• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Leaderboard


Popular Content

Showing most liked content on 04/09/2012 in all areas

  1. Thưa các bạn, Là thành viên mới của diễn đàn, tôi xin phép ADMIN mở topic này với hy vọng có thể giúp các thành viên khác có được những thông tin để tham khảo từ lá số tử vi của mình . Những thành viên tham gia topic này xin vui lòng đưa ra các thông tin ngắn gọn, đầy đủ, chính xác và các câu hỏi cũng nên gắn gọn, rõ ràng. Với những kiến thức có được, tôi sẽ cố gắng giải đáp cho các thành viên. Xin cảm ơn ADMIN và sự hưởng ứng tham gia của các thành viên. Xin chúc cho diễn đàn ngày càng phát trỉển mạnh mẽ. Ngày càng nhiều người biết đến trang web để giao lưu và học hỏi.
    5 likes
  2. Thấy ông Lehongvu nói ý kiến của ông sau khi đọc sách của Chú Thiên Sứ thì tôi thấy ông rất quan tâm tới chuyện đổi chỗ Tốn - Khôn này và ông sợ rằng Phong Thủy Lạc Việt của Chú Thiên Sứ sai. Vậy ông có chứng minh được phong thủy Tàu đúng chưa, đúng ở chỗ nào, tại sao lại như vậy? Nếu ông chưa hiểu được bản chất vấn đề thì đừng vội áp đặt ý chủ quan của ông là Chú Thiên Sứ sai như vậy rồi khuyên Chú Thiên Sứ đừng làm nữa. Trong khi thực tế Chú Thiên Sứ đã làm rất nhiều ca phong thủy cho những người có mệnh Tốn – Khốn và Đoài – Ly có kết quả rất tốt. Theo như tôi được biết Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thạch - người viết cuốn Thái Cực Hoa Giáp - được Viện Hàn lâm khoa học Dupna Nga tặng danh hiệu là một Kỳ nhân của Việt Nam khi nghiên cứu. Ông Nguyễn Ngọc Thạch mới chỉ nghiên cứu một mảng đơn giản trong lý thuyết của Chú Thiên Sứ là Lạc Thư Hoa Giáp. Ông thấy hợp lý và thừa nhận đúng. Nhưng ông Nguyễn Ngọc Thạch cũng không thể xác định được sách Tàu sai ở đâu và ông ứng dụng cả hai trong cuốn sách của Ông. Trong khi đó nếu Lạc Thư Hoa Giáp đúng thì Lục Thập Hoa Giáp của Tàu phải sai. Không thể nào trên thế gian này có 2 ông lehongvu thật cả mà chỉ có 1 ông thật và 1 ông giả. Đây là một hệ thống lý thuyết chứ không phải chuyện của mấy bà buôn dưa lê ngoài chợ để mà suy ra người mạng Hỏa thì không được tắm. Cho nên Chú Thiên Sứ nói rất đúng ông lehongvu nên nghiên cứu kỹ sách của Chú đi sau đó hãy bàn luận.
    3 likes
  3. Khi tôi mới trình bày luận điểm của mình lần đầu tiên trên tuvilyso.com thì đã tranh luận và va chạm với rất nhiều người có tìm hiểu về lý học ở đây. Từ 2003 đến 2006 với nhiều cuộc tranh luận kéo dài. Cũng chưa ai có đủ khả năng phản bác một cách xác đáng những luận cứ của tôi. Sang đến Việt Lý số cũng vậy. Thời gian đầu tôi có thể thông cảm và sẵn sàng chia sẻ trả lời phản biện từng người một. Người đầu tiên nhận thấy tính chân lý trong hệ thống luận điểm của tôi chính là giáo sư tiến sĩ Trần Quang Vũ - trưởng khoa Vật lý thiên văn ở Đại học tông hợp Áo. Ông định tổ chức một cuộc hội thảo tại Hoa Kỳ cho tôi trình bày luận điểm của mình. Nhưng rất tiếc, ý tưởng chưa được thực hiện thì ông bị bệnh tim và mất. Người thứ hai trong một cuộc trao đổi công khai chính là giáo sư viện sĩ Đào Vọng Đức - có bài trên diễn đàn - cũng thừa nhận những điểm tương đồng của Lý học Việt với những tri thức khoa học hiện đại. Tôi - theo đề nghi của TWH DNA - đã tổ chức một cuộc hội thảo phong thủy với nhiều học giả có uy tín , trong đó tôi chứng minh Phong thủy là một bộ môn khoa học - Tất nhiên là Phong Thủy Lạc Việt. Tiếp sau hội thảo đó là những trả lời phản biện công khai của những nhà khoa học trong nước và cả nước ngoài không tham gia hội thảo. Tôi nghĩ như thế là quá đủ để cho những người có tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc cần tìm hiểu và tiếp tục phát triển hệ thống Lý học Việt nhân danh một lý thuyết thống nhất vũ trụ và nền văn hiến Việt.. Nhưng rất tiếc! Vì những nguyên nhân rất phi khoa học và phi chính danh, cho đến nay, người ta đã làm tôi không có cơ sở để tin được rằng chân lý và tinh thần khoa học thật sự sẽ là điều kiện tốt nhất để phát huy những giá trị của nó. Đó là lý do mà tôi chỉ chấp nhận tranh luận công khai có tính quyết định. Tôi đâu có thời gian để trả lời cho từng người một như thế này. Trong lúc này, với tôi, những câu hỏi loại này chỉ là sự tiếp tục tính phi khoa học trên thực tế. Còn nếu họ chính danh, rõ ràng với tinh thần học thuật thì hãy tổ chức một cuộc hội thảo công khai, rõ ràng. Lúc ấy tôi sẽ tham gia. Nhưng tôi cũng chỉ tham gia trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng.
    3 likes
  4. Chơi ô ăn quan “Chơi ô ăn quan”, tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh (nguồn: internet) Ô ăn quan, hay còn gọi tắt là ăn quan là một trò chơi dân gian của trẻ em người Kinh, Việt Nam mà chủ yếu là các bé gái. Đây là trò chơi có tính chất chiến thuật thường dành cho hai người chơi và có thể sử dụng các vật liệu đa dạng, dễ kiếm để chuẩn bị cho trò chơi. Hiện chưa rõ nguồn gốc cũng như thời điểm bắt đầu nhưng chắc chắn rằng Ô ăn quan đã có ở Việt Nam từ rất lâu đời. Những câu truyện lưu truyền về Mạc Hiển Tích (chưa rõ năm sinh, năm mất), đỗ Trạng nguyên năm 1086 nói rằng ông đã có một tác phẩm bàn về các phép tính trong trò chơi Ô ăn quan và đề cập đến số ẩn (số âm) của ô trống xuất hiện trong khi chơi. Ô ăn quan đã từng phổ biến ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt nam nhưng những năm gần đây chỉ còn được rất ít trẻ em chơi. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có trưng bày, giới thiệu và hướng dẫn trò chơi này. Cách chơi : Chuẩn bị Bàn chơi: bàn chơi Ô ăn quan kẻ trên một mặt bằng tương đối phẳng có kích thước linh hoạt miễn là có thể chia ra đủ số ô cần thiết để chứa quân đồng thời không quá lớn để thuận tiện cho việc di chuyển quân, vì thế có thể được tạo ra trên nền đất, vỉa hè, trên miếng gỗ phẳng.... Bàn chơi được kẻ thành một hình chữ nhật rồi chia hình chữ nhật đó thành mười ô vuông, mỗi bên có năm ô đối xứng nhau. Ở hai cạnh ngắn hơn của hình chữ nhật, kẻ hai ô hình bán nguyệt hoặc hình vòng cung hướng ra phía ngoài. Các ô hình vuông gọi là ô dân còn hai ô hình bán nguyệt hoặc vòng cung gọi là ô quan. Quân chơi: gồm hai loại quan và dân, được làm hoặc thu thập từ nhiều chất liệu có hình thể ổn định, kích thước vừa phải để người chơi có thể cầm, nắm nhiều quân bằng một bàn tay khi chơi và trọng lượng hợp lý để khỏi bị ảnh hưởng của gió. Quan có kích thước lớn hơn dân đáng kể cho dễ phân biệt với nhau. Quân chơi có thể là những viên sỏi, gạch, đá, hạt của một số loại quả... hoặc được sản xuất công nghiệp từ vật liệu cứng mà phổ biến là nhựa. Số lượng quanluôn là 2 còn dân có số lượng tùy theo luật chơi nhưng phổ biến nhất là 50. Bố trí quân chơi: quan được đặt trong hai ô hình bán nguyệt hoặc cánh cung, mỗi ô một quân,dân được bố trí vào các ô vuông với số quân đều nhau, mỗi ô 5 dân. Trường hợp không muốn hoặc không thể tìm kiếm được quan phù hợp thì có thể thay quan bằng cách đặt số lượng dânquy đổi vào ô quan. Người chơi: thường gồm hai người chơi, mỗi người ngồi ở phía ngoài cạnh dài hơn của hình chữ nhật và những ô vuông bên nào thuộc quyền kiểm soát của người chơi ngồi bên đó. Luật chơi Mục tiêu cần đạt được để giành chiến thắng: người thắng cuộc trong trò chơi này là người mà khi cuộc chơi kết thúc có tổng số dân quy đổi nhiều hơn. Tùy theo luật chơi từng địa phương hoặc thỏa thuận giữa hai người chơi nhưng phổ biến là 1 quan được quy đổi bằng 10 dânhoặc 5 dân. Di chuyển quân: từng người chơi khi đến lượt của mình sẽ di chuyển dân theo phương án để có thể ăn được càng nhiềudân và quan hơn đối phương càng tốt. Người thực hiện lượt đi đầu tiên thường được xác định bằng cách oẳn tù tì hay thỏa thuận. Khi đến lượt, người chơi sẽ dùng tất cả số quân trong một ô có quân bất kỳ do người đó chọn trong số 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của mình để lần lượt rải vào các ô, mỗi ô 1 quân, bắt đầu từ ô gần nhất và có thể rải ngược hay xuôi chiều kim đồng hồ tùy ý. Khi rải hết quân cuối cùng, tùy tình huống mà người chơi sẽ phải xử lý tiếp như sau: Nếu liền sau đó là một ô vuông có chứa quân thì tiếp tục dùng tất cả số quân đó để rải tiếp theo chiều đã chọn. • Nếu liền sau đó là một ô trống (không phân biệt ô quan hay ô dân) rồi đến một ô có chứa quân thì người chơi sẽ đượcăn tất cả số quân trong ô đó. Số quân bịăn sẽ được loại ra khỏi bàn chơi để người chơi tính điểm khi kết thúc. Nếu liền sau ô có quân đã bị ăn lại là một ô trống rồi đến một ô có quân nữa thì người chơi có quyền ăn tiếp cả quân ở ô này... Do đó trong cuộc chơi có thể có phương án rải quân làm cho người chơi ăn hết toàn bộ số quân trên bàn chơi chỉ trong một lượt đi của mình. Trường hợp liền sau ô đã bị ăn lại là một ô vuông chứa quân thì người chơi lại tiếp tục được dùng số quân đó để rải. Một ô có nhiều dân thường được trẻ em gọi là ônhà giàu, rất nhiều dân thì gọi là giàu sụ. Người chơi có thể bằng kinh nghiệm hoặc tính toán phương án nhằm nuôi ônhà giàu rồi mới ăn để được nhiều điểm và có cảm giác thích thú. Bé mẫu giáo chơi ô ăn quan Nếu liền sau đó là ô quan có chứa quân hoặc 2 ô trống trở lên thì người chơi bị mất lượt và quyền đi tiếp thuộc về đối phương. • Trường hợp đến lượt đi nhưng cả 5 ô vuông thuộc quyền kiểm soát của người chơi đều không có dân thì người đó sẽ phải dùng 5 dân đã ăn được của mình để đặt vào mỗi ô 1 dân để có thể thực hiện việc di chuyển quân. Nếu người chơi không đủ 5 dân thì phải vay của đối phương và trả lại khi tính điểm. Cuộc chơi sẽ kết thúc khi toàn bộ dân và quan ở hai ô quan đã bị ăn hết. Trường hợp hai ô quanđã bị ăn hết nhưng vẫn còn dân thì quân trong những hình vuông phía bên nào coi như thuộc về người chơi bên ấy; tình huống này được gọi là hết quan, tàn dân, thu quân, kéo về hay hết quan, tàn dân, thu quân, bán ruộng. Ô quan có ít dân (có số dân nhỏ hơn 5 phổ biến được coi là ít) gọi là quan non và để cuộc chơi không bị kết thúc sớm cho tăng phần thú vị, luật chơi có thể quy định không được ăn quan non, nếu rơi vào tình huống đó sẽ bị mất lượt. Đồng dao Trong cách chơi truyền thống có sử dụng một số bài đồng dao, dưới đây là một bài trong số đó: Hàng trầu hàng cau Là hàng con gái Hàng bánh hàng trái Là hàng bà già Hàng hương hàng hoa Là hàng cúng Phật. Biến thể Trò chơi có một số biến thể sau: • Số dân ở mỗi ô vuông là 10 và/hoặc ở ô quan ngoài quan còn có thêm 20 hay 30 dân. • Khi quân cuối cùng đã được rải xuống, nếu ô liền sau đó là ô quan thì người chơi cũng mất lượt ngay dù ô đó có chứa quân hay không. • Khi đến lượt đi người chơi có thể tính toán phương án đi của mình trong một khoảng thời gian hợp lý hoặc phải đi ngay mà không được phép tính toán. Ô ăn quan cho nhiều hơn hai người chơi Ô ăn quan cũng có thể được chơi với 3 hoặc 4 người chơi trong đó cách di chuyển quân, thể thức tính điểm cũng giống như khi chơi hai người nhưng bàn chơi được thiết kế khác đi cho phù hợp • Bàn chơi cho 3 người: có hình tam giác đều với 3 ô quan ở 3 đỉnh của tam giác, ở mỗi cạnh kẻ 5 ô vuông để làm ô dân. Người chơi ngồi ở phía cạnh tam giác có các ô dân thuộc quyền kiểm soát của mình. Bàn chơi cho 4 người: có hình vuông với 4 ô quan ở 4 góc vuông, các ô dân hình vuông kẻ ở 4 cạnh, mỗi cạnh 5 ô. Người chơi ngồi ở phía cạnh hình vuông có những ô dân thuộc quyền kiểm soát của mình. Ô ăn quan trong văn học, nghệ thuật Ô ăn quan thú vị, dễ chơi đã từng là trò chơi hàng ngày của trẻ em Việt Nam. Chỉ với một khoảng sân nho nhỏ và những viên sỏi, gạch, đá là các em nhỏ đã có thể vui chơi. Có thể thấy dấu ấn của Ô ăn quan trong đời sống và văn học, nghệ thuật: Thành ngữ: Một đập ăn quan - hàm ý chỉ những hành động đơn giản nhưng tức thì đạt kết quả to lớn. Trích bài thơ "Chơi Ô ăn quan" của Lữ Huy Nguyên: Bên rìa hầm trú ẩn Em chơi ô ăn quan Sỏi màu đua nhau chạy Trên vòng ô con con. Sỏi nằm là giặc Mỹ Sỏi tiến là quân mình Đã hẹn cùng nhau thế... Tán bàng nghiêng bóng xanh... Trích bài thơ "Thời gian trắng" của Xuân Quỳnh: Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát Những đầu trần, chân đất, tóc râu ngô Quá khứ em đâu chỉ ngày xưa Mà ngay cả hôm nay thành quá khứ... Họa sỹ Nguyễn Phan Chánh có bức tranh lụa nổi tiếng Chơi Ô ăn quan (1931).
    2 likes
  5. Người cuối cùng nắm bí quyết “chiếc bàn ma thuật” 04/09/2012 3:35 Ông là người cuối cùng của làng mộc Văn Hà nức tiếng một thời (xã Tam Thành, H.Phú Ninh, Quảng Nam) nắm giữ bí quyết chế tác những chiếc bàn tự xoay. Chúng tôi gọi đó là “chiếc bàn ma thuật” bởi chỉ cần áp nhẹ bàn tay lên mặt bàn, trong một thời gian ngắn, mặt chiếc bàn tự chuyển động tròn đều với tốc độ tăng dần một cách kỳ bí. Câu chuyện về chiếc bàn này có nhiều “dị bản”, tuy nhiên chỉ ông - người làm ra nó - kể mới thực sự chính xác. Chiếc bàn tự hành Tên khai sinh là Đinh Thạch nhưng người dân địa phương thường gọi ông là Thẩm, một lão thợ mộc giàu kinh nghiệm, thầy của không biết bao thế hệ thợ mộc thành danh. Ông năm nay đã 93 tuổi nhưng tay đục, tay cưa vẫn rắn rỏi. Nói về “chiếc bàn ma thuật”, ông bỗng hào hứng bởi khi lùi về quá khứ, ông được gặp lại mình của thời trai trẻ. Thời mà tự tay mình, ông có thể làm ra những bàn có mặt tự thân nó có thể quay được mà đến nay khoa học vẫn chưa có sự giải thích nào thỏa đáng. Chiếc bàn tự xoay khởi nguyên tại làng mộc Văn Hà. Và chỉ có người Văn Hà mới biết cách làm nên những chiếc bàn đó. Nhưng trải qua nhiều biến cố của lịch sử, đến thời điểm những năm 30 thế kỷ trước, người Văn Hà cũng không còn nhớ cách làm chiếc bàn này. Năm đó ông Thẩm hơn 20 tuổi, đã có 3 năm tuổi nghề. Bàn tay ông khéo léo đến mức chạm trổ hình thù thế nào trên gỗ cũng y như thật. Thế nên ông được cha và các bác cho đi theo dựng nhà gỗ cho người ta tại H.Tiên Phước (Quảng Nam). Như một sự tình cờ thiên định, ông được một ông lão cho xem chiếc bàn này. “Hồi đó, tôi được nhiều người kể về chiếc bàn tự xoay nhưng tìm mãi khắp làng cũng không thấy. Nhiều người bảo những chiếc bàn tại H.Tiên Phước là do thợ mộc làng tôi làm ra nhưng hỏi cách làm thì không ai biết. Mãi đến khi tôi được một cụ ông cho xem, tôi mới hình dung được cách làm như thế nào. Làm được bàn và để bàn tự xoay phải có một bí quyết”, ông Thẩm nói. Mày mò tự làm với tâm niệm, ngôi làng nơi khai sinh chiếc bàn thì ít ra cũng có một cái để “nói chuyện với con cháu”, ông Thẩm ngày đêm nghiên cứu. Rã từng chi tiết để nắm nguyên lý, cuối cùng ông đã làm nên chiếc bàn có mặt tròn y như cái ông đã nhìn thấy. Nhưng bàn vẫn không thể tự xoay, bởi theo ông Thẩm dù chiếc bàn đã được hoàn thiện, nhưng cái cốt lõi là khung giá đỡ không phải là gỗ mít. Ông Thẩm phải tháo ra đóng lại thì chiếc bàn mới có thể tự quay. “Bí quyết rồi một ngày tôi sẽ tiết lộ. Còn vật liệu để làm nên chiếc bàn này tiên quyết phải là lõi gỗ mít. Lõi gỗ phải già, trên 40 năm càng tốt hoặc gỗ mít chưa già lắm nhưng lại cũ, để lâu. Nguyên cả bàn là gỗ mít hoặc lẫn lộn các loại gỗ khác nhau đều được, tuy nhiên để bàn xoay, mặt bàn, gọng đỡ, giá đỡ phải là gỗ mít”, ông Thẩm cho biết. Theo ông Thẩm, “chiếc bàn ma thuật” được người làng Văn Hà làm ra với mục đích để đựng đồ cúng bái. Trong các dịp giỗ tổ tiên hay lễ tết, người làng ông thường dùng chiếc bàn này để đựng lễ vật biểu thị sự trang nghiêm và tôn kính. Để thuận tiện cho việc bài trí các món ăn, người ta thiết kế mặt bàn gắn chân đế thông qua một trục cố định. Khi cúng, người ta có thể dùng tay xoay tròn mặt bàn. Nhưng rồi nhiều lần dùng bàn để cúng bái, người ta đã vô tình phát hiện tính năng tự xoay hết sức đặc biệt.Từ phát hiện tình cờ Hiện tại làng Văn Hà chỉ còn một chiếc bàn tại nhà anh Trần Ngọc Tuấn (39 tuổi). Đã nhiều người đến xem chiếc bàn tự xoay và ngỏ ý mua nhưng anh quyết không bán. Anh Tuấn cho biết: “Chiếc bàn có cấu trúc 3 phần. Trong đó, phần chân đế là gỗ mun có đầu gọt hình trụ tròn để tạo thành khớp nối với mặt bàn. Giữa khớp nối này, người ta còn thiết kế một khung tạo thành khối hình chữ nhật, gồm 8 trụ nhỏ bằng gỗ mun”. Theo ông Thẩm, khi chế tác phải tuân theo nguyên mẫu với kích thước định sẵn. Tổng chiều cao của bàn là 80 cm, trong đó, khung khối hình chữ nhật gắn liền mặt bàn với chân đế cao khoảng 20 cm. Quan trọng nhất là mặt bàn phải rộng 65 cm và nhất thiết đúng với quy định này. Để “khởi động” vòng xoay của bàn, người sử dụng cần phải đi chân trần tiếp xúc trực tiếp với mặt đất. Tùy vào số người đặt tay lên mặt bàn mà thời gian để mặt bàn chuyển động có thể nhanh hay chậm. Vậy nên, hôm chúng tôi đến, vợ anh Tuấn là chị Nguyễn Thị Thôi (35 tuổi) đã nhờ thêm 3 đứa cháu trai đến cùng đặt tay vào mặt bàn để bàn tự quay nhanh hơn. Sắp xếp mọi thứ, ba người cùng úp tay vào mặt bàn. Quả nhiên, sau khoảng ba phút, phía dưới mặt bàn bắt đầu phát tiếng kêu rắc rắc, rồi dần xoay theo chiều kim đồng hồ. Điều khiến những người chứng kiến kinh ngạc là mặc dù chiếc bàn đã rất cũ và giữa khớp nối này khá chắc, có vẻ như đã lâu chưa được xoay nhưng khi úp hờ bàn tay thì mặt bàn lại tự chuyển động. Khi rút bàn tay ra, mặt bàn dừng lại đột ngột. Tiếp tục theo sự hướng dẫn của ông Thẩm, chúng tôi đặt ngửa bàn tay lên mặt bàn. Và cũng chỉ sau ba phút, mặt bàn lại tự xoay, lần này theo chiều ngược kim đồng hồ. Hỏi về nguyên tắc tự xoay của chiếc bàn, ông Thẩm thật bụng: “Tôi cho rằng, chiếc bàn hoạt động theo nguyên tắc cấu khí âm - dương nào đó rất đặc biệt. Tôi có bí quyết để làm chiếc bàn nhưng để giải thích tại sao mặt bàn tự xoay thì tôi chưa làm được”. Ông Thẩm năm nay tuổi cũng đã cao và chỉ còn ông nắm giữ bí quyết làm chiếc bàn này. Tuy nhiên, chị Thôi (vợ anh Tuấn) tâm sự, ông sẽ truyền lại bí mật này cho chồng chị. Hoàng Sơn BẠN ĐỌC PHẢN HỒI Nguyễn Đình SơnCó lần tôi lên Lâm Đồng và cũng gặp 2 chiếc bàn trong một ngôi chùa nào đó không nhớ rõ, nhưng 2 chiếc bàn này quay không phải giống như bài viết, mà là theo sự điều khiển của lý trí con người, tức là lúc đặt sấp bàn tay lên mặt bàn, khi muốn quay theo chiều kim đồng hồ thì ta chỉ cần nghĩ quay phải còn khi muốn quay ngược chiều kim đồng hồ thì ta suy nghĩ là quay trái (không giống đặt sấp tay và ngửa tay như bài viết) là mặt bàn sẽ quay.hotewaBàn này ở Đà Lạt có 2-3 cái thì phải, mình đã thử rồi, bàn còn có thể xoay theo suy nghĩ nữa, nếu áp tay vào bàn và nghĩ "bên trái" thì bàn sẽ xoay trái, nếu nghĩ bên phải thì bàn sẽ "xoay phải". Lúc đầu thì mình không tin cứ tưởng người thử chung xoay nhưng khi một mình làm thử thì thật sự kinh ngạc. Cha ông ta giỏi thật.
