 100 mét so với hạ lưu. "Bảo tàng"...tham- sân- si? Nếu mấy tháng trước đây, ST 2 phải chịu vô vàn "dư chấn" xã hội- những phản biện, chỉ trích của báo chí, lo ngại của người dân trước hiện tượng nứt đập, nước tuôn chảy... Thì giờ, đến lượt hàng nghìn người dân huyện Bắc Trà Mi (Quảng Nam), nơi ST2 tọa lạc, kinh hoàng và hoang mang, liên tục chịu đựng những "dư chấn" của nó- hơn 40 trận động đất lớn nhỏ? Tâm chấn (động đất- KD) đã được các nhà khoa học xác định là tại khu vực hồ chứa đập thủy điện ST 2. Nguyên nhân động đất, theo các nhà khoa học, được xác định là do hồ chứa thủy điện ST 2 tích nước gây nên động đất kích thích. Riêng đêm 3/9, có tới 4 trận động đất. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo, nguy cơ xảy ra các trận động đất lớn hơn, ở đây là hiện hữu. Không biết sự giận dữ của xã hội đáng sợ hơn hay sự giận dữ của thiên nhiên đáng sợ hơn? Khi mà số phận và tính mạng hàng ngàn hộ dân ở huyện Bắc Trà Mi đang hàng ngày, hàng giờ treo lơ lửng dưới những trận động đất? Bảo tàng Hà Nội hiện đang thiếu hiện vật trưng bày Ngược với báo cáo của Bộ Công thương, đề nghị Chính phủ cho tích nước vận hành thủy điện ST 2, và cũng ngược với kết luận của Tập đoàn Điện lực VN (EVN) cho rằng ,các đợt rung chấn vừa qua không ảnh hưởng đến công trình, nhiều chuyên gia lĩnh vực thủy lợi- thủy điện lên tiếng cảnh báo đáng sợ. Trong khi, đến thời điểm này, ST 2 mới tích nước khoảng 200-300 triệu m3. GSTS Nguyễn Thế Hùng (ĐHBK Đà Nẵng) cho rằng những đề nghị đó, chẳng khác gì "đánh cược" với tính mạng và tài sản của hàng nghìn người dân. Phần thắng sẽ thuộc về Bộ Công thương, về EVN đầy tiềm lực, hay phần ...thua thuộc về những người dân tay không? Chưa rõ. Nhưng chính vào thời khắc này, nhiều câu hỏi cần đặt ra, sòng phẳng. Xưa nay, "số phận" các đập thủy điện, về kỹ thuật, thật oái oăm, luôn xây dựng ngay trên những đới đứt gẫy, mà ST 2 không phải ngoại lệ. Nhiều chuyên gia thủy điện cho rằng, vẫn có thể thiết kế đập an toàn trong vùng động đất, nhưng với điều kiện xem xét, đánh giá, tính toán thật đầy đủ các yếu tố liên quan, đặc biệt trong thi công, kết cấu công trình phải thật bảo đảm. Đó là điều kiện đủ. Tiếc thay, nói đến chất lượng công trình, ở ta, đó lại luôn là điều kiện...thiếu nhất. Bởi con người không đủ cái tâm. Cũng ông Nguyễn Thế Hùng cho biết "khi đi cùng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam khảo sát thân đập, cho thấy công trình đã rệu rạo lắm rồi". Nên nhớ công trình này đầu tư hơn 5000 tỷ đồng, một số tiền khủng! Còn ông Lê Trí Tập, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, cũng là 1 chuyên gia thủy lợi từng "chỉ thẳng mặt chủ đầu tư, nói hiện tượng rò rỉ nước ở công trình là do không có lõi đồng ở giữa các khối bê tông hoặc có mà là hàng kém chất lượng. Họ cứng họng không cãi được. Mà không chỉ ST 2, hầu như 100% thủy điện ở Quảng Nam thiếu 3 điều cốt lõi: Cống xả đáy, diện tích hồ phòng lũ và hệ thống quan trắc. Vì sao? Vì họ sợ tốn tiền, họ chỉ nghĩ đến lợi nhuận!" Ôi chao, lại chuyện đồng tiền! Khoảng 40 tỷ đồng, để "vá víu" lại cái "rách toác" thân đập ST2, đã phải là con số cuối cùng chưa? Đã đủ để "vá víu" sự "rách toác" lương tâm không ít kẻ chưa? Chắc là chưa. Theo các chuyên gia, đây mới chỉ là phương án khắc phục tạm thời, chưa thể xử lý triệt để (!) Nếu ST 2 tiếp tục gây những sự cố lớn hơn nữa, ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước tính mạng hàng nghìn người dân Bắc Trà Mi đây? Được biết, tại cuộc họp báo cáo sơ bộ của đoàn công tác Bộ KH- MT, Bộ Xây dựng..., về ST2, ông Nguyễn Đức Hải, Bí thư TU Quảng Nam đã phải đề nghị: Nếu đập ST2 không an toàn, cần phải "hy sinh" công trình này. Đó quả là cân nhắc bất đắc dĩ và quá đau xót! Ông Nguyễn Đức Hải cũng yêu cầu cơ quan chức năng làm rõ trách nhiệm của chủ đầu tư trong vụ việc này. Đồng tiền- luôn là thủ phạm duy nhất của các dự án "đổ bể" đến đau đớn và hổ thẹn: Đại lộ Đông Tây, PMU 18, Vinashin, Vinalines...Và còn những dự án nào nữa, nay mai? Mới đây nhất, báo Tuổi Trẻ đưa tin, cầu cảng Tổng kho dầu khí Đà Nẵng, công trình được đầu tư 400 tỉ đồng, bị sập đổ. Giữa lúc ST 2 còn "hứa hẹn" răn đe con người những trận động đất ở "thì tương lai", thì 1 dư chấn khác, mạnh không kém ST2 nổ ra. Dự án xây dựng Bảo tàng lịch sử Quốc gia, với tổng số tiền đầu tư hơn 11 nghìn tỷ đồng! Một bảo tàng lịch sử tầm cỡ quốc gia với kiến trúc trông rất "phồn thực"- dự kiến sẽ được xây, trong khi Bảo tàng Hà Nội vừa xây xong cách đây ít lâu, với 2300 tỷ đồng, trông hệt kim tự tháp ngược, vừa xấu về hình hài, vừa ốm yếu về chất lượng, nằm trơ khấc, bẽ bàng trong sự quạnh quẽ vì quá ít khách tham quan. Chợt nghĩ tới tư duy văn hóa của người Việt chúng ta. Trong khi liên tục cho ra đời những dự án khủng, kiểu dự án hơn 11000 nghìn tỷ đồng thì không tiếc, mà lại "tiếc" có hơn 11 tỷ đồng- cho bảo tồn 1 di sản văn hóa quốc gia- chùa Trăm Gian. Để đến nỗi ngôi chùa bị phá hỏng. Chỉ khi đó, quản lý văn hóa mới cuống lên, vào cuộc. Hồn cốt Chùa Trăm Gian, hồn cốt của Thành nhà Mạc, của Chùa Trầm mới đây, và của bao di tích văn hóa- lịch sử đã không còn. Hay chính hồn cốt "văn hóa Việt" đã ...vất vưởng từ lâu lắm rồi? Oái oăm thay, dự án này ra đời vào lúc ngẫu nhiên, ngành giáo dục trước đó, vừa tiến hành 1 cuộc khảo sát về đội ngũ nhà giáo. Kết quả điều tra xã hội học- cũng tạo nên 1 "dư chấn" đau đớn cho những ai vốn quan tâm tới nền học vấn nước nhà. Tới 50% số nhà giáo của 7 tỉnh, t/p được khảo sát trả lời, họ hối hận vì đã chọn nghề, và không muốn tiếp tục dạy học nữa. Bởi cơm áo không đùa với...nhà giáo. Bởi công việc nhiều áp lực, bệnh dối trá đã thành hệ thống, kéo đến hệ lụy dạy học không còn là nghề được xã hội tôn trọng. Có gì đó tựa sự tổn thương! Nhiều năm trước đây, khi lăn lộn ở cơ sở, rất nhiều lần người viết bài trò chuyện với các nhà giáo vùng khó khăn. Một điều thực cảm động, họ chọn lựa nghề dạy học, vì yêu nghề, yêu trẻ. Đó là 1 thực tế. Nhưng ở chính hành trình hội nhập với thế giới hiện đại này, con số 50% nhà giáo hối hận và quay lưng lại với nghề của mình cũng là 1 thực tế khác. "Yêu" và ... "ly thân" là 2 trạng thái hạnh phúc và khổ đau của con người. Nhưng từ "yêu" đến "ly thân" với nghề của 50% số nhà giáo kia, hẳn không phải lỗi tại họ. Chúng ta thường nhắc đến khẩu hiệu: "Giáo dục là động lực phát triển". Nhưng mới ở 7 tỉnh, t/p, đã có tới 50% số nhà giáo không còn động lực với nghề. Vậy thì đất nước sẽ phát triển ra sao? Chẳng lẽ, khẩu hiệu vẫn chỉ là khẩu hiệu? Chẳng lẽ, ngành giáo dục đã trở thành 1 thứ ... "bảo tàng", vì sự cổ lỗ, lạc hậu, tụt hậu, và chỉ mang ý nghĩa xem xét như là những hiện vật, những chứng cứ của 1 giai đoạn lịch sử trong quá khứ? Vậy tương lai của dân tộc này, sẽ đi lên từ đâu? Hay những dự án như Đại lộ Đông Tây, PMU 18, Vinashin, Vinalines... và biết đâu nữa, cả dự án Bảo tàng lịch sử Quốc gia, đáng được xây thành "bảo tàng"... tham- sân- si? Và những cơn động đất kinh hãi của ST 2, sự nứt toác đập ST2, liệu có thể là những "vật chứng" sinh động cần được trưng bày tiếp trong loại bảo tàng này không? Vết nứt ở Thuỷ điện Sông Tranh Hội chứng "Hai Bà..." Sau những ồn ã phản biện và tranh cãi gay gắt về cuốn SGK tiếng Việt lớp 3 "Hai Bà Trưng đánh giặc nào", rút cục có 1 khái niệm nhanh chóng được "dân...gian" tổng kết. Đó là hội chứng "Hai Bà Trưng", mà người đời vui đùa gọi là hội chứng Sợ! Ở đây, là sợ va chạm, sợ đụng chạm, và cao nhất là sợ đối diện với sự thật. Nhưng hội chứng "Hai Bà" này, hóa ra khá ...thời thượng và phổ biến. Và nếu pháp luật không được thượng tôn, nếu thiết chế quản lý lỏng lẻo, nếu con người luôn cầu an và thỏa hiệp, thì rút cục trong xã hội, sẽ diễn ra nghịch lý: Người ngay sợ kẻ gian. Cái tốt sợ cái xấu. Cái hay sợ cái dở. Cái chính sợ cái tà. Khi ấy, sự hoài nghi sẽ lên ngôi! Mới đây, người hâm mộ thể thao ồn ào xung quanh vụ HLV Hữu Thắng (Đội Sông Lam- Nghệ An), bức xúc trước đề nghị, cần có cuộc xét nghiệm ma túy trên diện rộng với các cầu thủ của mình. Vì theo vị này, điều