    2 likes
  6. THẦN CHÚ GIẢI THOÁT QUA SỰ NHÌN NGẮM Vì lòng đại bi thương xót chúng sanh, Chư Phật và Bồ Tát đã tạo ra những phương tiện thật thiện xảo để cứu vớt chúng sinh. Xin giới thiệu một phương pháp thanh tịnh nghiệp chướng thông qua sự thấy cho những người hữu duyên. Trong Kinh Thác Nước Mạnh Mẽ (Forceful Waterfall Sutra) có chép: Chỉ cần nhìn thấy câu chú này một lần có thể thanh tịnh nghiệp chướng của ba trăm triệu kiếp trong quá khứ. Xin giới thiệu “Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy” (Liberation Upon Seeing). Giải Thoát Thông Qua Sự Thấy là một terma (kho tàng giáo pháp do đức Liên Hoa Sanh và Yeshe Tsogyal ẩn dấu, sẽ được phát hiện tại thời điểm thích hợp bởi một bậc thầy giác ngộ) viết bằng ngôn ngữ của những Không Hành Nam (Dakas) và Không Hành Nữ (Dakinis). Terma này được phát hiện bởi Terton Mingyur Dorje ở thế kỷ 17. Terton Mingyur Dorje (1645-1667) được xem là vị guru thứ 27, dòng Giác Ngộ Hoàn Hảo (Perfect Enlightenment Sect) của trường phái Nyingma. Những người may mắn được thấy hình này sẽ không kinh nghiệm qua ba cõi thấp và sẽ được giải phóng khỏi nỗi sợ rơi vào các cõi thấp; sẽ được thanh lọc năm độc (tham, sân, si, kiêu mạn và đố kị) và giải thoát khỏi nghiệp chướng; được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của phần còn lại trong luân hồi. ( "Those who see this script will not experience the three lower realms and will be liberated from the fear of falling into the lower realms; will be purified of the five poisons and will be freed from the results of one's karma; will be freed from the fear of remaining in samsara.") Trích từ Terma của TERTON Migyur Dorje. ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- "Từ diễn đàn Lý Học Đông Phương và Phatca.com, Bản in (như chữ ký dưới đây) sẽ được tặng cho những ai có lòng tôn kính Thần Chú Giải Thoát với mong muốn hóa giải muôn triệu kiếp nạn của chúng sinh, hội tụ con đường an lạc. Các bạn đăng ký thỉnh nhận kèm tên và địa chỉ chúng tôi sẽ gởi qua đường bưu điện trên khắp mọi miền đất nước! Thay mặt Ban từ thiện Trung Tâm phát Bồ Đề Tâm xin hân hạnh được chuyển giao đến tất cả thành viên tham gia Diễn Đàn."
    1 like
  7. BÊN SUỐI THƠ HỒNG GIẤC MƠ HOA 1 Về đây hồi tuởng giấc mơ hoa Nắng lụa đường xưa quyện gót ngà Mắt biếc khát khao mầu hạ trước Môi hồng héo hắt ánh xuân qua Trăng treo đầu núi dư âm thoảng Sao rụng ngang trời dấu lệ sa Mây xám giăng giăng mờ lối cũ Ðêm ngân dạ khúc khắp thiên hà GIẤC MƠ HOA 2 Đêm ngân dạ khúc khắp thiên hà. Dìu dặt tơ lòng cung bậc xa Nguyệt rạng hồn hoa xưa lộng lẫy Nhật soi phận liễu cũ kiêu sa Cô phòng kẻ ở đầy lưu luyến Lữ thứ người đi có thiết tha Cánh én chưa về xuân mãi đợi Sông thương còn nặng nợ phù sa GIẤC MƠ HOA 3 Sông thương còn nặng nợ phù sa Con nước vơi đầy năm tháng qua. Bao chuyến đò chiều xuôi bến vắng Diều xanh từng cánh khuất bờ xa Giữa rừng mơ đỏ ngùi thân liễu Bên suối thơ hồng tủi phận hoa. Phím mộng tơ trùng muôn điệu vỡ Nghe hồn xuân muộn mãi thăng hoa GIẤC MƠ HOA 4 Nghe hồn xuân muộn mãi thăng hoa Đêm trắng cô liêu bóng nguyệt hòa Rụng cánh xuân thì bên suối mộng Tàn mầm xuân sắc dưới đồi hoa Thiên thu sỏi đá say tình ngọc Hoa cỏ trăm năm lịm giấc ngà Hương phấn phai tàn năm tháng tận Sầu miên vời vợi khúc huyền ca GIẤC MƠ HOA 5 Sầu miên vời vợi khúc huyền ca Phiến lá tình yêu lạc biển hoa Tiềm thức khơi dòng mơ nghiệt ngã Tâm tư chìm nẻo mộng phôi pha Hoa sầu rụng trắng thềm thương hận Cánh biếc rơi vàng lối vị tha Một đoá hồng phai trên đỉnh nhớ Tình như sương khói lạnh cung ngà GIÁC MƠ HOA 6 Tình như sương khói lạnh cung ngà Cổ tích một thời xuân đã qua Tà áo lụa phai vàng cố quận Nụ tầm xuân biếc buốt giang hà Non thề dào dạt ngàn âm cũ Suối mộng êm đềm muôn điệu xưa Hoài niệm ngày xanh đêm nguyệt khuyết Xuân hồng đã lỡ một mùa xa mayngan2
    1 like
  8. Chủ đề này được lập ra để mọi người đưa ra các thắc mắc cũng như trao đổi với nhau về nội dung các bài giảng của khóa học Tứ Trụ sơ cấp và trung cấp. Tôi sẽ cố gắng giải đáp mọi thắc mắc. Thân chào.
    1 like
  9. Kính thưa bác Thiên Sứ, Hôm nay cháu vào topic này http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/26661-viet-su-5000-nam-van-de-bien-dong/page__st__40 . Cháu rất buồn khi nghe tin bác giải tán TT LHDP này. Gần 2 năm trước, khi cháu ra Hà Nội làm việc và được xem Đại Lễ 1000 năm Thăng Long là lúc đó cháu được biết Bác qua báo đài. Rồi khi tìm hiểu thông tin về bác đã cho cháu cơ duyên được biết tới diễn đàn TT LHDP. Thật sự những điều cháu học được diễn đàn mình không được bao nhiu vì cháu biết khả năng của cháu có hạn, nhưng cháu thầm khâm phục con người bác. Một người hết lòng vì đất nước, chiến đấu dai dẳng với cái đám phủ nhận 5000 năm văn hiến Việt tộc. Cháu biết bác làm việc trong điều kiện không thuận lợi, áp lực căng thẳng thì không dễ chút nào nhưng bác ơi! Bác là đầu tàu, bác chỉ đường cho chúng cháu đi theo. Có thể hôm nay kiến thức của chúng cháu không uyên bác, không giúp gì được cho bác nhưng nếu bác tiếp tục duy trì diễn đàn, tiếp truyền dạy kiến thức của bác cho chúng cháu thì cháu tin sẽ có những học trò đủ khả năng cùng bác đi trên con đường chông gai này. Văn chương cháu viết không được tốt lắm, không truyền tải hết ý nghĩa cháu muốn nói. Chỉ có 1 câu mong bác bình tâm lại, tiếp tục duy trì diễn đàn, để thế hệ chúng còn biết lịch sử 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt hào hùng như thế nào. Chúc kính chúc bác luôn luôn khỏe mạnh để tiếp tục công việc gian nan này, P/s: Mọi người có đọc topic của em thì mong mọi người comment kêu gọi bác Thiên Sứ duy trì diễn đàn và tiếp tục sứ mệnh chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Em cảm ơn mọi người
    1 like
  10. anh có thể liên hệ qua trung tâm www.vohoangyen.com hoặc mail info@vohoangyen.com; chắc chắn có reply đàng hoàng. Chúc anh sớm gặp được thầy.
    1 like
  11. Con chào bác Thiên Luân. Mong bác tư vấn dùm vợ chồng con về năm sinh phù hợp cho bé thứ hai ạ. Con: sinh giờ Hợi (21g45) ngày 1 tháng 7 năm Đinh Mão Chồng con: sinh giờ Dậu (18g45) ngày 14 tháng 7 năm Quý Hợi Con trai đầu của con: sinh giờ Mão (6g45) ngày 1 tháng 10 năm Tân Mão Con cảm ơn bác. Kính chúc bác sức khỏe~
    1 like
  12. Chồng: sinh ngày 6 tháng 12 năm 1980 (dương lịch) Vợ: sinh ngày 21 tháng 9 năm 1983 (dương lịch) Con gái đầu lòng sinh ngày 02 tháng 11 năm 2007 (dương lịch). Vì áp lực gia đình thì chị cứ sinh năm nào cũng đc (tránh 2014- quá xấu), rồi sinh con út năm 2018, 2019. Sinh con út năm tốt thì gia đình mới tốt về lâu dài. Còn ko thì ko phát được, gia đạo cũng ko yên.
    1 like
  13. 2012 rất tốt nhưng đã qua rồi, nên nếu sinh con út thì sinh năm 2018, 2019 mới tốt. Nhà chị con gái ngoan, nge mẹ, nhưng bố làm ăn thì ko đc thuận lắm.
    1 like
  14. Cô chẳng biết Vô Thức muốn thỉnh nhận bao nhiêu bản? Nói rõ để Nha Khanh gửi tặng bạn nhé! @ Nha Khanh giúp cô chuyển trao tặng 100 bản ra Đà nẵng chưa ah!
    1 like
  15. Diễn đàn quy định người Việt Nam viết tiếng Việt có dấu chị nhé.
    1 like
  16. 1 like
  17. Đại sứ Nhật Bản công khai tẩy chay hàng Trung Quốc? Thứ hai 03/09/2012 05:50 (GDVN) Giới truyền thông nhà nước ngày 2/9 đưa tin, sáng 1/9 tại công viên Triều Dương - Bắc Kinh, Đại sứ quán Nhật Bản tại Trung Quốc phối hợp với nước chủ nhà tổ chức mít tinh kỷ niệm 40 năm bình thường hóa quan hệ Nhật - Trung. Đại sứ Nhật Bản Uichiro Niwa dẫn đầu đoàn quan chức Đại sứ quán nước này tới tham dự. Một tình huống bất ngờ khó xử xảy ra đối với nước chủ nhà khi Đại sứ Nhật Bản và toàn bộ đoàn tùy tùng không thèm uống nước suối Trung Quốc do phía chủ nhà chuẩn bị mà dùng nước khoáng riêng do nhân viên Đại sứ quán đem theo. Trước đó, tối 27/8 khi đang đi trên đường phố Bắc Kinh, xe chở Đại sứ Uichiro Niwa bị 1 chiếc xe hơi khác kẹp sát buộc phải dừng lại, một người đàn ông Trung Quốc nhảy xuống giật cờ Nhật Bản cắm trên đầu xe Đại sứ. Đại sứ Uichiro Niwa đến dự lễ mít tinh kỷ niệm 40 năm bình thường hóa quan hệ Nhật - Trung trong sự chú ý cao độ của các phóng viên Trung Quốc Nhân viên Đại sứ quán Nhật Bản đón Đại sứ vào khán đài Chuẩn bị lên bục phát biểu Một bài phát biểu mang tính chất ngoại giao, trước đó trả lời phỏng vấn, Đại sứ Uichiro Niwa nhận định, sự hiểu biết lẫn nhau giữa người dân hai nước vẫn còn nhiều khoảng cách Đại sứ Uichiro Niwa cùng toàn bộ đoàn tùy tòng Nhật Bản không dùng nước suối Trung Quốc do ban tổ chức chuẩn bị mà dùng nước khoáng do nhân viên Đại sứ quán mang theo Xem múa lân Các màn biểu diễn nghệ thuật trong buổi mít tinh sáng 1/9 Theo Giaoduc.net.vn ================= Tình hình có vẻ căng thẳng hơn...
    1 like
  18. À! Mà hơn 2000 năm nay chưa thấy ai chứng minh Lý học Tàu có cơ sở khoa học nhỉ? Mà chỉ toàn thấy bị gọi là "mê tín dị đoan" và không có "cơ sở khoa học". Còn Thiên Sứ tôi tuy tài hèn, nhưng cũng tổ chức một cuộc hội thảo "Tính khoa học trong Phong Thủy" Tất nhiên là Phong thủy Lạc Việt. Bởi vậy, các vị nào cứ tưởng mình đúng lớn tiếng phản biện Thiên Sứ thì quý vị hãy tổ chức hội thảo với bất cứ để tài gì liên quan đến Lý học Tàu và chứng minh tính khoa học của nó. Hoặc lên các diễn đàn khác chứng minh tính khoa học của Lý học Tàu. Xin lỗi quí vị nói chung và đừng phiền, nếu tôi ;làm quý vị buồn: Tôi không tin một trong số quý vị lớn tiếng phản biện tôi đủ khả năng làm được viếc này. Nhưng họ vẫn cứ ứng dụng ầm ầm 2000 năm nay. Quái thật. Không biết ông Lê Hồng Vũ có biết một người được coi là đại đại cao thủ phong thủy Tàu là Cao Biền , sau khi làm phoengshui ở Việt Nam về bị vua Đường Ý tông chém không nhỉ? Đúng là ngớ ngẩn. Còn trong lịch sử văn hóa Việt Trung thì người Việt đầu tiên và duy nhất - tính đến ngày hôm nay - sang Tàu làm phong thủy cho chính người Tàu là Thiên Sứ đấy Sau chuyển giao, tôi sẽ nghỉ trên diễn đàn để viết sách - nếu có điều kiện và thời gian. Tôi sẽ chuyển giao luôn cả diễn đàn với một điều kiện duy nhất: Không được cho phép có bất cứ bài nào phản biện Thiên Sứ, xuất hiện ở diễn đàn này (Ngoài trừ những điều kiện của tôi đã công bố trong topic: Việt sử 5000 văn hiến và biển Đông). Nhưng có quyền chứng minh Lý học Tàu đúng.Không phải tôi khó tính gì. mà là tôi không có thời gian trả lời từng cá nhân cứ tưởng mình là bố tướng lên bày đặt phản biện. Nếu quả thực có tài thì viết sách - 1 cuốn thôi - . Xác định Lý học Tàu cứ là từ đúng trở lên và khoa học.
    1 like
  19. Xin cảm ơn ông Lê Hồng Vũ có sự quan tâm đến quan điểm và hệ thống luận cứ của tôi. Hiện nay tôi rất mệt mỏi. thoát vị địa đệm, huyết áp cao, tim đập nhanh....vv...Cho nên tôi cần nghỉ ngơi, một thời gian. Tôi đã công bố rất rõ ràng trên diễn đàn: Tôi chỉ tham gia tranh luận và làm sáng tỏ vấn đề khi đó là cuộc tranh luận cuối cùng và có tính dứt điểm với các nhà chuyên môn và các học giả cao cấp. Hiện nay tôi không có thời gian để trả lời ông, cũng như tất cả những ai nhân danh cá nhân phản biện tôi. Tạm thời tôi khuyên ông nên tự tìm hiểu bằng cách nghiên cứu kỹ và nên cố gắng xem hết những bài viết và các sách của tôi. Một lần nữa cảm ơn sự quan tâm của ông. Chúc ông và gia đình sức khỏe. ================= PS: Tất cả những ai có quan điểm phản biện như ông Lê Hồng Vũ có thể tập hợp những luận điểm phản biện, tự đứng ra tổ chức một cuộc hội thảo, mời các học giả cao cấp có tên tuổi trong và ngoài nước - kể cả Trung Quốc - và mời tôi đến trả lời phản biện. Điều kiện: Truyền hình trực tiếp trong nước và quốc tế. Chi phí cá nhân của tôi, tự tôi sẽ lo. Xin cảm ơn sự quan tâm.
    1 like
  20. Chúc mừng Sư phụ đã cơ bản hoàn thành sứ mạng lãnh đạo Trung tâm hình thành phát triển đến ngày hôm nay! Chúc mừng Ban lãnh đạo mới, chúc các anh sẽ tiếp nối thành công những thành tựu đã đạt được từ sự gây dựng và lãnh đạo của Sư phụ! Được thông báo này của Sư phụ làm con mừng hết biết, con nín thở từ khi đọc được tin trước đây của SP đến nay thở được rồi. Cám ơn Sư phụ, vậy là con tiếp tục được học tập, nghiên cứu dưới sự định hướng của Sư phụ rồi.
    1 like
  21. Chúc mừng Sư phụ Chúc mừng Ban giám đốc mới Chúc Trung tâm ngày càng phát triển
    1 like
  22. Chúc mừng chú Thiên Sứ! Chúc mừng BGĐ mới!
    1 like
  23. Chúc mừng sư phụ Thiên Sứ, chúc mừng TTNC-LHĐP có ban điều hành mới. Kính chúc TTNC-LHĐP, trong tương lai gần nhất, sẽ phát huy hết mọi tiềm năng, nhân tài, vật lực vì mục tiêu 5000 năm Văn Hiến Việt.