đó là xúc phạm, làm tổn thương đến các cầu thủ của CLB. Nhưng sự bức xúc của HLV Hữu Thắng, liệu có ghê gớm hơn sự bức xúc của người hâm mộ môn thể thao Vua này không? Khi họ trực tiếp nhìn hình ảnh cực kỳ phản cảm, và bệ rạc của cầu thủ Huy Hoàng lái chiếc xe CRV gây tai nạn ở Thanh Hóa trong tình trạng mất kiểm soát, "người lắc lư, tay múa may", nghi vấn là biểu hiện của việc đang phê thuốc lắc? Và thực trạng hư hỏng của nhiều cầu thủ bóng đá đội SL liệu có giấu được mãi trong bóng tối? Cho dù cuối cùng, Huy Hoàng, "biểu tượng" của bóng đá xứ Nghệ, thoát khỏi yêu cầu chính đáng của dư luận. Nhưng "biểu tượng" đó, thực ra, đã... đổ bể trong lòng người hâm mộ mất rồi. Hữu Thắng có thể bảo toàn được danh dự cho toàn đội không, nếu như vị HVN này, theo cách nói của "dân...gian"- cũng đang mắc hội chứng "Hai Bà"- hội chứng sợ. Sợ đối diện với sự thật! Thực chất, ai đang làm tổn thương ai? Người hâm mộ hay Huy Hoàng và các cầu thủ của HLV Hữu Thắng? Và những ngày này, dư luận xã hội cũng rất quan tâm đến đợt sinh hoạt chính trị lớn- phê và tự phê bình trong Đảng. Trong ứng xử của đời sống cộng đồng, có câu tổng kết của dân gian rất hay: Một điều nhịn, 9 điều lành! Nhưng trong cuộc đời, có khi 1 điều nhịn, dễ thành 9 điều ...dở. Mới đây, trả lời phỏng vấn của báo Nhân Dân, ông Nguyễn Đình Hương, nguyên Phó Ban Tổ chức TƯ cho rằng, nếu không có ai nhận trách nhiệm vụ Vinashin, Vinalines thì việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình coi như không thành công. Và: Cần kết luận rõ ai thuộc 1 bộ phận không nhỏ suy thoái... Chỉ một chữ ai, trong "nhóm lợi ích", trong "1 bộ phận suy thoái", nhưng là cả một cuộc sinh hoạt chính trị căng thẳng, nghiêm khắc. Sự day dứt của vị cán bộ tổ chức lão thành, có kinh nghiệm thực tiễn đầy mình, trước chữ ai còn bỏ ngỏ đó, là 1 thực tế xót đau. Vì vậy, sẽ tốt hơn rất nhiều, nếu cơ chế quản lý, nếu thiết chế kinh tế- chính trị- xã hội hiện nay, trước thách thức của hội nhập và phát triển, nhạy bén nhìn ra những khiếm khuyết để hoàn thiện, phù hợp quy luật thực tiễn và thời đại. Ở đó, pháp luật, pháp luật, và chỉ pháp luật mà thôi phải được coi là thượng tôn. Ở đó, pháp luật thực sự được tôn trọng, được tôn vinh đóng vai trò điều chỉnh, kiểm soát mọi động cơ, hành vi của mỗi công dân, từ thường dân đến quan chức cao cấp. Chỉ khi đó, căn bệnh duy ý chí, chỉ nói mà không làm, nói vậy không phải vậy, mới có cơ bị thải loại trong đời sống. Mọi cuộc sinh hoạt chính trị mới đạt hiệu quả. Tham- sân- si là bản năng giống loài của con người, là tính người. Nó không phải là thuộc tính riêng biệt. Mà nó ngự trị trong tất cả chúng ta, trong tôi, trong anh, trong chị..., nó hành trình cùng con người, từ xã hội tiểu nông đến xã hội văn minh. Nhưng nó, tham- sân- si sẽ được kiểm soát, ngăn ngừa, nếu sự công khai, minh bạch và công tâm của pháp luật luôn ngự trị trong xã hội. Chả thế, từ thời cổ đại La Mã, đến thời hiện đại ngày nay, hàng nghìn năm đã đi qua, biết bao vật đổi sao dời, nhưng biểu tượng Thần Công lý luôn là chiếc cân thăng bằng! Chiếc cân phân định cái Thiện- cái Ác, biểu tượng của lẽ phải, sự công bằng, nghiêm minh và không thiên vị, vẫn tồn tại và bất biến. Kỳ Duyên ---- Tham khảo: http://vietnamnet.vn...chuyen-mon.html http://vietnamnet.vn...a-vao-rung.html http://vtc.vn/2-3300...ram-xi-mang.htm http://tuoitre.vn/Ba...a-dung-luc.html http://vietnamnet.vn...om-loi-ich.html http://vietnamnet.vn...thanh-cong.html ===================== Cái bài zdiết này bàn về nhiều đề tài wá. Khiến Thiên Sứ tui lùng bùng lỗ tai, xem sốn con mắt - ấy là nói theo kiểu dân miệt vườn Nam Bộ. Lào nà bàn về cái thủy điện Sông Tranh; lào nà bàn về sự dũng cảm cần thiết trong xã hội Việt Nam hiện lay...vv...và ...vv... Zdề cái thủy điện sông Tranh thì nó kẹt chỗ này: Bảo đập mịa nó đi thì chẳng ai dám! Ai đủ dũng cảm để quyết một việc đổ đi cả hơn 5000 tỷ xuống sông Tranh? Ai chứ tớ thì hổng dám rùi. Lấy gì nàm bằng chứng đập sẽ vỡ khi động đất? Ló đã vỡ đâu mà đòi đập. Hi! Chỉ khi nào nó vỡ mới có "cơ sở pha học" để các nhà pha học công nhận nà ló đã vỡ rùi. Hic. Những khổ một lỗi nà lếu ló vỡ thì vài chục ngàn dân thành cá rồi mới xác định được cơ sở pha học của cái đập vỡ. Như vậy đập đập cũng không có cơ sở pha học, không đập đập thì nhỡ ló vỡ thì nàm sao - cũng không có cơ sở pha học được các nhà pha học xác định là ló không vỡ. Thế thì nàm thế lào?. Thôi, để tớ bảo thế lày nhá. Cứ coi như đập không vỡ như các bên bảo không; và chuẩn bị xây dựng những công trình ngăn nước lũ; hoặc chí ít giảm thiệt hại nếu đập vỡ gây ra cho các bên bảo có. Lúc ấy hãy tích nước và chỉ nên tích từ từ để quan sát diễn biến. Được chưa? Còn báo lói về nòng dũng cảm thì tớ thấy không có "cơ sở pha học"; chưa được "các nhà khoa học công nhận"; "nập nuận chưa chặt chẽ", "cần bổ sung cho có sức thuyết phục"...Bởi vì tớ chẳng thấy thằng nào con nào có chữ "hèn" trên mặt cả. Không tin hả? Thì thử chỉ vào mặt thằng nào đó mà nói: "Thằng hèn!" thế là nó cho ăn đấm ngay để chứng tỏ sự dũng cảm. Cho nên thôi đi. Không bàn.2 likes -
Bí mật “huyệt trai tân” giải oan tội hiếp dâm Cập nhật lúc 14:59, Thứ Tư, 19/05/2010 (GMT+7) , “Ngày 22/04/2002, ba thanh niên ở xã Yên Nghĩa, Hà Đông (Hà Nội) là Nguyễn Đình Lợi, Nguyễn Đình Kiên, Nguyễn Đình Tình, phải nhận án tổng cộng 41 năm tù vì tội hiếp dâm, cướp tài sản. Dù các bị cáo đều một mực không nhận tội trước toà. Thậm chí trong phiên phúc thẩm, khi biết bị bác kháng cáo kêu oan, cả ba bị cáo nhất loạt xin…lĩnh án tử hình. Và sau gần 10 năm lĩnh án, ba thanh niên này đã được minh oanbởi một phụ nữ kỳ lạ . Đó là lương y chuyên sâu Phạm Thị Hồng, công tác tại bệnh viện đa khoa Hà Đông (Hà Nội). Chị là người phụ nữ có thận phận đặc biệt, và sự quyết liệt hiếm có khi sẵn sàng tự thiêu để chứng minh nhận định của mình là đúng. Mọi chuyện chỉ bắt đầu khi chị phát hiện ba chàng trai này chưa bao giờ có quan hệ với phụ nữ, nhờ một huyệt đạo bí mật, nói theo dân dã thì họ vẫn còn là trai tân… Từ một huyệt đạo mang tên “Dương Minh” Chị Hồng tự giới thiệu mình là người say mê những pho sách cổ, đặc biệt là các sách về Đông y. Chị thường say sưa nghiên cứu những huyệt đạo, những quy luật âm – dương của cơ thể con người, những kiểu giáo trình này người ta không đưa vào chương trình giảng dạy các trường khoa Đông y. “Chỉ vì tò mò nên tôi đọc tất cả những cuốn sách cổ về y thuật nếu bắt gặp thú vị vô cùng” - chị Hồng nói. Chị kể: vào năm 2006, trại giam Thanh Xuân có đưa đến một phạm nhân nam, còn rất trẻ tuổi tên là Nguyễn Đình Lợi. Bệnh nhân này được nhập viện trong thể trạng suy yếu, gần như liệt nửa người. Sau khi bắt mạch, chị quyết định châm cứu để phục hồi chức năng cho Lợi. Khổ nỗi cậu ta là phạm nhân nên luôn bị xích ở cổ chân mà nơi ấy là một huyệt quan trọng để châm cứu. Thấy vậy chị đề nghị cán bộ của trại giam tháo xích để tiến hành châm cứu. Vị cán bộ trại giam sợ sai nguyên tắc nên từ chối, chị đã phải thuyết phục rằng, phạm nhân này không thể chạy trốn vì anh ta đang bị liệt nửa người…Thuyết phục mãi cán bộ trại giam mới tháo xích và giúp chị bê bệnh nhân lên giường để châm cứu. Huyệt đạo mang tên "Dương Minh" để kiểm tra trinh tiết đàn ông nằm ở vị trí dưới dái tai Cảm kích trước hành động của vị bác sĩ, phạm nhân Lợi bật khóc tức tưởi. Lợi mếu máo rằng, đã lâu lắm rồi chưa được ai quan tâm và chăm sóc tốt như thế…Chị Hồng cười rồi bảo: thanh niên gì mà khóc nhè thế, biết hối hận thì chăm chỉ cải tạo rồi ra thôi…Lần này Lợi lại càng khóc to hơn kêu rằng mình bị oan, nhất định muốn chết!. Thấy lạ, chị Hồng quay sang hỏi cán bộ trại giam thì biết được cậu ta mắc tội tày đình: hiếp dâm, cướp của, lĩnh 16 năm tù. Cái tội hiếp dâm ai cũng ghét, tôi cũng thế nên thấy ghê tởm” - chị Hồng nói. Thế nhưng khi nhìn vào khuôn mặt tái dại, đôi mắt trong sáng của phạm nhân này, bỗng nhiên chị cảm thấy điều gì đó bất thường. Chị bèn hỏi đùa: “cậu quan hệ với phụ nữ bao nhiêu lần rồi?”