    1 like
  24. Anh hãy suy ngẫm cho kỹ đi. Thế giới này có thể có hai vũ trụ trở lên không?
    1 like
  25. Có lẽ rằng điều đó đúng. Nhưng liệu vũ trụ này là duy nhất hay chúng ta còn nhiều vũ trụ khác. Vậy thì tất cả đều chỉ là một năng lượng nhỏ thôi sao.
    1 like
  26. Chị tìm thông tin mãi mà không thấy đâu cả, em cho chị đường link về việc này với. hix, vì sao Trung tâm lại đóng cửa...cha mẹ mà đi mất thì con cái ở lại cũng buồn
    1 like
  27. Cho chị chen ngang hỏi 1 chút, em có biết vì sao diễn đàn lại đóng cửa ko? có phải vì các bác, các anh chị bận việc nên không có thời gian để xem giúp mọi người? Hạn của chị năm nay chưa kiểm chứng được thì đã thành ra thế này ư...buồn...mới tham gia diễn đàn chưa được bao lâu, mà chỉ biết tín nhiệm mỗi diễn đàn mình thôi à, hix...
    1 like
  28. Cũng nên sinh ẤT Mùi thì mới hợp cha và hợp mẹ thôi, theo tiêu chí Lạc Việt Luận Tuổi. Thân mến.
    1 like
  29. Con đầu thì hợp nên nhà khá lên nhiều từ năm 2008, con sau thì ko hợp vì mạng con Hỏa khắc mẹ Kim (theo Lạc Thư Hoa giáp), nhà sẽ khó khăn hơn đấy, con thì khó nuổi, công việc của cha và mẹ đều ảnh hưởng ít nhiều. Nên sinh con năm Ấ Mùi 2015 để hóa giải nhé. Thân mến.
    1 like
  30. Hay đó bác, Em tìm được video về chiếc bàn xoay gửi bác
    1 like
  31. Còn đúng 1g nữa là sang giờ Tý ngày hôm sau. Tôi bắt đầu ngưng sinh hoạt trên diễn đàn này với số ngày trừ đi số người bấm nút cảm ơn. Cho đến lúc này là 16 ngày. Và sẽ giảm dần cho đến khi số ngày nghỉ bằng số người nhấn nút = 30, tiếp theo. Nhưng nếu có dưới 15 người ngoài TTNC LHDP thì tôi sẽ giải tán TT này. Bởi vậy lúc này tôi còn thời gian để trả lời Văn Lang:Diễn đàn này có hàng ngàn người và hàng trăm hội viên vào mỗi ngày. Họ hỏi hàng trăm thứ và những thành viên trên diễn đàn - trong đó có tôi - đã nhiệt tình tư vấn giúp họ. Họ cũng biết mục tiêu của TTNC LHDP là vinh danh Việt sử 5000 năm văn hiến. Vậy mà không có nổi 30 người click nút cảm ơn. Đủ hiểu sự quan tâm của tha nhân như thế nào với cội nguồn dân tộc, thì trách ai được nữa. Bắt đầu ngày mai tôi sẽ ngưng hoạt động cho đến khi con số click nút cảm ơn tăng lên và trùng khớp với số ngày tôi ngưng sinh hoạt. Nếu số người nhấn nút dưới 15 người sau khi trừ đi số thành viên TT, tôi sẽ thay banne diễn đàn và trở thành diễn đàn cá nhân. Sau đó làm công văn xin giải tán TTNC LHDP.
    1 like
  32. Vợ tương lai của cháu có dạng hơi cao dong dỏng người ,nước da trắng ,đẹp gái ,người gọn gàng , sắc mặt tươi tắn , chân mày gọn đẹp , tướng sang quí phái , ăn nói dịu dàng hiền , sóng mũi cao ,mặt không dài ,không tròn ,không vuông ,hình như trái soan , bên trái của mặt hay cạnh gần sóng mũi có nốt ruồi hay tì vết gì đó ,có thể ở cạnh chân mày trái ,mệnh cháu vô chính diệu ,khốc -hư đắc địa phải từ 35t trở về sau mới phát ,được nhật nguyệt chiếu về ,cho nên về hậu vận mới phát phúc hưởng lộc trời , ccong danh sự nghiệp mới phát từ trung vận về sau ,nhưng cũng có lúc tiêu xài quá tay hay có lúc cơ nghiệp tiền của không cánh mà bay lã tã ; không hưởng phúc thọ nhiều ,dòng họ ly tán ,nếu cháu là con trưởng hay dòng trưởng ,nên chú ý đến mộ người ông cụ tổ 4-5 đời đang tọa lạc ở nơi xa nơi hẻo lánh đát có hình như cát trộn lẫn vùng trũng thấp, người ông cụ nầy mà cháu chịu ảnh hưởng và phúc đức của người đó , nên làm phước ở hiền thì mới tăng tuổi thọ ,trong người sau sẽ có bệnh hay u tật kín trong người nhất là về phổi ,hay thận .
    1 like
  33. Do Tín Ngưỡng Địa Tạng không nhận được sự sùng mộ của dân Ấn Độ, nên đã mất dần các dấu tích. _ Sau này, Tín Ngưỡng Địa Tạng theo bước chân những Tăng Đoàn truyền giáo Phật Giáo du nhập vào vùng Trung Á, trạm dừng chân đầu tiên là Turkestan. Từ đây một hình tượng phổ biến của Địa Tạng Bồ Tát là: “Nhà sư cầm cây gậy hành hương với một viên ngọc Như Ý” được phụng thờ như là vị Bồ Tát bảo vệ người lữ hành thoát khỏi mọi hiểm nguy. Hàng ngàn hình tượng Địa Tạng được tôn thờ trong những hang động tại vùng Lung-Men và Tun-Hoang đã minh họa cho Tín Ngưỡng này. _ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) trong đó nêu lên những Đức Tính của Ngài. (*) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Da’sa-cakra-Ksïitigarbha-sùtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo. (*) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống (960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức Dương, Hán Châu trong Đời Lương.
    1 like
  34. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn. Quán Thế Âm Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà phải hóa hiện vô lượng vô số hóa thân để ứng duyên cứu độ. Địa Tạng Bồ Tát cũng vậy vì duyên trần cảnh khổ nên Ngài cũng không ngại “trục loại tùy hình, ứng hiện sắc thân”. Trong Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo quyển thượng có chép: “Địa Tạng Bồ Tát do tâm đại bi phát đại nguyện lực trong thời quá khứ, cho nên Ngài hiện thân trời Đại Phạm Vương, hiện thân Đế Thích, hiện thân Thanh Văn, hiện thân Diêm La Vương, Ngài còn hiện thân Voi, Sư tử, Hổ, Báo, Trâu, Ngựa, cho đến hiện thân La Sát, Địa Ngục.v.v...vô lượng vô số các thân tướng khác nhau, để giáo hóa chúng sanh...”. (LƯỢC Ý HÌNH TƯỚNG - NGUYỆN LỰC CỦA ĐỨC ĐỊA TẠNG TRONG TINH THẦN HÀNH BỒ TÁT ĐẠO PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN) - Thích Tâm Mãn Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời hiện tại. Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn, Chưởng thượng minh châu, quang nhiếp đại-thiên chi giới. Biên trích : Địa Tạng Bồ Tát 地 藏 菩 薩 ( Tài liệu Do cư sĩ Huyền Thanh biên soạn Công Minh bổ sung hình ảnh minh họa và ghi chú ) Địa Tạng Bồ Tát tên Phạn là Ksïitigarbha, dịch âm là Tát Khất Xoa Để Nghiệt Bà. Ksïi là động từ mang nghĩa: chịu đựng, tồn tại, cư trú, ở Ksïiti: nghĩa là trú xứ, nơi đang cư ngụ, căn nhà, đất trồng trọt, đất nước, quê hương, trái đất. Garbha: nghĩa đen là Tử cung, dạ con, có thai, thọ thai, tưởng tượng, hình thành trong trí óc. Nghĩa bóng là cất chứa, ôm giữ. Ksïitigarbha được dịch ý là Địa Tạng, tức là người ôm giữ trái đất hoặc Mẫu Thể của Đại Địa. Do đất hay chuyên chở vạn vật, giúp cho vạn vật sinh sôi nảy nở, hàm chứa vô số nguồn lợi, tiền tài, vật báu…cho nên Địa Tạng là vị Bồ Tát biểu thị cho kho báu tiềm ẩn trong Đại Địa, hay chuyên chở mọi khổ nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát triển căn lành, được tài bảo vô tận, tròn đủ Phước Đức (Punïya) Trí Tuệ (Prajnõa). Nếu người tu hành theo Pháp của Địa Tạng Bồ Tát thì có thể khiến cho ngũ cốc [Đại Mạch (Yava), Tiểu Mạch (Godhùma), Lúa gié (‘Sàli), Tiểu Đậu (Masùra), mè (Atasì)] đầy kho, kéo dài mạng sống, tránh mọi hiểm nạn, tròn đủ tư lương (Sambhàra) Phước Trí vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi _ Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển rất sớm trong các Tông Phái Đại Thừa (Mahà-yàna) ở Aán Độ (Thế Kỷ thứ 4) Khởi nguyên của Tín Ngưỡng Địa Tạng có thể được khai triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên (Prïthivi), tức là Địa Thần, Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Trì Địa Thần. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho Thể Tính của đất là bền chắc chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng hay giữ gìn vạn vật. Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (RÏg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi… Hiện tượng Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên có thể được nhận biết qua hình tượng được ghi nhận trong Phật Giáo đời Thanh ở Trung Quốc là: Đầu đội mão Trời, thân khoác áo lụa mỏng, đeo chuỗi Anh Lạc với các vật báu trang sức, tay trái cầm cây lúa (tượng trưng cho ngũ cốc phong phú), tay phải cầm viên ngọc Như Ý để ngang ngực (tượng trưng cho việc thỏa mãn mọi mong cầu của chúng sinh), ngồi trên tòa sen.
    1 like
  35. Cám ơn anh hoangnt đã có bài "ủng hộ" CM. Về Kim Cang Giới và Thai Tạng Giới theo truyền thống Đông Mật, thật ra CM cũng còn đang học, nên xin phép được trao đổi những kiến thức về đề tài này cùng anh ở Topic khác. Để dịp này CM hoàn thành topic này đã. Hy vọng sẽ được học hỏi từ anh những kiến thức hay. Xin cám ơn và mong anh tiếp tục ủng hộ.
    1 like
  36. III – Mấy điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Như đã dẫn ở trên một trong những nội dung của một bộ kinh Phật là nói về Thánh Đức và linh ứng của một vị Phật hay Bồ Tát. - Kinh Dược Sư ca ngợi Thành Đức của Đức Đông Phương giáo chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh A Di Đà ca ngợi Thánh Đức của Đức Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật và các hạnh nguyện của Ngài. - Kinh Pháp hoa ca ngợi hạnh nguyện các vị Bồ-tát: Quan Thế Âm, Trì Địa, Thường Bất Khinh, v.v… - Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện này nói về công đức bản nguyện, thệ nguyện bản sinh của Bồ-tát Địa Tạng. 1- Điểm đặc biệt thứ nhất là nơi chốn giảng kinh : Khởi đầu một bộ kinh Đại Thừa là giới thiệu địa điểm giảng bộ kinh đó, thường thì các địa điểm đó là những nơi địa linh thuộc về “ mặt đất “ này ví dụ : - Kinh Hoa Nghiêm : Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở nước Ma Kiệt Ðề, trong Đạo Tràng Bồ Đề, ban đầu thành Vô thượng Chánh giác. Nơi đó đất cứng chắc, bằng Kim Cang. - Kinh Thủ Lăng nghiêm : Tôi nghe như vầy, một thời, Phật ở tại Tinh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt. - Kinh Dược Sư : Tôi nghe như vầy, Một thời, đức Thế tôn du hóa các nước, đến thành Quảng nghiêm, dừng ở dưới cây Tiếng nhạc…. - Kinh A Di Đà : Tôi nghe như vầy,một thủa nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ… - Kinh Pháp Hoa : Tôi nghe như vầy, một thời, Ðức Phật ở tại thành Vương Xá, trên núi Kì Xà Quật Tại kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện : Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao Lợi (1) …. ( Trời Đao Lợi: là từng trời thứ hai trong 6 từng trời ở cõi Dục. Đao lợi là tiếng Phạn, dịch là “tam thập tam” nghĩa là ba mươi ba, từng trời này ở tại núi Tu di nơi đó chia ra làm 33 nước trời, 32 nước ở bốn phương xung quanh, mỗi phương 8 nước; chính giữa là Thiện Kiến thành, cung của trời Đế Thích, vị trời này quyền thống nhiếp cả 33 nước trời.) Như vậy một điểm đặc biệt của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ Kinh được giảng ở trên cõi Trời Theo truyền thống Phật Giáp Tây Tạng ( Kim Cương Thừa ) trong 1 niên lịch ( lịch Tạng) có nhiều ngày công đức tăng trưởng, nghĩa là vào những ngày đó làm một việc tốt nào đó thì công đức được tăng trưởng lên nhiều lần. Trong những ngày công đức tăng trường có 4 ngày công đức gấp 10 triệu lần : - Ngày Đức Phật Thích Ca phô diễn thần thông - Những ngày trong tháng tam hợp : Đức Phật Đản Sinh, Đức Phật thành đạo và Đức Phật nhập Niết bàn. - Ngày Đức Phật chuyển pháp luân - Và ngày Đức Phật hạ thế từ cõi trời Đế thích (2) ======================== Chú thích : (1) xem thêm : THIÊN THỨ MƯỜI MỘT THUYẾT PHÁP ÐỘ PHẬT MẪU Ở CÕI TRỜI ÐẠO LỢI Sau khi dùng thần thông thắng ngoại đạo xong. Ðức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát coi: Thường khi chư Phật lúc quá khứ làm những gì, ngự đi đâu sau khi thắng ngoại đạo? Ðức Thế Tôn thấy chư Phật quá khứ sau khi thắng ngoại đạo xong, Ngài liền ngự lên cõi trời Ðạo Lợi nhập hạ và thuyết pháp độ Phật mẫu. Pháp mà chư Phật quá khứ thuyết ở cõi Ðạo Lợi như trào lưu chảy rất mạnh giữa chư Thiên. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm Maha Thongkham Medhivongs) (2) Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất là một ngày cát tường nhất trong năm. Cung trời Đâu Suất Thiên được phân làm hai Viện: 1. Đâu Suất Thiên Ngoại Viện và. Đâu Suất Thiên Nội Viện. + Tại Đâu Suất Thiên Ngoại Viện, chư thiên hưởng cảnh an vui nhàn nhã với nhiều lạc thú, những vị đã tạo nhiều công đức thường tái sinh lên cõi trời này và thọ báo công đức cho đến khi hết mới phải chết và đi tái sinh. Nhưng chúng ta không nên cầu xin tái sinh vào Đâu Suất Thiên Ngoại Viện vì tại đây chỉ có lạc thú mà không có Phật pháp. + Ngược lại, Đâu Suất Thiên Nội Viện thì có Phật pháp, và hiện giờ đang có Đức Phật Di Lặc đang thuyết pháp tại đó. Chư vị nào đã tạo nhiều công đức do tu hành nhập thiền định thường được tái sinh lên cõi trời này để tiếp tục hành trì đạo pháp cho đến khi đạt Giác Ngộ (theo kinh Đâu Suất Thiên , thì 400 năm ở nhân gian dài bằng một ngày một đêm tại cung trời Đâu Suất). Theo lịch sử Phật Giáo thì sau khi thành đạo, trong 41 năm đức Thích Ca thường nhập thiền định vào mùa mưa và thời an cư kiết ha. Chư đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Tương truyền là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất Thiên và ở tại đó 3 tháng (tính theo thời giờ của nhân gian) để thuyêt pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên cung trời Đâu Suất). Tương truyền là 7 ngày trước khi Đức Thích Ca hạ thế từ Đâu Suất, Ngài ngưng tàng hình và nhờ đó mà đại đệ tử của Ngài là A Nậu Lâu Đà mới có thể dùng thiên nhãn để thấy được Ngài. Do đó A Nậu Lâu Đà đã thỉnh vị đệ tử Đệ Nhất Thần Thông Mục Kiền Liên bay lên cung trời Đâu Suất để đón Ngài hạ thế. Mục Kiền Liên tuân lời A Nậu Lâu Đà và bay lên Đâu Suất để thỉnh Đức Thích Ca hạ thế và bạch Ngài là chư đệ tử rất nhớ Ngài và xin thỉnh Ngài trở về lại cõi nhân gian để thuyết pháp cho tăng đoàn. Ngài trả lời là sẽ trở về trong 7 ngày. Khoảng thời gian này là lúc đang dựng tượng của vua Ba Tư Nặc Ngày Đức Thích Ca hạ thế, một đoàn thể lớn của chư tăng, các vua chúa và dân chúng của 8 nước lân cận họp nhau tề tựu đón mừng. Khi Đức Thích Ca hạ thế, một cái cầu thang bằng vàng bay từ trời xuất hiện trước theo mỗi bước Ngài đi xuống. Bên phải Ngài là vị trời Phạm Thiên, tay cầm phất trần màu trắng và đi xuống trên một cầu thang bằng pha lê trong suốt. Bên trái Ngài là vị trời Đế Thích đi xuống trên một cầu thang bằng bạc, tay cầm lọng che làm bằng châu bảo. Một doàn thể chư thiên đi theo sau để tiễn đưa Ngài về cõi nhân gian. Đức Phật tắm ngay sau khi hạ thế, sau này tại đó có xây một ngôi nhà và một bảo tháp để ghi lại dấu tích. Nơi Đức Thích ca hạ thế là thành Sankàsya nước Xá-vệ của Ấn độ, ngày nay còn là một nơi chốn có rất nhiều Phật tử đi hành hương. Theo truyền thống của tông phái Giới Đức (do Đức Đạt Lai Lạt Ma lãnh đạo) thì vào ngày vía này, chúng đệ tử vân tập tại chùa để hành trì Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư ) Tóm Lược Về Ngày Vía Đức Thích Ca Hạ Thế Từ Cung Trời Đâu Suất – Lý Bùi Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác) 2- Điểm đặc biệt thứ hai là đối tượng thọ nhận kinh điển : Trong cuộc đời du hóa chư quốc, truyền dạy giáo lý Phật đà Đức Phật cũng nhiều lần về lại kinh đô của vua cha để giảng đạo cho dòng tộc Thích ca Tại các bộ kinh Đại thừa và Mật thừa, đối tượng được nghe Ngài giảng kinh thường là các vị Bồ Tát, La hán, Chư thiên, Quốc vương, Đại thần, Balamôn, cư sĩ Thiên long bát bộ, nhân và phi nhân…. Và trong hàng chúng như thế, có một vi đặt vấn đề và Ngài sẽ vì một vị nào đó mà nói Pháp. Không lập tâm phân biệt, luôn biết rằng Kinh điển Phật giáo bất khả tư nghì vô lượng vô biên công đức và oai lực. Nhưng so sánh thì đa số các bộ kinh Đức Phật cũng thường vì Đại Chúng mà thuyết pháp. Kinh Địa Tạng ra đời trước tiên là do lòng hiếu thảo của Đức Phật đối với bậc sanh thành, Ngài đã tưởng nghĩ đến mẹ khi biết rằng mình sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa nên đã lập Pháp hội tại cung trời Đao Lợi để độ thoát cho thân mẫu. (1) Đây là một Pháp hội vô cùng quan trọng vì có sự hiện diện đông đủ của chư Phật khắp mười phương thế giới, chư Đại Bồ Tát như Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền... cùng các chúng Trời, Rồng, Quỉ, Thần khắp các cõi. Diễn nói Kinh Địa Tạng trong Pháp hội này vì thế mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao. Là bậc Cha lành trong bốn cõi, không một việc làm nào dù nhỏ hay lớn mà Đức Thế Tôn lại không nghĩ đến lợi lạc của tất cả Pháp giới chúng sanh. Trong Pháp hội này Ngài vì thân mẫu mà thuyết Pháp nhưng động cơ chính vẫn là lòng từ bi lân mẫn đối với chúng sanh ở cõi Ta bà, đặc biệt là đối với những chúng sanh cang cường đầy tội khổ, khó khai hóa mà Ngài biết chắc chắn là sẽ "bị đọa vào đường dữ chịu nhiều sự thống khổ", vì thế trong Pháp hội này Ngài đã phó chúc cho Bồ Tát Địa Tạng nhiệm vụ "gắng độ chúng sanh trong cõi Ta bà đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều đặng giải thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được Đức Phật thọ ký.” (Quyển Thượng Phẩm Thứ Hai: Phân Thân Tập Hội). Đương thời đó đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngự tại cung trời này mà thuyết pháp trong 3 tháng (từ tháng 4 đến tháng 7). Thánh mẫu là bà Ma Gia phu nhân sinh mẫu của Thái Tử Sĩ Đạt Ta. 7 ngày sau khi hạ sinh thái tử, bà bỏ thân người sinh lên cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ đức Phật sắp nhập diệt, ngài ngự lên đó nói pháp, trước để đáp ơn sinh thành, sau nhân đó mà giáo hóa hàng chư Thiên, cùng Long, Thần bát bộ và cả thảy Thánh, phàm. Như vậy điểm đặc biệt thứ hai của Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện là một trong những bộ kinh Đức Thế Tôn vì Mẹ mà thuyết pháp. Con người, trong các mối quan hệ tình cảm cha con; vợ chồng ; anh em; bạn bè … thì tình mẫu tử luôn có một vị trí đặc biệt. Mặc dù cũng là đấng sinh thành, nhưng vị trí của người Cha trong đứa con không thể sâu đậm như người Mẹ. Phải chăng : Công Cha chỉ mới như núi Thái sơn – cao thật cao nhưng còn có ngọn.? Nhưng nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra – thật vô tận.! Nên đã có thật nhiều tác phẩm nghệ thuật, văn học, ca khúc ca ngợi về tình mẹ, hơn là tình cha.? Nghĩ cho cùng thì không nên phân biệt so sánh nhiều, nhưng thực tế là như vậy. Nói thêm chút ít cũng là thừa, bởi tất cả chúng ta ai cũng ít nhiều thấu hiểu thế nào là tình cảm của người con đối với người Mẹ, so với các thứ tình cảm khác như đã nêu ở trên. Đạo Phật là đạo chủ trương hiếu nghĩa, những ai đang có Cha Mẹ già trong nhà là đang được hiện diện trước Phật sống giữa đời thường. Truyền thống đó đưa vào thành nghi lễ đặc biệt đặc biệt chắc ít có tôn giáo nào có được – mùa Vu lan bồn. Phật tử Việt Nam ai cũng đều biết tích tuồng : Mục Kiền Liên cứu Mẹ, thường được công diễn vào các dịp lễ Vu Lan hàng năm, chuyện kể về Đức Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu Mẹ là bà Thanh Đề bị đọa làm Ngạ qủy. Ngài là 1 trong mười đại đệ tử của Đức Phật được tuyên là đệ nhất thần thông, nhưng vậy mà với những nghiệp nặng bà Thanh Đề tự gây ra, Ngài cũng không làm được gì hơn ra ngoài quy luật quả báo. Chỉ đến khi Đức Phật dạy rằng:“Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó ” Theo lời Phật dạy, Ngài làm đúng lời và mẹ ngài được giải thoát. Phật cũng dạy rằng chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu Lan Bồn Pháp). Ngài Mục Kiền Liên sau có tên gọi là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng là từ tích đó. Như vậy có hai câu chuyện về sự đại báo hiếu trong Phật đạo. Một là : Bậc thầy là Ðức Thế Tôn vì Mẹ mà lên trời giảng pháp. Hai : bậc trò là Đại Hiếu Mục Kiền Liên cũng vì Mẹ mà xuống địa ngục tìm đường cứu mẹ. Rồi cả hai bà Mẹ đề được độ lên những cảnh giới cao. Nên ngoài những nội dung của bộ kinh có nói về chuyện hiếu nghĩa, thì những nội dung phân tích ở trên, Kinh Địa Tạng Bồ-Tát bổn nguyện được gọi là hiếu kinh của Phật giáo phải chăng là như vậy. ======== (1) Nghĩ xong đức Thế Tôn mới đưa tay mặt ra về hướng Phật mẫu đang ngồi rồi nói: - Thưa mẫu hậu, xin lịnh mẫu hậu hãy đến gần đây để Như Lai được trả món nợ vĩ đại là sự cực nhọc chăm nom săn sóc cho Như Lai bú mớm từ giọt sữa miếng cơm trong khi còn luân hồi trong tam giới. Ðức Thế Tôn bắt đầu thuyết bộ Vi Diệu Pháp ấy chia ra làm bảy phần khác nhau, thuyết trót ba tháng hạ tại cõi trời Ðạo Lợi. Ðức Thế Tôn độ Phật mẫu đắc được Tu-đà-huờn quả và chư Thiên thành đạo nhiều vô số kể. ( Trích : Lịch Sử Ðức Phật Tổ Cồ Ðàm - Maha Thongkham Medhivongs) 3- Điểm đặc biệt thứ ba là hạnh nguyện và công đức của vị Bồ Tát được giảng : Trong các bài quán tưởng đảnh lễ trước các nghi lễ trì tụng kinh chú của Phật giáo Đại thừa Bắc tông, chúng ta thường hay gặp câu đảnh lễ : ĐẢNH LỄ - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai Hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát (1 lạy) - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) Theo thuyết Ngài Di Lặc là vị phật thời tương lai, thì ở đây chúng ta được đảnh lễ 6 vị đại bồ tát - Đại Từ Di Lặc Bồ Tát : ( Từ - hiền hậu ) - Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Trí – trí tuệ ) - Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát ( Hạnh – Đức Hạnh ) - Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát ( Bi – Lòng thương ) - Đại Thế Chí Bồ Tát ( Chí – Chí khí, dũng khí ) - Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ( Nguyện – nguyện lực , lời hứa hay lời “thề” ) Trong đó bốn vị Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát khi đến các nơi thánh tích, chùa chiền thì thường gặp tôn tượng hơn cả. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống cũng như văn hóa tinh thần của người Đông Phương, người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ, khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn, con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn Trong truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa, Địa Tạng Vương Bồ Tát cũng thường được trì niệm khi tuyên danh hiệu tám vị Đại Bồ Tát Tám vị Bồ Tát Đức Văn Thù Sư Lợi trẻ trung, Đức Kim Cương Thủ quang vinh, Đức Quán Thế Âm quyền uy, Đức Bảo trợ Di Lặc từ ái vô biên, Đức Địa Tạng , Đức Trừ Cái Chướng, Đức Hư Không Tạng, và Đức Phổ Hiền cao quý nhất. Thật thanh nhã, các Ngài cầm những biểu tượng là Hoa sen xanh, Chày kim cương, Hoa sen trắng, cây Naga, Ngọc báu, Mặt trăng, Thanh kiếm và Mặt trời! Và siêu việt trong việc ban cho sự cát tường và thành tựu, chúng con xin đảnh lễ Tám vị Bồ Tát! ( Trích : Bài nguyện Tám đấng Cát tường – với lời chú dẫn : Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi khởi sự việc gì, bạn sẽ hoàn thành tất cả các mục tiêu của ngày hôm đó. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn ngủ, bạn sẽ trải qua những giấc mơ đẹp. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này trước khi bạn bước vào một cuộc chiến, bạn sẽ là người chiến thắng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này khi bạn bắt đầu một hoạt động, điều bạn ước muốn sẽ tăng trưởng. Nếu bạn trì tụng bài cầu nguyện này hằng ngày thì tuổi thọ, vinh quang, danh tiếng, thịnh vượng, cát tường, hạnh phúc và xuất sắc sẽ được thành tựu viên mãn như mong ước của bạn. Tất cả các hành động và chướng ngại gây hại sẽ được tịnh hóa. Cả những cõi cao hơn và Phật quả tối thắng -- tất cả mục tiêu đều sẽ được thành tựu.) Nguyện : Nguyện như là lời hứa, lời cam kết hay lời “Thề”. Ví dụ như các chiến sĩ có nguyện : Trung với nước, hiếu với dân nguyện một lòng mang sức mình ra phụng sự tổ quốc. Trong kinh điền Phật giáo, Phật A Di Đà có 48 lời nguyện, Phật Dược Sư có 12 lời nguyện; các vị Bồ Tát (Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát , Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát ) đều có hạnh nguyện trước khi thành Phật. Nhưng xét ra, các hạnh nguyện của 3 vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm cũng có thể có ngày đạt thành quả vị. Còn hạnh nguyện của ngài Địa Tạng thì thật là lâu, bởi : “chừng nào độ hết chúng sanh thì mới nguyện thành Phật “ hay “Nếu nơi địa ngục còn một bóng ma, quyết không thành Phật!" Nên xưng danh hiệu Ngài là Đại Nguyện là như vậy. Bồ Tát Địa Tạng là một vị Đại Bồ Tát công năng, oai lực của vị Bồ Tát này vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta tôn xưng Đức Từ Phụ là Ta bà Giáo chủ thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đã được tôn xưng như là vị U Minh Giáo Chủ, tức là người tiếp trợ, giúp đỡ các chúng sanh ở thế giới bên kia, tức là cõi âm. Ngài là nơi nương tựa, nguồn an ủi của những oan hồn vất vưởng không nơi nương tựa đến những linh hồn vì ác nghiệp bị giam giữ và trừng phạt tận các tầng địa ngục. Tên gọi của Ngài cũng đã mang một ý nghĩa như thế. Địa là đất cũng có nghĩa là dày chắc, Tạng là cất giấu, chứa đủ. Danh hiệu của Ngài hàm ý rằng Ngài là đại địa bao la, nơi ẩn chứa những kho tàng quý giá, tức thiện căn. Địa Tạng vì thế như là hình ảnh của một người mẹ thiên nhiên ôm ấp, bảo bọc, che chở tất cả muôn loài không phân biệt. Chẳng thế mà Đức Thế Tôn đã lên tiếng tán dương: "Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn." ĐẠI NGUYỆN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT Một bộ kinh ca ngợi Thánh đức và oai lực của Một vị Vương - U Minh Giáo Chủ là điểm đặc biệt thứ ba của bộ Kinh này.
    1 like
  37. +Còn ngũ hành của giờ, năm là những yếu tố bổ trợ ngũ hành giờ (ở đây em hiểu ngũ hành giờ ở đây là giờ lấy quẻ phải ko ạ?) xem quẻ giờ Mùi, nhưng em cũng ko rõ Thiên can là gì nên có thể tính ra ngũ hành được, còn về ngũ hành năm thì: Nhâm Thìn => Hỏa Giờ cũng có Thiên can chứ bạn, bạn không thạo tính thì mở lịch vạn niên ra xem. vd: ngày hôm nay là 2/7 âm lịch tức là ngày Tân Hợi, giờ Mậu Tý. Nếu muốn xác định Thiên can của giờ Mùi thì bạn tính theo chiều thuận của thập thiên can là ra, thiên can của giờ Mùi hôm nay là Ất tức giờ Ất Mùi. vài lời chia sẻ.
    1 like
  38. Cờ người – cuộc đấu trí đầy trí tuệ Cờ người là một trò chơi dân gian Việt Nam thường được tổ chức vào dịp lễ cổ truyền khi làng mở hội. Chơi cờ người cũng giống như cờ tướng nhưng quân cờ là người thật, và bàn cờ là sân đất rộng. 32 quân cờ người thường được tuyển chọn từ các nam thanh nữ tú là con cháu trong làng, hoặc các võ sinh của võ đường. Các quân cờ người thường mặc áo rực rỡ có thêu biểu tượng quân cờ mình thủ vai ở trước ngực và sau áo để người xem dễ theo dõi diễn tiến ván đấu. Để chuẩn bị cho cuộc đấu cờ người ban tổ chức hội làng phải dày công trong việc chuẩn bị. Dàn quân trước trận đấu Trước tiên là việc tuyển tìm người làm quân cờ phải là những trai thanh, gái lịch, con cái của những gia đình có nề nếp được dân làng quý trọng, đồng tình. Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải đủ 32 quân, gồm 7 loại chia đều cho mỗi bên gồm 16 chàng trai khoẻ mạnh đóng quân đỏ (hoặc vàng) và 16 thiếu nữ xinh đẹp đóng quân đen (hoặc xanh). Hai tướng (tướng ông, tướng bà) là hai người đẹp nhất được chọn trong số 32 quân cờ. Sau đó tiến hành tập luyện các thế đi, đường võ để khi ra xung trận biểu diễn cho từng thế cờ. Hai kỳ thủ với áo dài khăn đóng ngồi trên hai chòi cao để đấu với nhau. Trên sân khấu có bình luận viên bình luận về các thế cờ sau mỗi nước đi của từng kỳ thủ Ra thế võ triệt hạ đối thủ Sau khi hai bên đã dàn quân xong thì trận đấu được bắt đầu khi có hiệu lệnh trống của người cầm trịch. Theo quy định đấu thủ cầm quân đỏ được đi trước, sau đó đến bên đen và luân phiên thứ tự cho đến khi kết thúc ván cờ. Khi ăn quân của đối phương thì quân cờ thể hiện bằng một bài biểu diễn song đấu hoặc một bài tự vệ. Các quân cờ cần phải trải qua sự tập luyện lâu dài và gian khổ, vì các đòn thế biểu diễn không phải dễ dàng. Trong không gian rộn rã của tiếng chiêng, tiếng trống khua liên hồi. Cờ xí, võng lọng bay phấp phới trong nắng xuân hồng, cùng với áo mão của "ba quân tướng sĩ" đã làm cho không khí ngày hội thêm hào hùng. Chơi cờ người trong các lễ hội cổ truyền không chỉ là một trò chơi giải trí đơn thuần mà còn là một cuộc đấu đầy trí tuệ . Xem chơi cờ người chúng ta không những chỉ thưởng thức các thế võ đẹp của các quân cờ mà còn thưởng thức trí tuệ qua từng nước cờ của các kỳ thủ. Chính sự hấp dẫn này nên trong các lễ hội đầu xuân nào cờ người cũng là sân chơi thu hút rất đông người đến xem, tạo ra sức sống lâu bền của các lễ hội dân gian. Hoàng Anh http://laodong.com.vn/
    1 like
  39. Giải mã trò chơi dân gian: TÍNH MINH TRIẾT TRONG TRÒ CHƠI LÒ CÒ XỦN Thiên Đồng – Bùi Anh Tuấn - Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương Một trò chơi của trẻ em rất phổ biến trong dân gian Việt có thể đang ẩn giấu phía sau nó những mật mã có thể làm sáng tỏ hơn cho một lý thuyết học thuật cổ Đông phương đầy tính minh triết thuộc nền Văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LỜI GIỚI THIỆU Kính thưa quí vị quan tâm. Có thể nói đây là một bài viết với những ý tương xuất sắc của tác giả Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn - một thành viên nghiên cứu của Trung Tâm nghiên cứu Lý học Đông phương. Qua bài viết này, chúng ta thấy một sự liên hệ chặt chẽ giữa một trò chơi của trẻ em Việt Nam với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liên hệ với những gía trị văn hóa phi vật thể truyền thống khác còn lưu truyền trong văn hóa dân gian Việt; như: Bánh chưng bánh dầy, ô ăn quan...vv.... Từ những sản phẩm của trí tuệ thể hiện qua những hình thức trò chơi dân gian tưởng chừng như đơn giản ấy, chúng ta lại nhận thức được mối liên kết hữu cơ rất chặt chẽ của những di sản văn hiến phi vật thể Việt với một lý thuyết đồ sộ và bí ẩn, làm tốn biết bao giấy mực của các nhà nghiên cứu quốc tế từ hàng thiên niên kỷ. Điều này càng thấy rõ một chân lý khách quan minh chứng cho Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương tử và là chủ nhân đích thực của nền Lý học Đông phương. Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Giám đốc trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương I. SƠ LƯỢC VỀ TRÒ CHƠI1. Trò lò cò xủn ở Nam Bộ Việt Nam. Dưới đây là đồ hình trong trò chơi Lò cò xủn phổ biến ở Nam bộ Việt Nam. Độc giả xem hình dưới đây: Khi chơi, trẻ em thường vẽ đồ hình trên dưới đất bằng que vạch, hoặc phấn trắng trên nền gạch.Đồ hình gồm 10 ô từ 1 đến 10, gọi là 10 mức. Một ô với hình bán nguyệt trên cùng gọi là ô Trời hay mức Trời. Ba đường thẳng có chia đuôi gọi là đuôi chuột, nhằm phân ranh giới trái phải của vị trí khởi hành và kết thúc. Điều kiện chơi: * Vẽ hình trên mặt đất như hình trên * Ô 1, 2, 3, 4 và 7, 8, 9, 10 buộc phải lò cò (Di chuyển bằng một chân, chân kia co lên). * Ô 5 và 6 thì được phép bẹp 2 chân. * Đối tượng chơi: không phân biệt nam nữ, ấu lão, có thể lực có thể tham gia. * Hình thức: thi đấu tay đôi hay nhóm đối kháng. * Vật dụng: gọi là “chàm” thường là một viên đá, gổ hay những vật tương tự có bề mặt tròn dẹt, phải dùng chân đứng để di chuyển trong lúc chơi. Cách chơi Người chơi đến lượt mình vào vị trí khởi hành, thảy chàm bắt đầu từ ô số 1 và nhảy vào ô số 1 với một chân co một chân duỗi, dùng một chân di chuyển viên chàm từ ô số 1 lần lượt sang ô số 2, cứ thế thuận tự cho đến hết 10 ô. Đi đến ô nào bị phạm lỗi theo quy định thì phải ngừng chơi đến lượt người khác. Khi đến lượt mình thì bắt đầu từ ô đã đi được trong lần trước. Khi đi hết các ô từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng, nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành. Ở vị trí khởi hành, người chơi lại tiếp tục đi những thử thách tiếp theo, gọi là mụt ghẻ ở tay, ở chân, ở đầu và gánh nước bằng cách để viên chàm ở mu bàn tay, mu bàn chân, vai, đầu rồi di chuyển qua từng ô từ 1 đến 10, mà không lò cò sao cho chàm không rơi. Hết một vòng khi trở về vị trí khởi hành, người chơi tung viên chàm lên không rồi đưa tay bắt lấy, nếu rớt chàm thì dừng chơi, chờ lượt đi lại. Hết những thử thách, người chơi được quyền “cất nhà”, bằng cách đứng dạng hai chân ở vị trí khởi hành và vị trí dừng, quay lưng lại với vị trí đồ hình rồi tung chàm ngược ra sau. Chàm được phép rơi vào một trong 10 ô, không cán mức, không văng ra ngoài đồ hình thì coi như thành công. Chàm ở ô nào thì ô đó gọi là “nhà” và người chơi đi đến đó thì có quyền đứng 2 chân, không được co chân. Nếu lỡ co chân là “cháy nhà”, ô đó trở lại ô bình thường như ban đầu. Những người chơi khác, hoặc không cùng phe, không được quyền đứng hai chân ở nhà người khác, hoặc phe khác. Cất nhà xong, người chơi trở lại mức khởi điểm là mức 1 và tiếp tục một chu trình mới. Cuộc chơi ngừng khi các ô trở thành nhà của mình hoặc của đối thủ. Những ô đã trở thành nhà thì không phải thảy chàm vào ô đó. Ai hoặc phe nào nhiều nhà nhất được coi là thắng cuộc. Điều kiện ngừng chơi: * Trong khi di chuyển chàm, nếu chàm phạm vạch thì phải ngừng chơi và đến lượt người khác. * Chân đạp ranh giới giữa các ô hay chàm dừng ở ranh giới giữa các ô hay văng ra khỏi đồ hình. Tuy nhiên chàm văng vào giữa hai đôi chuột thì không bị phạm điều kiên này. * Lò cò vào ô 5 hay 6 thì người đi bị dừng chơi. * Bẹp 2 chân vào mức 1,2,3,4,7,8,9,10. * Cuộc chơi ngừng khi cả hai bên đồng ý ngừng Hình minh họa - Trẻ em chơi Lò cò xủn. 1. Trò lò cò xủn ở Bắc Bộ Việt Nam. Sự khác nhau giữa hình trò chơi ở miền Bắc với miền Nam - ở trên - là chỗ nơi ô Trời có hình tam giác, vẽ lớn hay nhỏ tùy theo người chơi. Do vậy nội dung quy định và cách thức chơi đại để giống như ở miền Nam, nhưng có cái khác cách chơi ở miền Nam một chút. Cụ thể, khi đi đến mức 5 thì người chơi xủn cho viên chàm vào “ô Trời” đồng thời cũng nhảy lò cò vào ô đấy. Có 2 trường hợp xẩy ra: Nếu chàm ở ngoài phạm vi ô tam giác thì người chơi chỉ được xủn một lần sao cho sang ô 6 mà không di dịch chàm nhiều lần trong “ô Trời”. Nếu chàm rơi vô đúng hình tam giác thì ngưới chơi phải xủn chàm ra khỏi khu vực tam giác rồi được