/. Phạm nhân Lợi giãy nảy rằng, chưa ! Chưa bao giờ quan hệ với phụ nữ. Chị Hồng bật cười rồi doạ: “này, chị là lương y, chị biết nhìn trinh tiết đàn ông đàn bà đấy, đừng nói bừa!”. Nghe vậy, phạm nhân Lợi vẫn kiên quyết khẳng định, mình là trai tân, chưa hề biết thế nào là phụ nữ! Nếu có chết cũng không dám nói bừa! Quá tò mò, chị quyết định bấm huyệt “Dương Minh”, cái huyệt này nằm ở vị trí dưới dái tai. Theo giải thích của chị, những người đàn ông chưa bao giờ quan hệ tình dục với phụ nữ thì cái huyệt ấy vẫn chưa đứt. Huyệt này chỉ đứt khi có khí âm hút vào. Ngược lại với phụ nữ huyệt này gọi là “Khuyết Ấm”, nằm ở vùng ức và nếu chưa có quan hệ với đàn ông thì nó cũng sẽ không đứt. Ngày xưa, khi tuyển cung phi cho vua chúa, những lương y thường xem huyệt này để kiểm tra trinh tiết… Chị mô tả rằng, huyệt này nó như sợi chỉ màu hồng rất đẹp, nếu đúng ngày nó nổi lên, khi ấy cơ thể con người có một luồng khí rất mạnh, tươi mới tinh khôi… đàn ông sẽ trở nên mạnh mẽ, phụ nữ sẽ trở nên đẹp lạ lùng ! Những lương y có nghề sẽ biết cách xem cái huyệt này. Và chị hoàn toàn bất ngờ khi thấy huyệt “Dương Minh” của phạm nhân Lợi còn nguyên vẹn. “Nói thật, lúc ấy tôi vừa mừng vừa lo, mừng vì cậu ta nói thật nhưng lo nhất là sẽ chẳng ai tin chuyện này…” - chị Hồng bùi ngùi nhớ lại. Chị bảo, cái huyệt đạo này người theo học y thuật phương Đông đều biết, nhưng nhiều người không để ý vì nó chẳng mấy tác dụng trong việc chữa bệnh, ngoài chức năng chứng minh sự trinh tiết. Hơn nữa nó lại thuộc y học phương Đông, nếu đem ra làm chứng cứ thì rất khó thuyết phục nguời khác. Nhưng cứ nhìn đôi mắt oan ức của Lợi, trong chị lại dâng lên một quyết tâm lạ lùng: phải minh oan bằng được! Sẽ tự thiêu để chứng minh sự thật Chị đã đi gặp GS. Nguyễn Tài Thu - một trong số ít người quan tâm đến cái huyệt đó. GS. Nguyễn Tài Thu sau khi nghe chị thuật lại sự việc cũng lắc đầu bảo, khó lắm con ạ (GS luôn gọi chị là con ) chuyện này không đùa được, liên quan đến luật pháp, mà cái huyệt này chỉ những người rành y thuật phương Đông mới hiểu, khó làm chứng cứ minh oan lắm…Nói vậy nhưng GS cũng rất thương cho phạm nhân Lợi, chính ông đã móc ví lấy tất cả số tiền trong đó là 800 ngàn đồng gửi chị mua thuốc để tiêm cho Lợi, rồi động viên chị hãy bình tĩnh, làm từng bước cho chắc chắn. Sau nhiều ngày suy nghĩ, chị quyết định tìm đến nhà phạm nhân tìm tài liệu về vụ án, lên Viện kiểm sát xin đọc hồ sơ…chị hết sức bất ngờ vì đó là một vụ án còn nhiều mâu thuẫn, có nhiều tình tiết cần được làm sáng tỏ, nó cũng củng cố thêm cho niềm tin của chị. “Tôi đã quyết định đứng tên viết đơn kêu oan, nhưng lẳng lặng làm, ai hỏi thì nói là tìm hiểu cho biết…” - Chị Hồng nói. Chị đã đi tất cả 36 cơ quan, những nơi liên quan đến vụ việc này, viết vài trăm lá đơn, trình bày tất cả những hiểu biết của mình về y học để chứng minh rằng Lợi vô tội. Tất cả những lá đơn gửi đi đều bặt vô âm tín, nếu có trả lời thì cũng khẳng định rằng bản án đã được tuyên đúng người đúng tội, có cả bản tự thú của phạm nhân, cơ quan pháp luật không sai. Mệt mỏi, chán chường, thỉnh thoảng lại bị ai đó gọi điện hăm doạ, rồi cứ xểnh ra là mất xe máy (chị đã mất tới 4 cái xe máy trong quá trình đi kêu oan giúp). Nhiều người thân bạn bè cũng khuyên can rằng , việc khó lắm lại là người dưng, chẳng quen biết gì, lao đầu vào như thế không may chuốc hoạ vào thân thì khổ “tôi không chịu, tôi vẫn quyết tâm vì tôi có lý do…” - chị Hồng vừa nói vừa lục ra 1 lá thư đã cũ, được ép nhựa cẩn thận. Đó là bức thư của ba chị - một chiến sỹ cách mạng hy sinh rất anh dũng, bạn hoạt động cùng thời với cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chính ba Sáu Dân đã giao lại bức thư cho chị hồi còn bé. Trong đó có đoạn “… Con không được phản bội lại chính lương tâm mình với bất kỳ lý do nào. Cuộc sống của con phải lấy nhân nghĩa làm lẽ sống…”. Chị Hồng rơm rớm nước mắt kể: Đời chị chưa bao giờ biết mặt ba. Lá thư này là ba viết cho chị trước lúc địch mang ông ấy ra trường bắn, không lâu sau má chị cũng bị chúng giết chết. Chị được gửi lại cho một gia đình nông dân ở huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ). Cha mẹ nuôi của chị cũng tốt vô cùng, họ không bao giờ tiết lộ chị là con nuôi, chỉ sau khi chị lớn, ba Sáu Dân và một số bạn hữu của ba má đẻ chị tìm tới, giao lại lá thư, chị mới biết mình là con nuôi, người gốc Bến Tre, ba má tập kết ra Bắc thì sinh chị, nhưng vì nhiệm vụ cách mạng, họ phải gửi chị lại để tiếp tục vào Nam chiến đấu… “Từ đó tôi lấy đuợc cái đức của ba má mà sống. Tôi không thể chịu đựng được khi thấy sự oan ức mà không hành động!” - chị Hồng khẳng định. Thế rồi đến năm 2008, một lần nữa Lợi đựơc đưa ra bệnh viện điều trị, lần này chị có cơ hội tiếp xúc lâu hơn với bệnh nhân. Chắp nối tất cả các dữ kiện, cùng những chứng cứ thu nhập được, chị quyết định, tìm gặp các vị lãnh đạo cao cấp để minh oan. Thế nhưng mọi chuyện vẫn như vậy, họ vẫn giữ quan điểm ban đầu rằng họ không sai. Quá bức xúc, chị tuyên bố rằng sẽ tự thiêu để chứng minh nhận định của mình. Chị tin rằng, sau cái chết của mình sẽ có người lật lại toàn bộ hồ sơ sự việc. Chị đã tính đến việc gửi lại hai đứa con của mình cho người thân nếu chị tự thiêu. Với sự lỳ lợm đến khó tin cuối cùng câu chuyện cũng đến được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đề nghị VKSND tối cao xem xét lại bản báo cáo. Cuối năm 2009, các cơ quan tố tụng có công văn gửi các cấp lãnh đạo thừa nhận: “ quá trình điều tra và xét xử đã có những thiếu xót…cơ quan điều tra đã thiếu khách quan, không đầy đủ và triệt để, những chứng cứ gỡ tội chưa được xác minh làm rõ…”. Và kết quả là họ trả tự do cho ba thanh niên đó. Chúng tôi - những người làm báo đến nghe chị kể chuyện đã hỏi: “Chị định tự thiêu là để làm thật hay doạ nếu họ không nghe?”. Chị Hồng khẳng định: “ tôi không doạ, tôi chưa bao giờ đùa trong chuyện này. Ngày mới gặp Lợi, tôi hứa sẽ đi đến cùng để minh oan, và tôi đã làm như thế. Tôi là lương y, cứu người là nhiệm vụ, và chết vì người khác cũng không phải là cái gì đó ghê gớm!”. Nhìn người phụ nữ 53 tuổi này mà chúng tôi thấy ấm lòng, cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu có nhiều và rất nhiều người như chị ! Kiến thức, lòng quyết tâm của chị đã giúp ba chàng thanh niên đòi lại công lý, đòi lại nhân phẩm, và cũng cảnh báo với những người đang cầm cân nảy mực, có trách nhiệm phải thật cẩn trọng với pháp luật vì chỉ một sai xót nhỏ cũng có thể huỷ diệt cuộc đời một con người. Theo Đang yêu1 like
-
Ý nghĩa các thủ ấn trong tượng Phật Thái Lan. Giác Ngộ - Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở Thái Lan. Có rất nhiều các thủ ấn khác nhau, nhưng có một thủ ấn rất đặc biệt ở Thái Lan đó là thủ ấn tượng Phật nằm. Ngoài thủ ấn này, còn có 6 thủ ấn chính khác nữa ở tượng Phật Thái Lan. 1. Thiền ấn (pang sa-maa-ti hay dhyana mudra) Cử chỉ này thường thấy ở các tượng Phật ngồi. Lòng bàn tay Phật ngửa lên đặt ngay ngắn trong lòng. Tư thế này cho thấy Phật đang tập trung tinh thần nhiếp phục thân tâm.2. Thí vô úy ấn (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra) Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân. 3. Thí nguyện ấn (pang bpra-taa pon hay varada mudra) Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí. 4. Xúc địa ấn ( pang maa-ra-wi-chai hay bhumisparsa mudra) Trong nghệ thuật tượng Phật Thái tư thế này được gọi là Đức Phật điều phục Mara (Ma vương). Mara là một con quỷ cám dỗ Đức Phật. Tay phải của Phật được đặt trên cẳng chân trong trạng thái chạm vào Trái đất, đôi khi chỉ là tượng trưng. Đây là tư thế thường thấy nhất. 5. Chuyển pháp luân ấn (dharmacakrapravartana mudra) Ngón tay trỏ và ngón tay cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau. Các ngón của bàn tay trái chạm vào lòng bàn tay phải. Đây là một tư thế rất hiếm gặp. Tư thế này nói lên việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp với bài pháp đầu tiên của mình. 6. Giáo hóa ấn (vitarka mudra) Ngón tay cái và ngón tay trỏ, thường là ở bàn tay phải chạm vào nhau, các ngón còn lại hướng lên trên. Cánh tay cong nơi khuỷu tay và cổ tay. Điều này được xem như lời kêu gọi hòa bình. Đức Phật đang nhằm kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy lôgic và lý luận. Văn Công Hưng (Theo ArticlesBase) Giacngo.vn1 like