phép xủn tiếp sang ô 6. Nhưng nếu chàm sau khi xủn ra mà vẫn còn vướng lại trong tam giác hay vướng ở biên của tam giác đó thì phạm quy, gọi là “Xê xích thủ”, buộc người chơi phải đi lại từ ô 01 đầu tiên. Trò chơi chỉ đơn giản như vậy nhưng mang đầy tính chất thể thao, nghệ thuật và trí tuệ. Bởi khi người tham gia cuộc chơi cần phải có một thể lực ổn định, một tinh thần nhạy bén giúp cho sự vận động và quan sát để thực hiện cách chơi. Đồng thời cần phải có sự khéo léo trong những động tác, hành động di chuyển để thắng cuộc. Vì vậy có thể nói trò chơi dân gian Việt, ngoài việc mang ý nghĩa lợi ích về tinh thần và thể lực cho người chơi thì nó lại chính là một loại hình văn hóa mang đậm nét trí tuệ sâu sắc của dân tộc Việt. Tuy nhiên, nếu nó chỉ dừng lại ở tác dụng của một trò chơi thì nó không phản ánh được một tư duy cao cấp hơn của một dân tộc có một nền văn hiến rực rỡ, văn hiến Việt 5000 năm. Bởi nội dung của trò trơi đó lại chuyển tải những mật mã, những thông điệp bí ẩn về một tri thức cao cấp của nền văn hiến ấy. II. GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN TRONG TRÒ CHƠI Từ những tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”, “Định mệnh có thật hay không?”, “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt nam”…của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lấy cảm hứng từ những sự hiệu chỉnh về nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương hay sự giải mã của Ông về những bí ẩn trên linh vật bánh Dầy – bánh Chưng, những câu ca dao hay những trò chơi dân gian “chơi ô ăn quan”…người viết tiếp nối nguồn cảm hứng ấy hay ít ra là sự học tập từ một người Thầy, thử khám phá thêm những bí ẩn đằng sau những trò chơi dân gian, cụ thể là trò “Lò cò xủn” nhằm làm phong phú hơn cho sự nhận thức về một hệ thống lý thuyết thuộc nền văn minh Lạc Việt. 1. Bánh Chưng, Bánh Dầy - Linh vật của nền văn hiến Việt. Nếu câu chuyện bánh chưng bánh dầy lưu truyền trong tâm thức người dân Việt từ ngàn xưa như một mặc khải cho một hình tượng thiêng liêng của nền văn hiến Việt, dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng chuyển tải một giá trị minh triết đông phương, một tri thức về vũ trụ quan sâu sắc thì trò chơi dân gian, cụ thể là trò chơi lò cò xủn, là một phương thức khác âm thầm truyền lưu những tri thức ấy và như là một “dấu ấn” minh chứng cho chủ nhân của nền văn minh này. Từ bao đời nay, trong những ngày xuân mới, Tết đến, người dân Việt, con cháu Rồng Tiên với cả lòng thành kính dân lên tổ tiên Lạc Hồng đôi bánh Chưng – bánh Dầy, biểu hiện cho tâm thức người Việt. Một chi tiết tinh tế cũng như là một nghi thức chuẩn xác rằng khi đặt đôi linh tượng bánh Chưng – bánh Dầy lên bàn thờ tổ tiên Lạc Hồng thì luôn luôn chiếc bánh Dầy được đặt chồng lên trên chiếc bánh Chưng. Cũng theo cách giải thích của người xưa cho hậu nhân rằng Trời ở bên trên, đất ở bên dưới, bánh Dầy để trên bánh Chưng là ý đó. Một chiếc bánh bằng nếp giã trắng tinh hình tròn với vòng cung vồng lên hình bán nguyệt biểu thị cho Trời trên, một bánh Chưng hình khối vuông gói bởi lá xanh biểu thị cho Đất dưới;Lạ lùng thay được tái hiện lại một cách thông minh tuyệt vời bằng đồ hình của trò Lò cò xủn, truyền lại cho hậu thế bằng một loại hình trò chơi dân dã, chứa đựng tài tình nội dung một nguyên lý của thuyết Âm Dương Ngũ hành. Một ô hình cung bán nguyệt bên trên một ô lớn hình vuông chứa 10 ô nhỏ là một cách tái hiện rất giản đơn, nhưng tinh tế và rất cũng vô cùng bí ẩn hình tượng của bánh Dầy để trên bánh Chưng. Hay nói chính xác hơn là một đôi phạm trù Âm Dương. Trong trí nhớ của những trẻ nhỏ chơi trò Lò cò xủn, trong đó có cả người viết, ô hình cung bán nguyệt, theo quy định của trò chơi, được gọi là “ô Trời” hay “mức Trời” và 3 đường tua rua gọi là “đuôi chuột”, chính sự quy định này như là một mật ngữ, như là một chìa khóa để cho người viết khám phá ẩn ý đằng sau trò chơi. 2. Ẩn Ngữ “Dương trước Âm sau”: Vòng cung bên trên, theo một sự hiển nhiên, được đám trẻ nít của bao đời gọi là “ô Trời”, 3 tua rua cuối gọi là “đuôi chuột”. Hai chi tiết nhỏ nhưng qúy báu. Ô vòng cung được gọi là Trời đối lập với cái khác nó là hình vuông hay hình chữ nhật, tùy theo cách vẽ của người chơi, lẽ dĩ nhiên sẽ gọi là Đất theo sự giải mã. Chi tiết còn lại là 3 tua rua “đuôi chuột”. Chi Tý tức là chuột, con giáp đứng đầu trong 12 con giáp, gọi là Địa Chi thì ngay trong trò chời Lò cò xủn được nhắc đến, được dùng làm ranh giới cho mốc khởi đầu và kết thúc lượt chơi. Nhưng chi tiết này chỉ nêu một phần của chuột. Đó là “đuôi chuột”, tức cái phía sau của chuột. Như vậy cái đối lập với Trời, là ô vuông, được gắn kết một chi tiết phụ là “đuôi”, nghĩa là muốn nói cái có “sau”, là Đất, đối đãi với cái có trước là Trời. Cặp phạm trù Trời – Đất được mã hóa bằng đồ hình của trò chơi, cũng chính là một cách vẽ giản lược của hình ảnh bánh Dầy trên bánh Chưng, rõ ràng đây là hình tượng ám chỉ ý “Dương trước Âm sau”. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa đủ đầy, khi đằng sau nó còn mang một nội dung sâu sắc hơn… 3. Ẩn ý “ Dương tịnh Âm động” và “ Mẹ tròn Con vuông” Khi vạch xong 10 ô, trẻ nhỏ hay người chơi không quên đánh số thứ tự vào từ 1 đến 10. Đây lại là một bí ẩn…lộ rõ từ hàng ngàn năm trước, nhưng chưa bao giờ được giải nghĩa cũng từ bao lâu...Thuận tự của các số được đánh số từ dưới đi lên, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, hết một vòng theo đúng chiều thuận, chiều kim đồng hồ…. cho thấy rằng 10 con số trùng hợp với 10 Thiên Can. Khi người viết mạo muội cho áp theo thứ tự của 10 Can theo thứ tự 10 số thì chiều tương sinh của ngũ hành hiển thị chiều vận động của của Thiên Hà trong vũ trụ được diễn giải cô động trên nguyên lý căn để là Hà Đồ. Từ sự giải mã của phần trên, cho rằng đồ hình trò chơi Lò cò xủn là đồ hình giản lược của hình tượng bánh Dầy trên bánh Chưng, linh tượng của văn hiến Việt, biểu thị cho sự lý giải về thể bản nguyên vũ trụ - tức bánh Dầy- và một trạng thái đối đãi có sau nó – tức bánh Chưng- thì ngay trong trò chơi, tính trạng của hai thể đối đãi này được diễn tả trực thị qua quy định và hoạt động của trò chơi.Trước tiên, xin khảo qua một đoạn trong tác phẩm “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại’, trang 40, của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh: Quy định của trò chơi, người chơi chỉ “đi”, tức mọi hoạt động di chuyển và diễn biến của trò chơi, chỉ diễn ra trong phạm vi hình vuông, 10 ô số, và chiều di chuyển của người chơi là chiều thuận của chiều kim đồng hồ cũng chính là chiều tương sinh của âm dương ngũ hành. Một cách trực kiến, ô hình vuông được diễn tả ý nghĩa “động” qua những hoạt động của người chơi, theo chiều biểu kiến của người “đi” nước lò cò, là chiều biểu kiến sự vận động tương tác thuận của ngũ hành được thể hiện trên Hà Đồ. Nói một cách khác, phần ô vuông trên đồ hình của trò chơi là diễn tả bằng một hình thức khác đồ hình của Hà Đồ, tức diễn tả trạng thái sau khởi nguyên của vũ trụ là Âm Động đối đãi có sau so với Dương tịnh có trước. Ý nghĩa Dương tịnh, tức Thái Cực chí tịnh là bản nguyên của vũ trụ khi chưa có cái đối đãi, được giản đơn bằng một ô bán nguyệt cung tròn viên mãn, gọi là “mức Trời”, mà nơi đó người chơi không được phép “đi”, tức ô Trời được để trống không, yên tịnh, nhằm diễn tả nghĩa Tịnh của cái Dương, cái Thái Cực. Ẩn ý “Dương tịnh Âm động”, Mẹ tròn con vuông” được mã hóa một cách khéo léo, bí ẩn và giản đơn thông qua mô hình giản lược, một trò chơi của trẻ nhỏ lột tả hết nội dung của một nguyên lý lý thuyết học thuật cổ Đông phương và dường như trong trò chơi còn diễn giải những ẩn ý về sự nhận thức vũ trụ. 4. Ẩn Ý Về Sự Nhận Thức Vũ Trụ: “Tính Thấy Trong Minh Triết Cổ Đông Phương”. Trong cách thức chơi, có một quy định về một “nước đi” như sau: “Khi đi hết các mức từ 1 đến 10 thì người chơi thảy chàm sao cho vào ô Trời rồi di chuyển bằng cách nhảy chàng hảng hai chân từ ô 1-10, 2-9, 3-8, 4-7, 5-6, rồi quay ngược lại dừng lại ở ô 5-6, vẫn ở vị trí chàng hảng nhưng ngồi xổm xuống thấp, lòn tay qua dưới 2 chân mò tìm chàm cho được mới thôi. Xong, người chơi di chuyển bằng cách như lúc đầu về vị trí khởi hành.”. Hoạt động của trò chơi chủ yếu diễn ra trên ô vuông lớn chứa 10 ô theo quy định, riêng ô Trời không được đi vào đó, nhưng khi đi hết 10 ô thường thì được phép thảy chàm vào “ô Trời”, muốn lấy chàm thì phải nhảy cóc bằng 2 chân trong 2 ô, rồi dùng sự phán đoán mà nhặt chàm. Từ những sự giải mã trên, “ô Trời” là mật thư cho hình tượng bánh Dầy, là ý niệm về cái Dương, là Thái Cực, đó là trạng thái về bản nguyên của vũ trụ. Có thể tổ tiên Lạc Hồng với nền văn hiến Lạc Việt gần 5000 năm, kể từ năm Nhâm Tuất 2879 trc CN, muốn chuyển tải một ẩn ngữ rằng “Sự nhận thức về một thực tại khởi nguyên của vũ trụ không thể thông qua sự logich lý trí, suy luận của cái đầu mà phải nhận thức thực tại ấy bằng một tư duy trù tượng cao cấp ngay từ bản nguyên và gốc rể của nó” Chi tiết trong trò chơi cho thấy rõ, người chơi không nhìn trực tiếp để nhặt chàm. Nếu quay lưng lại, không nhìn ra sau,thì phải lòn tay qua hai chân mà không lòn tay ra sau lưng, do vậy phài cần đến sự phán đoán của tư duy trừu tượng - đây chính là sự nhận thức sự khởi nguyên của vũ trụ tại giây /0/tuyệt đối. Cũng tương tự như sự khởi sinh của một con người thoát ra từ bụng mẹ thì hành động lòn tay qua hai chân dưới và ngang bộ phận sinh dục, bộ phận khởi sinh những “tiểu vũ trụ” là con người, thì đó lại là một ẩn ngữ cho biết rằng có một lý thuyết toàn diện giải thích thực tại từ sự khởi nguyên của vũ trụ và muốn nhận thức thực tại ấy thì không gì khác hơn rằng phải dùng tư duy trù tượng nhận thức lại từ căn để thực tại ấy, đó gọi là tính “Thấy” hay gọi là Tính “Biết” được diễn từ hằng ngàn năm trong Lý học Đông phương. Hành động người chơi phải nhảy cóc hai chân trên hai ô, hai hành Âm Dương có thể là một ẩn ngữ cho biết rằng muốn tiến tới một nhận thức tuyệt đối là bản nguyên vũ trụ, tính “Thấy” hay tính “Biết” phải vượt qua tâm lý nhị nguyên, phải đạt được trạng thái của sự cân bằng âm dương thì mới có thể tiệm cận đến trạng thái tuyệt đối ấy. Hình minh họa - Lòn tay ra sau lưng tìm chàm 5. Tịnh - Động là tương đối sau khởi nguyên Vũ Trụ Ở cách chơi phổ biến vùng Nam Bộ Việt Nam, trò chơi diễn tả rõ bản chất của Dương tịnh và Âm Đông qua những biển hiện cụ thể của trò chơi. Nhưng trờ chơi lò cò xủn ở vùng Bắc bộ Việt Nam thì có chút khác biệt về hình thức thể hiện đồ hình, chính sự khác biệt này lại diễn tả một ý khác của Lý học đông phương: “Tịnh động là tương đối sau sự khởi nguyên của vũ trụ”. So với cách chơi và đồ hình trò chơi vùng Nam bộ thì cách chơi vùng Bắc bộ người chơi được phép lò cò vào “Ô Trời”, nhưng không được phép dịch chuyển chàm nhiều lần trong ô này, khác với ô 1 đến 10 được phép dịch chuyển nhiều lần có thể. Như vậy nhìn chung, cả đồ hình, mọi chổ đều thể hiện tính chất “động”, tuy vậy tiền nhân đã ý nhị sắp sẵn sự quy định sự di chuyển ở “ô Trời” bị hạn chế hơn 10 ô còn lại, chi tiết này thật tinh tế. Người viết cho rằng đó là sự diễn tả ý nghĩa “Tịnh động tương đối”. Xin khảo qua một đoạn trong “Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp”, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trang 33: Có thể hiểu, mặt trời tỏa sáng và tịnh so với Trái đất, nhưng ngay trong bản thân mặt trời, các hiện tượng sôi sục, cháy bỏng, bão mặt trời vẫn diễn ra quyết liệt ngay trong nội tại. Sự nhìn nhận cái “Động Tịnh” phải được xem xét trong cái toàn thể và trong mối tương quan đối đãi thì mới thấy được tính chân lý của vấn đề. Hay nói cách khác là sự phân biệt Động Tịnh mang tính đối đãi so sánh và tùy từng hệ quy chiếu. 6. Tri thức nhân loại tiến tới sự nhận thức Bản nguyên Vũ Trụ Trong đồ hình trò chơi vùng Bắc bộ, phần ô Trời được vẽ thêm hình tam giác và khi người chơi không dịch chuyển được chàm ra khỏi tam giác này bằng một lần đẩy duy nhất thì bị phạm quy, gọi là “xê xích thủ”. Yếu tố bí ẩn lại được tăng thêm khi xuất hiện chi tiết này. Các cụ ngày xưa đều biết, khi vẽ hình tượng tam giác là một hình tượng mang ý nghĩa thô tục xấu xa. Một hình tam giác được vẽ ở vách một ngôi nhà để “chửi” hay có ý nghĩa mĩa mai một ai đó như ngày nay người ta vẫn vẽ trên tường những câu thô tục vẫn thường thấy. Bởi hình tượng tam giác trong hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt thể hiện cho sinh thực khí nữ, hay nói đúng hơn là bộ phận khởi sinh cho những “tiểu vũ trụ” con người. Hình vòng cung bán nguyệt “ô Trời” như một cái bụng bầu của người phụ nữ, điểm xuyết thêm một tam giác và như vậy hình ảnh phồn thực khi phụ nữ lâm bồn, chuyển dạ được cách điệu tinh tế thông qua khả năng trừu tượng của người quan sát. Một chi tiết thật bất ngờ và bí ẩn, ngay cả khi người viết nhận ra hình tượng này, thán phục trước sự tinh tế của tiền nhân Lạc Việt. Từ sự quán xét hình tượng trên, có thể đây hiểu rằng đây là một hình tượng cô động diễn tả nội dung của của Nguyên lý học thuật cổ đông phương về sự khởi nguyên của vũ trụ, cái bản nguyên duy nhất và trước nhất mà mật ngữ dân gian Việt thường gọi “Mẹ tròn”, nay sự điểm xuyết của hình tượng tam giác nâng lên hay khẳng định “tính mẹ” của khái niệm, nghĩa là vũ trụ được khởi sinh từ một thể bản nguyên viên mãn, như một đứa con sinh ra từ bụng người mẹ. Cũng giống như hành động lòn tay qua hai chân của người chơi trong cách chơi thứ nhất, ý nghĩa của hình cung tròn và tam giác muốn chuyển tải một ẩn ngữ diễn đạt về sự nhận thức một thực tại vũ trụ phải thông qua một tư duy trừu tượng mới có thể nhận thức được thực tại đó cho mọi sự khởi nguyên. Mặt khác, hình tượng tam giác được nhìn thấy ở nhiều dân tộc trên thế giới như các Kim tự tháp Ai Cập, Hy Lạp, Kim tự tháp InCa, Maya, như chóp tam giác có hình con mắt trên tờ dollar…là biểu tượng sự thông minh, sự huyền bí hay những tri thức chưa được biết đến. Bằng một óc tưởng tượng giản đơn: một hình ảnh của kim tự tháp nào đó hiện ra dưới vòm trời bao la được giản lược qua đồ hình của trò lò cò. Sự trùng lặp đôi khi có hay không có nguyên do, nhưng nếu chỉ gói gọn trong trò chơi dân gian Việt, trong phạm vi giải mã của trò chơi thì tam giác và cung tròn cũng đủ tạo nên một hình tượng “con mắt huyền bí” chứa đựng những ẩn ngữ cho một lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành, lý thuyết học thuật cổ đông phương, lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do vậy một mật mã cuối cùng của trò chơi được giải nghĩa rằng: “Phải nhận thức bản nguyên của vũ trụ là cái toàn thể, cái duy nhất một, cái mang tính Mẹ với sự viên mãn, chí tịnh khởi sinh vạn hữu và “cái đó” được khái niệm gọi rằng tính Thấy hay tính Biết được diễn giải trong nguyên lý học thuật cổ đông phương từ bao đời nay.” III. LỜI KẾT Sự giải mã không nhằm làm bằng chứng chứng minh mà nhằm khám phá những bí ẩn đằng sau những dấu ấn văn hóa vật thể hay phi vật thể còn phổ biến hay âm thầm tồn tại trong xã hội người Việt hằng ngàn năm. Những thăng trầm của lịch sử tương tự như sự thăng trầm tồn tại của một học thuyết cổ Đông phương đã làm cho lý thuyết ấy bị thất truyền thì những giá trị được che giấu hay ít ra là trùng lấp ẩn sau những văn hóa vật thể hay phi vật thể như ca dao, hò vè, tục ngữ, dân ca, hình tượng, biểu tượng hay những trò chơi dân gian…sẽ làm định hướng cho việc làm hoàn chỉnh hay nhận thức đúng đắn một lý thuyết cổ đông phương mà nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh từng khẳng định đó là một “Lý thuyết thống nhất vũ trụ”, một lý thuyết mà các nhà khoa học hiện đại từng mơ ước: Hay như SW Hawking, nhà vật lý thiên văn hàng đầu thế giới, đã từng viết: Nhưng thật thú vị, những quy luật vũ trụ thuộc một lý thuyết cho sự nhận thức về thực tại vũ trụ lại được diễn tả cô động và sinh động chỉ trên một trò chơi trẻ nhỏ của người Việt. Chỉ có thể có ở một sự thông minh linh hoạt của những chủ nhân của nền học thuật cổ Đông phương thuộc nền văn minh Lạc Việt mới có thể mã hóa một cách xúc tích những ẩn ý của lý thuyết cao cấp ấy. Đó chính là câu trả lời cho sự băn khoăn của nhà khoa học hàng đầu SW Hawking, khi ông đặt vấn đề: Lý thuyết ấy được tập cho trẻ em Lạc Việt ngay từ khi còn thơ ấu qua trò chơi Lò cò xủn, ô ăn quan , bánh chưng, bánh dầy...... Tp HCM, 16/12/2010 Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn ===================================== Tài liệu Tham khảo: - Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2007 - Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB Tổng Hợp TpHCM 2003 - Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam. - Phong thủy Lạc Việt, tg Nguyễn Vũ Tuấn Anh, lưu hành nội bộ.
    1 like
  40. Chưa đâu, còn một loại bàn nữa - tôi không biết tên thật gọi là gì. Nhưng mẹ tôi kể - Dưỡng Mẫu - trước năm 45 nhà tôi (hoặc họ hàng rất gần nhà tôi - tôi không nhớ vì lúc đó tôi còn bé quá) có một cái bàn hình tam giác, gọi trong nhà là cái bàn "lộc cộc". Cái bàn này theo mẹ tôi mô tả nó có mặt bàn hình tam giác và ba chân. Khi cần hỏi điều gì chỉ cần ba người đặt tay lên ba góc bàn. Cái bản chỉ trả lời theo kiểu "được" hay "không được", "có" hay "không có". Khi đặt câu hỏi thường là : "Nếu có (Hoặc được) thì bàn nhấc chân phía bàn tay của người này, không có (Hoặc không được) thì bàn nhấc một trong hai chân còn lại . Sau khi mọi người đặt tay lên ba cạnh bàn và được hỏi, cái bàn nhấc chân này, chân kia kêu lộc cộc (Nên gọi là bàn lộc cộc) . Lộc cộc như thế một lúc thì nó dừng lại với một chân bàn nhấc lên trả lời câu hỏi. Sau cuộc chiến 1946, tản cư, nhà tôi mất chiếc bàn này.Điều này còn hấp dẫn hơn nhiều với cái bàn xoay kia. Vì nó có dấu hiệu tương thích với ý thức con người . Còn trả lời đúng sai tính sau. Hình như gấn đây báo chí cũng có nói đến cái bàn này. Tôi ko chắc chắn lắm vì không quan tâm vào lúc đó. Nhưng tôi tin cái bàn lộc cộc này hoàn toàn đã hiện hữu.
    1 like
  41. Bài chòi Huỳnh Hữu Uỷ trích từ Tạp chí Văn số Xuân Bính Tuất 2006 Suốt trên dải đất dọc miền Trung Trung bộ, từ Bình Trị Thiên qua Nam Ngãi và vào đến Bình Định, Phú Yên, cứ vào những ngày Tết đến lại xuất hiện trong sinh hoạt giải trí dân giã một trò chơi bài bạc mang nặng tính chất đình đám hội hè: trò chơi bài chòi. Bài chòi sử dụng những quân bài của bộ bài tới thường được chơi giữa sáu người là anh em, bà con trong gia đình, rồi biến thành một lối chơi nơi công cộng, trước sân đình làng hay bên đình chợ, ngồi trên 11 nhà chòi cao hai hay ba thước, năm chòi dựng bên trái, năm chòi dựng bên phải, ở giữa là một chòi “trung ương”. Đánh bạc không cốt ăn thua, mà chỉ để vui xuân, để giải trí, cốt để hô bài chòi, một loại sinh hoạt văn nghệ rất đặc biệt, đậm đà tính dân tộc, và có lẽ ít nhiều cũng mang hơi hướm một buổi trình diễn hát bội hay chèo tuồng nơi hương thôn ngày trước. Bài chòi, trước đây đã có nhiều người nghiên cứu và khảo sát khá kỹ, riêng về bài tới, cũng có một đôi người để ý đến nhưng chưa được đầy đủ gì lắm. Hôm nay, chúng ta sẽ thử lật lại xem một số quân bài tới, đặc biệt lưu ý đến những nét vẽ, hình tượng độc đáo trên các quân bài, độc đáo đến độ đôi lúc rất kỳ dị, khó hiểu [1] . Tổ tôm điếm (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Bài tới ở miền Trung cũng như tranh Tết ở miền Bắc, thường chỉ xuất hiện vào những ngày Tết đến, kéo dài trong tháng Giêng là tháng ăn chơi, rồi sẽ tàn nát đi vì chất liệu thô sơ, giản dị, nghèo nàn khi tháng Hai đến, khi nhân dân bắt đầu bắt tay trở lại với nhịp sống lao động sản xuất bình thường. Không được bền chắc, đẹp đẽ và sang trọng như một bộ bài Tây hay bài Tàu, bài tới thường được in ra từ những làng quê xa xôi, hẻo lánh, theo kỹ thuật mộc bản, in trên giấy dó, giấy bản đã được phủ qua một lớp điệp, rồi bồi lên một lớp giấy cứng, mặt sau con bài được quét một lớp phẩm màu đỏ, xanh lá cây hay xám sẫm. Trong chừng vài mươi năm trở lại đây, cách in ấn cũng như chất liệu làm thành quân bài chẳng được canh tân hơn chút nào mà lại còn kém đi nhiều, vẫn nét vẽ thô sơ, ngưòi ta không còn phủ điệp trước khi in nét vẽ đen lên, giấy in thì mỏng và xấu, rồi dán lên trên những tấm bìa cũng rất xấu. Chỉ có một điều mới, là ngày xưa, trên quân bài có những tên gọi ghi bằng chữ Nôm thì nay đã được đổi thành chữ quốc ngữ [2] . Bốn người chơi bài tam cúc (trích từ sách Connaissance du Việt Nam) Ở Huế, có một địa phương là làng Sình, nơi mà cho đến hiện nay cũng còn để lại rất nhiều vết tích về dân tộc học, về những đình đám hội hè, trò vui chơi ngày Xuân như đấu vật, bơi thuyền, nằm về phía đông bắc kinh thành Huế, đi về phía chợ Bao Vinh thuộc làng Thế Lại, từ đấy vượt qua sông Bao Vinh sẽ gặp làng Sình. Sình là tên gọi quen thuộc trong dân gian, tên chính thức là làng Lại An, nằm cận kề vùng duyên hải, nơi có tiếng lắm tôm nhiều cá như trong dân ca Huế vẫn thường nhắc nhở: “Cá tôm mua tại chợ Sình. Triều Sơn bán nón, Bao Vinh bán đường”, mà cũng là nơi chuyên nghề in tranh cung cấp cho các cửa hàng vàng mã, đặc biệt nhất là sản xuất những bộ bài tới, cung cấp cho đồng bào quanh Huế và các vùng phụ cận vui chơi, giải trí trong những ngày Xuân mới. Về sau này, người Tàu sinh cư buôn bán quanh vùng cầu Gia Hội, ngay ở chính trung tâm thành phố, đã in ấn bộ bài tới một cách có kế hoạch và qui mô hơn, tuy cũng chỉ bằng kỹ thuật mộc bản mà thôi. Nếu bài chòi là một thú vui chơi hoàn toàn Việt Nam, do người Việt tự nghĩ ra, không vay mượn của nước nào thì bài tới cũng thế, rất Việt Nam, cả hình thức cũng như nội dung. Ở miệt Huế và Quảng Nam, trong dân gian có bài vè: Nghe vẻ nghe ve Nghe vè bài tới Cơm chưa kịp xới Trầu chưa kịp têm Tôi đánh một đêm Thua ba tiền rưỡi Về nhà chồng chửi Thằng Móc, Thằng Quăn Đánh sao không ăn Mà thua lắm bấy Tôi lấy tiền cấy Cho đủ mười ngày Bảy giày bảy sưa Cũng là nhịp kéo Chị em khéo léo Dễ mượn dễ vay Thân tôi ngày rày Dầm sương dãi nắng Chị em có mắng Tôi cũng ngồi đây Nó là năm giày Nó cũng a dua Ăn thì tôi lùa Thua thì tôi chịu. <a href="http://www.xuquang.com/mambo/index.php?option=com_content&task=view&id=214&Itemid=43#baichoi-3" title="baichoi-3a">[3] Một số lá bài vẽ theo bộ bài do Ðoàn Viết Hùng sưu tầm được ở Phú Yên (Xem chú thích số 2). Hàng trên, từ trái sang: Cửu gấu, Thất liễu, Ngũ trợt, Tam quăng, Nhứt nọc. Hàng dưới, từ trái sang: Ông ầm, Bát dừng, Lục chạng, Tứ tượng, Nhì nghèo. Thằng móc, thằng quăn, bảy giày, bảy sưa, năm giày, là tên gọi của mấy quân bài, chỉ cần kể đủ tên của ba mươi quân bài cũng đủ làm cho chúng ta hết sức buồn cười. Những tên gọi nôm na, dễ dãi, hài hước, tinh nghịch, tiếng Nôm pha tiếng Hán, khi gọi thế này, khi gọi thế khác, có khi tên gọi chẳng gợi ý nghĩa gì cả mà phải xem vào nét vẽ trên con bài mới thấy được một điều gì đó. Xin kể đủ tên tất cả ba mươi con bài [4] dưới đây, để trong thoáng chốc chúng ta có thể sống lại và hoà vào giữa các trận cười ồn ào, dân dã, rất ngây ngô, hồn nhiên. Tiếng cười của những bà mẹ quê chất phác, hiền hoà vang lên dòn tan khi đang cùng nhau ngồi chơi bài tới giữa những ngày Xuân Tết, trên một chiếc giường tre nơi góc nhà vừa được trải lên một chiếc chiếu hoa mới, nghe gọi tên những con bài rất vui tai, ngộ nghĩnh, đôi lúc tưởng như tục tĩu, thô lỗ, nhưng vẫn rất tự nhiên: bảy giày, bảy sưa, ba gà, ba bụng, nọc đượng, năm rún, ông ầm, bạch tuyết (đôi nơi gọi là bạch huê, có khi còn gọi là con l…), tứ tượng, ngủ trưa… Tiếng cười cợt ồn ào ấy đúng là chỉ phát xuất ở chốn thôn dã, đồng quê, chợ búa, nơi sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động bình thường, chứ chẳng thể nào nổ bung ra giữa những nho sĩ nghiêm trang, đạo mạo, đúng mực chi hồ giả dã của một thời nào, thời mà đạo lý, nếp nghĩ và nếp sống phong kiến đang đè nặng lên các phần đất tổ quốc. Bộ bài tới cũng là một tấm gương nhỏ phản ảnh phần nào dòng văn hoá nghệ thuật sống động và tự do của nhân dân, không dính líu gì đến dòng nghệ thuật cung đình chính thống. Ba mươi con bài này cũng được xếp thành ba pho: văn, vạn, sách như trong lối chơi tài bàn, tổ tôm, mỗi pho là chín con (9x3=27), ba con còn lại được xếp thành ba cặp yêu: cặp ông Am, cặp Thái tử, cặp Bạch Tuyết. Như vậy, lúc chơi bài tới giữa sáu người với nhau, phải có 60 quân bài tức 30 cặp tất cả (27x2=54+3 cặp yêu). Dưới đây là tên tất cả 30 quân bài: Chín Gối, Lục Xơ, Nhì Nghèo, Thất Nhọn, Trường Hai, Trường Ba, Tứ Hường, Tám Giây, Đỏ Mỏ, Sáu Tiền, Tám Tiền, Học Trò, Cửu Thầy, Bảy Sưa, Bảy Liễu, Ngủ Trưa, Tam Quăn, Năm Giày, Ba Gà, Nọc Đượng, Tứ Gióng, Bát Bồng, Nhị Đấu, Tứ Tượng, Chín Xe, Năm Rún, Bằng Đầu, Bạch Tuyết, Thái Tử, Ông Am. Tên gọi các quân bài đã lạ lùng, kỳ dị, hình vẽ trên các quân bài càng kỳ dị và lạ lùng hơn, nó gợi lên một thế giới đầy bí hiểm, vượt lên trên cách nhìn bình thường. Tựa như cách nhìn của những trường phái hội hoạ mới, từ chối hình thể hay thanh lọc thực tại đến kỳ cùng, trừu tượng hoá sự vật, hoặc là đi đến chỗ siêu thực tại, hoặc cách điệu và ghi nhận thực tại một cách ngây ngô, hồn nhiên như trẻ con, Những hình vẽ mà chúng ta không sao hiểu nổi đã phát xuất từ những cơ cấu trí tuệ như thế nào. Nó phảng phất đâu đây một chút không khí u uất rất Chàm hay Phù Nam, những hình ảnh, đường nét, kiểu thức rất Tây Nguyên, có khi gợi dậy một chút xa xăm phi thực, mù mờ của bùa chú, hay của một cuộc sống hoang dã bên ngoài cõi đời văn minh. Trong một khảo sát về trò chơi bài chòi trước đây, Võ Phiến đã nhận xét về hình tượng các quân bài này: Nó gợi lên cảm tưởng hoặc nét vẽ của các hoạ phái siêu thực, vô hình dung, lập thể, hoặc nét vẽ trên các mộ cổ Ai Cập. Nhận xét ấy tương đối tinh tế, thú vị và xác đáng [5] . Về hình vẽ trên các quân bài, sắp riêng theo từng pho một, chúng ta sẽ thấy ở mỗi pho có một cách biểu đạt gần gần giống nhau. Các quân bài thuộc pho văn sử dụng những cách điệu gần gũi lối hình học, có những miếng tròn như bánh xe, đồng tiền hay nửa đồng tiền. Hình các con bài, trái: Nhị đấu [thuộc pho Vạn]; phải: Bảy liễu [thuộc pho Văn] Các quân bài thuộc pho vạn thì đều vẽ mặt người với những nét rằn rịt theo kiểu tranh thờ khắc gỗ dân gian, trên mỗi quân bài có ghi thêm hai chữ nho từ nhất vạn đến cửu vạn như chín quân bài trong bộ bài tổ tôm. Ba cặp bài yêu cũng chứa đựng lối vẽ như thế. Các quân bài thuộc pho sách thì đặt biệt có những nút tròn nhỏ, giữa vòng tròn có một chấm đen, ngoài những vòng tròn này còn có những đường vạch ngang rất đều, có thể hình dung như được quấn tròn đều đặn bằng dây mây. Ông Nguyễn Văn Y, nguyên Giám đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội, trong một bài giới thiệu sơ lược về những bản in tay khắc gỗ của bộ bài tới, trên tuần báo Văn hoá Nghệ thuật khoảng giữa năm 1977, do vậy, đã tạm xếp các quân bài theo lối vẽ này là quấn mây thắt nút. Chúng ta hãy lật lại một số quân bài đầy thú vị này, thưởng thức hương vị kỳ lạ của cuộc sống dân dã, là bó hoa đồng nội mà chắc chắn đã được dần dà hình thành từ một trường kỳ lịch sử, trên chuyến viễn du hùng tráng và kỳ thú của dân tộc, giữa những giao lưu, gặp gỡ của đất nước anh hùng và cuộc sống mới trong thời quá vãng. Trước tiên hãy xem qua vài quân bài thuộc pho văn, với lối vẽ gần gũi những cách điệu hình học, chỉ trừ con chín gối (còn gọi là chín nút), những điểm chính giống với loại quấn mây thắt nút, có chín nút tròn nhỏ và những vạch ngang. Con sáu tiền, vẽ sáu nửa đồng tiền ghép lại với nhau, từng đôi một, đôi này chồng lên đôi kia. Hình này khá giản dị, ai cũng hình dung được, nếu vận dụng để đưa vào trong những mô típ đề-co hiện đại cũng sẽ rất hay. Con tám tiền cũng như thế, là tám nửa đồng tiền ghép lại. Ở vùng Bình Định, lại gọi là sáu miểng, tám miểng (miểng: tiếng địa phương có nghĩa là mảnh). Hình các con bài, từ trên xuống, từ trái sang: Tám tiền, Học tro, Bạch tuyết, Cửu thầy, Tứ tượng (con Voi) và Ngủ trưa. Con bảy liễu (thất liễu), tính cách trang trí đã phức tạp hơn con sáu tiền và tám tiền, vẽ bốn đồng tiền ghép lại với nhau, ở chỗ ghép lại có một nút tròn nhỏ. Giữa các khoảng trống do các đồng tiền ghép lại có một cành liễu nhỏ không có vẻ gì là liễu, trông đúng là một thứ phức diệp (foliole), hay thứ lá có răng cưa (feuille dentée) nhưng vì có chữ liễu trên các con bài nên ta hãy xem đây là một cành lá liễu. Phía trên bốn đồng tiền có một hình xoắn trôn ốc như ta vẫn bắt gặp chạm trổ trên các đồ dùng của người Tây Nguyên. Con voi, cũng gọi là tứ tượng, ở Quảng Nam lại gọi rất nghịch ngợm là dái voi. Chúng ta sẽ không thể nào hình dung được đây là con voi, nhưng với chữ voi chú thích trên con bài, hãy tập trung cách nhìn, gạn lọc đối vật đến mức độ giản dị nhất, nghĩa là trừu tượng hoá hình ảnh một con voi được trang trí vào ngày lễ hội, nhìn từ trên xuống, chúng ta sẽ đoán được các phần đầu voi, hai tai voi, lưng voi, bành voi. Lối trang trí cách điệu này vẫn thường được gặp khắp các vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’ Mông, Dao, Ê-đê, v.v… đặc biệt nhất là trên các cạp váy, đồ thêu, những chạm khắc bằng tre, gỗ, đồng ở vùng Tây Nguyên. Lấy một vài mẫu thêu, vài mẫu khắc trang trí rất trừu tượng của người miền núi, hỏi về ý nghĩa, chúng ta sẽ được giải đáp rất rành mạch, đây là hoa ban, cây Kơ-nia, đoàn người, là những thứ hoa sặc sỡ và vui tươi nhất của dân tộc Ê-đê: hoa Dua, hoa Ê-prang, hoa Gấc, hoa Mi-ê, là chim Xìn-tra của dân tộc Ta-pan, là hình cỡi ngựa, chim đậu trên cây trên các trang phục của người Dao. Con trường hai, vùng Bình Định gọi là nhì bánh, tương tự như một phần của hình con voi, in hình hai mảnh hình thuẫn, có người cho là hình hai chiếc bánh xe, thực ra, có thể đây là hình ảnh của bất kỳ thứ bánh gì: bánh xe, hay là hai ổ bánh lớn để ăn, muốn nghĩ thế nào thì ra thế ấy. Con trường ba, cũng như con trường hai, nhưng khác ở chỗ là chồng vào giữa hai mảnh hình thuẫn trên một mảnh hình thuẫn khác, và giữa mảnh hình thuẫn này là những đường hình thoi lớn nhỏ, chồng chồng lên nhau. Con trường ba rất nhiều người ở Huế gọi là trạng ba, cắt nghĩa là ông Trạng đỗ ba khoa, nhưng như vậy có nghĩa là thế nào? Chẳng có chút gì ở đây để có thể gợi nên hình ảnh một con người, chứ chưa nói đến hình ảnh một ông Trạng, chẳng có một chút liên hệ nào giữa tên gọi và hình vẽ. Với con bài Trạng ba chẳng hạn, người ta có thể cắt nghĩa rằng đây là quân bài do một hoạ sĩ tài tử nào đấy vẽ ra, hình vẽ đôi lúc chẳng cần biểu lộ một ý nghĩa nào cả, nó chỉ mang tính chất một dấu hiệu mà thôi. Những người lưu đãng xa nhà, không có sẵn trong tay một bộ bài thực đàng hoàng để giải trí với nhau, đành tự tạo ra ba mươi dấu hiệu cho ba mươi quân bài, để làm thành một bộ bài hoàn toàn mới mẻ. Và cũng do tính cách tài tử ấy mà chúng ta có một bộ bài vô cùng hấp dẫn, cái hấp dẫn của một thứ mời gọi bí hiểm, lạ lùng. Vậy nên, trước một quân bài, đôi lúc phát giác thêm một ý nghĩa mới, người ta lại đặt thêm một cái tên nữa cho lá bài, có lúc rất vui, rất dí dỏm, bộc ra được tất cả tiếng cười đùa tự nhiên, thoải mái. Tên gọi những con bài do thế cũng thay đổi tuỳ vào địa phương, như con voi cũng gọi là tứ tượng, dái voi; tám giây cũng gọi là tám hột; trường hai có nơi gọi là nhì bánh, có lúc gọi là nhì xe; chín gối có khi gọi là nhất gối, có khi gọi là chín nút; con tứ hường cũng gọi là cẳng hương, hay tứ cẳng v.v… Và ở vùng Qui Nhơn, Bình Định, Phú Yên lại có những tên gọi rất quái quỷ, không có nghĩa gì cả, mà âm thanh gọi lên lại bày ra cả một thế giới của những trận cười cợt ồn ào, thô sơ, hoang dã: cửu điều, ngũ trợt, ngũ dụm, ngũ dít, đổ ruột, sáu miểng, chín gan, lục chạng, sáu bường… Bây giờ chúng ta xem đến một số quân bài thuộc pho sách, đặc biệt có những nút tròn nhỏ và các vạch ngang đều đặn, rồi phía dưới là những vạch chồng chéo đối xứng nhau. Trước tiên là con tứ gióng, vẽ một đôi quang gióng, ở trên có quai xách, dưới có chân đế kiềng ra hình tam giác, thân gióng là bụng phình hình bầu dục, nơi điểm tiếp giáp của thân gióng, quai xách và chân đế là hai nút tròn nhỏ, giữa nút tròn