-
CÓ MA HAY KHÔNG ? Có Ma hay không có Ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Phải trừ Ma như thế nào ?... Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho ta, vì trong số chúng ta đây, có thể có người chưa hề « gặp Ma » bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem Ma ra thế nào, hoặc có người đã từng « thấy Ma » nên vẫn còn bị Ma ám ảnh, muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con Ma đó có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về Ma như thế nào. Tôi xin trình bày bài viết ngắn này thành hai phần. Một phần nặng về định nghĩa và lý thuyết dựa theo Kinh điển, một phần « bàn rộng » và « tán rộng » những gì đã ghi trong Kinh sách. Dù sao, đây cũng là một bài viết ngắn, dưới hình thức một bài báo, không có chủ đích giải quyết hết vấn đề và thật sự ra cũng khó rứt bỏ hay đuổi bỏ con Ma ra khỏi đầu chúng ta lắm. 1. Phần thứ nhất : Định nghĩa về Ma Ma là gì ? Chữ Ma do chữ Phạn Mâra mà ra. Tiếng Tây tạng là Dud, tiếng Nhật là Hajun, tiếng Hán là Mo, nhưng người Trung hoa thường âm từ tiếng Phạn và gọi là Ma-la, vần r không có trong tiếng Trung hoa nên người Trung hoa thường gọi là Ma-la thay vì là Ma-ra. Kể dài dòng ra như thế để thấy rằng không phải chỉ có người Việt Nam ta mới « thấy » Ma. Kinh sách định nghĩa chữ Ma (Mâra) là « Quỷ sứ cám dỗ », một thứ « Quỷ tinh ranh » tượng trưng cho những xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả. Trong Phổ diệu Kinh (Latitavistara), bộ Kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Ma đòi Phật phải nhường ngai lại cho hắn, vì hắn nhất định bảo rằng không có gì chứng nhận Phật đã đạt được Giác ngộ. Phật liền dùng tay phải chạm xuống mặt đất, mặt đất liền bị chấn động và rung chuyển ầm ầm, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thực của Ngài.Ma liền biến mất như bị phù phép vậy. Như vừa kể trên đây, ta có ma nữ, ma quân…vì thế ta cũng có Ma vương. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha-hoá Tự-tại thiên (Paranirmitavasavartin), tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới, tức là cảnh giới thấp nhất trong Tam giới. Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát. Ma vương còn có tên là Ma vương Ba-tuần, tức là tên của Tha-hoá Tự-tại thiên vương. Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả ? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ Ma. Cách phân loại lại khác biệt nhau giữa Thừa Kinh điển (Sûtrayâna) và Kim cương thừa (Vajrayâna). Vì thế cộng lại có đến tám thứ Ma (Bát ma). Theo Thừa Kinh điển (Sûtrayâna) bốn loại Ma (Tứ ma) là : 1. Ma của cấu hợp (Skandhamâra) : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là « con ma của cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma. 2. Ma của dục vọng (Klésamâra) : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, đẩy ta vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là « con ma gây ra cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma. 3. Ma của thần chết (Mrtyumâra) : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là hiện tượng Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma. 4. Ma của những con trời (Devaputramâra) : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám níu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài, cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương. Theo Kim cương thừa (Vajrayâna) bốn thứ Ma lại được định nghĩa như sau : 1. Ma xiềng xích (tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud) : con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám níu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Kinh sách tiếng Hán gọi là Phiền não ma. 2. Ma thả lỏng (tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud) : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tâm ma. 3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud) : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, con ma của sự tự mãn, tự đại, thỏa mản với chính mình, xem mình là đặc biệt hơn cả mọi người, bám níu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định của mình, cho đấy là đúng và trở nên hãnh diện. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma. 4. Ma kiêu căng (tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud) : đó là ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái « tôi », cái « ngã ». Kinh gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma. Có sách còn phân chia ra làm mười thứ Ma (Thập ma), như vậy ngoài tám thứ ma đã kể trên còn có : Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng tham tiếc đạo lý ấy mà giữ nguyên cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước làm che lấp mất chính đạo. Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép người đọc kể ra cho hết : Ma cảnh : khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành. Ma chướng : những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ. Ma duyên : còn gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại. Ma đàn : là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Chữ này nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật. Ma đạo : đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma. Ma lực : sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác. Ma nghiệp : nghiệp ác. Ma ngoại : là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp. Ma Phạm : (Mâra hay Brâma) tức là Ma vương ở cõi Phạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. ChữMa vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạm hay Phạm vươnghay Phạm thiên vương là Chúa tể của cõi Ta-bà này, quyền lực của Ma Phạm vượt lên đến chỗ cao nhất trong cõi Sắc giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển còn gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng Thượng đế. Ma thiền : phép thiền định tà ma, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo. Ma thuật : nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học. Ma sự : chữ này rắc rối lắm, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học và con đường chánh Pháp. Kẻ thực thi ma sự, là những kẻ chạy theo lục trần : yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống thích nghi. Ma sự cũng là việc làm của những người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục.Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền mà ngủ gục, bám vào những cảnh hiện ra khi thiền, cảm thấy bấn loạn, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền. Người xuất gia mà thực thi ma sự tức là còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, xu nịnh những hàng cư sĩ hay người lui tới chùa có của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ… 2. Phần thứ hai : Bàn về Ma Trên đây là những gì Kinh sách nói về Ma, định nghĩa và phân loại về Ma. Dựa trên đó ta thử phân tích, tổng kết, tìm hiểu thêm về Ma, xem Ma ra sao, Ma thật sự là cái gì ? Tiếp theo, ta rút tỉa từ những phân tích ấy, từ những hiểu biết ấy để ứng dụng vào cách cư xử và thái độ của ta đối với Ma. Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả Ấn độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị một thần đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm vừa nói trên đây. Tên của Ma có nghĩa là thần chết. Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là Chủ nhân ông của thế giới vật chất và hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của người Chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta. Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, phát sinh từ những tâm thức có thể rất tinh khiết, từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Ma này nằm trong thịt da của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta. Ma còn mang một cái tên nữa mà ít Kinh sách nói đến, đó là con ma Ái dục (Kâma, xin đừng lầm lộn với karma), đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nôm na là tình yêu. Con ma Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta. Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng. Con ma đó hiến dâng cho những hình tướng biến động do chính nó tạo ra, mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục. Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, tham bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » hay « bám níu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy do nó đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi. Điều này Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú ấy, lệ thuộc vào những lạc thú ấy và bị kích động bởi những lạc thú ấy. Ma vừa là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là kẻ phá hoại là như thế đó. Khi nhìn Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. Ma ngự trị chính trong đầu của ta.Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có Ma. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, chán nản, buồn bực, đói khát, bám níu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự kiêu, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái « tôi » của chính mình v.v. và v.v. Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma : Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma…như đã đề cập trong phần thứ nhất của bài viết. Để tránh cách nói tổng quát, siêu hình của giới trí thức hay học giả, ta thử đưa ra một vài ví dụ thực tiễn hơn của những con người bình dị như chúng ta đây. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt,… và cười với ta. Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn « không dám » tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất. Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, « vắt giò lên cổ » mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang nổi da gà của ta. Tệ hơn nữa, có thể ta lại đem chuyện « thấy ma » ấy mà vừa thở hổn hển, vừa kể như thật với người khác, tức là ta giới thiệu con Ma mà ta thấy cho một người thứ hai. Người này có thể vừa thích thú vừa sợ sệt mà đón rước nó, đem cất giữ nó vào trong đầu. Người này lại kể cho người thứ ba, người thứ ba lại kể cho người thứ tư. Mỗi lần như vậy thì con ma mà ta thấy lại trở nên hung tợn hơn và khiếp đảm hơn một chút, mắt nó trợn to hơn, răng nó dài hơn, và nó cười rùng rợn hơn. Biết đâu sau một vòng, người nghe sau cùng lại vô tình kể lại cho ta nghe về con ma này, có thể ta còn sợ nó hơn cả con ma ta từng thấy « thật » trước đây. Phật có đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy. Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy ma. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơia-lại-da-thức (âlayavijnâna) của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta. Tóm lại, và cũng xin lập lại, con Ma nằm trong tâm thức ta, trong tâm trí ta và trong tâm linh ta. Tại sao ? Vì Ma được sinh ra từ những tư tưởng của ta. Nó chính là Chủ nhân ông của mọi tư tưởng. Chính nó, xuyên qua quá trình vận hành của ngũ uẩn (skanha), đã làm phát sinh ra tư tưởng của chính ta. Những tư tưởng đó gồm có dục vọng và thèm khát, lôi theo những hành vi nhắm vào mục đích làm thoả mãn những thèm khát và dục vọng đó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngã của ta, và tùy theo từng người, nó dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái hay hét lên the thé…, mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã. Ma là cái ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi. Những hành vi của Ma làm phát sinh ra Thế giới luân hồi (Samsara). Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, và Ma lại nằm trong tâm thức của ta. Vì thế có thể nói Ma chính là một hình thức của Vô minh hay một cách nói để so sánh với Vô minh. Chính Ma đã tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và khổ đau. ChínhMa kích động để ta tạo nghiệp. Chu kỳ của sự sống là cách vận hành của bánh xe luân hồi do Ma tạo ra, và đó cũng là sự vận chuyển của cái ngã. « Tỉnh thức » hay « Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó là không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma, chỉ là Vô minh mà thôi. Tóm lại và để kết luận, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu ta. Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổiMa. Ta phải đuổi Ma bằng cách tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh, đem đến cho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con Ma nào cả. Hoang Phong ======================================= Ma ma Phật Phật chính do ta Ma Phật khác nhau chổ chánh tà Luận giãi càng nhiều Ma càng dử Để yên tự nó bốc hơi ra !1 like
-
Ngay cả những nơi đất Phật cũng bị chặt chém thì còn gì là "văn hóa" Thứ hai 30/07/2012 07:12 (GDVN) - ""Chặt chém" ở các điểm du lịch bình thường đã đáng phải lên án nhưng ngay cả những nơi đất Phật cũng bị "chặt chém" thì đúng là chẳng còn gì là văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, kinh doanh...", độc giả Nguyễn Thế Anh nhấn mạnh. Những ngày qua, câu chuyện xung quanh văn hóa bán hàng với nạn "chặt chém", "bún mắng, cháo chửi, phở lắm mồm..." ở nhiều địa phương trên cả nước được báo Giáo dục Việt Nam phản ánh đã thu hút sự quan tâm, với rất nhiều ý kiến, phản hồi của bạn đọc gửi về. Tiếp tục xung quanh vấn đề này, nhiều bạn đọc còn rất bức xúc khi phản ánh thực trạng nạn "chặt chém", xả rác còn diễn ra ngay cả trên cả những nơi đất Phật, mang yếu tố tâm linh... Một trong những ý kiến đó là của độc giả Nguyễn Thế Anh (Hải Phòng) bày tỏ, việc ngay cả trên những nơi đất Phật cũng bị "chặt chém" thì đúng chẳng còn gì là văn hóa... Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin tiếp tục đăng tải trọn vẹn ý kiến này. Mời bạn đọc cùng theo dõi: Những ngày qua, tôi đã theo dõi rất kỹ những bài viết, những ý kiến của đông đảo bạn đọc phản ánh về thực trạng của vấn nạn "chặt chém", xả rác cũng như cung cách, văn hóa phục vụ thiếu tôn trọng khách của không ít các chủ hàng ở một số địa phương trên cả nước. Bản thân tôi là một người đã đi du lịch khá nhiều nơi nên những cảnh đó cũng không còn là điều gì đó quá xa lạ, quá mới mẻ. Những điều đó đã gây ra sự phản cảm, phẫn nộ hay nói cách khác là mang cái bực vào người đối với khách du lịch đã phải bỏ tiền ra để mong muốn có được sự thoải mái, thư thái. Du khách đông đúc đi lễ chùa Hương (Ảnh: Internet) Tuy nhiên, cũng từ thực tế, đã đi nhiều nơi, tôi thấy rằng, nạn "chặt chém" ở các điểm du lịch, bãi biển bình thường thôi đã rất đáng phải lên án, phải tẩy chay rồi nhưng ngay cả những nơi đất Phật cũng bị "chặt chém" thì đúng chẳng còn gì là văn hóa nữa cả. Và không ít người bạn tôi khi trở về từ những nơi đất Phật, sau khi đã đi thăm các đền, chùa... đã thực sự bị chạnh lòng bên cạnh sự tôn nghiêm của chốn này. Du khách thập phương mong muốn tìm về nơi cửa Phật để tìm đến một chốn thanh tịnh, yên bình, với tâm thành, chí nguyện, tránh xa những sự ồn ã, xô bồ của cuộc sống tấp nập, ngược xuôi, tính toán... Thế nhưng, ngay dịp đầu năm Nhâm Thìn này thôi, khi sau nhiều năm quay trở lại chùa Hương (Mỹ Đức, Hà Nội), nhóm chúng tôi đã gặp phải biết bao nhiêu nỗi bực dọc bởi cái cảnh "chặt chém" đến "khiếp người". Trên dọc đường, ngay từ đầu ngã ba Ba La về đến đầu bến Đục chùa Hương, đầy rẫy cảnh "cò" lượn lờ phía trước, phía sau, chèo kéo. Do lâu ngày không nhớ rõ đường, về đến đầu cầu Vân Đình, chúng tôi dừng xe hỏi đường thì có rất nhiều người chạy đến vây quanh nói "giúp đỡ". Sau đó có một người phóng xe đi đằng trước, nói là dẫn đường hộ. Tưởng là người dân tốt bụng cũng đến đấy chỉ đường cho, nào ngờ khi vừa đến nơi, anh ta đỗ phịch xe, cươi tươi quay lại rồi nói "xin" 120.000 đồng tiền... dẫn đường. Chúng tôi chỉ còn biết ngớ người ra mà nhìn nhau. Và thực sự chúng tôi cũng lại bất ngờ hết sức khi mà đi gửi xe rồi vào mua vé, xuống thuyền ngồi chúng tôi cũng lại gặp "cò" đưa đi rồi tính tiền. Nhưng giá trông xe ở đây cũng chẳng hề rẻ chút nào, giá trông một chiếc xe máy dao động