là chấm đen như mắt cua. Đã nhìn thấy đôi gióng ở miền Trung Trung bộ, rất giản dị, bằng tre, mây hay bằng thép, có bốn quai, phía trên túm lại, phía dưới xòe ra và thắt nút rồi quấn chặt cân bằng trên bốn điểm của một vòng tròn, chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi làm thế nào nhà nghệ sĩ dân gian tài tử của chúng ta đã quan sát, suy nghĩ và vẽ nên đôi gióng trên con bài này. Hẳn rằng đấy là cách thu nhận sự vật với đôi mắt thơ dại tuyệt vời. Về mặt nội dung, dù thế nào cũng hiển nhiên là những đôi gióng này đã nặng nợ lắm với dân tộc trên hành trình tay xách nách mang tiến về phương Nam, đấy là hình ảnh đôi gióng của gần 10 thế kỷ trước, từ thời quân đội nhà Lý đặt chân lên thành Đồ Bàn, hay từ hơn ba thế kỷ trước, cùng với những bước chân của lưu dân đi xây dựng đất mới dưới thời các Chúa Nguyễn? Con nọc đượng có lẽ là con bài đáng chú ý nhất, đối lập với con bạch tuyết sẽ đề cập ở dưới. Trong một cuộc chơi bài chòi, khi rút đến con nọc đượng, anh hiệu, một người có nhiều khả năng văn nghệ giữa thôn xóm, làng mạc, hô những câu hát bài chòi báo hiệu cho mọi người trong cuộc chơi về quân bài vừa rút được, có thể sẽ hô lên như vầy: Cần trúc, ống trắc, lưỡi sắc, chỉ nọ tơ Tàu Anh đây muốn câu con cá mại biển Cá mại bàu sá chi! Mấy câu trên, nghe qua, chúng ta cũng phần nào thấy được cái chí của kẻ nam nhi; sống đời phong lưu thì cũng phải vác cần đi câu ngoài biển Đông, chứ sá gì con cá mại tẹp nhẹp trong vũng bàu. Mà hơn thế nữa, câu hát cũng có gợi lên đôi chút hình ảnh chiếc cần câu ngúc ngắc, vậy thì đúng là con nọc đượng rồi. Cũng có lúc anh hiệu lại cất lời với một câu thai man mát, có gợi âm gợi hình đôi chút về chiếc cọc đã cắm xuống rồi lại nhổ lên; cắm xuống để giữ con thuyền, rồi nhổ lên để đẩy thuyền đón khách. Đò em đưa rước bộ hành Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề Trải qua bãi hạc, gành nghê Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô Tiếng ai văng vẳng gọi đò Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người. Cắm cọc, cắm nọc, hay cắm sào đợi khách sang sông, những từ ngữ và hình ảnh ấy đều để dẫn đến con nọc đượng, hay nọc thược, hay nhất nọc trong pho sách của bộ bài chòi. Có lúc khác nữa, mấy câu hát trên chưa đủ mạnh, anh hiệu sẽ cương lên mà hô với giọng nghịch ngợm, pha đôi chút phấn khích, hồ hỡi. Năng cường, năng nhược, Năng khuất, năng sanh, Nó thiệt cục gân, Ngồi gần con gái trân trân chẳng xìu. Lời hô trên nghe có vẻ như tục tĩu, thô lỗ, sống sượng, nhưng đào sâu vào chúng ta sẽ thấy đáng được quan tâm nghiên cứu đến, bởi lẽ nó mang nhiều dấu vết về cách nhìn của con người trước thế giới tự nhiên, dấu vết của một vũ trụ quan vào những thế kỷ xa xưa. Ngày nay, đi ngược lên những vùng thượng du, quan sát sinh hoạt của người miền núi, chúng ta sẽ thấy đời sống sinh dục ở nhiều nơi vẫn còn là một điều rất tự nhiên. Người ta tắm rửa với nhau trần truồng bên bờ suối không một chút e dè. Những phần cơ thể cần phải che giấu, cấm kỵ ở miền xuôi, nơi đây ngượi lại, hoàn toàn phô bày ra không có gì phải xấu hổ. Người Ê-đê và Gia-rai vẫn nói đến cái đẹp của một đôi vú cong vút lên như ngà voi, đôi mông tròn đầy như trứng chim. Cái đẹp ấy rất phù hợp với bản năng sinh tồn để bảo vệ giống nòi. Xa xôi hơn trong lịch sử và thời gian, trên suốt dải đất miền Trung và Nam Trung bộ hiện nay, người Chàm của đất nước Champa cổ có tục thờ Linga tượng trưng cho dương vật và Yoni tượng trưng cho âm vật. Việc thờ phượng vật tổ này, bắt nguồn từ tục thờ đá rất xưa ở hải đảo và khắp vùng Đông Nam Á, chắc chắn phải có nhiều liên quan đến hình thái thờ phượng đất đai, là thần linh mang lại sức sống, năng lực sinh tồn, sự phồn thịnh của mọi loài sinh thực vật trên địa cầu. Linga là một cột đá, gồm ba phần: đầu tròn, thân tám cạnh và một chân đế hình vuông. Yoni là một chậu đá hình vuông hay chữ nhật, có một rãnh nước thoát gần như phần dưới của một cối đá xay bột. Các vua Chàm lúc vừa lên ngôi đều cho dựng cột Linga quốc bảo, có nghĩa là nhà vua đã tự mình đồng nhất với thần linh, với con mắt thấu suốt và tái tạo, với năng lực sinh tồn hằng cửu, khẳng định quyền lực của mình và dòng họ trước trời đất và con người. Các tô-tem này cũng thường được rước theo trong những ngày hội có nhảy múa, ca hát. Trên miền Bắc đất nước, một số nhà nghiên cứu văn học, sử học, dân tộc học, khảo cổ học cũng ghi nhận được nhiều vết tích còn đậm nét những hình thái tương tự như thế, đề cao sự sinh sôi nẩy nở, đề cao tính năng và sự tự do luyến ái, như việc thờ dâm thần và một số tập tục khác rải rác nhiều nơi tỏ ra rất quí trọng sinh thực khí, như đám rước âm vật ở làng Đông Kỵ, rồi trò chơi tranh giành nõn nường, mà theo Bình Nguyên Lộc thì dân miền Trung gọi là lỗ lường. Với tục múa mo, âm vật và dương vật được thay bằng cái mo và cây tre; con trai được gọi là Chày, và con gái là Sọt, y hệt như các tiệm chạp phô ở Ấn Độ bày chày và cối bán cho người ta mua về để thờ. [6] Một hình ảnh khác được ghi nhận cũng rất sống động là chiếc thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) cao trên 80 phân được tìm thấy năm 1960 đã trở nên quen thuộc với nền văn minh Đông Sơn của người Việt cổ. Trên nắp chiếc thạp này, bốn chiếc quai đắp nổi là bốn cặp nam nữ đang giao hợp xen kẽ vào giữa những hoa văn chạm nổi. Người dân Việt cũ, trên đường thiên cư từ Bắc vào Nam, mang những cảm quan và suy nghĩ ấy đi theo cuộc hành trình, đã gặp gỡ quan niệm của dân tộc Champa, và khi vì nhu cầu giải trí, phải làm ra một bộ bài để vui chơi với nhau, những hình tượng ấy đã xuất hiện trở lại trên hai con bài bạch huê, nọc đượng. Ông Hoàng Chương, trên tạp chí Văn nghệ xuất bản ở Hà Nội, số 50, tháng 7-1961, trong một bài nghiên cứu về hát hô bài chòi đã cho rằng: Những vật thể ấy (tức là Linga và Yoni của người Chiêm Thành) được vẽ trên những con bài gọi là bạch huê, nọc đượng, của bài chòi hiện nay. Tôi không biết lúc viết bài này, ông Hoàng Chương có nắm trong tay các quân bài hay không, nhưng thực sự chỉ có con bạch huê, về mặt hình tượng, gợi lên ít nhiều hình dạng của âm vật, còn con nọc đượng, chỉ có tên gọi gợi lên một cách khá sống động hình ảnh Linga, hình vẽ thì tuyệt nhiên không còn liên hệ gì đến vật thể ban đầu. Hình các con bài, từ trái sang: Ba gà, Tứ gióng, Nọc đượng, Nhì nghèo. Hãy đối chiếu với hình chim và mái nhà sàn trên trống đồng Ngọc Lũ (Bản vẽ của Hà Nguyên Ðiểm) để có thể cảm ra một bầu không khí chung, một gốc gác chung của nền văn minh trải rộng ở vùng Ðông Nam Á cổ đại và cận đại mà bộ bài tới hẳn có nhiều liên hệ đến. Con nọc đượng, từ Quảng Nam đến Bình Định thì gọi khác đi một chút, là nọc thược. Nọc đượng, có lẽ chỉ nhấn mạnh ở chữ nọc, đượng là từ phụ không có nghĩa gì cả, ghép vào chỉ để hài thanh, tạo nên sự trôi chảy về âm thanh, cho dễ đọc, dễ nói, dễ hô lên mà thôi. Tuy nhiên, đượng cũng có thể là do biến âm, hoặc đọc trại ra từ tiếng dượng hay trượng. Dượng có nghĩa là bố ghẻ hoặc chồng cô, chồng dì, như trong câu hát Dì rằng mang rổ hái dâu, gặp dượng thằng đỏ ngồi câu bên đường. Thấy dì dượng nó cũng thương. [7] Và trượng, từ Hán-Việt, có nghĩa là cây gậy hay cái hèo. Một chữ trượng khác trong trượng phu lại có nghĩa là người đờn ông, hoặc là tiếng vợ gọi chồng [8] Như vậy, có thể tạm hiểu nọc đượng như là hình ảnh của cái cọc hay một cây gậy thẳng đứng được vạt nhọn để cắm vào đất, và bóng bẩy hơn, đó chính là tiếng gọi thông tục của linga. Hình vẽ con nọc đượng quả là hết sức lạ. Xem kỹ, chúng ta sẽ thấy là một mái nhà sàn ở Tây Nguyên, nhìn từ một bên (profil), mái nhà nghiêng dốc cao vút. Trên đỉnh mái nhà, đầu một con chim đã được kiểu thức hoá, khó lòng mà biết loại chim nào, trông tương tự như chim gõ kiến mà cũng có thể là đầu một con gà, bởi vì cũng chính đầu con chim ấy lại xuất hiện trên nhiều quân bài khác, và trên con ba gà thì lại ghi rõ ràng là gà. Ở đây, tại sao là đầu của một con chim mà không phải của một loài thú khác? Ở Trung bộ, tiếng chim vẫn được dùng để chỉ đến dương vật, nhưng thường thì để nói đến trẻ con hơn là người lớn. Cũng rất có thể, khi vẽ con bài nọc đượng, người vẽ đã chọn biểu tượng ấy như một ngôn ngữ gián tiếp để phô diễn nội dung muốn đạt đến. Trước hình vẽ này, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ đến những mái nhà sàn trên các trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, chắc chắn rằng sự đối chiếu cũng sẽ rất hữu ích. Những nhà sàn trên các trống đồng, ngược lại, được nhìn thẳng vào chính diện, hai đầu cuối cùng của mái nhà cũng có những nút tròn nhỏ, ở giữa có chấm, trông tựa như mắt của hai con chim đang vươn cánh bay lên trời, trên mái nhà thường khắc hình chim rất lớn, đè nặng cả mái nhà. Chim mỏ ngắn, chân ngắn, mào nhỏ, lông đuôi dài và to, nên có người đã ước đoán là người làm trống đồng muốn thể hiện hình dáng con gà lôi (Lophura Nycthemera). Cũng là chim (hay gà) đậu trên mái nhà sàn, nhưng mỗi nơi lại được nhìn theo một cách, người nghệ sĩ tài tử của bộ bài tới ghi nhận và cách điệu sự vật khác hẳn hoàn toàn với người thợ chuyên nghiệp tài tình đã sản sinh ra những trống đồng của mấy ngàn năm trước [9] . Con ba gà và con nhì nghèo, cũng gần với thế giới của nọc đượng, vậy nên sự gợi cảm mang lại cho người xem đều từ bầu khí chung ấy. Phần trên quân bài là một đầu chim, bên dưới là hình ảnh của một mái nhà sàn, từ giữa thân bài, có một đường giải chạy viền lên đến đầu chim, có thể đấy là túp lông từ cổ qua bụng nối liền với đuôi chim được cách điệu như thế. Toàn bộ con nghèo, đầu chim, mình chim, hai nút tròn nhỏ chồng lên nhau nằm ở giữa thân thắt eo lại, thêm vào đấy là phần cái nhà sàn bên dưới ghép vào như một thứ đuôi chim xòe ra, tất cả hợp lại thành hình ảnh một con chim rất kỳ dị giữa những giấc mộng lạ lùng của chúng ta. Con ba gà, cũng gần như con nọc đượng và nhì nghèo nhưng có khác đi một tí. Trong cuộc chơi bài chòi, khi bốc đến con ba gà, anh Hiệu sẽ hô lên hai câu rất vui, lột tả được tất cả tính mèo mả gà đồng của họ gà, se sua chưng diện, áo quần sặc sỡ xinh đẹp, suốt ngày là anh chàng họ Sở ngoài đường phố nhưng tối về cũng chỉ co ro buồn thiu một mình. Mình vàng bận áo mã tiên, Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình. Khi bốc được con Nhì nghèo, anh hiệu lại hô lên mấy câu nói về cảnh nghèo, mà lại rất vui, đúng ra đó chỉ là một tiếng cười đùa dí dỏm, vô hại. Mẹ ơi chớ đánh con đau Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ Bắt ốc, ốc nhảy lên bờ Hái rau rau héo, mẹ nhờ chi con. Đến như than vãn thân phận nghèo khổ, thì cũng là lời bông phèng vui vẻ. Ngày thường thiếu áo thiếu cơm Đêm nằm không chiếu lấy rơm làm giường Dù dơi, dép bướm chật đường Màn loan, gối phượng ai thương thằng nghèo. Con Tám giây, cũng gần tựa như hai cặp gióng chồng lên nhau nhưng không có quai xách. Tám giây cũng gọi là tám hột vì nó có tám nút tròn nhỏ cân đối trên hình vẽ của quân bài. Và gọi tám giây có lẽ vì có tám sợi dây hình vòng cung nối tám nút trong quân bài thành hai cặp gióng. Chúng ta hãy xem đến vài con bài thuộc pho vạn gồm chín con từ thất vạn đến cửu vạn. Phong cách khá lạ, chủ yếu trên mỗi quân bài là một mặt người tạo thành bằng những nét rằn rịt, gần với bầu khí chung của loại tranh thờ dân gian nhưng pha nhiều vẻ hoang sơ hơn. Thô kệch, ngô nghê, vụng về nhưng chính vì thế rất hấp dẫn, rất gần với cái đẹp hoang dại nơi các điêu khắc gỗ mộc mạc của Tây Nguyên, của Phi Châu đen hay một số bộ tộc Úc Châu và Mỹ Châu La Tinh. Con cửu thầy tức cửu vạn, cũng gọi là cửu chùa vì vẽ hình một đầu người đội chiếc mũ như các ông thầy cúng, thầy pháp, rất nhiều nơi không có sự phân biệt rõ ràng, là tình trạng nhập nhằng của một số người lợi dụng tiếng kinh mõ ê a, rồi cũng khua chiêng đánh trống, thổi kèn, trộn nhào cả kinh Phật với bùa chú, bắt quyết gọi âm binh, trừ tà ma, để nhận xôi, gà, oản chuối của những gia chủ rước thầy về. Con ngủ trưa tức ngũ vạn, cũng cùng một lối vẽ như con cửu thầy, chỉ đổi khác đi một chút mà thôi. Ngay giữa con bài, hình một người có vẻ như đang ngái ngủ, gật gà gật gưỡng giấc trưa. Hình vẽ này có lẽ cũng mang một chút tinh thần châm biếm trào lộng đối với những kẻ thích ngủ trưa, mang tật chây lười. Con lục xơ tức lục vạn, cũng như các con trên, ở đầu quân bài có chữ xơ, kế tiếp là hai chữ nho lục vạn, kế đến là hình người. Không có gì chắc lắm, nhưng có người đã giải thích rằng sở dĩ có có tên là lục xơ hay lục chuôm vì phía trên đầu hình người có những ô chéo như mảng xơ hay hình nan chuôm. Tất cả chín con trong pho vạn đều có cùng một phong cách, chỉ thay đổi thêm bớt một đôi tí mà thôi. Như con học trò (nhất vạn) thì ở trên đầu nhân vật có đội thêm một cái khăn đóng cho ra vẻ hẳn hoi là con nhà nghiên bút! Anh Hiệu sẽ hô về con học trò: Đi đâu ôm tráp đi hoài, Cử nhân không thấy tú tài cũng không. (Là con học trò) Nghe hô như thế, lại nhìn vào con bài thì người đến giải trí trong cuộc chơi bài chòi sẽ có thể phá lên mà cười như nắc nẻ. Con tứ cẳng cũng gọi là con cẳng hương (tức tứ vạn): cũng như tất cả các con bài thuộc pho vạn nhưng chỉ riêng ở con này là khuôn mặt người không nhìn thẳng mà hơi lệch đi, ở phần dưới có bốn mảnh hình tam giác gần như bốn màng chân vịt xòe ra, có thể vì thế mà gọi là tứ cẳng. Ở Huế, người ta còn gọi là tứ hường. Hường tức là hàm Hồng Lô Tự Khanh của triều đình nhà Nguyễn cũ, kêu tắt lại, như trong các tiếng quan hường, quan thị. Như vậy con bài ở đây cũng mang một nội dung châm biếm trào lộng cay độc, quan hường đã xuất hiện nơi đây với một thể dạng xô lệch rằn rịt, không mang bài ngà mà lại kéo theo bốn cái chân vịt lạch bạch. Xét về mặt kỹ thuật khắc gỗ, nét vẽ đen nổi trên nền trắng, chỗ đậm chỗ nhạt đặt đúng nơi đúng chỗ, phải công nhận là lối cách điệu này tuy giản dị nhưng rất tài, bố cục chặt chẽ, nhuẫn nhuyễn, hấp dẫn. Phải nhớ một điều, nếu là người nghệ sĩ chuyên nghiệp, rất khó mà cống hiến được cho ta một hình tượng như thế, ở đây là nghệ thuật của bản năng, của tài tình tự phát, của tài tử nghiệp dư mà dần dà, vì gần gũi với cuộc sống của đại chúng nên đã nhập vào sâu sắc trong cuộc sống của nhân dân. Những nét nghệ thuật độc đáo của một dòng nghệ thuật tự do như vậy rất đáng cho chúng ta ngày nay phải lưu tâm nghiên cứu và học hỏi. Ba lá bài thuộc ba cặp yêu: ông ầm, thái tử, bạch tuyết, về mặt phong cách tạo hình, có thể xếp luôn vào loại vừa đề cập. Con bạch tuyết, đối lập với con nọc đượng, là quân bài cũng hết sức đáng chú ý. Nọc đượng là biểu tượng của dương vật thì bạch tuyết là biểu tượng của âm vật, là vật tổ Iôni của dân Champa cổ tái hiện trở lại theo một cách khác. Bạch tuyết ở vùng Bình Định gọi là bạch huê, và khi rút được từ trong ống lá bài này giữa một hội chơi bài chòi, anh Hiệu có thể rề rà hát lên một bài thơ lục bát, chữ nghĩa dân dã nhưng cũng pha một chút văn chương bác học, phảng phất chút đỉnh hơi thơ Hồ Xuân Hương: Hoa phi đào phi cúc Sắc phi lục phi hồng Trơ như đá vững như đồng Ai xô không ngã, ngọn gió lồng không xao Mỉa mai cụm liễu cửa đào Ong qua muốn đậu, bướm vào muốn bu Bốn mùa đông hạ xuân thu Khi búp, khi nở, khi xù, khi tươi. Chúa Xuân ngó thấy mỉm cười, Sắc hay vương vấn mấy người tài danh. Có bông, có cuống, không cành Ở trong có nu, bốn vành có tua. Nhà dân cho