từ 15.000 - 25.000 đồng, còn ô tô từ 75.000 - 100.000 đồng/ xe Theo quy định của Ban tổ chức giá vé thăm quan là 50.000 đồng/ người cộng với tiền đò là 25.000 đồng/ người/ lượt với đò thường nhưng vừa đi khỏi bến được vài chục mét, người lái đò đã nói ngay với giọng khá khó nghe: "tý nữa, mỗi người trên đò cho xin thêm 20.000 đồng/ người, tiền bồi dưỡng...". Khi chúng tôi thắc mắc thì người lái đò cau có nói: "Thế ai ở đấy chờ cho các người đi lễ, đông thế này, chờ từ giờ đến tối chứ ít à. Mà ở đây, đi thuyền nào cũng thế thôi...". Vậy là ngoài tiền vé, 8 người trên thuyền đã bị ép phải cố "vui vẻ" trả thêm 160.000 đồng cho người lái đò. Dọc con đường lên chùa, vào động Hương Tích, hai bên đường, những hàng quán bán đồ lưu niệm, hàng ăn... chen chúc nhau cùng đội ngũ bán rong, "cò" mồi làm cho lượng người đã đông lại càng thêm đông đúc, ngột ngạt hơn. Đông đúc, ngột ngạt dịp Xuân về thôi thì cũng chấp nhận được, bởi tâm lý chung, ai cũng muốn đi chùa dịp đầu năm để cầu may mắn, đặc biệt với chùa Hương này. Nhưng cái cảnh đến cả cửa Phật đây rồi mà vẫn còn "chặt chém" theo kiểu kinh doanh "chộp giật" của các chủ hàng nơi đây thì đúng là không thể nào chấp nhận được. Được giới thiệu là nơi có đặc sản củ mài có tiếng nhưng chúng tôi đã bị một phen "ngã ngửa" khi chủ hàng thông báo, một bát chè củ mài có giá tới 50.000 đồng. Có hỏi thì chủ hàng đáp lại bằng một khuôn mặt hầm hừ cũng những lời nói qua loa, thậm chí là có những ngôn từ thô lỗ, dọa nạt khách. Chẳng lẽ đi chùa đầu năm mà lại cãi nhau, gây gổ, những người khách "phương xa" chúng tôi chỉ còn biết đành chấp nhận trả tiền. Càng lên trên thì các mức giá càng bị tăng lên cao "ngất ngưởng", bát chè củ mài 50.000 tăng lên tới 70.000 đồng, hay chỉ là cái bánh mỳ ruốc bình thường ở ngoài bán cùng lắm đến 5.000 đồng thì ở đây lên tới 20.000 - 30.000 đồng/ cái, một chai nước khoáng bình thường cũng lên đến 15.000 đồng... Thịt thú rừng được bày bán tràn lan dọc đường vào chùa Hương dịp lễ hội đầu Xuân 2012. Ngay cả các loại vật phẩm dùng để mang vào lễ những ngày này cũng bị các chủ hàng "ép" nâng giá lên gấp ba, bốn lần ngày thường. Các phòng ngủ "dã chiến" được quây bằng tôn, bạt được cho thuê với giá 250.000 - 300.000 đồng/phòng. Nhiều du khách không đặt phòng ngủ đã phải thuê chiếu ngủ lên tới 100.000 đồng/ chiếc hoặc ngủ tập thể trong những căn phòng tạm bợ với giá 50.000 đồng/ người... Chùa Hương, vốn được nhiều du khác biết đến là chốn cửa Phật thiêng liêng, nhưng từ khu bến Trò, nhan nhản các dãy nhà hàng bán thịt thú rừng, với cảnh tượng giết mổ hãi hùng. Thú rừng bị xâu, xẻo thịt chỉ còn trơ xương, treo lủng lẳng trên những cái móc. Các cửa hàng này nhà nào cũng treo từ 5 - 7 thú rừng để thu hút khách nhưng lại không ghi mức giá cụ thể trên biển quảng cáo vì chủ quán nhìn mặt khách để “quát” giá. Có những vị khách “sộp” bị quát giá cao, còn những khách kỳ kèo thì “mềm” hơn một chút. Phổ biến giá thịt nai dao động từ 500.000 – 700.000 đồng/kg; hoẵng rừng 400.000 – 600.000 đồng/kg; Cầy vòi 300.000- 400.000 đồng/kg; Nhím 350.000- 400.000 đồng/kg… Giá "cắt cổ" là vậy nhưng cái cảnh "treo đầu dê, bán thịt chó" vẫn diễn ra. Anh bạn tôi cố len trong nhóm xúm đông, xúm đỏ để mua thịt hươu rừng với giá người chủ quán quát 600.000đ/kg. Sau khi thoả thuận, nhiều du khách được xẻo cả tảng thịt và nhờ nhà hàng chế biến ăn luôn tại quán. Nhưng khi nghe cô chèo đò nói: “Lấy đâu ra thú rừng, hươu nai toàn nuôi nhốt, già không lấy nhung nữa thì bán cho các quán làm thịt”, các “thượng đế” mới tá hoả và mới biết mình bị lừa. Không chỉ thịt thú rừng mà rất nhiều mặt hàng khác cũng được bày bán la liệt từ chân chùa lên động Hương Tích giống như một “hội chợ thương mại”. Các quán lớn nhỏ ở đây thả phanh "chặt chém" gấp lên 2-3 lần so với giá thị trường. Quần áo, giầy dép, bánh kẹo, củ quả, thuốc “thần dược”… được bày bán la liệt vô tội vạ ở đây. Đi chùa để tĩnh tâm, chay tịnh thành tâm niệm phật, giúp người ta rũ bỏ mọi ưu phiền trần tục. Nhưng những gì diễn ra ở chùa Hương này cho thấy dường như cửa Phật đang bị ô uế bởi sự thương mại hóa. Và như tôi đã nói ở trên, "chặt chém" ở những điểm du lịch bình thường đã cần phải lên án, tẩy chay rồi nhưng ngay cả ở những nơi đất Phật như chùa Hương này, cảnh "chặt chém", lừa lọc khách thập phương vẫn diễn ra thế này thì còn gì là "văn hóa" ứng xử, văn hóa kinh doanh... còn gì là sự tôn nghiêm nơi cửa thiền, Tam bảo đây... * Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả ==================================== Ủa? Thế sao không gọi được là sự phát triển của "văn hóa chặt chém" nhỉ? Có cả "văn hóa ẩm thực" (Trần Quốc Vượng); "Văn hóa chửi" (Trần Ngọc Thêm), thì nay thêm vào "văn hóa chặt chém" có gì là lạ đâu? Bởi vậy! Thật giả lẫn lộn. Đúng sai chẳng biết đằng nào mà lần. "Văn hóa" thì định nghĩa không xong; "Lễ" là gì không biết. Cũng vì thiếu tính chính danh tạo ra cả.1 like
-
Quán vắng!
WarrenBocPhet liked a post in a topic by Thiên Sứ
Mỹ: 1 quốc gia ngu ngốc và lạc hậu bocphet.vn Tháng 9 13th, 2012 “Hoa kỳ thực ra chỉ là một làng quê khổng lồ và kém phát triển” – một tiểu luận ẩn danh trên trang web hóa ra lại khơi mào cho sự châm biếm nhằm chính Trung Quốc. Trước chuyến thăm ngoại giao của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hilary Clinton tới “Vương Quốc ở trung tâm thế giới” một luận điệu phê phán đầy mỉa mai đã lan tỏa như virut trên Sina Weibo, một mạng xã hội của Trung Quốc, với hơn 44 ngàn lượt chia sẻ và 5400 lời bình trên Twitter. Luận điệu này không rõ nguồn gốc và tác giả đã phê phán một cách bỡn cợt nước Mỹ như một quốc gia ngu ngốc, thô sơ và ấu trĩ. Tưởng rằng có thể làm các độc giả Mỹ bị xúc phạm, nhưng chẳng bao lâu sau khi được ra mắt, bài viết đó thực sự đã trở thành một sự phê phán sắc sảo và có tác dụng ngược lại đối với Trung Quốc. Cờ của Trung Quốc và Mỹ trong một cuộc họp ngoại giao ở Bắc Kinh Tờ Tea Leaf Nation đã dịch những phần lý thú và rôm rả nhất (chúng thường có mặt trong đa số các bài luận) và xin mời các độc giả thưởng thức. Đừng đi Mỹ, một quốc gia ngu ngốc và lạc hậu Tôi từng ở Mỹ một thời gian dài và giờ đây thì thấy hối hận vì sự lựa chọn này. Chúng ta đã bị mụ mẫm bởi truyền thông phương Tây luôn luôn làm cho ta nghĩ rằng Hoa Kỳ là một đất nước hiện đại. Nuôi hy vọng học tập khoa học tân kỳ của Mỹ để về phục vụ quê hương, tôi đã bằng mọi nỗ lực để theo đuổi “siêu cường” đó, thế nhưng kết quả lại thật đáng thất vọng! 1. Hoa Kỳ thực ra chỉ là một cái làng nông nghiệp khổng lồ kém phát triển. Ở trường trung học các thầy giáo vẫn dạy rằng công nghiệp càng phát triển thì môi trường lại càng bị xâm hại. Ví dụ như trong một thành phố công nghiệp bạn phải thấy ống khói khắp nơi, các xí nghiệp to khắp nơi và bụi cũng khắp nơi. Đó mới là biểu tượng của công nghiệp hóa! Thế còn Hoa Kỳ thì sao? Đố bạn tìm ra các ống khói, thảng hoặc mới thấy một vài cái nho nhỏ nhưng lại là thứ để trang điểm cho nhà dân. Thay vào đó là những dòng sông và hồ nước sạch khắp nơi nơi và chẳng có các nhà máy giấy và luyện thép nơi bờ sông. Không khí trong lành và sạch là biểu tượng của một xã hội thô sơ và đó không thể là dấu tích của công nghiệp hóa ! 2. Người Mỹ chẳng hiểu gì về kinh tế. Các tuyến đường cao tốc tỏa đi mọi phương, có lẽ là đến mọi làng xóm, tuy nhiên khó tìm ra nổi một trạm thu phí! Thật là một sự phung phí khủng khiếp cơ hội kinh doanh! Khó có thể cưỡng nổi ý định của bản thân là xúc một ít xi măng để xây vài trạm thu phí và chắc chắn là chỉ trong vòng một tháng tôi sẽ có đủ tiền để mua một căn nhà trông ra Đại Tây Dương. Ngoài ra, bên lề đường cao tốc bạn có thể thấy những mặt hồ tĩnh lặng còn hoang dã. Chính quyền để mặc cho lũ chim cư ngụ và vẫy vùng thỏa sức mà không nghĩ tới việc thiết lập vườn cảnh quan trông ra hồ để kiếm bộn tiền. Rõ là người Mỹ không có cái đầu làm kinh tế. 3 Ngành xây dựng Hoa Kỳ quả là quá thô sơ. Ngoài một số lượng nhỏ các thành phố lớn (mà bạn đã biết) thì không có những tòa tháp bê tông và gạch chọc trời… Tôi sợ rằng hình như Mỹ không có các tòa nhà bằng gạch. Hầu hết nhà cửa làm bằng gỗ và vài thứ vật liệu lạ khác. Sử dụng gỗ thô sơ để xây nhà thì dường như những kiến trúc ngoại bang này còn chưa qua thời phong kiến trước khi có nhà Thanh! 4. Lối tư duy của người Mỹ ngây ngô và lạc hậu. Khi mới tới Mỹ tôi thuê một cái xe kéo chở hành lý giá 3 đôla, nhưng lại không có tiền lẻ. Một người Mỹ thấy tôi có nhiều đồ nên đã trả 3 đồng đó và thuê xe cho tôi. Người Mỹ thường cởi mở và hỏi xem tôi có cần giúp đỡ gì không. Ở nước tôi, đã qua thời của Lôi Phong vào những năm 50 và 60 thế kỷ trước cho nên bây giờ thì cái lối cư xử đó quả là quá lạc hậu! (Lôi Phong là thanh niên thời phong trào thi đua cộng sản Mao, người từng được nêu gương sáng về đạo đức hy sinh bản thân). Trở lại thời kỳ đó, con người ta rất đạo đức giả, nhưng bây giờ thì chúng ta không theo lối mòn đó nữa. Chúng ta tiến hành mọi việc giờ đây một cách trần trụi và đó mới là hiện đại hóa! Bởi vậy lối tư duy của Mỹ lạc hậu hơn chúng ta vài thập kỷ và không có dấu hiệu nào cho thấy rằng họ có khả năng đuổi kịp chúng ta. 5. Người Mỹ không biết ăn thịt thú rừng. Có một đêm tôi lái xe đi cùng một bạn học đến thành phố khác và bất thình lình mấy con nai Sika (một giống nai đốm có nguồn gốc từ Nhật Bản – ND) nhảy xổ ra. Anh bạn cùng lớp lập tức phanh gấp và đổi hướng để tránh tai nạn. Hình như là trường hợp kiểu này thường xảy ra khi mà sự va chạm với một con nai cũng đủ để làm vỡ tan chiếc ô tô. Chính phủ Mỹ không biết quản lý chuyện này như thế nào… Và người Mỹ quả thực không biết ăn thịt thú rừng, họ cũng không có cả quán ăn chuyên thịt thú rừng, rất ít khẩu vị đối với thú rừng thơm ngon bị giết thịt như hươu, nai và kém hứng thú bán sừng hươu nai để kiếm những khoản tiền lớn! Người Mỹ sống cùng động vật hoang dã hàng ngày và còn đưa ra những biện pháp để bảo vệ chúng. Đó quả thật là một xã hội sơ khai. 6. Người Mỹ không biết tự trọng. Các giáo sư ở trường đại học Mỹ không có bộ dạng hoành tráng (架子); họ không hề có cái phong thái của những giáo sư đạo mạo. Nghe nói rằng vị giáo sư D… là một giáo sư về tâm lý học nổi tiếng, thế nhưng trong giờ giải lao thì ông ta lại ăn bánh quy trong phòng làm việc với các sinh viên của mình, bàn luận về bộ phim “21” và nữ nghệ sĩ Trung Quốc Trương Tử Di (Ziyi Zhang). Ông ta không hề có cái vẻ đường bệ của một nhà khoa học, cho nên tôi thực sự cảm thấy thất vọng. Ngoài ra, các nghiên cứu sinh sau tiến sĩ chẳng bao giờ đưa học vị “PhD” lên danh thiếp của họ và họ không biết cách thể hiện ra ngoài vị thế của mình. Những người được đào tạo bởi các giáo sư kiểu như vậy sẽ chẳng thể nào biết cách đi đứng, nói năng nếu như họ trở thành những quan chức chính phủ… Có vẻ như các công chức Trung Quốc còn biết cách thu hút sự kính trọng của người dân; ngay cả một vị thủ trưởng một văn phòng không mấy quan trọng ở nước tôi còn tỏ ra đường bệ hơn cả Tổng thống Hoa Kỳ. Không có gì phải ngạc nhiên khi người ta nói công dân hạng nhất ở Trung Quốc chỉ xứng với công dân hạng ba ở Mỹ. 7. Học sinh tiểu học Hoa Kỳ không có những hoài bão cao cả. Ngay từ thuở ban đầu các học sinh tiểu học không hề có ý định để trở thành quan chức…Chẳng hề có lớp học của các Tổng thống, các Bí thư tương lai hoặc các Ủy viên hội đồng mà tôi từng tham dự khi còn nhỏ. Sau giờ học thường là không có bài tập về nhà và bạn không có cách nào ngay cả việc nhắc tới chuyện đó khi liên hệ tới bài tập về nhà của học sinh tiểu học Trung Quốc. Trường học (Mỹ – ND) quan tâm quá nhiều đến dạy dỗ đạo đức cho trẻ em, làm cho những đứa nhỏ hướng tới để trước tiên là trở thành những công dân đủ tư cách thực thụ, sau đó mới là tiếp thu những lý tưởng có ý nghĩa dài lâu. Trở thành người công dân đủ tư cách ư ? Quả là một quan niệm cổ lỗ sĩ. 8. Người Mỹ hay làm ầm ĩ mỗi khi phát hiện ra một bệnh tật nho nhỏ. Đầu tiên là họ hẹn gặp bác sĩ, sau đó bác sĩ kê đơn. Một số người lại còn phải theo lời khuyên của một dược sĩ có bằng cấp nữa. Khi mua thuốc họ lại phải tự mình tới hiệu thuốc để lấy chúng mà mọi việc diễn ra không chóng vánh như ở Trung Quốc… Tôi không hiểu tại sao lại phải tách bạch riêng việc khám bệnh với việc mua thuốc… thay vì tách riêng lợi nhuận khỏi trách nhiệm. Rõ ràng là các bệnh viện Hoa Kỳ không có khái niệm về phương pháp kiếm tiền! Sao không nói cho bệnh nhân tên thuốc luôn đi? …Như thế họ sẽ độc quyền việc bán thuốc và tăng giá thuốc lên 8 hay 10 lần. Có biết bao nhiêu cơ hội kinh doanh tốt mà họ không biết tận dụng. Rõ ràng là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là thứ đã chết rồi. 9. Ý kiến công chúng Mỹ là thứ dở hơi. Nhiều lúc tôi đã mất kiên nhẫn vì sự ngu dốt và xuẩn ngốc của họ. Chẳng hạn như khi họ biết là Trung Quốc có các đài truyền hình và báo chí thì họ đã hỏi tôi một cách ngu dốt rằng: “Trung Quốc cũng có báo chí cơ à?!”. Đó quả thực là một sự sỉ nhục; chúng ta không chỉ có các tờ báo bằng tiếng Trung được Bộ Tuyên truyền cho phát hành một cách tỷ mỉ, kỹ lưỡng; khi nhìn vào các tờ báo của chúng ta cũng chẳng khác gì nghe quốc ca, không hề giống với các tờ báo của Hoa Kỳ chứa một mớ lộn xộn ý kiến quần chúng, thậm chí dám lăng mạ đích danh Tổng thống.. (ở Trung Quốc) chúng tôi không bao giờ đăng tin các vụ sì –căng- đan liên quan tới các lãnh đạo; bởi vì sau đó ai sẽ còn muốn làm lãnh đạo nữa ?… 10. Người Mỹ về phương diện tinh thần là trống rỗng. Điều mà tôi không thể chịu nổi đó là: đa số người Mỹ nói câu cảm tạ trước mỗi bữa ăn và họ nguyện cầu một cách ngây thơ “Chúa phù hộ cho nước Mỹ”. Thật là buồn cười; nếu như Chúa phù hộ cho nước Mỹ thì tại sao nước Mỹ lại bị lạc hậu, thô sơ và đơn giản đến như vậy? Cầu Chúa Trời phỏng có ích lợi gì không? Thực tế hơn là nên dành thời gian cầu nguyện đó mà đi lễ thủ trưởng của bạn! Đó mới là cái cách thời thượng… 11. Người Mỹ không có khái niệm thời gian. Với bất kể thứ gì, họ đều đứng vào hàng để chờ đợi… Người Trung Quốc chúng ta thông minh hơn, các bạn hẳn đã thấy đấy. Không quan trọng đám đông như thế nào,chúng ta vẫn có kỹ năng chen vào đâu đấy, và điều đó giúp cắt giảm khối thời gian mà lại tránh mệt mỏi do phải đứng chồn chân! Nếu ai đó biết cách đi cổng sau thì còn tiết kiệm nhiều thời gian hơn nữa. Những người Mỹ cổ hủ hoàn toàn không biết làm điều này. 12. Cửa hàng ở Mỹ thật vô nghĩa: bạn vẫn có thể trả lại hàng sau khi mua vài tuần mà không có lý do gì. Sao lại có thể trả lại hàng hóa cơ chứ khi mà không cần thuyết phục tôi dù chỉ trong chốc lát?… 13. Nước Mỹ không an toàn, 95% nhà dân quên lắp đặt lưới, cửa ra vào, cửa sổ chống trộm; điều kỳ lạ nữa là tất cả lũ trộm cắp móc túi đi đâu mất tiêu rồi? 14. Người Mỹ vốn nhút nhát và yếu đuối. 95% lái xe đều không dám vượt đèn đỏ… mặc dù 99% người lớn ở Hoa Kỳ đều sở hữu xe ô tô và phương pháp lái xe của họ thì rất lạ: có bao nhiêu là xe trên đường thế nhưng bạn không thể nghe thấy một tiếng còi xe, phố xá thật im lìm tĩnh lặng như thể không phải là phố nữa. Không thấy sự năng động ồn ào của một thành phố thủ phủ cấp tỉnh ở Trung Quốc. 15. Người Mỹ thiếu xúc cảm. 95% nhân viên không nghĩ về việc phải làm gì cho tiệc cưới của cấp trên cho nên họ chẳng bao giờ tìm cớ để quan tâm, chăm sóc lãnh đạo của mình; ở Trung Quốc liệu có chuyện quần chúng bỏ qua cơ hội chăm sóc thủ trưởng của mình không? Nói theo cách khác, ai ở Trung Quốc lại dám làm điều này? Hãy nhìn xem chúng tôi có bao nhiêu là tình cảm. 16. Người Mỹ không nhạy cảm. 99% dân Mỹ đi học rồi kiếm việc làm, thăng tiến và hoạt động mà không biết về sự cần thiết phải đưa “hồng bao” (phong bì chứa đầy tiền mặt) để đi lối sau… 17. Hãy nhìn vào bức hình ở trên, điều này là đủ lý do để chúng ta coi thường nước Mỹ! Trong khi đang săn đuổi Bin Laden thì Obama và các thuộc cấp của ông ta đang chăm chú vào màn hình truyền hình ảnh trực tiếp do vệ tinh đưa về trong phòng Tình huống của Nhà Trắng. Cảm tưởng của tôi là: a. Các thuộc cấp Hoa Kỳ không tôn trọng lãnh đạo của họ một cách đúng mức và thậm chi còn dồn ép vị Tổng thống đáng trân trọng của họ phải nép mình ngồi trong góc nhà. Obama đáng thương, thật không bằng cả anh trưởng thôn của Thiên triều Trung Hoa ( 天朝). b. Căn phòng Tình huống của Nhà trắng đúng là một thứ huênh hoang khoác lác. Nó vừa bé lại không được trang trí nội thất khác thường, đúng là không tương xứng với phong cách của một cường quốc. Một căn phòng cơ quan cấp thị trấn của Thiên triều ( Trung Quốc- ND) có lẽ còn to hơn, sang trọng hơn rất nhiều. c. Không có các đĩa hoa quả hoặc nước giải khát, không có… thuốc lá đắt tiền… và đó mà lại là nền kinh tế số 1 thế giới ư, ha, ha! D.W. Phạm Gia Minh dịch từ Tea Leaf Nation một trang mạng liên kết đối tác của tờ Atlantic. Thăng long – Hà nội 12/09/2012 Link gốc cho các bác đối chiếu http://www.theatlantic.com/internati…merica/261946/ ======================= Bài này hài hước quá!1 like -