chí nhà vua Ai ai có của cũng mua để dành. Tử tôn do thử nhi sanh, Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi. Trong không khí riêng của đất Huế, về con bạch tuyết, anh hiệu lại có thể cất giọng hát lên mấy câu rất dân dã mà vẫn óng ả, cầu kỳ, và kiểu cách: Cần vàng, ống bạc, chỉ tơ Anh móc mồi thơm thả xuống Cá nọ giả lơ không thèm. Cũng vậy, là mấy câu khác nữa: Tiếc con tôm rằn nấu với rau má Tiếc con cá bống thệ nấu với lá cỏ hôi Tiếc công em trang điểm phấn dồi Ra lấy chồng không đặng cân đôi cũng buồn. Chúng ta hãy xem qua hình vẽ trên quân bài này. Hình tượng trông tựa như hai nhánh lá hoặc hai nhánh rong, nhánh ở trên là nét đen nổi bật trên nền trắng, nhánh dưới là nét trắng nổi bật trên nền đen. Nhánh lá rất có thể là một nhành liễu vẫn tượng trưng cho người phụ nữ, nhưng theo ý tôi, đấy là âm vật được cách điệu một cách bay bướm, nhẹ nhàng, do thế đã tránh được cái nặng nề phải mô tả đối tượng theo lối chính xác. Về mặt kỹ thuật, với nét đen và trắng của hai nhánh lá ở đây, tuy rất giản dị nhưng đã tỏ ra biết đào sâu vào phương thức tạo hình của nghệ thuật mộc bản dân tộc, biết khắc hoạ những nét đen, biết đục sâu vào nền gỗ để tạo những nét trắng, gây nên tương phản về sắc độ rất hấp dẫn. Con thái tử vẽ hình người mang hia, đội mão ra vẻ con nhà vua, người được chỉ định sẽ nối nghiệp cha trị vì đất nước. Hình vẽ giản lược phần thân mình, chỉ còn là một hình vuông giữa một khối bầu dục có những nét rằn rịt, hình vuông chứa những chấm đen nhỏ chạy thành hàng đều đặn. Hình vẽ nặng tính cách biểu tượng với thể dạng cái mão và đôi hia, lộ ra ngay dáng dấp áo mão cân đai. Phía trên đầu nhân vật, một mảnh son đỏ hình hơi tròn in chồng lên đấy như một dấu triện. Sự tham dự của màu đỏ son ấy cũng tìm thấy trên con đỏ mỏ tức con ác, con ma trùng, và đặc biệt nhất là trên con ầm tức con sấm, người ta in chồng lên các nét vẽ đen một lớp son đỏ phủ lấy toàn thể quân bài như vẫn thấy trên các đạo bùa, những nét vẽ đen, đỏ, ngoằn ngoèo chồng chéo lên nhau. Nhắc đến con ầm tức con sấm, có lẽ chúng ta cũng nên nhớ lại hai câu hát bài chòi khá vui mà anh hiệu có thể sẽ hô lên khi rút đến thẻ bài này. Chỉ cần một tiếng ầm âm vang để mọi người dự cuộc chơi biết ngay là đã bốc trúng con Am, chứ chẳng cần tiếng ầm ấy liên hệ gì với cái nghĩa tiếng sấm ầm ầm, giữa bầu trời đầy mây tối hay mưa gió bão bùng mù mịt. Nửa đêm gà gáy le te Muốn đi rón rén đụng nghe cái ầm. (Ông Am!) Chúng ta vừa xem qua một số hình tượng lạ lùng trên các quân bài tới. Với các hình ảnh ấy, với những ý nghĩa ấy, có lẽ chúng ta phải thừa nhận rằng chúng hết sức lạ lùng, hấp dẫn, đặc sắc. Từ hình vẽ cho đến tên gọi, đều là quá đỗi kỳ lạ. Ở nơi đây, tất cả đều tan biến,chỉ còn lại tiếng cười đùa dí dỏm, thoải mái, nghịch ngợm của nhân dân. Chúng ta thấy những hình ảnh con gà nằm cạnh ông Thái tử, đôi gióng đứng bên ông ầm, con voi chơi đùa với ông thầy chùa, anh học trò, anh chàng ngủ trưa, con nọc đượng cũng như con bạch huê đuề huề với một quan hường (cẳng hương). Dưới những triều đại phong kiến cũ, tiếng cười dòn dã và hồn nhiên ấy tất nhiên còn phải được lý giải trên cả những nhịp điệu của đời sống chính trị, đó cũng là một thứ vũ khí, dù tiêu cực và có thể là vô thức, để đấu tranh chống bạo lực và cường quyền thống trị. Về mặt nghệ thuật tạo hình là điều cốt yếu mà bài viết này nhằm đạt đến, bộ bài tới chắc chắn sẽ có nhiều đóng góp hữu ích, phong phú đối với kho tàng nghệ thuật đất nước. Các nghệ sĩ hiện đại chắc chắn sẽ tìm được ở đây nhiều điều rất mới mẻ. Và hẳn rằng các nhà dân tộc học, khảo cổ học cũng sẽ còn nhiều vướng bận ở đây. Viết ở Sài Gòn năm 1985 Sửa chữa lại ở California, 2005. [1] Về bài chòi, xem thêm: “Khảo về bài chòi”, Võ Phiến, Tân Văn, số 1 tháng 4, 1968 “Bài chòi ở Bình Định”, Tạ Chí Đại Trường, Sử Địa số 5, tháng 1, 2, 3, 1967. “Những hội mùa Xuân”, Nguyễn Văn Xuân, Tân Văn, số 9, 10, tháng 1, 2, 1969. Nước non Bình Định, Quách Tấn, Nam Cường xuất bản, Sài Gòn, 1967. “Phong thổ Huế” trong Lược khảo về mỹ thuật Việt Nam, Từ Lâm Nguyễn Xuân Nghị, Quốc Học thư xã, Hà Nội 1942. Đào Đức Chương,“Bài Chòi Bình Định”, Giai phẩm Tây Sơn Xuân CanhThìn2000 http://chimviet.free...oi/baichoi1.htm (18 tháng 4, 2005). Cũng xin xem thêm Connaissance du Việt Nam, Pierre Huard và Maurice Durand, Ecole Francaise d’Extrême-Orient xb, trang 224-226, Hà Nội, 1954, viết về Tổ tôm Điếm, cũng là một loại bài chòi nhưng có vẻ sang trọng hơn. Nhân đây, chúng tôi trích in lại bản vẽ về Tổ tôm Điếm trên đất Bắc ngày trước, từ sách Connaissance du Việt-Nam. Cạnh đó, chúng tôi cũng trích in hình vẽ cảnh bốn người chơi bài tam cúc, chẳng khác mấy với cảnh tượng một đám chơi bài tới, tuy nhiên chơi bài tới đòi phải có 6 tay, để chúng ta có thể sống lại phần nào một khía cạnh sinh hoạt của đất nước ngày xưa. [2] Về sau này, ở vài nơi sản xuất bài tới, người ta còn xoá hết tất cả phần chữ viết, bất kể Nôm, Hán, Quốc ngữ, hoặc chỉ còn giữ lại vài chữ mà thôi trên toàn thể các con bài. Ví dụ, đó là bộ bài tới do ông Đoàn Việt Hùng sưu tầm được ở thôn Phú Ấn, xã Hoà An, huyện Phú Hoà, tỉnh Phú Yên, in đính kèm bài viết “Ngày Tết đánh bài chòi” của Trần Sĩ Huệ trên tạp chí Xưa và nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Xuân Quý Mùi, TP Hồ Chí Minh, số 132-133, tháng 1-2, 2003, trang 62-64. Xoá hết chữ thì không nói làm gì, nhưng đáng tiếc là hình vẽ trên các quân bài giản lược rất cẩu thả, khờ khạo, hoặc vẽ thay vào bằng một hình ảnh khác, không còn chút gì cái đẹp dân dã mạnh khỏe, kỳ lạ và đầy tính sáng tạo của các hình tượng trên bộ bài tới xưa nay nữa. Tuy nhiên, về chuyện này thì chúng ta có thể yên tâm phần nào, vì cách đây khoảng 20 năm, chúng tôi có nhìn thấy trong bộ sưu tập của Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội một bộ bài tới rất đẹp. Không những thế, các hình vẽ của từng quân bài còn được phóng lớn cỡ bàn tay và in trên giấy dó rất hấp dẫn. Vết tích này còn được giữ gìn như vậy, có lẽ nhờ ở sự lưu tâm đặc biệt của ông Nguyễn Văn Y thuở còn sinh thời, lúc bấy giờ đang đảm trách chức vụ giám đốc của Nhà Bảo tàng. Ông Nguyễn là một nhà nghiên cứu mỹ thuật, hoạ sĩ mà cũng là nhà tạo hình về gốm rất đặc sắc. Nhắc lại sự kiện này cũng là dịp để chúng ta tưởng nhớ và bày tỏ đôi chút lòng biết ơn đối với một con người tâm huyết trước sự nghiệp văn hoá nghệ thuật của đất nước. [3] Bài vè này chúng tôi ghi chép lại được ở Huế. Trong Thi ca bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1971, ở trang 391, bài vè có khác một đôi chữ. Và trong Tự điển thành ngữ điển tích của Diên Hương, bản chụp in lại của Nxb Zieleks ở Houston Texas, năm 1981, cũng vậy, lại có khác một số chữ nữa, như vậy rõ ràng là do tam sao thất bổn, hoặc có thể vì đã biến đổi dần do giọng phát âm của từng địa phương chăng? [4] Con bài: Tiếng miền Trung, ở miền Bắc gọi là quân bài. [5] Võ Phiến, “Khảo về bài chòi”, bài đã dẫn, trang 5. [6] Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Xuân Thu tái bản ở Hoa Kỳ, chụp lại bản in ở Sài Gòn năm 1971, trang 387. [7] Trích dẫn theo Việt Nam tự điển, hội Khai Trí Tiến Đức, Nxb Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản ở Sài Gòn, không ghi năm xb, trang 162. [8] Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, bản chụp in lại của Nxb Khai Trí, Sài Gòn, 1974, trang 503. [9] Từ hình dáng mái nhà sàn trên con nọc đượng hay nhì nghèo, biến dạng hơn một chút là con ba gà, biến dạng nhiều hơn nữa là các con bảy sưa, năm giày, đỏ mỏ, chúng ta đang đứng trước một đề tài khá lớn vô cùng thích thú trong lĩnh vực dân tộc học và cả mỹ học, khi đối chiếu với nhiều vết tích về nhà sàn trên suốt vùng Đông Nam Á và hải đảo, chưa kể đến những mái nhà sàn khác xa xôi hơn bên kia nửa trái đất. Trong chừng mực của bài viết này, chúng ta không thể đi xa hơn được. Đề nghị xem thêm: “Tìm hiểu Nhà Đông Sơn qua ngôi nhà cổ của người Toradja (Indonesia)”, Tạ Đức, Khảo sổ học số 1, 1987. Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Vinh, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản, 1975. Introduction à l’Etude de l’habitation sur pilotis dans L’Asie du Sud-Est. Nguyễn Văn Huyên, Librairie Orientaliste, Paul Geuthner, Paris, 1934. The Art of East Asia, Gabriele Fahr-Becker (Ed.), Volume 1, Konemann Verlagsgesellschaft mbH, An bản tiếng Anh, Oldenburg, Germany, 1999. Phần viết về Nam Dương của Sri Kuhnt-Saptodewo, “Indonesia, Architecture and Symbolism”, p.p 312-324.
    1 like
  42. Trò chơi Trồng hoa trồng nụ của người Việt cũng có ở Ai Cập cổ đại Hãy xem thể thao Ai Cập cổ đại Có trong văn hóa dân gian Việt từ xưa đến nay... Thiên Đồng
    1 like
  43. Kính bác Mây Ngàn. Hôm nay tôi cũng nhiều vương vấn tâm sự. Đọc lại những bài thơ của bác, cũng xin cảm tác cho vơi những sầu muộn, không dám gọi là họa thơ. Mong bác cảm thông. GIẤC MƠ HOA ...........................Quân tại Tương Dương đầu. ...........................Thiếp tại Tương Dương vĩ. ...........................Tương tư bất tương kiến. ...........................Đồng ẩm tương giang thùy ............................................................Cổ thi Nhớ thời ngây ngất mộng bên hoa. Bóng nguyệt đung đưa dưới gót ngà. Suối tóc buông lơi muôn kiếp trước. Sóng tình chết lặng khóe thu ba. Đường xưa còn chút dư hương thoảng! Bến nước đâu rồi dấu lệ sa? Muôn nẻo lá rơi mùa thu cũ. Nhịp cầu Ô thước lạnh Ngân hà. * Nhịp cầu Ô Thước lạnh Ngân hà. Ngấn lệ trời Ngâu mưa móc xa. Vũ khúc Nghê thường xưa lộng lẫy. Rươu Quỳnh nâng chén nét kiêu sa. Thiên Thai cõi nhớ đầy lưu luyến? Đào nguyên một thuở vẫn thiết tha. Chốn cũ Bồng Lai người có đợi? Sông Tương ngơ ngác đọng phù sa. * Sông Tương ngơ ngác đọng phù sa. Ngũ Lĩnh mây buồn hờ hững qua. Khuất nẻo ngàn thu trong cõi vắng. Chìm trong nỗi nhớ cánh hạc xa. Cuối sông giặt lụa thân bồ liễu Đầu núi ngậm ngùi xót kiếp hoa. Muôn lớp sóng xô màu nguyệt vỡ. Phù vân mây trắng khóc phôi pha. * Phù vân mây trắng khóc phôi pha. Bóng Nguyệt cô liêu giữa thái hòa. Người cũ đâu về ru cõi mộng. Hồn xưa Trang tử nép bên hoa. Lầu son một thuở dâng ly ngọc. Tan nát tình ai dưới lệ ngà. Sỏi đá ngàn thu tình bất tận. Nhân gian sầu đọng khúc thu ca. * Nhân gian sầu đọng khúc thu ca. Ngọc đá dâng buồn mộng dưới hoa. Giọt lệ ngàn xưa rơi lã chã. Cung đàn chợt lặng giữa phôi pha. Biển Đông trai ngọc thiên tình hận. Kinh Bắc suối vàng nỗi thiết tha. Thiên cổ diễm tình phai sắc nhớ. Ngàn năm ly biệt lạnh trăng ngà. * Ngàn năm ly biệt lạnh trăng ngà. Tiếng quạ kêu buồn chinh chiến qua. Gió hú thê lương hồn tử sĩ. Tình câm hóa đá khóc sơn hà. Thở than chi để buồn thu cũ. Trăn trở còn đâu nỗi thiết tha. Muôn kiếp tha nhân thiên cổ hận. Tình đời ôm mãi mộng dưới hoa.
    1 like
  44. 1 like
  45. ông thầy thứ 2 cũng mũi hếch kia kìa.
    1 like
  46. Đây là lần đầu tiên trong chủ đề này, tôi trích dẫn lời của Cậu. Tôi đề nghị ! Cậu nên tự trọng một chút. Đừng có loanh quanh, dùng thủ đoạn lòng vòng và xảo ngôn để tránh tranh luận, rồi tranh thủ tấn kích cá nhân. Tôi yêu cầu, về mặt học thuật, cậu làm rõ cái sự So Sánh Với của cậu. Một người nghiên cứu bất kỳ cũng đều nhận rõ nội dung mà cậu đưa ra vốn chẳng có ý nghĩa gì nếu không có sự làm rõ đó. Cậu đúng là chả hiểu gì, tôi đang yêu cầu cậu làm rõ, chứ đã phản biện cậu đâu mà cậu đã vội tri hô lấy dụng phê thể là cái quái gì ! Cậu đưa ra một mớ từ ngữ, đầy sự hổ lốn, mà tôi khẳng định rằng chính cậu cũng không hiểu là cậu viết gì, nói gì. Những gì cậu viết ra không có ý nghĩa rõ ràng.Vì vậy Tôi đề nghị lại lần nữa, cậu hãy làm rõ những vấn đề tôi đã nêu ra. Thêm nữa, ở ngay trong bài này của cậu, cậu có dùng một cặp từ Thể - Dụng. Chắc cậu không cãi với tôi là cặp này rất thông dụng trong lý học chứ ! Đúng không. Vậy hỏi luôn cậu. Cậu biết thế nào là Thể - Dụng ? Tôi đã dễ dãi với cậu quá rôi. Xem thử cậu có hiểu biết tý gì hay không ! Cái thuyết của cậu mà dám lớn lối cho rằng tứ tượng hợp với thái cực rồi đánh đố nhập thể với không nhập thể. Đừng có bá láp. Cậu thử nói cái nhập thể của cậu xem nào ? Hay là lại phịa ra một lô những từ ngữ mang tính tráo trở. Cậu nên nhớ, đây là diễn đàn học thuật, chứ không phải là nơi bệnh viện tâm thần. Cậu nhớ nhé. Đừng có loanh quanh, dối trá nữa.
    1 like
  47. 1 like
  48. Thực tình viết ra cái mục này rất thiện chí mà thấy nản quá. Điều mà Biken hỏi, xin trả lời thế này. Nếu ai muốn thắc mắc gì, thì nên nhắn tin hỏi riêng 1 người giải số nào đó, chứ không nên đưa ra diễn đàn về những thắc mắc có luận cứ, luận điểm, nói có sách, mách có chứng. Lý do: Trái đất hình cầu, quả đất quay quanh mặt trời cùng nhiều sao khác, đó là điều không phải tranh cãi bởi con người đã bay ra ngoài vũ trụ và có thể quan sát dễ dàng, còn trước đây thì người ta cãi nhau kinh khủng. Tử vi thì không (hoặc là chưa) có cái may mắn đó, rất nhiều sách viết về nó, nhiều lý dải khác nhau, nhiều ý tứ khác nhau, mỗi người hiểu 1 cách thì lý giải 1 kiểu và còn viết sách để lưu truyền hậu thế. Chính vì thế mà có nhiều ý kiến khác nhau lắm, ví như Ngựa ở Lợn, có người bảo là Ngựa chạy tới đường cùng, ngang với bị Triệt chém, Tuần băm, Tuyệt chảm, Kình giết, v.v.... Đương nhiên sẽ có người nói lại là đi đến cùng mới tốt, hay mọi chuyện vẫn hanh thông, không nên lo lắng quá, hay Chết là hồi sinh, có cơ hội đổi đời, v.v... Tiền lệ ở các diễn đàn đều có sự tranh cãi đến bài xích mất đoàn kết. Vì thế để tránh hoang mang cho cả người hỏi và mọi người đọc lẫn những người hạ tay gõ phím trả lời theo ý kiến riêng hoặc theo sách mà người đó theo học. Nói rất thô thiển thì người đó vô tình đã tạo lên sóng gió hoặc nổi, hoặc ngầm mà nội dung không hề có tính đàm đạo thảo luận. Vậy thì không nên, tôi nói thẳng là thế, không giống như người nào đó luôn nghĩ đến cảm nghĩ của người khác nên phải nói khéo, nói tránh, v.v... Tôi khẳng định với quý vị rằng hầu hết mọi người trên cõi đời này chẳng mấy ai nghĩ đến cảm nghĩ của bạn đâu. Cuộc đời mà, buồn 1 tí (miền Nam là 1 xíu), tôi thích 1 tí hơn, nên tôi chỉ buồn 1 tí thôi. khà khà
    1 like
  49. Sao lại phải ghi danh? Tôi đã đưa Bài 1 và Bàì 2 lên đây rồi còn gì nữa, có gì không hiểu (thắc mắc) thì cứ hỏi tại chủ đề này, có vậy thôi. Tôi định mỗi tuần đưa lên đây một bài, không biết thời gian như vậy có hợp lý không ? Hy vọng mọi người sẽ cho biết ý kiến. Thân chào.
    1 like
  50. Hay quá!!! Con được biết việc Luận tuổi chọn ngày hiện đang là một trong những vấn đề nóng bỏng của Xã hội. Việc luận tuổi tuy quan niệm hiện đại nhà nước vẫn tuyên truyền là không có ảnh hưởng đến hôn nhân nhưng nhân dân vẫn ngấm ngầm áp dụng theo những tập tục của người xưa!!! Điều đó cho thấy việc luận tuổi vẫn có ảnh hưởng rất sâu đậm trong tiềm thức của nhân dân, và đó là một thực tại khách quan không thể phủ nhận được!!! Nhưng những phương pháp ứng dụng trong dân gian rất rời rạc, thiếu nhất quán và thiếu tính nhân văn. Tháng trước con có gặp ông thầy dùng tứ hành xung và phi cung để luận tuổi, thật nguy hiểm khi họ chỉ xem yếu tố Địa chi là yếu tố duy nhất quyết định hạnh phúc hôn nhân, chưa kể phi cung chỉ sử dụng trong Phong thủy. Sư huynh Thiên Luân biên soạn sách nhanh lên nhé, Em đặt mua đầu tiên!!! Chúc các huynh và Sư phụ dồi dào sức khỏe! Thân mến!
    1 like