duong ly à ! vận năm nay đang ở cung thìn , rơi vào " la - võng " , xấu lắm , chưa thể cưới trong năm nay ! hai người ,nếu không kheo lựa nhau , thì còn có nguy cơ : cãi cọ nhau xẩy ra nữa đó ! khi ấy thì tình cảm sẽ bị sứt mẻ, còn đâu những ngày " tình đẹp như trong mơ " nữa ! với bạn ! liêm - sát , ở sửu cung ! đến năm - mùi - 2015 , còn có thể : gặp hạn , nữa đó ! gần đến đó , hẵng hay ! ... phán liều vài câu ....cho bạn bớt lẻ loi ..! thân chào !1 like
-
nhà chị vẫn sinh như đã đc tư vấn. Hợp bố mẹ đã khó chọn năm rồi, còn hợp ông bà nữa thì ko có.1 like
-
Chào bạn, Xin lưu ý một chút với bạn, từ lá số của chồng bạn báo lên dữ kiện là con cái bị ảnh hưởng về tâm lý, dễ bị các chứng căng thẳng thần kinh trong khi con bạn lại không có gì xấu. Do vậy, ở đây vợ chòng bạn nên có quan niệm đúng đắn, không quá căng thẳng mà có cách can thiệp/dạy dỗ con sai lầm mà đang bình thường lại thành bệnh. Không nên/không cần chuyển trường; cho cháu tham gia các hoạt động vui chơi cùng các bạn: công viên, khu vui chơi thường xuyên; tạo cho cháu một môi trường chơi/tiếp xúc với các bạn nhiều hơn sẽ tốt. Sinh mổ thì vẫn ứng, không có gì mà không ứng cả bạn ạ. Chúc gia đình bạn gặp nhiều may mắn, bình an. Huyencodieuly1 like
-
Hai vợ chồng hợp ý nhau. Kinh tế 2 bạn thuộc loại tốt. Từ lúc cưới nhau cho đến lúc sinh bé đầu mọi chuyện đều suôn sẻ, đặc biệt là công danh sự nghiệp. Sau khi sinh bé út, gia đình bạn sẽ không phát nhanh nữa, mà sẽ giữ nhịp đều đều. Nhìn chung gia đình bạn hạnh phúc và thuộc hạng khá giả. Thân mến.1 like
-
A ,thế à ,cái nầy thì 2 vợ chồng phải mặc cả với nhau chứ ,sao phải lôi ông thầy bói nầy ra mà mặc cả ?thì thôi như vầy bảo vợ cứ nhận việc đi hứa thì hứa ,nhưng đừng đưa tay lên thề ,nếu người ta bảo bắt thề thì sau khi thề xong quay mặt ra sau nhỗ 1 bãi nước bọt ! tức là mình có thể không công nhận lời thề đó !!! đến khi vợ có thai thì nghĩ chứ họ đâu có quyền bắt người ta phải làm khi đang mang ? Uừ năm tới thật tốt ,tài lộc dồi dào ,công việc như ý ,nếu có trúng mánh to nhớ tới ông thầy bói nầy mà mua cho 1 ly cafe đá .1 like
-
Đồng ý với thichduthu về sự tiến hóa của vật chất. Nhưng khai niệm "ma" lại là một vấn đề được đặt ra ngay trong giai đoạn hình thành sự tồn tại của sinh vật sống có ý thức, cụ thể là con người - tức là một giai đoạn của sự tiến hóa. Công nhận quá trình tiến hóa của vật chất như TDT nói, không có nghĩa là phủ nhận khái niệm "ma". Hay nói cách khác là chưa đủ cơ sở để phủ nhân khaúi niệm "ma" đã tồn tại từ thời cổ sử. Trong Dịch có đoạn viết :" Hồn thoát ra ngoài, hoàn tất sự biến hóa" - tức là nói đến một dạng tồn tại sau khi chết - "hồn". Ở đây tôi muốn nói đến từ "Ma', không hẳn xuất phát từ khái niệm của Phật giáo. Các nền văn hóa cổ xưa khác đều có nói đến một khái niệm tương tự như "ma', khi họ chưa hề tiếp xúc với Phật giáo. Ngay trong Kinh Dịch - như tôi đã dẫn ở trên - cũng nói đến một dạng tồin tại sau khi chết, gọi là "hồn".Có lẽ chúng ta nên bàn về một đề tài rộng hơn: "Sau khi chết, thể xác tiêu tan, thì còn những thực tế nào sẽ tồn tại liên quan đến con người sống trước đó?". Phật gọi trạng thái này là "a lại gia thức". Tôi được một vị đại đức giải thích: A lại gia thức là kết tinh những nghiệp mà người sống tạo ra; không nhất thiết nó giống hệt người sống về ngoại hình như chúng ta tưởng tượng một cách phổ biến về "ma".Nhưng giới ngoại cảm thì miêu tả 'ma" hiện hình y như người còn sống. Tôi thì cho rằng - nếu quả thật có ma như giới ngoại cảm miêu tả - thì tôi cho rằng - giả thiết "a lại gia thức" đúng - thì đó là một sự tương tác với ý thức của nhà ngoại cảm, khiến cho họ cảm nhận được những đặc tính của dạng tồn tại gọi là "a lại gia thức" đó. Vần đề là người ta quan niệm nó như thế nào. Hiện tượng là khách quan, cách giải thích sẽ quyết định tính khoa học hay mê tín dị đoan. Thế giới này người ta có thể giải thích với những nhận thức trực quan - qua những giác quan, hay qua những phương tiên khoa học, kỹ thuật hỗ trợ các giác quan; hoặc giải thích nó bằng một hệ thống lý luận của một lý thuyết. Nếu quả là có lý thuyết đó thì chính là thuyết ADNH, tất nhiên là nhân danh nền văn hiến Việt.1 like
-
Dịch võ đạo: Năm 1970, báo Võ Thuật tại Sài Gòn có đăng một bài giới thiệu môn võ mớI do VS Liên Văn Răng sáng lập: DỊCH VÕ ĐẠO. Từ năm 1971, môn võ này đổi tiên lại là Âm dương võ phái vì tên Dịch võ đạo trùng với tên môn võ của VS Hùng Long. Theo lời của Võ sư Liên Văn Răng, ông đã "hoát nhiên đại ngộ" nguyên lý phản ứng tự nhiên của con ngườI dựa trên nguyên tắc “tùy cơ ứng biến” chứ không dùng một đòn khắc chế. Cảm thông được nguyên lý trên, anh tiếp tục nghiện cứu mọI khái niệm cốt tủy của Kinh Dịch để : “… thấu hiểu nghĩa tinh vi, vào đến chỗ thần diệu mà sử dụng đến cùng…” như Hệ Từ Thượng nói. Và anh bắt đầu áp dụng Lý Dịch vào võ thuật, nói chung, vào động tác của cơ thể. Tất cả các đòn thế của Âm Dương võ phái, những bài thảo và những binh khí cổ điển đều tuân theo nguyên tắc căn bản: “Âm Dương, Cương Nhu, Thực Hư”. Tất cả các thức thế, từ thức căn bản đến chính thế, kỳ thế, biến thế, hộ thế đều được đặt cho danh từ kỹ thuật theo sự biến động của mọi sự mọi vật, các danh nhân lịch sử cùng những địa danh trong nước và danh từ Dịch Lý. Chẳng hạn, trong bài “Tứ Linh Quyền” có những thế được nghiên cứu trong Bát quái thuần càn như: Tiềm Long vật dụng, Hiển Long tại điền, Long dược tại uyên, Phi long tại thiên, Kháng Long hữu hốI, Quần Long vô thủ. Đặc biệt, bài "Hồng Bàng Việt pháp" (Việt: Búa) lấy từ những thế rút ra từ quẻ Tiệm như: Hồng tiệm vu can, Hồng tiệm vu bàn, Hồng tiệm vu lục, Hồng tiệm vu mộc, Hồng tiệm vu lăng, Hồng tiệm vu quì.1 like
-
2. Ngũ hành: Đây chính là 5 thế tay (thủ pháp căn bản) Xả (Thuỷ), Đâm (Kim), Lòn (Thổ), Kiền (Mộc), Bứt (Hoả). Nếu các môn võ Trung Quốc nổi tiếng với các môn nội công thì đây chính là môn luyện gân truyền thống của võ thuật Việt Nam. Có thơ rằng: Ngũ hành, phải tập cho ròng Ngọn kim, hỏa nằm lòng mới thôi. hay là Ngũ hành luyện tập ngày ngày Đem vào thảo bộ mới hay diệu kì ... 3. Bát Quái: Đây là 8 thế tấn (luyện chân) căn bản của Võ ta. Bao gồm Long tấn, Xà tấn, Kim kê tấn, Hồi phụng tấn, Hồng Hổ tấn, Bạch Hạc tấn, Hắc Hầu tấn, Lạc Nhạn tấn và Trung bình tấn ứng với 8 phương vị Bát Quái. Ngoài ra còn có 8 bài quyền để luyện tấn bao gồm: Hồng Hổ quyền, Hắc hầu Quyền, Phụng Hoàng Quyền... Khi phát triển vào phía Nam, 8 bài quyền trên chỉ còn giản lược lại một bài quyền duy nhất là "Bát Quái Chân Quyền" (tác giả là cố võ sư Trương Thanh Đăng). Điểm đặc biệt của bài quyền này khác với các bài quyền khác của võ thuật truyền thống là chiếm rất ít diện tích nên rất phù hợp cho luyện tập trong điều kiện chật hẹp. Và võ sinh phải tập cả năm ròng trước khi chuyển sang các phần khác. Cũng tên Bát Quái có bài "Bát Quái Siêu". Như bài Âm Dương Quyền, Đây cũng là một bài bản bắt buộc cho thi cử nhân võ ngày xưa. Siêu là một loại binh khí giống như Đại Đao của Tàu nhưng có một số điểm khác biệt. Ngày nay, bài này đã được liên đoàn võ cổ truyền đưa vào nội dung bắt buộc trong thi đấu với tên là "Siêu Xung Thiên". http://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu_xung_thi%C3%AAn1 like